Triết lý về soạn tác - Edgar Allan Poe (6 phần)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. snowbell

      snowbell Well-Known Member

      Bài viết:
      1,358
      Được thích:
      286
      Last edited: 16/3/15

    2. snowbell

      snowbell Well-Known Member

      Bài viết:
      1,358
      Được thích:
      286
      Phần 1:

      Charles Dickens, trong bức thư ngắn ám chỉ khảo sát của tôi về cơ chế của cuốn Barnaby Rudge, rằng: “Tiện thể ông có biết là Godwin giật lùi khi viết cuốn Caleb Williams? Trước tiên ông ta đưa nhân vật vào mạng lưới những khó khăn, tạo thành nội dung của tập hai và sau đó để viết tập ông tính toán cho nhân vật vào vai như thế nào đó để lý giải được những gì y làm”.

      Tôi nghĩ rằng điều này là phương thức tiến hành đích xác ở Godwin - và thực là điều mà tự ông thú nhận hoàn toàn phù hợp với ý tưởng của Dickens - nhưng tác giả của Caleb Williams là nghệ sĩ thừa giỏi giang để thấy cái lợi sinh ra từ quá trình cứ cho là na ná như vậy. điều quá là mọi cốt truyện đáng là cốt truyện phải được xây dựng nhằm vào mở nút của nó trước khi ngòi bút động đến những vấn đề khác. Chỉ có thường xuyên nhằm vào mở nút chúng ta mới có thể đem lại cho cốt truyện cái khí tương tác hệ quả và nguyên nhân thể thiếu được bằng cách làm cho những tình tiết và đặc biệt là những giọng ở mọi điểm hướng về phát triển của ý đồ.

      Tôi nghĩ là có sai lầm cơ bản trong cách thức quen thuộc để xây dựng câu chuyện. Hoặc lịch sử đưa ra luận điểm - hoặc luận điểm được gợi ra bởi kiện thời - hoặc tốt nhất tác giả tự mình làm công việc tổ hợp những biến cố đặc sắc đơn thuần để hình thành cơ sở cốt truyện - thường là thiết kế có chủ đích những kẽ trống của thực tế hoặc hành động, rồi, lần lần từng trang làm cho chúng trở nên hơn bằng cách đưa vào đó những đoạn miêu tả , đối thoại hoặc bình luận của tác giả.

      Tôi lại thích bắt đầu bằng cân nhắc hiệu quả cho tác phẩm. Luôn phải quan tâm đến độc đáo - bởi vì nhà văn nào mưu toan sử dụng nguồn hứng thú quá và quá dễ đạt được vì có sẵn ta lâm vào tình trạng giả dối với chính mình - tôi trước tiên tự nhủ: “Trong vô số những hiệu quả hay ấn tượng có thể gợi ra được ở trái tim, ở trí tuệ hoặc (khái quát hơn) ở tâm hồn, trong trường hợp này chúng ta, tức là tôi chọn hiệu quả nào. Sau khi chọn hiệu quả với đặc tính thứ nhất là mới, thứ hai là mạnh mẽ, tôi cân nhắc hoặc là viết bằng những kiện bình thường và giọng kể đặc biệt, hoặc là ngược lại, kiện đặc biệt, giọng bình thường, hoặc là cả kiện và cả giọng đều đặc biệt - và sau đó cân nhắc (hay đúng hơn là suy ngẫm) xem tổ hợp những kiện và giọng nào trong các tổ hợp giúp tôi nhiều nhất trong việc gây dựng hiệu quả.

      Tôi thường nghĩ rằng hết sức thú vị nếu như có bài báo trong đó tác giả muốn - có nghĩa là có thể - trình bày chi tiết từng bước, từng bước những quá trình mà qua đó soạn tác của ta đạt tới điểm hoàn thiện tối hậu của nó. Tại sao chưa hề có bài báo như vậy được viết đời này. Tôi rất bối rối giải thích điều này - có lẽ ở đây cái bỏ qua làm được việc này có nhiều nguyên nhân mà nguyên nhân quan trọng hơn là sĩ diện của tác giả. Hầu hết người viết - đặc biệt là các nhà thơ - cứ thích được hiểu là họ soạn tác bằng loại cuồng hứng tinh tế - trực giác xuất thần và chắc chắn họ rùng mình nghĩ đến việc công chúng nhìn trộm vào hậu trường , ngó vào những sống sượng của tư tưởng được xào xáo - ngó vào những kết quả thực mà chỉ đến phút cuối họ mới vớ được - nhìn thấy được những điều tưởng tượng chín đến độ chín muồi nhưng lại bị vứt bỏ cách tuyệt vọng như là những điều sao điều khiển được - nhìn thấy được lựa chọn thận trọng để rồi vứt bỏ - nhìn thấy được những xóa bỏ đau đớn và những nội suy - tóm lại nhìn vào những bánh xe và những ổ răng cưa - những dụng cụ di chuyển trong cảnh diễn - chẳng hạn như những cái thang để nhô lên, những cái bẫy để sập xuống - những cái lông gà, sơn màu đỏ và những vệt màu đen, tất cả những thứ này chín mươi chín phần trăm, là vốn đạo cụ của histrio văn học (kép diễn trò văn học).

      Mặt khác, tôi cũng ý thức được rằng trường hợp sau đây hoàn toàn phải là thông thường: đó là trường hợp tác giả có tất cả điều kiện vạch lại những bước qua đó ta đạt tới những kết thúc. chung đó là những điều được khơi gợi nảy sinh cách hỗn độn, chúng cũng được đeo đuổi và bỏ quên cách hỗn độn như vậy.

      Về phía tôi, tôi e ngại, ghê sợ , đồng thời tôi cũng chẳng khó khăn tí nào trong việc nhớ lại những bước tuần tự của bất kỳ soạn tác nào của tôi; và, bởi lẽ lợi ích của phân tích hoặc dựng lại mà tôi xem như là ước ao và chỉ vậy thôi, hoàn toàn lệ thuộc vào lợi ích thực tại hoặc viển vông nào mưu tính ở tác phẩm được phân tích, việc này bị xem như là vi phạm đạo đức thông thường, chẳng qua tôi chỉ phơi bày phương thức thao tác nhờ đó trong những công trình của tôi được soạn thảo. Tôi chọn bài thơ “Con quạ” vì nó được biết đến nhiều nhất. Ý đồ của tôi là làm điểm nào trong việc soạn tác nó được quy vào ngẫu nhiên hoặc trực giác - làm cho tác phẩm này được tiến hành từng bước, từng bước để tới hoàn thiện với chính xác và tính hệ quả chặt chẽ của vấn đề toán học.
      Last edited: 16/3/15

    3. snowbell

      snowbell Well-Known Member

      Bài viết:
      1,358
      Được thích:
      286
      Phần 2:

      Chúng ta bàn trường hợp trong đó được đề lên hàng đầu ý đồ soạn tác bài thơ nhất thiết phù hợp với thị hiếu của quần chúng và của giới phê bình, trường hợp này thích đáng với bản thân thi ca.

      Như vậy chúng ta bắt đầu với ý đồ dưới đây.

      xem xét ban đầu là xem xét về dung lượng. Nếu như tác phẩm văn học quá dài, thể đọc được lèo, chúng ta bỏ mất hiệu quả quan trọng phát sinh từ thống nhất ấn tượng - bởi vì, nếu như phải đọc làm hai lượt, những công việc đời này xen vào và cái tổng thể lập tức bị phá hủy. Nhưng bởi lẽ, ceteris paribus (cứ cho như mọi điều kiện khác ngang bằng nhau), nhà thơ nào lại bỏ qua những gì có thể xúc tiến ý đồ của ta, chỉ còn lại cách là xem xét trong dung lượng có lợi thế nào để bù vào mất tính thống nhất thường kèm theo dung lượng. ở đây tôi ngay rằng có lợi thế nào để bù vào cái mà chúng ta gọi là bài thơ dài. thực tế nó chỉ là nối tiếp những bài thơ ngắn - có nghĩa là nối tiếp những hiệu quả thơ ngắn. cần thiết phải chứng minh rằng thơ là thơ, thơ chỉ là thơ khi nó kích thích mạnh mẽ tâm hồn, nâng cao tâm hồn lên, và mọi kích thích mãnh liệt đều ngắn, đây cũng là tất yếu trong đời sống tinh thần. Vì lẽ này, ít nhất nửa trường ca Thiên đường bị mất (*) chủ yếu là văn xuôi - nối tiếp những đợt kích thích thơ đương nhiên là phải được xen kẽ với những đợt trầm cảm tương ứng - toàn bộ tác phẩm do độ quá dài của nó bị mất tính tổng thể hoặc tính thống nhất hiệu quả, yếu tố nghệ thuật có tầm quan trọng rộng lớn.

      Như vậy có thể thấy là có giới hạn rạch ròi, về phương diện độ dài, cho mọi công trình văn học - giới hạn trong lần (đọc lèo) - và cũng có thể thấy là - cũng chỉ trong số loại soạn tác văn xuôi thôi, chẳng hạn như Robinson Crusoe ( đòi hỏi tính thống nhất), giới hạn này có thể vượt quá cách thuận lợi, nhưng trong bài thơ lại thể nào thực vượt quá được. Trong giới hạn này dung lượng của bài thơ phải được tính sao cho ứng với hệ thức toán học đối với phẩm giá của nó - cách khác ứng với kích thích hoặc tầm cao hứng - lại cách khác nữa, ứng với mức độ của hiệu quả nghệ thuật (poetical effect) thực mà nó có thể gây truyền cảm; bởi lẽ điều khá ngắn gọn phải tỉ lệ thuận với cường độ của hiệu quả được tính đến - đại thể là như vậy nhưng với điều kiện - phải đạt tới độ dài nào đó, đây là đòi hỏi tuyệt đối để sản sinh ra bất kỳ hiệu quả nào.

      Với những suy tính , đồng thời xác định mức độ kích thích, tôi tính là chất lượng bài thơ thị hiếu bình dân mà lại dưới thị hiếu của giới phê bình. Tôi hiểu ra ngay cái mà tôi quan niệm là độ dài đích thực cho bài thơ tôi định viết - độ dài khoảng trăm dòng. thực tế bài thơ là trăm lẻ tám dòng.

      Suy nghĩ tiếp theo có liên quan đến lựa chọn ấn tượng, hoặc hiệu quả để truyền đạt: và ở đây tôi cũng thấy rằng, xuyên suốt kết cấu, tôi kiên trì nghĩ đến cái cách truyền đạt làm sao cho tác phẩm được tán thưởng cách phổ biến. Tôi bị đẩy quá xa chủ đề bàn trực tiếp của tôi nếu tôi phải chứng minh điểm mà tôi cứ nhấn nhấn lại và điểm này, cùng với chất lượng nghệ thuật chẳng cần đến chứng minh nào cả - điều tôi muốn ở đây là luận điểm: cái Đẹp là lĩnh vực chính đáng duy nhất của bài thơ.

      Tuy vậy cũng phải có mấy lời làm điều thực muốn của tôi. Điều này số trong bạn bè của tôi tỏ có thiên hướng trình bày sai . Niềm lạc thú tức mạnh mẽ nhất, cao hứng nhất, và thuần khiết nhất, theo tôi nghĩ được tìm thấy trong chiêm ngưỡng cái Đẹp. Thực ra, khi người ta đến cái Đẹp, cách chính xác người ta đến phẩm chất như vẫn thường được giả định, mà đến hiệu quả - tóm lại người ta dẫn chiếu đến cao hứng mãnh liệt và thuần tuý của tâm hồn - chứ phải của trí tuệ hoặc trái tim - tôi có lời bàn về cảm xúc này, nó được trải nghiệm như là hệ quả của chiêm ngưỡng “cái đẹp”. Giờ tôi gọi Đẹp là lĩnh vực của bài thơ, chẳng qua vì nguyên tắc hiển nhiên của nghệ thuật là những hiệu quả phải được nảy sinh từ những nguyên nhân trực tiếp - những đối tượng phải được đạt tới thông qua những phương tiện thích nghi tốt nhất để đạt tới chúng - ai dù kém đến đâu nữa lại phủ nhận rằng cao hứng kỳ lạ được đến có sẵn để được cảm nhận trong văn bản bài thơ. Giờ tôi có thể rằng đối tượng liên quan đến Chân lý, hoặc thỏa mãn trí tuệ, và đối tượng có liên quan đến Ham mê, hoặc phấn khích của trái tim đều có thể đạt tới trong thơ và văn xuôi nhưng trong văn xuôi có thể đạt tới chúng lẹ làng hơn nhiều. thực tế, Chân lý đòi hỏi chính xác còn Ham mê thường là thô thiển (homeliness) (những người thực đam mê thông cảm với tôi), chính xác và thô thiển lại tuyệt đối đối kháng với cái đẹp, nó, tôi luôn nghĩ vậy, là phấn khích hoặc cao hứng thích thú của tâm hồn. Từ những điều được ra ở đây tuyệt nhiên có nghĩa là Ham mê và cả Chân lý nữa thể đưa vào, những thế đưa vào còn có lợi nữa - bởi vì chúng có thể giúp làm sáng tỏ hoặc hỗ trợ hiệu quả chung, giống như tác động của nghịch trong nhạc, sinh ra do tương phản - nhưng người nghệ sĩ đích thực bao giờ cũng tìm cách, thứ nhất, làm cho chúng hòa điệu với mục tiêu nổi trội, và thứ hai, làm cho chúng được bao trùm trong cái Đẹp, nó là khí quyển và bản chất của bài thơ.
      Last edited: 16/3/15

    4. snowbell

      snowbell Well-Known Member

      Bài viết:
      1,358
      Được thích:
      286
      Phần 3:

      Như vậy xem cái Đẹp như là lĩnh vực của tôi, câu hỏi tiếp theo dẫn chiếu đến giọng trong biểu cao nhất của cái Đẹp - và mọi kinh nghiệm đều cho thấy rằng giọng này là giọng của nỗi buồn. Cái Đẹp thuộc bất kỳ loại nào, trong phát triển tột độ của nó, bao giờ cũng vậy, kích thích tâm hồn nhạy cảm ứa nước mắt. Như vậy sầu muộn là giọng thơ chính đáng hơn cả trong các giọng thơ.

      Độ dài, lĩnh vực và giọng được xác định. Tôi bèn làm cái công việc quy nạp thông thường, tính đến việc đạt được kích động nghệ thuật gắt gao nào đó mà tôi có thể sử dụng như là chủ trong kết cấu bài thơ - cái trục nào đó mà toàn bộ cấu trúc có thể xoay đó. Trong việc suy nghĩ cân nhắc khá kỹ về tất cả những hiệu quả nghệ thuật thông dụng - hoặc đúng hơn về những mánh lới hiểu theo nghĩa sân khấu - tôi thấy ngay rằng mánh lới nào lại được dùng phổ biến như điệp khúc. Tính chất phổ biến của việc dùng mánh lới này đủ để cho tôi yên tâm về giá trị cố hữu của nó và miễn cho tôi phải phân tích nó. Tuy nhiên tôi xem xét nó ở khả năng cải tiến nó và sớm thấy được nó ở trong điều kiện nguyên thủy. Như thường dùng, điệp khúc chỉ giới hạn trong phạm vi câu thơ trữ tình, nhưng ấn tượng nó gây ra phụ thuôc vào sức mạnh của đơn điệu - trong cả thanh và tư tưởng. Khoái cảm chỉ có được từ cảm quan về đồng nhất - cảm quan về lặp lại. Cách giải quyết của tôi là đa dạng hóa và nâng cao khá hiệu quả bằng cách duy trì chung đơn điệu của , trong khi đó tôi thường xuyên biến tấu đơn điệu của tư tưởng: như vậy có nghĩa là tôi quyết định liên tục sản sinh những hiệu quả nối tiếp bằng cách biến tấu việc ứng dụng điệp khúc - còn bản thân điệp khúc, phần lớn trường hợp biến đổi.

      Nghiệm ra được những điều , tôi bèn suy nghĩ về tính chất cơ bản của điệp khúc của tôi. Vì ứng dụng điệp khúc này phải được lặp lặp lại, mỗi lần lại phải biến thức, ràng là bản thân điệp khúc phải ngắn gọn bởi lẽ với câu dài mà lại đem ứng dụng trong những biến thức liên tục đó là điều khó khăn thể vượt qua được. điều đương nhiên là dễ dàng của việc biến thức tỉ lệ thuận với ngắn gọn của câu (điệp khúc). Tự nhiên tôi nghĩ ngay đến việc lấy từ đơn là điệp khúc tốt nhất.

      Đến đây phát sinh vấn đề: vậy tính chất của từ phải như thế nào. Sau khi điệp khúc được quyết định rồi việc chia bài thơ thành nhiều khổ thơ thực ra chỉ còn là hệ luận: điệp khúc là từ khép lại mỗi khổ thơ. nghi ngờ gì nữa, từ khép lại như vậy muốn có sức mạnh phải ngân vang và gây được độ nhấn kéo dài; và những suy tính này tránh khỏi đưa tôi đến o kéo dài , nó là nguyên ngân vang nhất, này lại đem kết hợp với r như là phụ ấn tượng nhất.

      của điệp khúc được xác định, tiếp theo cần phải chọn từ thân này nhưng đồng thời phải phù hợp cách đầy đủ nhất với sầu muộn mà tôi quyết định trước lấy nó làm giọng của bài thơ, Tìm tòi với những điều kiện như vậy, tuyệt nhiên là thể nào bỏ qua được từ “nevermore” ( bao giờ nữa). thực tế nó là từ đầu tiên ra trong đầu tôi.

      Điều tiếp theo cần phải tính đến là cái cớ cho việc dùng liên tục từ, đó là từ “nevermore”. Trước khó khăn mà tôi thấy ngay lập tức, làm sao bịa ra được lý do khá hợp lý để liên tục lặp lặp lại từ này, tôi nhận ra rằng khó khăn này nảy sinh chẳng qua vì cứ giả định trước là nó phải được ra cách liên tục và đơn điệu bởi sinh thể có tính người - tóm lại tôi thấy rằng khó khăn này là ở việc dung hòa lặp từ đơn điệu với hoạt động lý trí của sinh thể lặp lặp lại từ này. Đến đây, thế là nảy sinh ngay lập tức ý tưởng về sinh thể có năng lực suy lý mà lại có thể được; và, cách hết sức tự nhiên, hình ảnh được gợi ra đầu tiên là con vẹt, nhưng hình ảnh này ngay lập tức được thay thế bởi hình ảnh con quạ, nó cũng có khả năng được như vậy nhưng xét về mặt phù hợp với cái giọng (sầu muộn) được dự định đạt hơn muôn phần.

      Đến đây thế là tôi đến khái niệm tổng quát: con quạ - loại chim báo điềm gở - lặp lặp lại cách đơn điệu từ “nevermore” như là từ kết thúc mỗi khổ thơ trong bài thơ có giọng điệu sầu muộn và có chiều dài khoảng 100 dòng. Tới đây, tôi vẫn chưa hề quên chủ định đạt tới độ cao tột đỉnh (supremeness) hoặc hoàn thiện ở mọi mặt, tôi tự hỏi - “Trong mọi chủ đề sầu muộn, chủ đề nào, theo cách hiểu phổ quát của loài người, là chủ đề sầu muộn nhất?”. Cái chết - đương nhiên đó là điều mà tôi nghĩ đến. “Và”, tôi tự hỏi, “khi nào chủ đề sầu muộn nhất này chứa chan thi hứng nhất?”. Qua những gì tôi giải thích khá dài dòng, câu trả lời đương nhiên là “khi chủ đề này liên kết mật thiết nhất với cái Đẹp: hơn nữa cái chết của người đàn bà đẹp, đương nhiên, là chủ đề đậm thi hứng nhất đời này - và nghi ngờ gì nữa, cặp môi thích hợp nhất với chủ đề như vậy là cặp môi của người tình bị tử thần cướp ”.

    5. snowbell

      snowbell Well-Known Member

      Bài viết:
      1,358
      Được thích:
      286
      Phần 4:

      Giờ tôi phải tổ hợp hai ý tưởng, ý tưởng kẻ si tình than khóc bạn qua đời và ý tưởng con quạ liên tục lặp lại từ “nevermore” - tôi phải tổ hợp hai ý tưởng này, trong tâm trí luôn nhớ đến thuật biến thức, ý đồ cứ sau mỗi lần chuyển khổ lại biến thức cách ứng dụng của từ được lặp lại; nhưng phương thức duy nhất hợp lý cho tổ hợp như vậy là tưởng tượng con quạ dùng từ này trả lời những câu hỏi của kẻ si tình. Và đến đây, thế là tôi thấy ngay cái cơ hội để tạo ra cái hiệu quả mà tôi lệ thuộc - tức là cái hiệu quả của biến thức cách vận dụng (variation of application). Câu trả lời mà kẻ si tình hỏi - câu hỏi mà con quạ trả lời “Nevermore” - tôi thấy rằng tôi có thể đặt câu hỏi đầu tiên này như là câu hỏi tầm thường - câu hỏi thứ hai lại tầm thường hơn nữa - câu hỏi thứ ba càng tầm thường hơn nữa và cứ như vậy - cho tới khi sau chuỗi dài kẻ si tình bừng tỉnh thoát khỏi trạng thái uể oải ban đầu do tính chất sầu muộn của bản thân từ này - do lặp lặp lại - và do nghĩ ngợi về tai tiếng điềm gở của con quạ thốt ra từ này - và cứ thế dần dà ta xớn xác đến mê tín và rồ dại đưa ra những câu hỏi mang tính chất khác hẳn. Những câu hỏi mà giải quyết ta nung nấu tận đáy lòng - ta đưa ra những câu hỏi này có phần như là mê tín và có phần như là trạng thái tuyệt vọng, thứ khoái cảm trong tự hành hạ. ta đưa ra những câu hỏi hoàn toàn vì ta tin ở tính chất báo gở và tính chất quỷ quái của con chim (con quạ này, lý trí khiến tin như vậy chẳng qua chỉ lặp lặp lại bài học thuộc lòng) mà vì ta trải nghiệm thích thú điên cuồng được đặt ra những câu hỏi sao cho nhận được ở từ “nevermore” mà ta mong đợi nỗi u buồn ngọt ngào nhất vì chưng khó chịu đựng nhất. Nhận ra cái trạng huống như khiến tôi - hoặc đúng hơn buộc tôi tính nước như sau trong quá trình kết cấu - trước tiên tôi định trong tâm trí điểm cao trào, đó là câu hỏi cuối cùng - câu hỏi mà con quạ lần cuối cùng trả lời “Nevermore” - câu hỏi mà từ “nevermore” đáp lại chứa đựng sầu muộn và tuyệt vọng cùng cực nhất.

      Đến đây có thể là bài thơ được bắt đầu - ở vào khâu chót của nó, ở đó mọi công việc nghệ thuật phải bắt đầu - vì chính là từ đây, từ điểm này của những suy tính trước của tôi, mà tôi đặt bút lần đầu tiên lên giấy để soạn tác khổ thơ.

      “Kẻ báo điềm kia!” - Tôi bảo. - “Đồ tai ác kia!

      -- Ngươi lặng thinh, là chim hay là quỷ”

      Có trời cao nhìn xuống chúng ta, có Chúa mà hai ta tôn thờ

      Xin hãy bảo cho tâm hồn trĩu nặng buồn thương

      xem cõi thiên đường xa xôi

      Nó có còn được siết vào lòng người trinh nữ thánh thiện

      được các thiên thần gọi tên Lenore

      Siết chặt người trinh nữ rạng ngời,

      hiếm có được các thiên thần gọi tên Lenore

      Con quạ kêu lên: “ bao giờ nữa”

      Tôi soạn tác khổ thơ này, ở điểm này, trước nhất là vì, bằng cách xác lập đỉnh điểm, tôi có thể làm tốt hơn cả việc biến thức và lần lần tăng hoặc giảm độ (độ nghiêm túc và độ quan trọng) những câu hỏi trước đó của kẻ si tình - và thứ hai là vì tôi có thể sắp đặt dứt khoát tiết tấu, vận luật cũng như độ dài và bố cục chung của khổ thơ - đồng thời tôi cũng có thể định mức độ cho những khổ thơ trước đó sao cho khổ nào có thể vượt quá khổ này về hiệu quả tiết tấu. Trong phần viết tiếp theo đó, nếu như tôi có thể kết cấu những khổ thơ mạnh mẽ hơn, chút đắn đo tôi cố tình làm dịu chúng , cốt sao đừng có gây nhiễu hiệu quả đỉnh điểm.

      Đến đây tôi xin đôi lời về thi luật. Mục tiêu thứ nhất của tôi (như thường lệ) là độc đáo. độc đáo trong thi luật sao lại bị coi thường đến như vậy. Đó là trong những điều khó hiểu nhất đời. Cứ cho rằng có ít khả năng biến thức trong tiết tấu đơn thuần, nhưng lại phải thấy rằng những khả năng biến thức của vận luật và khổ thơ là vô cùng tận - ấy vậy mà trong nhiều thế kỷ, ai trong câu thơ, làm được, điều độc đáo, mà xem ra cũng chẳng nghĩ đến làm điều độc đáo. thực là tính độc đáo (trừ phi ở những trí tuệ có sức mạnh phi thường) tuyệt nhiên, như số người giả định, phải là vấn đề xung lực (bản năng) hoặc trực giác. Nhìn chung, để chộp được nó, tính độc đáo phải được tìm kiếm công phu và mặc dù là phẩm giá tích cực cao cấp, để đạt được nó đòi hỏi tinh thần phủ nhận nhiều hơn là óc sáng kiến.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :