Trên Chuyến Bay Đêm - Ken Follett(Trinh thám)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221



      Chuyến Bay Đêm
      [​IMG]
      Tác Giả: Ken Follett

      Thể Loại: Trinh Thám, Kinh Dị, Văn học phương Tây

      Dịch Giả: Kim Thùy , Văn Hòa

      Nhà xuất bản : Phụ Nữ

      Số trang : 712

      Kích thước : 13 x 19 cm

      Trọng lượng : 520 g

      Số quyển / 1 bộ : 1

      Hình thức bìa : Bìa mềm

      Giá bìa : 65.000 VNĐ

      Nguồn: thuvien-ebook.com​
      Giới thiệu:


      "Tom Luther đứng bến tàu Southampton, ngước mắt nhìn lên trời để dõi tìm chiếc máy bay sắp hạ cánh, lòng nôn nao lo sợ, lúc ấy là vào buổi trưa và sau khi có tin nước tuyên chiến với Đức được nửa ngày. ta luôn miệng ngân nga khe khẽ mấy khúc nhạc của Beethoven:
      đoạn đầu trong bản Côngxéctô LEmpẻrẻủr, giai điệu trầm buồn rất hợp với khí chiến tranh.
      đám đông đến xem đứng quanh ta. Họ là những người say mê máy bay, với ống nhòm tay, là những chàng trai trẻ và những người hiếu kỳ."

      Mời các bạn đón đọc chuyến bay đêm của tác giả Ken Follett.

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 1

      QUỐC

      Chiếc thủy phi cơ sắp đến là chiếc máy bay tuyệt vời nhất từ xưa đến nay.

      Tom Luther đứng bến tàu Southampton, ngước mắt nhìn lên trời để dõi tìm chiếc máy bay sắp hạ cánh, lòng nôn nao lo sợ, lúc ấy là vào buổi trưa và sau khi có tin nước tuyên chiến với Đức được nửa ngày. ta luôn miệng ngân nga khe khẽ mấy khúc nhạc của Beethoven: đoạn đầu trong bản Côngxéctô LEmpereur, giai điệu trầm buồn rất hợp với khí chiến tranh.

      đám đông đến xem đứng quanh ta. Họ là những người say mê máy bay, với ống nhòm tay, là những chàng trai trẻ và những người hiếu kỳ.

      Luther tính ra đây là lần thứ chín chiếc thủy phi cơ Clipper của Hãng Hàng Pan American đáp xuống nước ở Southampton, nhưng kiện này cũng mất tính hấp dẫn mới lạ của nó. Chiếc máy bay rất kỳ diệu, rất đẹp đến nỗi mọi người đều tụ tập đến để xem ngay cả vào ngày đất nước họ bắt đầu lâm chiến. bến tàu có hai chiếc tàu thủy đẹp lộng lẫy đậu, nhưng những khách sạn nổi này chẳng làm mọi người quan tâm, mà tất cả đều ngước mắt nhìn lên trời.

      Trong khi chờ đợi máy bay đến, mọi người đều bàn tán với nhau về chiến tranh. Trẻ con rất náo nức trước viễn cảnh này; người lớn chuyện nho với vẻ như nghe tiếng xe tăng và đại pháo kề bên; còn đàn bà chỉ giữ vẻ yên lặng. Luther là người Mỹ, hy vọng đất nước mình đứng ngoài cuộc chiến tranh này: đây phải là việc của người Mỹ. Ngoài ra, chỉ có việc khi người ta đến những người Đức Quốc xã là:họ thích chủ nghĩa Cộng sản.

      Luther là kỹ nghệ gia sản xuất vải len, có thời gặp nhiều chuyện khó khăn với những người Cộng Sản trong Các nhà máy sợi của mình.

      hoàn toàn phụ thuộc vào họ; họ làm cho gần sạt nghiệp. Nhớ lại chuyện này tức ứa cơm. Nhà máy sản xuất áo quần của bố thất bại, lại còn bị người Do thái cạnh tranh làm cho suy sụp thêm, rồi nhà máy len của Luther bị những người này hăm dọa - mà phần đông trong số này là người Do thái. Lúc bấy giờ Luther gặp được Ray Patriarca, và cuộc đời của được thay đổi. Thuộc hạ của Patriarca biết cách trị người Cộng sản. ta thực được nhiều vụ. người lãnh đạo phong trào đấu tranh bị máy dệt. nghiền nát bàn tay. người hoạt động trong phong trào công đoàn bị tay tài xế lái ẩu cho chầu Diêm vương. Hai người đàn ông than phiền về các qui chế bảo hiểm của công nhân được thực nghiêm túc, bị lôi kéo vào cuộc ẩu đả trong quán rượu, rồi kết thúc cuộc đời trong bệnh viện. chị công nhân thường than vãn này nọ, tự động bỏ việc ở công ty sau khi nhà chị bị thần hỏa đến viếng. Những việc này chỉ xảy ra trong vòng mấy tuần, rồi từ đó về sau tất cả đều êm thấm. Patriarca học được sách lược của Hitler: phương pháp duy nhất để trị người Cộng sản là nghiền nát họ như nghiền gián. Luther nhịp chân lên đá, luôn luôn khẽ ngân nga trong miệng nhạc của Beethoven.

      chiếc tàu tuần tra rời bến tàu của Hãng Hàng Hoàng gia phía bên kia cửa sông, ở Hythe, chạy quanh nhiều vòng khắp khu vực máy bay sắp đáp xuống, để bảo đảm có vật gì chướng ngại mặt nước. Đám đông nôn nóng thào với nhau:chắc chắn chiếc thủy phi cơ sắp đến rồi.

      Người đầu tiên trông thấy chiếc máy bay ra là cậu bé mang đôi giày mới toanh. Cậu ta có ống nhòm, nhưng cặp mắt mười tuổi của cậu sáng hơn những tấm thấu kính ở trong ống nhòm. “Máy bay đến kìa “ - Cậu ta reo lên giọng lanh lảnh. “Chiếc Clipper kia kìa” - Cậu ta chỉ về phía Tây Nam.

      Mọi con mắt đều đổ dồn về phía ấy. Mới đầu, Luther chỉ thấy vật lờ mờ như hình con chim, nhưng chỉ lát sau, vật lờ mờ ấy hình dáng chiếc máy bay, và mọi người đều lộ vẻ hân hoan, thích thú:

      cậu bé đúng. Mọi người đều gọi chiếc máy bay khổng lồ có vận tốc nhanh này là chiếc Clipper, nhưng theo kiểu thiết kế kỹ thuật, nó là chiếc Boeing B-314.

      Hãng Pan American đặt hàng cho Hãng Boeing đóng loại máy bay có khả năng chuyên chở hành khách bay qua Đại Tây dương với điều kiện phải rất sang trọng, và kết quả là họ có lâu dài bay khổng lồ, lộng lẫy, với sức mạnh phi thường. Hãng nhận được sáu chiếc và đặt mua thêm sáu chiếc nữa. So về mặt tiện nghi và vẻ đẹp, loại thủy phi cơ này tương đương với những chiếc tàu thủy khổng lồ chạy xuyên đại dương neo đậu tại Southanlpton, nhưng trong khi những chiếc tàu thủy lộng lẫy kia phải mất bốn hay năm ngày mới vượt qua được đại dượng, chiếc Clipper chỉ bay mất từ 25 đến 30 giờ thôi.

      Vừa nhìn chiếc máy bay đến gần, Luther nghĩ đến lời của nhiều người cho rằng đây là con cá voi có cánh. Cái mõm của nó khổng lồ có:hình vuông như mõm cá voi, thân máy bay đồ sộ và đuôi máy bay thon thả, tận cùng bằng cặp cánh phụ. Những động cơ khổng lồ được gắn gọn vào hai cánh. Dưới hai cánh, có cặp phao ngắn dùng để giữ cho thủy phi cơ đứng vững khi đậu mặt nước. Phía dưới thân máy bay, nhìn nghiêng trông như vỏ chiếc tàu thủy chạy nhanh.

      Chẳng bao lâu, Luther thấy những ô cửa sổ có hình chữ nhật ở hai bên thân tàu, những ô cửa sắp xếp đều nhau, dãy ở boong . vừa mới đến nước chiếc Clipper này cách đây tuần, cho nên biết rất cách bố trí tàu. Boong của tàu gồm phòng lái và phòng chứa hành lý còn boong dưới dành cho hành khách. Ở boong hành khách thay vì những dãy ghế bành cho khách ngồi, người ta lại đóng dãy vách hõm vào để kê ghế dài bọc nệm. Đến giờ ăn, phòng khách chính biến thành phòng ăn, còn ban đêm những ghế dài được biến thành giường ngủ.

      Máy bay được chế tạo như thế để hành khách được hoàn toàn cách biệt với thế giới bên ngoài và khỏi bị nhiễm lạnh. sàn boong có lát thảm dày, ánh sáng được lọc cho dịu lại, màn nhung có màu sắc thanh nhã và nệm ghế được bọc da độn bông. vách gắn lớp cách nhiệt dày để làm giảm bớt tiếng ồn do tiếng máy gây ra. Ông Cơ trưởng có thái độ trầm tĩnh uy nghiêm, nhân viên phi hành đoàn mặc đồng phục của hãng Pan American rất thanh lịch, và nhân viên phục vụ luôn luôn cần mẫn. Khách muốn thứ gì người ta cung cấp đầy đủ thứ ấy, luôn luôn khách được đề nghị ăn cái này hay uống cái nọ; tất cả thứ gì khách muốn, thứ ấy ra như trò ảo thuật. Đến tối những chiếc giường ngủ được màn che kín và dâu tây tươi mát có sẵn bàn ăn vào giờ điểm tâm. Thế giới bên ngoài trở nên phi thực, như cuốn phim được chiếu lên các ô cửa sổ bên hông tàu, và vũ trụ hình như thu gọn lại vào bên trong máy bay.

      Để hưởng trọn hạnh phúc này, người ta phải trả giá rất đắt:Sáu trăm bảy mươi lăm đô la vé khứ hồi; bằng nửa giá tiền ngôi nhà . Khách máy bay đều là các nhân vật đế vương, các tài tử xi nê, giám đốc các công ty lớn và nguyên thủ các nước .

      Tom Luther thuộc trong số các nhân vật này. giàu đấy, nhưng làm việc cật lực mới có được gia sản kếch xù, cho nên xài phí tiền bạc vào cuộc sống xa hoa. Tuy nhiên, phải làm quen với chiếc thủy phi cơ. được nhân vật có uy lực, rất có uy lực, giao phó cho nhiệm vụ tối nguy hiểm. Người ta trả công cho , nhưng đổi lại, người ta giúp , những chuyện mà tính ra có lẽ còn đáng giá hơn cả tiền công trả cho nữa.

      Công tác này còn có thể hủy bỏ, chờ bật đèn xanh. ở trong tình trạng phân vân, vừa mong muốn tiến hành nhiệm vụ lại vừa mong sao khỏi phải làm công việc này.

      Máy bay giảm độ cao với tư thế xiên xiên, đầu ngẩng lên, đuôi hạ thấp. Khi máy bay xuống gần, lần nữa, Luther cảm thấy bàng hoàng kinh ngạc trước kích thước đồ sộ của nó. biết thân máy bay có chiều dài 33 mét và cánh sải rộng đến 43 mét, nhưng những con số này chẳng có nghĩa lý gì khi người ta chưa thấy nó nằm mặt nước.

      Bỗng người ta có cảm giác như chiếc thủy phi cơ bay mà nó rơi và va mạnh vào mặt nước rồi chìm mất xuống đáy biển. Nhưng rồi người ta thấy như thể nó được treo lơ lửng mặt nước bằng sợi dây vô hình. Rồi cuối cùng nó chạm vào mặt nước, nhảy lò cò sóng, làm bắn tưng tóe từng đám bọt nước. Nhưng cửa sông nằm khuất gió, nên sóng rất ít, và chỉ lát sau, sàn máy bay chìm xuống nước, từng đám bụi nước văng lên tưng tóe.

      Máy bay chạy tới vạch mặt nước xanh đường trắng, rẽ ra hai chùm bọt nước hai bên; Luther nghĩ đến con vịt trời hồ, hai cánh xòe ra, hai chân bơi dưới bụng. Bụng máy bay chìm dưới nước ít làm cho hai chùm bọt nước rộng thêm ra, phần than trước nhấp nhô bập bềnh. Tia bọt nước càng nhiều thêm trong khi máy bay vươn lên lại, cái bụng như bụng cá voi trườn tới trước. Cuối cùng mũi máy bay hạ xuống. Tốc độ thình lình giảm sút, những chùm bọt nước biến mất, chỉ còn lại những xoáy nước nhàng, và chiếc thủy phi cơ lướt mặt biển như chiếc tàu thủy, êm ái như thể bao giờ cất cánh bay lên trời xanh được Luther nhận thấy mình nín thở, rồi buông tiếng thở dài. lại khẽ hát trong miệng. Chiếc thủy phi cơ tiến về chỗ đậu. Chính chỗ này tuần trước từ chiếc thủy phi cơ bước lên bờ, bến tàu nổi được bố trí rất tiện lợi cho khách lên xuống dễ dàng. Chỉ trong mấy phút người ta buộc dây neo ở trước và sau máy bay, rồi kéo máy bay vào chỗ đậu nằm giữa hai cái đê chắn sóng của bến tàu. Khách quan trọng bắt đầu xuất , họ đến cửa mở cánh máy bay, bước sang bến tàu nổi, rồi từ đấy họ theo cầu tàu để lên bờ.

      Luther bỏ , nhưng bỗng dừng lại. người đàn ông xuất bên cạnh Luther, và chưa bao giờ gặp người này:gã ta có thân hình gần như bằng , mặc bộ áo quần màu xám đậm, đầu đội mũ trái dưa, có vẻ là nhân viên làm việc trong văn phòng.

      Luther định tiếp, nhưng cứ dán mắt vào mặt người đàn ông. Khuôn mặt phải là mặt của người làm việc trong văn phòng. Gã có vầng trán cao, cặp mắt xanh sắc sảo, hàm bạnh và đôi môi mỏng, độc ác. Gã lớn tuổi hơn Luther, quãng 40, nhưng đôi vai rộng và trông rắn chắc. Thái độ của gã có kiêu căng và nguy hiểm.

      Luther thôi hát lẩm nhẩm trong miệng nữa.

      Gã đàn ông :

      – Tôi là Herry Faber.

      – Tôi là Tom Luther.

      – Tôi mang tin nhắn tới cho ông.

      Luther cảm thấy tim đập nhanh. cố che giấu hồi hộp của mình và cũng trả lời bằng cái giọng khô khan chắc nịch như gã:

      – Tốt. .

      – Người có liên quan đến công việc của ông chiếc thủy phi cơ này vào thứ tư khi nó cất cánh New York.

      – Ông chắc chắn chứ?

      Gã đàn ông nhìn Luther với ánh mắt gay gắt và đáp. Luther gật đầu.

      Thế là sứ mệnh được xác nhận. Chấm dứt căng thẳng. :

      – Cảm ơn.

      – Chưa hết đâu.

      – Còn gì nữa, cứ .

      – Phần thứ hai của tin nhắn là:Chúng ta đừng để nhiệm vụ này thất bại.

      Luther hít vô hơi dài rồi đáp với giọng rất quả quyết:

      – Ông báo cho họ hay là đừng lo. Có lẽ người ấy rời khỏi Southampton, nhưng bao giờ đến New York.

      *

      Hãng Hàng Hoàng gia quốc bố trí các xưởng cơ khí nằm phía bên kia cửa sông, ngay trước mặt bến cảng Southampton. Chính các kỹ sư cơ khí hãng Hàng quốc đảm nhiệm công việc bảo trì chiếc Clipper, được giám sát của kỹ sư cơ khí hãng Hàng Hoa Kỳ. Trong chuyến bay này, kỹ sư cơ khí của Pan American là Eddie Deakin.

      Công việc bảo trì rất kỹ lưỡng, nhưng người ta có ba ngày đề làm công việc này. Sau khi để khách lên bến tàu số 108, chiếc Clipper chạy qua bên Hythe.

      Ớ đây, người ta đưa máy bay vào cái vịnh, trục nó lên giàn xe rồi kéo vào nhà xưởng khổng lồ sơn màu xanh, trông như con cá voi nằm yên chiếc xe của trẻ con.

      Chuyến bay vượt đại dương làm cho các động cơ phải hoạt động vất vả.

      đoạn bay dài nhất, từ Terre-Neuve đến Ailen, thủy phi cơ bay mất 9 giờ nhưng chuyến bay trở về, vì ngược gió, nên chuyến bay cũng phải mất 16 gìờ rưỡi. Giờ này qua giờ nọ, nhiên liệu tiêu hao, bu gi nổ lốp bốp, 14 xi lanh trong động cơ khổng lồ chạy lên chạy xuống ngừng và những cánh quạt dài 4 mét 50 quay vòng trong mây, trong mưa và trong gió lốc.

      Đối với Eddie, đây là mặt phi thường của ngành cơ khí. Những con người chế tạo ra những bộ máy có khả năng làm việc cách hoàn hảo và chính xác trong nhiều giờ liền như thế này là kỳ diệu, tài giỏi đến độ làm cho ta phải ngạc nhiên. Dĩ nhiên là trong quá trình hoạt động có nhiều thứ hư hỏng, có nhiều thứ mòn , nhưng người ta trù tính và lắp ráp cách chính xác, chi ly đến nồi các chi tiết máy thể rơi rớt ra, bị vướng mắc vào nhau hay là mất khả năng hoạt động để chiếc thủy phi cơ nặng đến 41 tấn này có thể đến nơi về đến chốn bình an.

      Sáng thứ tư, chiếc Clipper cất cánh lại.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 2
      Việc tuyên chiến xảy ra vào hôm chủ nhật êm ả của ngày cuối hè, bầu trời nắng ấm, tươi đẹp. Trước khi người ta tuyên bố tin chiến tranh bùng nổ đài phát thanh mấy phút, Margaret Oxenford ra khỏi nhà, ngôi nhà gạch đồ sộ, người toát mồ hôi vì đội mũ đầu và khoác áo măng tô, lòng tức bực vì phải nhà thờ. Ngôi nhà thờ độc nhất của giáo xứ nằm ở cuối làng, kéo chuông đều đều để gọi con chiên đến dự lễ.
      Margaret rất sợ nhà thờ, nhưng bố chấp nhận việc lễ, thậm chí 19 tuổi và đủ khả năng suy nghĩ về tôn giáo. Trước đây năm, lấy hết can đảm để với bố rằng muốn nhà thờ, nhưng ông chịu nghe lời . Margaret : “Bộ ba thấy con đạo đức giả khi đến dự lễ ở nhà thờ trong lúc con tin vào Chúa hay sao?” Bố đáp:
      “Con đừng có kỳ cục”. Thất bại và tức giận, tuyên bố với mẹ rằng khi lớn bao giờ đặt chân đến nhà thờ. Mẹ đáp:
      “Chuyện này phụ thuộc vào chồng con, con à” .Với họ, việc bàn cãi thế là chấm dứt, nhưng cứ đến mỗi sáng chủ nhật là Margaret lại thấy tức tối trong lòng.
      Chị và em trai của rời khỏi nhà rồi. Elizabeth 21 tuổi. Chị ta cao lớn, vụng về và đẹp lắm. Trước đây, hai chị em thông cảm nhau. Hai người sống bên nhau suốt thời niên thiếu, vì họ học ở trường, mà chỉ học ở nhà, hai người được các bà bảo mẫu và các gia sư dạy dỗ rất vu vơ.
      Nhưng khi họ khôn lớn, tình hình còn giống như trước nữa. Khi đến tuổi trưởng thành, Elizabeth hấp thụ những giá trị đạo đức cứng ngắt, thủ cựu của cha mẹ:chị ta rất bảo thủ, rất trung thành với đế chế, thèm hay biết đến những tư tưởng mới mẻ và khinh ghét những đổi thay trong xã hội. Còn Margaret theo con đường ngược lại. chủ trương quyền bình đẳng của phụ nữ, theo chủ nghĩa xã hội, say mê nhạc Jazz, tranh lập thể và thơ tự do.
      Elizabeth cho rằng Margaret phục tùng gia đình khi tiếp thu những tư tưởng cấp tiến. Margaret rất tức giận Elizabeth vì thái độ ngu ngốc của bà chị, nhưng buồn nhất là hai chị em còn gần gũi nhau như xưa nữa.
      Percy mới 14 tuổi. Cậu ta có ý kiến gì về những tư tưởng cấp tiến này, nhưng bản tính cậu tinh nghịch và cậu có thiện cảm với tinh thần phản kháng của Margaret. Cả hai đều đau khổ vì bị sống dưới độc đoán của bố, nên hai chị em nương tựa nhau để che chở cho nhau, do đó Margaret rất thương em trai.
      Bố với mẹ lát sau mới . Bố đeo chiếc cà vạt màu vàng cam và xanh trông tồi tệ. Hầu như ông có ý niệm gì về màu sắc hết, nhưng có lẽ chính mẹ mua chiếc cà vạt cho ông. Tóc mẹ màu hung, mắt xanh màu nước biển, làn da trắng tái, và bà chỉ thích các màu như màu vàng cam và màu xanh.
      Nhưng bố lại có mái tóc đen hoa râm, da mặt đỏ, nên trông chiếc cà vạt như là tấm bảng hiệu người ông vậy.
      Elizabeth giống bố, mái tóc chị màu nâu và nét mặt thô tháp. Margaret có màu da của mẹ:chắc thích có chiếc khăn quàng bằng xoa như chiếc cà vạt mà mẹ mua cho bố. Còn Percy thay đổi quá nhanh nên thể được cậu ta giống ai.
      Họ theo con đường dài đến tận ngôi làng nằm phía sau dãy hàng rào. Bố là chủ nhân hầu hết những ngôi nhà cùng đất đai nằm quanh đấy xa đến hàng dặm đường. Ông làm gì hết mà có được giàu có như thế là kết quả của loạt hôn nhân từ đầu thế kỷ thứ XIX, loạt hôn nhân này qui tụ ba gia đình giàu có nhất, có đất đai nằm trong lãnh địa của bá tước, số đất này gộp lại thành vùng rộng lớn, bền vững, cứ truyền lại từ đời này sang đời khác.
      Họ vào đường làng, rồi băng qua bãi cỏ đến ngôi nhà thờ xây bằng đá xám. Họ vào nhà thờ theo đoàn như đoàn diễu hành:bố, mẹ trước, Margaret theo sau Elizabeth, và sau cùng là Percy. Giáo dân trong làng làm dấu thánh giá trong khi gia đình Oxenford vào lối giữa nhà thờ để đến hàng ghế của gia đình. Các chủ nông giàu có canh tác đất đai của bố, cúi đầu chào rất lễ phép; những người thuộc tầng lớp tiểu tư sản như bác sĩ Rowan, đại tá Smythe và ngài Alfred cũng cung kính chào họ. Cứ mỗi lần Margaret thấy tục lệ phong kiến kỳ cục này diễn ra là thấy rùng mình, khó chịu. Tất cả - mọi người đều được xem là bình đẳng trước Chúa phải ? muốn la lên:“Cha tôi có giá trị gì với quí vị đâu, ông ta là người rất tồi tệ!”. Có lẽ ngày nào đó có can đảm để thế. Nếu gây chuyện ở nhà thờ, có lẽ bao giờ đến đây nữa. Nhưng quá sợ phản ứng của bố.
      Ngay khi họ vào đến ghế ngồi, mọi con mắt đều đổ dồn vào họ, Percy nho , nhưng cũng đủ cho mọi người nghe:“Cà vạt đẹp lắm, bố à” .Margaret phì cười Percy và vội ngồi xuống, úp mặt vào hai tay như cầu nguyện cho đến khi bình tĩnh trở lại. Sau đó, Margaret cảm thấy đỡ hơn.
      Cha xứ thuyết giảng về tình thương của Chúa Jesus. Margaret nghĩ đáng ra ông già ngốc nghếch này nên chọn đề thi thuyết giảng mà mọi người quan tâm hơn hết, đó là viễn cảnh cuộc chiến tranh sắp xảy ra. Ông Thủ tướng gởi tối hậu thư cho Hitler, lão Quốc trưởng Đức trả lời, và bây giờ người ta chờ đợi chiến tranh bùng nổ. Nghĩ đến chuyện chiến tranh là Margaret kinh hoàng. Chàng trai thương mến chết trong trận chiến tranh Tây Ban Nha. Chuyện xảy ra hơn năm rồi, nhưng bây giờ, thỉnh thoảng ban đêm vẫn còn khóc. Đối với , chiến tranh bùng nổ tức là có hàng ngàn phải lâm vào cảnh đau buồn như gặp. Thế nhưng, con người thứ hai trong lại muốn chiến tranh. Suốt mấy năm nay thường lên án nước là hèn nhát đối với cuộc chiến tranh ở Tây Ban Nha. Nước bình tâm trước những biến cố xảy ra ở đấy, trong khi chính phủ xã hội do dân bầu lên bị nhóm phiêu lưu quốc tế được Hitler và Mussolini trang bị vũ khí lật đổ. Hàng trăm thanh niên có lý tưởng dân chủ khắp châu u đổ xô đến Tây Ban Nha để chiến đấu bảo vệ dân chủ. Nhưng họ thiếu vũ khí và các chính quyền dân chủ thế giới từ chối chịu cung cấp vũ khí cho họ; cho nên những thanh niên này mất mạng và những người như Margaret hết sức phẫn nộ, thất vọng và nhục nhã. Nếu bây giờ nước quyết định đứng ở vị thế chống phát xít, chắc lại tự hào về đất nước của mình.
      Còn lý do khác nữa khiến cho tim rộn rã bồn chồn khi chiến tranh xảy ra, đó là việc có lẽ được chấm dứt cuộc sống tù túng ngột ngạt bên cạnh cha mẹ . rất đau khổ khi sống với gia đình, cảm thấy như mình bị bó tay, tức giận khi thấy cha mẹ sống theo lối thủ cựu và thói ăn chơi phi lý của xã hội thượng lưu. muốn thoát khỏi gia đình, sống cuộc sống tự lập, nhưng việc này thể thực được: còn , có tiền bạc, có nghề nghiệp gì để nuôi thân. Nhưng nôn nóng nghĩ, khi chiến tranh bùng nổ, thế nào mọi việc cũng thay đổi.
      đọc sách báo viết về cuộc chiến tranh vừa qua, trong cuộc chiến tranh này, phụ nữ mặc quần làm trong các nhà máy. Bây giờ có phụ nữ làm việc trong quân đội, trong bãi quân và quân. Margaret mơ được vào làm việc trong lực lượng Dịch vụ Hậu cần, ngành nữ quân nhân. có khả năng lái xe mà ít phụ nữ biết. được người tài xế của bố dạy cho cách lái chiếc Rolls; và Ian, chàng trai chết ở Tây Ban Nha, để cho lái chiếc xe mô tô của ấy. lại còn có thể lái thuyền có gắn động cơ, vì bố có chiếc du thuyền ở Nice. Ngành Dịch vụ Hậu cần rất cần nữ tài xế để lái xe cấp cứu và xe chuyển vận thư tín tưởng tượng ra cảnh mình mặc đồng phục, đội mũ cát két, cưỡi xe mô tô, mang tin tối khẩn từ mặt trận này sang mặt trận khác chạy hết tốc lực, với tấm ảnh của Ian ngực trong túi áo sơ mi ka ki. tin chắc, nếu người ta cho cơ hội, đủ can đảm để hoàn thành nhiệm vụ.
      Sau đó, họ biết trong khi nhà thờ làm lễ chiến tranh được công bố. Thậm chí còn có cuộc báo động vào lúc 11 giờ 28, trong khi ông cha xứ thuyết giáo, nhưng báo động đến được làng, và dù sao đó chỉ là cuộc báo động giả. Vì vậy gia đình Oxenford bộ từ nhà thờ về nhà mà hay biết gì về cuộc chiến tranh với Đức xảy ra.
      Percy muốn xách súng săn thỏ. Tất cả mọi người đều biết bắn, đây là trò giải trí của gia đình, hầu như là ám ảnh. Nhưng đương nhiên là bố bằng lòng cho phép Percy săn, vì ai được săn vào ngày chủ nhật.
      Percy thất vọng, nhưng cậu vâng lời bố. Mặc dù có tính nghịch ngợm, nhưng cậu chưa trưởng thành, nên chưa đủ can đảm để công khai chống lại bố.
      Margaret rất thích tính tinh nghịch của em trai. Cậu ta là tía nắng duy nhất rọi vào cuộc đời buồn bã của . thường ân hận, trách mình là có khả năng châm chọc bố như Percy, và cười nhạo sau lưng ông, nhưng quá giận nên cười cợt được như cậu em.
      Về đến nhà, họ rất sửng sốt khi thấy chị giúp việc để chân trần mà tưới hoa ở tiền sảnh. Bố biết chị ta, ông liền hỏi:
      – Chị là ai thế?
      Mẹ trả lời, giọng Mỹ dịu dàng:
      – Chị ấy là Jenkins, mới bắt đầu làm việc tuần này.
      Chị giúp việc cúi đầu cung kính.
      – Thế giày dép của chị ta đâu? - Bố hỏi.
      mặt chị ta ra vẻ khinh khỉnh, chị nhìn Percy, ánh mắt lên án.
      – Thưa ngài, chuyện này đều do ngài tiểu chủ Isley mà ra. - Tước vị của Percy là bá tước Isley. - Cậu ấy với tôi rằng phụ nữ giúp việc trong nhà phải chân trần vào chủ nhật để tỏ lòng kính Chúa.
      Mẹ thở dài, còn bố càu nhàu chán nản. Margaret thể nào nín cười được. Đây là trò bỡn cợt để cười đùa của Percy:sáng tạo ra luật lệ buồn cười cho gia nhân mới. Cậu ta có thể những chuyện vô nghĩa mà vẫn giữ nét mặt tỉnh bơ, còn gia đình nổi tiếng có những hành động kỳ quặc, cho nên người ta nghe gì cũng đều tin hết.
      Percy thường làm cho Margaret cười, nhưng lần này bất bình khi thấy chị gia nhân bất hạnh để chân trần mà trong tiền sảnh, và thấy chị ta có vẻ ngượng ngập, lúng túng.
      – Chị mang giày vào. - Mẹ .
      Và Margaret thêm:
      – Chị đừng tin ngài Isley.
      Họ cất mũ khi vào trong phòng khách .
      – Đùa như thế bậy lắm đấy nhé. - Margaret bên tai Percy, vừa kéo tóc cậu ta.
      Percy khoan khoái, cậu ta tính nào tật nấy. Có lần cậu báo cho cha xứ rằng bố chết vì bệnh tim trong đêm, và cả làng đều đến phúng viếng, khi ấy mới biết là tin đó thiệt.
      Bố mở đài vô tuyến ra nghe, bấy giờ mọi người mới biết tin:Nước tuyên chiến với nước Đức.
      Margaret cảm thấy lòng tràn ngập vui sướng, như khi người ta có cái gì kích thích, khiến họ lái xe chạy nhanh hay là leo lên tận ngọn cây. Người ta còn đặt vấn đề: có những tấm thảm kịch, có cảnh tang tóc buồn phiền và đau khổ, nhưng bây giờ tất cả đều thể tránh được nữa, những rào cản đều được dẹp bỏ và chỉ còn lại vấn đề duy nhất là chiến đấu chống lại quân thù. Nghĩ đến chuyện này tim đập thình thịch. Tất cả đều thay đổi hết. Người ta bỏ hết những qui ước xã hội cũ rích, phụ nữ tham gia chiến đấu, rào cản giai cấp biến mất, tất cả mọi người đều cùng làm việc với nhau. cảm thấy được hít thở bầu khí tự do. Rồi mọi người ra mặt trận chống lại bọn phát xít, bọn người sát hại Ian thân của và giết hàng ngàn thanh niên quả cảm khác. Margaret phải là người hiếu chiến, nhưng mỗi khi nghĩ đến chuyện chống lại bọn Quốc xã đức, là lại cảm thấy ý chí phục hận bùng lên mãnh liệt trong lòng. Ý chí phục hận này rất mới mẻ, rất quyết liệt và hấp dẫn.
      Bố tức giận vô cùng. Người ông sưng huyết, mặt đỏ gay mỗi khi giận dữ và mọi người đều nghĩ, thế nào ông cũng la lối om sòm. vậy, khi nghe tin này, ông hét lớn:
      – Lão Chamberlain mắc dịch. Lão khốn nạn này đáng nguyền rủa!
      – Kìa Algemon, tôi van ông! – Mẹ , giọng đầy trách móc, nghe bất thường.
      Bố là trong những người sáng lập ra Liên minh Phát xít quốc. Ông là người rất tương phản: còn trẻ nữa, nhưng mảnh khảnh, rất đẹp và rất cáu kỉnh. Ông được lòng nhiều người và được họ trung thành. Ông có viết tác phẩm gây nhiều tranh luận với nhan đề : Dân lai:mối đe dọa làm ô nhiễm chủng tộc, cuốn sách nêu vấn đề nguồn văn minh của con người xuống dốc kể từ khi dân da trắng pha giống với người Do thái, người Á châu, người phương Đông và thậm chí với người da đen. ông liên lạc với Adolf Hitler, người mà ông cho là chỉnh khách vĩ đại từ khi có Napoleon. Cứ mỗi cuối tuần, nhà ông biến thành hội trường đón tiếp long trọng những chính trị gia, các chính khách ngoại quốc và thỉnh thoảng cả nhà vua nữa - đây là điếu khó quên.
      Họ bàn cãi đến tận khuya, người đầu bếp ngừng mang rượu nhắc dưới hầm rượu lên cho quan khách, con tôi tớ trong nhà ngáp ngắn ngáp dài trước cửa. Trong thời gian kinh tế suy thoái, bố cứ đợi tổ quốc mời ông ra giúp nước, trao cho ông chức thủ tướng để ông tái thiết quốc gia; nhưng bao giờ có chuyện đó. Những cuộc tiếp tân cuối tuần hiếm dần và khách tham dự cũng ít ; những vị khách sáng giá tìm cách rút lui khỏi những cuộc hội họp của Liên minh Phát xít quốc; và bố trở thành con người thất bại, đau đớn. Ông được lòng mọi người và ai tin ông nữa. Phong độ đẹp đẽ con nữa vì hận thù, vì buồn phiền và vì uống rượu. thông minh của ông chỉ là vẻ hào nhoáng bên ngoài:Margaret đọc cuốn sách của ông, kinh ngạc nhận thấy ông chỉ sai lầm thôi, mà còn ngu ngốc nữa.
      Mấy năm vừa qua, hy vọng duy nhất của ông là thực cho kỳ được ước mơ quốc và Đức quốc liên minh với nhau để chống lại Liên bang Xô Viết.
      Ông viết bài gởi đến các tạp chí và viết thư cho các nhật báo để bảo vệ luận thuyết này, cho nên càng lúc ông càng ít có cơ hội để người ta mời ông đến phát biểu ở các buổi hội họp chính trị và trong các buổi sinh hoạt tập thể ở các trường đại học. Ông khăng khăng bảo vệ ý kiến của mình trong khi những biến cố xảy ra ở u châu biến quan điểm chính trị của ông thành điều phi thực, viển vông. Việc tuyên bố chiến tranh giữa và Đức làm tiêu tan hết hy vọng của ông, và trong cảnh dao động tinh thần này của ông, bỗng Margaret cảm thấy hơi thương hại bố.
      – Nước và nước Đức tàn sát lẫn nhau, và để cho Cộng sản vô thần thống trị châu u cho mà xem - Ông .
      Nghe đến chuyện vô thần, bỗng Margaret nhớ đến việc bị bắt buộc phải nhà thờ, bèn :
      – Vô thần đối với con chẳng sao hết, vì con vô thần.
      – Con vô thần đâu, - Mẹ . - Con thuộc giáo hội quốc.
      Margaret sao khỏi bật cười Elizabeth rơm rớm nước mắt, chị lớn:
      – Tại sao em cười được nhỉ? Chuyện bi đát!
      Elizabeth rất khâm phục những ngươi theo Đức Quốc xã. Chị ta tiếng Đức - hai chị em được tiếng Đức là nhờ bà gia sư là người Đức, bà này dạy cho hai lâu hơn những người khác.
      Chị sang Berlin nhiều lần và được dùng bữa với Quốc trưởng hai lần. Margaret tin những người Quốc xã là xu thời chỉ thích được giới quí tộc tán thưởng.
      Margaret quay qua phía Elizabeth, :
      đến lúc chúng ta chống lại bọn súc sinh ấy rồi đấy!
      – Họ phải là đồ súc sinh, - Elizabeth tức giận cãi lại. - Họ là dân tộc Aryen kiêu hãnh, khỏe mạnh và thuần chủng, việc nước ta đánh nhau với họ quả là điều bi đát. Bố đúng=Dân da trắng tuyệt diệt, thế giới rơi vào tay bọn lai và bọn Do thái.
      Margaret còn kiên nhẫn để nghe chuyện vớ vẩn như thế này nữa. hỏi lớn:
      – Dân Do thái có gì xấu?
      Bố chỉ ngón tay, đáp:
      – Người Do thái xấu là người .... biết thân phận của mình.
      – Là người chịu nằm dưới gót giày của bố, người chịu ở trong. .... trong hệ thống phát xít của bố. – định ở trong hệ thống ghê tởm của bố, nhưng bỗng sợ và ráng nhịn; chọc tức bố rất nguy hiểm.
      Elizabeth tiếp:
      – Còn theo hệ thống Cộng sản của , bọn Do thái cai trị người ta!
      – Tôi phải là Cộng sản, tôi là người xã hội chủ nghĩa.
      Percy bắt chước mẹ, cậu ta :
      thế được đâu, chị ơi. Chị thuộc Giáo hội quốc!
      Margaret thể nín cười được; và lần nữa, việc cười làm cho bà chị điên tiết lên, chị ta với giọng gay gắt:
      – Mày phá hủy hết những gì tốt đẹp, cao cả để cười đùa.
      Câu của chị đáng cho trả lời, nhưng muốn mọi người biết ý kiến của mình. quay qua với bố.
      – Dù sao con cũng nhất trí với bố về những việc mà ông Nevil1e Chamberlain phải chịu trách nhiệm. Ông ấy làm cho lực lượng quân của ta yếu kém bằng cách đổ cho bọn phát xít chiếm Tây Ban Nha. Bây giờ kẻ thù của chúng ta có mặt từ phía Tây cho đến phía Đông.
      – Chamberlain để cho người phát xít chiếm lấy Tây Ban Nha, - Bố đáp. - Nước hiệp ước bất can thiệp với Đức Ý và Pháp. Chúng ta chỉ có việc phải tôn trọng hiệp ước.
      thế là đạo đức giả, và ông phải biết như thế chứ. Margaret cảm thấy đỏ mặt vì tức giận.
      – Chúng ta tôn trọng hiệp ước trong khi người Ý và người Đức tôn trọng! - cãi lại. - Thế đấy, bọn phát xít có khí giới còn những người dân chủ chẳng có gì ngoài ... những hùng!
      khí yên lặng nặng nề lát.
      – Mẹ rất buồn về cái chết của Ian, con à, - Mẹ - nhưng cậu ấy gây ảnh hưởng rất xấu cho con.
      Bỗng nhiên Margaret muốn bật khóc.
      Ian Rochdale là người mang đến cho nguồn vui của cuộc sống, và khi nghe tin chết, rất đau khổ, bây giờ cứ mỗi khi nhớ đến là lòng lại quặn đau.
      Suốt nhiều năm qua! Vào những dịp tổ chức hội săn bắn, thường có khiêu vũ với các chàng trai con các gia đình thế phiệt trong vùng, những chàng này đều có đầu óc trống rỗng, chỉ nghĩ đến chuyện ăn nhậu và săn bắn thôi; thất vọng vì gặp được người cùng trang lứa tình quan tâm đến . Cho nên khi gặp Ian, như tia sáng rực rỡ đến với đời , và từ khi chết , sống trong cảnh tăm tối của cuộc đời.
      ta tốt nghiệp ở đại học Oxford. Margaret rất muốn vào đại học, nhưng có khả năng để vào đấy : vì chưa bao giờ học ở trường.
      Thế nhưng đọc sách nhiều - vì chẳng có gì để làm hết. – Và rất sung sướng khi tìm được người thảo luận các vấn đề về tư tưởng như . là người duy nhất có thể giảng giải cho hiểu biết nhiều chuyện mà có thái độ kể cả, ta đây. Chưa bao giờ gặp người nào có tinh thần trong sáng như Ian; trong khi thảo luận, có thái độ rất kiên nhẫn và kiêu căng về vốn kiến thức của mình : khi biết điều gì, thú mình biết.
      Ngay khi mới gặp lần đầu, thương mến .
      Quen nhau thời gian mà vẫn biết . Rồi hôm, vụng về bối rối thú nhận , ấp úng hồi mới tìm ra được từ để với :“ nghĩ là chắc em ... Chuyện em có gì trở ngại ? Chính lúc ấy mới vui mừng nhận ra chính cũng .
      làm thay đổi cuộc đời . Như thể đến nước khác, nơi mà cuộc sống hoàn toàn khác biệt: cảnh vật, thời tiết, con người, chuyện bếp núc. tất cả Những xung khắc, những giận hờn trong cuộc sống với bố mẹ đối với lúc bấy giờ quá nhoi.
      Ngay cả sau khi tình nguyện đầu quân vào lữ đoàn quốc tế và đến Tây Ban Nha để chiến đấu chống lại bọn phát xít nổi loạn để bảo vệ chính quyền xã hội, vẫn tiếp tục làm cho đời tươi sáng. hãnh diện về , vì có can đảm theo đuổi lý tưởng của mình và sẵn sàng hy sinh tính mạng cho lý tưởng mà theo đuổi. Thỉnh thoảng, nhận được thư . hôm, gởi cho bài thơ. Và rồi khi nhận được tin chết, chết tan xác vì trái phá, Margaret cảm thấy đời mình như chấm dứt.
      – Đúng ảnh hưởng xấu , - tiếp, giọng gay gắt. - ấy dạy cho con biết đặt vấn đề với giáo điều tin lời dối, ghét dốt nát và khinh bỉ đạo đức giả. Kết quả là con đứng trong hàng ngũ xã hội văn minh.
      Bố, mẹ và Elizabeth đều há hốc mồn lúc vì ai được; chính Percy là người lên tiếng trong giây phút im lặng đột ngột ấy:
      – Về vấn đề người Do thái, tình cờ con tìm được trong hầm rượu tấm ảnh nằm trong đáy trong những chiếc va li mang từ Stamford đến. - Stamford là vùng trong tiểu bang Counecticut, là nơi cư ngụ của gia đình mẹ. Percy lấy từ túi áo sơ mi ra tấm ảnh nhàu nhò, màu nâu đen phai – Con có bà cố ngoại tên là Ruth Glenccary, phải mẹ?
      – Phải, - Mẹ đáp - Đó là bà ngoại của mẹ. Mà sao, con tìm ra cái gì đấy?
      Percy đưa tấm ảnh cho bố và những người khác bu lại để xem. Tấm ảnh chụp đường phố ở Mỹ, có lẽ là ở New York, cảnh tượng cách đây 60 hay 70 năm ở hàng đầu, người ta thấy người Do thái khoảng 30 tuổi, có bộ râu đen, áo quần lôi thôi, đầu đội mũ. ta đứng bên cạnh chiếc xe cút kít, xe để cái thớt mài dao bên cạnh chiếc xe, người ta đọc ràng mấy chữ “Reuben Fishbein - thợ mài dao”. Bên cạnh người đàn ông có khoảng 10 tuổi, mặc chiếc áo vải tồi tàn và mang đôi giày thô tháp.
      – Cái gì thế này, Percy?. - Bố hỏi. - Những người gớm ghiếc này là ai thế?
      – Bố nhìn ở sau biết, - Percy đáp.
      Bố lật phía sau tấm ảnh. Ở đó có ghi hàng chữ “Ruthie Glencarry, con của Fishbein, 10 tuổi”.
      Margaret nhìn bố. ông có vẻ hốt hoảng.
      – Tuyệt đấy chứ, - Percy tiếp - Ông ngoại của mẹ lấy con của gã thợ mài dao rong người Do thái, nhưng ở Mỹ hình như chuyện này bình thường thôi.
      thể như thế được - Bố thốt lên. Nhưng giọng của ông run run và qua thái độ của bố, Margaret cảm thấy chuyện này có vẻ quá.
      Percy tiếp với vẻ say sưa:
      – Dù sao nữa người ta có là dân Do thái cũng xuất phát từ đàn bà mà ra, cho nên nếu bà ngoại của mẹ là Do thái, con cũng là Do thái.
      Mặt bố tái mét. Mẹ có vẻ rất kinh ngạc, trán bà nếp nhăn vì lo âu sợ sệt.
      – Con hy vọng người Đức thắng được cuộc chiến này, - Percy tiếp.
      – Chắc con được phép xem xi nê và chắc mẹ phải khâu ngôi sao vàng lên tất cả các áo dự dạ vũ của mẹ.
      Chuyện này xem ra có vẻ quá. Margaret bèn nhìn kỹ vào những chữ viết tay ở phía sau tấm ảnh và tìm ra được .
      – Này Percy! - , vẻ khoái trá ra mặt. – Nét chữ này là của em kia mà!
      , phải của em đâu! - Percy đáp.
      Nhưng mọi người đều nhận ra đấy là nét chữ của Percy. Margaret cười sung sướng. Percy tìm thấy tấm hình cũ có hình bé Do thái này ở đâu đó, rồi viết hàng chữ ở phía sau để đánh lừa bố. Ông rơi vào bẫy, cảm thấy đau đớn, và điều này chẳng có gì ngạc nhiên, vì đối với kẻ chủ trương phân biệt chủng tộc, khi họ phát ra tổ tiên họ là dân lai giống, họ khổ sở chẳng khác nào sống trong cơn ác mộng vậy. may cho ông.
      Bố “chà” tiếng rồi ném tấm ảnh lên bàn. Mẹ :
      – Percy, quá quắt, - giọng bà chán nản. Bà định thêm nữa, nhưng ngay lúc ấy cửa mở và Bates, người đầu bếp có tính tình tốt, lên tiếng:
      – Thưa bà cơm dọn xong.
      Họ rời khỏi phòng khách , qua tiền sảnh để vào phòng ăn. Thường lệ vào chủ nhật, món ăn có thịt bò hầm nhừ. Mẹ ăn rau, bà bao giờ ăn thức ăn hầm nhừ, vì bà cho rằng thức ăn hầm nhừ mất hết chất bổ.
      Bố đọc lời nguyện rồi mọi người ngồi vào bàn. Bates dọn cho mẹ cá hồi hun khói. Theo bà thức ăn hun khói, ngâm trong dấm hay nước mắm là thức ăn tuyệt vời nhất.
      Mẹ vừa lấy thức ăn vào đĩa mình vừa , giọng thư thái như đến chuyện hiển nhiên ai được cãi lại:
      – Bây giờ chúng ta chỉ còn việc phải làm mà thôi. Tất cả chúng ta phải sang Mỹ ở, đợi cho đến khi hết cuộc chiến tranh ngu ngốc này.
      Mọi người đều im lặng lát sau khi nghe tin động trời này. Rồi Margaret thốt lên bằng giọng hốt hoảng:
      !
      – Này này, - Mẹ đáp - Mẹ nghĩ chúng ta cãi cọ với nhau cả ngày rồi. Bây giờ ráng giữ hòa khí mà ăn đấy nhé.
      ! - Margaret lặp lại. Giọng hầu như lạc vì quá tức giận. - Bố mẹ .... Bố mẹ thể làm như thế, làm thế là ... là ... - muốn la lên phản kháng, muốn lên án bố mẹ làm thế là phản bội, là hèn nhát, muốn lớn lên cho cả nhà nghe khinh bỉ của mình về việc bỏ này, nhưng những từ muốn thốt ra được: – Làm thế là sai trái.
      Nhưng thế cũng nhiều rồi. Bố nạt lớn:
      – Nếu mày giữ mồm giữ miệng liệu hồn đấy.
      Margaret áp chiếc khăn ăn vào miệng để khỏi bật ra tiếng khóc: xô ghế đứng dậy, chạy ra khỏi phòng ăn.
      Đương nhiên là bố mẹ tổ chức việc ra từ nhiều tháng nay rồi.
      Sau khi ăn xong, Percy đến phòng của Margaret, cho biết mọi chi tiết được gia đình thu xếp. Nhà phải đóng cửa lại, đậy hết đồ đạc trong nhà và sa thải gia nhân. Gia đình giao công việc thu tiền các nhà cho thuê cho người hợp tác của bố. Tiền bạc gởi vào ngân hàng: người ta thể gởi qua Mỹ được vì chính phủ kiểm soát việc đổi tiền trong thời gian xảy ra chiến tranh.
      Gia đình bán ngựa, chăn mền ướp long não và đồ đạc chất vào tủ khóa kín.
      Elizabeth, Margaret và Perey mỗi người chuẩn bị va li: đồ đạc còn lại được công ty vận tải chuyển . Bố lấy vé cho cả nhà chiếc thủy phi cơ Clipper của hãng Hàng Mỹ Pan American, và họ phải ra vào thứ tư.
      Percy rất nôn nóng chờ đợi ngày . Cậu máy bay vài lần rồi, nhưng chiếc máy bay Clipper này giống như các chiếc kia. Chiếc này khổng lồ và rất sang trọng: báo chí đến rất nhiều về chiếc máy bay khánh thành cách đây mấy tuần. Bay từ sang New York chỉ mất 28 giờ và mọi người ngủ giường ban đêm trong khi máy bay bay qua Đại Tây dương.
      Cái kiểu sống của bố mẹ là thế đấy, Margaret nghĩ, ra trong cảnh đầy đủ tiện nghi xa xỉ, mặc cho đồng bào của mình lâm vào cảnh thiếu thốn và trước thảm cảnh chiến tranh diễn ra. Percy khóa vali còn Margaret nằm dài giường, nhìn trần nhà, lòng sôi sục căm hờn, ấm ứ khóc vì thất vọng, vì bất lực trước số phận.
      ở miết trong phòng, suốt buổi tối ra ngoài.
      Sáng thứ hai, trong khi Margaret còn nằm trong giường mẹ đến. ngồi dậy, nhìn bà với ánh mắt căm thù, Mẹ ngồi trước bàn trang điểm, nhìn Margaret trong gương, bà :
      – Mẹ van con đừng gây chuyện với bố con trong chuyến ra này.
      Margaret biết mẹ lo lắng. Trong những dịp khác, có lẽ khi thấy mẹ như thế này, chắc dịu giọng, nhàng với bà; nhưng bây giờ quá bấn loạn, thể nào nhã nhặn với mẹ được. buông lời gay gắt với bà: – như thế này là quá hèn nhát!
      Mẹ mặt mày tái mét.
      – Chúng ta hèn nhát.
      – Chạy trốn khỏi đất nước khi chiến tranh bùng nổ!
      – Chúng ta còn chọn lựa nào khác. Chúng ta phải .
      Margaret tức giận hỏi:
      – Tại sao?
      Mẹ quay lại nhìn thẳng vào mắt :
      – Nếu , họ bỏ tù bố con.
      Margaret bàng hoàng kinh ngạc. hỏi:
      – Tại sao họ làm thế .Theo phát xít đâu phải có tội?
      – Họ có quyền hạn đặc biệt. Cho nên có gì quan trọng đâu? người thân quen với bố trong bộ Nội vụ bảo cho chúng ta biết thế. Nếu cuối tuần này mà bố con còn ở quốc ông bị bắt.
      Margaret tin người ta muốn bỏ tù bố như tên trộm được.
      – Nhưng họ để cho chúng ta mang theo tiền bạc, - Mẹ tiếp, giọng hậm hực. - Thế đấy, nước chơi đẹp như thế đấy.
      Bỗng Margaret cảm thấy tiền bạc là vấn đề cuối cùng mà lo sợ. Đời là cả canh bạc. Bỗng nhiên cảm thấy mình có can đảm, nên muốn cho mẹ nghe. Sợ chần chừ thêm nữa, mất hết can đảm, nên hít vào hơi dài rồi với mẹ: – Mẹ à, con muốn với gia đình.
      Mẹ để lộ chút ngạc nhiên nào cả. Thậm chí mẹ có vẻ như đợi lên câu ấy. Rồi bằng giọng hết sức thản nhiên như muốn tranh cãi với mẹ dịu dàng :
      – Con phải , con ạ.
      – Họ bỏ tù con đâu. Con có thể ở nhà Martha, hay là nhà bà chị họ Catherine của con cũng được .Mẹ với bố giúp cho con được à?
      Bỗng mẹ hùng hổ , điệu bộ rất khác thường.
      – Mẹ nuôi nấng con khổ nhọc, bây giờ nếu còn bảo vệ con, đời nào mẹ để cho con lâm vào cảnh nguy hiểm đến tánh mạng cả.
      Bỗng Margaret cảm thấy xúc động trước tình cảm của mẹ. Nhưng vẫn đáp:
      – Con phải cho bố biết: chính bố quyết định hết cả đời con.
      Mẹ thở dài và lấy lại dáng vẻ uể oải như thường khi.
      – Con và mẹ có gì cũng chẳng đến đâu. Chúng ta có bố con cũng cho phép con ở lại đâu Tính thụ động của mẹ khiến Margaret thấy tức giận, quyết ra tay hành động.
      – Con đến hỏi thẳng bố cho mà xem.
      – Mẹ mong sao con làm thế, - Mẹ đáp, cảm thấy giọng bà có vẻ van lơn. - Bố con gặp nhiều khó khăn lắm rồi. Con biết bố con rất nước .Gặp hoàn cảnh khác, chắc thế nào bố con cũng điện thoại đến cho Bộ trưởng Chiến tranh để xin nhiệm sở .Cho nên tình trạng bây giờ khiến ông khổ đau vô cùng – Còn tình trạng của con sao?
      – Tình trạng của con giống thế. Con còn trẻ, con còn có cả cuộc đời trước mắt. Còn đối với bố con, hết hy vọng rồi.
      – Chuyện ông theo phát xít phải lỗi của con, - đột nhiên Margaret lên tiếng .
      Mẹ đứng dậy.
      – Mẹ hy vọng con thông cảm cho bố mẹ, - bà dịu dàng rồi bước ra ngoài.
      Margaret cảm thấy vừa có tội lại vừa tức giận. quá bất công: bố coi thường ý kiến của từ khi đến tuổi hiểu biết, rồi bây giờ ông gặp cảnh khó khăn tồi tệ, ông lại cầu có lòng thương cảm.
      thở dài, mẹ đẹp, kỳ quặc và thiếu hiểu biết. Bà sinh ra trong gia đình giàu có và cương quyết. Những hành động kỳ quặc của bà là kết quả của ý chí cương quyết, thiếu giáo dục dìu dắt: bà bám chặt vào những ý tưởng điên cuồng, vì bà có phương tiện để phân biệt được cái gì có ý nghĩa với cái gì vô nghĩa, phi lý. Vì thiếu hiểu biết, nên bà chọn con đường ỷ lại vào đàn ông, để cho đàn ông sai khiến: bà đám đứng lên chống lại chồng, cho nên phương pháp duy nhất để bà thoát khởi cai quản của chồng là làm ra vẻ mình biết, thấy bất công đó Margaret thương mẹ, chấp nhận những hành động kỳ dị đó của mẹ với tình thương bao dung; nhưng quyết sống cuộc sống như bà, mặc dù hai mẹ con rất giống nhau về thể chất. Nếu những người khác chịu dạy dỗ cho tự học vậy; và thích thà sống độc thân cho đến già còn hơn lấy con heo cứ tưởng mình có quyền sai khiến , ra lệnh đủ thứ như ra lệnh cho người giúp việc.
      Suốt cả ngày thứ hai, cảm thấy thể ăn gì được. uống rất nhiều nước trong khi gia nhân bận bịu đóng cửa nhà. Sang ngày thứ ba, khi mẹ nhận ra chịu chuẩn bị hành lý, bà liền sai chị giúp việc mới, chị Jenkins biết sắp thứ gì vào va li, cho nên Margaret phải giúp chị ta tay. Cuối cùng công việc xong xuôi tốt đẹp như lòng mong muốn của mẹ y như bao lần trước.
      Margaret với chị giúp việc:
      – Chị may, mới vào làm được tuần, chúng tôi phải đóng cửa để ra .
      Jenkins đáp:
      – Ồ thưa , bây giờ thiếu việc làm. Bố tôi thời buổi chiến tranh có ai thất nghiệp hết.
      – Có phải chị xin làm trong nhà máy.
      – Tôi tòng quân. Người ta tuyên bố đài phát thanh rằng hôm qua có ngàn phụ nữ tòng quân vào đội Nữ quân nhân để làm ở các cơ quan hậu cần.Thành phố nào cũng có phụ nữ đến xếp hàng xin đầu quân ở các tòa thị chính, tôi thấy báo đăng ảnh cảnh tượng này.
      – Thế là chị may mắn rồi. - Margaret buồn rầu . - Tôi sắp xếp hàng để lên thủy phi cơ Mỹ.
      phải làm theo lệnh của ngài hầu tước, - Jenkins đáp.
      – Bố chị nghĩ sao về việc chị đầu quân?
      – Tôi cho ông biết, tôi tự ý đầu quân.
      – Nhưng nếu ông ấy buộc chị phải về nhà sao?
      – Ông buộc được. Tôi 18 tuổi rồi. Ngay khi mình ký vào giấy tờ, là xong hết. Với điều kiện là mình đủ tuổi cha mẹ làm gì được.
      Margaret sửng sốt kinh ngạc.
      – Chị có chắc thế ?
      – Chắc chứ. Mọi người đều biết thế cả.
      – Tôi , - Margaret , vẻ trầm ngâm.
      Jenkins đem va li của Margaret xuống tiền sảnh. Họ phải rất sớm vào sáng thứ tư. Nhìn hành lý để đống nền nhà, Margaret nghĩ đến chuyện lánh chiến tranh ở Counecticut, nếu ngoan ngoãn nghe theo lời bố . Mặc dù mẹ tha thiết cấu giữ yên lặng, nhưng phải đương đầu với bố mới được.
      Tuy nhiên, khi nghĩ đến chuyện này, lại thấy lo sợ. trở về phòng để lấy lại can đảm và suy nghĩ phải những gì. Trước hết, điều quan trọng là phải giữ bình tĩnh. Đừng ủy mị khóc lóc, và giận dữ chỉ càng làm cho ông khinh bỉ thôi. phải tỏ ra mình có lý có trách nhiệm và chín chắn. đừng tranh cãi, vì tranh cãi chỉ làm cho ông tức bực, và do đó thể tiến xa hơn được.
      Phải bắt đầu như thế nào? “Con nghĩ con có quyền bàn đến việc có liên quan đến tương lai của con”.
      được, thế xong. Ông trả lời:
      “Bố có trách nhiệm về tương lai của con, cho nên chính ba mới là người quyết định”.
      Có lẽ phải :
      “Con xin được bàn thảo với bố về việc Mỹ của chúng ta ?”.
      Thế nào ông cũng trả lời:
      có bàn thảo gì hết”.
      phải bắt đầu sao cho hòa nhã để ông thể đuổi khéo . định hỏi:
      “Con xin phép hỏi bố chuyện này được ” Nghe thế, thế nào ông cũng trà lời “được”, Rồi sau đó gì? Làm sao nêu vấn đề mà khiến ông nổi trận lôi đình? có thể :
      “trong cuộc chiến tranh vừa qua, bố ở trong quân đội phải ”“ biết ông bị thương ở Pháp. Thế rồi tiếp:
      “Còn mẹ?” biết câu trả lời ra sao:
      “Mẹ là nữ y tá tình nguyện đến Luân Đôn để chăm sóc các sĩ quan Mỹ bị thương”. Cuối cùng :
      “Cả bố và mẹ đều phục vụ Tổ quốc, cho nên con nghĩ chắc bố mẹ đều thông cảm cho con, bằng lòng để cho con được làm công việc như thế” Chắc là có ai chống đối lại lời cầu của .
      Giá mà ông nhượng bộ ý kiến này, nghĩ vượt qua những khó khăn khác cách dễ dàng. đến ở nhờ nhà bà con cho đến khi đầu quân, việc này có lẽ chỉ trong vài ngày là xong. 19 tuổi rồi, rất nhiều bằng tuổi làm việc đủ giờ từ sáu năm rồi. đủ lớn để lấy chồng, lái xe và ở tù có lý do gì để người ta cho phép ở lại quốc hết.
      Phải có phong thái chững chạc, cương quyết mới được. Tất cả những gì bây giờ cần phải có là can đảm Chắc bố ở trong phòng làm việc với người hợp tác làm ăn. Margaret ra khỏi phòng. Đến bậc thềm đầu cầu thang, bỗng cảm thấy mình run sợ. Bố thường nổi nóng mỗi khi người nào chống lại ông. Những cơn thịnh nộ của ông rất khủng khiếp và hình phạt của ông rất độc ác. Năm 11 tuổi ông bắt quay mặt đứng vào tường trong phòng làm việc của ông suốt ngày vì tội tỏ ra cục cằn với người khách; năm 7 tuổi, ông tịch thu con gấu lông của vì tội làm ướt giường ngủ. hôm, trong cơn thịnh nộ, ông ném con mèo qua cửa sổ từ tầng hai xuống; bây giờ nếu cho ông biết muốn ở lại nước để chiến đấu chống bọn Quốc xã Đức, liệu ông làm gì,”.
      Margaret miễn cưỡng xuống thang lầu và trong khi lo sợ đứng đợi trước cửa phòng làm việc của bố, bà quản lý chợt qua hành lang trước cửa phòng, bà ta mặc chiếc áo dài bằng lụa đen. Bà Allen điều khiển những gia nhân nữ trong nhà rất nghiêm khắc nhưng đối với trẻ em, bà thường rất khoan dung.
      gắn bó với gia đình rất thắm thiết, cho nên khi thấy gia đình ra , bà rất hoang mang, vì bà phải chấm dứt lối sống bà sống bấy lâu nay. Bà nhìn Margaret, buồn bã cười với .
      Thấy bà ta, bỗng trong óc Margaret nảy ra ý mới khiến cho lòng thắt lại.
      kế hoạch trốn thoát thành hình trong óc . mượn tiền của bà Allen, bỏ nhà ra ngay bây giờ, đáp chuyến tàu 16 giờ 55 Luân Đôn, ngủ lại đêm tại nhà bà chị họ Catherule, rồi sáng sớm mai đăng ký gia nhập lực lượng phục vụ hậu cần. Lúc bố tìm ra , mọi việc muộn rồi.
      Kế hoạch quá đơn giản và quá táo bạo đến nỗi khó tin thực thành công. Nhưng, trước khi suy nghĩ thấu đáo, bỗng buột miệng hỏi bà quản gia:
      – Bà Allen này, bà cho tôi mượn ít tiền được ? Tôi có ít đồ đạc cần mua vào giờ chót nhưng tôi muốn quấy rầy ba tôi, ông bận khách.
      Bà Allen mau mắn hỏi ngay:
      – Được chứ, thưa . cần bao nhiêu?
      Margaret biết giá vé tàu Luân Đôn bao nhiêu, chưa bao giờ mua vé. bèn trả lời đại:
      – Ồ, tôi mượn bảng là đủ rồi. - nghĩ: có phải mình thực Chương trình bỏ trốn đây ?
      Bà Allen lấy trong ví ra hai tờ giấy bạc 10 si linh. Nếu Margaret hỏi bà ta về số tiền này, chắc có lẽ bà ta với rằng đây là số tiền bà chắt chiu dành dụm cả dời. Margaret đưa tay run run cầm lấy tiền. tự nhủ:
      có thể đây là số tiền giúp ta tìm được tự do. Và mặc dù bàng hoàng lo sợ, nhưng cũng cảm thấy niềm vui lâng lâng tràn ngập trong lòng.
      Bà Allen lại cứ tưởng bồi hồi xúc động vì sắp di cư, bà nắm tay bóp mạnh và :
      Margaret. Hôm nay ngày buồn. Ngày buồn cho tất cả chúng ta. - Bà lắc đầu, mái tóc hoa râm, thái độ rầu rĩ, rồi bà ra phía sau nhà.
      Margaret đưa mắt nhìn quanh, lòng bồi hồi lo sợ, có ai thấy hết. Tim đập nhanh, hơi thở hổn hển. nghĩ, nếu ngần ngừ, thế nào cũng mất hết can đảm. kịp mặc áo măng tô nữa, tay nắm chặt hai tờ giấy bạc, bước ra cửa trước.
      Đường đến ga xe lửa dài ba cây số, nằm ở ngôi làng kế cận. đường, cứ lo sợ nghe tiếng xe Rolls Royce của bố đuổi theo bắt lại. Nhưng làm sao ông biết được? Có lẽ ai để ý đến vắng mặt của , ít ra cũng trước giờ ăn tối; và nếu người nhà có để ý đến việc vắng mặt, chắc người ta nghĩ là mua ít đồ dùng lặt vặt, như với bà Anen.
      đến nhà ga còn sớm, mua vé xong - số tiền còn lại khá nhiều - ngồi ở phòng đợi phụ nữ, nhìn kim đồng hồ tường, hồi hộp chờ đợi từng giây từng phút.
      Tàu đến trễ.
      l6 giờ 55, rồi 17 giờ 05. Margaret quá hồi hộp đến nỗi có ý định bỏ về để khỏi phải căng thẳng như thế này.
      Tàu đến lúc 17 giờ 14 và thấy bố đến.
      Margaret lên tàu, lòng thắt lại.
      đến đứng bên cửa sổ, đưa mắt nhìn ra cổng vào sợ bố đến vào giờ chót.
      Cuối cùng thu chuyển bánh.
      tin được mình ra .
      Tàu chạy nhanh. run run, nhưng lần này run vì sung sướng, Mấy phút sau, tàu ra khỏi ga. Margaret nhìn ngôi làng xa dần và cảm giác chiến thắng tràn ngập lòng . làm nên được kỳ tích này: chạy trốn được!
      Bỗng cảm thấy mỏi chân. đưa mắt nhìn quanh để tìm chỗ ngồi và lần đầu tiên thấy tàu đầy cả người. Chỗ nào cũng có người ngồi, ngay cả trong toa hạng nhất này; có nhiều người lính ngồi bệt dưới sàn . phải đứng.
      Niềm vui vẫn giảm sút, mặc dù chuyến có nhiều biểu như cơn ác mộng. Đến trạm dừng nào cũng có người lên tàu thêm, họ chen chúc nhau các toa. Trước khi trời tối, tàu dừng lại để người ta tháo hết các bóng đèn trong toa, vì có lệnh tắt hết đèn đuốc, cho nên sau khi trời tối tàu chạy trong bóng đêm, chỉ thỉnh thoảng mới có ánh đèn pin của người kiểm soát rọi sáng ngoài hành lang tàu. Khi Margaret thể nào đứng được nữa, ngồi bệt xuống sàn tàu. nghĩ, ngồi như thế này cũng chẳng có gì quan trọng nữa. Áo dơ, nhưng ngày mai có đồng phục để mặc rồi. Tất cả đều khác trước, đất nước trong tình trạng chiến tranh.
      Margaret phân vân biết bố biết đáp tàu Luân Đôn , và biết ông có lái xe đến đấy để chặn lại ở ga Pađington . Có thể mà cũng có thể có, cho nên khi tàu vào ga, lòng thắt lại vì lo âu Thế nhưng, khi xuống tàu có ông ở đấy, nên cảm thấy mừng rỡ đến run cả người vì thành công. Rốt lại, ông phải là người toàn năng! lần mò trong bóng tối ở sân ga để tìm taxi. Chiếc xe đưa đến Bayswater, người tài xế dùng đèn pin để rọi đường cho đến tòa nhà chung cư nơi có Catherine ở.
      Người ta che kín tất cả các cửa sổ, nhưng ở phòng tiếp tân có đèn sáng.
      Người bảo vệ đóng cửa phòng để ngủ - bây giờ quá nửa đêm rồi - nhưng Margaret biết căn hộ của Catherine ở đâu. leo lên lầu và bấm chuông.
      có tiếng trả lời.
      Lòng thắt lại.
      lại bấm chuông, nhưng nghĩ chỉ vô ích thôi, căn hộ mà tiếng chuông reo ồn. có Catherine rồi.
      nhận ra việc có chị ấy ở đây là điều đáng ngạc nhiên.
      Catherine ở với cha mẹ ở quận Kent, chị chỉ dùng căn phòng này làm chỗ nghỉ chân. Dĩ nhiên bây giờ cuộc sống xô bồ ở Luân Đôn dừng lại, cho nên Catherine có lý do gì có mặt ở đây. Margaret đáng ra phải nghĩ đến điều này.
      thất vọng nhưng nao núng. tưởng tượng ra cảnh ngồi uống ca cao với Catherine và chia sẻ mềm vui với chị về chuyến phiêu lưu vĩ đại này.
      Bây giờ phải làm gì nhỉ? có nhiều bà con ở Luân Đôn, nhưng nếu đến tìm họ, thế nào họ cũng điện thoại báo cho bố biết. Chỉ có Catherine là người tâm đầu ý hiệp với , còn những người khác, thể tin tưởng được.
      Rồi nhớ nhà bà Martha có điện thoại. Thực vậy đây là bà cục cằn, sống độc thân, tuổi chừng 70. Bà ở cách đây khoảng hơn cây số. Giờ này chắc bà ngủ, và chắc bà nổi giận khi bị thức dậy, nhưng có cách nào khác hơn. Điều quan trọng là bà có phương tiện gì để báo cho bố biết có mặt ở đây.
      Margaret bước xuống cầu thang, ra ngoài đường trời tối đen kịt.
      Cảnh cả thành phố tắt đèn trong rùng rợn khủng khiếp. dừng lại trước cửa, căng mắt nhìn quanh, nhưng chẳng thấy gì hết. Cảnh tượng này gây cho cảm giác kỳ lạ, như thể bị xây xẩm mặt mày.
      nhắm mắt để mường tượng cảnh trí quen thuộc đường. Về phía tay trái, ở góc đường, có ngôi nhà thờ , dưới mái che trước nhà thờ luôn luôn có đèn sáng. Dọc theo vỉa hè có, dãy đèn đường, mỗi ngọn như thể tỏa ra vùng ánh sáng , và đường, đèn xe đò, xe tắc xi và xe hơi thường chiếu sáng.
      mở mắt ra và thấy gì hết.
      là hoang mang khó xử. Bỗng tưởng tượng ra cảnh chung quanh có gì hết: đường sá biến mất và ở trong trạng thái bất định, rơi vào khoảng . Tự nhiên cảm thấy buồn nôn, rồi cố trấn tĩnh lại, cố suy nghĩ ra con đường để đến nhà bà Martha.
      tự nhủ: “Từ đây ta theo phía tay phải, đến ngã tư thứ hai rẽ trái và nhà bà Martha nằm ở cuối dãy nhà ở đường ấy. Việc tìm ra nhà bà khó ngay cả lúc trời tối như thế này.”
      Giá mà có cái gì ra để giúp mình nhỉ, nghĩ, như có chiếc xe tắc xi rọi sáng đường , có ánh trăng, hay có người cảnh sát nào tốt bụng chẳng hạn. lát sau, ước nguyện của được đáp ứng, chiếc xe hơi từ từ chạy tới, hai ngọn đèn phía trước như hai con mắt mèo nhìn trong bóng đêm dày đặc, rồi bỗng trông thấy hè phố chạy đài đến tận góc đường bắt đầu bước .
      Chiếc xe hơi vượt qua, hai ngọn đèn sau xe dần tước mặt . Margaret ước chừng còn cách góc đường khoảng ba hay bốn bước gì nữa, bỗng vấp chân hè phố. băng qua đường và tìm ra vệ đường bên kia cách suôn sẻ. Việc này khiến phấn khởi, vững bụng tiếp.
      Bỗng có cái gì cứng ngắc va mạnh vào mặt đau điếng.
      rên lên tiếng đau đớn và sợ hãi. hốt hoảng muốn chạy tháo lui.
      Nhưng lấy hết can đảm để giữ cho mình bình tĩnh. đưa tay lên sờ vào chỗ đau má. Chuyện gì xảy ra như thế này” Có cái gì lề đường va vào mặt phải đưa tay sờ soạng mò mẫn, đụng phải cái gì đấy khiến thụt lùi, sợ hãi, rồi nghiến răng, đưa tay sờ lại. Tay chạm phải cái gì lạnh cứng và tròn, như cái đĩa kem khổng lồ lơ lửng . mò mẫn sờ tiếp, nhận ra cái gì đó tròn tròn có lỗ hình chữ nhật và bên có mái che. liền hiểu, ra va phải cái thùng thư.
      thận trọng tránh qua bên và tiếp, hai tay đưa ra phía trước.
      lát sau, vấp phải vỉa hè khác. Khi lấy lại thăng bằng, thấy lòng nhõm, đến con đường của bà Martha. rê qua phía trái.
      Bỗng nghĩ đến chuyện có thể bà Martha nghe chuông reo. Bà ấy sống mình, có ai ra mở cửa. Nếu thế, Margaret chắc phải quay về chung cư của Catherine và ngủ ngoài hành lang. có thể ngủ dưới đất, nhưng ngán đoạn đường trở về trong cảnh tối thui tối mò như thế này. Có lẽ nên nép mình vào bên cửa nhà bà Martha để đợi ngày sáng thôi.
      Ngôi nhà của bà Martha ở cuối dãy nhà đường này. Margaret thủng thỉnh . Thành phố chìm trong bóng tối, nhưng chìm trong im lặng.
      Thỉnh thoảng nghe tiếng xe từ xa vọng lại. Chó sủa khi qua nhà chúng, và hai con mèo kêu meo meo kéo dài, chốc chốc có tiếng nhạc vẳng đến tai , thanh vui tai trong đêm trùng. Xa hơn chút, nghe có tiếng rúc rích của cặp vợ chồng sau tấm màn che ánh sáng. muốn được ở trong ngôi nhà có đèn sáng, có lò sưởi cháy và có bình trà nóng.
      Margaret nhớ dãy nhà đâu có xa như thế này. Nhưng thể làm gì được, rẽ trái ở ngã tư thứ hai mà. Tuy nhiên, ý nghĩ bị lạc đường càng lúc càng chắc chắn. mất hết ý niệm về thời gian, 5 phút, 20 phút, hai giờ, cả đêm ư. Thình lình nhận ra có nhà gần bên nữa. Có lẽ ở giữa công viên Hyde Park, có lẽ vô tình vào công viên mà hay biết. có cảm giác như bầy thú bao quanh , giương đôi mắt sáng quắc rình , đợi trượt chân là nhảy đến vồ lấy. định hét lên, nhưng vội lấy tay bịt miệng để khỏi thốt ra lời.
      Margaret cố giữ tinh thần hưng phấn và chiến thắng như khi ngồi xe lửa, nhưng được, tinh thần ấy biến mất, chỉ còn lại nổi đơn và lo sợ. định dừng lại, nhúc nhích. Chắc đến được nhà bà rồi.
      đứng bất động hồi lâu, biết xoay xở ra sao. tự nhủ, chắc cứ đứng yên như thế cho đến khi ngã quỵ hay là cho đến khi trời sáng.
      Trong khi ấy, chiếc xe hơi xuất . Đèn xe được sơn che nửa, nên ánh sáng chiếu ra nhiều lắm, nhưng so với bóng tối dày đặc như đoạn đường vừa qua, có cảm giác như trời ban ngày. nhận thấy mình ở giữa đường, vội nhanh chân chạy lên lề đường. nơi chỉ nhớ ra mang máng mà thôi. Chiếc xe vụt qua, rẽ vào ngã tư, Margaret vội theo hướng chiếc xe chạy, hy vọng tìm thấy điểm nào quen thuộc để xác định được mình ở nơi nào. Đến ngã tư, thấy chiếc xe ở cuối con đường hẹp có nhiều cửa tiệm ở hai bên, trong số này có tiệm bán khăn mũ phụ nữ mà mẹ thường đến mua; nhận ra chỉ còn cách khu Marble Arch có vài mét thôi.
      mừng đến phát khóc.
      Đến ngã tư tiếp theo, đợi có chiếc xe khác nữa chạy ngang qua để thấy được đường ; rồi vào khu Mayfaứ.
      Mấy phút sau, đến khách sạn Clandge. Dĩ nhiên cả khách sạn chìm trong bóng tối, nhưng nhận ra được cửa và phân vân biết có nên vào .
      biết đủ tiền để thuê phòng, nhưng nhớ là nhiều người vào ở khách sạn chỉ khi ra mới thanh toán tiền bạc. có thể thuê phòng để ở hai đêm, ngày mai cứ ra như thể lát nữa tìm về, đăng ký vào lực lượng phục vụ hậu cần, rồi điện thoại đến khách sạn với họ gởi phiếu thanh toán đến cho luật sư của bố.
      Như hầu hết các tòa nhà mở cửa ban đêm, lối vào khách sạn là loại cửa hai lớp, trông như có phòng ở giữa hai lớp cửa, để khi có người vào ra, ở ngoài đường người ta thấy được ánh sáng ở bên trong. Margaret đóng cánh cửa ngoài, rồi đến đẩy cánh cửa trong và vào tiền sảnh khách sạn sáng sủa vui tươi. để lộ vẻ khoan khoái ra mặt. thấy lại cuộc sống bình thường, cơn ác mộng chấm dứt.
      thanh niên trực đêm ngủ gà ngủ gật sau quầy.
      Margaret đằng hắng lên tiếng, ta giật mình tỉnh dậy, vẻ ngơ ngác. :
      – Tôi cần phòng ngủ.
      – Cần vào giờ này à? - ta ấp úng hỏi.
      – Tôi bị kẹt trong đêm tối, về nhà được.
      ta định thần lại được bèn hỏi:
      có hành lý à?
      . - Margaret đáp, giọng nghe như có lỗi; nhưng rồi chợt nghĩ ra ý mới, bèn tiếp – Tôi ngờ bị lạc đường.
      ta nhìn với vẻ hơi kỳ lạ. Nhưng chắc ta từ chối, Margaret nghĩ. ta nuốt nước bọt, vuốt mặt rồi làm ra vẻ như kiểm tra lại sổ đăng ký.
      ta xem cái gì thế. Bỗng ta gấp sổ lại cách dứt khoát và đáp:
      – Khách sạn hết phòng rồi.
      – Ồ, chắc còn phòng ...
      – Có phải gây lộn với cha mẹ ở nhà ? - ta nheo mắt hỏi.
      Margaret tin được tai mình.
      – Tôi thể về nhà được, - lặp lại, vì chắc hồi nãy ta nghe lời .
      – Tôi thể làm gì được, - ta đáp. Rồi bỗng lấy giọng khôi hài, ta tiếp:
      – Do lỗi của Hitler hết.
      – Ông giám đốc khách sạn ở đâu? - hỏi.
      ta có vẻ phật ý.
      – Tôi chịu trách nhiệm cho đến 6 giờ.
      Margaret nhìn quanh rồi bằng giọng chán nản, :
      – Thế tôi chỉ còn nước ngồi nhờ ở hành lang cho đến sáng thôi. . . . .
      thể ngồi đây được đâu! – chàng trực đêm hất hoảng thốt lên. , có hành lý ngồi đêm ở hành lang khách sạn à? Để ngồi là tôi mất việc liền.
      – Tôi phải là con tầm thường, - giận dữ . - Tôi là Tiểu thư Margalet Oxenford. - kinh hoàng khi nghe mình dùng đến tước vị, nhưng vì quá thất vọng.
      Thế mà vẫn có hiệu quả gì. chàng nhân viên khách sạn nhìn với ánh mắt xấc xược rồi hỏi:
      – A, thế sao?
      Margaret định mắng cho ta trận, bỗng thấy bóng mình ra trong kính cửa, mặt sưng cục gần bên con mắt bầm đen. Thêm vào đó, hai tay dơ bẩn và chiếc áo dài bị rách. nhớ va mạnh thùng thư ngoài đường, và khi tàu, ngồi bệt xuống sàn toa. Thảo nào mà chàng trực khách sạn này cho thuê phòng. với ta bằng giọng thất vọng: – Nhưng lẽ nào nỡ đuổi tôi ra ngoài trời đêm tối như thế này!
      – Tôi làm gì khác hơn được! - ta đáp.
      Margaret tự hỏi, nếu cứ ngồi lỳ xuống đây, chịu ta làm gì. muốn làm như thế. Nhưng đau đớn nghĩ rằng đủ nghị lực để tranh chấp với ta. Vả lại đêm khuya mà chỉ có hai người với nhau: Trời mới biết chuyện gì xảy ra nếu ta có ý đồ làm bậy.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chán nản, đành quay lưng, bỏ ra ngoài trời đêm.
      biết đâu. Chắc tìm ra được chung cư nơi Catherine ở, cũng thể tìm ra được nhà bà Martha; có bà con nào đáng tin cậy, và quá dơ dáy làm sao thuê phòng khách sạn được. chỉ còn nước lang thang cho đến khi trời sáng Thời tiết tốt, trời mưa và hơi lạnh. Nếu cứ , thấy lạnh nữa. Bây giờ thấy có nhiều ánh đèn sáng ở khu West End, và chốc chốc lại có chiếc xe hơi chạy qua. nghe có tiếng nhạc và tiếng người huyên náo trong các hộp đêm vọng ra, nơi mà thỉnh thoảng lại có những người thuộc tầng lớp như cố ra, phụ nữ mặc áo dạ hội lộng lẫy và đàn ông y phục chỉnh tề, họ có xe hơi đến đón về sau đêm vui chơi đến khuya. ngạc nhiên khi thấy con đường có ba phụ nữ đơn độc: đứng ngưỡng cửa ngôi nhà, khác đứng tựa vào cột đèn đường và thứ ba ngồi trong chiếc xe hơi. Tất cả đều hút thuốc và có vẻ như đợi ai. tự hỏi biết có phải đấy là những người đàn bà mà mẹ thường gọi là phụ nữ sa đọa .
      bắt đầu cảm thấy mệt mỏi. Khi trốn khỏi nhà, vẫn mang chân đôi giày trong nhà, nên bây giờ chân đau buốt. e ngại gì hết, ngồi bệt xuống thềm ngơi nhà, tháo giày ra và thoa hai bàn chân đau.
      Ngước mắt nhìn, thấy lờ mờ ra hình dáng nhà cửa ở phía bên kia đường. Trời sắp sáng rồi sao? sắp tìm được quán cà phê bình dân mở cửa sớm phải ? Chắc phải ăn sáng rồi mới đến phòng tuyển mộ. hai ngày ăn gì, nên bây giờ nghĩ đến trứng áp chảo với thịt ba chỉ chảy nước miếng.
      Bỗng thấy ra trước mặt khuôn mặt trắng. thốt lên nho trong miệng và lo sợ. Khuôn mặt đến gần và nhận ra đấy là thanh niên mặc áo quần dạ hội. ta cất tiếng chào:
      – Chào người đẹp.
      vội đứng dậy. rất sợ những người say. Họ thiếu tư cách. đáp lời :
      – Xin ông khỏi cho. - cố bằng giọng chững chạc, nhưng giọng thốt ra run run.
      ngập ngừng bước đến gần.
      – Nào, cho cái hôn .
      được! - cương quyết đáp.
      bước lui, trượt chân để rơi giày xuống đường. hiểu tại sao khi mất giày cảm thấy hết sức yếu đuối. bèn quay lại, mò mẫn tìm giày. cười khà, rồi bỗng hoảng hồn khi cảm thấy tay sờ vào đùi chân , vuốt ve thô bạo. Lập tức vùng đứng dậy, mặc dù tìm ra giày, vẫn bỏ chạy rồi quay về phía , hét lớn: – Hãy để cho tôi yên!
      lại cười và :
      – Được đấy, thích kháng cự chút như thế đấy.
      Bỗng nhanh như cắt tóm lấy hai vai rồi kéo vào người . Hơi thở nồng nặc mùi rượu, và thình lình hôn lên môi .
      hết sức đau lòng, cảm thấy muốn nôn mửa, nhưng gã đàn ông ôm quá chặt đến nỗi hụt hơi, khó chống cự lại được. vùng vằng cách khó khăn trong khi ôm riết vào lòng. Bỗng thả vai và đưa tay bóp vú . bóp mạnh đến nổi phải thét lên vì đau đớn. Nhưng vì thả vai ra, nên quay được nửa người và cất tiếng hét lên.
      Tiếng hét dài, chói tai. nghe loang loáng bên tai giọng có vẻ ái ngại của :
      – Này, này, đừng làm thế, muốn hại em đâu.
      Nhưng quá hốt hoảng, nghe phải trái gì nữa, mà cứ la tiếp. Nhiều khuôn mặt xuất trong bóng đêm: người mặc áo quần công nhân qua, phụ nữ sa đọa ngậm thuốc lá miệng cầm ví tay, và bóng người ra cửa sổ của ngôi nhà phía sau họ. Gã say rượu biến mất, Margaret la nữa và khóc nức nở. Rồi có tiếng giày da nện thình thịch đường, ánh đèn pin rọi sáng quanh thấy chiếc mũ cảnh sát ra.
      Người cảnh sát rọi đèn pin vào mặt Margaret.
      Người phụ nữ :
      phải người của bọn tôi Steve à.
      Người cảnh sát có tên Steve hỏi :
      tên gì, bé?
      – Margaret Oxenford.
      Người mặc áo công nhân :
      chàng quí tộc ngỡ ta là điếm. – cười rồi bỏ .
      có phải là tiểu thư Margaret Oxenford ?
      Người cảnh sát hỏi.
      Margaret hít vào hơi, vừa gật đầu.
      – Tôi với ông ta phải giới của chúng tôi mà, - chị đàn bà .
      xong chị ta hít hơi thuốc lá, gãy cho tàn thuốc rót xuống, dẫm lên rồi bỏ .
      Người cảnh sát :
      – Bây giờ theo tôi, mọi việc ổn thỏa hết.
      Margaret lấy cánh tay lau mặt. Người cảnh sát đua cánh tay cho , vịn vào. Ông ta rọi đèn pin vỉa hè trước mặt, hai người cùng . được lát, Margaret rùng mình :
      – Người đâu quá khủng khiếp!
      Người cảnh sát có vẻ động lòng thương xót, ông vui vẻ :
      nên trách ta. Đây là con đường nổi tiếng là bết nhất ở Luân Đôn. Phụ nữ ban đêm mình ở đây, ai cũng ngỡ là điếm hết.
      Margaret nghĩ hẳn ông ta có lý, mặc dù đối với việc này rất bất công.
      Ánh đèn xanh của đồn cảnh sát ra trong bầu ánh sáng của rạng Đông.
      Người cảnh sát :
      vào uống tách trà là người khỏe ngay.
      Họ vào đồn. Sau cái bàn dài có hai người cảnh sát ngồi, người lùn mập tuổi trung niên, còn người kia trẻ và mảnh khảnh. Hai bên cửa vào, mỗi bên kê cái ghế dài bằng gỗ Bát tường. chiếc ghế, người đàn bà ngồi đợi, mặt chị ta xanh xao, tóc buộc lại bởi chiếc khăn và hai chân dép vẻ nhẫn nhục, bơ phờ.
      Người cứu Margaret chỉ vào chiếc ghế kia và với :
      ngồi đấy đợi lát.
      Margaret làm theo lời người cảnh sát. Ông ta đến bên chiếc bàn dài, với người đứng tuổi:
      – Thưa trung sĩ, ấy là tiểu thư Margaret Oxenford. ta gặp chuyện rắc rối với gã say rượu ở khu BoltingLane.
      – Chắc tưởng ta là đứng đường.
      Margaret ngạc nhiên vì có nhiều uyển ngữ để chỉ đĩ. Người ta có vẻ kinh hoàng khi gọi đĩ, nên họ thường hay gọi những tên khác cho hơn. Trước đây ít khi nghe những từ như thế này, chỉ đêm nay mới nghe được.
      Nhưng hành động của gã đàn ông mặc dạ phục ràng là quá hiển nhiên chứ còn úp mở gì nữa.
      Ông trung sĩ chú ý nhìn Margaret, rồi gì đấy với Steve mà nghe . Steve gật đầu vâng lời rồi biến mất vào phía sau.
      Margaret nhận ra mình để mất giày ở thềm nhà đằng ấy rồi, nơi ngồi hồi nãy. Vớ của bây giờ thủng nhiều lỗ. thấy lo lắng vô cùng, với tình trạng như thế này làm sao đến trung tâm tuyển mộ cho được? Có lẽ chờ khi trời sáng, phải quay lại đấy để tìm giày. Nhưng chắc gì giày còn ở đấy. Rồi còn phải rửa ráy sạch và kiếm cái áo dài sạch khác nữa chứ. Sau bao nhiêu cố gắng gian khổ như thế này mà được tuyển chọn vào lực lượng hậu cần, quá thất vọng. Nhưng biết đâu để chuẩn bị đây. Sáng mai, ngay cả tại nhà Martha chắc gì bảo đảm, có thể bố đến tìm ở đấy lắm. Tuy nhiên, lo lắng tự hỏi, chắc kế hoạch của hỏng bét vì đôi giày?
      Người cảnh sát cứu trở ra, mang cho ly trà lớn. Màu nước trà nhợt nhạt và quá ngọt, nhưng Margaret vẫn hớp từng ngụm với vẻ biết ơn.
      Nước trà làm cho thêm quyết chí. vượt qua tất cả trở ngại khó khăn.
      Khi uống trà xong, ra . đến khu bình dân để tìm cửa hàng bán áo quần rẻ: còn mấy si linh. mua cái áo dài, đôi dép và đồ lót. vào phòng tắm để rửa ráy và thay áo quần. quyết chí đầu quân cho được.
      Trong khi suy nghĩ kế hoạch hành động, bỗng có tiếng ồn ào trước cửa đồn, rồi toán thanh niên ùa vào đồn cảnh sát. Họ ăn mặc áo quần đẹp đẽ người áo quần dạ hội, kẻ lại com lê vét tông. Rồi thấy họ lôi kéo người trong nhóm, và này cố vùng vẫy để thoát ra. người đến gặp ông trung sĩ ngồi sau bàn dài, thái độ hung hăng.
      Ông trung sĩ ngăn ta lại.
      – Thôi thôi, hãy bình tĩnh! - Ông ta lớn với giọng ra lệnh. - Các phải sân bóng bầu dục, mà đây là đồn cảnh sát. - Tiếng ồn giảm bớt, nhưng ông trung sĩ vẫn chưa thấy vừa ý, ông tiếp:
      – Nếu các giữ trật tự, tôi tống giam hết. Bây giờ các có chịu im mồm hết ?
      Tất cả đều im lặng, họ thả người tù ra, để cho ta đứng yên chỗ, vẻ thảm não. Người trung sĩ chỉ thanh niên có mái tóc màu nâu, tuổi chừng bằng tuổi của Margaret.
      – Tốt ... bây giờ hãy cho tôi biết chuyện gì xảy ra.
      ta đưa tay chỉ tù nhân và :
      – Người này dẫn em tôi đến nhà hàng ăn uống, rồi chuồn mất mà trả tiền! - Giọng ta tức tối. Cách năng của ta cho thấy là người thuộc giai cấp thượng lưu và Margaret nhận ra khuôn mặt ta có vẻ quen quen. mong sao ta nhận ra . Nếu ta biết bị cảnh sát tóm lại được sau khi bỏ nhà ra , nhục nhã biết bao!
      chàng trai trẻ hơn mặc bộ áo quần có sọc nới thêm:
      tên là Harry Marks, phải vào tù.
      Margaret lấy làm lạ, đưa mắt nhìn kỹ Harry Marks. ta rất đẹp trai, tuổi khoảng 22 hay 23, có mái tóc vàng và dáng dấp hài hòa đều đặn. Mặc dù áo quần của ta có phần xốc xếch, nhưng bộ áo quần người rất sang, cài nút chéo, trông rất lịch ta nhìn quanh, ánh mắt khinh bỉ rồi lên tiếng : – Những người này đều say hết.
      Người thanh niên mặc bộ đồ có sọc đáp lại:
      – Có lẽ chúng tôi say, nhưng thằng vô lại. và là thằng ăn trộm.
      Ông hãy nhìn những thứ mà chúng tôi tìm thấy trong túi của . - ta ném cái gì đấy lên mặt bàn. - ăn cắp cặp nút tay áo này vào đầu hôm tại nhà ngài Simon Monkford.
      – Được rồi, - ông trung sĩ - các buộc tội ta là lưu manh - bằng cách trả tiền cho nhà hàng - và tội ăn trộm. Có gì nữa ”.
      Cậu thanh niên mặc bộ đồ có sọc cười ngạo mạn và :
      – Như thế chưa đủ cho ông hay sao?
      Ông trung sĩ chỉ cây bút chì vào mặt ta:
      – Này cậu, cậu phải nhớ cậu ở đâu đấy nhé. Có lẽ cậu sinh ra trong cảnh giàu sang, nhưng đây là đồn cảnh sát, nếu cậu ăn vô lễ, cậu vào ngủ đêm trong phòng giam đấy.
      Người thanh niên cứng họng, gì được.
      Ông trưng sĩ quay qua người tố cáo đầu tiên.
      – Bây giờ hãy cho tôi biết những chi tiết về hai vụ tố cáo ấy được ?
      Tôi cần biết tên và địa chỉ của nhà hàng ăn uống, tên và địa chỉ của em , và tên cùng địa chỉ của người có cặp nút tay áo này.
      – Được tôi cho ông biết những chi tiết này. Nhà hàng ăn uống ...
      – Tốt. Này , phải ở lại đây, - ông trung sĩ , với bị cáo. - ngồi xuống đấy. - Rồi ông quay qua với đám thanh niên kia:
      – Còn các , các có thể ra về được rồi.
      Họ có vẻ hoang mang bối rối. Công việc phiêu lưu vĩ đại của họ kết thúc như thế này quả đáng thất vọng. Cho nên họ đứng trơ ra ai nhúc nhích động đậy lát.
      – Thôi ra về , tất cả đều có thể ra về được rồi.
      Chưa bao giờ Margaret nghe được nhiều chuyện hấp dẫn chỉ trong ngày như thế này, Các chàng trai ra về, càu nhàu với nhau. Người thanh niên mặc bộ đồ có sọc :
      – Các cậu giao nộp thằng ăn trộm cho công lý, thế mà họ đối xử với các cậu như chính các cậu là tội phạm! - Nhưng ta ra khỏi cửa đồn trước khi hết câu.
      Ông trung sĩ giữ chàng trai tóc nâu lại để thẩm vấn, ông ghi chép lời khai vào sổ. Harry Marks ngồi yên trước mặt ông ta lát, rồi ta mất hết kiên nhẫn, quay nhìn quanh trong phòng. ta nhìn thấy Margaret, nhoẻn miệng cười tươi tắn với , rồi đến ngồi bên cạnh . ta cất tiếng hỏi: – Ổn cả chứ, em? Cái gì làm cho phải đến đây vào giờ này trong đêm?
      Margaret rất ngỡ ngàng. ta hoàn toàn thay đổi hẳn. Hết thái độ kênh kiệu và giọng uốn éo, ta với giọng bình dị như ông trung sĩ. cảm thấy quá kinh ngạc nên thể trả lời ta được.
      Harry đưa mắt nhìn ra cửa như thể muốn thừa cơ hội để chạy trốn khỏi đồn, rồi ta quay nhìn vào bàn làm việc và thấy người cảnh sát trẻ tuổi chăm chú nhìn ta. ta bèn bỏ ý định chạy trốn và quay qua hỏi Margaret.
      – Ai làm mắt bị bầm sưng như thế, bố mẹ à?
      Margaret tỉnh táo đáp:
      – Tôi bị lạc đường khi trời tối và va mạnh cái thùng thư.
      Bây giờ đến lượt ta ngạc nhiên. ta tưởng là công nhân thợ thuyền. Bây giờ nghe giọng , mới thấy mình lầm. ta điềm nhiên lấy lại phong độ hồi nãy.
      – Trời ơi, rủi !
      Margaret thấy vui vui. Nhân cách ta ra sao nhỉ. Người ta tỏa mùi nước hoa. Tóc cắt khéo, thậm chí còn để cho dài nữa. ta mặc bộ đồ dạ phục may theo kiểu vun Edouard Đệ bát, bít, tất lụa và giày đế mỏng đánh bóng. Đồ trang sức người đều hảo hạng nút áo kim cương áo sơ mi, cặp nút tay áo tuyệt đẹp; đồng hồ vàng và vòng đeo tay có hình con cá sấu màu đen; ngón tay út của bàn tay trái có chiếc nhẫn. Hai bàn tay ta to tướng, nhưng móng tay rất sạch.
      hạ thấp giọng hỏi :
      – Có ăn nhà hàng mà trả tiền ?
      ta nhìn lát rồi trả lời xăng xái:
      cứ tin là . - Giọng ta nghe có vẻ như hành động của là có ý đồ, có mưu.
      – Tại sao lại thế?.
      – Bởi vì, nếu tôi ngồi nghe Rebecca Maugham - Flint về ba con ngựa chết tiệt của ta thêm chút nữa, chắc tôi bóp cổ ấy cho đến chết mất.
      Margaret phì cười. biết Rebecca Maugham-Flint, ta như cây sào khổng lồ đường nét gì hết, là con của ông tướng và ta giống bố về thái độ kênh kiệu, có giọng oang oang:
      – Tôi hiểu ra rồi, - – Khó mà tưởng tượng ra người khả ái như ông Marks này lại ăn với ta được.
      Người cảnh sát có tên Steve xuất , ông ta lấy cái ly nơi .
      cảm thấy khỏe rồi chứ, tiểu thư Margaret?
      liếc mắt thấy Harry Marks giật mình sửng sốt khi nghe người cảnh sát gọi tước vị của .
      – Khỏe nhiều rồi, cám ơn ông, - đáp.
      Nãy giờ ham chuyện với Harry, quên phứt chuyện lo buồn của mình, bây giờ mới nhớ lại những việc phải làm. - Ông tốt, - tiếp:
      – Bây giờ tôi xin phép chia tay ông để làm những công việc cần thiết hơn.
      khỏi phải vội, - người cảnh sát đáp. - Bố , ngài hầu tước đường đến đây tìm .
      Margaret cảm thấy tim mình như ngừng đập. Tại sao có thể như thế này được? tin chắc hành động của rất bảo đảm: nhưng đánh giá thấp bố . nghĩ chắc khi ra ga ông theo , rồi lái xe Luân Đôn! run lẩy bẩy, hỏi ông cảnh sát, giọng căng thẳng: – Làm sao bố tôi biết tôi ở đây?
      Người cảnh sát hãnh diện đáp:
      – Tối hôm qua người ta loan tin trốn nhà ra , và tôi có nhiệm vụ tìm . Người ta có miêu tả vóc dáng , nhưng trời tối quá, nên tôi nhận ra, nhưng tôi nhớ tên . Nhiệm vụ của tôi là phải báo cho ngài hầu tước biết ngay.Vừa dẫn về đây là tôi gọi điện thoại báo cho ông biết liền.
      Margaret đứng đậy, tim đập liên hồi. :
      – Tôi đợi ông đến đâu. Bây giờ trời sáng rồi.
      Người cảnh sát có vẻ lo lắng.
      – Khoan , - ông ta cách gay gắt.
      Ông quay lại bàn làm việc và hỏi ông trung sĩ:
      – Thưa trung sĩ ấy muốn đợi bố đến.
      Harry Marks với Margaret:
      – Họ thể giữ lại được: với tuổi , chạy trốn khỏi nhà phải là tội lỗi. Nếu muốn , chỉ việc ra .
      Margaret tin chắc họ tìm cớ để giữ lại.
      Ông trung sĩ đứng dậy, ra khỏi bàn làm việc, ông :
      ta có lý đấy. Nếu muốn , cứ .
      – Ồ, cám ơn - Margaret đáp, giọng biết ơn.
      Ông trung sĩ cười:
      – Nhưng có giày, vớ thủng. Nếu muốn ra trước khi bố đến, hãy để tôi gọi cho chiếc tắc xi.
      suy nghĩ. Họ điện thoại cho bố khi đến đồn cảnh sát. mà việc này chỉ mới cách đây chưa đầy giờ. Bố thể đến đây trước giờ nữa. bèn với ông cảnh sát.
      – Thế tốt, tôi xin cám ơn ông.
      Ông ta mở cánh cửa ở phòng sau và :
      nên vào đây ngồi để đợi tắc xi. - Ông ta bật đèn.
      Margaret muốn ngồi ngoài này chuyện phiếm với chàng Harry Marks có duyên này nhưng muốn làm ông trung sĩ chạm tự ái, nên đành đáp:
      – Cám ơn ông.
      vào trong căn phòng . Trong phòng có hai cái ghế ọp ẹp và cái ghế dài, trần có bóng đèn và cửa sổ có song sắt. hiểu tại sao ông trung sĩ cho cái phòng này dễ chịu hơn phòng ngoài. quay lại để với ông ta.
      Cánh cửa đóng lại. có linh cảm hay nổi lên trong lòng. vội vàng đến cửa, vặn tay nắm. Bỗng nghe có tiếng khóa cài lại và thấy lo sợ.
      xoay mạnh nắm cửa, nhưng cửa mở được.
      thất vọng ngồi phịch xuống chiếc ghế dài. nghe bên ngoài có tiếng cười rúc rích, rồi có tiếng Harry cất lên nho :
      – Đồ đểu!
      Rồi nghe giọng ông trung sĩ , nhưng bây giờ giọng ông kém phần nhàng:
      – Im miệng !
      – Ông có quyền làm thế.
      – Bố ta là hầu tước, tôi có bổn phận làm theo lời ông ta.
      Câu chuyện chấm dứt ngang đó.
      Margaret biết thế là thất bại. Chuyện trốn thoát thế là hỏng bét rồi. bị những người mà tưởng đến giúp phản bội. Chỉ trong vài giờ nữa thôi là được thả ra, và như thế là chấm dứt việc trốn thoát. đầu quân vào lực lượng hậu cần được đau đớn nghĩ, mà đáp chuyến thủy phi cơ Clipper của hãng hàng Pan American để bay qua New York, trốn chiến tranh. Sau chuyến phiêu lưu mạo hiểm này, số phận của vẫn thay đổi. quá bất công.
      hồi lâu, quay lưng lại phía cửa, đến cửa sổ thấy cái sân sau vắng vẻ và bức tường gạch. đứng yên bên cửa sổ, chán nản thất vọng, nhìn qua chấn song thấy trời sáng, chỉ còn nước đợi bố đến mà thôi.
      *
      Eddie Deakin kiểm tra lần cuối chiếc Clipper của hãng Pan American.
      Bốn động cơ Wright Cyclone ngàn năm trăm mã lực tra dầu mủ. Mỗi động cơ cao bằng đầu người. Người ta thay 56 cái bu di. Vì có tính cẩn thận, Eđđie lấy trong túi áo lao động ra cái dụng cụ đo bề dày, chuồi lưỡi đo xuống dưới sườn động cơ, giữa lớp cao su và mặt kim loại, để kiểm tra độ dính vì trong chuyến bay dài như thế này, rung chuyển của máy bay có thể làm cho các thứ dính vào nhau căng ra rất khủng khiếp. Nhưng cái thước đo cho thấy có chỗ nào hở ra quá nửa ly. Sườn máy bay giữ nguyên vị trí rất tốt.
      đóng ô cửa hầm tàu, rồi leo thang xuống. Khi nào người ta hạ chiếc thủy phi cơ xuống nước, mới cởi đồ quần lao động ra, tắm rửa rồi mặc bộ đồng phục đen của hãng Pan American vào.
      Khi rời khỏi bến cảng, trời nắng ráo, leo lên ngọn đồi để đến khách sạn nơi phi hành đoàn nghĩ ngơi trong thời gian kiểm tra tu bổ máy móc. hãnh diện về chiếc máy bay và hãnh diện về nghề nghiệp của mình. Phi hành đoàn của chiếc Clipper đều là những người ưu tú, những người giỏi của công ty, vì chuyến bay xuyên đại dương mới mẻ này là chuyến hành trình nổi tiếng nhất. Rồi đây, suốt cả đời, tự hào là người đầu tiên bay chiếc Clipper qua đại tây dương.
      Thế nhưng, định rồi đây thôi bay. ba mươi tuổi, cưới vợ từ năm nay và bây giờ Carol-Ann có thai. Đối với người còn độc thân bay là công việc rất tuyệt, nhưng người có vợ như , muốn xa vợ con lâu ngày. có tiền dành dụm, có đủ tiền để kinh doanh được rồi. chọn được miếng đất ở gần Banger trong tiểu bang Maine để làm nơi đậu máy bay rất tốt. sửa chữa bảo trì máy bay, bán nhiên liệu máy bay, và mua chiếc để đưa đón khách. thầm mơ ước ngày nào đó công ty hàng , như Juan Tippe, người tiên phong đặt nền móng Hãng Pan American.
      vào vườn khách sạn Langdown. Cũng may là phi hành đoàn thuê được phòng trong khách sạn này chỉ xa cách các cơ sở hạ tầng của Hãng hàng Hoàng gia chua đầy hai cây số. Khách sạn là tòa nhà nông thôn kiểu do cặp vợ chồng rất dễ thương điều khiển, họ làm vừa ý mọi người và họ phục vụ trà bãi cỏ vào những buổi chiều trời đẹp.
      vào tiền sảnh, gặp ngay người phụ tá cho mình, Desmonđ Finn - người được mọi người đặt cho cái bí danh là Mickey vì trông ta lúc nào cũng phấn chấn như người vừa dùng ma túy. Mickey là chàng trai vô tư, có nụ cười cởi mở, toe toét để lộ ca hai hàm răng và ta thường xem Eddie như vị hùng, khiến cho Eđđie cảm thấy bối rối trước mến phục này của ta. ta nghe điện thoại, và khi thấy Eddie, ta liền với người bên kia đầu giây: – Ồ, đợi chút nhé, may rồi đấy, ấy vừa đến. ta đưa ống nghe cho Eddie và :
      có điện thoại đây đưa xong.
      ta bước lên cầu thang, lịch để bạn mình chuyện điện thoại.
      – A lô? - Eđđie trong máy.
      – Có phải Edwarđ Deakin đấy ?
      Eddie cảm thấy lo lo. Giọng lạ và ai gọi bằng Edwarđ hết.
      đáp.
      – Vâng, tôi là Eđđie Deakiil. là ai?
      – Đợi chút nhé, tôi chuyển điện thoại cho vợ đây.
      Eđđie cảm thấy lòng thắt lại. Tại sao Carol-Ann gọi từ Hoa Kỳ nhỉ?
      Chắc có chuyện gì xảy ra rồi.
      lát sau, nghe giọng vợ máy.
      – Eddie đấy ư?
      – Chào em , có chuyện gì xảy ra thế?
      Chị bật khóc nức nở.
      Vô số chuyên đáng sợ ra trong óc : nhà bị cháy, có người chết, chị gặp tai nạn bị thương, chị sẩy thai.
      – Carol Ann, bình tĩnh em, em khỏe chú?
      Chị vừa khóc vừa đáp.
      – Em ... ... bị thương.
      – Vậy chuyện gì? - lo sợ hỏi. - Có chuyện gì xảy ra phải ? cho biết , em .
      – Những người này .... đến nhà.
      Eddie cảm thấy lạnh toát cả người.
      – Người nào thế? Họ đến làm gì?
      – Họ bắt em lên xe hơi.
      – Lạy Chúa, họ là ai? - giận đến nghẹt thở, phải cố sức thở mạnh.
      Chúng có làm gì hại đến em ?
      – Em bình an ... nhưng, Eđđie, em sợ quá.
      nghẹn ngào. muốn hỏi nhiều chuyện lúc. Những người đàn ông đến nhà , bắt Carol-Ann lên xe:
      – Có chuyện gì xảy ra ? - Cuối cùng thốt được nên lời.
      – Tại sao chúng bắt em?.
      – Họ muốn với em.
      – Chúng có gì với em ?.
      – Eddie, phải làm những chuyện, họ muốn, em chỉ biết có chừng ấy thôi.
      Mặc dù rất bực tức và rất hoảng sợ nhưng Eddie vẫn nhớ lời dạy của bố , ông : Đừng bao giờ ký ngân phiếu trắng, ấn định số tiền.
      Tuy nhiên, vẫn ngần ngại đáp:
      làm, nhưng chuyện gì?.
      hứa nhé!
      hứa.
      ơn Chúa.
      – Chuyện xảy ra khi nào?
      – Cách đây hai giờ.
      – Bây giờ em ở đâu?
      – Em ở trong ngôi nhà xa ... Có tiếng hét làm gián đoạn câu của chị – Carol-Ann! Có chuyện gì thế? Em bình an chứ?
      có tiếng trả lời. Tức giận, hoảng sợ và bất lực, Eđđie bóp chặt ống nghe đến nổi mấy khớp ngón tay trắng bệch.
      Rồi giọng của gã đàn ông hồi nãy cất lên:
      – Eđward, hãy nghe tôi cho kỹ đây.
      , chính mới nghe tôi, là đồ cặn bã của xã hội. Nếu làm hại đến ấy, tôi giết dấy. Tôi thề với Chúa chứng giám, tôi đuổi theo suốt đời, và khi tìm ra , đồ khố nạn, tôi bứt đầu ra, có nghe tôi ?
      Bên kia đầu giây im lặng lát như thể gã đàn ông ngờ lại hơi như thế.
      Rồi gã tiếp:
      – Đừng làm căng, ở xa đây lắm. - có vẻ hơi dao động, nhưng có lý: Eddie thề làm gì được. Gã đàn ông tiếp. - có bằng lòng nghe cho kỹ ?
      Hết sức cố gắng, Eddie gì nữa.
      nhận những công việc phải làm với người ở máy bay, người ấy có tên là Tom Luther.
      máy bay? Như thế này là thế nào? chàng Tom Luther này là khách máy bay hay là gì? - Eđđie hỏi:
      – Nhưng muốn tôi làm gì?
      hãy câm mồm lại. Luther cho biết, và nếu muốn gặp lại vợ , phải làm theo lệnh ta từng lời .
      – Nhưng làm sao tôi biết?.
      – À, còn việc nữa. Đừng báo cho cảnh sát biết. Báo cho cảnh sát là được việc gì đâu.
      – Nếu tiết lộ chuyện này với bất kỳ ai, tôi hiếp vợ ngay đấy.
      – Đồ khốn nạn, tao ...
      Điện thoại cúp.

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 3

      Harry Marks là người đàn ông may mắn nhất đời.

      Mẹ ta thường với con rằng gặp nhiều may mắn. Mặc dù cha chết trong đại chiến, nhưng ta may mắn có bà mẹ xốc vác, đảm . Bà ta kiếm sống bằng cách giúp việc trong các văn phòng, và trong thời gian khủng hoảng kinh tế, bao giờ bà thiếu việc làm. Hai mẹ con sống ở Battersea, trong khu chung cư mà tầng nào cũng chỉ có vòi nước lạnh và có phòng vệ sinh nằm ngoài căn hộ, nhưng họ có những người láng giềng rất tốt, biết giúp đỡ nhau trong những lúc khó khăn. Harry có tài tránh khỏi được những buồn lo ở đời, ở trường, ông thầy giáo thường đánh học trò, nhưng khi đến phiên đánh cây roi gãy. Harry té dưới xe, và xe chạy ngang qua mà đụng đến người .

      Chính vì quá thích đồ nữ trang mà trở thành kẻ trộm cắp. Khi đến tuổi trưởng thành, thích rong chơi các con đường sang trọng giàu có ở tại khu West End, và nhìn vào các tủ gương bán đồ kim hoàn. say mê cách thích thú những viên kim cương và đá quí để những chiếc gối sáng long lanh dưới ánh sáng huyền ảo của cửa tiệm kim hoàn. chúng vì sắc đẹp của chúng rồi, mà còn vì chúng biểu nếp sống mà khám phá ra qua sách vở, nếp sống trong các ngôi nhà rộng rãi ở nông thôn, có những bãi cỏ xanh rộng lớn, nơi có những mà người ta thường gọi là tiểu thư Penelope hay Jessica Chumley, chơi ten nít suốt buổi chiều, và khi về nhà uống trà còn thở hổn hển.

      ta học nghề kim hoàn, nhưng công việc làm đồ nữ trang làm cho bực bội, nên sáu tháng sau, bỏ việc. Công việc sửa chữa những sợi dây đồng hồ bị gãy và nới rộng những chiếc nhẫn của các bà lên cân có gì làm cho hứng thú hết. Nhưng nhờ thế mà học được cách phân biệt viên hồng ngọc với viên ngọc lựu, phân biệt được ngọc trai tự nhiên với ngọc trai nhân tạo, và phân biệt được viên kim cương đại, đẽo gọt sáng loáng với viên đá quý đẽo gọt vào thế kỷ XIX. lại còn phân biệt được khác nhau giữa cái khung đẹp với cái khung giả, phân biệt được vật trang sức đẹp có giá trị với vật rườm rà phô trương mà thiếu mỹ thuật; và khả năng phân biệt này chỉ nung nấu thêm lòng say mê đồ kim hoàn đẹp và sở thích nếp sống cần có những thứ này nơi .

      Cuối cùng để thỏa mãn hai sở thích này, tìm cách lợi dụng những như Rcheeca ở Ascot. thường gặp các giàu có ở trường đua ngựa.

      Nhờ khung cảnh rộng rãi và người Đông, nên dễ dàng lui tới giữa hai nhóm thanh niên cá độ, tạo khí mật thiết đến độ nhóm nào cũng tưởng là người của nhóm mình. Rebecca là to lớn với lỗ mũi khổng lồ, mặc chiếc áo cởi ngựa bằng vải dệt kim có hình tổ ong trông kỳ dị, và đội chiếc mũ chóp có cắm lông theo kiểu Robin Rừng Rú. Tất cả thanh niên nào thuộc nhóm của cũng quan tâm chú ý đến , cho nên nàng tỏ ra biết ơn Harry, vì chuyện trò thân mật với .

      chạy theo ta ngay tức khắc, vì vội vã như thế xem ra được giá trị cho lắm. Nhưng tháng sau, gặp ta trong phòng trưng bày nghệ thuật, ta niềm nở với như là người bạn cũ, và giới thiệu với mẹ .

      Những như Rebecca, được chơi với trai mà có người canh giữ theo, dù là xem xi nê hay ăn nhà hàng; chỉ có con bán hàng hay thợ thuyền mới như thế. Cho nên họ với cha mẹ là họ cùng nhóm; và để chứng tỏ cho cha mẹ thấy, họ thường cùng nhau dự những tiệc rượu.

      Sau đó, từng cặp lặng lẽ chuồn chỗ khác chơi. Làm như thế này mới thích hợp với Harry: vì chính thức “tán tỉnh” Rebecca, cha mẹ thấy cần thiết điều tra kỹ về lai lịch của , khỏi phải đặt nghi vấn về những lời dối trá vu vơ của về ngôi nhà ở nông thôn của tại Yorkshire, về việc theo học trường đại học ở Tô Cách Lan, về mẹ bệnh hoạn nghỉ dưỡng sức ở vùng miền trung nước Pháp, và sắp được gắn lên trung úy trong lực lượng quân Hoàng gia .

      nhận thấy những chuyện láo khoét vu vơ là chuyện rất phổ biến trong xã hội thượng lưu, nơi thường lui tới. Người ta nghe những chuyện này từ cửa miệng của các thanh niên muốn thú nhận mình nghèo xơ nghèo xác, muốn cho mọi người biết cha mẹ họ là những bợm nghiện rượu thâm căn cố đế, muốn tỏ ra mình ở trong gia đình hèn hạ và thiếu tư cách. ai nhọc công điều tra người chưa có dấu hiệu gì muốn ve vãn con nhà quí tộc.

      Cho nên, Harry chơi với Rebecca theo cái kiểu văn nghệ như thế này từ ba tuần nay rồi. ta mời đến chơi ngày cuối tuần ở Kent lần, ở đây chơi bài Cri-kê và ăn cắp tiền của khách đến chơi, những người này dám kêu ca vì sợ làm mất lòng chủ nhà. ta mời dự dạ vũ nhiều lần, ở đây móc túi và lục túi xách của người ta. Ngoài ra, có lần đến thăm chỗ ở của Rebecca, cuỗm số tiền nho , ít đồ đạc và ba chiếc kẹp từ thời Victoria rất đẹp, mà mẹ của Rebecca chưa biết là bà mất các thứ này.

      Theo ta, ăn cắp của những hạng người như thế này có gì là vô đạo đức hết. Những người này xứng được hưởng cảnh giàu sang. Hầu hết họ làm việc gì cả. Có số có địa vị xã hội, nhưng họ dùng quan hệ phe đảng để chiếm những chức vụ ngồi mát ăn bát vàng, đó là những nhà ngoại giao, những chủ tịch các công ty, các quan tòa hay đại biểu các đảng bảo thủ.

      Ăn cắp của họ cũng như giết bọn Quốc xã Đức thôi, đây là công việc phục vụ nhân dân chứ phải tội lỗi.

      làm như thế từ hai năm nay và biết công việc này thể kéo dài mãi được. Xã hội thượng lưu nước rộng mênh mông nhưng cũng giới hạn, cuối cùng thế nào người ta cũng tìm ra tông tích của . Ngay lúc định kiếm công việc gì khác để làm ăn sinh sống, chiến tranh bùng nổ.

      Tuy nhiên đầu quân vào làm lính trơn. Thực phẩm tầm thường mà áo quần lính lại còn thô tháp, rồi đời sống trong quân ngũ khắc nghiệt, dữ dội, thích hợp cho chút nào hết. Ngoài ra, bộ binh phải mặc ka ki, mà mặc ka ki trông rất tệ. Cho nên muốn trở thành sĩ quan quân Hoàng gia . chưa biết cách làm sao để trở thành sĩ quan quân, nhưng thế nào cũng đạt được ý nguyện, vì là người thường gặp may mắn.

      Trong lúc chờ đợi thời cơ, quyết định sử dụng Rebecca để giới thiệu lần chót với nơi giàu sang, trước khi bỏ rơi ta.

      Hai người đến tham dự buổi tiếp tân vào buổi tối tại khách sạn sang trọng ở Belgravia, nơi ngài Simon Monford ở, ông ta là nhà xuất bản giàu có.

      Harry nghỉ ngơi lát với Lydia Moss, con của bá tước Tô Cách Lan, ta béo phì và khả kính. ta vụng về, đơn độc, nên trổ tài tán tỉnh ta mấy khó khăn. chuyện trò với chừng 15 hay 20 phút, thời gian đại khái như bao lần trước thường dùng để tán tỉnh con . Rồi đến chuyện với Rebecca để khỏi làm phật ý này. Sau đó, thấy đến lúc hành động.

      xin lỗi để ra khỏi phòng. Buổi tiếp tân diễn ra trong phòng khách rộng rãi ở tầng lầu . Khi qua hầm cầu thang và lén lút lên thang lầu, thấy hồi hộp vô cùng như mỗi khi ra tay làm ăn. Cứ nghĩ đến chuyện ăn trộm của chủ nhà, lòng lại nôn nao sợ bị bắt tại trận và bỉ tố cáo là kẻ gian phi, vừa lo sợ lại vừa phấn khích.

      lên tầng , men theo hành lang dẫn đến phía trước nhà. Cánh cửa nằm ở cuối hành lang có lẽ là cửa mở vào phòng ngủ của chủ nhân, nghĩ thế mở cửa ra, thấy căn phòng rộng lớn có treo màn bằng vải hoa và chiếc giường phủ màu hồng. định vào trong phòng bỗng cánh cửa khác mở ra và có tiếng hỏi xẵng: – Kìa, làm gì thế?

      Harry quay người lui, rất căng thẳng. thấy thanh niên cỡ tuổi tới hành lang, đưa mắt ngạc nhiên nhìn .

      Như mọi lần khác, hễ mỗi lần cần cái gì là lời tuôn ra cách rất tự nhiên.

      – À có phải chỗ này ?

      – Chỗ gì?

      – Có phải đây là phòng vệ sinh ?

      Mặt người thanh niên bỗng lộ vẻ vui tươi:

      – Ồ, ra thế. đến chỗ có cánh cửa màu xanh nằm ở cuối hành lang đằng kia kìa.

      – Rất cám ơn.

      sao.

      Harry dọc theo hành lang. :

      – Nhà đẹp quá – Đẹp ư? - Người thanh niên hỏi, rồi xuống cầu thang và biến mất.

      Harry mỉm cười khoan khoái. Đôi lúc có người quá dễ tin.

      quay lại, vào căn phòng màu hồng. Phòng này trông như căn hộ.

      Màu sắc trong phòng khiến nghĩ là mình đứng trong phòng của Bà Monkford. Nhìn quanh, thấy có phòng để móc áo quần khăn mũ ở bên cạnh, phòng này cũng trang hoàng màu hồng, rồi thấy có phòng nữa hơn, trong phòng có kê ghế bành bọc da và trang hoàng bằng giấy có sọc tiếp theo đó là phòng móc áo quần đàn ông. Trong xã hội thượng lưu, những cặp vợ chồng thường có phòng riêng, theo chỗ Harry biết thế. chưa dám khẳng định họ ngủ riêng là vì họ ít dâm dật hơn giới thợ thuyền, hay họ nghỉ riêng là vì họ có nhiều phòng trong nhà quá rộng lớn.

      Phòng áo quần của ngài Simon gồm có cái tủ lớn bằng gỗ gụ và tủ con mất cân xứng. Harry mở ngăn kéo đầu tiên ở tủ con mốt. Trong ngăn kéo có cái hộp bằng da đựng đồ nữ trang, trong hộp đựng nút áo, kim găm cài cổ áo và nút tay áo, để lộn xộn. Hầu hết các thứ đều tầm thường, nhưng con mắt nhà nghề của Harry chú ý đến cặp nút tay áo xinh xắn bằng vàng có gắn những viên hồng ngọc nho . cho cặp nút này vào túi. Bên cạnh cái hộp, có cái ví da đựng 50 bảng bằng những tờ giấy bạc 5 bảng. Harry lấy 20 bảng, cảm thầy hài lòng. dễ, ta nghĩ. Muốn có 20 bảng, nhiều người phải làm việc trong nhà máy bẩn thỉu hai tháng trời mới. có được.

      bao giờ lấy hết. Lấy hết khiến người ta sinh nghi. ít, họ nghĩ họ làm mất đồ nữ trang đâu đó hay là lầm lẫn số tiền có trong ví, cho nên họ thể thông báo bị mất cắp được.

      đóng ngăn kéo lại rồi qua phòng phu nhân Monkford. định bỏ với chiến lợi phẩm vừa kiếm được, nhưng lại muốn nấn ná thêm vài phút.

      Phụ nữ thường có đồ nữ trang quí giá hơn đàn ông. Phu nhân Monkford có lẽ có ngọc xa phia, mà Harry rất thích loại ngọc này.

      Trời đẹp nên có cánh cửa sổ mở rộng. Harry đưa mắt nhìn, ta thấy ban công có lan can uốn. vội vào phòng để áo quần và ngồi vào bàn trang điểm. mở hết các ngăn kéo ra, thấy có nhiều hộp và đĩa đựng đồ nữ trang. liền vội vàng lục xem, tai cố lắng nghe tiếng động nơi cửa.

      Phu nhân Monkford sành về đồ trang sức. Bà ta đẹp nhưng vô duyên, và bà - hay chồng bà - chọn đồ nữ trang lòe loẹt nhưng ít có giá trị. Ngọc trai cân xứng, trâm cài tóc thô xấu, hoa tai nặng nề và vàng đeo tay hấp dẫn. cảm thấy thất vọng.

      đắn đo trước cái mề đay xinh xắn bỗng nghe có tiếng cửa phòng mở. khựng lại, ruột đau thắt, suy tính cách hành động.

      Căn phòng chỉ có cánh cửa duy nhất. Phòng có cánh cửa sổ , nhưng cửa đóng và có lẽ thể nào mở kịp mà gây tiếng động.

      phân vân tự hỏi biết trốn vào tủ treo áo có kịp .

      Từ chỗ ngồi, thấy cửa phòng. nghe cửa đóng lại, rồi có tiếng đàn bà ho và tiếng bước chân nhàng thảm. cúi nhìn vào tấm gương soi bàn trang điểm. Với tư thế như thế này, thấy khắp cả phòng.

      Phu nhân Monkford về phía phòng để áo quần. giờ đóng các ngăn kéo lại nữa.

      hơi hồi hộp. cảm thấy sợ, nhưng từng gặp hoàn cảnh nguy hiểm như thế này rồi. đợi lát, cố lấy bình tĩnh rồi quyết hành động.

      đứng dậy, nhanh qua cánh cửa vào phòng và :

      ra là thế!

      Phu nhân Monkford dừng lại giữa phòng. Bà ta lấy tay bịt miệng và thốt lên nho nhó.

      Trước cánh cửa sổ mở rộng, tấm màn bằng vải hoa bay lất phất trong cơn gió , Harry bỗng nảy ra ý trong óc.

      ra là thế, lặp lại, cố lấy giọng kinh ngạc.

      – Tôi vừa thấy có người nhảy qua cửa sổ ở phòng bà.

      Bà ta thốt ra lời:

      cái gì? Và làm gì trong phòng tối?

      Harry đóng kịch, ta chạy đến cửa sổ, nhìn ra ngoài rồi :

      mất rồi?

      – Xin vui lòng cho tôi biết chuyện gì thế?

      Harry hít vào hơi dài, như thể muốn có giờ để sắp xếp các tình tiết cho mạch lạc. Bà Monkford tuổi khoảng 40, mặc chiếc áo dài bằng lụa xanh. Nếu giữ được bình tĩnh, có thể hoàn thành được kế hoạch. Miệng nhoẻn cười tự tin, đóng vai trò chú học trò khôn lớn, đầy nhiệt huyết, chơi bóng bầu dục say sưa - chắc bà rất thích nhân vật này - rồi bắt đầu trổ tài.

      tôi chưa bao giờ thấy việc như thế này. Tôi ở trong hành lang chàng trông có vẻ kỳ lạ thò đầu ra khỏi cửa này. trông thấy tôi liền thụt đầu vào trốn trong phòng. Tôi biết đây là phòng bà, vì chính tôi vào đây để tìm phòng vệ sinh. Tôi tự hỏi biết chàng này muốn gì. ta có vẻ là gia nhân của bà mà chắc cũng phải là khách được mời. Cho nên tôi bước vào phòng bà để hỏi . Khi tôi mở cửa, nhảy qua cửa sổ Rồi để giải thích về việc các ngăn kéo ở bàn trang điểm còn để mở, ta tiếp: – Tôi vừa đến nhìn xem trong phòng để áo quần của bà, tôi sợ lấy đồ nữ trang của bà.

      Tuyệt đấy, ta nhủ thầm, đáng phục đấy; chắc mình đóng kịch cho dài truyền thanh được rồi đấy.

      Bà ta đưa tay áp lên trán.

      – Ồ kinh khủng quá! - Bà , giọng yếu ớt.

      – Bà nên ngồi xuống cho khỏe, - Harry với vẻ ân cần. theo bà đến chiếc ghế màu hồng.

      – Tôi nghĩ, nếu làm cho sợ chạy trốn thế nào khi tôi vào đây vẫn còn trong phòng: Chắc tôi xỉu mất. - Bà nắm bàn tay của Harry và bóp mạnh. - Tôi rất cám ơn .

      Harry cố nén nụ cười. lần nữa, thoát nạn. suy nghĩ lát. Điều mong muốn là làm sao để bà ta đừng với ai chuyện này hết. bèn với bà:

      – Thưa bà, tôi mong sao bà đừng gì về chuyện này với Rebecca, được . ấy có tính hay lo, cho nên nếu ấy biết được chuyện này, chắc thế nào ấy cũng lo buồn, mất ăn mất ngủ đến hàng tuần chưa hết.

      – Tôi cũng thế, - bà Monkford đáp. - Hàng tuần chưa hết lo.

      Bà rất hoang mang, vẻ nghi ngại khi nghe ta Rebecca hộ pháp của bà yếu thần kinh như thế.

      – Có lẽ bà nên mời cảnh sát đến để điều tra vụ này, nhưng như thế cuộc vui buổi tối hỏng mất, - tiếp.

      – Ôi, trời ơi ... Thế khủng khiếp quá. Nhưng có nên mời cảnh sát đến ?

      – Nên mời ... - Harry đáp, cố để lộ vui mừng qua giọng . - Nhưng cũng còn tùy thuộc vào các thứ mà thằng vô lại kia lấy. Tại sao bà xem coi bà mất gì?

      – Ôi, lạy Chúa, phải rồi, phải xem thử có mất gì ?

      Harry bóp mạnh tay bà để khuyến khích, rồi đỡ bà đứng lên.

      Hai người đến phòng để áo quần. Bỗng bà giật mình khi thấy các ngăn kéo bị mở toang ra hết. Harry kéo chiếc ghế bành đến cho bà ta ngồi. Bà ngồi xuống, nhìn xem các đồ nữ trang. lát bà :

      ta lấy gì hết.

      – Có lẽ tôi làm cho giật mình mà kịp lấy đấy.

      Bà ta lục lọi kiểm tra các vòng đeo tay và trâm cài tóc Bà đáp:

      – Phải, chắc thế. kỳ diệu.

      – Nếu bà mất gì, bà cần phải cho ai biết cả hơn.

      – Nhưng tất nhiên là phải cho ngài Simon biết.

      – Đương nhiên rồi, dù ông ấy muốn thế.

      – Theo tôi bà nên để xong buổi tiếp tân rồi hãy . Như thế, bà làm cho buổi dạ tiệc mất vui.

      – Ý kiến tuyệt vời! - Bà ta đáp với giọng đầy biết ơn.

      Mọi việc đều diễn ra rất hoàn hảo. Harry khoan khoái trong lòng, cảm thấy tình hình bây giờ tốt đẹp, thuận lợi, :

      – Bây giờ tốt hơn là tôi nên xuống dưới để bà nghỉ ngơi lát. - cúi người hôn phớt lên má bà.

      Bỗng thấy bà đỏ mặt. thào bên tai bà:

      – Tôi thấy bà hết sức can đảm. - xong, ra khỏi phòng.

      Phụ nữ vào tuổi trung niên nhiều khi còn dễ bị phỉnh phờ hơn cả con của họ nữa, tự nhủ. Khi ra ngoài hành lang vắng vẻ, soi bóng mình vào gương. dừng lại sửa chiếc nơ bướm cổ và nhìn bóng mình, mỉm cười chiến thắng, thầm nhủ: “Harold, mày là thằng quỷ sứ”.

      Buổi tiếp tân kết thúc. Khi Harry trở lại phòng khách, Rebecca cau có hỏi :

      đâu nãy giờ?

      chuyện với bà chủ nhà chứ đâu.

      – Bà ấy gặp chuyện đáng buồn. Chúng ta chứ?

      ra khỏi nhà với cặp nút tay áo quí và 20 bảng của chủ nhà trong túi.

      Họ đón tắc xi ở Quãng trường Belglave để đến nhà hàng ăn uống ở Piccadilly. Harry rất thích các nhà hàng sang trọng: cảm thấy sung sướng khi được ngồi trong này, được nhìn những chiếc khăn bàn hồ cứng, được thấy ly tách sáng bóng, được xem những tờ thực đơn bằng tiếng Pháp và được những ông quản lý khách sạn tiếp cung kính. Bố chưa bao giờ được thấy cảnh bên trong các nhà hàng như thế này. Mẹ có lẽ có thấy, nếu bà có đến làm việc ở những nơi này. gọi chai sâm banh, xem xét rất kỹ danh sách các thứ rượu vang, rồi chọn chai được sản xuất vào thời điểm mà biết rất ngon nhưng hiếm, để giá tiền cao quá.

      Khi dẫn các vào nhà hàng, mắc phải số sai lầm; nhưng ý thức được việc này liền. Mưu mẹo hữu dụng nhất là mở xem thực đơn mà hỏi bồi bàn:

      “Tôi muốn ăn cá bơn, nhà hàng có ”. bồi bàn mở tờ thực đơn ra và chỉ cho thấy dãy thức ăn viết bằng tiếng Pháp:

      Cá bơn tẩm bột chiên, cá nục róc xương nấu với xốt tác-ta và cá bơn nướng vĩ, rồi thấy ngần ngừ, bồi liền đưa ý kiến:

      “Cá đục ngon lắm, thua ông”.

      Harry rất sành các thức ăn ghi bằng tiếng Pháp thực đơn. thấy nhiều người thường đến ăn trong các nhà hàng như thế này luôn luôn hỏi người phục vụ các món ăn viết bằng chữ Pháp, vì người giàu có cần phải biết tiếng Pháp. Cho nên, khi họ ăn trong các nhà hàng, họ cần có người dịch ra cho họ biết; và bây giờ có thể đọc thực đơn bằng tiếng Pháp giỏi hơn những thanh niên con nhà giàu cùng trang lứa. Rượu có gì khó khăn. Những người phụ trách bán rượu trong nhà hàng thường rất sung sướng khi Được khách hỏi ý kiến, họ ngờ thanh niên biết hết tất cả các lâu đài sản xuất rượu, biết hết tên các thứ rượu ngon và ngày sản xuất. Trong các nhà hàng cũng như trong cuộc sống, muốn mưu mẹo thành công phải có phong thái tự tại, thản nhiên, nhất là khi mình phải là người giàu có.

      Rượu chọn ngon, nhưng tối hôm ấy được vui, và thừa biết điều làm cho vui là Rebecca. thường mong muốn được dẫn nào xinh đẹp vào nhà hàng sang trọng như thế này. Nhưng thường chỉ dẫn những ra gì: xấu, cục cằn, mặt đầy mụn, ngu ngốc. Làm quen những như thế này dễ; rồi khi họ say mê rồi, họ chỉ cầu việc là phải trung thành với họ, họ bất cần tìm hiểu con người vì họ sợ mất . Đây là chiến thuật lý tưởng để xâm nhập vào các gia đình giàu có. Nhưng buồn thay là chỉ chài được các vừa ý. Có lẽ ngày nào đó ...

      Tối đó Rebecca có vẻ buồn. Có nhiều lý do khiến ta phật ý. Có lẽ phân vân biết tại sao chơi với nhau suất ba tuần rồi mà Harry xa hơn, sờ soạng gì hết. thực ta có vẻ ham muốn .

      có thể làm cho vui, có thể buông lời cợt nhã, làm cho cười và khiến cho ; nhưng có vẻ ham muốn . Có lần ở trong vựa lúa với mảnh khảnh. Và hết sức kiềm chế mình để khỏi phải phá trinh ta, nhưng cơ thể hết sức rạo rực, mỗi lần đến chuyện ấy là lại cảm thấy khó chịu.

      Thục ra chuyện tình dục của hầu như chỉ xảy ra với các cùng giai cấp xã hội với mình và có cuộc tình nào bền lâu hết. Chỉ có lần gian thú với phụ nữ lớn tuổi ở Bond Street, bà ta là vợ của luật sư, ông bận rộn công việc, còn bà vô công rồi nghề, và họ nhau suốt hai năm trời. học hỏi ở bà này rất nhiều về nghệ thuật làm tình, bà ta dạy cho cách thích thú với thái độ của người thuộc xã hội thượng lưu, xã hội mà lén lút đồng hóa vào; và họ nằm giường với nhau để đọc thơ, bình thơ. Harry cảm thấy thương mến bà ta rất nhiều. Thế rồi bà ta chấm dứt mối tình với cách đột ngột và báo trước, khi chồng bà ta phát ra bà có người tình ông ta biết người đó là ai. Từ đó, Harry gặp hai người nhiều lần: bà vợ nhìn ta như nhìn kẻ xa lạ. Harry thấy việc này quá độc ác. Bà ta quá tin vào và có vẻ mong thông cảm. Bà ta là người có ý chí mạnh hay thiếu con tim .Có lẽ bao giờ biết được.

      Rượu ngon đắt tiền làm cho Harry lẫn Rebecca hết buồn. bắt đầu cảm thấy bực bội. có ý định sau đêm nay bỏ rơi cách êm thấm, nhưng bây giờ thấy thể nào chịu đựng được cảnh ngồi với cho hết buổi như thế này. ân hận việc phung phí tiền bạc để mời ăn tối. nhìn bộ mặt quàu quạu của Rebecca, mặt trang điểm trông phèn phẹt đội chiếc mũ lông kỳ cục, bỗng thấy ghét .

      Khi họ ăn xong tráng miệng, gọi cà phê rồi đến phòng vệ sinh. Phòng để áo mũ nằm gần bên phòng vệ sinh nam, gần cửa ra, ngồi ở bàn ăn của họ thấy cửa này. Harry muốn bỏ về ngay tức khắc bèn lấy mũ, cho bà giữ phòng để áo mũ tiền bo, rồi lặng lẽ ra khỏi nhà hàng.

      Trời đêm êm dịu. Vì có lệnh che hết ánh sáng nên trời tối thui, nhưng Harry rất rành khu West End và nhờ có những bảng hiệu sáng ở các ngã tư nên biết đường để , đó là chưa kể có ánh sáng yếu ớt của các xe hơi chạy qua. cớ cảm giác như người học trò bị đuổi học. thoát khỏi được Rebecca, tiết kiệm được 7 hay 8 bảng và được buổi tối thảnh thơi, tất cả chỉ nhờ ý nghĩ bất chợt nảy ra trong óc hồi nãy.

      Các rạp hát, rạp xi nê và vũ trường đều phải đóng cửa theo lệnh của chính quyền “cho đến khi chấm dứt đe dọa tấn công của quân Đức lên Quốc”, người ta thế. Nhưng những hộp đêm vẫn thường xuyên hoạt động bất hợp pháp, cho nên nếu biết tìm kiếm người ta có được nhiều nơi để đến.

      Chẳng bao lâu sau, Harry ngồi chễm chệ tại chiếc bàn trong hộp đêm ở Soho, nhấm nháp whisky, nghe ban nhạc Jazz danh tiếng của Mỹ, vừa nghĩ cách để ve vãn bán thuốc lá.

      Harry suy nghĩ trai của Rebecca bước vào.

      Sáng hôm sau, khi ngồi trong phòng giam dưới tầng hầm của tòa án, lòng đau đớn và ăn năn hối hận, đợi giờ xuất trước các quan tòa. Ruột gan rối bời. .

      Bỏ nhà hàng ăn ra về như thế quả là hành động ngu ngốc. Rebecca phải là hạng người chịu bỏ lòng kiêu hãnh để lặng lẽ trả tiền bữa ăn. ta làm to chuyện, người quản lý khách sạn báo cảnh sát, gia đình Rebecca đến ... Những chuyện như thế này cần phải tránh mới phải. Thế nhưng, nếu Harry gặp rủi ro bất thần, là sau đó hai giờ đụng đầu phải trai của Rebecca, chắc thoát được rồi.

      ở trong phòng giam lớn với khoảng 15 đến 20 tù nhân khác, họ ra tòa sáng nay với những tội phạm có quả tang. Phòng có cửa sổ và đầy khói thuốc lá. Hôm nay chắc người ta xử Harry mà chỉ là phiên tòa hỏi cung mở đầu thôi.

      ràng thế nào người ta cũng buộc tội . Những bằng cớ để buộc tội thể nào chối cãi được. Người trưởng nhóm bồi bàn xác nhận những lời kêu ca của Rebecca, và ngài Simon Monkford nhận ra cặp nút tay áo.

      Nhưng chuyện tồi tệ nhất cho diễn ra rồi. Harry bị thanh tra cảnh sát hình thẩm vấn. Ông ta mặc bộ đồng phục của giới thanh tra cảnh sát thường mặc, bộ com lê vải xẹc dày dặn, sơ mi trắng và cà vạt đen, áo di-lê có dây đeo đồng hồ và giày đánh láng bóng; ông ta là loại cảnh sát giàu kinh nghiệm, nhanh trí và đa nghi. Ông ta : – Từ hai ba năm nay, thỉnh thoảng chúng tôi nhận được những lời báo cáo xuất phát từ những gia đình giàu có cho biết họ “mất” số nữ trang. Dĩ nhiên là phải bị ăn cắp. Chỉ biến mất thôi. Những chiếc vòng đeo tay, những đôi hoa tai, những chiếc mề đay đeo ngục, nút áo ... Những người mất các thứ này cam đoan rằng đồ nữ trang của họ phải bị ăn trộm, vì chỉ có khách mời của họ mới có cơ hội để lấy các thứ này. Lý do khiến họ báo những thứ bị mất này, là họ chỉ muốn lấy lại chúng, nếu có người nào thấy chúng ở đâu đó.

      Harry tiếng, nhưng cảm thấy rất đau khổ. Mãi cho đến bây giờ, cứ đinh ninh rằng nghề của hành thông, ai trông thấy. Bây giờ rất kinh hoàng khi biết thể trái ngược hẳn: thỉnh thoảng có lúc người ta theo dõi .

      Ông thanh tra mở tập hồ sơ ra.

      – Bá tước Dorset mất cái hộp đựng kẹo bằng bạc có từ thế kỷ XVIII và cái hộp đụng thuốc lá bằng sơn mài cũng từ thể kỷ 18. Bà Harry Jaspers, chiếc vòng bằng ngọc trai có khuy bằng hồng ngọc mua tại cửa tiệm Tlffany. Bà Bá tước Malvoll, mất mặt mề đay bằng kim cương của tiệm Art Deco gắn sợi dây chuyền bằng bạc. Tên nào lấy các thứ ấy có khiếu thẩm mỹ đầy chứ. Nhà thám tử dán mắt vào những hạt nút kim cương đính ngực áo của Harry.

      Harry biết hồ sơ này ghi những thứ bí mật do lấy. nghĩ thế nào rồi cũng bị buộc tội lấy ít ra là số đồ trong số này. Cái lão thanh tra khôn ranh này thu thập những yếu tố căn bản đủ để buộc tội . Ông ta khó khăn gì trong việc tìm ra những nhân chứng để người ta cũng đến lục tìm chỗ ở tại nhà mẹ . Phần nhiều đồ nữ trang này bán cho người mua đồ ăn cắp, nhưng vẫn còn giữ lại vài món: những hạt nút kim cương mà ông cảnh sát thấy người , thứ này lấy của người say ngủ gà ngủ gật trong buổi dạ vũ ở Quãng trường Grosvener, và mẹ chiếc kim cài áo mà khéo léo xoáy áo của bà công tước tại tiệc cưới trong vườn nhà Surrey. Ngoài ra, khi họ hỏi sống bằng cách gì biết trả lời sao?

      Chắc là phải ở tù thời gian. Và khi ra khỏi tù, thế nào cũng bị gọi nhập ngũ, và ở trong quân ngủ chẳng khác gì ở tù. Nghĩ đến chuyện ấy, thấy lạnh cả người.

      ngoan cố chịu tiếng, thậm chí khi ông thanh tra thộp lấy ve áo vét tông của đẩy sát vào chân tường cũng ; nhưng im lặng chắc cứu được . Công lý thế nào cũng buộc tội .

      Harry chỉ còn cách để có thể được tự do, đó là thuyết phục các quan tha cho đóng tiền bảo chứng để được tại ngoại, rồi biến mất. Bỗng tha thiết mong muốn được tự do, như thể bị tù nhiều năm chưa được ra ngoài bao giờ.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :