Titanic Trong Vũ Trụ - Tess Gerritsen [Trinh thám]

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Titanic - Trong Vũ Trụ

      [​IMG]

      Tác giả: Tess Gerritsen

      Người dịch: Hoàng Long

      Nhà xuất bản: Nxb Văn hóa Thông tin

      Nhà phát hành: Nxb VHTT

      Số trang: 444

      Ngày phát hành: 03/2010

      Titanic - Trong Vũ Trụ

      Bác sĩ Emma Waston được huấn luyện cho cuộc phiêu lưu của cả đời : đó là nghiên cứu các sinh vật trong vũ trụ. Nhưng nhiệm vụ của Trạm vũ trụ quốc tế biến thành cơn ác mộng ai có thể tưởng tượng nổi khi mẻ các sinh vật đơn bào bất đầu phát triển vượt tầm kiểm soát - nó khiến cả phi hành đoàn trạm đau đớn và chết. Emma cố gắng ngăn chặn dịch bệnh đó trong khi dưới trái đất, người chồng ly thân cua , Jack McCallum làm việc kể ngày đêm ở NASA để đưa trở về. Nhưng có cách nào cứu . Dịch bệnh có nguy cơ đe dọa những người trái đất. Các phi hành gia bị mắc kẹt trong quỹ đạo, bị cách ly trạm - ở đó họ lần lượt chết...

      truyện trinh thám mới đầy hấp dẫn ... câu chuyện đầy kịch tính giữa hai chiến trường - thảm họa Trạm vũ trụ quốc tế do loại virus bị phát tán, tất cả điều liên quan đến công nghệ đại nhất.

      Trong suốt ba mươi năm qua, cuốn truyện Chòm sao thiên nữ của Strain luôn được coi là mẫu mực... hơn kém. Tess Gerrtsen tạo ra những chuẩn mực mới trong truyện "Titanic trong vũ trụ".​

    2. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      LỜI CẢM ƠN

      Tôi thể hoàn thành cuốn sách này nếu giúp đỡ nhiệt tình của các nhân viên ở NASA. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến:

      Ông Ed Campion, thuộc Phòng quan hệ công chúng của NASA, hướng dẫn tôi tận tình trong chuyến thăm Trung tâm vũ trụ Johnson kỳ thú.

      Các giám đốc điều hành bay Mark Kirasich (điều hành Trạm vũ trụ quốc tế) và Wayne Hale (điều hành tàu con thoi) giải thích tỉ mỉ cho tôi những nhiệm vụ khó khăn của họ.

      Ned Penley giải thích quá trình lựa chọn các chuyến hàng.

      John Hooper giới thiệu cho tôi Phương tiện di dời khẩn cấp.

      Jim Reuter (thuộc Trung tâm điều hành bay Marshall) giải thích cho tôi về hệ thống kiểm soát môi trường và hỗ trợ sống Trạm vũ trụ quốc tế.

      Bác sĩ chuyên khoa Tom Mashburn và Smith Johnson giải thích chi tiết các phương pháp cấp cứu trong môi trường trọng lực.

      Jim Ruhnke trả lời những câu hỏi đôi khi rất khó chịu của tôi về cơ khí.

      Ted Sassean (nhân viên nghỉ hưu của NASA) chia sẻ những kỷ niệm của ông trong nghiệp lâu dài khi còn là kỹ sư hàng vũ trụ.

      Tôi cũng chân thành cảm ơn giúp đỡ của các chuyên gia về nhiều lĩnh vực:

      Bob Truax và Bub Meyer, các nhân viên điều khiển tên lửa tại xưởng Cơ khí Truax, giúp tôi hiểu kỹ về các phương tiện phóng tàu có thể tái sử dụng.

      Steve Waterman chia sẻ kiến thức của ông về phòng điều áp.

      Charles D. Sullivan và Jim Burkhart cung cấp thông tin về các loại vi rút động vật lưỡng cư.

      Bác sĩ chuyên khoa Ross Davis cung cấp cho tôi thông tin về phẫu thuật thần kinh.

      Bo Barker, cung cấp cho tôi nguồn thông tin phong phú về máy bay và đường bay. (Bo, tôi bay cùng bất cứ khi nào!)

      Cuối cùng, lần nữa tôi muốn cảm ơn Emily Besther chắp cánh cho tôi.

      Don Cleary và Jane Berkey, thuộc hãng Jane Rotrosen, những người hiểu điều gì tạo nên câu chuyện hấp dẫn.

      Meg Ruley, biến ước mơ của tôi thành thực.

      Và…

      Người chồng quí của tôi, Jacob.

      Chương 01

      ĐẠI DƯƠNG



      Khe Galapagos

      vĩ độ 30 độ Nam, 90, 30 độ Tây

      lái tàu bên mép khe vực.

      Bên dưới là làn nước đen kịt gào thét ở thế giới ngầm lạnh lẽo, nơi ánh sáng bao giờ chiếu tới. Chỉ có ánh sáng từ sinh vật phát quang sinh học bắn ra. Nằm trong con tàu Deep Flight IV chỉ người chui vừa, đầu gối lên phần mũi tàu trong suốt như pha lê. Bác sĩ Stephen D. Ahearn có cảm giác mình hồ hởi lao vút , vô định trong vũ trụ vô tận. Nhờ ánh sáng ở các đèn hai bên cánh tàu, thấy các mảnh vụn hữu cơ chảy thành dòng nhàng, liên tục rơi trong làn nước được chiếu sáng phía xa. Chúng là xác động vật nguyên sinh trôi nổi qua hàng nghìn kilômét nước biển để đến nghĩa địa cuối cùng dưới đáy đại đương.

      Xuyên qua làn mưa bụi đó, lái tàu Deep Flight dọc theo mép khe vực, khe vực ở mạn trái của tàu, bên dưới là đáy đại dương. Mặc dù lớp trầm tích có vẻ hoang vu nhưng sống diện ở khắp nơi. đáy đại dương in hằn đường và vết đào bới của những sinh vật lại đó. Giờ chúng mình an toàn dưới lớp trầm tích. cũng thấy dấu vết của con người: đoạn xích hoen gỉ quấn quanh chiếc mỏ neo bị rơi, chai sô đa bật nắp, lơ lửng trong nước đục. Đó là những phần còn lại kì quái từ thế giới lạ lẫm phía .

      bỗng bắt gặp cảnh tượng đáng kinh ngạc, như thể qua khu rừng dưới nước toàn các thân cây cháy đen. Những vật thể đó là các ống khói đen sì, là các ống cao hơn bảy mét được hình thành từ khoáng chất bị phân hủy cuộn quanh vết nứt vỏ trái đất.

      xoay vô lăng, lái tàu Deep Flight sang trái chút để tránh các ống khói.

      - Tôi đến khu địa nhiệt. - . - Di chuyển ở mức hai, các ống phun khói ở bên phải.

      - Chúng thế nào? - giọng của Helen rè rè trong tai nghe của .

      - Rất tuyệt. Tôi muốn có trong những cột khói này cho riêng mình.

      cười.

      - Hãy chuẩn bị viết bản báo cáo quan trọng, Steve. thấy khu có các đụn nhô lên chưa? Chắc chắn nó ở ngay phía trước.

      Ahearn im lặng khi lái tàu xuyên qua làn nước đục. lúc sau, :

      - Tôi thấy chúng.

      Các đụn mangan trông như những đụn than nằm rải rác đáy biển. Chúng mịn cách kỳ quái và được hình thành từ các khoáng chất đông cứng lại quanh những viên đá và hạt cát.

      Chúng là nguồn có giá trị chứa titan và các nguyên liệu quý hiếm khác. Nhưng bỏ qua các mỏm đó. săn đuổi phần thưởng có giá hơn.

      - Tôi xuống khe vực. - .

      dùng vô lăng điều khiển con tàu Deep Flight qua vùng bằng phẳng. Tốc độ tàu tăng lên 2, 5 nấc. Cánh tàu được thiết kế để tạo ra tác động ngược lại so với cánh máy bay nên kéo chiếc tàu ngầm xuống dưới. bắt đầu xuống khe vực.

      - nghìn trăm mét. - đếm ngược. - nghìn năm trăm mét…

      - Hãy quan sát khoảng trống! Khe nứt đó rất hẹp. kiểm tra nhiệt độ nước đấy chứ?

      - Nhiệt độ bắt đầu tăng lên. Giờ lên năm mươi lăm độ F.

      - Vẫn cách xa miệng phun. vào vùng nước nóng khi thêm hai nghìn mét nữa.

      bóng đen lao vụt ngay trước Ahearn. cau mày, bất cẩn gạt mạnh vô lăng khiến con tàu lượn sang phải. Cú xóc mạnh của con tàu khi đập vào vách khe vực tạo ra đợt sóng mạnh lan khắp thân tàu.

      - Lạy Chúa!

      - Tình hình thế nào? - Helen lo lắng. - Steve, sao rồi?

      thở dốc, tim đập loạn xạ, chống lại nhịp thở của cơ thể. Thân tàu. Mình vừa làm hỏng thân tàu chăng? thở khó nhọc, cố lắng nghe tiếng thép rầm rầm rẽ đường qua luồng nước chết chóc. ở dưới mặt nước sâu nghìn trăm chín mươi bảy mét.
      Áp lực hơn trăm at-mốt-phe tác động lên toàn bộ bề mặt tàu như cú đấm mạnh. Chỉ cần lỗ thủng thân tàu, nước tràn vào và bị đè bẹp.

      - Steve, thông báo !

      Mình vã mồ hôi lạnh. Cuối cùng lên tiếng:

      - Tôi bị giật mình… tôi va vào vách khe vực.

      - Hư hại gì ?

      nhìn ra ngoài phần đầu tàu.

      - Tôi chắc. Tôi nghĩ bộ phận định vị sóng va vào vách đá.

      - vẫn lái được chứ?

      thử xoay vô lăng và lái tàu sang bên trái.

      - Được, được. - thở phào nhõm. - Tôi nghĩ tôi sao. Có cái gì đó bay ngang qua mũi tàu làm tôi giật mình.

      - Cái gì đó à?

      - Nó lướt qua quá nhanh! Chỉ là vệt nước… như con rắn lao qua vậy.

      - Có phải trông nó như đầu cá và thân hình con lươn ?

      - Đúng, đúng, đó chính là thứ tôi thấy.

      - Vậy đó là cá nheo hình lươn. Cá ba đầu phát nhiệt.

      Cá ba đầu, Ahearn nghĩ và rùng mình. Đó là con chó ba đầu gác cổng phủ trong thần thoại Hy Lạp.

      - Nó bị hơi nóng và chất sun-phua hấp dẫn. - Helen . - thấy chúng nhiều hơn khi lại gần khe nứt.

      Đó là vậy. Ahearn biết gì về sinh vật biển. Các sinh vật giờ lượn qua mũi tàu chỉ khiến tò mò. Đó là các biển dẫn đường sống dẫn đến đích. Giờ điều khiển tàu rất ổn định và lái con tàu Deep Flight IVsâu hơn xuống khe vực.

      Hai nghìn mét. Ba nghìn mét.

      Nếu làm hỏng thân tàu sao?

      Thêm bốn nghìn mét nữa, áp lực nước khủng khiếp ngày càng tăng khi sâu xuống. Giờ nước chuyển thành màu đen và lẫn vào màu của những cột khí sun-phua phun lên từ miệng phun bên dưới. Những ánh đèn ở hai bên cánh tàu thể xuyên qua các vân khoáng chất li ti đó. Bị các đợt chất cặn che mất tầm mắt, lái tàu ra khỏi khu vực nước vẩn đầy chất sun-phua để tầm nhìn hơn. ép sát mặt bên của miệng phun thủy nhiệt, tránh xa vực nước bị dung nham đun nóng nhưng nhiệt độ bên ngoài vẫn ngừng tăng lên.

      trăm hai mươi độ F.

      Lại có thứ gì đó rất lại vụt qua tầm nhìn của . Lần này cố gắng vững tay lái. thấy ngày càng nhiều cá nheo hình lươn như những con rắn to lộn đầu xuống dưới, như thể chúng lơ lửng trong gian đó. Nước phun ra từ miệng phun bên dưới chứa rất nhiều chất sun-phua hy-đrô nóng, loại hóa chất độc hại và tốt cho sống. Nhưng kỳ lạ là ngay trong những khu vực nước đen kịt và độc hại như thế này, sống vẫn nảy sinh dưới nhiều hình thức kỳ thú và tuyệt diệu. Những con giun biển Riftiabám đầy vách khe vực. Chúng dài khoảng mét tám, đầu có những chiếc mũ đỏ rực đầy lông lá. thấy những con trai khổng lồ bám thành đám, vỏ trắng và những chiếc lưỡi của chúng như những đám nhung màu đỏ thò ra. thấy những con cua bạc thếch cách kỳ quái và trông như những hồn ma khi chúng bò trong các kẽ nứt.

      Mặc dù hệ thống điều hòa khí vẫn bật nhưng bắt đầu cảm thấy sức nóng.

      Sáu nghìn mét. Nhiệt độ nước lên tới trăm tám mươi độ F. Đám bọt nước bị đốt nóng nên nhiệt độ của chúng còn lớn hơn năm trăm độ. sống tồn tại ngay ở trong đó, trong tối tăm, trong vùng nước độc hại và cực nóng này. Điều đó có vẻ kỳ diệu.

      - Tôi ở độ sâu sáu nghìn trăm năm mươi mét. - . - Tôi thấy nó nữa.

      Giọng của Helen trong tai phôn và đứt đoạn.

      - Có chỗ nhô ra khỏi vách đá. thấy nó khi xuống độ sâu gần sáu nghìn trăm tám mươi mét.

      - Tôi quan sát.

      - Hạ thấp độ cao từ từ. Nó xuất nhanh thôi.

      - Sáu nghìn trăm bảy mươi mét, tôi vẫn quan sát. Dưới đây như súp đậu xanh vậy. Có lẽ tôi vào nhầm chỗ.

      - … thiết bị phát tàu ngầm định vị… sập xuống đầu ! Chúng tôi bị nhiễu sóng.

      - Tôi nghe . lại !

      - Vách khe nứt sập xuống! Các mảnh vỡ đổ xuống đầu . Ra khỏi đó ngay!

      Tiếng đá rơi ầm ầm lên thân tàu làm vòng tay lái loạn xạ. bóng đen khổng lồ lao vụt xuống qua lớp bùn ngay trước mặt . Nó lao từ chỗ vách đá nhô ra, khiến làn mưa bụi rơi xuống khe nứt. Những tiếng ầm ầm ngày càng nhiều. Sau đó là tiếng động chết chóc và cú va chạm tiếp theo đánh vào như cú đấm cực mạnh.

      Đầu co giật, hàm đập vào thân tàu. thấy mình nghiêng ngả hết bên này sang bên khác và nghe thấy tiếng kim khí gầm gừ khi mạn tàu bên phải va vào các khối đá lao xuống. Con tàu tiếp tục chao đảo, các chất trầm tích cuộn lên ngang qua vòm tàu thành những đám mây mất phương hướng.

      gạt cần hạ trọng lượng khẩn cấp, lóng ngóng xoay bánh lái để lái tàu lướt lên . Con tàu Deep Flight IV lắc lư tiến lên phía trước. Khối kim loại va chạm với các tảng đá tạo thành tiếng chói tai rồi đột ngột dừng lại. ngồi bất động, con tàu nghiêng sang phải. điên cuồng xoay bánh lái hết tốc lực.

      có phản ứng gì.

      ngừng lại, tim đập mạnh khi cố gắng kiểm soát cơn hoảng loạn ngày càng tăng. Tại sao tàu di chuyển? Tại sao con tàu có phản ứng gì hết? buộc mình xem xét kỹ lại hai bộ phận màn hình số. Điện vẫn còn nguyên. Bộ phận điện xoay chiều vẫn hoạt động. Máy đo độ sâu vẫn hoạt động. Sáu nghìn trăm tám mươi hai mét.

      Các chất trầm tích dần tan. Các hình thù dần dưới ánh đèn ở cánh tàu bên trái. quan sát phía trước qua mái vòm và thấy địa hình kỳ lạ với các viên đá đen lởm chởm và những con giun biển Riftia có màu đỏ như máu. xoay đầu sang hai bên nhìn cánh tàu bên phải. Điều nhìn thấy khiến bụng cuộn lại như sắp nôn.

      Cánh phải tàu bị kẹt chặt giữa hai tảng đá. thể tiến lên hay lùi lại. Mình bị mắc kẹt trong hầm mộ sâu năm nghìn bảy trăm mét dưới đáy biển.

      - … liên lạc được ? Steve, vẫn liên lạc chứ?

      nghe thấy giọng mình đầy sợ hãi.

      - nhúc nhích được… cánh phải bị mắc kẹt.

      - … các tấm bên cánh trái. Chỉ cần chệch đường chút di chuyển được ít.

      - Tôi thử rồi. Tôi thử hết cách. Tôi di chuyển được.

      Tai phôn im lặng cách chết chóc. lạc mất họ chăng? nghĩ về con tàu đậu xa đầu , sàn tàu nhàng lắc lư những đợt sóng cồn. nghĩ về ánh mặt trời. mặt biển hôm nay trời nắng đẹp, những con chim chao liệng mặt biển. Đại dương trong xanh vô tận…

      Giờ có giọng người đàn ông. Đó là Palmer Gabriel, người tài trợ cho cuộc thám hiểm. Ông ta với giọng bình tĩnh và ra lệnh như mọi khi.

      - Chúng tôi bắt tay vào việc tái thiết lại quá trình, Steve. tàu ngầm khác được hạ xuống. Chúng tôi đưa lên mặt biển càng nhanh càng tốt. - sau đó ông ta ngừng lại. - thấy gì ? Xung quanh có gì?

      - Tôi… tôi đậu vách đá nhô ra ngay miệng phun.

      - nhìn thấy những gì?

      - Gì cơ?

      - ở độ sâu sáu nghìn trăm tám mươi hai mét, ngay ở độ sâu chúng ta quan tâm. Cái vách đậu thế nào? Những tấm đá ấy?

      Mình sắp chết, còn ông ta lại hỏi về những hòn đá chết tiệt.

      - Steve, dùng đèn nhấp nháy . Hãy cho chúng tôi biết thấy những gì?

      cố nhìn khung thiết bị trước mặt và bật đèn chiếu.

      luồng sáng mạnh xuyên qua lớp bùn. nhìn khu vực mới mẻ chập chờn trước mắt. Giờ chuyển chú ý sang các bãi đổ nát khổng lồ rải rác vách đá mắc kẹt. Các tấm đá đen như than, giống các khối mangan nhưng mép của chúng nham nhở như những mảnh kính vỡ. quay sang phải. Các phiến đá mới nứt giữ lấy cánh tàu và đột nhiên nhận ra là mình nhìn gì.

      - Helen đúng. - thầm.

      - Tôi nghe .

      - ấy đúng. Đây là mỏ iridi… tôi nhìn nó.

      - Tiếng yếu dần. Tôi khuyên …. - giọng Gabriel yếu dần trong gian đó rồi im bặt.

      - Tôi nghe được. Nhắc lại , tôi nghe được! - Ahearn hét lên.

      có tín hiệu trả lời.

      nghe thấy tim mình đập mạnh, nghe thấy tiếng gầm của chính hơi thở của . Chậm lại, chậm lại! Ô-xi hết quá nhanh…

      Qua mái vòm trong suốt, sống trôi qua như vũ điệu trong vùng nước độc. Khi mỗi phút dài như hàng giờ, nhìn những con giun biển Riftia đung đưa, những xúc tu cựa quậy để lấy dưỡng chất. thấy con cua có mắt bò chầm chậm vách đá nhô ra.

      Những bóng đèn tắt dần. Cánh quạt điều hòa khí đột ngột im lặng.

      Nguồn điện cạn.

      tắt đèn chiếu. Giờ chỉ còn ánh đèn yếu ớt bên cánh trái còn sáng. Mấy phút nữa thôi, bắt đầu cảm thấy sức nóng của vùng nước bị dung nham đun nóng ở nhiệt độ trăm tám mươi độ. Nó phát nhiệt qua thân tàu. Nó từ từ nấu chín khi vã mồ hôi. thấy giọt nước chảy da đầu và chảy dọc xuống má. nhìn chòng chọc vào con cua duy nhất nhàng tìm đường vách đá.

      Đèn cánh tàu nhấp nháy.

      Rồi phụt tắt.

    3. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 02

      HẠ CÁNH

      HAI

      Ngày mùng 7 tháng 7

      Hai năm sau
      Hủy!

      Trong tiếng gầm của động cơ đẩy tên lửa rắn và tiếng ken két của tàu vũ trụ bay theo quỹ đạo, lệnh hủy vang lên rất trong đầu chuyên gia đặc vụ Emma Watson. nghe thấy mệnh lệnh đó qua máy bộ đàm. Thực ai trong phi hành đoàn câu đó nhưng lúc ấy, biết đó là lựa chọn duy nhất và phải được thực nhanh chóng. chưa nhận được quyết định từ người chỉ huy Bob Kittredge hay phi công Jill Hewitt ngồi trong buồng lái ngay phía trước. cần điều đó. Họ làm việc với nhau lâu tới mức có thể đọc suy nghĩ của nhau. Các bóng đèn cảnh báo màu hổ phách nhấp nháy bảng điều khiển tàu con thoi các động thái tiếp theo của họ.

      Vài giây trước đó, tàu Endeavour đến điểm Cực đại Q. Trong suốt quá trình tạo ra lực khí động học cực đại, khi tàu vũ trụ chống lại lực cản của khí điểm Cực đại Q bắt đầu lắc mạnh nhất. Kittredge nhanh chóng điều khiển van bướm về mức bảy mươi phần trăm để triệt tiêu độ rung. Lúc này, đèn báo hiệu bảng điều khiển cho họ biết họ bị mất hai trong số ba động cơ chính. Dù vẫn còn lại động cơ chính và hai động cơ đẩy tên lửa họ cũng thể nào khiến con tàu bay vào quỹ đạo được.

      Họ phải hủy vụ phóng tàu.

      - Trung tâm, đây là tàu Endeavour. - Kittredge , giọng rắn rỏi và vững vàng, hề có dấu hiệu sợ hãi gì. - thể mở van bướm. Các động cơ chính ở trung tâm và bên trái bị tắt khi tới điểm Cực đại Q. Chúng tôi bị mắc kẹt trong pit-tông. trở về khu bệ phóng.

      - , tàu Endeavour. Chúng tôi xác nhận có hai máy chính hỏng. Hãy về khu bệ phóng ngay sau khi các động cơ đẩy tên lửa cháy hết.

      Emma xem lại toàn bộ đống giấy tờ liệt kê những mục cần kiểm tra và tìm thấy tấm biển ghi “Hủy việc trở lại khu bệ phóng”. Toàn bộ phi hành đoàn thuộc lòng quy trình đó nhưng dưới nhịp làm việc quá gấp của việc hủy khẩn cấp hành động nào đó có thể bị bỏ sót. Những mục cần kiểm tra là tấm phiếu an toàn của họ.

      Tim Emma đập rất nhanh, xem nhanh tiến trình của việc đó và tô chúng bằng màu xanh dương. Việc hủy bỏ việc trở lại bệ phóng bằng cách tắt hai động cơ vẫn thực được nhưng chỉ là lý thuyết. chuỗi những việc gần như thần kỳ chắc chắn sắp xảy ra. Trước tiên, họ phải rút hết nhiên liệu và tắt hẳn động cơ cuối cùng trước khi tách khỏi thùng nhiên liệu khổng lồ bên ngoài. Sau đó, Kittredge điều khiển cho con tàu bay vòng vòng trong tư thế hướng đầu lên . chỉ có cơ hội, cơ hội duy nhất để hướng dẫn họ hạ cánh an toàn tại bang Kennedy. Chỉ cần lỗi khiến tàu Endeavour đâm sầm xuống biển.

      Giờ cuộc sống của họ hoàn toàn phụ thuộc vào thuyền trưởng Kittredge.

      vẫn liên lạc liên tục với Ban chỉ huy đặc vụ với giọng đều đều, thậm chí còn có chút gì đó buồn chán khi họ tiến đến mức chỉ còn hai phút. Đây là điểm khó khăn tiếp theo. Màn hình bằng ống tia ca-tốt nhấp nháy tín hiệu thông báo nhiêu liệu hơn năm mươi. Các động cơ đẩy tên lửa cháy hết theo dự kiến.

      Emma lập tức nhận ra tín hiệu thông báo khi các động cơ đẩy tên lửa đốt cháy số nhiên liệu cuối cùng. Sau đó, luồng sáng mạnh ở ô cửa khiến nheo mắt khi các động cơ đẩy tên lửa cháy hết.

      Tiếng gầm của bệ phóng tên lửa đột nhiên im lặng kỳ quái, các cú rung mạnh biến thành chuyến êm ái và gần như có tiếng động. bình tĩnh lại ngay lập tức và nhận thấy mạch đập nhanh hơn và tim đập như thể ai đó đấm vào lồng ngực.

      - Trung tâm, đây là tàu Endeavour. - Kittredge bình tĩnh cách đáng ngạc nhiên. - Chúng tôi có động cơ đẩy tên lửa.

      - , chúng tôi hiểu.

      - Bắt đầu hủy. - Kittredge ấn nút Hủy, thanh xoay dừng lại ở vị trí hủy việc trở lại bệ phóng.

      Qua máy điện đàm, Emma nghe thấy Jill Hewitt lớn.

      - Emma, đọc các mục cần thực !

      - Tôi hiểu rồi! - Emma bắt đầu đọc to. Giọng bình tĩnh đáng ngạc nhiên như giọng của Kittredge và Hewitt. Nếu ai đó nghe được cuộc đối thoại của họ cũng thể đoán được là họ đối mặt với thảm họa. Họ kiểm soát được hệ thống máy móc, cơn hoảng loạn của họ được trấn áp, mọi hành động của họ được điều khiển bởi trí nhớ và rèn luyện thành kỹ năng kỹ xảo. Các máy tính tàu tự động sắp đặt chuyến bay trở về của họ. Họ vẫn tiếp tục giảm tốc độ. Khi bay lên độ cao trăm hai mươi hai nghìn, họ bắt đầu xả nhiên liệu.

      Giờ bắt đầu cảm thấy độ quay chóng mặt của tàu vũ trụ khi nó bắt đầu cuộc diễn tập lượn vòng tròn, phần đuôi lượn tròn của nó ra ngay trước mặt . Đường chân trời bị lộn ngược đột nhiên lộn lại khi họ quay trở lại Kennedy cách đó gần bốn trăm dặm.

      - Tàu Endeavour, Trung tâm đây. Hãy tắt động cơ chính.

      - . - Kittredge trả lời. - Động cơ chính được tắt.

      bàn dụng cụ, ba máy cho biết tình trạng động cơ đột nhiên lóe sáng. tắt động cơ chính và trong hai mươi giây, thùng nhiên liệu bên ngoài tách ra và rơi xuống biển.

      Độ cao giảm nhanh, Emma nghĩ. Nhưng chúng ta về nhà.

      khởi động. Có tiếng báo động và các ô đèn mới nhấp nháy bảng điều khiển.

      - Trung tâm, chúng tôi mất liên lạc với máy tính số ba. - Hewitt hét lên. - Chúng tôi mất véc tơ định vị tàu! Nhắc lại, chúng tôi mất…

      - Đó có thể là sai sót trong việc đo quán tính. - Andy Mercer, chuyên gia đặc nhiệm khác ngồi cạnh Emma . - Hãy cắt đứt nó.

      - ! Đó có thể là do cố đứt đường truyền! - Emma xen vào. - Tôi là chúng tôi cần hỗ trợ.

      - Đồng ý. - Kittredge .

      - Chuẩn bị hỗ trợ. - Hewitt và chuyển sang máy tính số năm.

      Bảng điều khiển lại xuất . Mọi người thở phào nhõm.

      Thùng nhiên liệu nổ gây ra tiếng động lớn báo hiệu thùng nhiên liệu rỗng được tách ra. Họ thể nhìn thấy nó rơi xuống biển sâu nhưng họ biết giai đoạn khó khăn khác qua .
      Giờ con tàu bay tự do như con chim khổng lồ và vụng về lao về tổ.

      Hewitt gầm lên.

      - Chết tiệt! Chúng ta mất bộ phận năng lượng chính.

      Emma ngước lên khi có thanh rì rì. Bộ phận năng lượng chính tách ra. Rồi sau đó có tiếng báo động khác và hoảng hốt quay sang bảng điều khiển. Hàng loạt các đèn báo động màu hổ phách nhấp nháy. Tất cả các dữ liệu biến mất các màn hình và thay vào đó là các đường kẻ sọc đen và trắng. Lỗi máy tính nặng. Họ bay mà có các dữ liệu hướng dẫn lái tàu hay điều khiển các cánh tàu.

      - Andy và tôi gặp rắc rối với bộ phận năng lượng trung tâm. - Emma hét lên.

      - Tái thiết hỗ trợ!

      Hewitt ấn thanh gạt và chửi rủa.

      - Tôi chẳng vui vẻ gì hết, các vị ạ. có chuyện gì xảy ra cả.

      - Làm lại !

      - Vẫn tái thiết được.

      - Con tàu nghiêng. - Emma hét lên và thấy nội tạng mình lộn hết bên này sang bên khác.

      Kittredge vật lộn với vô lăng nhưng họ quá nghiêng sang phải. Đường chân trời bỗng thẳng đứng và xoay ngược. Bụng Emma lại cồn lên khi họ lộn ngược. Cú xoay tiếp theo diễn ra nhanh hơn, đường chân trời cứ xoay liên tục trong vòng xoay diễn ra chóng mặt hết bầu trời lại đến đại dương.

      Đó là vòng xoay chết chóc.

      nghe thấy Hewitt cố nén tiếng gầm gừ.

      - Tôi kiểm soát được nó.

      Vòng xoay chết chóc ngày càng nhanh và biến thành cú dừng đột ngột đáng kinh ngạc.

      Tất cả rơi vào im lặng.

      giọng đùa cợt vang lên máy bộ đàm.

      - Xin lỗi các bạn. Lần này các bạn thất bại.

      Emma giật tai nghe ra.

      - bất công, bà Hazel!

      Jill Hewitt cũng hùa vào phản đối.

      - Này, bà định giết chúng tôi à. Làm sao cứu vãn được tình thế?

      Emma là người đầu tiên ra khỏi máy mô phỏng chuyến bay tàu con thoi. Những người khác đứng ngay cạnh , thẳng vào phòng điều khiển có cửa sổ. Ở đó ba nhân viên ngồi trước bảng điều khiển.

      Đội trưởng Hazel Barra cười bí hiểm và xoay ghế lại nhìn bốn phi hành gia tức giận của viên chỉ huy Kittredge. Trông Hazel như bà chúa đất phốp pháp với mớ tóc uốn thành búp màu nâu nổi bật nhưng kỳ thực bà là tay chơi tàn nhẫn. Bà điều khiển cho phi hành đoàn vượt qua những khó khăn trong các cuộc thử nghiệm và có vẻ như bà ta cho rằng mỗi khi phi hành đoàn sống sót được đó là thành công lớn. Hazel biết rằng mỗi lần phóng tên lửa có thể biến thành thảm họa. Bà muốn các phi hành gia được trang bị các kỹ năng để tồn tại. Việc mất người trong đội là cơn ác mộng mà bà mong đợi.

      - Vụ vừa rồi là gian lận, bà Hazel. - Kittredge phàn nàn.

      - Các bạn vẫn sống sót. Chúng tôi hạ gục hoàn toàn tính tự mãn của các bạn.

      - Thôi . - Andy . - Hai động cơ hoạt động khi tàu được phóng lên. Đường truyền dữ liệu bị đứt à? Rồi bà còn khiến máy tính số năm bị hỏng phải ? Có bao nhiêu rắc rối như thế? Như vậy thực tế chút nào.

      Patrick, người trong ban chỉ huy quay lại cười lớn.

      - Các bạn thậm chí để ý tới những việc khác chúng tôi làm.

      - Còn gì nữa?

      - Tôi cho máy làm nhiễu máy cảm ứng ô-xi. Chẳng ai phát ra thay đổi máy đo áp lực đúng ?

      Kittredge cười.

      - Chúng tôi lấy đâu ra thời gian? Chúng tôi còn phải vật lộn với hàng mớ cố khác.

      Hazel giơ cánh tay to béo lên cầu giảng hòa.

      - Thôi, được rồi các bạn. Có lẽ chúng tôi làm hơi quá. là chúng tôi cũng ngạc nhiên khi các bạn làm được nhiều như vậy trong tình huống hủy việc quay trở lại bệ phóng. Chúng tôi muốn ném vào đó cái cờ lê để thêm phần thú vị thôi.

      - Bà ném cả đống hộp dụng cụ có. - Hewitt khịt mũi.

      - là. - Patrick . - Các bạn có phần chủ quan.

      - Đó phải là từ tự tin mới đúng. - Emma .

      - Điều đó rất tốt. - Bà Hazel thú nhận. - Rất tốt nếu các bạn tự tin. Các bạn thể tinh thần đồng đội trong buổi diễn tập phối hợp tuần trước. Ngay cả ông Gordon Obie cũng ông ta rất ấn tượng.

      - Con nhân sư vậy sao? - Kittredge nhướn lông mày tỏ vẻ ngạc nhiên. Gordon Obie là giám đốc Ban điều hành Phi hành đoàn. Đó là người đàn ông trầm lặng và xa cách cách thái quá đến mức ai ở Trung tâm vũ trụ Johnson thực biết ông là ai. Ông thường ngồi tham dự cuộc họp ban giám đốc từ đầu đến cuối mà lời nào, nhưng ai nghi ngờ về việc ông ghi nhớ lại từng chi tiết. Trong số các phi hành gia, Obie được người ta kính sợ chứ hẳn là sợ hãi. Lời phán quyết cuối cùng của ông cho bài thực hành bay cuối cùng có thể khiến người ta thăng tiến hay đổ vỡ toàn bộ nghiệp. Vì vậy việc ông có lời khen ngợi cho đội của Kittredge thực tin vui.

      Nhưng ngay sau đó bà Hazel đánh đổ bục vinh quang của họ.

      - Tuy nhiên, - bà . - Obie cũng lo lắng rằng các bạn quá chủ quan trong việc này. Các bạn vẫn coi đây là trò chơi.

      - Ông Obie muốn gì ở chúng tôi? - Hewitt . - Chúng tôi phải luôn tâm niệm là có hơn mười nghìn cách để chúng tôi đâm sầm vào đâu đó và phát nổ à?

      - Thảm họa mang tính lý thuyết đâu.

      Câu của bà Hazel trầm tĩnh đến mức mọi người im lặng lúc. Từ sau vụ tàu Challenger, mọi thành viên phi hành gia nhận thức rằng việc thảm họa khác xảy ra chỉ là vấn đề thời gian. Những người ngồi đầu tên lửa là những vật thể đầu tiên nổ tung với sức nổ năm triệu pao nên họ thể lạc quan khi nghĩ về những thảm họa trong công việc của họ. Tuy vậy, mấy khi họ về cái chết trong vũ trụ. Nhắc đến nó tức là thừa nhận nó và công nhận rằng tàu vũ trụ Challenger tiếp theo có thể có thành viên phi hành đoàn trong bảng phân công.

      Hazel nhận thấy là bà phá hỏng hưng phấn của họ. hay chút nào khi kết thúc chuyện này theo cách đó và giờ bà quay lại với những lời chỉ trích trước đây.

      - Tôi nhắc đến chuyện này chỉ vì các bạn thực rất tốt. Tôi phải làm việc rất chăm chỉ để các bạn được bay lên. Còn ba tháng nữa là các bạn cất cánh và các bạn đều sung sức nhưng tôi mong các bạn còn sung sức hơn nữa.

      - theo cách khác, các bạn. - Patrick ngồi sau bảng điều khiển . - Đừng có tự phụ như thế!

      Bob Kittredge gục đầu cách chế nhạo.

      - Giờ chúng ta về thôi, mặc áo .

      - Quá tự tin là rất nguy hiểm. - Hazel . Bà rời ghế và đứng lên đối diện với Kittredge. từng là cựu quân nhân trong ba chuyến bay tàu con thoi, Kittredge cao hơn nửa cái đầu và có vẻ tự tin của phi công hải quân mà từng đảm nhiệm. Hazel bị Kittredge hay bất cứ phi hành gia nào của mình lấn át. Dù là các nhà khoa học về tên lửa hay các hùng trong lĩnh vực quân họ vẫn khiến chia sẻ với bà cùng mối quan tâm: đó là mong ước họ sống sót trở về sau nhiệm vụ.

      .

      - chỉ huy tài ba, Bob ạ, nhưng khiến cả phi hành đoàn của ảo tưởng khi coi chuyện đó dễ dàng.

      - , chính họ khiến nó trở nên dễ dàng vì họ quágiỏi giang.

      - Để rồi xem! Hãy chờ cuộc thử nghiệm phối hợp vào thứ ba với Hawley và Higuchi. Chúng ta phát ra nhiều điều.

      Kittredge cười ngoác miệng.

      - Được, cố mà giết chúng tôi nhé nhưng phải chơi đẹp đấy.

      - Số phận chẳng mấy khi chơi đẹp. - Bà Hazel nghiêm trang. - Đừng mong tôi làm vậy.

      Emma và Bob Kittredge ngồi trong quán ở phòng khách lớn Bay Ban Đêm, nhấm nháp bia và phân tích các cuộc tập dượt của ngày hôm đó. Đây là thói quen của họ mười tháng trước trong giai đoạn đầu thành lập đội, khi đó bốn người bọn họ lần đầu tiên tạo thành phi hành đoàn của tàu con thoi 162. Tối thứ sáu nào họ cũng gặp nhau tại quán Bay Ban Đêm nằm ngay đường NASA số 1 từ Trung tâm vũ trụ Johnson và xem xét lại tiến triển tập luyện của họ. Họ làm được những gì và còn những gì cần sửa chữa. Kittredge, người tự mình chọn các thành viên phi hành đoàn lập ra thói quen này. Dù họ làm việc cùng nhau hơn sáu mươi tiếng mỗi tuần nhưng Kittredge bao giờ mong muốn về nhà. Emma nghĩ đó là do gần đây Kittredge mới ly dị và sợ sống mình, sợ quay trở về ngôi nhà trống . Nhưng khi dần hiểu hơn, nhận ra rằng các cuộc họp này chỉ là cách kéo dài hưng phấn trong công việc của . Kittredge sống để bay. đọc các sách hướng dẫn tàu vũ trụ dài dằng dặc và khô khan chỉ để giải trí. Tất cả thời gian rảnh rỗi đều ở lại các trung tâm điều khiển của trong các thành viên của đội T-38s tại trung tâm NASA. Gần như rất khó chịu khi trọng lực chôn chặt chân dưới đất.

      hiểu nổi tại sao những người còn lại trong phi hành đoàn của mình muốn về nhà vào cuối ngày. Hôm nay có vẻ ủ dột khi chỉ có hai người ngồi tại chiếc bàn quen thuộc của họ tại quán Bay Ban Đêm. Jill Hewitt đến buổi biểu diễn của cháu trai, còn Andy Mercer về nhà kỷ niệm mười năm đám cưới của mình. Chỉ có Emma và Kittredge xuất đúng giờ hẹn. Giờ họ bàn bạc qua về các cuộc diễn tập của tuần này. Họ im lặng rất lâu. Cuộc chuyện cạn và hết hứng thú.

      - Tôi đưa trong các thành viên đội T-38s đến khu Cát Trắng ngày mai. - . - muốn cùng tôi ?

      - được rồi. Tôi có cuộc hẹn với luật sư.

      - Vậy là và Jack rất cứng đầu về chuyện đó?

      thở dài.

      - Động cơ có. Jack có luật sư riêng và tôi cũng vậy. Vụ ly dị này biến thành con tàu trở lại.

      - Có vẻ như cân nhắc?

      chậm rãi đặt cốc bia xuống.

      - Tôi cân nhắc gì cả.

      - Vậy sao vẫn đeo nhẫn ấy tặng?

      nhìn chiếc nhẫn cưới bằng vàng. Đột nhiên cố hết sức tháo nó ra nhưng nó nhúc nhích. Sau bảy năm ở ngón tay , chiếc nhẫn có vẻ như đóng khuôn da thịt chịu rời ra. nguyền rủa nó và cố rút ra lần nữa. Lần này lôi mạnh quá đến mức nó cào xước da và trượt khỏi đốt tay. đặt nó xuống bàn.

      - Đấy, phụ nữ tự do.

      Kittredge cười.

      - Hai người kéo dài cuộc hôn nhân lâu hơn đám cưới của tôi. Vậy hai người còn níu kéo gì vậy?

      lùi về sau ghế và bỗng chùng xuống.

      - Mọi chuyện. Tôi thừa nhận điều đó. Tôi cũng vô lý. Mấy tuần trước, chúng tôi ngồi cùng nhau và liệt kê tất cả tài sản của chúng tôi. Tôi muốn gì và ấy muốn gì. Chúng tôi tự hứa với nhau là rất công bằng trong việc đó. Hai người lớn bình tĩnh và chín chắn. Nhưng khi chúng tôi làm dở danh sách biến thành cuộc chiến. có tù nhân nào cả. - thở dài. Thực và Jack luôn như vậy, ương bướng và đam mê như nhau. Dù họ nhau hay tranh cãi giữa họ lúc nào cũng như có lửa.

      - Chúng tôi chỉ nhất trí việc. - . - Tôi giữ con mèo.

      - may mắn.

      nhìn .

      - bao giờ hối tiếc chưa?

      - Ý là về cuộc hôn nhân của tôi à? Chưa bao giờ. - dù câu trả lời của ta mập mờ nhưng cúi xuống như thể cố trốn tránh mà cả hai đều biết: vẫn than khóc cho tan vỡ của cuộc hôn nhân của mình. Ngay cả người đàn ông sợ khi ngồi trong đống nhiên liệu có sức nổ hàng triệu tấn cũng chịu nổi tình trạng đơn bình thường.

      - Đó chính là vấn đề, thấy đấy. Rốt cuộc tôi tìm ra nó. - . - Những người bình thường khác hiểu chúng ta vì họ có chung mơ ước. Chỉ có những vị thánh và những kẻ tử vì đạo mới kết hôn với các phi hành gia. Hoặc đó là những kẻ chẳng thèm quan tâm xem chúng ta còn sống hay chết. - cười cay đắng. - Bonnie, ấy phải là kẻ tử vì đạo. Và chắc chắn ấy hiểu được mơ ước của tôi.

      Emma nhìn chiếc nhẫn cưới của mình lấp lánh bàn.

      - Jack hiểu ước mơ đó. - khẽ. - Đó cũng là ước mơ của ấy. Điều đó hủy hoại cuộc hôn nhân của hai chúng tôi, biết ? Tôi bay được còn ấy . Và ấy là người bị bỏ lại phía sau.

      - Vậy ta cần lớn khôn và đối diện với . phải ai cũng đạt được những điều họ muốn.

      - Tôi muốn nhắc đến ấy với thái độ phản đối như vậy.

      - Mà chính ta xin thôi việc đó chứ.

      - ấy còn có thể làm gì khác? biết là ấy được giao nhiệm vụ bay nữa. Nếu người ta cho bay chẳng có lý do gì để ở lại NASA.

      - Người ta cho ta ở dưới đất là tốt cho ta.

      - Đó chỉ là phỏng đoán về mặt y khoa. Bị viên sỏi thận có nghĩa là viên khác.

      - Thôi được, bác sĩ Watson. bác sĩ. Hãy cho tôi biết: có muốn Jack nằm trong phi hành đoàn của nếu biết tình trạng sức khỏe của ta?

      dừng lại.

      - Có. Với tư cách là bác sĩ, tôi là có. Rất có khả năng là Jack hoàn thành tốt nhiệm vụ trong gian. ấy có thể làm được rất nhiều việc và tôi thể hiểu nổi tại sao họ lại muốn ấy được bay lên đó. Có lẽ tôi ly dị với ấy nhưng tôi rất tôn trọng ấy.

      Kittredge cười rồi uống cạn cốc bia.

      - khách quan trong việc này đúng ?

      định bắt đầu bảo vệ luận điểm của mình nhưng nhận thấy mình có căn cứ nào. Kittredge đúng. Bất cứ chuyện gì liên quan đến Jack McCallum là còn giữ thái độ khách quan nữa.

      Ngoài trời, dưới cái nóng ẩm của đêm hè ở Houston, dừng lại cạnh bãi đỗ xe của quán Bay Ban Đêm và ngước nhìn bầu trời. Các ánh đèn thành phố sáng rực làm mờ hết các ngôi sao nhưng vẫn nhận ra các chòm sao quen thuộc. Chòm sao Thiên Hậu, chòm sao Tiên Nữ và chòm sao Thất Nữ. Mỗi khi nhìn chúng, lại nhớ những gì Jack với khi họ nằm bên nhau bãi cỏ ngắm sao vào đêm hè. Đó là đêm mà lần đầu tiên nhận ra rằng . Thiên đường có rất nhiều phụ nữ, Emma ạ. Và em cũng nằm trong số đó.

      khẽ.

      - cũng vậy, Jack ạ.

      mở cửa xe và ngồi vào ghế lái. lục túi áo tìm nhẫn cưới. Khi nhìn nó dưới ánh sáng lờ mờ trong chiếc xe, nghĩ về bảy năm của cuộc hôn nhân được tượng trưng bởi chiếc nhẫn. Giờ tất cả gần như qua hết.

      bỏ chiếc nhẫn vào túi. thấy bàn tay trái của mình trống trơn. Mình phải quen với việc này, nghĩ và khởi động xe.

    4. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 03 Phần 1

      BA

      Ngày mùng 10 tháng 7

      Bác sĩ Jack McCallum nghe thấy tiếng rú đầu tiên của xe cứu thương và .

      - đến lúc rồi các bạn!

      Khi bước ra chỗ đưa nạn nhân của phòng cấp cứu, thấy mạch mình đập như người bị chứng tim đập nhanh và cảm thấy các chất kích thích khiến hệ thống thần kinh của biến thành các đường dẫn lanh lợi. biết chuyện sắp xảy ra tại bệnh viện Miles Memorial ngoại trừ việc là có bệnh nhân tới. Qua đài của phòng cấp cứu, họ được thông báo về vụ mười lăm xe đâm vào nhau đường I-45 khiến hai người chết ngay tại trường và số người bị thương. Dù các bệnh nhân bị thương nghiêm trọng nhất được đưa đến bệnh viện Bayshore hay bệnh viện Texas Med nhưng toàn bộ các bệnh viện hơn trong khu vực, bao gồm bệnh viện Miles Memorial, được huy động vì tình trạng quá tải.

      Jack nhìn quanh khu xe cứu thương để bảo đảm rằng đội của sẵn sàng. bác sĩ cấp cứu khác, Anna Slezak đứng ngay cạnh trông có vẻ thích gây gổ. Đội ngũ hỗ trợ của họ gồm bốn y tá, người điều hành phòng thí nghiệm và thực tập sinh có diện mạo đáng sợ. Mới tốt nghiệp từ trường y khoa tháng, thực tập sinh này là người non trẻ nhất của đội cấp cứu và vụng về thể chịu nổi. ta phải làm trong bệnh viện tâm thần học mới đúng, Jack nghĩ.

      tiếng khựng cắt đứt tiếng còi khi xe cứu thương lao lên dốc và lùi lại chỗ xe. Jack bật cửa sau và nhìn nhanh bệnh nhân. - phụ nữ trẻ, đầu và cổ bất động vì chiếc vòng cổ, mái tóc vàng bết máu. Khi họ đưa ra khỏi chiếc xe cứu thương, nhìn mặt kỹ hơn và Jack bỗng lạnh sống lưng khi nhận ra .

      - Debbie. - .

      nhìn ngơ ngác và dường như biết là ai.

      - Jack McCallum đây. - .

      - Ôi, Jack! - nhắm mắt rên rỉ. - Đầu tôi đau lắm.

      vỗ vai an ủi.

      - Chúng tôi chăm sóc tốt. Đừng lo!

      Họ dùng xe lăn đưa qua các cửa phòng cấp cứu, về phía phòng chấn thương.

      - biết ấy à? - Anna hỏi .

      - Chồng ấy là Bill Haning, phi hành gia.

      - Ý trong những người trạm gian? - Anna cười. - Giờ cú điện thoại đường dài đấy.

      - Nếu chúng ta phải làm vậy khó khăn gì để liên lạc với ấy. Trung tâm vũ trụ Joson có thể thực cuộc gọi ngay lập tức.

      - muốn tôi đảm đương vụ này ? - đó là câu hỏi có lý. Các bác sĩ thường trốn tránh việc điều trị cho bạn bè và gia đình, người ta thể khách quan được khi ai đó bị bệnh tim nằm bàn là người họ biết và mến. Mặc dù Jack và Debbie từng có địa vị xã hội giống nhau nhưng chỉ coi như người quen biết chứ phải người bạn. thấy thoải mái khi là bác sĩ của .

      - Tôi lo vụ này. - và theo xe đẩy vào phòng chấn thương. Đầu óc tính đến việc cần làm tiếp theo. Vết thương duy nhất có thể thấy của vết nứt đầu. Nhưng vì chắc chắn chịu chấn thương vùng đầu, phải loại trừ trường hợp có các vết nứt hộp sọ và xương cổ.

      Khi các y tá hút máu để phục vụ các phòng thí nghiệm và nhàng cởi quần áo của Debbie, người có mặt trong xe cứu thương thông báo ngắn gọn cho Jack mọi chuyện.

      - ấy gần như chiếc xe số 15 trong đống hỗn độn. Theo chúng tôi thấy, ấy ở phía sau cùng. Xe ấy bị trượt sang bên rồi sau đó ấy lại bị đâm và nghiêng sang bên người lái xe. Cửa xe bị bẹp dúm.

      - ấy có tỉnh táo khi đến ?

      - ấy bất tỉnh mấy phút. ấy tỉnh dậy khi chúng tôi cho ống thở vào. Chúng tôi cố định xương sống của ấy ngay lập tức. Huyết áp và nhịp tim ổn định. ấy là trong những người may mắn. - người đó lắc đầu. - Đáng lẽ phải nhìn người đàn ông ngồi sau ấy.

      Jack xoay chiếc ghế để kiểm tra bệnh nhân. Cả hai con ngươi của Debbie đều phản ứng với ánh sáng và các cử động ngoài mắt vẫn bình thường. biết tên mình và biết mình ở đâu nhưng thể nhớ ngày tháng. Chỉ bị mất định hướng về mặt thời gian, nghĩ. Lý do đó cũng đủ để nhận ấy, đó là còn chưa kể phải theo dõi suốt đêm.

      - Debbie, tôi cho chụp X-quang. - . - Chúng tôi cần đảm bảo là bị nứt vỡ gì. - nhìn y tá và . - Hãy chụp cắt lớp, chụp hộp sọ và xương đốt sống. Và…. - ngừng lại nghe ngóng.

      Tiếng còi xe cứu thương khác lại rú lên.

      - Hãy hoàn thành các chụp chiếu đó. - ra lệnh rồi chạy vụt ra chỗ đưa bệnh nhân. Các nhân viên của xếp hàng ở đó.

      Tiếng còi thứ hai, yếu hơn nối tiếp tiếng còi thứ nhất. Jack và Anna nhìn nhau sợ hãi. Hai xe cứu thương đến cùng lúc sao?

      - Đây là trong những ngày đó. - lẩm bẩm.

      - Phòng chấn thương chuẩn bị chưa? - Anna hỏi.

      - Bệnh nhân được đưa chụp X-quang. - bước về phía trước khi chiếc xe cứu thương đầu tiên lùi lên.
      Nó vừa dừng lại, bật ngay cửa xe.

      Lần này là người đàn ông trung tuổi, phì nộn. Da ông ta tái ngắt và ướt át. Đánh giá sơ bộ của Jack là ông ta sắp bị sốc nhưng thấy máu, có vết thương.

      - Ông ta là trong những người bị kẹt trong vụ tai nạn. - nhân viên y tế khi đẩy xe lăn đưa ông ta vào phòng điều trị. - Ông ấy bị tức ngực khi chúng tôi lôi ông ấy ra khỏi xe. Nhịp tim ổn định, mạch đập hơi nhanh nhưng cần hô hấp nhân tạo. Tâm thu chín mươi. Chúng tôi tiêm cho ông ấy mooc-phin và ni tơ ngay tại trường. Ô-xi lên mức sáu lít.

      Mọi người đều có việc cần làm. Anna ghi lại quá trình vụ việc còn các y tá lắp máy trợ tim. Các dòng điện tâm đồ tạo thành những tiếng bíp máy. Jack xé tờ giấy rồi tập trung ngay vào các đường lên xuống khi gắn các tấm điện tâm đồ số và hai.

      - Ông ta từng là quân nhân. - với Anna.

      gật đầu.

      - Tôi nhận thấy ông ấy là tình báo rất đặc biệt.

      y tá gọi ngoài cửa.

      - Các xe cứu thương khác đến đây!

      Jack và hai y tá khác chạy ra ngoài.

      phụ nữ trẻ la hét quằn quại cáng. Jack nhìn thấy cẳng chân phải bị đứt của ấy, bàn chân xoay hẳn sang bên. biết nạn nhân này phải đến phòng mổ ngay. Jack nhanh chóng xé quần áo của ấy, để lộ ra phần gãy ở hông. Xương đùi của đâm vào hốc do lực của hai đầu gốc thúc vào bảng đồng hồ của xe. Chỉ cần nhìn chiếc chân biến dạng ghê gớm của cũng khiến nôn mửa.

      - Dùng mooc-phin ? - y tá hỏi.

      gật đầu.

      - Tiêm cho ấy mức cao nhất. ấy đau đớn lắm. Lấy liều thuốc mê lại đây, càng…

      - Bác sĩ McCallum, chụp X-quang. Bác sĩ McCallum, phòng chụp X-quang.

      Jack ngước lên kinh ngạc. Debbie Haning. chạy ra khỏi phòng.

      thấy Debbie nằm bàn chụp X-quang và đứng quanh đó là y tá cấp cứu và kỹ thuật viên.

      - Chúng tôi vừa chụp xong xương đốt sống và hộp sọ. - viên kỹ thuật . - Và chúng tôi thể đánh thức ấy được. ấy còn phản ứng với đau đớn.

      - ấy bất tỉnh bao lâu rồi?

      - Tôi biết. ấy nằm bàn mười hay mười lăm phút, rồi chúng tôi mới để ý thấy ấy chuyện với chúng tôi nữa.

      - chụp cắt lớp chưa?

      - Máy tính tắt rồi. Vài giờ nữa nó mới bật và hoạt động.

      Jack soi đèn pin vào mắt Debbie và cảm thấy ruột gan mình đột nhiên lộn nhào. Đồng tử của giãn to và hoạt động.

      - Cho tôi xem phim chụp! - như quát.

      - Phim chụp xương đốt sống hộp chiếu.

      Jack chạy nhanh sang phòng bên cạnh xem các tấm phim X-quang được kẹp hộp chiếu màu đen. thấy vết nứt nào các tấm phim tiếp theo, xương cổ chân vẫn ổn định. giật các tấm phim đó xuống rồi thay chúng bằng các phim hộp sọ. Khi nhìn lần đầu, thấy gì nét cả. Rồi tập trung vào đường rất mờ chạy dọc xương thái dương bên trái. Nó đến nỗi trông nó như chiếc đinh ghim gài vào tấm phim. Đó là vết nứt.

      Liệu vết nứt đó có làm vỡ động mạch màng não chính bên trái ? Điều đó có thể khiến sọ chảy máu. Khi máu đông lại, áp lực tăng lên và não co lại. Điều đó lý giải vì sao thần kinh của giảm sút và đồng tử nở rộng.

      Phải hút máu ra ngay lập tức.

      - Đưa ấy về phòng cấp cứu. - .

      Trong vài giây, họ buộc Debbie vào ghế lăn và đẩy dọc hành lang bệnh viện. Khi họ đưa vào phòng điều trị trống , Jack hét lên với nhân viên ở đó.

      - Chuẩn bị phòng mổ thần kinh! với họ là chúng tôi có vụ chảy máu ngoài màng cứng và chúng tôi chuẩn bị cho các lỗ khoan khẩn cấp.

      biết rằng Debbie thực cần phòng mổ nhưng tình trạng của xấu quá nhanh và họ chần chừ được nữa. Phòng điều trị là phòng mổ của họ. Họ đặt lên bàn và gắn các tấm chì làm sốc tim hình tam giác lên ngực . Nhịp thở của rối loạn, đến lúc luồn ống thở vào khí quản.

      xé túi đựng ống khí quản trong khi y tá .

      - ấy ngừng thở!

      luồn dụng cụ soi thanh quản vào cổ họng Debbie. Vài giây sau, ống trợ thở được luồn vào và ô-xi được bơm vào phổi .

      y tá cắm máy cạo tóc chạy bằng điện. Mái tóc vàng hoe của Debbie bắt đầu rụng xuống sàn nhà tạo thành đống óng ả như lụa, để lộ ra phần da đầu.

      nhân viên thò đầu vào.

      - Bác sĩ phẫu thuật thần kinh bị tắc đường! Ít nhất giờ nữa ông ấy mới có thể đến đây.

      - Vậy gọi ai khác !

      - Họ đều đến bệnh viện Texas Med hết rồi! Toàn bộ các nạn nhân đều bị chấn thương hộp sọ.

      Lạy Chúa, chúng ta hết cách rồi, Jack nghĩ và nhìn Debbie. Mỗi phút trôi qua là áp lực trong não tăng lên. Các tế bào thần kinh chết dần. Nếu đây là vợ mình, mình chờ đợi, chờ đợi thêm giây nào nữa.

      nuốt nước bọt.

      - Lấy máy khoan Hudson! Tôi tự khoan lỗ. - thấy các y tá nhìn sửng sốt. cố làm ra vẻ can đảm hơn mức có thể. - Giống như khoan lỗ vào tường thôi mà. Tôi làm rồi.

      Trong khi các y tá chuẩn bị vùng da đầu mới bị cạo tóc, Jack mặc áo choàng mổ và đeo găng tay. đặt màn vô trùng và ngạc nhiên khi thấy tay vẫn run ngay cả khi tim đập loạn xạ. Thực là trước đây từng khoan não nhưng chỉ lần thôi. Việc đó xảy ra cách đây nhiều năm dưới giám sát của bác sĩ phẫu thuật thần kinh.

      còn thời gian nữa. ấy sắp chết. Làm !

      lấy dao mổ và rạch đường rất thẳng lên da đầu xương thái dương bên trái. Máu rỉ ra. thấm hết máu và đốt nóng để cầm máu cho . dùng chiếc banh miệng vết mổ, giữ mảng da lật về phía sau, rạch sâu hơn xuyên qua phần bảo vệ sọ và chạm dao vào phần màng ngoài não. Đến đó khoét nó ra, để lộ phần mặt hộp sọ.

      cầm chiếc khoan Hudson. Đó là thiết bị kỹ thuật, sử dụng bằng tay và có vẻ cổ xưa. Đó là loại dụng cụ người ta có thể tìm thấy trong xưởng gỗ của ông mình.

      Đầu tiên, dùng máy khoan, chiếc khoan có lưỡi hình chiếc mai có khả năng đào sâu vào xương đủ để tạo lỗ thủng. Sau đó dùng phần sừng, đầu tròn với các gờ có nhiều mép. hít sâu, đặt chiếc sừng xuống và bắt đầu khoan sâu hơn vào trong não. Những giọt mồ hôi đầu tiên rỉ ra trán . khoan mà có các xác nhận chụp cắt lớp và chỉ dựa những đánh giá y khoa của bản thân. Thậm chí còn chắc mình có khoan đúng chỗ .

      tia máu đột ngột phun ra từ cái lỗ và bắn lên tấm rèm phòng mổ.

      y tá đưa cho bồn rửa. rút chiếc khoan ra và nhìn dòng máu đỏ từ từ chảy ra khỏi não rồi chảy vào cái bồn lấp lánh. khoan đúng chỗ. Cùng với dòng máu chảy ra, áp lực giảm dần trong não Debbie.

      thở phào nhõm. Gánh nặng đột nhiên tan biến đôi vai , chỉ còn các cơ bắp bị kiệt sức và đau đớn.

      - Chuẩn bị sáp gắn xương! - rồi đặt chiếc khoan xuống và lấy ống thông hút nước tiểu.

      chú chuột bạch lơ lửng trong môi trường chân , như thể nó lơ lửng trong đại dương trong suốt. Bác sĩ Emma Watson tiến về phía nó. Trông mảnh dẻ và quyến rũ như vũ công dưới nước. Các lọn tóc xoăn màu nâu của ánh lên như những vầng sáng kỳ ảo. túm lấy con chuột và từ từ quay lại đối diện với ống kính. lấy ống tiêm và xi-lanh.

      Cảnh quay đó được thực trong hơn hai năm, được quay trong tàu con thoi Atlantis trong toàn bộ hệ thống vận chuyển tàu con thoi 141. Nhưng nó vẫn là đoạn phim quan hệ công chúng mà Gordon Obie thích. Đó là lý do tại sao nay nó được chiếu tất cả các màn hình của Thính phòng Teague của NASA. Ai mà thích ngắm nhìn Emma Watson? nhanh nhẹn, uyển chuyển. sở hữu thứ mà người ta gọi là tỏa sáng với ánh sáng của tò mò trong đôi mắt . Từ vết sẹo lông mày đến chiếc răng cửa bị sứt chút (đây là kỷ niệm mà ông được biết đến là do bất cẩn khi trượt tuyết), khuôn mặt ghi lại cuộc sống rất sôi nổi. Nhưng với Gordon, sức cuốn hút mạnh mẽ nhất chính là thông minh và tài năng của . Ông hào hứng theo sát nghiệp của Emma tại NASA và để ý tới thực tế rằng phụ nữ hấp dẫn kỳ lạ.

      Là giám đốc Trung tâm phi hành đoàn, Gordon Obie có quyền hạn rất lớn trong việc lựa chọn thành viên. Ông cố gắng duy trì khoảng cách tình cảm an toàn. - mà vài người gọi đó là nhẫn tâm. - với các phi hành gia của mình. Ông cũng từng là phi hành gia, hai lần là tổng chỉ huy tàu con thoi. Thậm chí sau đó người ta còn biết đến ông với biệt danh Nhân sư, người đàn ông tách biệt và bí hiểm bao giờ tán gẫu. Ông thấy dễ chịu với im lặng của mình và đôi khi còn muốn giấu cả tên nữa. Mặc dù bây giờ ông ngồi sân khấu với tá các viên chức của NASA hầu hết các khán giả biết Gordon Obie là ai. Ông có mặt ở đó chỉ để trang trí cho đội ngũ. Việc đó cũng giống như cảnh quay của Emma để trang trí cho đội hình, đó là khuôn mặt quyến rũ khiến khán giả chú ý.

      Máy quay đột nhiên ngừng lại và thay vào đó màn hình xuất biểu tường của NASA được thân mật biết đến như viên thịt băm. Đó là vòng tròn màu xanh lơ với các sọc ngôi sao được trang trí bằng hình elip chạy quanh và tia sáng màu đỏ hình chữ chi. Nhà quản lý NASA, ông Leroy Cornell và giám đốc Trung tâm vũ trụ Joson, Ken Blankenship bước lên bục thuyết trình để trả lời các câu hỏi. Công việc của họ khá thẳng thắn, đó là xin thêm tài trợ. Họ đối mặt với các thành viên Quốc hội, các thượng nghị sĩ và các hội đồng cấp dưới khác nhau có thái độ đa nghi. Chính họ quyết định ngân quỹ của NASA. Trong năm thứ hai liên tiếp, NASA bị cắt giảm chi phí rất nhiều. Gần đây, khí xơ xác và ảm đạm bao trùm toàn bộ các phòng ban của Trung tâm vũ trụ Joson.

      Khi nhìn các khán giả là các quý ông và quý bà ăn mặc lịch , Gordon có cảm giác ông nhìn nền văn hóa xa lạ. Các chính trị gia đó có vấn đề gì? Sao họ có thể thiển cận như vậy? Ông thấy hoang mang khi họ có chung niềm tin mạnh mẽ như mình. Điều khiến loài người tách biệt với các con vật khủng khiếp khác là khao khát hiểu biết. Đứa trẻ nào cũng hỏi câu chung của cả nhân loại: Tại sao? Từ khi sinh ra, chúng được lập trình để tò mò, để trở thành các nhà thám hiểm, để tìm kiếm các chân lý khoa học.

      Nhưng các vị quan chức được lựa chọn này lại đánh mất tò mò khiến con người trở nên khác biệt. Họ đến Houston phải để hỏi tại sao, mà để hỏi sao chúng tôi nên làm vậy.

      Cornell có ý kiến tranh thủ giúp đỡ của họ bằng thứ mà ông ta dám ngang nhiên gọi là “Chuyến của Tom Hanks”, cụm từ có ý nhắc đến bộ phim Tàu Apollo 13, bộ phim vẫn được xếp là bộ phim quan hệ công chúng tuyệt vời nhất của NASA từ trước đến nay. Cornell trình bày các thành tựu gần đây nhất các chuyến bay của Trung tâm vũ trụ quốc tế. Ông để họ bắt tay vài phi hành gia . phải ai cũng ao ước được chạm vào cậu bé vàng, người hùng hay sao? Tiếp theo, có chuyến du lịch quanh Trung tâm vũ trụ Joson, bắt đầu là tòa nhà ba mươi và phòng điều hành bay. Chưa kể đến việc các khán giả này thể phân biệt nổi khác biệt giữa bảng điều khiển bay và bộ đồ chơi điện tử của Nintendo, toàn bộ các kỹ thuật nhiệm màu đó chắc chắn khiến họ kinh ngạc và trở thành những người có lòng tin thực .

    5. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 03 Phần 2

      Nhưng điều đó có tác dụng, Gordon nghĩ. Các chính trị gia này mua nó.

      NASA đối diện với những người phản đối đầy quyền lực mà đầu tiên là thượng nghị sĩ Phil Parish ngồi ở hàng ghế đầu. Ông ta bảy mươi sáu tuổi, con cú thể thương lượng được của bang Nam California. ưu tiên trước nhất của ông ta là bảo tồn ngân quỹ của bộ quốc phòng và NASA bị chỉ trích. Lúc này ông ta lôi tấm thân nặng trăm ba mươi sáu cân của mình khỏi chỗ ngồi, đứng lên chất vấn Cornell bằng chất giọng lè nhè của quý ông.

      - Cơ quan của ông chi vượt ngân sách hàng tỉ đô la. - ông ta . - Giờ tôi cho rằng người Mỹ muốn hy sinh những khả năng phòng vệ của mình để các vị làm ăn qua quít với các cuộc thử nghiệm thuận tiện ở phòng thí nghiệm. Đáng lẽ đây phải là nỗ lực của cả thế giới phải ? Ồ, theo tôi, tất cả chúng ta trả tiền hóa đơn. Sao tôi có thể thanh minh với đảng Cộng hòa ở bang California đây?

      Giám đốc trung tâm NASA Cornell đáp lại bằng nụ cười theo kiểu sẵn. - sàng. - trước. - ống. - kính. Ông là người sinh ra cho chính trị, diễn viên thủ nhiều vai chính. lôi cuốn cá nhân và uy tín với công chúng khiến ông trở thành ngôi sao với giới báo chí tại Washington. Ở đó, ông dành phần lớn thời gian để phỉnh phờ Quốc hội và Nhà Trắng để có thêm tiền, ngày càng nhiều tiền để chi trả cho các khoản lúc nào cũng thiếu của Trung tâm vũ trụ. Khuôn mặt của ông cũng là khuôn mặt chung của NASA. Trong khi đó, Ken Blankenship, người chịu trách nhiệm về việc điều hành hằng ngày tại Trung tâm vũ trụ Johnson là khuôn mặt riêng tư và chỉ được các nhân viên trung tâm biết đến. Họ là hai thái cực và dương của cấp lãnh đạo NASA. Tính khí của họ khác biệt đến mức khó hình dung là họ làm việc cùng nhau. Có câu chuyện tếu ở NASA rằng Leroy Cornell chỉ có mẽ ngoài mà có tố chất còn Blankenship chỉ có tố chất mà có mẽ ngoài.

      Cornell từ tốn trả lời câu hỏi của ngài thượng nghị sĩ.

      - Ngài đặt ra câu hỏi tại sao các nước khác tham gia vào việc này. Thưa ngài thượng nghị sĩ, câu trả lời là họ có đóng góp. Đây thực Trung tâm vũ trụ mang tính quốc tế. Đúng thế, người Nga gặp rắc rối lớn về vấn đề tài chính. Đúng vậy, chúng ta phải tạo nên khác biệt nhưng họ gắn bó với trạm gian này. Giờ họ có các nhà du hành vũ trụ đó và họ có đủ lý do để giúp Trạm vũ trụ quốc tế của chúng ta hoạt động. Về câu hỏi tại sao chúng ta cần Trạm vũ trụ này, xin ngài hãy xem lại các nghiên cứu được thực trong lĩnh vực sinh học và y khoa, các tài liệu khoa học, địa vật lý. Chúng ta chứng kiến những lợi ích của nghiên cứu này trong chính thời đại của chúng ta.

      thành viên khác trong đám khán giả đứng lên và Gordon cảm thấy huyết áp tăng lên. Nếu có ai đó khiến ông xem thường hơn thượng nghị sĩ Parish đó chính là thành viên Quốc hội của bang Montana, ông Joe Bellingham. Vẻ ngoài điển trai theo kiểu Người đàn ông Malboro của ông ta thể che giấu rằng ông ta chỉ là kẻ mù mờ về mặt khoa học. Trong suốt cuộc vận động tranh cử của mình, ông ta cầu trường học dạy Thuyết sáng tạo linh hồn, bắt họ ném hết sách vở sinh học và thay vào đó là hãy mở các cuốn kinh thánh. Có lẽ ông ta cho rằng động cơ tên lửa được các thiên thần nạp năng lượng.

      - Về toàn bộ việc chia sẻ kỹ thuật giữa người Nga và người Nhật sao? - Bellingham . - Tôi e rằng chúng ta cho các bí mật kỹ thuật cao cấp. Việc hợp tác quốc tế này nghe có vẻ cao thượng. Nhưng đó cũng là điều khiến cho họ quay ngoắt lại, dùng các tri thức đó để chống lại chúng ta. Vậy tại sao chúng ta lại phải tin những người Nga?

      Lại là nỗi sợ hãi và thói đa nghi. ngu dốt và mê muội. Đất nước này có quá nhiều những thứ đó và Gordon cảm thấy thất vọng hơn khi nghe Bellingham . quay tỏ thái độ khinh miệt.

      Gordon lặng lẽ rời sân khấu. Hai người đàn ông bước ra lối .

      - Có chuyện gì vậy?

      - Có vụ tai nạn. Vợ của Bill Haning. Chúng tôi được biết ấy ổn lắm.

      - Lạy Chúa!

      - Bob Kittredge và Woody Ellis đợi bên ngoài Phòng quan hệ công chúng. Chúng tôi cần chuyện.

      Gordon gật đầu. liếc nhìn khán phòng và dừng lại ở thành viên Quốc hội Bellingham. Ông ta vẫn hươu vượn về các mối nguy hiểm khi chia sẻ kỹ thuật với những người cộng sản. lừ đừ theo Hank ra lối ra của khán phòng, qua sân trong đến tòa nhà tiếp theo.

      Họ gặp nhau ở văn phòng phía sau. Kittredge, chỉ huy tàu con thoi thuộc hệ thống di chuyển tàu con thoi số 162 đỏ mặt tức giận. Woody Ellis, giám đốc điều hành bay của Trung tâm vũ trụ quốc tế có vẻ bình tĩnh hơn. Nhưng sau đó, Gordon nhìn thấy điều chưa từng có trước đó, đó là vẻ mặt ủ dột của Ellis ngay cả khi có biến cố.

      - Tai nạn nghiêm trọng ? - Gordon hỏi.

      - Xe của vợ Haning nằm trong đống xe đâm vào nhau khổng lồ đường số I-45.
      - Hank . - Xe cứu thương đưa ấy đến bệnh viện Miles Memorial. Jack McCallum gặp ấy ở phòng cấp cứu.

      Gordon gật đầu. Họ đều biết Jack rất . Dù còn làm việc trong Trung tâm vũ trụ nữa nhưng Jack vẫn là bác sĩ phẫu thuật trong bảng phân công phi hành đoàn năng động của NASA. Năm ngoái, rút lui khỏi phần lớn các nhiệm vụ của NASA và làm bác sĩ cấp cứu ở bệnh viện tư nhân.

      - Jack gọi cho văn phòng của chúng tôi và thông báo về Debbie. - Hank .

      - ấy có gì về tình hình của ấy ?

      - Vết thương nặng ở đầu. ấy trong phòng chăm sóc đặc biệt vì bị hôn mê.

      - Chẩn đoán bệnh ra sao?

      - ấy thể trả lời câu hỏi đó. - họ đều im lặng khi nghĩ về tác động của bi kịch này với trung tâm NASA. Hank thở dài. - Chúng ta phải thông báo cho Bill. Chúng ta thể giấu ấy tin này. Vấn đề là…. - hết. cần hết, tất cả bọn họ đều hiểu khó khăn đó là gì.

      Bill Haning phi thuyền bay theo quỹ đạo của Trung tâm vũ trụ quốc tế mới được tháng trong chuyến bay định trước kéo dài bốn tháng. Tin này khiến gục ngã. Trong số các yếu tố gây khó khăn cho việc kéo dài thời gian ở lại trong vũ trụ, điều NASA lo lắng nhất là những mất mát về mặt tình cảm. Nếu phi hành gia buồn chán ta có thể gây tai họa khi thực thi nhiệm vụ. Mấy năm trước, con tàu Mir, tình huống tương tự xảy ra khi phi hành gia Volodya Dezhurov được thông báo rằng mẹ qua đời. giam mình nhiều ngày trong khoang của tàu Mir và chịu chuyện với Trung tâm điều hành tại Matx-cơ-va. Nỗi buồn của phá hỏng toàn bộ công việc của mọi người tàu Mir.

      - Đời sống hôn nhân của họ rất thân mật. - Hank . - Tôi có thể dám chắc với các vị là Bill chịu đựng được việc này.

      - Ý là chúng ta phải thay thế ấy? - Gordon hỏi.

      - Trong chuyến bay tàu con thoi được lên lịch tiếp theo. ấy có vừa đủ thời gian để bị mắc kẹt lại ở đó trong hai tuần nữa. Chúng ta thể đòi hỏi ấy phục vụ chúng ta đầy đủ bốn tháng. - Hank nhàng thêm. - Họ có hai con , các vị biết đấy.

      - Người hỗ trợ ấy Trạm vũ trụ quốc tế là Emma Watson. - Woody Ellis . - Chúng ta có thể đưa ấy lên Trạm vũ trụ quốc tế 160 với phi hành đoàn của Vance.

      Khi nghe tới tên của Emma Watson, Gordon rất cẩn trọng để lộ bất cứ thái độ quan tâm hay bất cứ tình cảm nào.

      - nghĩ sao về Emma Watson? ấy sẵn sàng bay lên đó sớm hơn ba tháng chưa?

      - ấy đề xuất cho Bill về. ấy sẵn sàng thúc đẩy các cuộc thử nghiệm trong vũ trụ nên tôi nghĩ lựa chọn này rất phù hợp.

      - Tôi hài lòng về việc này. - Bob Kittredge .

      Gordon thở dài mệt mỏi và quay về phía viên chỉ huy tàu con thoi.

      - Tôi cũng đoán là như vậy.

      - Watson là thành viên thuộc phi hành đoàn của tôi. Chúng tôi đội rất gắn bó. Tôi hài lòng khi đội tôi bị chia rẽ.

      - Ba tháng nữa phi hành đoàn của mới bay. có thời gian để đánh giá mà.

      - gây khó khăn cho công việc của chúng tôi.

      - Ý thể có đội ăn ý đến thời điểm đó à?

      Kittredge thấy cứng miệng.

      - Tất cả những gì tôi là đội của tôi bộ máy làm việc thống nhất. Chúng tôi hài lòng khi có Emma Watson.

      Gordon nhìn Hank.

      - Còn đội Trạm vũ trụ quốc tế 160 sao? Còn Vance và phi hành đoàn của ấy sao?

      - Rốt cuộc họ chẳng có vấn đề gì cả. Watson chỉ là hành khách khác ở khoang giữa. Họ đưa ấy lên Trạm vũ trụ trung tâm như các thiết bị khác.

      Gordon nghĩ kỹ về chuyện đó. Họ vẫn về các lựa chọn chứ hề chắc chắn. Có lẽ Debbie Haning tỉnh lại bình an và Bill có thể ở lại Trạm vũ trụ quốc tế như dự kiến. Nhưng như bất cứ ai khác tại NASA, Gordon tự rèn cho mình cách lên kế hoạch cho các tình huống bất ngờ, cách để dòng suy nghĩ của mình tập trung vào sơ đồ các hành động cần thực theo trật tự a, b, c.

      nhìn Woody Ellis để xác định lần cuối cùng. Woody gật đầu.

      - Được rồi. - Gordon . - Gọi Emma Watson cho tôi.

      nhìn thấy ở góc xa trong hành lang bệnh viện. chuyện với Hank Millar. Dù quay lưng lại với và mặc bộ đồ phẫu thuật màu xanh truyền thống, Emma vẫn nhận ra đó là Jack. Bảy năm chung sống để lại thân thuộc khiến có thể nhận ra cần thấy mặt.

      Thực tế đây cũng chính là cảnh tượng nhớ về Jack McCallum khi họ gặp nhau lần đầu. Khi đó họ đều làm việc tại phòng cấp cứu của Bệnh viện Tổng hợp San Francisco. đứng tại khu của y tá, viết hồ sơ bệnh án. Đôi vai rộng của rũ xuống vì mỏi mệt, tóc rối bời như thể vừa ra khỏi giường. Mà đúng là vừa mới thức dậy. Đó là buổi sáng sau đêm trực làm việc hết mình. Dù chưa cạo râu và mắt trũng sâu, khi quay lại nhìn lần đầu tiên, cả hai người đều thấy bị thu hút ngay lập tức.

      Giờ Jack già hơn chục tuổi. Tóc có những sợi bạc và mệt mỏi lại khiến đôi vai nặng trĩu. Ba tuần rồi chưa gặp và chỉ chuyện qua loa với điện thoại cách đây mấy hôm. Đó là cuộc chuyện biến chuyển theo hướng xấu và trở thành cuộc cãi vã om sòm. Gần đây họ có vẻ như thể xử đúng mức với nhau, thể chuyện cách bình tĩnh dù họ rất ngắn gọn.

      Vì vậy có chút e sợ khi tiếp tục dọc hành lang về phía .

      Hank Millar nhìn thấy trước và mặt ngay lập tức có vẻ căng thẳng như thể biết thể tránh khỏi cuộc chiến. muốn thoát khỏi địa ngục đó trước khi cuộc đọ súng bắt đầu. Chắc chắn Jack cũng nhận thấy khuôn mặt biến sắc của Hank vì quay lại để xem điều gì khiến ấy như vậy.

      Khi thoáng nhìn thấy Emma, như đông cứng lại, nụ cười chào hỏi bất chợt hé nở khuôn mặt. Đó hẳn là vẻ ngạc nhiên và vui mừng khi thấy . Rồi sau đó có cái gì đó chế ngự và nụ cười môi vụt tắt. Thay vào đó là ánh mắt vui, buồn mà chỉ trung hòa. Khuôn mặt của người xa lạ, nghĩ, và điều đó còn đau đớn hơn nếu chào bằng thái độ hằn học thẳng thừng. Như vậy ít ra sau đó có chút tình cảm nào đọng lại, chút gì còn lại dù bé từ cuộc hôn nhân thời hạnh phúc.

      nhận ra cũng đáp lại ánh mắt cách bình thường. Khi lên tiếng, với cả hai người đàn ông cùng lúc và ưu tiên ai cả.

      - Gordon thông báo với tôi chuyện của Debbie. ấy sao rồi?

      Hank liếc sang phía Jack, đợi trả lời trước. Cuối cùng, Hank .

      - ấy vẫn bất tỉnh. Chúng tôi chờ đợi tại phòng chờ. muốn vào đó ?

      - Có chứ. Tất nhiên rồi. - về phía phòng chờ dành cho khách đến thăm.

      - Emma! - Jack gọi to. - Chúng ta chuyện được ?

      - Tôi gặp cả hai sau. - Hank rồi nhanh chóng rút lui về phía hành lang. Họ chờ khuất ở góc cua rồi nhìn nhau.

      - Debbie ổn lắm. - Jack .

      - Có chuyện gì vậy?

      - ấy bị chảy máu ngoài màng cứng của não. Khi nhập viện, ấy còn tỉnh táo và chuyện. Chỉ trong mấy phút, ấy xấu rất nhanh. kịp nhận ra điều đó. khoan lỗ não cho tới khi…. - dừng lại, quay . - ấy phải dùng máy trợ thở.

      Emma đưa tay ra định chạm vào nhưng ngăn mình lại vì nghĩ rằng nhấc tay ra. Lâu lắm rồi nhận được lời động viên nào từ . Dù nữa, dù có chân thành mức nào nữa vẫn coi đó là thương hại. Và nghĩ mình bị coi thường.

      - Rất khó chẩn đoán việc đó, Jack ạ. - đó là tất cả những gì có thể .

      - Đáng lẽ ra phải làm việc đó sớm hơn.

      - rằng tình hình ấy xấu quá nhanh. Đừng tự đánh giá mình nữa!

      - Điều đó có nghĩa cảm thấy đỡ hơn!

      - Em cố làm cảm thấy tốt hơn. - bực tức . - Em chỉ ra thực tế rằng chẩn đoán đúng và hành động. thể dành cho mình chút thời gian nghỉ ngơi dù chỉ lần thôi sao?

      - Nghe này, đây phải là việc liên quan đến , em hiểu chứ? - phản bác lại. - Đó là về em.

      - Ý là gì?

      - Debbie sớm rời bệnh viện được. Điều đó có nghĩa là Bill…

      - Em biết. Gordon Obie giao cho em lên tàu.

      Jack ngừng lại.

      - quyết định rồi sao?

      gật đầu.

      - Bill về nhà. Em thay thế ấy chuyến bay tiếp theo. - nhìn sang phòng chức năng đặc biệt. - Họ có hai con. - khẽ. - ấy thể ở đó thêm ba tháng nữa.

      - Em chưa sẵn sàng. Em chưa có thời gian…

      - Em sẵn sàng. - quay .

      - Emma. - đưa tay ra ngăn lại. đụng chạm của khiến ngạc nhiên. quay lại nhìn bỏ tay ra ngay lập tức.

      - Khi nào em Kennedy?

      - tuần nữa. cách ly.

      Trông có vẻ kinh ngạc. gì và cố nghe cái tin đó.

      - Việc đó khiến em nhớ ra. - . - chăm sóc Humphrey khi em vắng nhé!

      - Sao cho vào trong cũi?

      - Giam con mèo trong suốt ba tháng độc ác.

      - Con quỷ đó được cắt móng chưa?

      - Thôi nào, Jack. Nó chỉ cào mọi thứ khi nó cảm thấy bị bỏ rơi. Hãy để ý đến nó, nó chạm đến đồ đạc của đâu.

      Jack ngước lên khi trang mới được thông báo hệ thống địa chỉ: “Bác sĩ McCallum đến phòng cấp cứu. Bác sĩ McCallum đến phòng cấp cứu. ”

      - Em nghĩ phải rồi. - và định bỏ .

      - Chờ ! Chuyện này diễn ra quá nhanh. Chúng ta chưa có thời gian trò chuyện.

      - Nếu về chuyện ly hôn, luật sư của em có thể trả lời bất cứ câu hỏi nào khi em vắng.

      - ! - khiến kinh ngạc khi to tiếng với . - , muốn chuyện với luật sư của em!

      - Vậy muốn gì với em?

      nhìn lúc như thể tìm từ để .

      - Đó là về nhiệm vụ lần này. - cuối cùng . - Nó quá nhanh. thấy ổn.

      - Thế là sao?

      - Em là người thay thế bất đắc dĩ. Em bay cùng phi hành đoàn khác.

      - Vance lái tàu rất tốt. Em hoàn toàn thoải mái với lần phóng tàu này.

      - Còn khi ở trạm sao? Em có thể buộc phải kéo dài thời gian ở lại thêm sáu tháng quỹ đạo.

      - Em có thể giải quyết việc đó.

      - Nhưng việc đó chưa được lên kế hoạch. Nó được quyết định vào phút chót.

      - bảo em phải làm gì đây, Jack? Là kẻ nhút nhát à?

      - biết! - tay bực tức thọc vào tóc khiến nó rối bù. - biết!

      Họ đứng đó im lặng lúc. Cả hai đều biết gì, nhưng cũng chưa sẵn sàng kết thúc cuộc chuyện. Bảy năm chung sống, nghĩ, rồi rốt cuộc mọi chuyện thế này đây. Hai người thể ở cùng nhau nhưng thể xa nhau. Giờ chẳng còn thời gian để giải quyết mọi chuyện giữa hai ta.

      dòng chữ khác lại chạy màn hình: “Bác sĩ McCallum đến phòng cấp cứu. ”

      Jack nhìn , giọng vỡ vụn.

      - Emma…

      - Jack. - giục . - Họ cần !

      gầm lên giận dữ rồi chạy đến phòng cấp cứu.

      quay bước và rẽ lối khác.

      Chương 04

      BỐN

      Ngày 12 tháng 7
      Trạm vũ trụ quốc tế

      Từ các cửa sổ quan sát của vòm nút 1, bác sĩ William Haning thấy những đám mây bay Đại Tây Dương phía dưới tàu hai trăm năm mươi dặm. chạm vào kính. Ngón tay lướt tấm chắn bảo vệ với môi trường chân bên ngoài. Đó là trở ngại khác ngăn cách với gia đình, với vợ. nhìn trái đất xoay bên dưới. thấy Đại Tây Dương lướt qua, rồi Bắc Phi, Ấn Độ Dương từ từ quay đến, màn đêm buông xuống. Dù cơ thể ở trạng thái lơ lửng trọng lượng nhưng nỗi buồn dường như thắt chặt ngực , khiến khó thở.

      Vào lúc đó, tại bệnh viện Houston, vợ đấu tranh giành lại sống, còn thể làm gì giúp ấy. bị giữ lại đây thêm hai tuần nữa. có thể nhìn xuống chính thành phố, nơi Debbie hấp hối nhưng thể đến với , thể chạm vào . Điều tốt nhất có thể làm là nhắm mắt lại, cố tưởng tượng ở bên , tay họ đan vào nhau.

      Em phải chờ. Em phải chiến đấu. về với em.

      - Bill, ổn chứ?

      quay lại thấy Diana Estes lơ lửng bay từ khoang thử nghiệm Mỹ vào nút của . ngạc nhiên khi hỏi thăm. Thậm chí sau tháng sống gần gũi nhau trong những khoang , thể làm ấm lòng người phụ nữ này. quá lạnh lùng, quá lạnh nhạt. Dù có vẻ đẹp lạnh lùng, chưa bao giờ bị lôi cuốn và chắc chắn chưa bao giờ quý mến hay dành cho chút quan tâm nào. Nhưng sau đó, thường chú ý đến Michael Griggs. Griggs vợ chờ dưới trái đất nhưng dường như điều đó cũng có ý nghĩa gì với hai người bọn họ. Ở Trạm vũ trụ quốc tế này, Diana và Griggs giống như hai nửa của ngôi sao đôi, quay quanh nhau và nối với nhau bằng lực kéo trọng lực mạnh mẽ.

      Đây là trong những đáng buồn khi là trong sáu người thuộc bốn nước bị giam trong các khoang này. Lúc nào cũng có các ban trực tách biệt và có phân biệt, cảm giác biến đổi giữa chúng tôi và họ. Áp lực khi sống quá lâu trong tình trạng giam cầm ảnh hưởng khác nhau đến mỗi người. Nicolai Rudenko người Nga là người sống Trạm vũ trụ quốc tế lâu nhất gần đây trở nên ủ rũ và dễ nổi nóng.

      Kenichi Hirai của Trung tâm vũ trụ Nhật Bản NASDA rất bực bội vì vốn tiếng của mình còn kém, thường im lặng cách khó hiểu. Chỉ có Luther Ames vẫn là bạn của mọi người. Khi trung tâm Houston thông báo tin dữ về Debbie, Luther là người theo bản năng biết cần gì với Bill và lòng, xuất phát từ tình nhân ái trong con người . Luther là chàng trai người Alabama của ông bộ trưởng có uy tín. thừa hưởng tố chất của cha về khả năng an ủi người khác.

      - Đừng băn khoăn về chuyện đó, Bill. - Luther . - phải về nhà với vợ. hãy thông báo với trung tâm NASA rằng họ nên gửi tàu đến đón . Nếu , họ phải đối phó với tôi đấy.

      khác với cách xử của Diana. Vẫn lô-gíc như mọi khi, ta bình tĩnh phân tích rằng Bill thể làm gì để giúp vợ hồi phục nhanh hơn. Debbie bị hôn mê, ấy thậm chí là biết là có ở đó. Lạnh lùng, cứng rắn như bình thủy tinh trong phòng thí nghiệm, nơi ta lớn lên, đó là điều Bill nghĩ về Diana.

      Đó là lý do tại sao lúc này ngạc nhiên khi hỏi thăm . ta lùi xa về phía nút tàu, xa cách như mọi khi. Mái tóc dài vàng óng ôm lấy khuôn mặt như những cây rong dạt biển.

      quay và lại nhìn về phía cửa sổ.

      - Tôi chờ để nhìn thấy trung tâm Houston. - .

      - đợt thư điện tử mới từ thiết bị vệ tinh.

      gì. chỉ nhìn các ánh đèn lấp lánh ở thành phố Tokyo. Lúc này chúng mờ dần khi vừng đông lên.

      - Bill, có vài chuyện cần tập trung chú ý. Nếu quan tâm đến nó chúng tôi buộc phải tách các nhiệm vụ của ra khỏi nhóm.

      Những nhiệm vụ. Vậy đó chính là điều ta đến đây để bàn bạc. cảm thấy đau đớn mà nghĩ về việc ta có tin tưởng thực tốt các nhiệm vụ được giao trong phòng thí nghiệm hay . Mỗi ngày Trạm vũ trụ quốc tế được lên lịch chặt chẽ và có thời gian để nhớ lại hay đau buồn. Nếu thành viên trong phi hành đoàn có khả năng các thành viên khác bị chùng xuống hoặc các cuộc thử nghiệm được quan tâm.

      - Đôi khi. - Diana . - Công việc là cách tốt nhất để quên mọi chuyện vui.

      đặt ngón tay lên đốm sáng lờ mờ. Đó là Tokyo.

      - Đừng ra vẻ có trái tim, Diana. gạt được ai đâu.

      Diana lúc. chỉ nghe thấy tiếng rì rầm ngớt của Trạm vũ trụ, thanh quen thuộc đến mức giờ mới để ý đến nó.

      ta điềm tĩnh .

      - Tôi hiểu gặp thời điểm khó khăn. Tôi biết thoải mái gì khi bị nhốt ở đây và có cách nào trở về. Nhưng thể làm gì được. chỉ có thể đợi tàu con thoi đến.

      cười cay đắng.

      - Tại sao lại phải chờ, trong khi tôi có thể trở về trong bốn tiếng nữa?

      - Thôi nào, Bill. nghiêm túc !

      - Tôi rất nghiêm túc. Lẽ ra tôi phải lên phương tiện di dời khẩn cấp và lên đường.

      - Và bỏ chúng tôi lại có thuyền cứu hộ à? suy nghĩ sáng suốt nữa. - ta dừng lại. - biết , có thể cảm thấy khá hơn nếu dùng thuốc. Nó giúp qua giai đoạn khó khăn này.

      quay lại nhìn ta. Toàn bộ nỗi đau, buồn bã biến thành nỗi tức giận.

      - Hãy uống liều thuốc và mọi việc được giải quyết. Có phải thế ?

      - Nó có thể có tác dụng, Bill. Tôi chỉ muốn đảm bảo là làm điều gì mất trí.

      - khốn nạn, Diana! - đẩy người khỏi khu mái vòm, lướt qua chỗ đến cánh cửa phòng thí nghiệm.

      - Bill!

      - Như tốt bụng cho tôi thấy, tôi có nhiều việc cần làm.

      - Tôi với rồi, chúng tôi có thể chia sẻ phần việc của . Nếu cảm thấy có tâm trí vào việc đó

      - Tôi làm phần việc khốn nạn của tôi!

      bay về phía phòng thí nghiệm của Mỹ. thấy nhõm khi ta theo . Khi quay lại nhìn, thấy ta bay về khoang sinh hoạt, chắc là để kiểm tra tình hình của phương tiện quay trở lại trái đất. Nó có thể di tản toàn bộ sáu thành viên phi hành đoàn và là thuyền cứu hộ duy nhất phòng khi thảm họa rơi xuống đầu phi hành đoàn. khiến ta hoảng sợ khi lỡ miệng về việc cướp phương tiện trở về trái đất và giờ thấy hối hận về điều đó. Giờ ta theo dõi các dấu hiệu khiến mềm yếu.

      đau đớn khi bị nhốt trong cái hộp đựng cá mòi được trang trí chỉ cách trái đất hai trăm hai mươi dặm này. Cũng đau đớn khi bị người ta xem xét với thái độ nghi ngờ rằng khiến thử thách của họ trở nên tồi tệ hơn. Có thể nóng lòng được về nhà nhưng dao động. Tất cả những năm rèn luyện, những bài kiểm tra tâm lý màn hình máy tính khẳng định điều rằng Bill Haning là chuyên gia. - chắc chắn phải kiểu người gây nguy hiểm cho các đồng nghiệp của mình.

      tự đẩy mình bằng động tác đẩy tường thực hành nhiều lần. bay qua khoang thí nghiệm, đến trạm làm việc của mình. Ở đó, kiểm tra gói thư điện tử gần nhất. Diana đúng điều: công việc khiến tạm thời nghĩ về Debbie.

      Phần lớn các bức thư điện tử được gửi từ Trung tâm Nghiên cứu sinh học Mỹ của NASA tại California. Các dòng tin chỉ là những cầu xác nhận thông tin như mọi khi. Hầu hết các cuộc thí nghiệm được giám sát từ dưới mặt đất và đôi khi các nhà khoa học thắc mắc về các dữ liệu họ nhận được. cuộn con chuột xem hộp thư và nhăn mặt khi thấy cầu khác đòi các mẫu nước tiểu và phân. cuộn tiếp rồi dừng lại khi thấy tin nhắn mới nhất.

      Bức thư này khác hẳn. Đó phải của Mỹ mà của trung tâm tư nhân điều hành các con tàu. Các trung tâm tư nhân trả tiền cho số cuộc thí nghiệm của các trạm vũ trụ và thường nhận được các bức thư điện tử từ các nhà khoa học thuộc NASA.

      Bức thư này là của Trung tâm khoa học biển tại La Jolla, bang California.

      Gửi: Bác sĩ William Haning. Chuyên ngành Khoa học sinh học Trạm vũ trụ quốc tế.

      Người gửi: Helen Koenig, trưởng nhóm điều tra.

      Trả lời về việc: Cuộc thử nghiệm CCU số 23 (Mẻ tế bào Archaeon).

      Tin nhắn: Các dữ liệu được truyền về gần đây nhất của chúng tôi cho thấy các mẻ tế bào tăng nhanh bất ngờ. Hãy sử dụng thiết bị đo các khối cực tàu của để xác nhận việc này.

      Lại là cầu dễ như trở bàn tay khác, mệt mỏi nghĩ. Nhiều cuộc thử nghiệm quỹ đạo được điều khiển bằng mệnh lệnh dưới trái đất. Các dữ liệu được ghi lại trong các khu phòng thí nghiệm khác nhau bằng cách sử dụng các thiết bị mẫu video hay thiết bị mẫu tự động. Các kết quả được truyền trực tiếp về cho các nhà nghiên cứu trái đất. Với các thiết bị phức tạp Trạm vũ trụ gian, có rất nhiều khả năng khiến máy thường xuyên chạy đều. Đó là lý do thực tại sao cần con người đây. - để khắc phục các thiết bị điện tử ổn định.

      cầu tập về CCU số 23 trong dữ liệu máy tính và xem xét lại các bản báo cáo đầu tiên. Các tế bào trong mẻ cấy là Archaeon. Đó là chất hữu cơ biển giống tế bào được lấy từ các lò nhiệt nằm sâu dưới đáy biển. Chúng vô hại với con người.

      bay sang đầu bên kia phòng thí nghiệm, đến bộ phận cấy tế bào và đặt đôi chân đeo tất vào bàn đạp để giữ nguyên vị trí. Bộ phận này là thiết bị hình hộp. Nó có hệ thống xử lý các chất lỏng riêng biệt và liên tục cấp nước cho hàng chục mẻ tế bào và mẫu mô. Phần lớn các thí nghiệm này tự thân vận động và cần can thiệp của con người. Trong bốn tuần Trạm vũ trụ quốc tế, Bill chỉ quan sát ống nghiệm số 23 lần.

      lôi khay đựng mẫu tế bào ra. Bên trong có hai mươi bốn ống mẻ tế bào được xếp quanh rìa. tìm ống số 23 rồi lấy nó ra khỏi khay.

      bỗng giật mình. Nắp ống phình lên như thể bên trong có áp suất rất lớn. Thay vì chất lỏng hơi đục mà nghĩ mình thấy, phần bên trong có màu xanh dương pha xanh lá cây trong suốt. dốc ngược ống nghiệm nhưng mẻ thí nghiệm suy chuyển. Nó còn là chất lỏng nữa, mà sền sệt và rất dính.

      kiểm tra thiết bị đo khối chất cực và nhúng ống nghiệm vào khe. lúc sau, thấy các dữ liệu xuất màn hình.

      Có chuyện gì đó, nghĩ. Chắc chắn mẫu này bị nhiễm bẩn. Cả mẫu tế bào gốc cũng còn tinh khiết. loại sinh vật nào đó tìm cách xâm nhập vào ống nghiệm và phá hủy mẫu tế bào gốc.

      gửi câu trả lời cho bác sĩ Koenig:

      … Các dữ liệu được chuyển lên của được xác nhận. Mẻ tế bào có vẻ thay đổi hoàn toàn. Nó còn là chất lỏng nữa mà là khối sền sệt, sáng màu và có màu xanh dương pha xanh lá cây như đèn nê-ông. Chắc chắn phải tính đến khả năng nó bị nhiễm bẩn.

      dừng lại. Có khả năng khác: đó là do ảnh hưởng của môi trường trọng lực siêu . Ở trái đất, các mẫu mô này thường phát triển mặt phẳng và phát triển theo hai chiều bề mặt vật chứa. Trong môi trường trọng lực, khi được giải phóng khỏi tác động của trọng lực, các mẫu tế bào tương tự biến đổi khác thường. Chúng phát triển trong gian ba chiều và có được những hình dạng mà chúng thể có trái đất.

      Nếu mẻ thí nghiệm số 23 bị nhiễm bẩn sao? Nếu trường hợp này chỉ đơn giản là do vi khuẩn Archaeon hoạt động trong môi trường trọng lực?

      Nhưng loại khả năng đó ngay lập tức. Những biến đổi này diễn ra quá nhanh. Chỉ riêng môi trường trọng lực cũng thể thay đổi mẻ sinh vật đơn bào thành khối chất màu xanh đáng kinh ngạc như vậy.

      dòng chữ:

      … Chúng tôi gửi mẫu của mẻ tế bào số 23 cho trong chuyến tàu con thoi lần tới. Hãy cho tôi lời khuyên nếu có thêm chỉ dẫn gì.

      Tiếng ngăn kéo đóng sầm lại làm giật mình. quay lại thấy Kenichi Hirai làm việc ở ngăn thí nghiệm riêng của ta. ta ở đó bao lâu rồi? ta vào khoang thí nghiệm nhàng đến nỗi biết ta có ở đó. Trong thế giới có khái niệm bên hay bên dưới này, nơi người ta bao giờ nghe thấy tiếng bước chân lời chào là cách duy nhất để thông báo cho người khác biết về có mặt của bạn.

      Khi thấy Bill nhìn mình, Kenichi cúi đầu chào và tiếp tục công việc. im lặng của ta khiến Bill khó chịu. Kenichi như bóng ma sống trạm, lại mà lời, khiến ai cũng giật mình. Bill biết đó là do Kenichi tự ti về vốn tiếng của mình. Để tránh bị người khác cười nhạo, ta chọn cách chuyện càng ít càng tốt. Nhưng ít ra ta cũng nên “Chào” khi vào khoang để năm đồng nghiệp bị đứng tim chứ.

      Bill lại quay sang chú ý ống nghiệm số 23. Khối chất sền sệt này trông thế nào dưới kính hiển vi?

      cho ống nghiệm số 23 vào hộp găng tay bằng nhựa Plexiglas, đóng cửa lại, xỏ găng tay. Nếu chất trong ống bị đổ ra ngoài bị nhốt trong hộp. Các chất lỏng lơ lửng trong môi trường trọng lực siêu phá hủy các mạng dây điện trạm. nhàng mở nắp ống nghiệm. biết bên trong ống có áp suất lớn nên thấy nắp phụt ra. Dù vậy vẫn giật mình khi cái nắp bay phụt ra như nắp sâm-panh.

      lùi lại khi giọt màu xanh dương pha xanh lá cây bắn lên tấm kính trong hộp găng tay. Nó bám ở đó lúc, cựa quậy như sinh vật sống. Nó sống, đây là khối sinh vật kết hợp lại với nhau thành khối sền sệt.

      - Bill, chúng ta cần chuyện.

      Giọng đó khiến giật mình. nhanh chóng đậy nắp ống nghiệm, quay lại nhìn Michael Griggs vừa bước vào phòng. Bay cạnh ta là Diana. cặp xứng đôi, nghĩ. Cả hai trông đều bóng bẩy và khỏe mạnh trong chiếc áo NASA màu xanh hải quân và quần đùi màu xanh thẫm.

      - Diana với tôi có vấn đề. - Griggs . - Chúng tôi vừa chuyện với Trung tâm Houston. Họ nghĩ có thể có tác dụng nếu dùng thuốc. Chỉ để có thể chịu đựng trong vài ngày tới.

      - Giờ khiến Houston lo lắng rồi phải ?

      - Họ rất lo cho . Và chúng tôi cũng vậy.

      - Nghe này, tôi buột miệng về phương tiện di dời khẩn cấp chỉ là đùa thôi.

      - Nhưng điều đó khiến tất cả chúng tôi lo lắng.

      - Tôi cần thuốc an thần Valium. Chỉ cần để tôi yên thôi! - lấy ống nghiệm ra khỏi hộp găng tay, cho nó vào khay đựng mẻ tế bào. Giờ rất tức giận nên thể làm việc được.

      - Chúng tôi phải tin tưởng , Bill. Chúng ta phải phụ thuộc lẫn nhau khi ở này.

      Bill giận dữ quay lại nhìn ta.

      - thấy kẻ điên khùng ngay trước mắt phải ?

      - Giờ nghĩ về vợ . Tôi hiểu điều đó. Và…

      - hiểu được. Tôi nghi ngờ rằng dạo này suy nghĩ quá nhiều về vợ của . - ta nhìn Diana đầy ý, rồi đẩy mình về cuối khoang, vào khoang kết nối. định vào khoang cư trú nhưng ngừng lại khi thấy Luther ở đó chuẩn bị ăn trưa.

      có nơi nào để trốn, có nơi nào để yên tĩnh.

      Đột nhiên trào nước mắt, quay trở lại lối ra và lui về chỗ mái vòm.

      Quay lưng lại với những người khác, nhìn trái đất qua cửa sổ. Bờ biển Thái Bình Dương quay vào tầm nhìn của . Mặt trời mọc rồi lặn.

      Lại thêm thời gian chờ đằng đẵng.

      Kenichi nhìn Griggs và Diana bay ra khỏi khoang thí nghiệm, cả hai đều đẩy với lực vừa đủ. Họ lại uyển chuyển, giống như hai vị thần tóc vàng. thường quan sát họ rất kỹ khi họ nhìn . Đặc biệt là thích nhìn Diana Estes, phụ nữ tóc vàng và quá xanh xao đến mức có vẻ gì đó trong suốt.

      Họ bỏ lại mình trong phòng thí nghiệm và có thể thư giãn. Có quá nhiều hiềm khích Trạm vũ trụ này. Nó khiến bất an và ảnh hưởng đến tập trung của . Bản chất là người trầm lặng, người thấy hài lòng khi làm việc yên tĩnh. Dù đủ trình độ để hiểu tiếng rất nhưng thấy thứ tiếng đó khó khăn. thấy mệt mỗi khi chuyện. thấy thoải mái hơn nhiều khi làm việc mình và im lặng, chỉ có các con vật trong phòng thí nghiệm làm bạn.

      nhìn lũ chuột qua cửa sổ quan sát của khu vực dành cho các con vật rồi cười mỉm. Ở bên màn hình ngăn cách là mười hai con đực, bên kia là mười hai con cái. Khi còn là cậu bé lớn lên tại Nhật Bản, nuôi thỏ và thích ôm chúng đùi. Tuy nhiên, những con chuột này phải là động vật cưng. Chúng bị tách biệt, được tiếp xúc nhiều với con người. Mùi của chúng được lọc và thông gió điều hòa trước khi chúng được tham gia vào môi trường Trạm vũ trụ. Toàn bộ những việc giải quyết chúng được thực trong hộp đeo găng tay gần đó. Ở đó, toàn bộ các mẫu sinh học, từ vi khuẩn đến những con chuột trong phòng thí nghiệm đều được thao tác mà cần lo sợ về việc làm nhiễm bẩn bầu khí trạm.

      Hôm nay là ngày lấy mẫu máu. thích công việc này vì phải dùng kim tiêm vào da con vật. lẩm bẩm xin lỗi bằng tiếng Nhật khi cho tay vào găng tay và chuyển con chuột đầu tiên vào khu vực làm việc được đóng kín. Nó vùng vẫy cố thoát khỏi tay . thả nó ra, để nó trôi nổi tự do trong khi chuẩn bị kim tiêm. Đó là cảnh tượng đáng thương, con chuột điên cuồng đạp bốn chân, cố đẩy mình về phía trước. Nhưng nó có điểm tựa nào để đạp nên nó trôi vô vọng trong trung.

      Giờ kim tiêm sẵn sàng. Bàn tay đeo găng của với ra để chộp lại con chuột. Chỉ đến lúc đó mới phát ra giọt màu xanh dương pha xanh lá cây lơ lửng cạnh con chuột. Thực giọt chất lỏng đó gần con chuột nên nó đưa chiếc lưỡi màu hồng của mình ra liếm. Kenichi cười to. Uống những giọt nước giải khát lơ lửng là việc các phi hành gia thường làm để giải trí. Giờ có vẻ như đó chính là việc con chuột làm, nó thích thú với thứ đồ chơi vừa tìm thấy.

      Rồi trong đầu bật ra ý nghĩ: chất màu xanh dương pha xanh lá cây đó do đâu mà có? Bill sử dụng hộp đeo găng tay. Có thể nào ấy làm đổ các giọt đó ?

      Kenichi bay vào khoang máy để xem các ghi chép Bill vừa ghi. Đó là mẫu CCU số 23. Bản báo cáo giúp yên tâm rằng giọt chất lỏng đó có gì nguy hiểm. Archaeon là các tế bào biển đơn bào và có các thuộc tính gây hại.

      hài lòng quay trở lại hộp găng tay rồi cho tay vào. lấy kim tiêm.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :