Từ bỏ thế giới vàng - Jack London [Kinh điển]

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      [​IMG]
      Tác giả: Jack London

      Dịch giả: Nguyễn Mạnh Bùi Nghĩa, Đặng Quốc Thông

      Thể loại: Văn học cổ điển nước ngoài

      Nhà Xuất Bản Trẻ

      Giới thiệu tác giả:

      Jack London sanh ngày 12 – 01 – 1876 ở San Francisco, ( California) nước Mỹ.Tên là John Troy Chaney , mất ngày 22.11.1916​

    2. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Phần I – Chương 1:

      Quán Tivoli đêm nay lặng lẽ. Có khoảng năm, sáu người tụ tập tại chiếc quầy rượu chạy dọc bên căn phòng lớn làm bằng những thân gỗ ghép được kín lắm. Phía bên kia căn phòng là dãy bàn cờ bạc. Bàn tài xỉu có ai cả. Ở bàn faro chỉ có độc người chơi. Ở bàn rulet, con quay chẳng buồn hoạt động bởi vì chàng hồ lì đứng bên chiếc lò sưởi rực lửa mải tán gẫu với thiếu nữ mắt đen, thân hình và vẻ mặt rất ưa nhìn, được mọi người tử Juneau đến Fort Yukon quen gọi la Mộng Trinh(1). Ở bàn xì phé có được ba người, nhưng họ chỉ chơi cò con vì hình như có hứng. sàn nhảy ở phía sau căn phòng lớn này chỉ có ba cặp nhảy cách uể oải theo tiếng rền rĩ của chiếc dương cầm và chiếc vĩ cầm.

      ra thị trấn Vùng Cực này phải bị bỏ hoang, mà cư dân ở đây cũng chẳng phải nghèo tiền bạc. Những người đào vàng ở Lạch Da Hươu cũng như ở các vùng khác về phía tây đều trở về đây. Công việc đãi vàng trong mùa hạ vừa qua rất có kết quả, nên túi của họ đều nặng trĩu vừa vàng cục vừa vàng bụi. Vào thời gian này, người ta chưa biết đến sông Klondike(2), và những người thợ mỏ ở dọc theo sông Yukon(3) chưa biết cách đốt lửa cho đất mềm ra cho dễ đào. Bởi thế, về mùa đông, đám thợ mỏ nghỉ việc, quay về trú đông ở các trại lớn như thị trấn Vùng Cực này cho qua đêm dài Bắc Cực. giờ rỗi rãi, túi lại rủng rinh tiền, nên họ thường đến các quán rượu tìm vui. Ấy thế mà đêm nay, quán Tivoli cứ như bị bỏ hoang.

      Ðứng bên lò sưởi, Mộng Trinh ngáp dài thèm đưa tay che miệng, và với Charley Bates:

      - Nếu cứ cái điệu này mãi đến phải ngủ mất thôi. Mà có chuyện gì với cái trại này vậy nhỉ? Bộ mọi người chết hết rồi à?

      Bates chẳng buồn mở miệng trả lời, cứ lặng lẽ cuốn thuốc. Dan McDonald, chủ quán Tivoli kiêm chủ các sòng bạc ở đây, rầu rĩ băng ngang căn phòng trống trải, đến nhập bọn với hai người đứng bên lò sưởi. Mộng Trinh quay sang hỏi :

      - Bộ có ai chết hay sao vậy?

      - Hình như thế.

      - Vậy có lẽ cả cái trại này chết hết rồi cũng nên. - với vẻ dứt khoát rồi lại ngáp dài.

      McDonald nhe răng cười, gật đầu, và mở miệng định cánh cửa cửa trước bỗng mở tung và người chợt ra trong ánh đèn. Ðưa tay lấy cây chổi con móc trong cửa, người mới đến phủi tuyết bám đôi giày da đanh kiểu thổ dân Bắc Mỹ và đôi vớ cao kiểu Ðức. Hẳn là ta trông cũng cao lớn nếu như ngay lúc đó chàng khổng lồ người Gia Nã Đại gốc Pháp từ phía quầy rượu bước lại nắm chặt lấy ta.

      - Kìa Ánh Sáng Ban Ngày! Lạy chúa, bọn này mong cậu đến mòn con mắt!

      - À, Louis, xin chào. Các cậu về lúc nào vậy? - Người mới đến đáp lại.

      - Nào, ta làm ly , rồi cậu kể cho tớ nghe toàn bộ câu chuyện ở Lạc Khúc Xương nhé. Chà, quỷ tha ma bắt cậu , bắt tay cái nữa nào. Cái bạn với cậu đâu rồi? Tớ tìm đây.

      người khổng lồ nữa từ phía quầy rượu cũng bước lại đưa tay ra bắt tay người mới đến.

      chàng này tên Olaf Henderson, cũng là dân đào vàng chung với French Louis ở Lạch Khúc Xương. Cả hai đều là người to lớn nhất vùng, và mặc dù họ chỉ cao hơn người mới đến khoảng nửa cái đầu thôi, thế mà đứng giữa họ ta trong loắt choắt hẳn .

      - Ôi chào Olaf, tớ tìm cậu mãi đấy, hiểu ? - Người được gọi là Ánh Sáng Ban Ngày . - Ngày mai là sinh nhật của tớ, và tớ quật cho cậu ngã ngửa ra đấy, hiểu ? Cả Louis nữa, tớ cũng quật cho cậu ngã ngửa ra đấy, hiểu ? Cả Louis nữa, tớ cũng quật cho cậu ngã ngửa luôn, hiểu ? Nào, bây giờ uống với tớ ly cái , rồi tớ cho các cậu biết.

      Người mới đến dường như đem theo cả hơi ấm tràn ngập căn phòng. Mộng Trinh kêu lên:

      - Ðúng là Ánh Sáng Ban Ngày rồi!

      Nàng là người đầu tiên nhận ra ngay khi vừa bước vào vùng sáng của căn phòng. xuất của Ánh Sáng Ban Ngày làm cho cả căn phòng hình như bỗng sáng và vui tươi hơn hẳn. Những người phục vụ trong quán tíu tít hẳn lên. Người ta cất cao giọng hát hơn. Có kẻ còn bật cười nữa. Nhịp luân vũ nhanh hẳn lên, và những cặp khiêu vũ, như lấy phải cái nhộn nhịp chung, cũng bắt đầu quay tít như thể họ bốc hứng. Ðã từ lâu mọi người đều biết rằng hễ ở đâu có Ánh Sáng Ban Ngày là ở đó thể buồn nản được.

      Tại quầy rượu Ánh Sáng Ban Ngày xoay người lại thấy Mộng Trinh đứng cạnh lò sưởi nhìn với vẻ đón chào nồng nhiệt.

      - Kìa, Mộng Trinh, bạn cũ, - gọi. - Kìa, cả Charley nữa. Chuyện gì thế? Sao mặt mày lại ủ ê như người chết có đất chôn vậy? Lại đây uống cái gì nào. Tất cả lại đây nào, hỡi những kẻ chết chưa có đất chôn kia, muốn uống gì cứ việc gọi. Nào, mọi người. Ðêm nay là đêm của tớ, và tớ làm chủ nó. Ngày mai tớ ba mươi tuổi, thế là già mất rồi. Ðây là giây phút cuối cùng của tuổi trẻ. Tất cả sẵn sàng cả rồi chứ? Nào, vô nào, vô.

      - Khoan đứng lên , Davis, - quay qua gọi với người chào faro, lúc này đẩy ghế ra sau dợm đứng lên. - Tớ muốn chơi với cậu ván để xem tớ hoặc cậu ai phải trả tiền rượu cho mọi người ở đây nào.

      Móc trong túi áo khoác ra gói vàng bụi nặng trịch, đặt nó vào số lớn.

      - Tớ đặt năm mươi đô-la trị giá bằng vàng bụi đây! - .

      Nhà cái bàn faro chia hai lá. Số lớn ăn. Nhà cái nguệch ngoạc số tiền thắng vào mảnh giấy trong lúc người chung tiền cân dúm vàng bụi tương đương với năm mươi đô là rồi trút nó vào bao của Ánh Sáng Ban Ngày. Lúc này điệu luân vũ chấm dứt. Ba cặp nhảy lúc nãy cùng với chàng nhạc công kéo vĩ cầm và chàng nhạc công chơi dương cầm theo nhau bước ra khỏi phòng rượu đúng lúc Ánh Sáng Ban Ngày quay lại và nhìn thấy họ.

      - Lại đây uống nào, mấy ông bạn, - ta kêu lên, - lại đây uống nào, và muốn kêu gì kêu. Ðêm nay là đêm của tớ, phải lúc nào cũng có được Lại. đây uống nào, máy ông bạn cố tri, tớ đấy, vì đêm nay chính là đêm của tớ.

      - đêm chó đẻ - Charley Bates xen vào.

      - Ðúng đấy, con ạ - Ánh Sáng Ban Ngày vẫn cứ vui như , - đêm chó đẻ, nhưng nó là đêm của ta, bởi vì ta là con sói đực già. Nghe ta tru đây này.

      cất tiếng tru to giống hệt như con sói rừng xám độc đến nỗi Mộng Trinh phát run lên vội đưa hai ngón tay nút chặt lấy tai. Ngay lập tức Ánh Sáng Ban Ngày bế bổng nàng lên đưa vào sàn nhảy. Ba cặp nhảy lúc nãy cũng theo họ vào, rồi tất cả cùng quay cuồng theo điệu vũ xoay tròn ầm ĩ, của vùng Virginia. Ánh Sáng Ban Ngày là trung tâm của náo nhiệt ấy, là ngọn lửa hừng hực, đến đâu là châm chọc, cười đùa ầm ĩ đến đó, nên giúp họ thoát khỏi cái vùng lầy ủ ê dìm họ trước khi đến.

      Rất ít người biết rằng Ánh Sáng Ban Ngày tên là Elam Harnish, bởi lẽ ngay từ những ngày đầu tiên mở đất, người ta gọi bằng biệt hiệu đó vì thấy có thói quen vừa lôi bạn bè mình ra khỏi chăn êm nệm ấm vừa làu bàu là trời sáng bét ra rồi. Trong số những người tiên phong tiến vào vùng đất hoang ở vùng Bắc Cực xa xôi này được liệt vào hạng cố cựu nhất. Mặc dù cũng có những người đến vùng đất này sớm hơn như Ai May hoặc Jack Mc Question chẳng hạn, nhưng thường họ đến đây từ vùng Vịnh Hudson về phía đông băng ngang qua rặng Thạch Sơn. Còn dám vượt qua vùng đèo Chilcoot và Chilcat. Vào mùa xuân năm 1883, cách đây mười hai năm, dù lúc đó mới chỉ có mười tám tuổi cùng với năm người bạn của mình vượt qua đèo Chilcoot. Ðến mùa thu trở về, năm người bạn trước kia nay chỉ còn có . Bốn người kia bỏ mạng trong cái bất trắc của vùng đất bát ngát lạnh lẽo chưa được ghi lên bản đồ ấy. Từ đó cho đến suốt mười hai năm sau, Elam Harnish vẫn tiếp tục mò mẫm tìm vàng trong cảnh tối tăm của vùng Bắc Cực.

      chưa có ai mò mẫm tìm vàng cách kiên trì và bướng bỉnh như . lớn lên với vùng đất này và chẳng biết đến vùng đất nào khác nữa. Ðối với , nền văn minh cũng chỉ giống như giấc mơ qua lâu lắm rồi, và những trại Bốn Mươi Dặm hoặc trại thị trấn Vùng Cực thực là những đô thị lớn. phải chỉ lớn lên với vùng đất này mà thôi, mà còn giúp xây dựng nó nữa, dù rằng giờ nó cũng vẫn còn hoang sơ lắm. tạo nên lịch sử và địa dư của vùng đất; những kẻ đến sau chỉ cần viết về những chuyến của và vẽ lại những con đường mòn mà chính chân vạch ra là đủ.

      Thường hùng ít sùng bái hùng, vậy mà những con người sinh sống ở vùng đất mới này vẫn xem hùng già dặn, mặc dù vẫn còn rất trẻ. Về thời gian, đến đây trước họ. Về công việc, làm nhiều hơn họ. Về sức dẻo dai bền bỉ, mọi người đều công nhận là có thể giết chết được cả những tay sừng sỏ nhất. Hơn nữa, họ còn coi như kẻ táo gan, ngay thẳng và thuộc giống người da trắng.

      Ở bất cứ vùng đất nào mà cuộc đời chỉ là trò may rủi đáng bận tâm con người thường tự nhiên quay sang cờ bạc để tiêu khiển và nghỉ ngơi. Ở dọc sông Yukon, bọn đàn ông đặt cả cuộc đời họ vào canh bạc ăn vàng. Rồi những ai lấy được vàng từ lòng đất lại đem vàng ra đánh bạc với nhau. Elam Harnish cũng phải là ngoại lệ bởi vì đáng mặt đàn ông nhất trong bọn đàn ông, và trong người , cái bản năng thôi thúc chơi canh bạc của cuộc đời rất mạnh mẽ. Chính môi trường sống của quyết định hình thức của canh bạc ấy. sinh ra trong nông trại ở Iowa, sau theo bố di cư đến Ðông Oregon và sống suốt qua ng đời niên thiếu ở cái vùng mà người ta kéo tới tìm vàng đó. Bởi vậy, chẳng học được gì ngoài cách chịu đấm ăn xôi. Trong canh bạc này dĩ nhiên lòng can đảm và sức bền bỉ là cần thiết, nhưng các con bài lại do Thần Số Mệnh chia. Cứ từ tốn mà đánh cũng kiếm được chút đỉnh, nhưng chút đỉnh lại chẳng bỏ công. Bởi vậy người ta thường đánh lớn. Elam Harnish thích đánh tất cả để có thể thắng được tất cả và khi thắng được tất cả dù có thắng lớn đến đâu chăng nữa cũng vẫn tự coi mình là người thua cuộc. Trong suốt mười hai năm đào vàng vừa qua vùng Sông Yukon, Elam Harnish tự coi mình là người thất bại. ra chỉ mới mùa hè trước đây thôi, ở Lạch Da Hươu đào được hai mươi ngàn đô-la, chưa kể con số tương đương như vậy vẫn còn nằm trong lòng đất. Nhưng như tuyên bố, đó cũng chỉ như gỡ lại tiền đặt cuộc trước mà thôi. đặt cuộc cuộc đời mình trong mười hai năm trời, và cái số bốn mươi ngàn đô-la vừa gỡ được đó chẳng đủ để đền bù. Nó chỉ đủ để trả chầu nhậu và nhảy nhót ở quán Tivoli, vi rút chút đỉnh cho qua mùa đông ở trại thị trấn Vùng Cực và mua lương thực dự trữ cho năm tới là sạch bách.

      Sau khi điệu vũ xoay tròn chấm dứt, Elam Harnish lại hò hét mời mọi người ra uống rượu. Cứ mỗi ly rượu là đô-la. ounce(4) vàng đổi được mươi sáu đô-la. Trong phòng có ba chục người tất cả đều nhận lời mời uống rượu của Elam Harnish, và cứ sau bản nhạc họ lại được mời uống. Ðêm nay là đêm của , nên cho phép ai trả tiền cho bất kỳ món gì. ra Elam Harnish phải là kẻ ưa rượu. Ðối với Whisky chẳng có ý nghĩa gì cả. quá mạnh mẽ, quá tràn trề sinh lực; con người , trí óc hoàn toàn có tâm nặng nề gì để buộc phải trở thành con sâu rượu. có thể cả năm trời uống giọt cà phê rồi đấy. Chỉ có điều là thích sống hợp quần, mà ở khu vực sông Yukon cách duy nhất để biểu lộ tính hợp quần của mình là kéo nhau vào quán uống rượu, nên Elam Harnish cũng đành phải làm như vậy. Ngay từ khi còn là thanh niên sống ở các vùng mỏ vàng miền Tây, người ta làm như thế, nên bây giờ cho đó là cách đúng đắn nhất để thể tính hợp quần của mình. ra ngoài cách đó chẳng còn biết cách nào nữa cả.

      Dù quần áo cũng chẳng có gì khác với những người chung quanh, trông vẫn nổi bật hẳn lên. Chân giày da hươu mềm có đính hạt theo kiểu thổ dân, quần yếm bình thường, áo khoác may bằng vỏ chăn. đeo găng tay da dài hở ngón trong có lót len, và bên hông lủng lẳng đai da quàng qua eo và vài theo kiểu dân miền sông Yukon. Ðầu đội nón lông thú, vành nón cuộn lên để hở những dây cột nón lòng thòng. Gương mặt xương xương, hơi dài, má hóp làm lưỡng quyền nhô hẳn lên trông giống gương mặt của thổ dân trong vùng. Người ta lại càng có lên tưởng ấy khi nhìn vào làn da cháy nắng và đôi mắt đen láy tinh tường của , mặc dù ràng là cái màu da đồng ấy và đôi mắt ấy chỉ người da trắng mới có. trông già hơn tuổi ba mươi. Thế nhưng nếu có những vết nhăn và cạo râu sạch trông có những vết nhăn và cạo râu sạch trông lại rất "trẻ con". Bởi vậy, nếu chỉ căn cứ vào nét mặt mà thôi khó có thể được tại sao trông lại già trước tuổi như vậy.

      Thực ra cái vẻ già trước tuổi như vậy. Thực ra cái vẻ già trước tuổi ấy toát ra từ toàn bộ con người . Từ những điều phải chu đựng để sinh tồn, và nó vượt quá sức chịu đựng của con người. sống cuộc đời trần trụi và mã liệt, và người ta có thể thấy được phần nào cái cuộc đời ấy ỉ trong cặp mắt, vang lên trong giọng hoặc như thủ thỉ thốt lên từ đôi môi .

      Mà môi mỏng, lúc nào cũng mím chặt che khuất hàm răng trắng đều. Tuy nhiên đôi môi trông cũng đỡ khe khắt hơn nhờ ở hai bên mép cong lên làm cho chúng có vẻ dịu dàng, cũng giống hệt như những nếp nhăn ở hai bên khoé mắt làm cho khuôn mặt lúc nào trông cũng có vẻ như cười cợt. Những nét duyên dáng ấy giúp thoát được vẻ cay độc, kết quả tất yếu của đời sống man dã. Mũi gầy, cánh mũi nở thanh trông rất hợp với khuôn mặt. Trán hẹp nhưng cao và đều đặn. Mái tóc cũng giống như tóc thổ dân, bởi vì nó thẳng và đen nhánh, óng ánh cái màu tóc mà chỉ những con người khó mạnh mới có được.

      - Ánh Sáng Ban Ngày bộ tính đốt sáng cả đêm nay chắc? - McDonald rồi cười to giữa những tiếng la ó hò reo của đám người nhảy nhót. Olaf Henderson thêm:

      - Mà nó cũng dám làm như thế đấy, Louis nhỉ?

      có chúa, chắc chắn là nó làm như thế đấy - French Louis đáp - Ðúng là cậu con trai làm bằng vàng ròng.

      McDonald chen vào:

      - Rồi khi đến Ngày Ðãi Vàng cuối cùng, lúc Ðức chúa Trời xúc xẻng cát bỏ vào trong nồi đãi, hẳn là thấy có cả nó lẫn ở trong ấy đấy.

      - nghe hay lắm - Olaf Henderson vừa lẩm bẩm vừa nhìn tay chủ sòng bài cách thán phục…

      - Ừ, hay - French Louis cũng khẳng định - cũng xứng đáng để chúng ta uống mừng ly, phải .

      Chú thích:

      (1) Biệt hiệu tiếng của nhân vật nữ này là Virgin. Từ Virgin có nghĩa tiếng Việt là đồng trinh. Chúng tôi xin được Việt hoá biệt hiệu của nhân vật nữ này và tạm dịch là Mộng Trinh

      (2) Klondike: con sông dài 90 dặm ở Canađa, ở trung tâm Hạt Yukon, chảy về phía Tây đổ vào sông Yukon

      (3) Yukon: con sông dài 1979 dặm ở Hạt Yukon và Alaska, chảy về phía Tây Bắc và phía Tây Nam đổ vào biển Bering.

      (4) ounce: đơn vị đo lường , bằng 0,28g

      Chương 2

      Ðến hai giờ sáng đám người khiêu vũ bắt đầu thấy đói nên đành tạm hoãn cuộc vui lại trong vòng nửa giờ. Ðúng lúc ấy Jack Kearns đề nghị chơi ván xì phé. Jack Kearns là người to lớn, trông thô kệch nhưng chất phác, trước cùng với Bettles lập trạm đãi vàng ở vùng thượng nguồn Sông Koyokuk(1) nằm tuốt phía trong vùng cực Bắc, nhưng thất bại. Sau đó ta lại trở về các trạm đãi vàng cũ của mình ở các trại Bốn Mươi Dặm và Sáu Mươi Dặm, rồi đổi hướng làm ăn bằng cách gửi tiền sang Hiệp Chủng Quốc đặt mua trại cưa tàu chạy bằng hơi nước…

      Khi Jack Kearns đề nghị chơi xì phé, Frehch Louis, Dan McDonald và Hai Campbell (người dò được mạch vàng ở Lạch Da hươu) hưởng ứng ngay lập tức. Lúc họ tìm người thứ năm cho đủ chân Ánh Sáng Ban Ngày vừa từ sàn nhảy bước ra, tay còn bế bổng Mộng Trinh, theo sau là những người lúc nãy tham dự vào cuộc khiêu vũ. Ðể đáp lại lời mời của những tay chơi xì phé, bước lại bàn của họ. Campbell :

      - Bọn này muốn cậu chơi chân, để xem đen đỏ thế nào?

      - Chắc chắn là đỏ thôi - Ánh Sáng Ban Ngày đáp lại cách hào hứng, cùng lúc ấy nhận thấy Mộng Trinh kéo tay mình ra chiều cảnh giác. Nàng muốn nhảy hơn - Vận tớ chắc chắn là đỏ thôi nhưng tớ thích nhảy hơn. Tớ chẳng muốn ăn tiền của các cậu làm gì.

      Chẳng có ai mời thêm tiếng nào nữa, bởi vì họ cho rằng có cũng vô ích mà thôi. Thế nhưng khi Mộng Trinh kéo tay theo đám người kiếm cái gì đó để bỏ bụng đột nhiên đổi ý. phải là muốn nhảy, mà cũng phải là muốn làm Mộng Trinh phật lòng. Chỉ vì cái vẻ chèo kéo như ra lệnh của nàng làm con người ưa tự do trong trỗi dậy, bởi vì chẳng bao giờ muốn phải làm theo bất kỳ người phụ nữ nào. Phụ nữ rất thích , nhưng lại chẳng coi họ ra gì cả, bởi vì họ cũng chỉ như những món đồ chơi giúp khuây khoả phần nào sau canh bạc lớn hơn của cuộc đời. đến với phụ nữ cũng giống như đến với rượu Whisky và cờ bạc, và còn nghiệm thấy rằng từ bỏ rượu chè cờ bạc còn dễ hơn từ bỏ phụ nữ rất nhiều, nhất là khi thực vướng mắc vào họ.

      Là người có cái tôi lành mạnh, sẵn sàng tự nô lệ cho bản thân mình, nhưng phản ứng cách hoặc hoảng loạn hoặc nguy hiểm nếu bị buộc phải làm nô lệ cho bất kỳ ai. chẳng hiểu được thế nào là cái dịu ngọt của nô lệ cho ái tình, bởi vì đối với những kẻ nhau chỉ là những kẻ điên. Song, tình bạn giữa đàn ông với nhau rất khác với ái tình, bởi đó phải là nô lệ mà là kế hoạch làm ăn, giao dịch bình đẳng giữa những con người chung lưng đấu cật chia sẻ những hiểm nguy cạn dưới nguồn với mục đích là cốt tìm đường sống và cốt làm giàu. Ðàn ông và đàn bà lúc nào cũng đeo đuổi nhau, và hoặc người này hoặc người kia phải buộc người còn lại làm theo ý mình. Tình bạn khác hẳn, bởi vì chẳng có ai phải nô lệ ai cả. Là người có sức khỏe phi thường nên thường cho nhiều hơn là nhận, mà khi cho phải chỉ cho cái phần mình phải cho mà thường cho với hào phóng vương giả. Ðôi tay sẵn sàng hết sức giúp đỡ người khác cách tính toán. Ðối với , việc mang vác nặng nhọc hàng mấy ngày liền qua những đường đèo lộng gió hoặc qua những cánh đầm lầy đầy muỗi vắt, hoặc phải mang nặng gấp đối những người bạn đồng hành hoàn toàn có gì là bất công hoặc do bị bắt buộc cả. Mỗi người phải làm ăn với nhau. Ðương nhiên là có số người khỏe mạnh hơn những người khác, nhưng nếu ai cũng cố làm hết sức mình coi như bình đẳng rồi, tinh thần của việc làm ăn chung coi như được tôn trọng, và việc cho hay nhận như vậy là ổn thoả.

      Nhưng đối với phụ nữ . Phụ nữ cho rất ít mà lại muốn vơ về tất cả. Phụ nữ có sẵn những sợi dây tạp dề nên sẵn sàng cột tay bất kỳ người đàn ông nào đưa mắt liếc nhìn họ đến lần thứ hai. Như Mộng Trinh chẳng hạn, lúc mới bước vào nàng còn đứng ngáp đến sái quai hàm và rất bằng lòng được mời nhảy. Nếu chỉ nhảy lần chả sao cả. Ðàng này lại nhảy đến lần thứ hai, rồi lần thứ ba, rồi thêm nhiều lần nữa với nàng, thế là nàng tự cho mình cái quyền nắm tay lôi khi đám đàn ông mời tham gia vào bàn xì phé. Ðó chính là cái sợi dây tạp đề đáng ghét, báo hiệu cho nhiều trói buộc khác mà nàng bắt phải chịu đựng nếu chống ngay lại. Chẳng phải là nàng đẹp.

      Nàng vốn khỏe mạnh, cân đối và ưa nhìn, mà nhảy lại giỏi nữa. Thế nhưng nàng vẫn là người đàn bà có tất cả những ham muốn rất đàn bà là được dùng sợi dây tạp dề của mình mà trói tay trói chân lại để làm của riêng. Vì thế cho nên chơi xì phé là hay hơn cả. Vả lại vốn cũng thích chơi xì phé như là thích nhảy vầy.

      quay về phía mấy người đàn ông và :

      - Tớ lại muốn chơi với các cậu ván đây.

      Mộng Trinh lại giật tay . Nàng lại cố tròng sợi dây tạp dề quanh người . Trong khoảnh khắc ấy chợt biến thành con người man dã bị chế ngự bởi làn sóng sợ hà có thể thôi thúc đến chỗ giết người. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi đó, giống hệt như con hổ sợ bị sụp bẫy, trong lòng vừa kinh hoảng vừa giận dữ. Nếu chỉ là kẻ man dã hơn kém ắt hẳn hốt hoảng nhảy thoát khỏi chỗ đứng hoặc lao vào xé xác nàng rồi. Thế nhưng cũng ngay trong giây phút ấy trong trỗi dậy cái tinh thần kỷ luật di truyền từ bao đời nay bắt buộc con người phải làm động vật xã hội bất đắc dĩ. khéo léo và tính cảm thông đấu tranh với chính con người . Cuối cùng, nhìn thằng vào mắt Mộng Trinh, cười và và :

      Ði kiếm cái gì mà ăn , cưng. thấy đói. Rồi mình còn nhảy với nhau dài dài. Ðêm còn dài quá mà. Thôi, , cưng.

      gỡ khỏi tay nàng, rồi quăng nàng lên vai cách đùa giỡn. Cùng lúc đó, quay lại với những tay chơi bài xì phé:

      - Chơi "bứt gân" tớ mới chơi.

      - cứ tuỳ khả năng, - Jack Kearns đáp lại.

      - Phải cháy túi mới thôi cơ.

      Mấy tay chơi đưa mắt liếc nhau. Cuối cùng, Kearns tuyên bố:

      - cháy túi mới thôi cũng được Elam Harnish ngồi phục xuống chiếc ghế đợi sẵn. định móc túi vàng ra nhưng lại đổi ý.

      Mộng Trinh đứng bĩu môi lúc rồi cũng theo những người bạn nhảy kiếm đồ ăn. Nàng với qua bờ vai:

      - Ánh Sáng Ban Ngày, em mang cho cái bánh sandwich nhé.

      Ánh Sáng Ban Ngày gật đầu. Nàng mỉm cười tha thứ rồi. Thế là thoát khỏi sợi dây tạp dề mà làm cho nàng phật lòng nhiều.

      - Ta dùng thẻ thay tiền mà chơi, - Ánh Sáng Ban Ngày đề nghị.- Tiền chỉ tổ làm chật bàn. Quý vị đồng ý cả chứ?

      - Tớ đồng ý, - Hai Campbell trả lời - Cứ mỗi thẻ của tớ là năm trăm đô-la.

      - Thẻ của tớ cũng vậy - Ánh Sáng Ban Ngày .

      Những tay chơi khác cũng định giá thẻ của họ. French Louis khiêm tốn nhất, chỉ định mỗi thẻ của mình là trăm đô-la.

      Hồi ấy, ở Alaska có những tay cờ bạc đểu cáng hoặc ba xạo. Hễ chơi là chơi cho ngay thẳng, và người ta tin tưởng lẫn nhau. Cũng vào những buổi đầu ở vùng Sông Yukon ấy, ai nghĩ đến chuyện đánh bạc phải chung bằng tiền mặt cả. Ai cũng có thể chơi miễn là ta có sở hữu, cần biết vật sở hữu ấy là gì và nó nằm ở tận đâu đâu. Sau khi kênh bài. Harnish được quyền chia. ràng đây là dấu hiệu may mắn nên trong khi xào bài gọi người phục vụ ở quầy rót cho mọi người có mặt trong quán mỗi người ly rượu. Rồi trong lúc chia lá bài đầu tiên cho Dan McDonald, người ngồi bên trái , hét toáng lên:

      - Nào, chuẩn bị , mấy chú cẩu. Chuẩn bị và chú ý nào. Kéo căng dây cột vào nào. Vận toàn lực vào dây đai cương cho đến lúc tấm chắn ngực phải bật tung ra nào. A-lê. Dzọt! Ta lên đường đến thị trấn của nàng Helen Breakfast nào! cho mấy chú cẩu hay, muốn đến chỗ em đó ta phải leo nhiều con dốc và phải phóng nước đại suốt mấy đêm đấy. Nhất định thế nào cũng có đứa vấp ngã đánh… sầm!

      Ấy vậy mà lúc bắt đầu chơi đám bạc lại rất lặng lẽ. Chẳng ai chuyện với ai hoặc rất ít dù ở chung quanh mọi người vẫn cười đùa ầm ĩ. Chính Elam Harnish nhóm lên cái ngọn lửa ầm ĩ đó Những thay thợ mỏ tràn vào quán Tivoli và ở lại đó ngày càng nhiều. Chẳng ai muốn nhỡ cuộc vui có Ánh Sáng Ban Ngày cả. Sàn nhảy đầy đặc người. Vì thiếu đào nên nhiều tay đàn ông phải buộc khăn có thêu hình giả làm đào để nhảy với nhũng người đàn ông khác. Các bàn cờ bạc cũng đầy người. Tiếng người ở quầy rượu hoặc ở lò sưởi xen lẫn với tiếng lắc cắc của tiền và tiếng vù vù lên xuống của bánh xe rulet. Tất cả những chất liệu của đêm đặc thù ở vùng sông Yukon đều tìm thấy tại đây và quyện lẫn vào nhau. Ở bàn xì phé cái hên thay đổi cách đơn điệu. Chưa thấy có bài ai lớn cả. Cứ thế họ sát phạt nhau theo kiểu cò con, mà mỗi ván như vậy cũng kéo quá lâu. Có lần tay bài của French Louis có "suốt" nên lớn hơn hai tay bài "hai đôi" của Campbell và Kearns thành thử ăn được năm ngàn đô-la. Ở ván khác, có người cầm " đôi" mà vẫn ăn được tám trăm đô-la. lần Harnish ăn được Kearns hai ngàn đô-la nhờ dám hùn mạnh. Khi Kearns lật bài ra trình làng tay bài của là "suốt còn tay bài của Harnish chỉ có "đôi mười" mà thôi, nhưng vẫn thắng vì dám táo gan hù mạnh.

      Nhưng đến ba giờ sáng bài lớn bắt đầu xuất . Ðó chính là giây phút mà người ta phải chờ đợi hàng tuần mới được thấy trong loại bài xì phé. Khắp quán Tivoli người ta kháo nhau về giây phút ấy. Những tay chầu rìa im bặt. Những người ở đằng xa cũng ngưng chuyện và bước lại bên bàn bài. Người ta bỏ hết các trò chơi khác, ngay cả sàn nhảy cũng vắng lặng. Có tất cả khoảng hơn trăm người đứng chen nhau im lặng quanh bàn xì phé. Ngay trước lúc rút thêm bài tiền đặt cao rồi, và nó tiếp tục cao mãi mà vẫn chưa thấy ai đòi rút thêm bài cả. Ván này do Kearns chia. French Louis là người "mở hàng" đầu tiên với giá trăm đô-la Campbell chỉ "xin theo". Nhưng đến lượt Elam Harnish những quẳng vào năm trăm đô-la mà còn quay lại với McDonald là sở dĩ tố ít như thế để cho dễ bề theo.

      McDonald liếc nhìn những quân bài của mình rồi tố ngàn đô-la bằng thể thay tiền. Kearns nhìn bài mình tính toán lúc rồi cũng "xin theo". Lúc này nếu French Louis muốn được tiếp tục chơi phải bỏ ra thêm chín trăm đô-la nữa. Sau hồi tính toán, cũng "xin theo". Campbell cũng phải ra thêm chín trăm đô-la nữa cho đủ số ngàn mới được đánh tiếp và rút bài. Mọi người giật thót cả mình khi thấy những chỉ ra thêm chín trăm đô-la mà còn tố thêm ngàn đô-la nữa.

      - Vậy là ta bắt đầu leo dốc ngược rồi đấy - Harnish vừa buông lời nhận xét vừa bỏ thêm ngàn năm trăm đô-la cho đủ, trước khi nâng mức tố lên thêm ngàn đô-la nữa - em Helen Breakfast nhất định nằm đỉnh dốc này đây. Các cậu phải khéo, kẻo đứt cương hết đấy.

      - Tớ cũng muốn tới chỗ em đấy, - McDonald vừa vừa góp thêm hai ngàn đô-la bằng thẻ thay tiền rồi lại nâng mức tố lên thêm ngàn nữa.

      Chính vào lúc này, các tay chơi bắt đầu ngồi thẳng dậy và hiểu rằng thế là bài lớn chắc chắn xuất . Mặc dù họ để lộ điều gì qua vẻ mặt, song mỗi người đều bắt đầu căng thẳng. Ai cũng cố làm mặt tỉnh, và cách tỉnh của mỗi người mỗi khác. Hai Campbell cố giữ vẻ thận trọng thường ngày. French Louis giấu được vẻ chú ý McDonald vẫn giữ thái độ rất mực độ lượng, tuy cũng hơi được cường điệu lên đôi chút. Kearns vẫn lạnh lùng giữ vẻ thản nhiên. Còn Elam Harnish vẫn châm chọc, đùa cợt như thường.

      Số tiền lên đến mười ngàn đô-la, và những tấm thẻ thay tiền được chất đống lộn xộn ngay chính giữa bàn.

      - Tớ chơi thẻ thay tiền nữa đâu - Kearns với vẻ rầu rầu - Chơi theo lối ghi giấy nợ .

      - Rất mừng là cậu tố thêm nữ - McDonald tiếp lời cách vui vẻ…

      - Chưa đâu. Tớ bỏ vào ngàn đô-la rồi. Số tiền tố lên đến b ao nhiêu rồi nhỉ?

      - Cứ bỏ vào ba ngàn đô-la nữa được tiếp tục. Còn nếu muộn tố thêm tuỳ.

      - Tố thêm, mẹ kiếp. Cậu phải nhớ là bài của tớ cũng lớn như bài của cậu vậy - Kearns nhìn vào bài của - Ðể tớ cho cậu hay là tớ làm gì, Mác ạ. Tớ có linh cảm, vì vậy tớ xin theo các cậu ba ngàn đô-la nữa.

      Kearns viết số tiền lên mảnh giấy, ký tên, rồi ném ra giữa bài…

      Tất cả những con mắt bây giờ đều đổ vào French Louis. mân mê mấy lá bài cách lo lắng trong lúc, rồi sau khi thốt lên câu :

      - Lạy Chúa, tớ lại chẳng có tí linh cảm nào cả, - quẳng mấy lá bài của mình vào đống bài vứt cách tiếc nuối.

      Ngay sau đó hơn trăm cặp mắt chuyển qua Campbell. Campbell :

      - Tớ nỡ chẹt chết cậu đâu, Jack ạ, - và ra vẻ rất hài lòng sau khi bỏ thêm hai ngàn đô-la theo quy định.

      Những cặp mắt lại chuyển qua Harnish, lúc này nguệch ngoạc viết lên mảnh giấy rồi quẳng nó ra phía trước.

      - Tớ báo cho các cậu biết đây phải là chỗ thương hại nhau cách dấm dớ. Tớ xin theo cậu Jack ạ, và tố thêm ngàn đô-la nữa. Ðây mới đúng là lúc biết bài ai lớn hay lớn, phải Mác?

      - Các cậu cứ việc tiếp tục, chỉ có lợi cho tớ mà thôi, - Mác đáp - Tớ xin tố thêm ngàn đô-la nữa đó. Sao, Jack, cậu vẫn còn cái linh cảm ấy chứ?

      - Còn chứ, - Kearns mân mê mấy lá bài lúc lâu rồi tiếp - Tớ lẽ chơi đến cùng, nhưng tớ cần báo cáo các cậu biết khả năng tớ đến đâu. Tớ có chiếc tàu chạy bằng hơi nước tên là Bella. Nó cũng trị giá đến hai mươi ngàn đô-la, nếu như nó có chút giá trị gì. Rồi còn năm ngàn đô-la hàng hoá được cất ở trại Sáu Mươi Dặm. Thêm nữa, hẳn là các cậu cũng biết tớ đặt mua trại cưa, lúc này nó được vận chuyển đến bến Linderman rồi. Còn chiếc tàu chở cát nữa được đóng. Sao, tớ đủ sức chơi với các cậu chứ?

      - Tới luôn . Cậu đủ sức rồi - Ánh Sáng Ban Ngày đáp lời - Mà nhân tiện đến chuyện này, tớ cũng xin báo qua với các cậu là tớ có được hai mươi ngàn đô-la gửi trong tủ sắt của Mác và hai mươi ngàn đô-la khác còn nằm trong lòng đất Lạch Da Hươu nữa đấy. Campbell, cậu biết vùng đất đó mà có hai mươi ngàn đô-la ở đó, phải ?

      - Ðúng vậy.

      Kearns hỏi ngang:

      - Số tiền tố lên đến bao nhiêu rồi?

      - Cậu bỏ ra hai ngàn đô-la nữa được tiếp tục. Tớ chẹt chết cậu nếu cậu dám theo - Ánh Sáng Ban Ngày hăm doạ.

      - Cũng may là linh cảm của tớ lại rất tốt - Kearns đáp lại, đồng thời thêm vào đống tiền lớn dần mảnh giấy ghi hai ngàn đô-la.

      - Tớ cảm thấy nó bò ngược xuôi lưng tớ đây này.

      - Tớ chẳng có linh cảm gì ráo, nhưng được cái là bài của tớ cũng khá, - Campbell tuyên bố rồi bỏ thêm tiền lên bàn - Tuy vậy, tớ muốn tố thêm nữa.

      - Tớ khác, - Ánh Sáng Ban Ngày để viết - Tớ xin góp ngàn cho đủ số và tố thêm ngàn nữa.

      Mộng Trinh đứng sau lưng đột nhiên làm chuyện mà ngay cả người bạn thân nhất cũng được phép làm. Rướn người qua vai Ánh Sáng Ban Ngày, nàng đưa tay giở năm lá bài của lên để xem, cố tình dí chúng sát vào ngực để ai nhìn thấy. Năm quân bài mà nàng trông thấy gồm có ba con đầm và đôi tám, nhưng ai đoán được nàng thấy gì. Trong khi nàng nhìn, mấy lá bài tất cả những tay chơi khác đều dán mắt vào mặt nàng. Nhưng nàng để lộ dấu hiệu nào. Vẻ mặt nàng hệt như được chạm từ tảng băng, bởi lẽ nét mặt nàng mảy may thay đổi trước, trong, cũng như sau khi xem bài. thớ thịt nào mặt nàng chuyển động. Cánh mũi cũng tuyệt nhiên phập phồng, dù chỉ là chút. Mắt nàng cũng loé sáng thêm chút nào cả. Khi nàng đặt trả những lá bài lên bàn những cặp mắt còn chần chừ cũng thôi nhìn nàng nữa, bởi vì cũng thể biết gì thêm.

      McDonald mỉm cười độ lượng:

      - Tớ bắt cậu đấy Ánh Sáng Ban Ngày ạ, và tớ xin chẹt thêm hai ngàn nữa. Sao, cái linh cảm vẫn còn đấy chứ Jack?

      - Nó bò đây này, Mac ạ. Cậu chơi như vậy là chẹt được tớ rồi đấy. Nhưng chết nỗi cái linh cảm của tớ lạ lắm cơ. Nó cứ như sinh vật thuyết phục được tớ, và thế là tớ phải theo nó vậy. Tớ xin theo ngàn đô-la nữa, và tớ có linh cảm khác là Ánh Sáng Ban Ngày cũng theo.

      - Chắc thắn rồi, - Ánh Sáng Ban Ngày công nhận sau khi Campbell bỏ cuộc - Tớ biết khi nào phải chơi hết mình và chơi liều. Tớ xin ra thêm hai ngàn đô-la cho đủ số và xin rút thêm bài.

      Trong căn phòng im lặng như tờ chỉ còn nghe được tiếng rì rầm của ba tay chơi, cuộc rút thêm bài bắt đầu. Lúc này số tiền lên đến ba mươi bốn ngàn đô-la mà vẫn chưa được nửa ván bài. Mộng Trinh phát hoảng khi thấy Ánh Sáng Ban Ngày chỉ giữ lại ba con đấm, còn hai con tám bỏ để xin rút hai lá bài khác. Lần này ngay cả Mộng Trinh cũng dám lật mấy lá bài vừa rút để xem nữa, bởi vì nàng biết giới hạn tự của mình. Ánh Sáng Ban Ngày cũng nhìn đến hai lá bài mới này. Chúng cứ thế nằm úp mặt bàn ngay chỗ người ta chia chúng cho .

      Kearns quay sang hỏi McDonald.

      - Rút thêm ?

      - Ðủ rồi, - Mac trả lời.

      Kearns vẫn cảnh giác Mac.

      - Nếu cậu muốn cứ rút thêm.

      - Khỏi. Vậy cũng đủ rồi.

      Kearns rút thêm hai lá nhưng cũng xem chúng.

      Harnish vẫn để nguyên mấy lá bài bàn.

      bảo McDonald.

      - Tớ chả dại gì tố thêm khi biết bài cậu lớn, - từ từ ngước mắt nhìn tay chủ quán - Cậu tiếp xem nào, Mac.

      McDonald cẩn thận đếm lại bài của mình đế biết cho chắc là nó tồi, rồi viết số tiền lên mảnh giấy và tuồn nó vào đống thẻ thay tiền và giấy ghi nợ bàn. chỉ vỏn vẹn:

      - Năm ngàn đô-la.

      Kearns, lúc này mọi người nhìn chằm chằm vào , liếc vào hai quân bài mới rút, đếm lại ba lá cũ để chắc chắn là mình chỉ cầm đúng năm lá, rồi cũng viết vào mảnh giấy.

      - Tớ theo cậu đấy, Mac, và tố thêm ngàn nữa để Ánh Sáng Ban Ngày khỏi bị loại ra ngoài vòng chiến.

      Tia mắt chú ý của mọi người lại chuyển qua Ánh Sáng Ban Ngày. cũng xem hai lá bà mới rút và đếm lại xem tất cả có đủ năm lá hay .

      - Tớ theo sáu ngàn nữa cho đủ, và tố thêm năm ngàn nữa để loại cậu ra khỏi vòng chiến đấy, Jack ạ.

      - Tớ cũng xin tố thêm năm ngàn nữa để góp phần loại Jack ra ngoài - McDonald tiếp lời, giọng khàn vì căng thẳng và mép khẽ giật giật vì run.

      Mặt Kearns tái hẳn, và mọi người đều thấy tay run run khi viết vào mảnh giấy. Nhưng giọng vẫn thay đổi:

      - Ðã vậy tớ xin tố thêm năm ngàn nữa.

      Lúc này Ánh Sáng Ban Ngày trở thành trung tâm của chú ý. Những giọt mồ hôi đọng tràn lóng lánh ánh sáng từ chiếc đèn dầu trân cao. Máu dồn lên mặt làm khoảng da màu đồng ở vùng má đậm thêm. Mắt long lanh. Hai cánh mũi nở phồng đầy ham muốn.

      Khác với McDonald, giọng vẫn chắc nịch như lúc bình thường. Cũng khác với Kearns, tay chút run rẩy khi viết. :

      - Tớ xin theo mười ngàn đô-la nữa. Chẳng phải tớ sợ cậu đâu, Mac ạ, mà chỉ vì ngán cái linh cảm của thằng Jack đấy thôi.

      - Vậy tớ xin chẹt chết cái linh cảm của nó bằng năm ngàn đô-la nữa vậy - McDonald - Trước khi rút thêm, bài tớ khá nhất. Bây giờ tớ đoán là bài tớ vẫn còn khá nhất đấy.

      - Có lẽ đây là ván bài mà linh cảm sau khi rút thêm lại càng chính xác hơn linh cảm trước khi rút, - Kearns đáp - Nó bảo tớ rằng: "Jack, mày phải tố thèm vào, tố mạnh nữa vào!" vì thế cho nên tớ xin tố thêm năm ngàn nữa.

      Ánh Sáng Ban Ngày ngửa người ra sau, ngước nhìn ngọn đèn dầu đầu và tính toán để mọi người đều nghe:.

      - Trước khi rút thêm bài, tớ bỏ ra chín ngàn đô-la. Sau đó tớ theo và tố thêm hai mươi mốt ngàn nữa. Vị chi là ba mươi ngàn. Vậy là tớ chỉ còn mười ngàn, - vươn người về phía trước và nhìn vào Kearns - Bởi vậy tớ chỉ xin theo mười ngàn nữa thôi.

      - Cậu muốn tố thêm cũng được, - Kearns trả lời - Trong ván này, mấy con cẩu của cậu cũng đáng giá năm ngàn đấy.

      - Chẳng bao giờ tớ đụng đến mấy con cẩu cả. Các cậu muốn ăn hết vàng trong két lẫn vàng dưới đất của tớ tì tuỳ, nhưng đừng hòng đụng đến được chú cẩu. Tớ theo ngần ấy thôi.

      McDonald suy nghĩ hồi lâu, ai cựa quậy hoặc xì xầm. Mặt những người đứng xem đều căng thẳng. Ðó là lúc im lặng thiêng liêng. Chỉ còn nghe được tiếng gió chạy ù ù trong chiếc lò sưởi khổng lồ và tiếng cho tru mơ hồ vọng vào qua những lớp vách gỗ. phải đêm nào người ta cũng đánh lớn như vậy ở vùng sông Yukon. Mà đây lại là lần đánh lớn nhất trong lịch sử của vùng đất này. Cuối cùng, gã chủ quán mở miệng :

      - Nếu ai đó thắng cũng phải nhận cái quán Tivoli này thế cho tiền mất thôi.

      Cả hai tay chơi còn lại gật đầu:

      - Tớ cũng chỉ theo được ngần này nữa thôi - McDonald bỏ thêm vào nhột mảnh giấy ghi năm ngàn đô-la.

      Như vậy là ai tố thêm để loại địch thủ. Mà cũng chàng có ai tuyên bố về nước bài của họ. Cùng lúc và yên lặng, họ lật ngửa các quân bài của mình bàn. Những kẻ chầu rìa vội nhón gót, vươn dài cổ ra nhìn. Bài của Ánh Sáng Ban Ngày có bốn con đầm và con ách, McDonald được bốn con bồi và con ách; Kearns có bốn con già và con ba. Kearns vươn tới trước vòng tay kéo toàn bộ số thẻ thay tiền và giấy ghi nợ về phía mình. Toàn thân run lẩy bấy.

      Ánh Sáng Ban Ngày nhặt con ách của mình rồi ném nó đến cạnh con ách của McDonald, :

      - Chính nó làm cho tớ vững tin đấy. Tớ biết chỉ có mấy con già mới thắng nổi tớ thôi. Thế mà lại có - Quay qua Campbell, hỏi với vẻ quan tâm,- Cậu có những quân gì vậy?

      - Bốn quân cùng nước, hai đầu mở. Nếu chịu rút thêm cũng có thể khá.

      - Hẳn thế! Cậu có thể rút thêm cho được năm quân cơ liền, năm quân chuồn liền, hoặc năm quân rô liền.

      - Mình cũng nghĩ vậy, - Campbell cách buồn bã - Thế là đứt sáu ngàn đô-la.

      - Tớ ước gì lúc đó tất cả các cậu đều rút thêm bài, - Ánh Sáng Ban Ngày vừa cười vừa - Ðược vậy tớ vớ phải cái con đầm thứ tư ấy.

      Giờ chỉ có nước nhận đưa thư cho lão Billy Rawlins bằng xe trượt có chó kéo qua mấy vùng băng giá đến Dyea để kiếm ăn thôi. Tổng số tiền là bao nhiêu vậy Jack?

      Kearns cố đếm, nhưng bị kích động quá thành thử đếm được. Ánh Sáng Ban Ngày kéo toàn bộ số tiền về phía mình, và với những ngón tay chắc nịch, chia sẻ tay tiền ra khỏi giấy ghi nợ rồi cộng tất cả lại cách chính xác.

      - Tất cả được trăm hai mươi bảy ngàn đô-la, - tuyên bố. Bây giờ cậu có thể đổi tất cả thành tiền mặt rồi về nhà nghỉ cho khỏe.

      Kẻ thắng cuộc mỉm cười và gật gù, nhưng hình như được nên lời.

      - Bây giờ tớ xin gọi rượu cho mọi người, - McDonald - Chỉ có điều là từ nay cái quán này thuộc về tớ nữa.

      - Có chứ, - Kearns đáp, đưa lưỡi liếm môi, - Mình cầm số giấy ghi nợ này rồi chừng nào cậu trả cũng được. Có điều rượu phải để cho mình đãi.

      - Nào, quý vị, ai uống gì cứ gọi. Người thắng bao hết! - Ánh Sáng Ban Ngày hét lớn lên với mọi người chung quanh. Cùng lúc đó đứng dậy nắm lấy tay Mộng Trinh - Mấy ông bạn nhảy, ta làm bản . Ðêm còn dài chán, mà sáng sớm mai tớ phải chuyển thư rồi. Rawlins này, tớ nhận làm hợp đồng với cậu đấy, và ngày mai lúc chín giờ tớ lên đường Salt Water; phải ? Ta nào, các cậu. Ủa, chàng nhạc công kéo violin đâu rồi?

      Chú thích:

      (1) Koyokuk (hoặc Kyoukuk) con sông dài 425 dặm, ở phía Bắc trung tâm Alaska, chảy từ rặng Brooks, phía Tây Bắc đổ vào sông Yukon

    3. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 3

      đúng là đêm của Ánh Sáng Ban Ngày. là trung tâm và là kẻ khơi mào cuộc vui làm nó lây lan từ người này sang người khác mà tài nào dập tắt được. tự hoá thân mình thành nhiều người, do đó huyên náo cũng được nhân lên gấp bội. có trò nào bày ra là quá bạo và mọi người đều tham gia vào trò chơi đó, trừ những kẻ dở người ngã gục giữa chừng nhưng miệng vẫn hát lảm nhảm bằng giọng run rẩy.

      Ánh Sáng Ban Ngày hình như biết mệt. Trong lúc chờ nhảy bản kế tiếp, chung cho Kearns hai mươi ngàn đô-la bằng vàng bụi và giao cho giấy tờ chủ quyền của về Lạch Da Hươu. cũng thu xếp luôn việc nhận chuyển thư cho Billy Rawlins và chuẩn bị hành lý để mai sớm. còn phái người đánh thức Kama, tay điều khiển chó, thổ dân thuộc bộ lạc Tananaw nhưng từ lâu từ bỏ bộ lạc của mình để phục vụ cho những kẻ da trắng xâm lăng. Kama bước vào quán Tivoli, dáng cao gầy, gân guốc, mặc áo lông thú, trông là tay chì nhất trong cái chủng tộc của . bước vào quán Tivoli giữa đám người chơi bời huyên náo để nhận lệnh của Ánh Sáng Ban Ngày mà mảy may lúng túng hay sợ sệt.

      - Ừ - Kama vừa vừa đưa ngón tay ra đếm những chỉ thị mà nhận được - Nhận thư của Rawlins này. Chất thư lên xe kéo này. Lấy thực phẩm dự trữ đủ dùng cho đến Selkirk này. Ừ, này ông, ở trạm Selkirk có kiếm được thực phẩm cho chó ?

      - Nhiều lắm, Kama ạ.

      - Ừ. Mang xe trượt đến đây lúc chín giờ này. Mang cả giày tuyết này. cần mang lều này. Chắc phải mang theo bạt chứ?

      - cần, - Ánh Sáng Ban Ngày trả lời dứt khoát - Lạnh nhiều đấy. Ta gọn , hiểu ? Khi mình mang nhiều thứ, khi về cũng nhiều thứ. Cậu chịu đựng giỏi. Lạnh nhiều, nhiều cũng chẳng thấm gì, phải ?

      - Ðương nhiên, - Kama lẩm bẩm, vẻ cam chịu - Lạnh tôi cũng cóc sợ. Khởi hành lúc chín giờ hả ông?

      xoay người đôi giày da đanh của thổ dân và bước ra ngoài, điềm tĩnh như tượng nhân cho mà cũng nhận lời chào hỏi nào, cũng nhìn ngang nhìn ngửa. Mộng Trinh dẫn Ánh Sáng Ban Ngày vào góc phòng.

      - Nghe này, Ánh Sáng Ban Ngày, - nàng khẽ , - khánh kiệt rồi…

      - Bây giờ còn hơn cả con diều giấy nữa đấy.

      - Em còn tám ngàn đô-la gửi trong tủ sắt của Mac, - nàng bắt đầu vào chuyện.

      Ánh Sáng Ban Ngày lập tức ngắt ngang. Cái dây tạp dề lò dò lại gần mà nhát chú ngựa non chưa ai cưỡi.

      - cần, - - sinh ra có cắc nào đâu, nên ra khỏi thế giới này cũng chẳng cần cắc nào cả. Mà cũng cháy túi nhiều lần nên quen rồi. Thôi ta nhảy

      - cứ nghe em nào - Mộng Trinh chèo kéo - Tiền em để đấy cũng thế thôi. Em cho mượn vậy - gọi là để đóng góp vào việc tìm mỏ thôi mà - nàng gấp gáp khi thấy vẻ hoảng bốt lộ mặt .

      - Chẳng ai phải đóng góp cho cả. - Ánh Sáng Ban Ngày trả lời, - tự lo liệu lấy, để khi kiếm được tiền ấy hoàn toàn thuộc về . , xin cảm ơn bé. Rất cảm ơn, nhưng để tự lo bằng cách chạy thư hơn.

      - Kìa ? - Mộng Trinh dịu dàng phản đối.

      Nhưng làm như thể rất phấn khởi, kéo nàng lại phít sàn nhảy. Trong lúc hai. người quay cuồng theo điệu luân vũ, Mộng Trinh cứ miên man suy nghĩ về trái tim sắt đá của gã đàn ông ôm nàng trong vòng tay và tránh né được mọi cạm bẫy của nàng.

      Lúc sáu giờ sáng, người nóng ran lên vì men rượu Whisky, nhưng vẫn còn giữ được phong độ, đứng ở quầy rượu quật tay mọi người xuống mặt quầy. Ðây là trò gồng tay. Hết người này đến người khác ra đọ sức với , nhưng chẳng ai đè nổi tay xuống, ngay cả hai người to lớn như Olaf Henderson và French Louis cũng chịu thua. Khi có người cho rằng đó là chẳng qua chỉ là trò bịp, mánh khoé do cơ bắp được luyện tập nhiều mà thôi, liền thách đấu sức theo cách khác.

      - Các cậu nhìn đây này, - la lên - Tớ làm hai chuyện sau đây. Trước hết là cân túi vàng của mình xem còn bao nhiêu. Sau đó là đánh cuộc với các cậu là tớ đủ sức nhấc bổng tất cả các bao bột mì mà các cậu có thể nhấc được sau khi chất thêm hai bao nữa vào số đó.

      - Lạy Chúa, để tớ, - French Louis át tất cả các tiếng reo hò.

      - Gượm ! - Olaf Henderson cũng la lên - Tớ với cậu mạnh ngang nhau, vậy cho tớ tham gia nửa số tiền cuộc với.

      bàn cân, túi vàng của Ánh Sáng Ban Ngày đánh giá bốn trăm đô-la. Louis và Olaf chia đôi số tiền cuộc. Những bao bột mì nặng năm mười cân được mang vào từ phòng kho của McDonald. Những người khác đòi thẻ trước. Họ đứng dạng chân hai chiếc ghế, dưới đất là bốn bao bột mì được cột với nhau bằng dây thừng.

      Bằng cách này, nhiều người có thể nhất đến bốn hoặc năm trăm cân. số ít khác đạt đến mức sáu trăm cân. Cuối cùng hai gã khổng lồ ra thử sức với các bao bột mì nặng bảy trăm cân. French Louis chất thêm vào bao nữa thành bảy trăm năm mươi cân và nhấc bổng lên. Olaf cũng làm được như vậy. Nhưng đến tám trăm cân họ đành chịu. Họ thử thử lại đến nỗi mồ hôi trán vã ra thành giọt; xương cốt kêu răng rắc. Họ có thể rê hoặc giật giật chúng từ chỗ này qua chỗ khác, nhưng nhấc bổng chúng lên họ bó tay.

      - có Chúa, lần này cậu sau lầm lớn rồi. Ánh Sáng Ban Ngày ạ, - French Louis vừa vừa đứng thẳng lưng dậy và bước xuống ghế. Có là mình đồng da sắt mới nhất nổi thôi. Nhớ là phải thêm trăm cân nữa, chứ phải chỉ mười cân đâu nhé ông bạn.

      Người ta cởi dây cột mấy bao bột mì ra và định thêm vào hai bao nữa Kearns xen vào.

      - bao nữa thói chứ.

      - Hai chứ? - có tiếng người la lên - Lúc đầu đánh cuộc là hai cơ mà.

      Kearns phản đối:

      - Nhưng mà họ có nhấc nổi cái bao cuối cùng đâu. Họ chỉ nhấc bổng được có bảy răm năm mươi cân thôi mà.

      Nhưng Ánh Sáng Ban Ngày giải quyết cuộc cãi vã cách hào hiệp:

      - Có gì mà các cậu phải nhặng xị lên vậy. Thêm hay bớt bao nhằm gì? Nếu tớ nhấc nổi được ba bao nữa tớ cũng chẳng nhấc nổi hai bao. Cứ bỏ hết vào .

      đứng lên ghế, hơi rùn người và còng lưng xuống cho đến khi bàn tay chạm phải sợi dây thừng. hơi dịch đôi chân chút, lên gây tay kéo thử, rồi lại nhả ra để sửa lại thế đứng cho hoàn hảo.

      French Louis la lên với giọng tin:

      - Kéo mạnh lên nào, Ánh Sáng Ban Ngày. Kéo mạnh lên nào!

      Ánh Sáng Ban Ngày lại lên gân tay, lần này kéo , sức lực của toàn thân được vận lên từ từ cho đến khi cái khối chín trăm cân cồng kềnh được nhấc bổng khỏi mặt đất đong đưa tới lui như con lắc giữa hai chân của .

      Olaf Henderson thở hắt ra hơi to.

      Mộng Trinh, lúc nãy cũng vô tình vận sức theo đến nỗi toàn thân nàng đau cứ như dần, thở phào nhõm. Còn French Louis lẩm lẩm cách kính nể:

      - Thưa ông Ánh Sáng Ban Ngày, cho phép tôi chào thua. Tôi chỉ là đứa bé to xác. Ông mới người đàn ông bự con.

      - Chung , - Ánh Sáng Ban Ngày kêu lên, rồi thẩy túi vàng của mình lại chỗ bàn cân. Ở đó vàng từ hai chiếc túi của hai kẻ thua cuộc được trút vào chiếc túi ấy cho đủ số bốn trăm đô-la.

      - Vô nào! Vô nào!- Ánh Sáng Ban Ngày lại - Ai muốn uống gì cứ gọi. Người thắng xin bao.

      Mười phút sau, lại la lên:

      - Ðêm nay là đêm của tớ. Tớ là con chó sói già độc. Tớ chững kiến ba mươi mùa đông rồi. Hôm nay là sinh nhật của tớ, cả năm chỉ có lần. Tớ có thể quật cho mọi người ngã ngửa. Ði nào, mọi người. Tớ cho các cậu ngã ngửa tuyết. Ði nào, ma mới cũng như ma cũ ra đây tớ làm lễ rửa tội cho nào.

      Tất cả đám người chè chén đều kéo nhau ra khỏi quán, chỉ trừ mấy gã phục vụ và những kẻ say bí tỉ lúc này vẫn lè nhè giọng hát, McDonald muốn giữ thể diện nên giang rộng vòng tay tiến về phía Ánh Sáng Ban Ngày.

      - Sao? Cậu muốn thử trước à? - Ánh Sáng Ban Ngày vừa vừa cười cùng lúc ấy tay nắm lấy tay Mac như thể họ chào nhau vậy.

      - phải, phải! - Mac chối bai bải. - Tớ chỉ muốn chúc mừng sinh nhật của cậu thôi. Dĩ nhiên là cậu có thể cho tớ ngã ngửa tuyết rất dễ dàng. Ai mà dám cự lại người nhấc bổng chín trăm cân bao giờ? McDonald nặng trăm tám mươi cân, ấy mà Ánh Sáng Ban Ngày ch nắm tay và chỉ giật cái là nhấc bổng lên và ném ngã sóng xoài úp mặt xuống tuyết Liền sau đó chộp khoảng sáu người đứng gần và ném xuống tuyết. ai cưỡng lại được cứ tóm và hất cái là họ bay ào ào rồi rơi xuống tuyết mềm theo đủ tư thế cách lạ lùng nhưng vô hại. Chẳng mấy chốc khó phân biệt được ai là người bị ném rồi và ai là người còn đợi tới phiên trong cái ánh sao lờ mờ nên đành phải rờ lưng và vai họ xem có bị dính tuyết hay chưa.

      - Ðã được rửa tội chưa nào? - cứ lập lạ câu hỏi này mỗi khi chìa đôi bàn tay khủng khiếp của mình ra.

      Hàng chục người nằm sóng xoài theo mối hàng dài mặt tuyết. Nhiều người khác quỳ gối với vẻ khiêm tốn trông buồn cười, vọc tuyết xát lên đầu, và thề rằng họ được làm lễ rửa tội rồi. Nhưng có nhóm năm người là vẫn đứng hiên ngang. Họ là những kẻ chuyên sống trong rừng sâu và vùng biên thuỳ, và họ sẵn sàng cự lại những ai muốn tỏ ra khỏe hơn họ vào ngày sinh nhật của mình.

      Tuy là những tay cự phách thuộc các lò đào tạo khắc nghiệt nhất, những cựu chiến binh của hàng trăm trận loạn đả, những con người chịu đựng giỏi, sẵn sàng đổ máu và mồ hôi, họ vẫn thiếu cái mà Ánh Sáng Ban Ngày có và có rất nhiều: phối hợp nhuần nhuyễn giữa đầu óc và bắp thịt. Bởi vậy, chỉ vừa ra tay cái, đối thủ chưa kịp hiểu và kháng cự, đạt được mục đích của mình rồi. Cũng vậy, khi có ai vừa chạm đến liền biết phản ứng và đánh trả lại ngay nhanh như chớp.

      - Ðứng chờ ở đó mà làm gì, - Ánh Sáng Ban Ngày vừa vừa tiến lại phía năm người đợi - Các cậu đến nhận lễ rửa tội của tớ cho rồi. Các cậu có thể cho tớ đo ván vào bất kỳ ngày nào khác trong năm, nhưng vào ngày sinh nhật của tớ tớ muốn các cậu thấy tớ là vô địch. Có phải cái bản mặt của Pat Hanrahan nhìn tớ cách khao khát và tự nguyện kia ? Lại đây nào, Pat.

      Pat Hanrahan, cựu võ sĩ quyền đấu tay và là cao thủ trong các trò vui mạnh bạo, bước tới trước. Hai người chộp lấy tay nhau, và hầu như chàng Ái Nhĩ Lan chưa kịp động thủ thấy tay mình bị khoá chặt đau điếng và bị ném đến nỗi đầu và vai họ vùi hẳn trong tuyết. Joe Hines, trước làm nghề xẻ gỗ, cũng bị quật xuống đất mạnh y như thể vừa ngã từ tầng lầu hai xuống. bị chộp ngay bàn toạ, nhấc lên, và ném xuống khi chưa kịp trở tay. Doc Watson, cái gã có bộ râu cằm xám, mình rắn như thép, biết trước kia gã làm gì, chỉ biết là g rất kinh khủng trong vật lộn, cũng bị hất ngã trong tích tắc trước khi kịp tấn công. Olaf Henderson, biết là tới phiên mình, tính lợi dụng lúc Ánh Sáng Ban Ngày khom người đưa ta đỡ Doc Watson dậy để ra đòn bất ngờ về phía hông. Nhưng Ánh Sáng Ban Ngày lập tức bò toài ra mặt đất. Ðà lao của Olaf rất mạnh, mà đầu gối lại đột nhiên bị tư thế của Ánh Sáng Ban Ngày ngáng lại, nên bị hất lao rất xa về phía trước. Trước khi kịp ngồi dậy Ánh Sáng Ban Ngày lật ngửa ra, vọc tuyết chà lên mặt và ta , lại còn tọng tuyết vào mồm cho đến khi lọ vào cuống họng mới thôi.

      - Tớ cũng khoẻ chẳng kém gì cậu, Ánh Sáng Ban Ngày ạ! - Olaf lúng búng khi đứng dậy được - Nhưng có Chúa, tớ chưa thấy ai có cái gì mạnh như vậy.

      French Louis là người cuối cùng trong số năm người lúc nãy. chứng kiến nhiều rồi nên hề sức cảnh giác. cứ lòng vòng né tránh cả phú trước khi chịu nắm tay Ánh Sáng Ban Ngày. Rồi họ vận sức bẻ tay nhậu qua lại nghiêng ngửa cả phút nữa mà chẳng ai chiếm được ưu thế. Rồi ngay lúc cuộc chiến đấu đến phần hào hứng Ánh Sáng Ban Ngày lẹ làng tăng thêm lực và vận hết gân cốt. French Louis gượng chống đỡ cho đến khi xương cốt kêu răng rắc và người từ tù nghiêng hẳn qua cho đến khi ngã bệt xuống đất.

      - Kẻ thắng đãi nữa nào! - Ánh Sáng Ban Ngày vừa vừa đứng thẳng dậy và dẫn đoàn người trở vào quán Tivoli - Vào , theo ngã này vào phòng "độc dược" !

      Họ đứng thành hàng dọc theo chiếc quầy dài. Bettles, tay cứng cựa nhất trong số những người tiên phong về khả năng và óc mạo hiểm, ngừng lè nhè bài ca "Rễ Cây De Vàng" để chào đón Ánh Sáng Ban Ngày, nhưng nửa chừng lại thấy cần phải phát biểu đôi lời nên liền cao giọng cách rất ư là hùng biện:

      - Tôi xin báo cho quý vị biết là tôi rất hãnh diện được gọi Ánh Sáng Ban Ngày là bạn. Trước kia tôi và ta là bạn đồng hành. Từ chân lên đến đầu ta là vàng mười tám cara, mặc dù ta còn là chú nhóc. Còn quý vị khi bằng tuổi đó chùi tai cũng còn chưa sạch. ta bao giờ là đứa con nít cả. Ngay khi mới ra đời, ta người trưởng thành hoàn toàn rồi. Mà quý vị phải biết, vào thời đó đàn ông phải tỏ ra mình là đàn ông đấy nhé, chứ chẳng phải như cái thời đại văn minh thối rữa bây giờ đâu, - Bettles ngưng lúc lâu để quàng tay mình qua vai Ánh Sáng Ban Ngày theo kiểu chú gấu - Khi cậu với tôi phiêu lưu vào cái vùng sông Yukon này trong những ngày xa xưa tươi đẹp ấy trời đâu mưa ra súp và làm gì có những trạm ăn trưa khỏi mất tiền như bây giờ nhỉ? Hễ săn được thú chỗ nào làm phải đốt lửa nấu ăn ngay chỗ đó. Mà lúc đó mình chỉ sống nhờ vào cá hồi và thịt thỏ ai thôi, và phải xơi luôn cả ruột gan của chúng. Tôi có phải nào?

    4. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Khi thấy mọi người phá lên cười vì thấy mình nhầm, Bettles buông tay khoác va Ánh Sáng Ban Ngày ra và giận dữ quay về phía đám đông.

      - Cười mấy thằng đầu bò kia, cứ cười ! Nhưng tao thẳng tuột cho bọn bay nghe, đứa khá nhất trong bọn bay cũng chẳng xứng đáng cọ giày cho Ánh Sáng Ban Ngày đây. vậy có đúng hử, Campbell? vậy có đúng hử Mac? Ánh Sáng Ban Ngày là tay vệ binh kỳ cựu tay đào vàng thực . Lúc đó chẳng có tàu chạy bằng hơi nước mà cũng chẳng có chỗ bán buôn gì cả, và bọn tớ chỉ toàn sống bằng cá hồi và thịt thỏ mà thôi.

      xong, nhìn khắp lượt cách đắc thắng trong tiếng vỗ tay tán thưởng, sau đó có cả mấy giọng cất lên đòi Ánh Sáng Ban Ngày phả phát biểu. ra hiệu đồng ý. Người ta liền nhắc ghế ra và giúp trèo lên. cũng chẳng tỉnh táo gì hơn cái đám người đứng dưới - đán người ồn ào, ăn mặc thô kệch, chân mang giày da đanh kiểu thổ dân hoặc giày kín bằng da hải cẩu viền lông thú, bao tay đeo ở cổ lủng lẳng, đầu độ mũ da có vành che tai được cuộn lên trông giống như những cái nón sắt có đinh cánh của người Bắc Âu. Ðôi mắt đen láy của Ánh Sáng Ban Ngày loé sáng và máu dồn lên do men rượu làm đôi má màu đồng của xâm thêm. được đón chào nồng nhiệt nhiều lần bằng những lời hoan hô đến độ hình như phải ứa nước mắt, dù rằng có rất nhiều tiếng hoan hô chỉ là những tiếng phều phào hoặc lè nhè.

      - Các bạn, bây giờ tớ chẳng biết phải gì với các bạn cả - Ánh Sáng Ban Ngày bắt đầu cách lừng khừng, cố kiểm soát cái đầu lúc nay quay cuồng của mình - Tớ nghĩ tớ kể cho các bạn nghe câu chuyện. Trước kia tớ có người bạn cũng làm việc chung ở Juneau. ta từ Bắc Caroliney đến và ta thường kể cho tớ nghe câu chuyện này. Chuyện xảy ra trong đám cưới ở vùng núi thuộc quê hương ta. Cả gia đình và bạn bè tề tựu đông đủ. Ông cha xứ sắp hoàn tất lễ cưới và bảo: - Họ Thượng đế kết hợp đừng để ai chia rẽ(l) - đột nhiên chú rể đứng lên : "Thưa Cha, con xin phép đứng lên để chất vấn về ngữ pháp của Cha trong câu Cha vừa . Con muốn đám cưới của con phải được làm cho đúng". Khi khói súng tan , dâu mới nhìn quanh thấy cha xứ chết, chú rể chết, trai chết, hai ông cậu chết, năm người khách cũng chết. dâu bèn thở dài và : "Mấy khẩu súng lục tự động loại mới này là thế cho đời nhà ma tất cả dự định về tương lai của mình rồi!". Vì thế cho nên tớ muốn với các bạn điều này - Ánh Sáng Ban Ngày tiếp khi tiếng cười ồn ào lắng xuống - rằng bốn quân già của Jack Kearns cũng cho đời nhà ma tất cả dự định tương lai của tớ rồi, thành thử tớ đành phải lên đường Dyea.

      - Bỏ trốn khỏi đây à? - Có ai đó hỏi to.

      cơn giận bỗng bừng lên làm mặt cau lại, nhưng chỉ thoáng sau vui vẻ trở lại.

      - Tớ biết các bạn hỏi câu đó chỉ là để đùa thôi. - Ánh Sáng Ban Ngày mỉm cười - Dĩ nhiên là tớ bỏ đây mà rồi.

      - Vậy thề , Ánh Sáng Ban Ngày, - cũng người nào đó la lên.

      - Dĩ nhiên tớ thề. Lần đầu tiên tớ vượt đèo Chilcoot là vào năm 88. Trận bão tuyết mùa thu năm đó buộc tớ phải trở ra, chỉ còn độc có chiếc sơ mi tơi tả và cốc bột sống. Mùa đông năm đó tớ lại lấy thêm lương thực ở Juneau và đến mùa xuân lại vượt đèo lần nữa. Rồi cái đói lại tống cổ tớ ra. Mùa xuân năm sau tớ lại trở vào, lần này thề rằng trở ra nếu chưa tìm thấy được gia tài. Cho đến bây giờ tớ vẫn chưa tìm thấy nó nên còn ở đây. Nhưng tớ bỏ cuộc. Ðưa thư xong, tớ quay về ngay, nghỉ lại đêm ở Dyea. Rồi tớ lại vượt đèo Chilcoot ngay sau khi đổi chó mới, nhận thư và thực phẩm. Bởi vậy tớ xin thề lần nữa, có quỷ thần và đầu thánh John chứng giám, tớ bao giờ bỏ nơi này mà khi chưa kiếm được gia tài. Mà tới báo cho các bạn ở đây vào giờ này biết là gia tài rất lớn.

      - Gia tài đó khoảng bao nhiêu nào? - đứng ở dưới, Bettles hỏi với lên và quàng tay quanh chân Ánh Sáng Ban Ngày cách thân thiết.

      - Ừ, bao nhiêu? Gia tài khoảng bao nhiêu nào? - Những người khác cũng la lên.

      Ánh Sáng Ban Ngày chờ cho mình bớt kích động rồi :

      - Khoảng bốn hoặc năm triệu đô-la, - chậm rãi, và khi thấy mọi người ồ lên chế giễu câu của mình, giơ tay ra hiệu cho họ im lặng.- Tớ bảo thủ ý kiến đó, và vạch mức kiếm được thấp nhất là triệu đô-la. Khi còn dưới mức đó, dù chỉ cắc, tớ cũng chưa chịu rời bỏ vùng này.

      Mọi người lại ồ lên chế giễu, bởi vì toàn bộ số vàng cho đến nay tìm được ở khu vực Sông Yukon cũng chưa tới năm triệu và chẳng ai mình mà kiếm được đến trăm ngàn đô-la, chi đến triệu. Các bạn nghe đây. Ðêm nay các bạn thấy Jack, Kearns có linh cảm như thế nào rồi đó. Trước khi rút thêm bài, nước bài của chúng tôi lớn hơi của nhiều. Ba con già hắc ám của chả là cái quái gì cả. Nhưng biết trước rằng con già nữa đến - đó là linh cảm của - và chộp được nó . Tớ báo cho các bạn biết là tớ cũng xuất ở vùng sông Yukon này, và thời gian điểm rồi đấy. Tớ muốn về cái thứ gia tài hắc ám mà tớ tìm thấy ở Lạch Da Hươu hay ở Lạch Cây Dương đâu. Tớ muốn đến gia tài mà ai nghe đến cũng phải dựng tóc gáy. Tớ báo vớ các bạn, cái gia tài đó lờn vờn trong khí và chọn mặt gửi vàng đấy. Nó đậu đâu đó ở chỗ các nguồn sông, và chẳng ai có thể cản ngăn nó được. Sau này nếu các bạn muốn tìm tớ cứ theo dấu giầy của tớ mà lần đến vùng sông Steward, sông Indian hoặc sông Klondike thấy. Khi đem thư về đây rồi, tớ lập tức ra theo hướng đó, nhanh đến để các bạn còn thấy tớ nữa vì sương mù bao phủ. Các bạn, cái gia tài đó đến đấy. Cú bật rễ cỏ lên là thấy vàng, cứ xúc rá là được trăm đô-la. có đến năm chục ngàn người từ bên ngoài đổ về nơi áy. Ðến cả địa ngục cũng phát hoảng lên vì số vàng tìm được.

      Ánh Sáng Ban Ngày nâng ly lên môi:

      - Xin chúc cho tinh thần của chúng ta. Hy vọng là các bạn cũng tham gia vào cuộc tìm kiếm gia tài đó.

      uống cạn ly rồi bước xuống ghế. Bettles lại đưa tay quàng lấy cổ .

      - Nếu tớ là cậu, tớ lên đồng vào hôm nay đâu - Joe Hines khuyên sau khi xem cái hàn thử biểu treo ngoài cửa - đợt giá lạnh lại ập đến đây. Nhiệt độ bây giờ là sáu mươi hai độ F dưới rồi, mà nó vẫn còn xuống nữa đấy. Ðợi qua đợt giá lạnh này rồi hãy , cậu ạ.

      Ánh Sáng Ban Ngày phá lên cười.

      - Ðúng là giọng lưỡi mấy thằng nhát gan - Bettles rống lên - Có tí giá lạnh mà sợ. Nếu mày nghĩ là cái giá lạnh có thể cản Ánh Sáng Ban Ngày hoá ra mày chẳng hiểu cái cóc gì về nó cả.

      - cứ để phổi nó đông cứng lại, - Joe đáp.

      - Có cái bình sữa và cây kẹo ngậm của cậu đông có. Nghe đây này, Joe, cậu mới đến vùng này được ba năm. Cậu chưa được tôi luyện đủ. Tớ tớ thấy Ánh Sáng Ban Ngày năm mươi dặm sông Koyokuk vào cái ngày nhiệt độ xuống đến bảy mươi hai độ F dưới rồi đấy.

      Joe lắc đầu cách thảm hại.

      - Cái lạnh này làm phổi đông cứng lại thôi, - than thở não nùng - Nếu Ánh Sáng Ban Ngoài ra vào lúc này chẳng bao giờ thoát được. Mà lại chẳng mang lều mang bạt gì cả.

      - Từ đây tới Dyea xa đến ngàn dặm, - Bettles vừa tuyên bố vừa trèo lên ghế, tay bá lấy cổ Ánh Sáng Ban Ngày để đỡ cho cái thân hình siêu vẹo của mình - ngàn dặm đấy, mà đường chưa có sẵn. Tớ xin dành cuộc với mấy tay ma mới muốn cuộc gì cuộc - là Ánh Sáng Ban Ngày Dyea chỉ mất ba mươi ngày mà thôi.

      - Nghĩa là trung bình mỗi ngày phải được ba mươi dặm, - Doc Watson cảnh giác - Tôi cũng có chút ít kinh nghiệm đường rồi. Chỉ cần trận bão ở đèo Chilcoot là đủ cầm chân đến cả tuần lễ rồi.

      - Ðúng vậy, - Bettles đáp ngay - mà Ánh Sáng Ban Ngày phải thêm ngàn dặm khác và mất thêm ba mươi ngày nữa mời quay về đây được. Tớ xin cuộc năm trăm đô-la đấy. Chấp luôn cả bão tuyết.

      Ðể nhấn mạnh thêm lời mình , Bettles lôi trong túi ra gói vàng to như khoanh xích xích hỗn hợp và quẳng nó xuống quầy rượu đánh thịch cái. Doc Watson cũng quẳng túi vàng của ngay bên cạnh.

      - Gượm , - Ánh Sáng Ban Ngày la lên - Bettles đúng đấy, nên tớ cũng muốn đánh cuộc. Tớ cuộc năm trăm đô-la là sau sáu mươi ngày tính từ ngày hôm nay tớ dừng xe trước cửa quán Tivoli với toàn bộ thư tín của tỉnh Dyea.

      Cả phòng ầm lên cách nghi ngờ, và có đến chục người móc túi vàng của họ ra. Jack Kearn áp sát lại để gây chú ý cho Ánh Sáng Ban Ngày:

      - Tớ bắt cậu đó, Ánh Sáng Ban Ngày, - la lên, - tớ cuộc hai ăn là cậu làm được, dù trong bảy mươi lăm ngày nữa.

      - Tớ cần cậu bố thí đâu, Jack ạ, - Ánh Sáng Ban Ngày đáp - Ðã đánh cuộc là phải ăn . Mà chỉ cần sáu mươi ngày thôi.

      - Tớ cứ cá hai ăn là trong bảy mươi lăm ngày cậu về nổi, - Kearns vẫn khăng khăng - Trại Năm Mươi Dặm bị bỏ trống, mà tuyết ở đó lại rất tệ hại.

      - Tiền cậu ăn được của tớ là tiền của cậu, - Ánh Sáng Ban Ngày như để ý, tiếp - Mẹ kiếp, Jack, cậu được cho lại tớ theo cách đó. Tớ cuộc với cậu đâu. Tớ biết tỏng là cậu muốn gì rồi, Jack, cậu nghe tớ đây này, tớ cũng có linh cảm lờ ngày nào đó tớ ăn lại của cậu đấy. Cứ đợi đến lúc tớ tìm thấy gia tài . Lúc đó tớ với cậu chơi cho cháy túi để mặt hào. Dám nào?

      Hai người bắt tay nhau.

      - Dĩ nhiên là cậu thắng cuộc thôi, - Kearns vào tai Bettles, rồi lớn cho mọi người nghe - Tớ cuộc năm trăm đô-la là Ánh Sáng Ban Ngày trở về trong vòng sáu mươi ngày.

      Billy Rawlins liền nhận cuộc, và Bettles ôm lấy Kearns cách rất cao hứng.

      - Mẹ kiếp, tớ cuộc với cậu đó - Olaf Henderson vừa vừa kéo Ánh Sáng Ban Ngày ra khỏi chỗ Bettles và Kearns.

      Sau khi nhận lời đánh cuộc, Ánh Sáng Ban Ngày lại la lên:

      - Người thắng lại bao nào! Nhất định tớ thắng, mà đợi đến sáu mươi ngày mới được uống rượu lâu quá nên ngay bây giờ tớ xin bao luôn. Ai uống gì cứ gọi, nào các bạn, gọi nào.

      Bettles tay cầm ly Whisky, lại trèo lên ghế, và trong lúc người cứ lảo đảo qua lại, cất giọng hát bài hát duy nhất mà biết:

      "Ô cái chàng Henry Ward Beecher

      Và mấy ông thầy dạy giáo lý

      Tất cả ngợi ca rễ cây Dẹ Vàng

      Nhưng bạn có thể chắc chắn rằng

      Nếu như phải gọi nó bằng tên nào cho đúng

      phải gọi nó là thứ nước ép ta từ trái cấm".

      Cả phòng lập tức đồng than rống lên:

      "Nhưng bạn có thể chắc chắn rằng

      Nếu nhu phải gọi nó bằng tên nào cho đúng

      phải gọi nó là thứ nước ép ra từ trái cấm".

      Có ai đó chợt mở cánh cửa trước, và tia nắng lờ mờ lọt vào phòng.

      - Trời sáng rồi, trời sáng rồi? - có ai đó loan báo như nhắc nhở.

      Ánh Sáng Ban Ngày thèm nghỉ chút để lấy sức, quay đầu liền ra cửa, vừa vừa kéo vành nón xuống che phủ tai. Kama đứng bên ngoài, cạnh chiếc xe trượt tuyết. Chiếc xe hẹp và dài, ngang sáu inch(2) dọc bảy foot(3) rưỡi; thùng xe bằng gỗ cách mấy cái bánh xe bọc thép sáu inch. xe chất những túi vải đựng thư, đựng thực phẩm và các dụng cụ khác dùng cho người và chó, được ràng chặt bằng những đai da hươu. Phía trước xe là năm chú chó lấm lem những tuyết nằm co ro thành hàng. Chúng là giống chó Eskimo, về hình dạng và màu sắc giống nhau, lông xám, rất to lớn và khoẻ mạnh. Từ cái mõm trông dữ dằn đến cái đuôi xù, chúng đều giống hệt như mấy con sói rừng. Dù được thuần hoá, chúng vẫn giữ được các đặc tính của những con sói. Nằm những túi vải là hai đôi giày tuyết được cài dưới mấy sợi dây ràng.

      Bettles chỉ vào chiếc áo choàng bằng da thỏ vùng Bắc Cực nằm ló khỏi miệng bao và :

      - Giường của đấy. Dúm lông thỏ ấy chỉ nặng có sáu cân. Nó là cái chăn ấm nhất của đấy. Tớ mà đắp chẳng thấy ấm tí nào cả, ấy là tớ cũng có tí dày dạn phong trần rồi đấy. Ánh Sáng Ban Ngày đúng là cái lò lửa của địa ngục. Hẳn là như thế.

      - Tớ thích được như cái gã mọi ấy đâu, - Watson .

      - Ánh Sáng Ban Ngày rồi đến giết chết gã mọi ấy . Rồi cũng đến giết chết gã - Bettle cách khoái trá - Tớ biết, bởi vì tớ cũng từng đường với Ánh Sáng Ban Ngày rồi. chẳng bao giờ thấy mệt mỏi cả. Tớ chẳng hiểu ra làm sao cả. Tớ thấy găng ướt ngoài trực lạnh dưới bốn mươi lăm độ . Chẳng có người sống nào có thể làm như vậy cả.

      Trong lúc họ chuyện Ánh Sáng Ban Ngày bận từ giã những người đứng vây lấy . Mộng Trinh muốn hôn , và mặc dù rượu làm cho đờ đẫn, vẫn tìm cách thoát được sợi dây tạp dề mà phải nhượng bộ. hôn Mộng Trinh, nhưng cũng ôm hôn ba người phụ nữ khác cách nhiệt thành kém. xỏ tay vào găng, đánh thức mấy con chó, rồi nắm lấy cần lái phía trước xe.

      - Ði nào, các nàng, - la lên.

      Ngay lập tức mấy chó chó phóng mình tới trước, ngực đập mạnh vào sợi đai chắn phía trước, thân hình rùn xuống, móng vuốt bấu chặt và tuyết. Chúng tru lên cách hăm hở, và trước khi chiếc xe chạy được khoảng chục bước Ánh Sáng Ban Ngày, theo sau là Kama, vội chạy theo cho kịp. Người và chó cứ thế lao qua bờ xuống đến lòng sông Yukon giờ đóng băng và mất hút trong cái ánh sáng xám xịt.

      Chú thích:

      (l) Nguyên văn "They as the Lord have Jined let no man put asunder". Câu này của ông cha xứ chỉnh về và ngữ pháp nên chứng tôi tạm dịch như để độc giả có thể thấy được những điểm sai về và ngữ pháp trong câu dịch tiếng Việt.

      (2) inch (in sơ): đơn vị đo chiều dài bằng 2,54 cm.

      (3) foot (foot): đơn vị đo chiều dài bằng 0,3048m.'

      Chương 4

      Trong lòng sông, băng đóng cứng nên lũ chó có thể chạy trung bình sáu dặm giờ. Ðể đuổi kịp chúng, cả hai người đều phải chạy. Ánh Sáng Ban Ngày và Kama cứ đều đặn thay phiên nhau ở chỗ cần lái, bởi vì việc chạy phía trước xe để điều khiển rất nặng nhọc. Người được thay chạy tụt về phía sau, thỉnh thoảng lại nhảy tót lên xe ngồi nghỉ.

      Công việc cực nhọc, nhưng nó làm người ta hưng phấn. Họ chạy như bay mặt đất, cố lợi dụng tối đa điểm của mặt băng cứng. lát nữa họ đến đoạn đường có người qua lại và băng rất xốp, giỏi lắm cũng chỉ được ba dặm giờ.

      Kama và Ánh Sáng Ban Ngày ai trò chuyện với ai. Công việc cho phép, mà bản thân họ cũng thích trò chuyện trong lúc làm việc. Hiếm lắm và cần thiết lắm họ mới trao đổi với nhau những tiếng đơn , đặc biệt là Kama hầu như chỉ ừ hữ mà thôi. Thảng hoặc cũng chung chúng chỉ im lặng. Chỉ còn gầm gừ, nhìn chung chúng chỉ im lặng. Chỉ còn nghe thế tiếng bánh xe thép nghiến vào mặt băng còn nghe ghê tai và tiếng chiếc xe bị kéo mạnh kêu lê kẽo kẹt.

      Cứ như thể là Ánh Sáng Ban Ngày vừa vực qua bức tường từ cái râm ran và ỉ của quán Tivoli để vào thế giới của im lặng và bất động. cái gì động đậy cả. Sông Yukon ngủ vùi dưới lớp băng dày non thước. có đến làn gió. Ngay cả nhựa sống trong lòng các cây vân sam dày đặc hai bên bờ sông cũng bị đông cứng.

      Ðó là thế giới chết, hơn nữa, thế giới xám xịt. Trời lạnh như cắt và trong. Trong khôn khí có hơi nước, có hơi sương. Vậy mà bầu trời vẫn cứ xám xịt như màu tang, dù chẳng có mây để che khuất cái sáng sủa của ngày, nhưng vì có mặt trời nên thể có ánh sáng. Vào khoảng mười hai giờ kém mười lăm phút, họ đến khúc quanh to lớn của sông Yuko cho phép họ nhìn xa được về hướng nam. Họ thấy mặt trời nhô phần lên khỏi chân trời, nhìn nó nhô thẳng lên mà lại xiên, cho nên ngay cả lúc giữa ngọ, phần dưới của mặt trời cũng nhô hẳn khỏi chân trời. Mặt trời trông nhợt nhạt lờ mờ. Nắng của nó có nhiệt. Ngay khi vừa lên tới đỉnh nó lại lập tức lăn xuống dưới đường chân và vào lúc mười hai giờ mười lăm phút trái đất lại phủ bóng đêm lên toàn bộ khu vực rồi.

      Người và chó vẫn tiếp tục chạy. Ánh Sáng Ban Ngày và Kama quả đúng là những con người man dã, nếu chỉ xét về cái dạ dày của họ mà thôi.

      Họ có thể ăn bất chấp giờ giấc và số lượng. Có lúc họ ăn ngốn ăn ngấu, có lúc lại quãng rất lâu mà chẳng ăn gì cả. Mấy chú chó chỉ ăn ngày bữa mà mỗi lần như vậy mỗi con cũng chỉ được tối đa cân cá khô mà thôi. Tuy đói khủng khiếp như thế, song chúng vẫn khỏe mạnh. Cũng giống như tổ tiên của chúng là loài sói, quá trình dinh dưỡng trong cơ thể chúng rất tiết kiệm và tuyệt hảo. Chúng phí phạm thứ gì cả. Ngay cả cái miếng ăn cuối cùng nhất cũng được chuyển thành năng lượng. Kama và Ánh Sáng Ban Ngày giống chúng ở điểm này. Là con cháu của biết bao thế hệ phải chịu đựng, họ cũng chịu đựng. Cái tiết kiệm của cơ thể họ là cái tiết kiệm tự nhiên và đơn giản. chút thức ăn cũng cung cấp cho họ khối lớn năng lượng. mất thứ gì cả. Cái khẩu phần đủ để Ánh Sáng Ban Ngày và Kama duy trì sức lực ở mức cao nhất làm cho người thuộc thời đại văn minh suốt ngày ngồi bàn giấy bị gầy rộc và héo hắt .

      Khoảng ba giờ chiều, cái tranh tối tranh sáng sẫm dần thành đêm. Những ánh sao ra gần ràng và sáng, nên chó và người vẫn có thể tiếp. Hình như họ bao giờ biết mệt. Mà phải là chạy để đoạt kỷ lục trong ngày mà là trong sáu mươi ngày như thế. Mặc dù suốt đêm qua hề chợp mắt, chỉ uống rượu và nhảy suốt. Ánh Sáng Ban Ngày cũng chẳng bị ảnh hưởng gì. Có thể có hai cách giải thích. là do cái sức sống đặc biệt mãnh liệt trong người hai là trong đời sống cũng hiếm có những đêm như thế.

      Ánh Sáng Ban Ngày cần đồng hồ bởi vì có thể cảm nhận được dòng thời gian trôi qua và có thể dùng tiềm thức tính giờ. Lúc nghĩ là đến sáu giờ, liền tìm chỗ để hạ trại. Ðến khúc quanh, con đường bỗng rẽ qua ngang sông. Vì tìm được chỗ nào thuận tiện nên họ rẽ sang bên bờ đối diện cách khoảng dặm. Giữa đường họ gặp tảng băng chắn ngang nên phải mất giờ lao động cực nhọc mới qua được. Cuối cùng Ánh Sáng Ban Ngày thấy thứ mà muốn tìm. Ðó là thân cây chết nằm sát bờ. Họ đưa xe trượt đến đó. Kama làu bàu cách khoái trá và công việc dựng trại bắt đầu.

      Họ phân công lao động rất tuyệt hảo. Mỗi người đều biết mình phải làm gì. Với chim búa, Ánh Sáng Ban Ngày đốn cái cây thông chết ấy xuống. Kama dùng chiếc giày tuyết và chiếc búa khác gạt lớp tuyết dày hơn nửa thước phủ mặt băng sông Yukon rồi chặt lấy miếng nước đá để đem về nấu ăn. Dùng miếng bùi nhùi bằng vỏ cây hồ đào khô, Ánh Sáng Ban Ngày nhóm lửa và nấu nướng trong lúc gã thổ dân bốc dỡ hàng xe xuống và đem khẩu phần cá khô cho lũ chó. Rồi quăng những bao thực phẩm của đám chó. Kế đến, đốn cây vân sam non xuống và chặt hết cành . Ði lại gần phía đống lửa, dậm tuyết cho chặt xuống rồi phủ cành cây lên . Xong quăng những túi đựng đồ dùng của cả hai người gồm găng tay, đồ lót, và áo ngủ khô lên cái nền đó. Kama có đến hai cái áo ngủ bằng lông thỏ trong khi Ánh Sáng Ban Ngày chỉ cần mà thôi.

      Họ cứ thế mà làm việc, ai tiếng nào, và để phí thời gian. Hễ ai thấy tiện làm gì cứ làm, nghĩ đến chuyện đùn việc cho ai. Chẳng hạn khi thấy cần thêm nước đá, tự động lấy thêm, và Ánh Sáng Ban Ngày khi thấy con chó làm đổ đôi giày tuyết, tự động dựng chúng lên. Khi cà phê sôi, miếng thịt muối ráo nước, và bột làm bánh đánh xong, Ánh Sáng Ban Ngày liền bắc lên bếp nồi đậu lớn. Khi trở lại, Kama ngồi ghé bên chỗ được lót cành cây lúc nãy, và trong khi chờ đợi, đem dây đai cương ra ngồi vá lại.

      - Tôi nghĩ là con Skookum và con Booga cắn nhau cho mà coi - Kama khi họ bắt đầu ăn.

      - Nhớ coi chừng chúng nhé, - Ánh Sáng Ban Ngày đáp lại.

      Ðấy là toàn bộ câu chuyện họ trao đổi với nhau trong suốt bữa ăn. Có lần Kama vừa rủa thầm vừa chộp thanh củi chạy đến nện vào mấy con chó cắn lộn nhau cho đến khi chúng dang ra mới thôi. Sau khi ăn xong, Kama khơi ngọn lửa, chặt thêm củi để dùng vào sáng hôm sau, rồi quay lại chiếc giường lót bằng cành cây tiếp tục vá đai cương. Ánh Sáng Ban Ngày chặt thịt muối ra thành từng miếng lớn, rồi thả chúng vào nồi đậu sôi sùng sục. Mặc dù trời rất lạnh, đôi giày của họ vẫn ướt sũng, nên khi lên giường và phải làm gì thêm nữa, họ tháo giày ra treo vào mấy cây que cắm trước ngọn lửa, chốc chốc lại xoay vòng cho chúng chóng khô. Khi nồi đậu chín, Ánh Sáng Ban Ngày đổ phần vào cái túi bằng loại vải làm bao đựng bột dài và hẹp, rồi đặt tuyết cho đông lại. Phần còn lại vẫn để trong nồi cho bữa ăn sáng mai.

      Lúc hơn chín giờ họ chuẩn bị ngủ. Những chú chó thôi hục hặc nhau từ lâu và những con vật mệt mỏi này nằm thu lu tuyết, chân và mũi chụm vào nhau, được che kín bằng những cái đuôi xù. Kama trải chiếc áo ngủ bằng da ra rồi châm tẩu thuốc. Ánh Sáng Ban Ngày cũng quấn điếu thuốc bằng giấy nâu và lần thứ hai trong cả ngày hôm đó:

      - Mình cũng được sáu mươi dặm rồi nhỉ?

      - Ừ, tôi cũng nghĩ như vậy, - Kama đáp.

      Họ cuộn người trong tấm áo ngủ, nằm ngay đơ. Mỗi người vận chiếc áo len mackinaw thay cho chiếc áo trùm đầu parka mà họ mặc suốt ngày hôm đó. lẹ làng, khi vừa nhắm mắt lại là họ ngủ ngay. bầu trời giá lạnh, các vì sao nhảy múa. đầu họ, chùm ánh sáng xanh đỏ phương bắc vụt qua như những ngọn đèn pha.

      Trong bóng đêm, Ánh Sáng Ban Ngày thức giấc và lay gọi Kama. Mặc dù chùm ánh sáng phương bắc vẫn còn , nhưng ngày mới bắt đầu. Họ hâm lại bánh, đậu, thịt, pha cà phê và ăn sáng. Lũ chó được ăn mà chỉ ngồi ở xa xa, đuôi quấn quanh chân, nhìn lại cách thèm thuồng. Trời lạnh, ít nhất cũng phải sáu mươi lăm độ dưới . Khi Kama ra cột đai cương cho lũ chó bằng đôi tay trần, nhiều lần phải chạy lại bên đống lửa để sưởi ấm những đầu ngón tay bị tê cóng. Rồi cả hai người chất đồ đạc lên xe và cột chúng lại. Cuối cùng, họ hơ tay, đeo găng vào, qua lũ chó chạy qua bờ xuống khu vực lòng sông có đường . Theo tính toán của Ánh Sáng Ban Ngày, lúc này khoảng bảy giờ. Vậy mà những ngôi sao lấp lánh bầu trời và những vạch sáng xanh vẫn còn lung linh đầu họ.

      Hai giờ sau, trời đột nhiên tối sầm, tối đến độ Ánh Sáng Ban Ngày hiểu rằng lúc nãy đoán giờ đúng, bởi cái tối này là cái tối trước lúc bình minh mà ở đâu có thể nhận rệt như khi đường ở Alaska vào mùa đông. luồng ánh sáng xám chầm chậm len dần vào bóng tối, chậm đến độ nhận biết được, đến độ người ta phải ngạc nhiên khi chợt nhận ra con đường lúc mờ dưới chân mình… Kế đó là nhận ra được con chó chạy đầu, rồi đến cả hàng chó, và cuối cùng là những dải tuyết ở hai bên. Sau đó là bờ sông ở gần bên họ, lúc đầu ra rồi biến mất, rồi lại ra. Mấy phút sau, rồi họ có thể thấy cả dòng Yukon đóng băng ra ở trước mặt và sau lưng. Cuối cùng, họ có thể thấy được, về phía trái xa xa, rặng núi dài phủ tuyết và nổi nền trời. Chỉ có vậy thôi. Mặt trời mọc lên, và ánh sáng cứ có màu xam xám như thế. Trong ngày hôm đó, có lần có con chồn nhảy ngang qua đường họ ngay sát mũi con chực đầu rồi mất hút trong rừng cây tuyết trắng.

      Bản năng hoang dã của lũ chó trỗi dậy. Chúng đồng thanh tru lên tiếng đuổi mồi, nhào về phía trước, và bị dây đai cổ ghì lại, nhưng liền lạng qua bên tính đuổi theo. Ánh Sáng Ban Ngày hét lên tiếng: "Oa!" cố ghì lấy cần lái rồi lật xe cho đổ kềnh xuống tuyết mềm. Lũ chó đành chịu thua. Chiếc xe được lật lại, và năm phút sau, họ lại được nện chặt. Con chồn là dấu hiệu sống duy nhất mà họ thấy trong hai ngày qua. Nó nhảy qua êm như ru rồi vụt biến mất y hệt như bóng ma.

      Lúc mười hai giờ, khi mặt trời nhô lên khỏi đường cong chân trời, họ dừng lại và gầy ngọn lửa tuyết. Ánh Sáng Ban Ngày dùng búa chặt thanh xúc xích đậu thành miếng, rồi bỏ vào nồi đun nóng cho chảy ra để ăn. Họ dùng cà phê. Họ phải tranh thủ lúc trời còn có chút ánh sáng, thể tiêu phí thời gian cách xa xỉ để uống cà phê.

      Ðợt lạnh vẫn tiếp tục. Chỉ có những người mình đồng da sắt mới đường vào lúc nhiệt độ xuống thấp đến thế. Cả Kama và Ánh Sáng Ban Ngày đều là những tinh hoa trong chủng tộc của họ, nhưng Kama hiểu rằng người đồng hành với chịu đựng giỏi hơn, và ngay từ đầu biết rằng mình thua cuộc. Dù ràng giảm sút nỗ lực và tự nguyện, vẫn bị thua cuộc bởi chính cái ý nghĩ đè nặng trong đầu .

      Thái độ của đối với Ánh Sáng Ban Ngày là thái độ sùng kính. Là người khắc kỷ, ít , và kiêu hãnh về can đảm của con người mình, vẫn tìm thấy những đặc tính đó biểu lộ rất trong người bạn đồng hành da trắng. Ðó quả là con người trội hẳn về bất cứ cái gì mà con người cần trội, là ông thần diện ngay bên mình và Kama chỉ có việc sùng bái mà thôi, cho dù biểu lộ điều đó ra ngoài. Ngay cả những thổ dân cũng dám ra khi nhiệt độ xuống thấp như thế này, mà đây là bài học kinh nghiệm do hàng ngàn thế hệ trước truyền lại cho họ. Vậy mà lại nảy ra cái chàng Ánh Sáng Ban Ngày này, sinh trưởng ở phương nam khí hậu ôn hoà dám dầm mình đường từ mười đến mười hai tiếng đồng hồ mỗi ngày. Mà ta lại còn dám tin là được ba mươi dặm ngày trong suốt sáu mươi ngày liền. Cứ đợi đến được tuyết mới hoặc khi phải vừa vừa mở đường hoặc lúc gặp phải chỗ băng mủn dọc mép nước để xem ta hành động ra sao cho biết.

      Trong lúc chờ đợi điều đó, Kama vẫn cố bám tốc độ, ca thán mà cũng chẳng trốn tránh. Trời sáu mươi lăm độ dưới phải là rất lạnh. Vì nước đông ở ba mươi hai độ dương, nên sáu mươi lăm độ dưới có nghĩa là chín mươi bảy độ dưới điểm đông đặc(l). Muốn hiểu ý nghĩ, của điều này cần xem xem mức độ nóng như thế nào nếu nhiệt độ cũng cùng mức đó nhưng the chiều ngược lại. Khi hàn thử biểu chỉ trăm hai mươi chín độ phải là thời tiết rất nóng; vậy mà nó cũng chỉ là chín mươi bảy độ điểm đông đặc mà thôi. Gấp hai lần cái mức nóng đó lên hoạ chăng mới hiểu được sơ bộ cái lạnh giá mà Kama và Ánh Sáng Ban Ngày phải chịu đựng khi xuyên từ màn đêm này qua màn đêm khác.

      Vào đêm thứ hai, sau khi thêm được năm mươi dặm nữa, họ hạ trại ở gần biên giới nữa Alaska và vùng Tây Bắc. Phần còn lại của cuộc hành trình, trừ khoảng ngắn dẫn đến Dyea, nằm lãnh thổ Gia Nã Ðại. Vì đường tốt và có tuyết rơi nên Ánh Sáng Ban Ngày dự tính đến trại Bốn Mươi Dặm vào đêm thứ tư. thông báo với Kama như vậy, nhưng vào đêm thứ ba, nhiệt độ bắt đầu lên cao và họ biết là sắp có tuyết rơi, bởi vì sông Yukon chỉ khi nào trời ấm lên mới có tuyết. Cũng vào ngày này, họ phải đương đầu với mười dặm đường bị kẹt bởi những tảng băng nằm lộn xộn. Ðã có đến hàng ngàn lần họ phải dùng sức mạnh của đôi tay nâng toàn bộ xe và hàng hoá vượt qua những khối băng lớn rồi lại để xuống. Gặp những chỗ như vậy chó cũng vô dụng và cả chúng lẫn người đều phải vật lộn hết sức mình với những trắc trở của đường Ðêm ấy họ phải dấn thêm tiếng đồng hồ nữa cũng chỉ bù đắp được có phần thời gian bị mất.

      Buổi sáng khi thức dậy, họ thấy tuyết phủ tấm lông đắp lớp dày đến mười inches. Chó cũng bị tuyết vùi và muốn rời cái tổ ấm của chúng nữa. Tuyết rơi như vậy làm cho đường rất khó . Những bánh xe quay được dễ dàng nữa, và trong hai người phải chạy lên trước mấy con chó dùng giày tuyết nện tuyết xuống cho cứng để chó khỏi bị lún. Tuyết ở vùng này khác với thứ tuyết mà người ta thường thấy ở các vùng đất phương nam. Nó cứng nhuyễn, và khô, tựa như đường cát trắng. Ðá vào nó, nó bắn vèo vèo như cát. Những hạt tuyết bám vào nhau nên thể nặn chúng thành những cục hình tròn được. Nó được cấu tạo thành bông mà thành những tinh thể bé và có dạng hình học. Thực ra nó chẳng phải là tuyết mà là sương giá đúng hơn.

      Có tuyết mà trời vẫn ấm, nhiệt độ chỉ chừng hai mươi độ dưới . Cả hai người, vành nón cuộn lên, găng tay treo lòng thòng trước cổ, lao động đến vã mồ hôi. Tối hôm đó họ đến được trại Bốn Mươi Dặm, nên ngày hôm sau, khi ngang chỗ đó, họ chỉ dừng chân để nhận thêm thư và lương thực rồi lại lên đường ngay lập tức. Khoảng chiều hôm sau, họ hạ trại ở cửa sông Klondike. Từ khi rời trại Bốn Mươi Dặm, họ gặp người nào cả, và họ phải vừa vừa mở đường lấy. ra, vào mùa đông năm ấy chưa có ai qua lại dòng sông phía nam trại Bốn Mươi Dặm, mà cũng có thể là trong suốt mùa đông này họ là những người duy nhất qua đó.

      Ðêm cắm trại ở cửa Sông Klondike. Ánh Sáng Ban Ngày ngủ khi công việc buổi tối xong xuôi. Nếu lúc đó có người da trắng Ánh Sáng Ban Ngày bảo với rằng cảm thấy linh cảm hối thúc trong người. mang giày tuyết vào, bỏ mặc các chú chó nằm cuộn mình trong tuyết và chàng Kama ngáy say sưa trong tấm chăn da thỏ, và leo lên chỗ đất bằng to lớn nằm dải đất cao. Khi thấy những cây vân sam mọc quá dày che khuất tầm nhìn bao quát, lội qua bờ đất rồi trèo lên những bờ dốc đứng đầu tiên của ngọn núi mọc phía sau. Từ chỗ này, có thể thấy dòng Klondike từ hướng đông quặt ngang chảy về và dòng Yukon hùng vĩ từ phương nam rẽ vòng lại. Về phía trái, xuôi theo dòng là Núi Da Hươu trắng xoá lồ lộ trong ánh sao. Nhưng Ánh Sáng Ban Ngày chỉ nhìn thoáng qua ngọn núi mà thôi. chú ý của chủ yếu tập trung vào cái chỗ đất bằng to lớn lúc nãy, ở đó, dọc theo bên mép, nước đủ sâu để làm bến cho thuyền bè đậu. lẩm bẩm.

      - Chỗ này mà xây thị trấn tuyệt. Ðủ chỗ dựng nên trại cho bốn chục ngàn người. Chỉ cần chỗ này có chứa vàng là xong ngay, - nghĩ ngợi lát - Chỉ cần mỗi lần đãi được mười đô-la thôi là thiên hạ đổ xô về đây đông đến mức cả vùng Alaska chưa từng bao giờ được chứng kiến cho mà xem. Nếu vàng ở đây cũng chỉ ở đâu đó quanh đây mà thôi. Từ đoạn này trở , mình phải chú ý tìm những chõ có thể dựng thị trấn mới được.

      đứng lâu thêm chút nữa, nhìn đăm đăm vào dải đất bằng quạnh quẽ đó, và cố hình dung trong đầu cái quang cảnh của vùng đất khi đông người đổ xô về đó. tưởng tượng ra nơi đâu đặt nhà máy cưa, cửa hàng buôn bán, nơi đâu là quán rượu; tiệm nhảy và nơi đâu là những con lộ có nhà cửa của những người thợ mỏ mọc ở hai bên. Dịch theo những con lộ đó hình dung thấy hàng ngàn người qua lại, và trước những cửa tiệm là những chiếc xe trượt tuyết chở nặng do những dãy chó dài kéo. cũng thấy cả những chiếc tàu hàng chạy cặp theo con đường chính ngược dòng Klondike băng giá đến cái chỗ nào đó mà trong tưởng tượng thấy người ta đào vàng.

      chợt cười lớn và lắc đầu xua đuổi cái hình ảnh tưởng tượng đó khỏi mắt mình. Rồi lao xuống, băng qua dải đất bằng để trở về chỗ hạ trại. Sau khi nằm cuộn tròn người trong tấm áo choàng được năm phút đồng hồ, lại mở mắt ra và ngồi nhỏm dậy, lấy làm lạ là tại sao mình chưa ngủ được. liếc nhìn người thổ dân ngủ bên cạnh , nhìn đống than hồng trong đống lửa lụi dần, nhìn năm con chó nằm phía xa xa đuôi xù vắt lên che kín lấy mũi, và nhìn vào bốn chiếc giày tuyết được cắm chổng ngược lên trời.

      - Quỷ , ràng là cái linh cảm thôi thúc mình đây mà, - lẩm bẩm. Ðầu óc chợt trở về với bài xì phé vừa rồi - Bốn con già, - vừa nhớ lại vừa nhe răng ra cười - Có thế mới đúng là linh cảm chứ!

      lại nằm xuống, kéo tấm áo đắp lên tận cổ che lấp luôn cả vành tai, nhắm mắt, và lần này ngủ thiếp .

      Chú thích:

      (1) Tác giả sử dụng nhiệt độ F thay cho độ C

    5. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 5

      Ðến trại Sáu Mươi Dặm, họ lấy thêm thực phẩm, vài cân thư từ, rồi lại tiếp tục . Từ lúc rời trại Bốn Mươi Dặm họ phải vừa vừa mở đường.

      Và từ đây cho đến Dyea, họ cũng phải làm như thế. Ánh Sáng Ban Ngày chịu đựng việc ấy cách tuyệt vời, nhưng cái tốc độ giết người đó bắt đầu có tác dụng xấu đối với Kama. Dù kiêu hãnh đến độ thèm mở miệng phàn nàn, cũng sao che giấu được cái hậu quả của việc phổi bị nhiễm lạnh. Những tế bào quanh mô phổi, tuy rất , cũng bị tác động bởi cái giá lạnh và bắt đầu chết , gây cho những cơn ho khô khốc vật vã. Cứ mỗi khi phải rán quá sức là cơn ho lại kéo đến làm cho trông giống như kẻ bị động kinh. Máu dồn lên làm mắt lồi hẳn ra. Nước mắt chảy ròng ròng xuống má. Cứ mỗi lần bị khói bếp lúc chiên thịt mỡ muối bay vào mắt là đau đớn đến hàng nửa giờ, nên luôn luôn thận trọng đứng xuôi theo chiều gió mỗi khi Ánh Sáng Ban Ngày nấu ăn.

      Cứ thế họ chậm chạp vượt qua vùng tuyết mềm lún hết ngày này qua ngày khác tưởng như vô tận. Ðây là công việc cực nhọc và đơn điệu, thiếu hẳn cái thú vui say sưa khi được lao như bay mặt băng cứng. Lúc này người này tiến lên phía trước với đôi giày tuyết, lúc khác lại đến phiên người kia, cứ thế mà lội , chậm chạp, đều đặn cách bướng bỉnh. Từng thước, từng thước tuyết rời cần được dậm xuống, và đôi giày tuyết, dưới sức nặng của người, lún sâu xuống mặt tuyết mềm đến mười inches. Trong điều kiện như thế, việc dậm tuyết bằng giày đòi hỏi hoạt động của cơ bắp khác hơn lúc bình thường.

      Ði theo những đoạn tuyết nén hoàn chỉnh này là mấy con chó, rồi đến người nắm cần lái cuối cùng là chiếc xe. Mạnh khoẻ đến như thế mà cố gắng hết sức họ cũng chỉ được có ba dặm giờ. Ðiều này có nghĩa là phải nhiều giờ hơn, và Ánh Sáng Ban Ngày, để đảm bảo tốc độ, cũng như cố nhìn ra chút ít đề phòng trường hợp gặp tai nạn, phải bám đường mỗi ngày mười hai giờ liền. Vì phải tốn ba giờ đồng hồ để hạ trại nghỉ đêm, hầm đậu, dọn ăn sáng, nhổ trại và hâm lại đậu ăn trưa, họ chỉ còn có chín tiếng đồng hồ để ngủ cho lại sức, nên cả người lẫn chó đều dám phí phạm giây phút nào của chín tiếng đồng hồ ấy.

      Ở Selkirk, trạm mậu dịch nằm gần sông Pelly(1), Ánh Sáng Ban Ngày đề nghị Kama nằm lại rồi nhập lại với khi từ Dyean qua trở về. thổ dân từ Hồ Le Barge lạc bước qua nơi đó sẵn lòng thế chỗ cho Kama, nhưng Kama vẫn bướng bỉnh. mở miệng làu bàu tỏ vẻ hơi bực bội, và thế là xong. Tuy vậy, Ánh Sáng Ban Ngày vẫn thay chó, để bầy năm con rũ rượi nghỉ lại cho đến lúc về, và lấy theo sáu con chó mới.

      Ðêm hôm đến Selkirk họ phải đến tận mười giờ khuya, vậy mà mới sáu giờ sáng hôm sau họ lại lao mình vào cái vùng hoang dã trải dài gần năm trăm dặm từ trạm Selkirk đến Dyea. đợt lạnh thứ nhì lại đổ về, nhưng dù lạnh dù ấm công việc đối với họ cũng vẫn như cũ, nghĩa vừa vừa mở đường. Ánh Sáng Ban Ngày tăng gi bám đường lên đến mười ba giờ ngày. hết sức duy trì số chênh lệch mà cố nhìn ra, bởi vì biết rằng sắp tới còn nhiều đoạn khó nữa. Ánh Sáng Ban Ngày đoán là chưa đến giữa mùa đông và sông Năm Mươi Dặm cuồn cuộn chảy chứng tỏ là đoán đúng. Ở nhiều khi dòng sông chảy lan rộng, hai bên bờ có băng đóng hết sức bênh bênh. Ở nhiều chỗ khác, nước mạnh vào kè đá đốc cho nên băng hình thành nổi. Hai người hết rẽ ngoặt lại vòng, lúc băng ngang sông, lúc lộn trở lại, có lúc phải mất cả năm, sáu lần cố công mới mở được đường để vượt qua đoạn khó . Công việc được tiến hành chậm chạp. Cứ mỗi khì qua cái cầu băng là họ lại phải thử sức chịu đựng của nó. Hoặc Ánh Sáng Ban Ngày hoặc Kama tiến lên phía trước, chân mang giầy tuyết tay cầm cái đòn đài nằm ngang. Nếu có bị rơi xuống, họ có thể bám vào cái đòn lúc nãy bắc ngang qua miệng hố vừa bị nạn như thế. Khi nhiệt độ xuống đến năm mươi độ dưới người bị ướt đến ngang hông thể tiếp tục được nữa vì thân thể bị tê cóng. Bởi vậy, cứ mỗi lần rơi xuống là mỗi lần cuộc hành trình bị chậm lại. Ngay khi vừa được vớt lên, người bị ướt phải chạy tới chạy lui để giữ cho máu lưu thông trong khi người kia phải gầy ngay đống lửa. Ðược bảo vệ theo lối này, người ấy có thể thay quần áo khô, bộ đồ ướt được hong khô phòng khi bị nạn lần sau.

      Tình hình còn tồi tệ hơn nữa vì thể sông như vậy khi trời tối đen như mực. Do đó thời gian bị giảm xuống còn sáu giờ ngày vào lúc tranh tối tranh sáng. Mỗi giây phút đều trở nên rất quý, và họ cố để mất giây nào.

      Bởi vậy, ngay trước khi có dấu hiệu ngày bắt đầu, họ nhổ trại, chất đồ lên xe, thắng chó vào, rồi ngồi co ro bên đống lửa đợi giờ lên đường. Họ cũng còn dừng lại để ăn trưa nữa. nay họ theo kịp tốc độ dự kiến; và cứ mỗi mộ ngày trôi qua là họ thêm thâm lạm vào cái mức chênh lệch mà họ nhìn được lúc trước. Có những ngày họ chỉ được mười lăm dặm hoặc chỉ mười hai dặm. Có đoạn đường quá xấu đến nỗi trong hai ngày mà họ chỉ được có chín dặm vì ba lần phải trở lui, bỏ đường sông để vác xe cộ và đồ đạc vòng theo đường núi.

      Cuối cùng họ cũng vượt qua được Sông Năm Mươi Dặm đáng sợ để đến Hồ Le Barge. Nhìn Ánh Sáng Ban Ngày chào mừng việc thoát được sông Năm Mươi Dặm bằng cách bám đường trễ hơn mọi khi. Vào lúc mười giờ sáng họ bắt đầu vào vùng hồ. Lúc ba giờ chiều, khi đêm Bắc Cực buông xuống, họ nhìn thấy bờ bên kia củ nó. Ánh Sáng Ban Ngày ngắm những ngôi sao mộc sớm để định phương hướng. Lúc tám giờ tối, họ bỏ vùng hồ phía sau lưng và vào vùng cửa sông Lewes(2). Ðến đây họ nghỉ chân nửa giờ đồng hồ để hâm lỏng mấy khoanh đậu nấu sẵn với thịt để ăn và quăng cho đám chó thêm khẩu phần cá nữa. Xong xuôi họ ngược dòng sông tiếp cho để giờ sáng mới hạ trại ngủ đêm.

      Ngày hôm sau đó họ mười sáu giờ liền. Lũ chó mệt đến độ thể cắn nhau hoặc ngay cả gầm gừ nữa. Còn Kama trong mấy dặm đường cuối cùng ràng là phải khập khiễng. Vậy mà mới sáu giờ sáng hôm sau, Ánh Sáng Ban Ngày lại lên đường.

      Ánh Sáng Ban Ngày vẫn giảm tốc độ . Cứ mỗi ngày mười hai giờ họ bám đường, sáu giờ trong khoảng tranh tối tranh sáng, sáu giờ trong màn đêm. Họ để ra ba giờ để nấu ăn, vá đai cương, dựng trại và nhổ trại. Chín giờ còn lại, cả chó lẫn người lăn ra ngủ say như chết. Cái sức khoẻ sắt thép của Kama bị bẻ gãy. Cử động của chậm dần, cơ bắp còn dẻo dai nữa và cứ khập khiễng suốt. Vậy mà vẫn ráng sức chịu đựng, trốn tránh công việc mà cũng ca thán dù chỉ lời. Mặt Ánh Sáng Ban Ngày trông hốc hác và mệt mỏi, song nhờ cái cấu tạo thân thể tuyệt hảo của mình, vẫn tiếp tục, tiếp tục cách thương tiếc. Trong đầu óc Kama, chưa lúc nào lại thần thánh như những ngày cuối cùng của cuộc hành trình xuyên về phương nam này.

      Rồi đến lúc Kama còn đủ sức để trước mở đường được nữa. ràng là cạn kiệt lắm rồi nên mới chịu để Ánh Sáng Ban Ngày dậm tuyết cho chặt để mở đường suốt ngày. Họ băng qua hết hồ này đến hồ khác, qua dãy hồ từ Marsh đến Linderman, rồi bắt đầu leo đèo Chilcoot. Ánh Sáng Ban Ngày có thể tự cho mình quyền được hạ trại lúc lên được gần tới đỉnh đèo và khi ngày tắt, nhưng vẫn vượt đèo rồi lúc xuống cho đến khu Trại Cừu, bỏ lại sau lưng trận bão tuyết có thể cầm được chân trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ.

      Cái nỗ lực quá mức cuối cùng này hoàn toàn đánh quỵ Kama. Vào sáng hôm sau, còn đứng được gì nữa. Lúc năm giờ, khi được gọi, ngồi dậy cách vất vả, hộc lên tiếng rồi ngã ngay xuống đất. Ánh Sáng Ban Ngày phải dỡ trại thay cho cả hai, buộc chó vào xe, và đến lúc khởi hành, cuộn người thổ dân đáng thương trong ba lớp áo đắp rồi cột lên cá đống đồ. Ði đường gặp trắc trở gì. Lúc này họ ở đoạn cuối cùng của cuộc hành trình, và Ánh Sáng Ban Ngày thúc cho chó chạy ào ào qua hẻm núi Dyea. Cứ thế, mặc Kama nằm đống đồ luôn miệng ca cẩm, mặc cho Ánh Sáng Ban Ngày phải bám cần lái và liên tục nhảy vọt lên để tránh bị ngã xuống dưới gầm xe, họ cứ lao cho tới lúc đến Trạm Dyea nằm bên bờ biến.

      Giữ đúng lời hứa, Ánh Sáng Ban Ngày nán lại, chỉ bỏ ra tiếng đồng hồ để lấy lương thực và nhận thư, đổi chó và thuê thổ dân mới phụ việc. Kama hé môi tiếng nào kể từ lúc đến trạm cho tới khi ánh Sáng Ban Ngày đến bên từ biệt để lên đường. Họ bắt tay nhau:

      - Ông giết chết thằng mọi đó mất, - Kama , - giết nó đấy, hiểu ?

      - chịu được cho đến sông Pelly đấy, - Ánh Sáng Ban Ngày nhe răng cười.

      Kama lắc đầu tỏ vẻ nghi ngờ, lăn mình qua bên, quay lưng về phía để thay lời từ biệt.

      Cũng ngày hôm đó, Ánh Sáng Ban Ngày vượt qua được đèo Chilcoot, thả dốc xuống được năm trăm foot trong trời đêm tuyết lất phất bay rồi hạ trại ở Hồ Miệng Núi Lửa. Lần này phải cắm trại "lạnh" vì mang theo mọc được. Ðêm đó họ bị vùi dưới lớp tuyết dày ba foot. Ðến sáng, lúc trời còn đen như mực, họ phải đào tuyết để chui ra và người thổ dân toan bỏ trốn. cho là chung đường với kẻ điên rồ như thế là quá đủ rồi. Nhưng Ánh Sáng Ban Ngày và doạ nạt phải ở lại với đoàn rồi tiếp tục qua Hồ Sâu Hồ Dài xuống đến vùng đất bằng thuộc Hồ Lindrman.

      Lúc vào cũng như lúc ra họ đều với tốc độ giết người, và người thổ dân mới này chịu đựng bằng Kama. Dù vậy cũng than tiếng nào mà cũng tìm cách trốn nữa. làm hết sức mình, nhưng vừa làm vừa quyết định sau này cạch mặt Ánh Sáng Ban Ngày ra.

      Lúc đến sông Năm Mươi Dặm họ gặp nạn. Khi băng ngang cây cầu băng, mấy con chó bị sụp hố nước và bị nước cuốn mất dưới lớp băng. Sợi đai cột mấy con chó này với con đầu bị đứt tung và còn thấy tăm tích chúng đâu nữa. Vì còn lại có mỗi con chó đầu đàn nên Ánh Sáng Ban Ngày phải cột chính và người thổ dân vào xe trượt tuyết. Nhưng con người làm sao có thể thay chó trong công việc đó được. Ðã vậy, chỉ có mỗi hai người mà lại phải kéo thay cho những năm con chó. Bởi vậy chỉ mới được có giờ là Ánh Sáng Ban Ngày phải quẳng bớt đồ đạc .

      Trước tiên là thức ăn cho chó, những đồ đạc dùng tới, và cái búa dự trữ. Ngày hôm sau, vì phải làm việc quá căng, con chó bị đứt gân, trở thành tàn phế hoàn toàn. Ánh Sáng Ban Ngày đành phải bắn bỏ nó và bỏ luôn chiếc xe trượt. chất lưng mình trăm sáu mươi cân thư từ và thực phẩm, còn người thổ dân phải mang trăm hai mươi lăm cân. Càng càng quẳng bỏ bớt đồ đạc cách thương tiếc. Người thổ dân phải phát hoảng lên khi thấy cố giữ đến từng lá thư song lại quẳng bỏ hết đậu đến chén đĩa, xô chậu, áo quần dư, và chỉ giữ lại cho mỗi người mộ bộ áo đắp, cái búa, cái xô bằng thiếc và ít bột với thịt muối. Ngay cả khẩu súng và hai mươi vòng đạn cũng bị bỏ lại.

      Cứ theo cách này, họ vượt qua được hai trại dặm đường để tới Selkirk. Sáng họ khởi hành rất sớm, tối rất trễ mới dừng chân, bởi vì những gì trước kia dành cho việc hạ, dỡ trại và chăm sóc chó nay được dồn cả cho việc bám đường. Khi còn vài dặm nữa là đến Selkirk, Ánh Sáng Ban Ngày buộc lòng phải bắt người thổ dân trước bởi lúc này cứ như người sắp chết, má hóp lại, mặt hốc hác lúc nào cũng chỉ chực quỵ xuống tiếp hoặc quẳng bỏ đống thư đè nặng lưng.

      Ở Selkirk, sau khi thắng đai cương vào bầy chó trước kia, lúc này lại sức và sẵn sàng vào xe trượt tuyết, Ánh Sáng Ban Ngày lại lên đường, lấy theo người thổ dân ở Hồ Le Barge mà lúc ra tình nguyện theo . Họ lại thay phiên nhau cầm cần lái. Cứ theo như kế hoạch Ánh Sáng Ban Ngày bị trễ mất hai ngày, và suốt quãng đường từ đó đến trại Bốn Mươi Dặm trở vẫn cứ bị trễ như vậy vì trời đổ tuyết và đường trở thời tiết lại ưu đãi . cơn lạnh lại sắp ập về và quyết định bạc với nó, ra mà chỉ mang rất ít thực phẩm cho chó và người. Dân ở trại Bốn Mươi Dặm thấy vậy cũng lắc đầu ái ngại. Họ sợ làm gì nếu tuyết cứ rơi.

      - Chắc chắn đợt lạnh đến thôi - cười và lên đường.

      Vào mùa đông năm ấy số xe trượt tuyết về về từ trại Bốn Mươi Dặm đến thị trấn Vùng Cực nên mặt đường được nện rất cứng.

      Hơn nữa đợt lạnh cũng đến và kéo dài, mà cũng chỉ còn hai trăm dặm nữa là đến thị trấn Vùng Cực rồi. Thêm vào đó, người thổ dân ở Hồ Le Barge cũng còn trẻ, hiếu thắng và biết gì về những hạn chế của sức mình. những bám sát được Ánh Sáng Ban Ngày mà lúc đầu còn mơ tưởng là tỏ ra xuất sắc hơn cả nữa. Trong trăm dặm đầu cứ để ý xem Ánh Sáng Ban Ngày có tỏ ra dấu hiệu xuống sức nào chăng, và khi thấy điều đó rất lấy làm lạ. Ðến trăm dặm cuối tự cảm thấy mình xuống sức dần, nhưng cũng đành cắn răng theo cho kịp Ánh Sáng Ban Ngày. Còn Ánh Sáng Ban Ngày cứ phóng như bay, lúc vừa chạy vừa nắm cần lái, lúc lại tót lên chiếc xe trưa tuyết lao hết cỡ để nghỉ. Vào ngày cuối cùng trời trong và lạnh hơn, đường rất dễ nên họ vượt được bảy mươi lăm dặm. Ðến mười giờ đến họ vượt qua chỗ bờ đất và phóng như ban dọc theo con lộ chính của thị trấn Vùng Cực. Người thổ dân trẻ, ngồi xe vì đến phiên được nghỉ, cũng nhảy tót xuống và chạy theo xe cách vui vẻ và vênh váo, mặc dù lúc này hiểu những giới hạn của phải phấn đấu đến gần tuyệt vọng.

      Chú thích:

      (1) Pelly: con sông dài 880 dặm ở phía Tây Bắc Canađa tron Hạt Yukon chảy về phía Tây đổ vào sông Yukon

      (2) thượng nguồn sông Yukon, gặp sông Pelly ở phía Nam

      Chương 6

      Cũng cái đám người mà hai tháng trước đây tiễn chân Ánh Sáng Ban Ngày giờ đây lại tụ tập tại quán Tivoli, bởi vì đêm nay là đêm thứ sáu mươi. Cho đến lúc này, họ vẫn thống nhất về việc có hoàn thành được chuyến đúng hạn hay . Ðã mười giờ đêm mà cuộc cá độ vẫn còn tiếp diễn, mặc dù số tiền cuộc là thất bại ngày càng tăng. Tận trong thâm tâm mình, Mộng Trinh cũng tin là trở về đúng hạn, mặc dù nàng vẫn cứ đánh cuộc với Charley Bates hai mươi ounce vàng ăn bốn mươi là Ánh Sáng Ban Ngày về tới đây trước lúc nửa đêm.

      Chính nàng là người đầu tiên nghe thấy tiếng chó tru.

      - Nghe kìa, - nàng la lên - Ðúng là Ánh Sáng Ban Ngày rồi.

      Ðám người vội vã ùa ra cửa, nhưng khi cánh cửa hai lớp để chống tuyết vừa được mở toang ra họ vội vàng thụt lùi trở lại. Họ nghe tiếng chó rền rĩ có vẻ hăm hở, tiếng chiếc roi đánh chó quất véo cái, và tiếng Ánh Sáng Ban Ngày thúc chó ầm ĩ buộc chúng phải làm việc trội hơn hẳn những việc chúng làm là kéo cho chiếc xe trượt tuyết nằm hẳn lên cái sàn gỗ. Chúng lao qua cánh cửa để ngỏ. Sương lạnh cũng ùa theo vào trong như đám khói trắng che phủ hết chỉ để lòi đất và lưng mấy con chó mà thôi. Ngay sau chúng, ở chỗ cần lái là Ánh Sáng Ban Ngày, cũng ngập trong sương tuyết đến tận đầu gối.

      Cũng vẫn là Ánh Sáng Ban Ngày của hai tháng trước, tuy gầy và có vẻ mệt mỏi, nhưng đôi mắt đen láy của lại lấp lánh sáng hơn lúc nào hết. Vẫn chiếc ào trùm đầu phủ dài đến đất gối làm trông cứ như ông thầy tu. Phần bị cháy phần bị ám vì lửa và khói của những lần lửa trại, bản thân chiếc áo cũng lên được cuộc hành trình. Bộ râu hai tháng chưa cạo bao lấy gương mặt . Hơi nước từ hơi thở của trong suốt quãng đường bảy mươi dặm vừa qua cũng biết thành băng dính đầy vào bộ râu đó.

      Việc xuất trong căn phòng ngoạn mục và giật gân, và hiểu điều đó. Đây là cuộc đời , và sống cuộc đời đó đúng vào giai đoạn sung mãn nhất của nó. Trong đám bạn bè của mình, con người vĩ đại, vị hùng miền Bắc Cực, người vừa vượt qua hai ngàn dặm đường, nay lại lao vào phòng rượu dẫn theo cả chó, cả xe, cả thư tư, cả thổ dân, và tất cả những thứ lỉnh kỉnh cá nhân khác. vừa lập thêm chiến công làm cho khắp vùng sông Yukon ca ngợi tên tuổi mình: , Ánh Sáng Ban Ngày, vua của những kẻ vượt đường trường và điều khiển chó.

      ngạc nhiên cách thích thú khi nghe tiếng reo hò chào đón mình vang lên và khi thấy mọi chi tiết quen thuộc của quán Tivoli vẫn còn đó - nào là chiếc quầy dài với dãy chai rượu, những bàn bài, cái lò sưởi lớn, nào là người cân vàng, các nhạc công, cả đàn ông lẫn phụ nữ, Mộng Trinh, Celia, Nellie, rồi McDonald, Bettles, Billy Rawlins, Olaf Henderson, Doc Watson; tất cả mọi cái vẫn cứ y hệt như vào ngày từ giã chúng vậy, mà cũng có vẻ như ở đúng vào cái ngày ấy nữa chứ. Sáu mươi ngày nghỉ qua các vùng hoang vu tuyết trắng vừa qua như xa lắc đầu rồi, như hề có ấy. Tất cả chỉ như là chuyện nhặt trong thoáng giây. phải liếc nhìn chiếc xe trượt tuyết với những túi đựng thư bằng vải thô để tự khẳng định chuyện sáu mươi ngày qua vượt được hai ngàn dặm băng là có . Như thể trong mơ, đưa tay bắt những bàn tay chìa về phía mình. chợt cảm thấy hứng thú khôn cùng. Ðời tuyệt diệu và thấy nó quá. hít hơi dài rồi la lên:

      - Người thắng bao và tớ là người chiến thắng, phải nào? Cố các bạn cố tri, ai uống gì cứ gọi. Còn kia là thư của các bạn được đưa thẳng từ Dyea về. có phỉnh phờ gì đâu. Cứ tháo dây ràng ra rồi lội cả vào mà lấy?

      chục đôi bàn tay vội nắm lấy dây ràng. Ngay lúc đó, chàng thổ dân miền Hồ Le Barge, lúc này lom khom tháo dây ràng, bỗng đứng thẳng dậy cách loạng choạng. đưa mắt nhìn chằm chằm chung quanh mình cách dữ tợn, bởi vì cảm thấy điều gì đó lạ lùng quá mức. Cái giới hạn mà trước kia bao giờ ngờ tới bây giờ mới giáng cho cú rất mạnh. chợt run lẩy bẩy như kẻ bị bại liệt, đầu gối yếu hẳn và từ từ khuy xuống, người vắt ngang qua chiếc xe trượt tuyết đồng thời thấy trời đất tối xầm hẳn hại.

      - kiệt sức đấy, - Ánh Sáng Ban Ngày - Có ông bạn nào đưa giúp vào giường ngủ ! Kể ra cũng khá đấy!

      - Ánh Sáng Ban Ngày đúng đấy, - Doc Watson lúc sau cũng phán - bị kiệt sức hoàn toàn rồi.

      Sau khi thư từ được giao cho người cất, bầy chó được đem về chuồng cho ăn, Bettles lại bắt giọng cho mọi người cùng hát vang bài ca vui nhộn về Rễ Cây De Vàng trong lúc họ đứng dọc theo quầy để uống rượu và thanh toán với nhau tiền cá độ.

      Chỉ ít phút sau là Ánh Sáng Ban Ngày quay cuồng với Mộng Trinh sàn nhảy theo bản luân vũ. thay tấm áo trùm đầu bằng cái nón lông thú và chiếc áo khoác may từ vỏ chăn, đá văng đôi giày da đanh đóng cứng băng sang bên và cứ để nguyên cả vớ mà nhảy. Ánh Sáng Ban Ngày- người hùng già dặn trong cái vùng đất trẻ trung đó, cùng lúc lại trẻ hơn hầu hết bọn họ, sống giữa bọn họ như sinh vật đặc biệt, như con người tất cả con người, con người hết sức người và chỉ có thể là người. Bởi vậy cũng chẳng lạ gì khi Mộng Trinh cứ để mặc cho ôm lấy mình hết điệu nhảy này qua điểu nhảy khác, dù trong lòng rất phiền muộn vì chuyện chỉ tìm thấy ở nàng người bạn tốt và người nhảy giỏi thế thôi. Tuy vậy nàng cũng được an ủi đôi chút khi hiểu rằng cũng chưa bất kỳ người phụ nữ nào khác. Nàng cảm thấy đến phát ốm, ấy thế mà lại nhảy với nàng như rất sẵn lòng nhảy với bất kỳ người phụ nữ nào khác, cũng như sẵn lòng nhảy với bất kỳ người đàn ông nhảy giỏi nào mà cánh tay có cột chiếc khăn tay để giả làm đào theo quy ước.

      Ðêm đó Ánh Sáng Ban Ngày nhảy với người đàn ông như thế. Những người sống dọc theo vùng biên thuỳ lúc đó thường hay thử sức chịu đựng của nhau bằng cách cùng quay vòng vòng xem ai chóng mặt ngã xuống trước. Cuộc đọ sức vui nhộn bắt đầu khi Ben Davis, người canh bài bài faro, tay cột chiếc khăn sặc sỡ, bắt cặp với Ánh Sáng Ban Ngày trong điệu vũ xoay vòng vùng Virginia. Davis rất điêu luyện về cái ngón tay, vì trong khắp vùng sông Yukon này cho rất nhiều người mạnh mẽ phải đo ván rồi. Nhưng sau ít phút, ràng là , chứ phải Ánh Sáng Ban Ngày, bắt đầu loạng choạng. Nhưng họ vẫn cứ quay vòng thêm lúc nữa, rồi đột nhiên, Ánh Sáng Ban Ngày đứng khựng lại, buông người bạn nhảy ra, bước lùi lạ rồi lại tiếp tục xoay vòng, hai tay vẫy vẫy cách vô cớ, hình như để chống đỡ thân mình cho thăng bằng trong khí. Trong khi đó Davis bỗng mỉm cười vừa ngơ ngác vừa hoảng hốt, người đảo qua bên, nhưng vội gượng lại để giữ thăng bằng, rồi bỗng ngã quay lơ, đầu chúi xuống sàn gỗ đánh xầm cái. Lúc này Ánh Sáng Ban Ngày vẫn cứ quay vòng, người hơi loạng choạng, và đưa tay chộp khí liên tục. Bỗng nhiên, vồ lấy người phụ nữ đứng gần nhất, rồi cùng nàng chơi tiếp luôn điệu luân vũ. Thế là lại lập thêm kỳ tích nữa. Tuy mệt mỏi phải suốt hai ngàn dặm băng và cả ngày hôm đó lại phải chạy suốt bảy mươi dặm, vẫn có thể quay cho kẻ khỏe mạnh phải ngã lăn ra mà kẻ đó lại chính là Ben Davis.

      Ánh Sáng Ban Ngày thích những tầm cao, và mặc dù trong cuộc sống hạn hẹp của mình có rất ít những tầm cao, luôn luôn muốn đạt đến cái tầm cao nhất mà được biết. Trong lúc nào cũng sôi sục ước muốn làm chủ, mà trong bất kỳ việc gì cũng vậy, từ việc vật lộn với thiên nhiên, với con người hoặc với Thần đỏ đen trong các canh bạc. Cuộc sống này và tất cả mọi việc đời đều là canh bạc, mà lại là con bạc cho đến tận chân răng. Chơi liều mạng và chộp thời cơ là thức ăn và nước uống hàng ngày. Dĩ nhiên phải chơi cách hoàn toàn mù quáng, bởi vì luôn luôn vận dụng trí óc, tài năng và sức lực vào cuộc chơi. Nhưng đằng sau cuộc chơi vẫn luôn luôn là Thần May Rủi, kẻ có lúc lại quay lưng lại với những ai đeo đuổi theo mình và huỷ diệt người khôn trong khi đó lại ưu đãi bọn khù khờ. Thần May Rủi chính là cái mà mọi người đều mong muốn tìm cách chinh phục được Ánh Sáng Ban Ngày cũng thế. Trong tất cả những cảnh đời mà trải qua, cuộc sống luôn luôn cất lên tiếng hát quyến rũ ngợi ca huy hoàng của chính nó, lúc nào cũng rì rầm hối thúc, báo cho biết là có thể đạt được nhiều hơn cái những người khác đạt được thắng trong khi kẻ khác thất bại, và đạt đến thành công trong khi kẻ khác thất bại, và đạt đến thành công trong khi họ phải chịu huỷ diệt.

      Bởi vậy, lúc bằng những tiếng thầm xa vắng, lúc bằng những hồi kèn rộn rã, trong óc luôn luôn vang lên bản thông điệp là vào lúc nào đó, ở nơi nào đó và bằng cách nào đó, chinh phục được Thần May Rủi, làm chủ nó, cột nó lại và đánh dấu nó để làm của riêng. Trong lúc chơi xì phé, tiếng thầm đó báo cho biết là phải rút được bốn con ách hoặc bài cao nhất. Trong lúc dò tìm vàng, cũng tiếng thầm đó báo cho biết là có vàng ở chỗ rễ cỏ mặt đá bị giấu bởi đất cát và suốt dọc đường . Trong những giây phút hiểm nguy nhà cạn dưới nguồn hay khi cạn lương thực, thông điệp ấy báo cho rằng ai đó có thể chết nhận vượt qua được cách vẻ vang.

      Ánh Sáng Ban Ngày lúc nhảy luân y lại lâu lâu quay vòng ngược trở lại để hết chọn mặt rồi tiến dần về phía quầy rượu. Nhưng tất cả những người có mặt ầm lên phản đối. Họ thể chấp nhận cái lý thuyết của là hễ thắng bao rượu nữa. là trái với tập tục và thường và mặc dù nó phải ánh tinh thần vì bạn , cũng phải vì bạn mà nên chấm dứt chuyện đó. Ben Davis kêu rượu là hợp lý nhất và phải trả tiền. Hơn nữa, tất cả những ly rượu và những thứ khác mà Ánh Sáng Ban Ngày khoản đãi chủ quán phải chịu, bởi vì cứ mỗi lần đến chơi đêm ở đây quán lại bán được nhiều. Bettles là người phát biểu điều này, và tuy lời lẽ của cụt ngủn và sai ngữ pháp đến độ chối tai, nó cũng vẫn được mọi người tán thưởng.

      Ánh Sáng Ban Ngày chỉ nhe răng cười, rồi bước sang bên tiến đến bàn rulet và mua chồng thẻ màu vàng dùng để chơi thay tiền. Mười phút sau lại chỗ bàn cân để lĩnh tiền thắng. Hai ngàn đô-la tính bằng vàng bụi được trút vào túi của cái túi khác nữa mới chứa đủ.

      Ðấy chỉ đơn thuần là cú may mắn thôi, nhưng nó lại là cái may của . Ðã cao hứng lại càng cao hứng thêm. sống và đêm nay là đêm của , quay lại phía những người vờ phản đối vì lòng tốt vừa rồi và :

      - Bây giờ người thắng được quyền trả chứ?

      Thế là người ta đành đầu hàng. có cách gì cưỡng lại Ánh Sáng Ban Ngày được khi cưỡi lên lưng cuộc sống, gò cương và thúc nó chạy.

      Lúc giờ sáng, thấy Elijah Davis lùa Henry Finn và Joe Hines, thợ sẻ gỗ, về phía cửa. Ánh Sáng Ban Ngày liền chặn họ lại.

      - Ði đâu cả thế này - vừa hỏi vừa cố kéo họ trở lại quầy rượu.

      - Ði ngủ thôi, - Elijah trả lời.

      là dân vùng New England, người gầy gầy và lúc nào cũng nhai thuốc. Trong gia đình, là kẻ duy nhất bạo gan đáp lại cái tiếng gọi của miền Tây vọng qua ngọn Sa Mạc Sơn đến tận vùng đồng cỏ và rừng rú.

      - Phải ngủ thôi, - Joe Hines như xin lỗi. - Sáng mai bọn này phải lên đường rồi.

      Ánh Sáng Ban Ngày vẫn cố níu kéo:

      - Ði đâu? Có việc gì vậy?

      - Có gì đâu, - Elijah giải thích - Bọn tớ tính thử cái linh cảm của cậu đấy mà, thử kiếm xen có gì ở miệt phía bắc . Cậu có muốn vớ bọn tớ ?

      - Ði là cái chắc - Ánh Sáng Ban Ngày khẳng định.

      Nhưng Elijah chỉ hỏi chơi thôi, cho nên cũng quan tâm lắm đến việc nhận lời của .

      - Bọn tớ tính dò tìm ở vùng sông Stewart - Elijah tiếp - Al Mayo bảo tớ rằng lúc xuôi dòng Stewart thấy mấy doi cát có khả năng chứa vàng. Trong lúc sông còn đóng băng bọn tớ thử kiểm tra xem sao. Ánh Sáng Ban Ngày, cậu nghe và nhớ điều tớ đây này, rồi có lúc người ta chuyển qua đào vàng vào mùa đông thôi. Lúc đó họ cười cái việc cào vọc đất vào mùa hè của chúng mình cho mà coi.

      Vào giai đoạn đó, những tay đào mỏ thuộc vùng sông Yukon dám mơ tưởng đến việc đào vàng vào mùa đông, bởi vì từ lớp rong rêu và cỏ mặt cho đến lớp đá ngầm nằm sâu dưới đất đều bị cái lạnh làm cho cứng lại và lớp sỏi cát cứng như đá granit ấy thách thức mọi thứ cuốc xẻng. Ðến mùa hạ, người ta mới lật lớp đất sỏi ấy lên được nhờ có sức nóng mặt trời làm cho nó mềm .

      Lúc đó mới là mùa đào vàng. Còn suốt mùa đông họ chỉ lo vận chuyển thực phẩm, săn hươu để chuẩn bị cho mùa hè. Trong những tháng lạnh giá tối tăm còn lại, họ đành phải chơi vớ vẩn cho hết thời gian ở những khu trại trung tâm lớn như trại thị trấn Vùng Cực này hoặc trại Bốn Mươi Dặm.

      - Chắc chắn là người ta đào cả mùa đông nữa - Ánh Sáng Ban Ngày đồng ý - Hãy cứ đợi tới lúc đào được khối lượng vàng lớn ở nguồn sông rồi xem. Lúc ấy các cậu thấy được cách khai thác vàng mới mẻ. Lúc đó ai mà cản được họ đem củi về đốt cho đất mềm ra cho dễ đào, rồi còn khoan hầm, rồi đào dọc theo các thớ đá? Mà cũng chẳng cần phải làm vách việc gì cả. Ðất sỏi đào lên còn sợ rớt trở lại xuống hầm nữa mà cứ đứng đống ở đấy cho đến khi biến thành kem thôi. Hừ, lúc ấy họ còn đào sâu xuống cả trăm foot để kiếm cho được nhiều vàng hơn nữa là đằng khác. Chắc chắn là tớ với các cậu đấy!

      Elijah Elijah phá lên cười rồi lại kéo các bạn mình về phía cửa. Ánh Sáng Ban Ngày gọi với theo:

      - Gượm . Tớ nới nghiêm túc đấy.

      Cả ba người vội quay lại nhìn , nét mặt họ lộ vẻ vừa ngạc nhiên, vừa thích thú, lạ vừa nghi ngờ.

      - Thôi , cậu cứ đùa mãi, - Finn . cũng là tay xẻ gỗ, con người chừng mực lặng lẽ, quê ở bang Wisconsin.

      - Chó và xe của tớ để kia kìa, - Ánh Sáng Ban Ngày đáp lời. - Vậy là được hết thảy hai xe chia nhau mà chở đồ, tuy nhiên bù lại ta cũng phải chậm lại mất quãng vì những chú chó ấy cũng mệt lắm rồi.

      Cả ba người đều rất vui, song họ vẫn còn bán tín bán nghi.

      - Nào, nhìn đây này, Ánh Sáng Ban Ngày, - Joe Hines buột miệng - Bọn tớ muốn cậu đùa cợt đâu. Chuyện làm ăn đấy. Cậu tình muốn với bọn tớ chứ?

      Ánh Sáng Ban Ngày chỉ chìa tay ra bắt ta họ.

      - Thế cậu nên ngủ hơn, - Elijah khuyên - Bọn tớ khởi hành lúc sáu giờ sáng, mà chỉ còn có bốn tiếng đồng hồ nữa để ngủ cũng chẳng nhiều nhặn gì.

      - Hay là mình hoãn lại này để cậu ấy nghỉ cho lại sức - Finn đề nghị.

      ràng là lòng kiêu hãnh của Ánh Sáng Ban Ngày bị xúc phạm.

      - cần, - ta la lên - Chúng ta cứ lên đường lúc sáu giờ. Các cậu muốn tớ đánh thức vào lúc mấy giờ nào? Năm giờ nhé? Ðược rồi, tớ đánh thức các cậu.

      - Mà cậu cũng nên ngủ chút , - Elijah khuyên cách nghiêm túc - Cậu thể cứ mãi được.

      Ánh Sáng Ban Ngày cũng có mệt, rất mệt là đằng khác. Ngay cả cái thân thể rắn như sắt thép của cũng phải công nhận thế. Mỗi cơ bắp đều la ó lên đòi nghỉ, đều rất hoảng hốt khi nghĩ đến việc phải tiếp tục làm việc và bám đường. Tất cả phản kháng của cơ thể này như cơn sóng tác động mạnh vào đầu óc . Thế nhưng sâu lắng hơn lại là cuộc sống, là ngọn lửa của cuộc sống, như thách thức, như khinh bỉ, lại thầm vào tai rằng mọi người chung quanh đưa mắt nhìn chờ đợi, rằng đây là lúc phải lợi dụng thời cơ để lập thêm kỳ tích và để biểu diễn cho sức mạnh biết thế nào là sức mạnh. ràng là cuộc sống thầm cái giọng phỉnh phờ cũ rích của nó. Tiếp tay với cuộc sống ấy là rượu Whisky với tất cả những trơ trẽn kiêu căng nhảm nhí đến cùng cực của nó.

      - Thế các cậu tưởng tớ bị cách ly như vậy chưa đủ sao? - Ánh Sáng Ban Ngày nghiêm giọng hỏi - Hừ, hai tháng rồi tớ được uống giọt rượu, được nhảy nhót, được thấy người nào cả. Các cậu cứ ngủ . Tớ đánh thức các cậu dậy vào lúc năm giờ sáng.

      Suốt đêm hôm đó, Ánh Sáng Ban Ngày cứ để nguyên vớ mà ngủ, và đến năm giờ sáng người ta lại nghe đập ầm ầm lên cửa phòng của những người bạn làm ăn mới, miệng lại ngớt hát vang cái điệp khúc mà bạn bè theo đó đặt tên cho .

      - Trời sáng bét ra rồi kìa, mấy ông bạn tìm linh cảm ở sông Stewart? Trời sáng bét rồi kìa! Trời sáng bét rồi kìa! Trời sáng bét rồi kìa!

      Chương 7

      Lần này đường dễ hơn. Mặt băng đường được nện chặt hơn, và họ phải chạy thư nên chẳng cần gấp gáp làm gì. Mỗi ngày phải nhiều nên số giờ bám đường cũng ít.

      Lúc phải chạy thư, Ánh Sáng Ban Ngày loại hết ba gã thổ dân. Còn những người bạn làm ăn này hiểu rằng họ được tự cho phép mình bị loại khỏi cuộc khi tới những doi đất ở sông Stewart nên phải với tốc độ chậm hơn. Tới trại Bốn Mươi Dặm, họ dừng lại hai ngày cho chó nghỉ ngơi. Ở trại Sáu Mươi Dặm, bầy chó của Ánh Sáng Ban Ngày được giao cho người khách thương giữ bởi vì, khác với , chúng phục hồi sức lực được sau cái chuyến chạy kinh khủng từ Selrk về lại trại thị trấn Vùng Cực. Bốn người đành phải thắng bày chó mới vào xe của Ánh Sáng Ban Ngày rồi lên đường.

      Ðêm hôm sau họ hạ trại trong vùng đảo ở cửa Sông Stewart. Ánh Sáng Ban Ngày cứ mãi về việc chọn địa điểm để sau này xây dựng thị trấn, và để mặc cho họ cười nhạo, cứ đánh dấu chủ quyền cái vùng đảo cao có lắm cây ấy.

      - Cứ giả dụ như kiếm được vàng sông Stewart , - bảo - Có thể là các cậu lao vào kiếm ăn và cũng có thể . Nhưng tớ chắc. Tốt nhất là các cậu cứ nghĩ kỹ lại và cùng công ty với mình.

      Nhưng họ vẫn bướng bỉnh.

      - Cậu cũng giống hệt cái bọn Harper và Joc Ladue, - Joe Hines - Bọn chúng lúc nào cũng chơi cái màn đó. Cậu biết cái bờ đất bằng phẳng dưới sông Klondike chỗ chân núi Da Hươu đấy chứ, cái lão lo việc đăng ký đất ở trại Bốn Mươi Dặm mới với tớ là tháng trước họ cũng đánh dấu chủ quyền chỗ đó đấy. Lại còn lấy tên là thị trấn Harper và Ladue nữa chứ. Nghe buồi cười! Ha, ha, ha!

      Elijah và Finn cũng hô hố cười theo. Nhưng Ánh Sáng Ban Ngày lại rất nghiêm túc:

      - Thế đấy? - la lên - Ðúng là cái linh cản ấy đấy! Tớ bảo các cậu là nó lờn vờn trong khí, phải nào? Nếu như họ cảm thấy điều đó họ xin chứng nhận quyền sở hữu cái bờ đất bằng đó làm gì? Ước gì tớ sở hữu nó.

      Cái vẻ tiếc nuối trong giọng của làm ba người kia phá lên cười.

      - Cứ cười rồi xem! Cái ngốc của các cậu là ở chỗ đó. Các cậu cứ nghĩ rằng cách kiếm tiền duy nhất là tìm vàng. Ðể tớ báo cho các cậu biết, khi vàng được phát các cậu cào đất và vọc bùn chớ gì, nhưng rồi các cậu cũng chẳng còn được bao nhiêu đâu. Cứ thấy vàng ở các doi đất là các cậu vội cười toáng lên rồi. Các cậu nghĩ là Thượng Ðế tạo ra vàng bụi là để thoả mãn những nhu cầu cấp bách của mấy tay hám vàng kỳ cựu mà ngốc nghếch như các cậu. Rồi ra các cậu cũng chỉ hưởng được vàng xấu mà thôi, mà cũng chỉ đào được khoảng phân nửa trữ lượng nằm trong đất là cùng, rồi lại mất đứt phân nửa cái số đào được ấy vào việc sàng đãi cho mà coi. Thế nhưng kẻ thủ lợi nhiều nhất lại chính là người sở hữu cái phần đất đó, dựng lên những công ty thương mại, thiết lập các ngân hàng…

      Ðến đây ba người kia lại phá lên cười làm Ánh Sáng Ban Ngày được nữa. Mở ngân hàng ở cái vùng Alaska này. Cái ý đó mới đau đầu.

      - Hừ, rồi mở các thị trường chứng khoán…

      Họ lại cười đến lăn lộn. Joe Hines lăn tấm áo ngủ, cười đến vỡ bụng.

      - Rồi những tay đầu nậu về hàm mỏ đổ về đây mua lại hết tất cả các vùng lạch mà trước đó các cậu chỉ biết có cào bới như những chú gà ngờ nghệch. Rồi họ dùng thuỷ lực vào mùa hè, mùa đông dùng hơi nước nóng làm mềm đất.

      - Bơm hơi nước nóng xuống cho mềm đất? Quá lắm rồi. Ánh Sáng Ban Ngày pha trò hay ! Bơm hơi nước nóng xuống cho mềm đất? trong khi việc đốt củi làm cho mềm đất cũng còn chưa thử nghiệm, còn là giấc mơ ở trời!

      - Cười, mẹ các cậu, cứ cười ? các cậu có mắt mà cũng như mù. Các cậu ngốc như lũ mèo con meo meo ấy. Tớ cho các cậu biết khi vàng được phát dòng Klondike rồi Harper và Ladue thành triệu phú đấy. Mà nếu có vàng ở sông Stewart này các cậu cứ nghển mặt ra mà xem Elam Harnish này. Lúc ấy mà các cậu đến mình mở miệng xin xỏ thở hơi dài, vẻ chịu đựng. Hừ, mình cũng đành đưa các cậu ít vốn liếng hoặc thực phẩm hoặc cái gì đó mất thôi.

      Ánh Sáng Ban Ngày có khả năng nhìn xa. Tầm nhìn đó đương nhiên rất hạn hẹp, nhưng khi nhìn cái gì luôn luôn nhìn nó ở tầm cỡ lớn. Ðầu óc rất trật tự. tưởng tượng cảu rất thực tế và chẳng khi nào mơ mộng hão. Khi nghĩ đến việc dựng đô thị vùng đất hoang vu chỉ có cây và tuyết phủ, đặt nền tảng đầu tiên là vùng đó phải có vàng mới chuyện dựng đô thị được. Kế đó để ý tìm chỗ làm bến tàu, rồi chỗ cho nhà kho và xưởng cưa; rồi đến những nhu cầu khác của thành phố mỏ miền cực Bắc. Nhưng tất cả chuyện đó lại cũng chỉ làm nền cho chuyện khác còn lớn lao hơn nữa, đó là để thoả mãn cái trò chơi của tính khí. Rồi trong những con đường, những toà nhà, những liên hệ về con người và kinh tế của cái đô thị trong mơ ấy cung cấp cho bao nhiêu là cơ hội. Ðấy chính là canh bạc rộng lớn hơn, mà người chơi ngồi bên kia bàn là miền Nam, còn người bên này là chùm ánh sáng xanh đỏ phương Bắc, sát phạt nhau trận sống mái.

      Canh bạc ấy nhất định phải lớn, lớn hơn bất kì mọi canh bạc nào mà người dân ở vùng sông Yukon có thể tưởng tượng nổi, và , Ánh Sáng Ban Ngày phải tham dự vào canh bạc đó.

      Trong lúc chờ đợi, Chẳng có cái gì để chứng tỏ có chuyện đó cả, ngoại trừ cái linh cảm, mà cái linh cảm đó đến. Cũng giống y như tố đến đồng cắc cuối cùng vào nước bài xì phé tốt, bây giờ đặt toàn bộ cuộc đời vào canh bạc và nỗ lực vào cái linh cảm là tương lai rồi dành cho mỏ vàng rất lớn ở thượng nguồn sông. Thế nên lúc nào đây và ra người bạn đồng hành, cùng với chó, xe trượt, giày tuyết, mới phải lội ngược bộ mặt đóng băng của dòng sông Stewart, qua vùng hoang dã tuyết phủ trắng xoá nơi mà im lặng cùng chưa bao giờ bị phá vỡ bởi tiếng người, tiếng búa, hoặc tiếng súng bắn vọng từ xa.

      Họ thấy dấu hiệu nào chứng tỏ là có người, mặc dù có lần họ qua chiếc xuồng chống bằng sào dáng cục mịch nằm mình bờ đất cao bên cạnh sông. Người giấu nó ở đó, quay lại để lấy nó. Ðoàn người thắc mắc chút rồi lại tiếp tục . lần khác, họ chợt ngang qua làng thổ dân, nhưng thổ dân ở đây bỏ hết rồi. ràng là họ theo theo các nhánh sông Stewart chạy ngược vào vùng núi cao để tìm hươu. Khi được hai trăm dặm ngược về phía bắc tính từ sông Yukon, đoàn người tới nơi mà Elijah nhất định là chỗ có các doi đất mà Al Mayo đến. Họ dựng trại để ở lâu, đem giấu lương thực bờ đất cao để tránh bị chó ăn, rồi bắt tay vào việc ở ngay chỗ có các doi đất, cắt lớp băng đóng ở xung quanh cho tới khi đụng đến lớp sỏi.

      Cuộc sống cực khổ và đơn giản. Sau khi ăn sáng, lúc ánh sáng xám đầu tiên vừa ló dạng là họ bắt tay vào việc. Khi màn đêm buông xuống, họ nấu nướng và làm số công việc thường nhật khác rồi ngồi hút thuốc, đấu láo lúc trước khi cuộn mình vào những bộ áo đắp và ngủ thiếp trong những chùm ánh sáng xanh đỏ Bắc Cực toả sáng đầu và các ngôi sao nhảy múa trong trời đêm lạnh lẽo. Thức ăn của họ đơn điệu: bánh mì nướng có nhiều men, thịt muối, đậu, lâu lâu mới thêm được món gạo nấu chung với nắm mận khô. Họ kiếm được thịt tươi vì tuyệt nhiên lúc này ở đây lại có thú. Hiếm hoi lắm họ mới thấy dấu viết chú thỏ chân bè hoặc chú chồn ecmin.

      những doi đất họ cũng tìm thấy vàng, nhưng số lượng bõ công. Trong lúc tìm hươu để săn ở vùng cách đây Năm Mươi Dặm, Elijah xúc ít đất cát bề mặt của con lạch lớn để đãi thử được những hạt vàng lóng lánh. Thế là cả đoàn người vội thắng chó vào xe mang theo ít đồ rồi đến chỗ đó. Chính ở đây, mà có lẽ là lần đầu tên trong lịch sử vùng sông Yukon, việc đốt củi cho đất mềm ra để dễ đào được thử nghiệm. Ðó là sáng kiến của Ánh Sáng Ban Ngày. Sau khi dọn sạch lớp rêu và cỏ, họ lấy những cành vân sam khô để gầy đống lửa.

      Sau khi đốt được sáu tiếng đồng hồ, đất mềm ra được tám inch. Họ bổ đến ngập cuốc vào chỗ đó, và sau khi xúc hết lớp đất ấy ra, họ lại gầy đống lửa khác. Sáng họ làm việc rất sớm và tới khuya mới nghỉ. Cuộc thử nghiệm thành công khiến họ rất phấn khởi. Sau khi đào được sáu foot họ đụng đến lớp đá sỏi cứng bị đông cứng. Lúc này tiến độ công việc có chậm hơn, nhưng được cái là họ học được cách dùng lửa tốt hơn, và cứ mỗi lần như thế có thể làm mềm được từ năm đến sáu inch. Trong lớp đá sỏi này họ tìm thấy vàng bụi, nhưng nó chỉ dày hai foot là lại đến lớp đất ở độ sâu mười bảy foot họ lại chạm phải lớp sỏi đá có chứa vàng thô, cứ mỗi nơi đãi thử thu được được từ sáu đến tám đô-la. Tiếc thay, lớp đá sỏi này chỉ dày inh mà thôi. Dưới lớp đó lại là đất có lẫn những thân cây cổ xưa và những khúc xương hoá thạch của những quái vật mà con người quên mất rồi. Nhưng họ cũng tìm thấy vàng. Vàng thô. Vậy mặt lớp đá nằm sâu trong lòng đất hẳn là còn trữ lượng vàng còn nhiều nữa chứ? Vậy họ đào cho đến lớp đá đó, cho dù nó có sáu đến bốn mươi foot cũng mặc. Họ chia làm hai ca, đào hai hố, công việc tiến hành suốt ngày lẫn đêm, khói từ những đống lửa cứ liên tục bốc lên.

      Chính vào lúc này họ hết đậu để ăn và Elijah được phái trở về trại chính lấy thêm. Elijah là dân đường kỳ cựu và chịu đựng giỏi. Cuộc hành trình cả và về là trăm dặm, vậy mà hứa là trở lại đây vào ngày thứ ba, ngày để vì chỉ có tay còn hai ngày để về vì phải mang nặng. Thế nhưng vào đêm ngày thứ hai thấy trở về rồi. Họ vừa nằm xuống định ngủ nghe tiếng chân tới.

      - Có chuyện quỷ gì thế biết? - Henry Finn hỏi khi thấy chiếc xe trượt tuyết trống rỗng được kéo vào vùng lửa sáng và bộ mặt của Elijah vốn dài và nghiêm trọng nay lại càng dài và nghiêm trọng hơn.

      Joe Hines bỏ thêm củi vào đống lửa, rồi cả ba người mình khoác áo đắp túm tụm lại bên cạnh đó.

      Bộ mặt râu ria của Elijah bám đầy băng, cả lông mày cũng thế, đến nỗi trong bộ áo lông thú trông cứ như bức kí hoạ ông già Noel của vùng New England vậy.

      - Các cậu có nhớ cái cây vân sam to lớn đứng đỡ đầu cái bờ đất cao chỗ mình giấu lương thực ở gần bờ sông ?- Elijah mở đầu.

      Sau đó nhanh chóng kể lại cái thảm hoạ. Cái cây lớn đó, trông có vẻ rất cứng cáp và hứa hẹn đứng vững đến hàng trăm năm, ngờ đâu lại bị mục ngầm. hiểu vì lý do gì mà rễ của nó còn bám chặt vào đất được nữa. Sức đè của bờ đất và tuyết đóng cành nặng quá sức chịu đựng của nó, và thế là thăng bằng mà nó duy trì được với môi trường xung quanh trong bấy lâu bị phá vỡ. Cái cây đổ đánh xầm xuống đất, làm cho bờ đất cũng đổ và phá vỡ luôn thăng bằng mà bốn con người và mười con chó từ trước tới nay vẫn giữ được với thiên nhiên. Nguồn lương thực thế là mất hết. Lũ chồn gulo kéo đến chỗ lương thực đó Cái gì ăn được chúng phá cho hư hết.

      - Chúng nó ăn hết thịt muối, mận khô, đường và thức ăn của chó - Elijah báo cáo - sai xin Chúa phạt, chúng nó gậm thủng hết các bao, các túi làm đổ vung vãi bột, đậu, gạo suốt từ Dan đến Beersheba. Tôi tìm thấy mấy cái bao rỗng nằm lăn lóc cách đây cả 1/4 dặm.

      Trong phút ai tiếng nào. đại hoạ khi phải ở giữa nơi có thú vào mùa đông Bắc Cực mà lại mất hết lương thực. Họ hoảng hốt, Nhưng họ còn mải nhìn thẳng vào tình thế để suy xét. Joe Hiaes là người đầu tiên lên tiếng:

      - Chúng mình có thể đãi tuyết để thu lại đậu và gạo… mặc dù cũng chỉ còn được tám đến mười cân gạo là cùng. Rồi người trong bọn ta phải đánh xe về trại Sáu Mươi Dặm - Ánh Sáng Ban Ngày tiếp lời.

      - Ðể tôi cho, - Finn .

      Họ suy nghĩ thêm lúc nữa.

      - Nhưng ba người ở lại và bầy chó kìa lấy gì mà ăn đây? - Hines hỏi.

      - Chỉ còn có mỗi cách, - Elijah góp ý - Cậu đánh chiếc xe còn lại, Joe, ngược dòng Stewart cho đến khi gặp thổ dân, rồi kiếm ít thịt đưa về. Cậu về đây trước khi Henry từ trại Sáu Mươi Dặm quay lại nhiều. Trong khi cậu ở đây chỉ còn phải nuôi hai miệng ăn là mình và Ánh Sáng Ban Ngày mà thôi. Bọn này ráng ăn dè.

      - Sáng mai mình trở về chỗ giấu đồ đó tuyết để tìm xem còn có thể lấy lại được những gì? - Ánh Sáng Ban Ngày vừa vừa nằm xuống và cuộn mình vào trong tấm áo đắp. thêm - Tốt hơn là ngủ để mai sớm. Hai cậu mai nhớ đem theo chó nhé, Elijah và tớ rải ra hai bên xem có xua được con hươu nào .

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :