Septimus Heap - Tập 3: Y Thuật - Angie Sage [Kỳ Ảo]

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Septimus Heap - Tập 3: Y Thuật - Angie Sage [Kỳ Ảo]
      [​IMG]

      Tên : Y Thuật (full prc, pdf, epub)
      Tên Gốc: Physik
      Tác Giả: Angie Sage
      Bộ Sách: Septimus Heap (tập 3)
      Thể Loại: Pháp Thuật, Kinh Dị, Kỳ Ảo, Ma Quái, Tiểu Thuyết, Văn học phương Tây
      Nhà xuất bản: NXB Trẻ
      Dịch Giả: Hương Lan
      Nguồn: e-thuvien.com

      Giới Thiệu:

      Nếu ai từng đọc 2 tập trước Pháp ThuậtKhinh Công, hẳn các bạn vẫn còn ngây ngất với những tình tiết kỳ ảo, mới lạ, nhiều biến cố và cực kỳ hấp dẫn.Bản thân mình thấy lối viết văn của Angie Sage trong sáng và cũng vô cùng lôi cuốn
      Tiếp tục trong phần 3 này, với những nhân vật mới cùng những tình tiết mới, hẳn bạn thể bỏ qua tập truyện Y Thuật này.
      Khi Silas Heap Bóc Niêm căn phòng bỏ hoang trong Cung Điện, vô tình ông phóng thích con ma nữ hoàng Etheldredda, nữ hoàng sống ở Thời năm trăm năm về trước. Trong kiếp ma, nữ hoàng này cũng ác độc, nghiệt ngã, và nhất là vẫn đeo đuổi ý đồ đen tối, quỷ quyệt hệt như khi mụ còn sống. Mưu đồ muốn được trường sinh bất lão của mụ đòi hỏi phải có phục tùng của Jenna, biến mất của Septimus, và tài năng của con trai mụ, Marcellus Pye, nhà giả kim thuật và thầy lang lỗi lạc. Đương nhiên, nếu như kế hoạch của nữ hoàng Etheldredda có liên quan đến Jenna và Septimus, chắc chắn nó cũng dính líu tới Nicko, ngài Alther Mella, bà Marcia Overstrand, Beetle, Stanley, Sarah, Silas, rồng Khạc Lửa, dì Zelda và tất cả dàn nhân vật biến ảo, vốn làm giá trị đáng nhớ cho Pháp ThuậtKhinh Công.
      Với những tình tiết đứng tim nhưng thiếu hóm hỉnh, Angie Sage lại tiếp tục cuộc hành trình kỳ thú của Septimus Heap.
      Bộ Septimus Heap này gồm 3 tập:​
      - Pháp Thuật
      - Khinh Công
      - Y Thuật

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Phần mở đầu

      Silas Heap và lão Gringe, người giữ Cổng Bắc ở trong góc tối tăm đóng bụi gác mái Cung Điện. Cả hai đứng trước cánh cửa dẫn vào căn phòng Niêm Kín mà Silas Heap, Pháp sư thường đẳng, chuẩn bị Bóc Niêm. “Hà hà, lão thấy chưa, Gringe,” ông bảo, “ quả là nơi thích hợp nhất rồi đây. Bọn Đấu thủ của tôi phen này đừng hòng tẩu thoát nhé. Tôi chỉ việc Niêm chúng trong đó là xong.”

      Lão Gringe chắc như vậy. Ngay cả lão cũng biết rằng tốt nhất đừng bao giờ đụng vào loại phòng Niêm Kín các gác mái. “Tôi chả ưa vụ này tí nào, Silas à,” lão ngần ngại. “Thấy ớn ớn sao đó. Với lại, lần trước ông ăn may vớ trúng cả bộ Đấu Thủ mới toanh dưới lớp ván sàn ấy có nghĩa là lần này chúng chiụ ở lại đây.”

      “Nếu bị Niêm Kín chắc chắn chúng ở lại, Gringe,” Silas , ôm chặt hộp cờ Cản- Bắt quý giá ông vừa mới phát và vừa mới bắt được. “Lão tếu táo chẳng qua là vì lão dụ được đám này khỏi nữa đâu.”

      “Cái đám vừa rồi cũng đâu phải do tôi dụ chúng , Silas Heap. Chúng là vì ý chúng muốn. Chứ tôi mà làm được gì chuyện đó.”

      Silas tảng lờ lão Gringe. Phải ráng nhớ cách thực bùa Bóc Niêm.

      Lão Gringe bứt rứt nhịp nhịp chân. “Mau lên, Silas. Để tôi còn trở về cổng nữa. Cứ tầm này là Lucy lại giở chứng bất trị nhất, tôi chẳng muốn để nó đó mình lâu đâu.”

      Silas Heap nhắm mắt lại cho tập trung hơn. Thở lào thà lào thào, để lão Gringe nghe thấy, Silas lầm rầm tụng thần chú Khóa Ngược ba lần, kết thúc bằng phép Bóc Niêm. Ông mở mắt. Chẳng có gì xảy ra.

      “Tôi đây,” lão Gringe làu bàu. “Ai lại lởn vởn như kẻ ăn ngồi rồi suốt ngày như thế này. Có người trong bọn mình còn phải làm việc chứ.”

      Thình lình, tiếng nổ lớn vang lên đồng thời cánh cửa phòng Niêm Kín giật mở toang. Silas hể hả. “Thấy chưa… Tôi làm là được mà. Tôi là pháp sư, lão biết . Úi! Gì thế?” luồng khí thum thủm lạnh buốt phụt qua người Silas và lão Gringe, hút hơi thở ra khỏi buồng phổi họ cách thương tiếc, khiến cả hai ngồi vật xuống ho sặc sụa.

      “Rét quá.” Lão Gringe rung mình, khắp cánh tay nổi da gà hồn hột.

      Silas đáp- ông vào phòng Bóc Niêm, nhăm nhe tìm chỗ tốt để cất bộ cờ Cản- Bắt. Nổi tò mò lấn át lão Gringe, thúc lão rón rén vào phòng. Nó tí, hơn cái buồng chứa đồ là bao. Ngoài ánh sang Silas cầm, còn đâu tối thui, do cửa sổ duy nhất trong phòng bị xây bít lại. Nguyên gian trống huơ trống hoác, ván lót sàn bụi bám kít, và tường trát vừa trơ ra, nứt nẻ. Nhưng, theo lão Gringe bất chợt nhận thấy, nó trống lốc hoàn toàn. Trong góc tối lờ nhờ ở đầu kia căn phòng bức tranh sơn dầu lớn dựa chống vào tường vẽ nữ hoàng kích thước như người .

      Silas dòm bức chân dung. Đó là bức vẽ tinh xảo vẽ hình nữ hoàng cuả Lâu Đài thời xưa xửa xừa xưa. Ông bảo đảm nó rất xưa bởi vì bà đội chiếc vương miện , vốn bị mất từ nhiều thế kỷ trước. Nữ hoàng này có cái mũi nhọn hoắt và để kiểu tóc bím cuộn tròn hai bên tai, tựa như cái mũi che. Nép sát bên váy bà là con Aie-Aie – loài vật ghê tởm, mặt chuột, móng sắc, đuôi dài như đuôi rắn. Nó giương đôi mắt tròn đỏ lòm ra ngó trừng trực Silas, tựa hồ muốn phập cái răng duy nhất nhọn sắc như kim vào ông. Nữ hoàng cũng từ trong tranh nhìn ra, nhưng với vẻ mặt bất bình, khinh khỉnh. Mái đầu hất cao, được đỡ bằng vòng cổ áo xếp nếp hồ cứng dưới cằm, đôi mắt dữ tợn của bà ta phản chiếu ánh nến của Silas, và dường như đôi mắt ấy đảo tới đâu ngọn nến luôn ngả theo tới đó.

      Lão Gringe rùng mình. “ Tôi chả muốn đơn độc gặp bà ta giữa đêm hôm đâu.”

      Silas nghĩ lão Gringe đúng, ông cũng muốn đêm hôm gặp bà ta mình- và đội quân Đấu thủ của ông chắc chắn cũng chẳng muốn. “Bà này phải chỗ khác thôi,” Silas phán. “Tôi để bà ta dọa cho đội đấu thủ của tôi hoảng sợ ngay khi chưa kịp yên vị.”

      Nhưng Silas nào biết rằng bà ta rồi. Ngay khi ông vừa Bóc Niêm căn phòng, con ma nữ hoàng Etheldredda và con ma thú bước ra khỏi bức chân dung. Chúng mở cửa ra ngoài và mũi nhọn hếch lên trời… sượt ngang qua Silas và lão Gringe. Nữ hoàng cùng con Aie-Aie đếm xỉa gì đến họ, bởi lẽ bà ta còn có những việc quan trọng… và phải mất lâu lâu mới được phóng thích để làm.

      Chương 1. Snorri Snorrelssen

      Snorri Snorrelssen lái chiếc thương thuyền của mình qua làn nước phẳng lặng dòng sông về phía Lâu Đài. Đó là chiều thu mù sương và Snorri thở phào bỏ lại những con nước thủy triều dậy sóng của Bến Cảng đằng sau. Gió lặng nhưng vẫn đủ sức quất lá buồm khổng lồ cuả thuyền Alfrún – đặt theo tên mẹ , người sở hữu chính thức con thuyền- giúp bẻ lái an toàn vòng qua Vách đá Quạ đen và hướng tới bến sông ở phía đối diện quán Trà và Rượu của Sally Mullin.

      Hai chàng ngư dân trẻ, lớn tuổi hơn Snorri chút vừa trở về sau ngày đánh cá trích thành công, hớn ha hớn hở chụp sợi dây gai dầu mà Snorri quăng lên bờ. Sốt sắng khoe tài nghệ của mình, họ quấn dây vào hai cái cọc lớn bến, neo chặt thuyền Alfrún lại. Các chàng ngư dân cũng hí hửng khuyên răn đủ thứ về cách hạ buồm với cách xếp dây thừng sao cho gọn nhất, nhưng Snorri chẳng để ý đến, phần vì hiểu tiếng của họ, nhưng phần lớn là do hồi nào đến giờ ai dạy Snorri Snorrelssen phải làm gì- ai, kể cả mẹ . Mà nhất là mẹ .

      Snorri, cao hơn tuổi của mình nhiều, là rắn chắc, thon thả và khỏe khác thường. Bằng vẻ thuần thục của người vừa mới mình lênh đênh ngoài biển hai tuần liền, Snorri hạ lá buồm vải bạt to kềnh xuống và cuốn nó lại theo từng nếp gấp rộng, nặng chịch; sau đó xếp dây thừng lại thành những cuộn gọn ghẽ và buộc chặt bánh lái. Ý thức là mình bị hai chàng đánh cá nhìn ngó, Snorri khóa nắp cửa hầm lại, dưới đó chất đầy những kiện hang nặng trĩu quần áo len dày, những bao gia vị làm kim chi, những thùng cá muối và vài đôi ủng da tuần lộc độc đáo. Cuối cùng- phớt lờ những kẻ tự nguyện đòi giúp tiếp- Snorri thả ván thuyền xuống và bước lên bờ, để Ullr, con mèo màu cam có chỏm đuôi đen ở lại thuyền cho nó lơ thơ boong rình đuổi chuột.

      Snorri ở ngoài biển hơn hai tuần nên rất thèm được bước trở lại đất liền vững chắc, nhưng khi nhịp bước dọc theo bến sông có cảm tưởng như mình vẫn còn ở thuyền Alfrún, bởi mặt đất có vẻ cũng đong đưa dưới chân giống con thuyền cũ ấy. Hai chàng ngư dân giờ này đáng ra phải về nhà với mẹ nhưng lại ngồi bên đống giỏ bắt tôm hùm rỗng trơn. người trong bọn cất tiếng, “Chào em.”

      Snorri mặc kệ ta. rảo chân tới cuối bến sông và rẽ vào con đường đất nện dẫn tới chiếc cầu phao lớn mới bắc, cầu tọa lạc quán ăn sầm uất. Đó là tòa nhà gỗ hai tầng rất kiểu cách với những cửa sổ thấp, dài ngó ra sông. Ánh đèn dầu vàng vàng ấm áp từ trần nhà hắt ra, khoác cho quán vẻ mời gọi trong tiết trời sầm tối buốt giá. Chân dậm lối dằn gỗ dẫn lên cầu phao mà Snorri thể tin nổi rốt cuộc mình lại có mặt ở nơi đây… tại quán Trà và Rượu lưu truyền bốn bể của Sally Mullin. Phấn khích xen lẫn sợ sệt, Snorri đẩy cánh cửa đôi vào quán và suýt ngã nhào vô đống gàu nước và cát chữa lửa xếp dài dọc ngay lối ra vào.

      Tiếng cười ngộn nhạo hỉ hả bao giờ ngớt trong quán Trà và Rượu của Sally Mullin, nhưng khi Snorri vừa bước qua ngưỡng cửa tiếng ồn ào bỗng im bặt, hệt như ai tắc công tắc cái phụt. Hầu như nhất loạt, tất cả thực khách đều đặt cốc bia xuống và trố mắt dòm lạ trẻ tuổi, bận áo thụng đặc trưng của Nghiệp đoàn Hanseatic, cơ quan chủ quản của cánh lái buôn phương Bắc. Snorri cảm thấy mặt mình đỏ bừng, cáu tiết ước gì mình đừng đỏ mặt vậy, nhưng cứ bước thẳng đến quầy, dứt khoát gọi chiếc bánh lúa mạch nướng và nửa vại bia Sringo đặc biệt mà nghe danh.

      Sally Mullin, phụ nữ thấp tròn, có số lượng tàn nhang và bột lúa mạch bằng nhau ở má, xồ ra khỏi nhà bếp. Ttrông thấy tấm áo thụng đỏ sậm và vòng dây da quấn quanh đầu lẫn vào đâu được của lái buôn phương Bắc, mặt bà liền đanh lại. “Ở đây tiếp lái buôn phương Bắc,” bà sẵng giọng.

      Snorri bối rối. chắc mình hiểu Sally gì, nhưng chắc chắn bà chào đón mình.

      đọc bảng đề cửa rồi đấy,” Sally khi Snorri tỏ ý rời . “Cấm lái buôn phương Bắc. được chào đón ở đây, trong quán ăn của tôi.”

      ấy chỉ là thiếu nữ thôi mà, Sal,” ai đó hét vọng ra. “Cho cơ hội .”

      Khách khứa bùng lên rầm rầm tán thành. Sally Mullin nhìn kỹ Snorri hơn và vẻ mặt bà dịu . Quả đúng - này chỉ là con bé- có lẽ mười sáu tuổi là quá, Sally nghĩ. nàng có màu tóc vàng bạch kim và mắt xanh da trời nhàn nhạt rất điển hình của cánh lái buôn, nhưng lại có vẻ mặt sắt đá đáng sợ mà mỗi khi chợt nhớ là Sally lại rùng mình.

      “Ờm…” Sally trở về quầy, “Ta thấy đêm sắp xuống rồi mà ta phải là kẻ tâm đẩy trẻ ra ngoài trời tối mình. dùng gì hả, ?”

      “Tôi… tôi ,” Snorri nín thít khi cố nhớ lại ngữ pháp. biết Tôi ăn hay là Tôi ăn? “Tôi ăn lát bánh lúa mạch nướng rất khéo của bà và nửa vại bia Sringo đặc biệt nữa, xin bà vui long.”

      “Bia Sringo đặc biệt?” Giọng ai đó hét váng lên. “Ôi, thiếu nữ trong tim tôi.”

      “Im , Tom,” Sally mắng. “Tốt hơn hãy dùng bia Sringo thường trước ,” bà bảo Snorri. Sally rót bia vào cốc sứ lớn rồi đẩy nó qua quầy cho . Snorri thận trọng nhấp ngụm và nhăn mặt kinh tởm. Bà Sally hề ngạc nhiên. Bia Sringo phải uống quen mới thấy ghiền, chứ hầu hết đám trẻ choai đều nghĩ nó kinh xóc óc- tình có lúc chính Sally nghĩ nó thối hoắc kìa. Sally rót cốc nước chanh mật ong cho Snorri, đặt nó vào khay cùng với khoanh bánh lúa mạch nướng lớn. Trông bộ dạng có lẽ ăn mạnh đấy. Snorri đưa cho bà hẳn đồng florin(1) bạc, trước ngạc nhiên của Sally, và nhận lại đống tướng tiền xu lẻ. Sau đó ngồi xuống cái bàn trống bên cửa sổ và nhìn ra dòng sông đen kịt.

      Tiếng chuyện trò rầm rì trong quán lại trở về như cũ, Snorri thở phào nhõm. Dám vào quán Trà và Rượu của Sally Mullin là việc khó nhất từng làm trong đời. Khó hơn cả việc quyết định dong Alfrún ra biển mình lần đầu, khó hơn cả việc thu mua gói hang hóa Alfrún chở bằng số tiền dành dụm nhiều năm, và càng khó, khó, khó hơn gấp bội chuyến vượt biển Bắc ngăn cách Nghiệp đoàn lái buôn phương Bắc với vùng đất có quán Trà và Rượu của Sally. Nhưng mà dám vào đây- Snorri Snorrelssen tiếp bước cha mình, ai có thể ngăn được . Kể cả mẹ cũng .

      Mãi tối khuya hôm đó Snorri mới trở về thuyền Alfrún. Ullr ra mừng chủ trong lốt vỏ đêm của nó. Con mèo nồng hậu vọt ra tràng meo trầm đục, ngân dài rồi theo chủ boong thuyền. Đeo cái bụng no óc ách bánh lúa mạch nướng đến gần như nhấc chân nổi, Snorri tới ngồi xuống chỗ thích của mình, nơi muỗi thuyền, vuốt ve Ullr Đêm- con báo bóng mượt, uy mãnh, đen tựa màn đêm với đôi mắt xanh nước biển và chóp đuôi màu cam.

      Snorri bồi hồi sao ngủ được. ngồi ôm choàng lấy bộ lông mượt ấm như lụa của Ullr, ngó mông lung ra dòng sông tới vùng nông trại phía bờ bên kia. Lát sau, đêm phủ buốt lạnh, quấn mình vào tấm chăn len vừa dày vừa dài mà định mang bán- với giá rất cao- trong phiên chợ buôn sắp mở cửa trong hai tuần nữa. đùi trải phẳng phiu tấm bản đồ Lâu Đài, chỉ đường tới nơi họp chợ; mặt trái tấm bản đồ ghi chỉ dẫn chi tiết về cách thức đăng ký quầy sạp cùng tất cả những quy tắc và luật lệ hành xử trong mua bán trao đổi hàng. Snorri thắp ngọn đèn dầu mà vừa mang từ dưới cabin lên và ngồi yên vị nghiền ngẫm những quy định với phương thức. Gió lặng tăm, cơn mưa phùn lắc rắc hồi tối cũng ngừng; khí hanh lạnh, trong lành, Snorri hít vào mùi đất liền- rất khác và rất xa lạ so với mảnh đất nơi quen thuộc.

      Khi màn đêm buông dày, từng tốp khách bắt đầu rời khỏi quán Trà và Rượu của Sally, đến sau nửa đêm thấy ánh đèn dầu trong quán tắt liệm và nghe tiếng chốt cửa. Snorri mỉm cười hạnh phúc. Cuối cùng được mình với dòng sông, chỉ mình , Ullr và thuyền Alfrún, mình trong đêm. Khi chiếc thương thuyền lắc lư nhè theo con sóng thủy triều rút, mắt Snorri sụp díp lại. đặt tờ danh mục liệt kê chi chit các loại cân và dụng cụ đo lường được phép sử dụng xuống, keó tấm chăn len sát vào người hơn và nhìn chong ra dòng sông lần cuối cùng trưóc khi xuống cabin ngủ. Bất chợt trông thấy nó.

      chiếc thuyền dài, lờ mờ phác thành mảng sang xanh lục ngoặt ra khỏi vách đá Quạ Đen. Snorri ngồi ngây đờ ra nhìn con thuyền chầm chậm tiếng động tiến ra giữa sông, đều đặn tiến dần tiến dần tới thuyền Alfrún. Khi nó gần tới, Snorri nhìn thấy bóng nó lòe nhòe dưới ánh trăng, bất giác cơn rùng mình chạy dọc sống lưng , bởi vì Snorri Snorrelssen, người Kiến Vong(2), biết đích xác mình nhìn cái gì- con tàu hiển linh. Snorri thở rít trong lồng ngực, bởi vì trong các loại thuyền ma hiển chưa từng bao giờ mục kích các loại thuyền như thế này. Snorri quá quen thấy thuyền đánh cá bị đắm, với thuyền trưởng chết đuối cầm lái, vĩnh viễn đường tìm bến cập an toàn. Thỉnh thoảng còn thấy linh hồn của những chiến thuyền dài què quặt, lê về cố hương sau trận giao tranh ác liệt, và lầ tận mắt chứng kiến con tàu cao chót vót của thương nhân giàu sụ, của nả tuôn ào ạt khỏi lỗ thủng bên hông tàu, nhưng chưa bao giờ thấy thuyền Hoàng gia cả- có con ma nữ hoàng cho đủ lệ bộ nữa càng .

      Snorri đứng dậy, nâng óng nhồm Vong mà bà thông thái của Cung Điện Băng tặng mình lên, và chĩa thẳng vào cái thứ ma quỷ Hình có tám tay chèo ma chèo hung hục lừ lừ trôi đến kia. boong thuyền cắm những lá cờ bay phất trong tư thế đón cơn gió tắt từ đời nảo đời nao; than thuyền vằn vện những hình thù dát vàng và bạc, phủ bức màn trướng đỏ chóe, nặng nề giăng những cây cột bằng vàng chạm hoa văn cầu kỳ. Ngay dưới bức màn trướng, dáng gnười uy nghi ngồi thẳng đuột, mắt dõi thẳng về phía truớc. Cái cằm nhọn của bà ta gác lên viền cổ cao xếp nếp hồ cứng, đầu đội vương miện trông thô kệch và để kiểu tóc xưa cũ chối cãi vào đâu được: hai cuộn tết bím cuốn chặt quanh hai tai. Sát bên bà ta là sinh vật choắt, gần như trụi long, ban đầu Snorri tưởng nó là con chó xấu xí, sau rồi mới thấy cái đuôi dài tựa đuôi rắn quấn quanh cây cột vàng. Snorri nhìn con thuyền ma trôi qua, lại lần nữa rùng mình trước làn gió buốt xuyên thấu qua người- có cái gì đó rất khác, rất , ở những sinh vật con thuyền ấy.

      Snorri hạ ống nhòm Vong và chui qua cửa sập xuống cabin, để Ullr gác boong. treo cây đèn dầu lên móc trần cabin, tỏa ánh sang vàng dịu khiến cho cabin ấm cúng, dễ chịu. Cái hốc này hẹp tí do phần lớn gian của chiếc thương thuyền đều được tận dụng để chất hang, nhưng Snorri thích nó. Cabin ốp gỗ táo thơm phảng phất do cha , Olaf, có lần mang về làm quà tặng mẹ tự tay cưa đục rất khéo, bởi ông cũng từng là thợ mộc tài ba. mạn chính kê chiếc giường gắn hẳn vào thuyền, ban ngày trưng dụng làm ghế ngồi. Dưới gầm giường đóng những ngăn tủ ngay ngắn làm chỗ cho Snorri cất giữ đồ linh tinh, lặt vặt và phía bên giường là dãy kệ dài để những cuộn bản đồ hàng hải. Phía mạn cập cảng là cái bàn xếp, dãy tủ com-mốt bằng gỗ táo và cái bếp lò bằng kim loại, khum tròn có ống khói chạy thẳng lên, xuyên qua trần cabin. Snorri mở cánh cửa lò, để lộ đốm lửa đỏ riu riu từ đống than ỉ sắp tàn.

      Cảm thấy buồn ngủ, Snorri leo lên giường, quấn tấm mền bằng da tuần lộc quanh người và thả mình cho trôi vào giấc ngủ đêm. mỉm cười sung sướng. Quả là ngày tốt lành, ngoại trừ cái cảnh gặp nữ hoàng ma. Nhưng chỉ có con ma duy nhất Snorri mong muốn gặp- đó là con ma Olaf Snorrelssen.

      *** (1) hào = bằng 2 silinh- ND.

      (2) Trong bộ truyện Septimus, người Kiến Vong tức là người có khả năng nhìn thấy ma và những linh hồn- ND.

      Chương 2. Chợ phiên

      Sáng hôm sau Snorri khoan khoái thức dậy sớm, và Ullr, trở lại lốt ban ngày là con mèo cam gầy nhẳng có chóp đuôi đen đả con chuột làm bữa sáng. Snorri quên phéng bóng ma con thuyền Hoàng gia, đến khi sực nhớ ra nó trong lúc điểm tâm bằng cá trích muối chua và bánh lúa mạch đen, Snorri kết luận đó chẳng qua là mình mơ thôi.

      Snorri lôi cái túi đựng hàng mẫu dưới hầm, lẳng nó lên vai và xuống tấm ván cầu, hòa mình vào buổi ban mai rực rỡ, lòng phấn chấn, hạnh phúc lâng lâng. Snorri thích vùng đất lạ mình vừa mới đặt chân tới này- thích mặt nước sông lờ lững, xanh ngát, và mùi lá thu quyện trong khói đun củi lơ lửng , và rạo rực trước bức tường thành cao nghễu nghện của Lâu Đài sừng sững ngay trước mặt mình, bên trong ấy là cả thế giới hoàn toàn mới cho khám phá. Snorri leo hết con đường dốc dẫn tới Cổng Nam và hít vào hơi sâu. khí lẩn quất hơi lạnh thấu xương, nhưng chẳng giống chút nào với làn sương giá mà Snorri biết mẹ mình thức dậy với nó ở quê nhà, trong căn chòi gỗ ảm đạm bên bến sông. Snorri lắc đầu để xua tan những ý nghĩ về mẹ rồi rẽ vào lối dẫn tới Lâu Đài.

      Khi Snorri bước qua Cổng nam nhận thấy người ăn xin già ngồi dưới đất. Liền móc đồng 4 xu từ trong túi ra- bởi vì dân tộc quan niệm rằng ta gặp vận may lớn khi bố thí cho người ăn mày đầu tiên mình thấy đất khách- và ấn vào tay lão già. Quá trễ, khi bàn tay thọc hẳn qua tay lão, Snorri mới nhận ra đấy là con ma. Còn kẻ ăn mày ma giật mình kinh ngạc trước cú chạm của Snorri, cáu sườn vì bị Xuyên Qua liền đùng đùng đứng dậy, bỏ khỏi. Snorri dừng chân và thả cái bao nặng xuống đất. nhìn quanh và tim trùng thõm xuống. Lâu Đài đông nghẹt, chật cứng và tràn ngập những con ma đủ hình thù, mà người Kiến Vong như Snorri còn lựa chọn nào khác là phải nhìn- bất chấp lũ ma đó có chịu Hình với hay . Snorri thầm hỏi làm thế nào mình có thể tìm ra cha giữa đám đông đen đặc thế này. Suýt chút nữa quay ngoắc lại ngay tại chỗ và trở về nhà, nhưng tự nhủ rằng mình đến đây còn để buôn bán nữa, và là con của nhà buôn danh tiếng, buôn bán đương nhiên là cái nghiệp của .

      Cúi gằm đầu xuống và cố tránh càng nhiều ma càng tốt, Snorri theo bản đồ của mình. Tấm bản đồ vẽ chính xác, chẳng bao lâu sau bước qua mái vòm gạch cổ xưa dẫn vào thánh địa của những nhà buôn, từ đó thẳng tới văn phòng đăng ký. Đó là căn liều rộng mở bên treo tấm biển đề NGHIỆP ĐOÀN HANSEATIC VÀ HỘI LIÊN HIỆP LÁI BUÔN PHƯƠNG BẮC. Trong lều kê chiếc bàn bộ ngựa, hai bộ cân lỉnh kỉnh đủ các loại quả cân và thước đo, cuốn sổ cái to đùng, và có thương nhân già quắt quéo đếm tiền trong chiếc hộp kim loại tổ bố đựng tiền mặt. Bỗng dưng, Snorri cảm thấy sờ sợ, hệt như cảm giác khi bước vào quán Trà và Rượu của Sally Mullin. Đây là khoảng khắc phải chứng minh rằng mình hội đủ quyền buôn bán và mình là thành viên của Nghiệp Đoàn. khó nhọc nuốt nước miếng khan, ngẩng cao đầu lên và bước vào lều.

      Ông già hề ngước lên. Vẫn điềm nhiến đếm tiếp những đồng tiền lạ lung mà Snorri chưa thông thuộc: đồng xu, đồng groat, đồng florin, đồng nửa crown và đồng nguyên crown. Snorri hung hắng ho hai cái nhưng ông già vẫn ngẩng lên. Sau vài phút, Snorri chịu nổi nữa, bèn cất tiếng. “Xin lỗi ông.”

      “Bốn trăm hai mươi lăm, bốn trăm hai mươi sáu…” người đàn ông đếm to, vẫn chưa rời mắt khỏi hộp tiền.

      Snorri còn cách nào khác, đành phải đợi. Năm phút trôi qua ông lão mới going giả. “ nghìn. Ớ, à , tôi giúp gì cho nào?”

      Snorri đặt nguyên đồng crown lên bàn bộ ngựa và rành mạch, bởi vì bao ngày qua miệt mài tập luyện nó chỉ để chờ cho đến giây phút này đây: “Tôi muốn đăng ký Giấy phép Bán hàng.”

      Ông già nhìn xoáy vào bận trang phục thương lái bằng len thô đứng trước mặt mình và nhếch mép cười, như thể Snorri vừa mới ăn tầm xàm. “ Xin lỗi . phải là thành viên của Nghiệp Đoàn mới được cấp giấy phép.”

      Snorri rất hiểu tại sao ông già lại vậy. “ Tôi chính là thành viên của Nghiệp Đoàn,” bảo với ông già. Rồi để lão kịp phản đối, rút ngay Giấy Chứng Nhận Quyền Thông Thương của mình ra và đặt cuộn giấy da dê cột ruy băng đỏ có dấu sáp niêm to, đỏ chói trước mặt ông già. Làm như muốn trêu ngươi , lảo ta đủng đà đủng đỉnh rút kính, lắc lắc đầu ra chiều bất mãn với lũ trẻ xấc xược ngày nay, và chậm rãi đọc cuộn giấy Snorri trình cho mình. Ngón tay lão miết theo dòng chữ tới đâu, nét mặt lão thất sắc, tin nổi tới đó, và khi đọc xong lão chìa cuộn giấy da dê ra truớc ngọn đèn, cố soi xem có dấu hiệu giả mạo gì .

      Tuyệt nhiên hề giả mạo. Snorri biết chắc chắn thế. Và người đàn ông già cũng thấy vậy. “ vô phép tắc,” lão ta bảo Snorri.

      “Vô-phép-tắc?” Snorri hỏi lại.

      “Vô phép tắc chưa từng thấy. Cha mà trao Giấy Chứng Nhận cho con là bất thường.”

      “Hả?”

      “Nhưng xem ra tất cả đều theo đúng trình tự.” Lão già thở dài và miễn cưỡng thọc tay xuống ngăn bàn, lôi ra chồng giấy phép. “Ký vào đây,” lão ta bảo, đẩy cây bút về phía Snorri. ký tên mình xong, lão già dán tem vào giấy phép với thái độ như thể nó chứa đựng nội dung gì thô bỉ và riêng tư lắm.

      Lão lùa tờ giấy qua bàn cho Snorri. “Quầy số 1. đến sớm đấy. Người đầu tiên tới đây. Hai tuần nữa kể từ thứ Sáu phiên chợ bắt đầu lúc bình minh. Ngày cuối cùng rơi vào Trước Lễ Đông Chí. Đến chạng vạng tối là phải dọn dẹp vệ sinh xong xuôi. Đến nửa đêm mọi rác rưởi phải đem đổ ra bãi rác Bờ sông Thơ mộng. Lệ phí là đồng crown.” Người đàn ông gì cầm đồng tiền Snorri để bàn và quẳng vào thùng tiền khác, tiếng nó đáp xuống nghe đánh kịch, rỗng .

      Snorri cươi tười hớn hở cầm tờ giấy phép. làm được rồi. lái buôn có bằng chứng nhận, hệt như cha trước đây.

      “Đem hàng mẫu của tới kho kiểm định chất lượng. Ngày mai tới lấy đem về.”

      Snorri để bao hàng mẫu nặng chịch của mình vào thùng hàng mẫu bên ngoài nhà kho. cảm thấy long bẫng. Lúc nhún nhảy bước ra khỏi khu chợ, tông thẳng vào bận áo chẽn đỏ viền vàng. bé có mái tóc đen dài, đội chiếc vòng vàng như vương miện đầu. Sát bên bé có con ma mặc áo thụng tía, đôi mắt xám hiền từ và bím tóc xám cột đuôi ngựa ngay ngắn đằng sau. Snorri cố tránh nhìn vào vết máu rỉ khỏi áo thụng bên dưới tim con ma, bởi vì nhìn vào cách thức người gia nhập kiếp ma là thất lễ.

      “Ối, xin lỗi,” bé áo đỏ với Snorri. “Tôi nhìn đường .”

      . Tôi xin lỗi mới đúng,” Snorri . mỉm cười và bé cũng mỉm cười đáp lại. Snorri tiếp tục quãng đường về lại thuyền Alfrún, đầu nghĩ ngợi khôn nguôi. nghe trong Lâu Đài có công chúa, nhưng lẽ nào lại là lại điềm nhiên như bao người khác ấy?

      đó, đích thị là công chúa, hướng về Cung Điện với con ma áo thụng tía.

      ấy là người Kiến Vong,” con ma lầm bầm.

      “Ai ạ?”

      lái buôn trẻ ấy. Tôi Hình với ấy, thế mà ấy vẫn nhìn thấy tôi. Trước giờ tôi chưa bao giờ gặp người Kiến Vong. Họ rất hiếm, và thường chỉ có ở vùng đất Đêm Trường thôi.” Con ma rùng mình. “Khiến tôi ớn lạnh.”

      Công chúa cười phá lên. “Cụ tếu ghê, cụ Alther. Con dám chắc chính cụ mới khiến người khác ớn lạnh chứ.”

      “Bao giờ nào!” Con ma công phẫn bài bác. “À mà… chỉ khi nào tôi muốn thôi.”

      Trong những ngày sau, tiết thu kéo về. Từng cơn gió bấc lột sạch lá khỏi cây, cuốn bay là đà phố. khí trở lạnh và người ta bắt đầu cảm nhận trời mau tối thế nào.

      Nhưng với Snorri Snorrelssen, thời tiết đẹp. Hàng ngày rảo quanh Lâu Đài, thám thính những đại lộ, ngõ hẻm, sửng sốt ngó vào cửa sổ những gian hàng tí hin, lọt thỏm trong những hốc vòm ở khu Mở Rộng nhưng lại bày bán những mặt hàng nữ trang rất độc đáo. choáng ngợp ngước lên tháp Pháp Sư, sững sờ nhìn dáng vẻ cực kỳ đường bệ thoáng qua của Pháp Sư Tối Thượng, và bị sốc trước những đống phân to lù lù mà cánh pháp sư ủ ngay trong sân nhà họ. nhập vào đoàn khách xem cỗ đồng hồ cổ trong khu Xưởng Dệt điểm mười hai tiếng buổi trưa, và bật cười giòn giã trước mười hai hình nhân bằng thiếc nhàn nhã ra từ sau chiếc đồng hồ. Bữa khác lại tản bộ đường Pháp Sư, làm tua tham quan nhà máy in xưa nhất, nhân thể hé mắt qua hàng rào gỗ chiêm ngưỡng Cung Điện cổ xinh đẹp- nó hơn hình dung. Thậm chí còn bắt chuyện với con ma già khọm tên là Gudrun ở cổng Cung Điện, bà nhận ra là đồng hương dù họ cách xa nhau hàng bảy thế kỷ.

      Nhưng trong lúc thơ thẩn con ma mà tha thiết và hy vọng gặp lại dường như tránh né . Dẫu chỉ biết mặt cha qua bức ảnh mẹ để cạnh đầu giường mẹ, nhưng chắc chắn mình nhận ra ngay nếu trông thấy ông. Dù vậy, Snorri vẫn sao gặp được cha.

      buổi chiều tà, sau khi dò la mấy con hẻm tối tăm đằng sau khu Mở Rộng, nơi có nhiều lái buôn ở trọ, Snorri bị mẻ sợ hết hồn. Hoàng hôn dần buông, vừa mua cây đuốc cầm tay tại tiệm Đuốc thắp sẵn Maizie Smalls. Trong lúc trở lại hẻm Thắt Ruột để tới Cổng Nam, Snorri rờn rợn cảm thấy có kẻ theo mình, nhưng hễ quay lại chẳng thấy gì. Thình lình Snorri nghe tiếng vật lộn sau lưng, quay phắt lại thấy… cặp mắt tròn đỏ lòm và cái răng dài nhọn như kim lóe lên trong ánh đuốc cầm. Nhưng vừa bập trúng ánh đuốc, đôi mắt đó liền tan loãng vào bóng tối chạng vạng và Snorri còn thấy chúng đâu nữa. Snorri bụng bảo dạ đó chỉ là chuột thôi, nhưng lâu sau đó, lúc hấp tấp quay trở lại đường phố lớn, Snorri nghe thấy tiếng thét rợn gáy từ hẻm Thắt Ruột vọng ra. Chắc là ai đó đuốc liều lĩnh vào con hẻm gặp may.

      Snorri sợ bủn rủn và chợt khao khát được ở bên con người, thế là đến quán của Sally Mullin để ăn tối. Bà Sally rất niềm nở tiếp Snorri, bởi vì theo như lời bà kể lại với bà bạn Sarah của mình: “Ta thể trách cứ trẻ vì hoàn cảnh bất hạnh phải làm lái buôn, vả lại, chị nghĩ tất cả bọn họ đều tồi. Thể nào em cũng thán phục con bé ấy cho coi, Sarah, nó thân mình lái hẳn chiếc thương thuyền lớn tới đây. Chả biết nó xoay xở cách nào. Chị cứ tưởng điều khiển chiếc Muriel là khó lắm rồi chứ.”

      Quán ăn tối đó vắng cách kỳ dị. Snorri là vị khách duy nhất. Sally thêm cho Snorri bánh lúa mạch nướng và tới ngồi bên . “Công việc làm ăn thất bát kinh khủng, với đà dịch bệnh này,” bà than thở. “Chả ma nào dám ló mặt ra khỏi nhà khi trời tối mặc dù tôi bảo họ rằng chuột chạy xa cả dặm khi thấy lửa. Tất cả việc họ cần làm chỉ là vớ lấy cây đuốc mà cầm thôi. Nhưng chẳng ăn thua. Dạo này dân tình đều hồn xiêu phách lạc cả rồi.” Sally rầu rĩ lắc đầu. “ Chúng cứ nhè mắt cá chân người ta mà cắn. Nhanh như chớp. Phập cái, thế là xong. Nạn nhân tiêu luôn.”

      Snorri thấy khó mà hiểu những lời tuôn trào như suối của Sally. “Tiêu luôn?” hỏi, chỉ kịp nghe được mẩu cuối của câu.

      Sally gật đầu. “Hầu như vậy. ngỏm ngay đâu, nhưng người ta cho rằng chết vẫn chỉ là vấn đề thời gian. Ta vẫn khỏe bình thường, tự dưng chỗ cắn sưng tấy lên, ta chóng mặt, nhức đầu như búa bổ… kế tiếp ta chỉ còn biết mình lăn đùng ra đất, siêu thoát cùng với tiên.”

      “Tiên?” Snorri thắc mắc.

      “Ừ,” Sally đáp, đứng bật dậy đon đả ra đón thực khách.

      Vị khách đó là phụ nữ cao chàng dàng, tóc ngắn chĩa ra tua tủa. Mụ ta kéo áo khoác sát vào người. Snorri thấy mặt mụ, nhưng căn cứ theo dáng điệu mụ này giận sôi sùng sục. Kế tiếp là tiếng rù rù rì rì giữa mụ và bà Sally, sau đó người phụ nữ cong cớn biến thoắt .

      Mỉm cười, Sally trở lại với Snorri, ngó mông lung ra sông. “Hừ, luồng gió bệnh hoạn thổi đến, mang điêu đứng cho dân lành,” Sally trước vẻ hoang mang của Snorri. “Cái mụ Geraldine vừa xông vô đó. Đàn bà gì mà quái đản, làm cho tôi nghĩ tới người mà tôi nhớ ra. Hờm, mụ cầu tôi cho đội trấn áp chuột tập kết ở đây trước khi , è, giày xéo chuột”.

      “Xéo-chuột?” Snorri hỏi.

      “Hờ, tức là bắt chuột í. Họ cho rằng nếu tống khứ hết lũ chuột, tức cũng tống khứ dịch bệnh luôn. Tôi thấy vậy có lý. Mà hài lòng là đằng khác. Vào lúc này quán đành phải chấp nhận tiếp toán bắt chuột đói và khát.”

      Chả còn ai bén mảng vào quán nữa sau khi Geraldine tóc chỉa khỏi, và lâu sau Sally bắt đầu quăng ghế băng lên bàn rầm rầm và chuẩn bị lau sàn nhà. Snorri hiểu ý và lời từ biệt bà Sally.

      “Chúc ngủ ngon, cưng,” Sally vui vẻ. “Đừng có léo hánh ở ngoài đường nữa nghe chưa.”

      Snorri có ý định léo hánh ngoài đường. trở về thẳng thuyền Alfrún và mùng húm thấy Ullr Đêm vơ vẩn boong. Để Ullr đứng gác ở đó, Snorri chui xuống cabin, chốt chặn cửa sập lại và để ngọn đèn dầu thắp suốt đêm.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 3. Vị khách mời mà đến
      Đêm đó, trong khi Snorri Snorrelssen lúi húi đóng cửa cabin, Jenna, Sarah và Silas Heap ăn tối ở Cung Điện. Mặc dù Sarah Heap thích dùng bữa tại gian trong khu nhà bếp Cung Điện, nhưng từ lâu bà khuất phục kiên quyết của bếp trưởng rằng hoàng thân dứt khoát được ăn trong bếp. , ngay cả vào ngày thứ Tư ướt át, im ắng, và chừng nào mà bà ấy còn giữ chức bếp trưởng… “Thưa phu nhân Heap, tôi đây là lần cuối cùng.”
      Vì thế trong phòng ăn rộng mênh mông của Cung Điện, chơ vơ ở cuối chiếc bàn dài, có ba thân hình ngồi lọt thỏm trong khoảnh ánh sáng nến. Lò sưởi cháy lép bép, lèo xèo đằng sau họ, chốc chốc lại bắn tia lửa xuống bộ lông xơ xác, cứng quèo của con Maxie to xụ nằm ngáy khọt khẹt trước lò sưởi, nhưng con chó hề hay biết. Bên cạnh con chó săn lai sói, chị đầy tớ phục vụ bữa tối lượn lờ, tuy khoái hơi ấm nhưng vẫn ao ước được mau mau dọn sạch bàn ăn rồi chuồn khỏi mùi lông chó khét lẹt- cùng thứ còn tệ hơn nữa- từ Maxie phả ra này.
      Nhưng bữa tối dây dưa cả thế kỷ. Sarah Heap, mẹ nuôi cũa Jenna, công chúa kế vị Lâu Đài, có nhiều điều cần . “Này Jenna, mẹ muốn con rời Cung Điện chút nào, thế thôi. Ngoài kia có con vật gớm ghiếc cắn người và truyền dịch bệnh. Con phải ở đây cho an toàn tới chừng nào cái-của-nợ-gì-gì-đó bị bắt.”
      “Nhưng Septimus…”
      nhưng nhị gì hết. Mẹ để ý Septimus có cần con rửa gáy con rồng phát gớm của nó hay , nhưng theo mẹ thấy , phải chi nó đừng kỳ cọ con vật quá thường xuyên lại hay hơn- Con thấy cảnh bầy hầy bờ sông rồi nhỉ? Mẹ biết Billy Pot nghĩ gì, chứ đống phân rồng đó cao phải ba thước là ít. Mẹ từng thích dạo bên sông lắm, nhưng giờ …”
      “Mẹ, việc tắm táp cho Khạc Lửa chẳng khiến con lưu tâm tí ti nào, nhưng con phải thăm thuyền Rồng mỗi ngày,” Jenna .
      “Mẹ bảo đảm thuyền Rồng tự lo liệu được mà có con, xem ra bà ấy còn biết con đến nữa kìa.”
      “Bà ấy biết chứ, mẹ. Con chắc chắn. Bà ấy mà thức dậy ngày này nối tiếp ngày kia thấy ai ở đó kinh khủng lắm.”
      “Thế vẫn tốt hơn nhiều nếu vĩnh viễn còn lại thấy ai lần nữa,” Sarah gay gắt. “Con được ra ngoài đến chừng nào dịch bệnh được khống chế sao đó .”
      “Em có nghĩ mình lo nhắng nhít chuyện đâu đâu đấy?” Silas điềm tĩnh góp lời.
      Sarah nghĩ vậy. “ phải tự dưng mà em vận động mở bệnh xá đâu, Silas à.”
      “Cái gì, cái bãi đồng nát đó hả? Tôi ngạc nhiên sao nó vẫn còn trụ ở đó.”
      “Đâu còn cách nào khác, Silas. Có quá nhiều người bệnh đến nỗi còn chỗ để tiếp nhận họ nữa. Hẳn là ông nhận thấy điều đó rồi nếu như ông đừng suốt ngày la cà gác mái chơi cờ vớ vẩn…”
      “Cờ Cản-Bắt phải trò vớ vẩn, Sarah. vừa mới phát bộ Đấu Thủ tốt nhất của Lâu Đài- ước gì em thấy mặt lão Gringe lúc báo tin cho lão- Còn lâu mới để bọn Đấu Thủ sổng mất. Trong phòng Niêm Kín chúng muốn vội vã rời đâu.”
      Sarah Heap thở dài. Kể từ ngày họ chuyển vào sống trong Cung Điện, Silas bỏ hẳn công việc thường nhật của Pháp sư Thường đẳng mà theo đuổi hàng chuỗi những thú vui- trong đó cờ Cản-Bắt là cái thú mới nhất, kéo dài lâu nhất, và khiến bà điên tiết nhất. “Ông Silas này, tôi nghĩ hành động mở phòng Niêm Kín là tốt đâu,” Sarah trách móc. “Người ta niêm kín phòng là có lý do cả, mà khuất nẻo tận gác mái càng đặc biệt. Bọn tôi bàn luận vụ này tại hội Dược Thảo tháng trước rồi đấy.”
      Silas bị chạm nọc. “Cái hội cây cỏ đó biết gì về công việc của pháp sư hả, Sarah? Biết gì chứ.”
      “Phải rồi, Silas. Tôi nghĩ thời buổi này ông ở gác mái với đám tàn quân gàn dở của ông yên thân hơn.”
      “Đúng vậy. Còn bánh quy nhân ?” Silas hỏi.
      . Ông ăn cái cuối cùng rồi.” im lặng căng thẳng nối tiếp theo. Và giữa cái im lặng ấy Jenna chắc chắn mình nghe văng vẳng tiếng hò hét.
      “Ba mẹ có nghe thấy gì ?” bé hỏi. Rồi đứng lên ra nhìn từ khung cửa sổ cao xuống toàn cảnh phía trước Cung Điện. Jenna có thể nhìn con đường sáng trưng ánh đuốc dẫn qua cổng lớn vào Cung Điện, vốn thường khóa vào ban đêm. Nhưng phía ngoài cổng có đám người vừa la thét inh ỏi vừa gõ nắp thùng rác, “Chuột, chuột, bắt lấy chuột. Chuột, chuột, giết chuột!”
      Sarah ra cửa sổ cùng xem với Jenna. “Đó là đội trấn áp chuột,” bà . “Chả biết họ làm gì ở đây.”
      “Tìm chuột chứ còn làm gì,” Silas , miệng ông căng phồng bánh nhân táo. “Quanh đai đầy nhóc. chừng tối nay nhà mình xơi con trong súp rồi cũng nên.”
      Tiếng thét lác của đội trấn áp chuột càng dồn dập. “Bắt chuột, bắt chuột, đập, đập, đập! Bắt lấy nó, bắt lấy, đập, đập, đập!”
      “Tội nghiệp lũ chuột,” Jenna lầm bầm.
      “Chưa chắc là lũ chuột lây lan dịch bệnh,” Sarah . “Hôm qua mẹ tới phụ giúp bệnh xá, thấy những vết cắn chắc chắn phải là vết chuột cắn. Chuột làm sao có mỗi cái răng. Trời ơi, họ rẽ vào khu đầy tớ rồi kìa. Ối, lạy trời.”
      Nghe vậy, người đầy tớ bữa tối bèn ra tay hành động. Chị vơ vội chồng đĩa, giằng luôn miếng bánh nhân táo cuối cùng khỏi tay Silas và phóng ù ra khỏi phòng. tiếng choang đanh gọn khi chị ta thảy chồng đĩa vào cầu trượt rác cho nó trượt xuống khu nhà bếp bên dưới. Xong chị bay về khu nhà mình ở để coi Percy, con chuột cưng của mình có sao .
      Bữa tối tới d0o1 là kết thúc. Sarah và Silas đến phòng khách của Sarah ở chái Cung Điện, nơi Sarah đọc dở quyển sách và Silas bận viết cẩm nang Mười bí quyết hàng đầu chơi cờ Cản-Bắt, cuốn sổ tay hướng dẫn mà ông đặt vào đó bao nhiêu kỳ vọng.
      Jenna quyết định bề phòng mình đọc sách. bé thích ở mình và khoái lòng vòng Cung Điện, nhất là về đêm khi nến tỏa sáng khắp các hành lang và có nhiều con ma Cổ Nhân thức giấc. Đêm đến Cung Điện mất cảm giác trống vắng mà ban ngày nó gồng chịu để biến thành nơi tấp nập, chất chứa đầy chủ ý như thưở nào. Hầu hết Cổ Nhân đều chọn Hình với Jenna và sung sướng được dịp trò chuyện với công chúa, dẫu nhiều người trong số họ nhớ đích xác bé là công chúa nào. Thường Jenna vui ve tán gẫu với họ, dù nhanh chóng khám phá ra rằng đêm nào mỗi con ma cũng chỉ chính xác điều và chẳng mấy chốc thuộc nằm lòng những lời thoại của chúng.
      Jenna đủng đỉnh lên dãy cầu thang rộng bát ngát dẫn tới phòng trưng bày tranh ở ngay phía tiền sảnh, và dừng lại đối đáp với con ma từng là bảo mẫu già của hai công chúa , bà này suốt đêm cứ lùng sục khắp mọi ngõ ngách để tìm những người mình chăm nom.
      “A… Chào công chúa Esmaralda,” bà bảo mẫu mang vẻ mặt lo lắng vĩnh cữu .
      “Chào bà Mary,” Jenna đáp, từ lâu thôi giải thích với Mary rằng mình là Jenna nữa, vì thể nào cũng chẳng có tác dụng.
      “Ôi, thấy vẫn an toàn và mạnh khỏe tôi mừng quá,” bà bảo mẫu xúc động.
      “Cám ơn, bà Mary.”
      “Cẩn thận đấy, ối trời ơi,” bà bảo mẫu hốt hoảng như bà luôn hốt hoảng vậy.
      “Dạ vâng,” Jenna đáp như mọi khi, chân vẫn tiếp tục bước. Loáng sau bé từ phòng tranh ngoặt vô hành lang rộng, thắp nến sáng trưng, cuối hành lang là cánh cửa cao phòng bé.
      “Chào ngài Hereward,” Jenna chào Cổ Nhân đứng gác phòng ngủ Hoàng gia, con ma tóc xõa, mờ nhạt tại vị suốt tám trăm năm hay hơn nhưng hề có ý định nghỉ hưu. Ngài Hereward bị mất cánh tay, người vẫn còn nguyên si bộ giáp trụ, bởi vì ngõ vào kiếp ma của ngài là kết cuộc của trong những trận chiến giành đất đai cuối cùng giữa Lâu Đài và Bến Cảng. Ngài là trong những con ma Jenna quý mến nhất và bé thấy an tâm khi có ngài đứng gác- ông hiệp sĩ già này có phong thái vui tính, ưa hài hước và, bất thường đối với Cổ Nhân, luôn cố lập lại mình quá thường xuyên.
      “Chào công chúa kiều. Có cái này hay lắm: con voi với trái chuối khác nhau thế nào?”
      “Cháu biết,” Jenna mỉm cười. “Vậy, con voi với trái chuối khác nhau thế nào?”
      “Ừm, thế tôi nhờ công chúa mua sắm giùm tôi đâu. Khà khà!”
      “Ôi… tức cười quá. Hi hi!”
      “Mừng là thích. Tôi biết mà. Chúc ngủ ngon, công chúa.” Ngài Hereward cúi đầu rồi ngẩng phắt lên đứng nghiêm, hãnh diện trở lại bổn phận của mình.
      “Chúc ngủ ngon, ngài Hereward.” Jenna đẩy cửa ra và lướt vào phòng mình.
      phải mất khá lâu Jenna mới làm quen được với căn phòng lộng lẫy khổng lồ này, sau mười năm toàn ngủ trong giường cũi, nhưng giờ bé rất nó, nhất là vào những lúc sẩm tối, khi mà căn phòng vừa rộng vừa dài, có bốn cửa sổ cao vọi nhìn ra những khu vườn Cung Điện này hứng ánh hoàng hôn. Nhưng giờ đây, trong cái giá lạng đêm thu, Jenna kéo những tấm rèm nhung nặng chịch che cửa sổ lại, làm cho căn phòng nhanh chóng chìm vào bóng tối. bé lần mò tới lò sưởi lớn xây bằng đá bên cạnh chiếc giường bốn cọc và đốt đống củi đẩ sẵn trong vỉ lò lên, dùng phép Thắp Sáng mà Septimus dạy trong sinh nhật vừa rồi của . Khi những lưỡi lửa nhảy múa tỏa hơi ấm khắp phòng, Jenna lên giường ngồi, quàng tấm chăn độn lông chim và cầm lấy quyển lịch sử gối đầu giường của mình- Chuyện Lâu Đài chúng ta.
      Mê mải với quyển sách, Jenna nhận thấy hình ma cao, gầy đét từ phía sau tấm rèm bao quanh giường ra. Thây ma đứng bất động, nhìn Jenna chằm chằm với vẻ bất bình chòng chọc trong đôi mắt tròn sáng quắc. Jenna bất chợt rùng mình trong vòng khí buốt thấu con ma phả ra, kéo sát chăn vào người hơn, nhưng vẫn ngẩn đầu lên.
      “Ta chẳng mất công đọc cái thứ rác rưởi về Nghiệp đoàn Hanseatic ấy làm gì,” giọng lảnh lót khoan xáy vào khí đằng sau vai trái của Jenna. bé giật mình đứng thót dậy như con mèo bị bỏng, buông rơi quyển sách, định kêu ngài Hereward bàn tay băng giá bịt chặt lấy miệng bé. Cú chạm của con ma tống luồng khí lạnh lẽo thẳng xuống buồng phổi bé và Jenna ngồi phịch xuống giường, ho rũ rượi. Con ma vẫn bình thản như . Mụ nhặt quyển sách lên đặt xuống giường sát bên chỗ Jenna ngồi cố lấy lại hơi thở.
      “Lật tới chương Mười ba, cháu ,” con ma ra lệnh. “ cần phí giờ đọc về bọn lái buôn tầm thường. Lịch sử duy nhất đáng đọc là lịch sử về những vị Vua và Nữ hoàng- mà về Nữ hoàng hay hơn. Ngươi đọc thấy ta ở trang hai trăm hai mươi. Nhìn chung nó miêu tả rất huy hoàng về triều đại của ta, tuy cũng có hay hai, ờm, vụ hiểu lầm, nhưng đấy là do dân quèn viết ra, vậy nên, ai mà thèm mong đợi điều gì ở đấy, hả?”
      Jenna rốt cuộc cũng ngừng ho, đủ để nhìn kỹ vi khách mời mà đến này. Mụ đúng mười mươi là con ma Nữ hoàng, lại là ma Cổ Nhân, Jenna chắc chắn thế căn cứ vào kiểu áo chẽn và viền cổ cao xếp nếp hồ cứng của mụ. Con ma, đến kinh ngạc đối với Cổ Nhân, đứng thẳng đơ thẳng đuột. Mái tóc xám xịt quấn thành hai bím cuộn áp vào hai cái tai nhọn hoắt, và đội chiếc vương miện vàng, kiểu dáng thô mộc.
      Đôi mắt tím rịm của mụ dán tịt vào Jenna đầy vẻ bất bình khiến Jenna bất giác cảm thấy như mình vừa phạm phải tội lỗi chi đó.
      “B… bà là ai?” Jenna lắp bắp.
      Nữ hoàng nóng nảy nhịp nhịp bàn chân. “Chương Mười ba, cháu . Ta bảo ngươi rồi. Ngươi phải lắng nghe. Tất cả nữ hoàng đều phải học lắng nghe.”
      Jenna thể tưởng tượng nổi bà nữ hoàng này lại chịu lắng nghe ai bao giờ, nhưng bé nín thít. Điều làm bé bận tâm là tại sao con ma này lại gọi mình là cháu . Đây là lần thứ hai mụ xưng hô như vậy. Chắc chắn con ma kinh khủng này làm sao có thể là bà ngoại của mình được? “Nhưng… tại sao bà cứ gọi cháu là cháu ?” Jenna hỏi, hy vọng mình nghe nhầm.
      “Bởi vì ta là bà tằng-tằng-tằng-tằng-tằng-tằng-tằng-tằng-tằng-tằng-tằng-tằng-tằng-tằng-tằng-tằng-tằng-tằng-tằng- tổ của ngươi. Nhưng ngươi hãy gọi ta bằng cụ tổ là được rồi.”
      “Cụ tổ!” Jenna thốt lên, kinh khiếp.
      “Đúng. Vậy là hoàn toàn thích hợp. Ta cần ngươi phải gọi đủ tước vị của ta.”
      “Tước vị đầy đủ của bà là gì?”
      Con ma nữ hoàng sốt ruột thở ra cái phùùù và Jenna cảm thấy hơi thở băng giá của mụ thổi tung tóc mình. “Chương Mười ba. Ta nhắc lại nữa,” mụ cách ác nghiệt. “Ta thấy là ta chưa thể tới thoáng thoáng rồi ngay được. Ngươi cần chỉ bảo trầm trọng. Mẹ của ngươi phải chịu trách nhiệm vì chểnh mảng trong việc dạy dỗ ngươi về hoàng gia và về những phép tắc cư xử.”
      “Mẹ cháu là người thầy tuyệt vời,” Jenna phẫn nộ phản đối. “Bà ấy chểnh mảng bất cứ điều gì cả.”
      “Mẹ… mẹ? Mẹ… là mẹ nào?” Nữ hoàng ránh tỏ ra vừa bối rối mà vẫn vừa bất bình cùng lúc. Kỳ thực, suốt bao thế kỷ qua mụ hoàn thiện được nghệ thuật cao siêu là pha trộn tất cả mọi cảm xúc vào vẻ bất bình cố hữu của mụ, đến mức mà, ngay cho dù mụ có muốn chăng nữa, mụ cũng thể nào bứt rời chúng ra khỏi nhau được. Nhưng mụ hề muốn tách các cảm xúc khỏi vẻ bất bình. Mụ hạnh phúc với cái vẻ bất bình của mình, vấn đề là vậy.
      “Mẹ là mẹ. Tức là mẹ cháu,” Jenna cáu kỉnh.
      “Tên bà ta là gì, ?” Con ma hỏi, ngó trừng trừng xuống Jenna.
      phải việc của bà,” Jenna cấm cẳn đáp lại.
      “Phải Sarah Heap ?”
      Jenna cố ý trả lời. Con bé hằm hằm nhìn lại con ma, quyết đuổi mụ .
      , , ta đâu, cháu . Ta có bổn phận phải cân nhắc. Cả hai chúng ta đều biết Sarah Heap này phải là mẹ của ngươi”.
      “Với cháu phải,” Jenna làu bàu.
      “Ba cái hiểu biết ngươi thu nạp đó, cháu , chẳng để làm gì sất. là mẹ của ngươi, hoặc hồn ma của ta, ngồi tháp đó, làm ngơ dạy dỗ cho ngươi có được giáo dục xứng tầm hoàng gia, vì vậy mà ngươi hay lung tung như con của kẻ tiện dân đầy tớ hơn là công chúa uy quyền. Thế mới ô nhục. Ô nhục làm sao- chính đó là điều ta phải ra tay chấn chỉnh, vì lợi ích Lâu Đài của ta… và Cung Điện của ta- nơi biến thành chốn lầm than, dốt nát như nông nỗi này đây.”
      “Đây phải là Lâu Đài của bà, cũng phải Cung Điện của bà,” Jenna phản kháng.
      “Đó, cháu , là điều ngươi lầm to. Trước kia nó là của ta, và chẳng bao lâu nữa nó lại là của ta.”
      “Nhưng…”
      “Đừng ngắt lời. Ta rời ngươi đây. quá giờ ngủ của ngươi lâu rồi.”
      , chưa quá,” Jenna điên tiết.
      “Vào thời của ta, tất cả mọi công chúa đều phải ngủ lúc 6 giờ cho đến khi họ trở thành nữ hoàng. Chính ta hàng đêm đều ngủ lúc 6 giờ cho đến khi ta ba mươi lăm tuổi, vậy mà ta có bao giờ bị tổn hại vì điều đó đâu.”
      Jenna bạt xiêu hồn vía nhìn con ma. Bỗng nhiên, bé mỉm cười trước ý nghĩ rằng mọ người trong Cung Điện thời đó, cách đây lâu lâu rồi, hẳn nhõm biết chừng nào sau 6 giờ trở .
      Nữ hoàng diễn giải sai nụ cười của Jenna. “A ha, cuối cùng ngươi cũng hiểu rồi, cháu . Ta rời ngươi ngay để ngươi còn ngủ bởi vì ta còn việc quan trọng phải can dự. Ngày mai ta lại gặp ngươi. Giờ ngươi có thể hôn chúc ta ngủ ngon được rồi”.
      Trông Jenna khiếp đảm đến nỗi mụ nữ hoàng phải lùi lại bước và bảo, “Hừm, xem ra, ta thấy ngươi chưa quen với cụ tổ thân của ngươi. Chúc ngủ ngon, cháu .’
      Jenna đáp.
      “Ta bảo chúc ngủ ngon, cháu . Ta chừng nào ngươi chưa chúc ta ngủ ngon.”
      Im lặng căng thẳng cho đến khi Jenna quyết định mình chịu nổi cảnh đứng chết trân nhìn con ma mũi nhọn nữa. “Chúc ngủ ngon,” lạnh trơ.
      “Chúc ngủ ngon, cụ tổ,” con ma chỉnh lại.
      “Tôi bao giờ gọi bà là cụ tổ,” Jenna , và cả người, con ma bắt đầu mờ .
      “Rồi ngươi phải,” con ma quẳng lại cái giọng khoan xoáy vào trung. “Ngươi phải…”
      Jenna chộp lấy cái gối, sùng tiết ném theo cái giọng ma kia. có phản hồi- con ma rồi. Làm theo lời khuyên của dì Zelda, Jenna đếm đến mười chậm cho đến khi cảm thấy hồi tâm lại, xong cầm quyển Chuyện Lâu Đài chúng ta lên, hấp tấp lật những trang sách dày vàng vọt đến chương Mười ba. Cái chương có tựa đề: “Nữ hoàng Etheldredda bạo chúa”.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 4. Quán rượu Hốc Tường

      Trong khi Jenna ngồi đọc chương Mười ba Septimus Heap, Học Trò của Pháp sư Tối thượng cũng bất chợt nảy ra ý muốn đọc cái thứ mà nó hề định đọc. Bà Marcia Overstrand, Pháp sư Tối thượng của Lâu Đài tạm thời đành rút lui khỏi trận cãi vã trong bếp giữa bình cà phê và bếp lò. Bực điên người, bà bỏ mặc chúng đó để kiểm tra cậu Học Trò của mình. Bà tìm thấy thằng trong thư viện Kim Tự Tháp, lặn hụp trong chồng sách giáo khoa cũ rách tơi tả.

      “Chính xác là con làm gì thế?” Bà Marcia tra hỏi.

      Septimus giật thót mình tẽn tò đứng lên, vội đẩy tập giấy xuống dưới quyển sách mà đáng lý ra nó phải đọc. “ làm gì ạ,” nó láp váp.

      “Đó chính xác là điều ta nghĩ con làm,” bà nghiêm khắc. Bà dò xét thằng Học Trò, cố gắng, nhưng xem ra thành công, giữ vẻ nghiêm nghị. Trong ánh mắt xanh lá cây thông minh của Septimus thoáng có nét hoảng hốt và mái tóc quăn màu rơm của nó rối bù, theo kiểu bà Marcia biết là tại nó xoắn vặn tóc trong khi tập trung. “Để phòng trường hợp nó thoát khỏi trí nhớ của con rồi, ta nhắc là con phải ôn tập để kiểm tra Thực hành Tiên tri vào sáng mai đấy. Đừng phí phạm thời gian đọc cái đống cũ rích năm trăm năm đó nữa.”

      phí phạm đâu ạ,” Septimus phản bác. “Nó…”

      “Ta biết nó mười mươi nó là cái gì. Ta dặn con hoài. Giả Kim Thuật(3) là đồ nhảm nhí và hoàn toàn mất thời gian. Thà con luộc vớ của con rồi chờ chúng biến thành vàng còn hơn.”

      “Nhưng con đọc về Giả Kim thuật,” Septimus phản đối. “Con đọc về Y thuật.”

      “Có khác gì nhau,” bà Marcia . “Là Marcellus Pye chứ gì?”

      “Dạ phải. Ông ấy giỏi lắm.”

      “Lão ấy chẳng ích lợi gì hết, Septimus.” Bà Marcia lần xuống dưới quyển Những Nguyên lý Tthực hành Tiên tri Cơ bản mà Septimus vừa luýnh quýnh đặt lên cùng, và rút ra thếp giấy vàng vọt, bở bùng bục đầy những dòng chữ cụt lủn, mờ mịt. “Ái chà chà. Đây chỉ là những ghi chú của lão ấy thôi.”

      “Con biết. Tiếc là quyển sách của ông ấy biến mất.”

      “Hừmm. Đến giờ con phải ngủ rồi. Ngày mai còn dậy sớm nữa. Đúng bảy giờ bảy phút, chậm giây. HIểu chứ?”

      Septimus gật đầu.

      “Ừ, thế .”

      “Nhưng, thưa bà Marcia…”

      “Hả?”

      “Con mê thích Y thuật. Mà Marcellus lại kiệt xuất nhất về nó. Ông ấy biết tất cả các loại thuốc và những phương pháp trị bệnh hữu dụng, ông ấy cũn ghiểu tại sao con người mắc bệnh. Bà nghĩ con có thể học về nó được ?”

      ,” bà Marcia thẳng thừng. “Con cần nó, Septimus. Pháp thuật có thể làm được tất cả những gì Y thuật làm.”

      “Nhưng nó chữa được dịch bệnh,” Septimus bướng bỉnh.

      Bà Marcia dẩu môi. Septimus phải là người đầu tiên chỉ ra điều này. “Được chứ,” bà khăng khăng. “Chữa được mà. Ta chỉ phải nghiên cứu thôi… Cái gì thế?” tiếng xoảng chói tai vọng tới từ nhà bếp cách hai tầng lầu bên dưới và bà Marcia vọt biến .

      Septimus thở dài. Nó cất xấp giấy của Marcellus trở vào chiếc hộp cũ nó tìm thấy trong xó bụi, thổi tắt nến và xuống lầu ngủ.

      Septimus ngủ chập chờn. Cả tuần nay đêm nào nó cũng mơ đúng cơn ác mộng về kỳ kiểm tra đó, và đêm nay cũng ngoại lệ. Nó mơ thấy mình thi trượt, bị bà Marcia đuổi bắt, và ngã vào ống khói, rơi xuống, rơi, rơi mãi… Nó cố tóm víu vách tường để ngừng rơi nhưng vẫn cứ rơi… rơi… rơi… vô tận.

      “Vật nhau với chăn mền hả, Septimus?” giọng quen thuộc cất vang vang từ ống khói. “Trông như con đánh mất cái gì vậy,” vẫn giọng đó kèm theo tiếng cười khà. “Đắp tới hai cái mền là chẳng thông ming đâu, chàng trai. còn được, chứ hai thảo nào chúng kéo bè ăn hiếp con. Cái lũ chăn mền ác ôn.”

      Septimus cố bứt mình ra khỏi giấc mơ và ngồi dậy, thở dốc trong luồng khímua2 thu lạnh ngắt theo ngài Alther Mella vào phòng qua đường cửa sổ.

      “Con ổn chứ?” Ngài Alther lo lắng hỏi. Con ma ngồi thoải mái xuống giường Septimus.

      “É… é… gì ạ?” Septimus lúng búng, khó nhọc tập trung vào hình hài hơi trong suốt , bâng của ngài Alther Mella, cựu Pháp sư Tối thượng, vị khách quen của tháp Pháp sư. khó nhìn thấy ngài Alther như mấy con ma già trong Lâu Đài, nhưng đêm đến, lớp áo thụng màu tía phai của ngài rất dễ nhòa tan vào cảnh vật, và ánh sáng lù mù càng khiến ta khó thấy vệt máu màu nâu sậm nơi tim của ngài, cái vệt máu mà Septimus luôn bị hút mắt vào, bất chấp nó có cố cưỡng lại thế nào chăng nữa. Đôi mắt xám xanh lá cây già nua của ngài Alther nhìn đứa Học Trò cưng của mình với vẻ điềm tĩnh và hiền từ.

      “Lại ác mộng đó à?” Ngài Alther hỏi thăm.

      “Ừm. Dạ phải,” Septimus thú nhận.

      “Lần này con có nhớ dùng bùa Khinh Công ?”

      ạ. Có lẽ lần sau con nhớ. Có điều con hy vọng đừng có lần sau nữa.. giấc mơ khủng khiếp.” Septimus rùng mình kéo trong những tấm mền khó bảo lên tận cằm.

      “À… àm. Giấc mơ đến với chúng ta đều có lý do cả. Có khi nó báo cho ta về điều ta cần biết,” ngài Alther đăm chiêu, trôi lều phều lên khỏi gối và duỗi thẳng người ra cùng với tiếng rên rẩm của ma. “Nào, ta nghĩ có lẽ con thích chuyến ngắn xuống nơi mà ta biết là xa đây lắm.”

      Septimus ngáp. “Nhưng còn bà Marcia sao?” Nó hỏi với giọng ngái ngủ.

      “Bà Marcia lại tái phát cơn nhức đầu nữa rồi,” ngài Alther bảo. “Ta cả hiểu sao ấy mất công nổi tam bành với cái bình cà phê ngang ngược đó. Phải ta ta vứt quách nó từ lâu rồi. ấy ngủ rồi nên cần quấy rầy ấy. Vả lại, chúng ta trở về trước khi ấy biết chúng ta .”

      Septimus muốn ngủ tiếp, sợ lại mơ nữa. Nó lảo đảo ra khỏi giường và khoác chiếc áo chẽn Học Trò bằng len- được xếp ngay ngắn ở thành giường đúng cách như nó để đồng phục Thiếu sinh quân hàng đêm trong suốt mười năm đầu đời của nó- và thắt đai lưng bạc của Học Trò vào.

      “Sẵn sàng chưa?” Ngài Alther hỏi.

      “Sẵn sàng,” Septimus đáp. Nó hướng ra cửa sổ mà ngài Alther khiến cho mở lúc ngài tới. Leo lên bậu cửa sổ thông thổng bằng gỗ và đứng hẳn trong khung cửa sổ mở, nhìn xuống kkhoảng dựng đứng hai mươi mốt tầng, việc mà cách đây vài tháng trong mơ nó cũng dám làm, bởi vì nó vốn sợ độ cao. Nhưng bây giờ Septimus còn sợ nữa, căn nguyên là nhờ cái vật mà nó nắm chắc trong bàn tay trái của mình- bùa Khinh Công.

      Septimus cẩn thận cầm lấy mũi tên bằng vàng có chùm đuôi bạc tinh tế ra cầm giữa ngón trỏ với ngón cái. “Chúng ta đâu?” Nó hỏi ngài Alther- ngài lượn lờ trước mặt nó, mải lo hoàn thiện cú nhảy giật lùi.

      “Hốc Tường,” ngài Alther đáp, lộn ngược đầu xuống đất. “ nơi tuyệt vời. Đáng lẽ ta phải cho con biết về nó rồi.”

      “Nhưng đó là quán rượu,” Septimus phản đối. “Con còn quá để vào quán rượu. Bà Marcia bảo nơi đó toàn…”

      “Dào, con để ý những điều Marcia rủa xả về quán rượu làm gì,” ngài Alther bảo nó. “marcia cómo65t học thuyết rất lạ đời rằng thiên hạ tới quán rượu chỉ để xấu sau lưng ấy. Ta bảo ấy là người ta còn thiếu gì thứ thú vị hơn ấy nhiều để mà thảo luận- như giá cá tép chẳng hạn- nhưng ấy tin ta.”

      Ngài Alther lộn lên trở lại và giữ thăng bằng tại chỗ ngay trước mặt Septimus. Con ma ngắm cái thân hình mảnh khảnh bậu cửa sổ, mái tóc xoăn thổi tốc trong gió rít quanh đỉnh tháp Pháp sư, đôi mắt xanh lá cây lóa lên ánh sáng Pháp thuật khi bùa Khinh Công ấm lên trong tay nó. Dẫu đích thân ngài Alther hướng dẫn Septimus thực hành Khinh Công suốt ba tháng qua- kể từ khi thằng bé tìm thấy bùa Khinh Công- nhưng ngài vẫn thấy chờn chợn khi nhìn thằng bé đứng độ cao chết người này.

      “Ngài bay trước ạ,” Septimus , giọng bị gió đánh bạt.

      “Hả?”

      “Ngài bay trước được chứ, thưa ngài Alther?”

      “Được. Nhưng trước tiên ta phải nhìn con xuất phát . Để bảo đảm con làm đúng và giữ được thăng bằng.”

      Septimus phản đối. Nó thích bay cùng với ngài Alther, và hồi đầu mới tập Khinh Công, nó hay hai lần mừng húm vì có lời khuyên của con ma, trong đó đáng nhớ nhất là cú đáp kinh hoàng suýt đâm sầm xuống mái Văn phòng Sao lục. Lần ấy Septimus định bụng khoe tài với bạn Beetle, nhưng hên nhờ ngài Alther tạo làn khí dâng lên đột ngột, đỡ lấy Septimus và đưa nó an toàn xuống sân sau. Thoát nạn, Septimus hó hé gì đến chuyện tạo ấn tượng nữa.

      Bùa Khinh Công bắt đầu nóng ran trong tay Septimus. Giờ xuất phát điểm rồi. Hít vào hơi sâu, Septimus quăng mình vào màn đêm. Trong khoảnh khắc, nó cảm thấy trọng lực nặng như chì lôi tuột thân mình về phía mặt đất, và rồi điều nó thích xảy ra: lực kéo xuống biến mất và nó tự do, tự do như chim bay vút lên, nhào lộn và xoáy tít bầu trời đêm, được bùa Khinh Công nâng đỡ an toàn. Ngay lúc bùa Khinh Công kích hoạt, ngài Alther thả lỏng người, bay vượt lên trước Septimus, cánh tay dang rộng như đôi cánh chim ưng lướt gió, trong khi Septimus theo sau loạng choạng hơn, cố thử những chiêu mới- vượt chướng ngại vật hình dích dắc.

      Họ lao đến quán Hốc tường cái bùm- hay đúng hơn chỉ có Septimus rớt cái bùm. Ngài Alther xuyên thẳng qua bức tường, bỏ lại Septimus áp dụng kỹ thuật vượt chướng ngại vật hình dích dắc và đáp phịch vô đám bụi rậm mọc kín lối vào xiêu vẹo của quán rượu.

      Vài phút sau ngài Alther quay trở ra thấy septimus lồm cồm chui khỏi bụi rậm. “Xin lỗi, Septimus,” ngài Alther áy náy. “Ta vừa gặp Olaf Snorrelssen xong. tay dẽ mến đó. lái buôn phương Bắc, bao giờ về được nhà đẻ nhìn mặt đứa con mới sinh của mình. Buồn thảm thiết. u sầu khôn nguôi, nhưng là người tốt. Ta luôn bảo hãy bứt khỏi đây mà thăm thú Lâu Đài , nhưng chả đâu được ngoài khu Chợ Phiên và quán Cá Bơn. Cho nên đành ngồi tịt ở đây ngó vại bia của mình.”

      Septimus phủi mấy chiếc lá dính vào áo chẽn, nhét bùa Khinh Công trở lại đai lưng Học Trò và khảo sát lối vào Hốc Tường. Nó thấy nơi này chả có chút gì giống quán rượu. Trông như đống đá đắp vào chân tường Lâu Đài hơn. thấy vết tích cửa ra vào đâu. Mà thực ra cũng có cửa, có cả những cửa sổ sáng choang, mời gọi mà Septimus quen thấy ở các quán rượu, bởi vì, làm gì có cửa sổ. Trong khi Septimus bán tín bán nghi ngài Alther chơi khăm mình , con ma nữ tu bay sượt qua.

      “Chào ngài Alther,” nữ tu cất giọng du dương.

      “Chào xơ Bernadette,” ngài Alther cười tươi đáp lại. Bà xơ vẫy ngài cái tình tứ rồi biến vụt vào đống đá. Có hiệp sĩ đeo băng treo cánh tay bám theo bà, ông này cẩn thận cột con ngựa khập khiễng của mình vào cây cột vô hình rồi lết vào bụi rậm nơi Septimus vừa cố thoát ra. “Xem ra đêm nay là đêm bận rộn đây, chúng ta có vài vị khách mới,” ngài Alther tư lự, gật đầu kiểu cách chào ông hiệp sĩ.

      “Nhưng… họ la ma mà,” Septimus bảo.

      “Phải, dĩ nhiên họ là ma. Đó là bản chất của quán rượu này. Mọi con ma đều được đón tiếp nồng hậu ở đây; nhưng người sống phải có lời mời mới vào được. dẽ gì nhận được lời mời đâu đấy, ta cam đoan với con thế. Ít nhất phải có hai con ma mời lúc. Đương nhiên, bao năm rồi cũng có vài kẻ hấp hơi chuồn vào, nhưng nơi này vẫn là nơi tuyệt mật.”

      Có ba vị Pháp sư Tối thượng Cổ Nhân mờ nhạt vừa tới, bít lối vào vì bận lưỡng lự xem ai qua trước. Septimus lễ phép gật đầu chào họ và hỏi ngài Alther, “Thế con ma kia mời con là ai vậy?”

      Ngài Alther, mải nhìn ba vị Pháp sư Tối thượng cười khề khà quyết định vào chung lượt, nên trả lời. “, theo ta nào cưng,” ngài rồi tan biến qua bức tường. lát sau ngài Alther trở lại và giục giã, “Mau lên, Septimus, nên để N hoàng Etheldredda chờ.”

      “Nhưng con…”

      “Cứ lách qua bụi rậm rồi vòng ra sau đống đá. Con tìm thấy lối vào.”

      Septimus ép mìnhchui qua bụi rậm, mò mẫm trong ánh sáng trợ giúp từ chiếc Nhẫn Rồng nó đeo ở ngón trỏ tay phải; nó thấy lối chật hẹp đằng sau đống đá, dẫn nó tuồn sâu vào gian rộng, thấp, khuất bên trong bức tường thành Lâu Đài- quán rượu Hốc Tường.

      Septimus bàng hoàng sửng sốt- chưa bao giờ trong đời nó thấy nhiều ma tụ tập lại chỗ đến thế. Septimus quen thấy ma quanh Lâu Đài, bởi nó vốn dĩ là típ bé trai nhạy cảm mà ma rất thích Hình với nó; kể từ khi khoác bộ áo thụng xanh lá cây của Học Trò Pháp sư Tối thượng, Septimus để ý thấy thậm chí còn nhiều ma muốn Hình với mình hơn. Thế nhưng trong bầu khí xuề xòa của quán Hốc Tường- cộng với việc nó cùng với ngài Alther, trong những khách quen nổi tiếng nhất nơi này- có điều gì đó hàm ý rằng hầu hết ma đều muốn để cho Septimus trông thấy họ. Quả là khung cảnh choáng sốc: những con ma Pháp sư Tối thượng mang phong thái bình dân, tất cà đều diện áo thụng màu tía nhưng đủ kiểu khác nhau, phản ánh mốt thời trang qua nhiều thời đại- Septimus thường thấy những kiểu áo này loanh quanh Cung Điện và tháp Pháp sư. Lại còn số lượng công chúa và nữ hoàng đông đến kinh ngạc. Tuy nhiên cũng có nhiều con ma mà Septimus chưa từng thấy bao giờ: những hiệp sĩ cùng tiểu đồng, những nông dân dắt theo vợ, rồi thủy thủ và nhà buôn, thợ chép và học giả, kẻ lang thang và thợ hàn nồi, và tất tật các tầng lớp cư dân của Lâu Đài trong suốt mấy ngàn năm qua, ai nấy đều bưng đúng chiếc cốc vại mà quán Hốc Tường phục vụ họ trong lần đầu tiên đến quán và bao giờ cần phải rót đầy lại.

      Tiếng chuyện u u kiểu ma chiếm lĩnh bầu khí, tiếp nối những cuộc đàm đạo bắt đầu từ nhiều thiên niên kỷ trước theo cung cách lờ lững, uể oải. Nhưng ở góc xa tít kia, có hình ma vương giả nghe thấy tiếng bước chân ngập ngừng của thằng bé còn sống len lỏi qua đám đông. Mụ liền đứng dậy khỏi chiếc ghế bên cạnh đống lửa và lướt ào ào qua biển ma, và biển ma ấy kính cẩn rẽ đường cho mụ .

      “Septimus Heap,” Nữ hoàng Etheldredda nghiến ngấu. “Trễ năm phút rưỡi, nhưng sao. Ta đợi năm trăm năm rồi. Theo ta.”

      *** (3) Giả Kim thuật có lịch sử hàng mấy nghìn năm, ảnh hưởng sâu sắc đến khoa học kỹ thuật cũng như đời sống loài người thời cổ. Theo đó, người Hy Lạp và người Ả Rập cổ cố công luyện kim loại thường thành vàng, trong khi người Trung Quốc lại cố luyện đan, tìm kiếm thuốc trường sinh bất lão –ND.

      Chương 5 Nữ hoàng Etheldredda

      Septimus lập tức nhận ra mình bị chèn giữa hai con ma bên chiếc bàn dài ở cuối quán rượu. Đây là điều mà lúc tối ngủ nó hề ngờ tới, nhưng sau mười tám tháng là Học Trò của bà Marcia, nó học cách bất ngờ trước bất kỳ điều gì- ngoại trừ điều bất ngờ.

      Mặc dù Septimus biết mình hề bị chèn ép gì cả, nhưng nó vẫn cảm thấy bị bẹp dí khi ngồi giữa ngài Alther và nữ hoàng Etheldredda, cố thót mình để chạm vào ai- nhưng nó sao rũ được cảm giác ớn xương khi đôi cùi trỏ nhọn hoắt của nữ hoàng Etheldredda đâm vào mình.

      Septimus ngọ nguậy nhích xa khỏi mụ, bởi vì Xuyên Qua ma là điều thất lễ cực kỳ, mà nó ngờ rằng bà nữ hoàng này thể nào cũng có lời về vụ đó.

      ra nữ hoàng Etheldredda vốn ưa có lời về tất cả mọi thứ. Mụ ngồi cao, thẳng đơ và chọc ánh mắt tím rịm vào Septimus, ngầm nghiêm khắc bảo nó phải tiếp thu ý kiến của mụ tới nơi tới chốn: “Cái nơi gì toàn bọn bần dân hạ tiện, Học Trò, đông nhung nhúc. Coi tên ăn mày già khú đế ngáy dưới gầm bàn kìa. Khủng khiếp, nơi khủng khiếp. Chắc chắn ta phải có biện pháp chấn chỉnh nơi này. Còn hành vi cư xử của lũ nữ hoàng trẻ đằng kia nữa chứ- thích hợp tí nào.” Ngay lúc tiếng cười khúc khích rộ lên từ cái bàn bốn nữ hoàng trẻ ngồi (tất cả họ đều mất khi sinh con). Nữ hoàng Etheldredda cong môi lên bất bình. “Ta biết Alther Mella nghĩ sao mà đưa ngươi tới đây. Vào thời ta trị vì, Học Trò của Pháp sư Tối thượng được ra ngoài nếu có pháp sư bảo mẫu hộ tống, mà đó là chỉ tới Cung Điện thi hành nhiệm vụ chính thức thôi đấy. Trẻ nít tuổi ngươi là phải ngủ rồi, chứ phải ngả ngớn ở cái hốc chè chén say sưa như thế này.”

      Septimus phiền lòng trước những lời lẽ của nữ hoàng Etheldredda, bởi vì mụ gợi cho nó chút hơi hướm về bà Marcia, nhưng ngài Alther coi bộ nổi sùng. “Muôn tâu lệnh bà,” ngài cáu kỉnh, “có lẽ lệnh bà nên nhớ là do ý muốn- chính xác là do mệnh lệnh- của lệnh bà ra lệnh cho tôi phải đánh thức cậu Học Trò trẻ này dậy và đưa cậu ta tới đây. Lệnh bà bảo rằng có điều hệ trọng liên quan tới cậu ta- vấn đề sinh tử- mặc dù lệnh bà khước từ cho tôi biết đó là điều gì. Chính lệnh bà hai đòi cậu ta phải đến quán rượu này. Tôi chắc chắn với lệnh bà rằng quý bà Marcia Overstrand đời nào cho phép Học Trò của mình léo hánh đến quán rượu giữa đêm hôm, ra, vào bất kỳ thời điểm nào ban ngày đâu.”

      Septimus nín thở. Liệu nữ hoàng phản ứng thế nào?

      Nữ hoàng Etheldredda lúc. Sau đó mụ chồm người xuống Septimus, và nó cảm nhận hơi thở băng giá phớt qua má nó khi mụ thào vào tai nó, “Marcellus Pye, tại Bờ Trượt Rắn, nửa đêm, hãy đến đó.” xong nữ hoàng đứng dậy khỏi băng ghế quán rượu mà như rời khỏi ngai vàng của mình. Mụ sột soạt vuốt thẳng cái đuôi váy, đầu ngẩng cao ngất, bước vào lò sưởi và biến mất.

      “Phù,” ngài Alther lớt đớt. “ điên rồ…”

      “Marcellus Pye?” Septimus làm xàm, cảm thấy kích động vô cùng.

      Hai nữ tu ngồi bên canh nó, ngay chỗ nữ hoàng Etheldredda vừa ngồi. bà nhìn Septimus cách ngờ vực và lào xào, “Chớ nông nỗi mà ra cái tên đó, chú bé.”

      Septimus ngậm miệng luôn, nhưng ý nghĩ cứ quay mòng mòng trong đầu nó. Tại sao con ma Marcellus Pye muốn gặp mình? Suy cho cùng chưa ai từng bao giờ trông thấy con ma ấy. Lẽ nào… Septimus rùng mình trước ý nghĩ ấy… con ma Thấy mình đọc xấp giấy ghi chú hồi chiều nên quyết định Hình với mình. Nhưng tại sao lại chọn Bờ Trượt Rắn? mà vào nửa đêm?

      Ngài Alther để ý thấy Septimus đắm chìm trong suy nghĩ, “Bà ấy vừa gì vậy?” Ngài thào.

      Septimus lắc đầu, muốn lại làm các bà xơ bực bội.

      Thình lình ngài Alther cảm thấy mệt rũ người. “Về thôi, Septimus, nào.” Ngài thở dài rồi đứng lên. Septimus theo sau, cẩn thận chen ngang qua hai bà xơ. Ngài Alther thấy bất an trước xuất đột ngột của nữ hoàng Etheldredda. Trước giờ ai thấy mụ ở Cung Điện, với lại ma đâu thường thoắt thoắt ra rồi thoắt biến mất, nhất là ma già, họ thường ngủ yên lành trong chiếc ghế nhiều năm, hề thức dậy, trong ngài chưa từng thấy con ma nào sau khi gia nhập kiếp ma nhiều thế kỷ mới xuất . Có gì đó rất kỳ cục, ngài Alther nghĩ, rất quái lạ về nữ hoàng Etheldredda. Giờ ngài ước gì mình đừng đưa Septimus tới gặp mụ.

      Septimus thận trọng theo ngài Alther về phía lối ra, đúng cái hốc trong bức tường, qua đó Septimus có thể thấy ánh trăng lấp lánh. Tiếng chuyện trò kiểu ma chợt lắng đọng khi cậu Học Trò còn sống của Pháp dư Tối thượng luồn lách qua rừng ma đủ cấp hạng. Có con ma lùi hẳn lại nhường cho Septimus qua rồi mới tiếp tục câu chuyện phiếm của mình; có con ma ngừng sững lại dở chừng, dõi d0o6i mắt héo hon nhìn theo dáng của Septimus. vài con ma thậm chí tỏ ra đăm chiêu, bồi hồi nhớ lại cái thời mình còn là thằng bé 11 tuổi, linh hoạt, có thể hít thở; rất nhiều con ma mờ tựa khói sương, lạc hẳn vào kiếp ma và nhìn người sống như sinh vật lạ, chẳng liên quan gì đến mình. Nhưng con ma nào bị Septimus Xuyên Qua khi nó xin quành qua họ. Cuối cùng nó chui qua bụi rậm, ra khỏi quán rượu, thở phào nhe nhõm.

      “Thế, bà ta gì vậy?” Ngài Alther hỏi lại. Ngài và Septimus lối tắt qua xóm Xưởng Dệt, mảnh sân , bao quanh là những cụm nhà cũ nát, nơi cư ngụ của các gia đình làm nghề dệt vải. Nến thắp sáng từ những cửa sổ được trang trí điệu đàng bằng đủ kiểu rèm cửa và vải vụn lạ mắt, nhưng mọi cửa ra vào đều khóa và chặn kín, mảnh sân yên ắng đến độ Septimus có thể nghe thấy tiếng tích tắc của chiếc Đồng hồ thợ dệt khổng lồ trong tháp đồng hồ phía tòa nhà trụ sở.

      “Nữ hoàng bảo con phải gặp Marcellus Pye ở Bờ Trượt rắn đêm nay,” Septimus đáp ngay lúc chiếc Đồng hồ lớn bắt đầu điểm mười giờ và cái chuông xíu của nó dội vang khắp mảnh sân. Binh, boong, binh, boong…

      “Con nên làm điều như vậy,” ngài Alther tuyên bố khi đồng hồ vừa ngừng rung và khối hình nhân vui nhộn vừa trình bày xong tiết mục biểu diễn của mình và nối đuôi nhau trở vào trong. “Bà ta bị loạn óc đấy, Septimus, chắc chắn là loạn óc toàn phần. Vả lại ta chưa bao giờ thấy con ma Marcellus Pye cả. Vấn đề là đôi khi ma hay ảo tưởng về quyền thế của mình, Nhất là với những con ma Hoàng gia. Họ nghĩ mình có thể khống chế cả người sống. Ra lệnh này nọ như họ quen làm khi còn dương trần. Dĩ nhiên họ chỉ tổ tự mình gây phiền phức thôi. Dường như thể bỏ được cái thói ấy, thế mới rầy rà. Tốt nhất là cứ mặc kệ họ và hy vọng họ tự lánh mặt. Dứt khoát con phải làm như thế, cậu bé à. Ta nghĩ con biết cái ông Pye này là ai phải?”

      “Dạ biết,” Septimus đáp.

      Ngài Alther gật đầu công nhận. “Ta nghĩ đúng mà. Đọc về môn phái đó cũng hay. Nhưng tốt nhất đừng cho Marcia biết. ấy rất có ác cảm với Giả Kim thuật.”

      “Con biết.” Septimus thở dài.

      “Ông Marcellus ấy chỉ là nhà giả kim mà còn là lang y giỏi. Tiếc là chúng ta thất truyền số kiến thức ông ấy biết thời đó. Chứ bây giờ chúng ta có thể áp dụng rồi.”

      Họ hối hả dọc theo Ngõ Phụ ăn thông ra đường Pháp sư. Ngõ Phụ là con đường hẹp, hai bên là những chòi cao làm nơi nhuộm vải, đầy chỉ với sợi treo lòng thòng. Giờ này dãy xưởng nhuộm tối đen và im lìm, ngột ngạt mùi thuốc nhuộm khó chịu trong khí đứng gió. Septimus bận tâm bịt mũi thở ra đằng miệng đến nỗi nghe thấy tiếng vuốt thú lột sột ở đằng trước, và tiếng cái răng nhọn như kim kêu lách cách phóng xuống, sẵn sàng phập

      Cả Septimus lẫn ngài Alther đều để ý thấy hai con mắt tròn đỏ lòm ló ra khỏi ống cống, lớp chớp và nheo lại trước ánh sáng bạc từ cột đuốc bên ngoài nhà số 13 đường Pháp sư. Nhưng họ nghe thanh vừa to vừa cấp bách hơn: tiếng những bước chân dội vào tường ngõ phụ, lao về phía họ.

      Ngài Alther liếc nhìn Septimus và ra hiệu tới ngách giữa hai chòi nhuộm. Trong nháy mắt cả hai núp kỹ trong bóng tối, nhỏng tai nghe tiếng những bước chân rầm rập tới.

      ràng có kẻ móc túi rình rập,” ngài Alther thầm. “Khôn hồn ta đừng giở trò gì. Đêm nay ta có tâm trạng vui.”

      Septimus đáp. Giờ tiếng bước chân chậm lại- nghe như họ ngại ngần tới cái hốc Septimus và ngài Alther núp. Sau đó những bước chân dừng lại.

      Bất ngờ, trước kinh hoàng của ngài Alther, Septimus nhảy xổ ra.

      Sarah Heap giật mình thét lên, đánh rơi tóe cái rổ xuống. Thôi chai lọ trong rổ lăn ra tứ phía.

      “Mẹ!” Septimus gọi. “Con và ngài Alther đây mà.”

      Sarah Heap trố mắt nhìn họ, tin nổi. “Các vị làm cái trò gì ở đây? tình Septimus, con làm mẹ vỡ tim mất. Ngài Alther nghĩ gì mà tha con qua những ngõ hẻm bất trắc vào giữa đêm hôm khuya khoắt thế này?”

      sao đâu mẹ. Chúng con đường về đây. Chúng con chỉ tới quán rượu Hốc Tường,” Septimus giải thích vừa đuổi theo đống chai lọ để nhặt chúng lại vào rổ cho mẹ.

      “Quán rượu?” Sarah Heap thất kinh hồn vía. “Ngài Ather dẫn con quán rượu… vào ban đêm? Ngài Alther”- câu này được với con ma bay phập phều ngõ hẻm, cố cam chịu cái buổi tối nhanh chóng chuyển từ dở đến tệ này- “ngài Alther, ngài nghĩ ngài làm gì thế? Khi mà dịch bệnh hoành hành thế này?”

      Ngài Alther thở dài. “Ngày mai ta giải thích, Sarah à. Mặc dù ta có thể hỏi câu tương tự với bà. Bà làm gì mà mang đống thuốc nước của bà bằng ngõ sau thế kia?”

      Sarah trả lời. Bà lo xem xét coi đám chai lọ có bị bể . “Cảm ơn, Septimus,” bà khi nó trao cho bà cái chai cuối cùng.

      “Nhưng mẹ đâu vậy,” Septimus hỏi.

      đâu á?” Sarah Heap hỏi mà như vừa từ dưới đất chui bùng lên vậy. “Ối, lạy trời, mẹ trễ mất. Mẹ muốn để Nicko chờ…”

      “Nicko?” Septimus hiểu.

      “Sarah,” ngài Alther . “Có chuyện gì vậy?”

      “Tôi vừa được gọi tới bệnh xá, ngài Alther ạ. Chắc hẳn tôi vừa nhận tin từ con Chuột Đưa Tin cuối cùng của Lâu Đài. Tối nay rất nhiều người săn lùng chúng mà chúng chạy kịp đâu. Nicko chở tôi tới đó. Tôi phải đây.”

      “Bà phải mình. Chúng tôi cùng bà,” ngài Alther .

      Sarah có vẻ như định khước từ nhưng rồi lại đổi ý. “Cảm ơn ngài Alther. Tôi… ớ… trời!” Sarah tắc tị với tiếng thét bị nghẹt. “Coi…” bà lào khào, chỉ vào màn đen.

      Septimus nhìn. Mới đầu nó thấy gì, nhưng rồi, khi nó dịch ánh nhìn, nó thấy… đôi mắt đỏ, di động về hướng họ, đảo qua đảo lại. Thoạt tiên, Septimus tưởng đấy là con chuột, nhưng cái kiểu lồi hẳn ra trước của đôi mắt có gì đó giống mắt chuột. nhanh, Septimus thọc tay vào túi, lôi ra hòn sỏi và thảy xoáy trong bóng tối tới hai chấm đỏ. tiếng rú lên xé óc, tiếp theo là tiếng chân chạy trốn, và đôi mắt biến khỏi màn đêm.

      thôi, Sarah,” ngài Alther . “Chúng ta tới xưởng tàu nào.”

      Nicko bồn chồn chờ bên chiếc thuyền mái đẩy neo bến bên trong xưởng tàu Jannit Maarten. Jannit mới nhận Nicko là học trò phụ, và để cậu ngủ trong cái chòi đằng sau túp lều xiêu vẹo của mình. Mới cách đây giờ Nicko chuệch choạc vào giường, mệt bã người sau ngày quần quật giúp Rupert Gringe sửa chữa bánh lái khổng lồ của chiếc thương thuyền Bến Cảng. Cậu vừa chợp mắt bị tiếng gõ khẩn cấp lên cửa sổ rầm rĩ dựng dậy- đó là Chuột Đưa Tin do Sarah phái đến gặp cậu.

      Loáng cái Nicko thấy con thuyền mái chèo thời Jannit dùng để chở khách ngược xuôi dòng sông; rủi thay cậu cũng làm Jannit thức giấc- trong giấc ngủ bà có thể nghe được bất cứ thanh lạ nào trong xưởng của mình. Jannit vừa mới ọc ạch ngủ trở lại liền bị đánh thức bởi tiếng chai lọ lắc cắc trong rổ của Sarah khi bà quày quả chạy băngn qua xưởng tàu.

      Septimus giúp Nicko giữ yên chiếc thuyền cho Sarah leo vào. “ có bảo đảm đưa mẹ tới bệnh xá đấy, Nik?” nó hỏi, hoài nghi nhìn con hào rộng sâu bên hông xưởng tới khoảnh sáng lù mù của bệnh xá, dường như lút dưới rặng cây của Cánh Rừng xa xa. Quãng bộ từ bến sông tới bệnh xá trong đêm nguy hiểm.

      “Được chứ sao ?” Nicko chộp lấy hai mái chèo to oành và chờ Sarah ngồi yên vị.

      “Đừng lo, ta đưa Sarah tới tận cửa bệnh xá,” ngài Alther bảo Septimus. “Nếu cần ta vẫn còn khả năng đuổi lũ sói mà. Ta phải vòng qua cổng Bắc nhưng ta đợi bà ấy ở đó.”

      “Gặp em sau nhé, Sep,” Nicko vừa vừa đẩy thuyền ra khỏi bãi đáp của xưởng tàu.

      được, Nicko,” Septimus nghe tiếng mẹ mắng trai. “Septimus phải về thẳng chỗ bà Marcia.”

      Khi Septimus nhìn ngài Alther bay về phía Cổng Bắc, cảm giác tự do tuyệt vời khoan khoái đột nhiên quét ào qua nó. Nó có thể đâu hay làm gì tùy ý. bị ai ngăn cản. Dĩ nhiên, nó phải về lại tháp Pháp sư, nhưng nó lại muốn ng3. Septimus cảm thấy nhớn nhác như đêm nay có việc gì đó vẫn chưa hoàn tất. Và rồi nó nhận ra- Những lời của nữ hoàng Etheldredda trở lại với nó: “Marcellus Pye, Bờ Trượt Rắn. Nửa đêm. Hãy tới đó”.

      Bất giác nó hiểu ra lý do tại sao nữ hoàng Etheldredda lại muốn nó gặp con ma Marcellus Pye: để ông ấy trao cho nó công thức điều chế kháng dịch bệnh.

      Lúc đó mới chừng 10 rưỡi. Vẫn còn kịp cho nó tới Bờ Trượt Rắn trước nửa đêm.

      Chương 6 Lối ven thành

      Septimus quyết định lối Ven Thành bao quanh bức tường Lâu Đài, để tránh trường hợp bà Marcia bất thình lình được mời thực công việc Pháp thuật gì đó – chữa nhức đầu hay những việc tương tự – và xui rủi nhỡ mà nó va sầm vào bà. Tinh thần phấn chấn dâng tràn, nó len lỏi qua xưởng tàu, cẩn thận gây ra tiếng động kẻo làm bà Jannit thức giấc. Thoắt cái nó tới mạn của chiếc thương thuyền vượt sông cũ úp ngược, chui ra đằng sau chiếc thuyền, nó tìm thấy thứ mình tìm – những bậc thang dốc dẫn lên lối Ven Thành.

      Lối Ven Thành là gờ đá hẹp và lởm chởm cách mặt nước hào đen thui chừng thước. Nó vốn được chủ ý xây thành đường, mà là nơi những chân móng khổng lồ của bức tường Lâu Đài kết thúc và những bức tường đá phiến cắt khéo hơn, hẹp hơn bắt đầu. Hồi Septimus còn ở trong Thiếu sinh quân, bọn lớn hơn nó hay thách nhau men theo lối Ven Thành này, nhưng đấy là điều Septimus chẳng đời nào muốn làm – cho đến bây giờ. Bây giờ, với tự tin của năm rưỡi là Học Trò Pháp sư Tối thượng, và biết chắc rủi mình trượt chân ngã có thể sử dụng bùa Khinh Công, Septimus leo lên mép đá.

      Lối mỗi lúc mỗi hẹp hơn nó tưởng; Septimus bước lậm chậm, nhích từng chân , cảm thấy đá tróc ra xục xịch dưới bàn chân nó khi đặt xuống. Nó thầm cảm ơn ánh trăng tròn vời vợi, phản chiếu mặt nước hào và tỏa sáng vách đá nhờn nhợt của bức tường Lâu Đài giúp nó dễ tìm thấy đường . khí bình yên trong làn gió đông nhớp nháp, và Septimus thấy phần cây lá ngọn tuy có chao chác, nhưng phần thân bên cạnh hào nước lại đứng im lìm.

      Xa tuốt bờ bên kia hào nước, gần sát Cánh Rừng cách đáng ngại, ánh sáng của bệnh xá lập lòe theo nhịp cành lá lay động trước dãy cửa sổ dài, bé tẹo,thắp nến bên trong. Septimus dừng lại để nhìn chiếc đèn lồng của Sarah băng qua hào trong khi Nicko chèo thuyền về phía bìa rừng. Chiếc đèn lồng chỉ là đốm sáng chấm vào bức thảm cây bạt ngàn đen xì. Nó hy vọng lúc mẹ và tới Cánh Rừng ngài Alther đợi họ.

      Vài phút sau chiếc đèn lồng cập bến đằng xa và Septimus thấy hình dáng ngài Alther nổi bật trong quầng sáng. Yên tâm thở phảo, nó lại tiếp. Chẳng mấy chốc, khúc ngoặt của bức tường Lâu Đài che mất tầm mắt nó khỏi bệnh xá, và cung đường dài, vắng tanh trải ra trước mặt. Septimus hơi ngạc nhiên là mình chẳng thấy Bờ Trượt Rắn đâu cả. Nó ngờ bức tường Lâu Đài lại lắm cua quẹo đến thế. Nó quen đường thẳng tới Bờ Trượt Rắn, nhưng nó vẫn tiếp, ý nghĩ có thể chuyện được với Marcellus Pye thúc đẩy nó.

      Trong khi – chậm hơn ý nó muốn, bởi lối vô cùng khúc khuỷu – nó cảm thấy hơi lạnh buốt và mùi tanh lờm lợm bốc lên từ dòng nước hào chảy lờ phờ. Phía hào nước bắt đầu hình thành lớp sương mù, và Septimus nhìn nó dày cộm lên cho đến khi còn thấy mặt nước nữa. Cái vắng lặng êm đềm ùa đến cùng với màn sương, chỉ thi thoảng mới bị xuyên thủng bởi tiếng gió rít trong vòm cây vùng ngoại vi Cánh rừng.

      Nỗi háo hức muốn gặp Marcellus Pye của nó bắt đầu loãng dần , nhưng Septimus vẫn dấn tới. Nó còn lựa chọn nào khác bởi lối Ven Thành đoạn này bắt đầu hẹp đến nỗi quay đầu lại là bất trắc. Sau hai cú trượt phải đá lở suýt ngã tỏm xuống hào nước bên dưới, Septimus thấy mình ngu mới chọn lối Ven Thành. Nó dừng lại, dựa lưng vào vách thành để cố giữ thăng bằng và lụm cụm rút bùa Khinh Công ra khỏi đai lưng Học Trò. Tay nó thọc vào ngăn túi đựng chiếc bùa, và khi cố lôi bùa ra Septimus thấy mình bổ nhào về trước. Hoảng hồn, nó chộp đại phiến đá đằng sau và ráng xoay xở dựa lưng vào.

      Đến nước này nó thấy việc qua lối Ven Thành là sai lầm ngớ ngẩn, nhưng nó ép buộc mình phải tập trung vào con đường phía trước, cố lấn cấn nghĩ về những thứ làm nó mất tập trung. Những thứ đó là:

      Chiếc giường êm ấm, thoải mái chờ nó ở đỉnh tháp Pháp sư.

      Tiếng gió rú qua ngọn cây.

      Sao tiếng rú ấy lại ghê rợn vậy kìa?

      Cái giường.

      Lũ sói có mò tới bức tường Lâu Đài lúc đêm khuya ?

      Liệu sói có biết bơi?

      Hình như chúng có biết phải?

      Cái giường.

      Sao sương mù chập chờn ớn quá?

      Có gì dưới làn sương mù kia.

      Phải chăng sói đặc biệt thích bơi dưới sương mù?

      Cái giường.

      Khoan khoan… chẳng phải tài liệu của Marcellus Pye có viết rằng ông ấy tìm ra bí mật của trường sinh?

      Nhỡ Marcellus phải là con ma già bình thường sao?

      Nhỡ ông ấy là lão già năm trăm tuổi?

      Có khi nào ông ấy chỉ là bộ da bọc xương treo tòn teng?

      Tại sao mình nghĩ đến điều này từ trước?

      Đúng lúc đó làn mây bão che kín mặt trăng và Septimus bị ụp vào trong bong tối. Nó khựng sững lại, tim đập lùng bùng dội lên óc. Nó dựa ép lưng vào tường. Khi mắt nó điều chỉnh quen với bóng tối, nó thấy mình vẫn có thể nhìn được ngọn cây bên kia Cánh rừng, nhưng hiểu sao lại thể trông thấy bàn chân mình, dù nó có căng mắt thế nào chăng nữa. Và rồi nó nhận ra lý do. Sương mù dâng lên và phủ kín ủng của nó – nó có thể ngửi thấy mùi hơi ẩm nhớp nháp. Chiếc Nhẫn Rồng ngón trỏ tay phải nó phát ra ánh sáng vàng dễ chịu, nhưng nó tháo chiếc nhẫn ra nhét vào túi áo, bởi vì quầng sáng đột nhiên của chiếc Nhẫn Rồng khác nào lời tha thiết mời gọi kẻ thù “Hãy đến bắt tôi này”.

      Đâu khoảng tiếng rưỡi sau – mặc dù Septimus đinh ninh là ba đêm trôi qua do bởi giằng néo của bùa Đảo Ngược – bỗng nó nghe có tiếng bước chân đằng sau mình. Tim như muốn tọt lên họng, Septimus dừng bước, nhưng nó dám quay đầu lại nhìn vì sợ té xuống hào. Những bước chân vẫn đổ về phía nó, Septimus lại dợm tiếp, lảo đảo đường, căng mắt rọi vào đêm đen, tuyệt vọng tìm Bờ Trượt Rắn, nhưng mây bão vẫn kéo ùn ùn, và mặt trăng vẫn còn chìm khuất.

      Tiếng chân và có vẻ ngập ngừng, và Septimus biết chúng thu hẹp khoảng cách với mình, bởi nó cứ được hai bước cái vật đó – nó chắc chắn đó là cái vật – lại bước ba. Hú hồn hú vía, Septimus cố tăng tốc, nhưng bước chân vẫn khua tới.

      Thình lình Septimus nghe thấy tiếng động đằng sau. “Xxììì… Xxxìì…” Cái vật đằng sau nó rít lên. Rít khè khè. Phải chăng nó là Bóng Ma Đầu Rắn. Hay thậm chí là con Magog. Magog có khi nào rít ? Có lẽ là trong những con Magog bị bỏ lại của DomDaniel, có khi nó sống trong bức tường bao quanh Lâu Đài và đêm đến tuôn ra để xử tên khờ nào đó quyết định lối Ven Thành.

      “Xxììì!” tiếng rít lớn trong tai nó. Septimus giật thót mình, hồn xiêu phách tán. Chân phải của nó trượt khỏi mỏm đá hẹp và người nó tuột luốt, tay chới với quờ quạng vách đá. Chiếc ủng phải của nó văng xuống hào và khi Septimus rơi theo chiếc ủng có cái gì đó chộp lấy áo choàng của nó.

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 7. Bờ Trượt Rắn

      “Coi chừng, im ?” giọng gắt gỏng. “ cẩn thận mày lôi cả hai xuống hào bây giờ.”

      “C… cái gì?” Septimus hết hồn, tự hỏi sao Cái Vật lại giả giọng con . Đám Vật vốn thường có giọng đục lờ lờ, dọa dẫm, khiến máu ta đông lại, chứ phải giọng con . Vật này chắc chắn có gì đó kỳ quái. Hay là nó còn trẻ, Septimus nghĩ, hơi hơi hy vọng. Mà Cái Vật trẻ có thể có cơ may thuyết phục nó thả mình ra.

      Septimus quyết định phải đối mặt với cái thứ ghim chặt mình đây, dù cho nó là cái quái gì. Nó vùng vẫy ráng quay đầu lại, nhưng chưa kịp bị lôi giật trở lên lối Ven Thành.

      “Đồ ngu. May là tao đánh rơi mày. Cho đáng đời mày,” Lucy Gringe cau có, thở ra hơi sau cú lôi Septimus lên.

      Septimus đột nhiên cảm thấy mệt rũ, người run lên vì hú vía. “Lucy!” Nó thốt lên. “Chị làm gì ở đây?”

      “Tao định hỏi mày câu tương tự đấy, thằng Học Trò.”

      “Ờm, ờ. Em bỗng muốn dạo,” Septimus nhát gừng.

      dạo gì quái đản,” Lucy lầm bầm. “ nghĩ được nơi nào tốt hơn để dạo diếc gì sao? Hừ, tiếp chớ – mày muốn tiếp tục cuộc dạo của mày… hay là muốn dừng ở đây suốt đêm? Tao hy vọng mày dừng bởi vì mày chắn đường tao và mất công tao phải làm gì đó.”

      còn cách nào khác, Septimus đành tới, chật vật lề mề lối Ven Thành. Hơi thở mất kiên nhẫn của Lucy phà đằng sau nó. “Mày nhanh lên được à? đứng thế cả đám mất toi cả đêm còn gì.”

      “Em cố nhanh hết sức đây. À, có gì mà chị vội thế? Chị đâu vậy? Áaáá!” Bàn chân Septimus trượt khỏi bức tường nhưng Lucy tóm được nó và đặt nó lên trở lại hệt như đặt cỗ đồng hồ đồ chơi.

      phải việc của mày. Chả việc gì đến ai hết,” Lucy cấm cẳn. “Giờ lối rộng hơn rồi, mày làm ơn làm phước nhanh hơn nữa được ?”

      Septimus thở phào, ủng của nó tìm được chỗ bám chắc hơn khi lối Ven Thành nới rộng ra. “Chị từng đường này rồi phải ?”

      sao, mày có nhanh nhanh bảo?”

      “Em thể. Thế, sao chị lối Ven Thành… đó là vì chị muốn ông Gringe… ý em là cha chị… biết chị đâu phải ?” Septimus hỏi, mối nghi ngờ của nó càng tăng cao.

      “Tao làm gì hay đâu việc gì đến ông ấy,” Lucy bực dọc. “Này, nhanh lên coi.”

      “Tại sao?” Septimus hỏi, có ý chậm lại. “Tại sao chị muốn ông Gringe biết chị đâu?”

      “Hừ, mày phiền toái quá. Giờ tao mới thấy cớ gì Simon bảo mày là thằng quỷ…” Lucy im bặt giữa chừng, nhưng quá trễ.

      Septimus đứng phắt lại và Lucy va sầm vào nó. “Chị gặp Simon phải ?”

      “Mày làm gì vậy? Thằng ngu. Mày suýt kéo cả hai xuống hào rồi.”

      “Chị gặp Simon chứ gì?” Septimus lặp lại. “Chính vì vậy mà chị lối này. Để bị ai thấy. Chị biết ta ở đâu, đúng ?”

      ,” Lucy lị xị. “Nào, mày có ?”

      “Em đâu hết đến chừng nào chị cho em biết Simon ở đâu,” Septimus , bướng bỉnh đứng nguyên tại chỗ.

      “Hừm, thế cả hai đứng đây suốt đêm,” Lucy , bướng bỉnh kém.

      Lucy và Septimus đứng dựa lưng vào vách thành khổng lồ, cao vút lên trời đen. Chẳng ai chịu nhường ai. Cuộc thi gan kéo dài độ vài phút cả hai chợt nghe thấy tiếng lột sột đâu đó đằng sau. Tiếp theo là tiếng đá lỏng ra và lặng lẽ rơi tỏm xuống mặt nước.

      “Này, Septimus,” Lucy với giọng khản đặc, “ở đây an toàn. Cái Vật hay dùng lối này… tao từng thấy chúng rồi. Tụi mình hãy ra Bờ Trượt Rắn . Tới đó chúng ta hẵng chuyện, được chứ?”

      Septimus cần ít thuyết phục hơn thế nhiều. “Được,” nó đồng ý.

      Mười phút sau, Septimus và Lucy vượt qua được quãng thắt tim của lối ở bên dưới chòi canh Cổng Đông. Họ tới Bờ Trượt Rắn Septimus dừng khựng lại. Lucy giẫm hẳn đôi giày nặng chịch vào gót chân nó. “Úi da!” Septimus thở hốc.

      “Ối, đừng có bắng nhắng nữa,” Lucy điên tiết rít lên.

      “Nhưng em nghĩ mình nhìn thấy ánh sáng. bờ trượt,” Septimus xì xào.

      “Vậy tốt. Ít ra bọn ta thấy mình đâu.”

      Septimus lại bước tiếp, để rồi vài giây sau chợt nghe thấy tiếng tóe nước, đồng thời ánh sáng tắt lịm. Nó suýt dừng lại nữa nhưng nghĩ lại. “Chị có nghe tiếng tóe nước ?” Nó thào.

      . Nhưng phút nữa có tiếng tóe nước to bằng cỡ thằng nhóc nếu mày còn líu ríu nữa, Septimus Heap.” Lucy chọc mạnh cái vào lưng Septimus. “Nào, lẹ lên.”

      Thầm nghĩ bụng mình may phước ba đời vì bà chị như Lucy Gringe, Septimus dấn tiếp.

      Chẳng bao lâu Septimus và Lucy leo xuống dải cầu thang đá dẫn tới Bờ Trượt Rắn. Họ vừa leo tới nơi là tiếng đồng hồ của tòa án điểm tiếng tắc tị giữa đêm thinh lặng, bay vọng đến chỗ họ. Septimus nhìn quanh, nhưng đúng như nó nghĩ - có tăm hơi Marcellus Pye đâu cả.

      Septimus ngáp, bỗng dưng nó thấy mệt đứ đừ. Lucy bắt gặp cú ngáp của nó và rùng mình trong khí lạnh. Chị chàng rút chiếc chìa khóa to tướng ra khỏi trong bao nhiêu là túi quần áo của mình và kéo áo choàng sát vào người. Septimus nghĩ mình mang máng thấy tấm áo choàng này ở đâu đó rồi, nhưng nhớ ra. Nó thấy Lucy có tấm áo đẹp choáng hồn như vậy đáng ngạc nhiên. Nhà Gringe vốn chẳng phải thuộc hàng gia đình giàu có, và Lucy thường hay dậm bành bạch đó đây bằng đôi ủng quá khổ màu nâu to gấp đôi cỡ mình… thậm chí cả mớ ruy băng và chuỗi hạt tự làm chị ta cột đầy kín mái tóc nâu dài thắt bím cũng mang vẻ nhếch nhác. Thế mà vai chị ta lại có tấm áo choàng xanh dương đậm khoác điệu đàng và toát lên vẻ xa hoa sang trọng.

      Tuy vậy Lucy vẫn mang đôi ủng nâu nặng nề to xụ. Chị ta xăm xăm tới cánh cửa rộng mà Septimus biết là cửa dẫn vào nhà thuyền, nơi em trai của Lucy, Rupert, chứa thuyền chạy guồng cho thuê vào mùa hè. Bằng những động tác thành thục, Lucy vặn chìa khóa trong ổ, đẩy cửa mở ra và biến mất. Septimus chạy theo sau chị ta.

      Trời tối như hũ nút bên trong nhà thuyền. Septimus đeo Nhẫn Rồng lên và lập tức nhà kho sáng lên thứ ánh sáng vàng u mê. Nó có thể thấy Lucy trong bóng tối, loay hoay vần chiếc thuyền guồng lên chiếc xe goòng .

      “Cút ,” Lucy nạt khi nhận thấy Septimus theo mình vào.

      “Chị gặp Simon phải ?” Septimus gặng hỏi.

      “Việc gì đến mày,” Lucy dấm dẳng, cố đẩy chiếc thuyền nặng nề dễ sợ lên xe. Septimus cầm đầu thuyền và cùng nhau họ nhấc nó lên. “Cảm ơn,” Lucy lúng búng khi Septimus nắm lấy tay cầm của xe goòng và giúp chị ta kéo chiếc thuyền ra khỏi nhà thuyền.

      Họ cùng nhau lăn chiếc thuyền sơn lòe loẹt màu hồng từ Bờ Trượt Rắn xuống mặt nước hào, nhận thấy hình ma mũi nhọn, vẻ mặt bất bình đứng trong bóng tối nhìn họ hì hục đẩy. Khi Septimus đẩy xe goòng tiếp nước cái tùm và chiếc thuyền nổi lên khỏi xe nữ hoàng Etheldredda điên tiết dậm mạnh bàn chân ma xuống đất, phát ra tiếng động.

      Septimus đưa sợi dây cột thuyền cho Lucy cầm, còn mình kéo xe goòng lên khỏi bờ trượt rồi đem cất lại vào nhà thuyền. Khi nó lăn xe ngang qua con ma, mụ trừng mắt nhìn nó và rít chịt trong hơi thở. “Đúng giờ là đạo đức; trễ nải là đồi bại, ranh con,” nhưng Septimus chẳng nghe thấy gì ngoài tiếng xe goòng kêu lét két.

      Nó quay trở lại chỗ Lucy và bầu thinh lặng đáng sợ ngự trị khi Septimus cầm sợi dây và giữ yên chiếc thuyền cho Lucy bước xuống. Lucy an tọa rồi , Septimus ngạc nhiên hết sức, nhìn Septimus với nụ cười thiểu não. “Mày chẳng đến nỗi là thằng xấu xa,” đoạn hằn học đặt chân vào guồng và đạp chiếc thuyền quái dị của Rupert.

      Septimus im như thóc. Ở Lucy có gì đó gợi nó nhớ về dì Zelda, và nó biết nếu muốn dì Zelda tiết lộ cho mình điều gì, nó cần phải kiên nhẫn, bởi vì dì Zelda cũng hay cố chấp như Lucy Gringe lúc này tỏ ra. Do vậy Septimus kiên nhẫn chờ, cảm nhận điều lấn bấn trong đầu Lucy.

      “Simon và tao suýt lấy nhau,” Lucy thình lình nổ tung.

      “Em biết,” Septimus đáp. “Ba kể em nghe.”

      ai muốn bọn tao cưới nhau. Tao hiểu tại sao. Vậy là bất công.” Septimus nghĩ ra được gì để . “Và giờ tất cả mọi người đều ghét Simon và ấy bao giờ có thể trở về nhà, và điều đó cũng bất công.”

      “Ừm, ta bắt cóc Jenna,” Septimus chỉ ra. “ ta còn rắp tâm giết em, giết Nicko và Jenna và ta xém phá hủy thuyền Rồng. Đó là chưa kể bà Marcia – ta kiên quyết muốn xóa sổ bà Marcia bằng bùa Sắp Đặt, rồi ta…”

      “Đủ rồi,” Lucy quát. “ cần phải kể lể.”

      Lại im lặng căng thẳng và Septimus chắc chắn rằng mình thể nào bắt Lucy thêm gì nữa. Nó buông chiếc thuyền ra và đẩy thuyền ra xa hào.

      “Nếu chị gặp Simon chị có thể bảo ta rằng ta được chào đón ở đây.”

      Lucy nín thít trước lời của Septimus, đặt chân vào guồng và bắt đầu đạp. Thằng bé thấy cảnh tượng đó là quái đản, bởi loại thuyền mùa hè này chỉ dùng để du hí, và nhìn Lucy ra trong đêm mùa thu đặc quánh sương lại càng kỳ quái.

      “Thượng lộ bình an, cho dù chị đâu,” nó bảo chị ta.

      Lucy ngoái nhìn lại. “Tao biết Simon ở đâu, nhưng ấy có viết cho tao mẩu tin và tao tìm ấy. Thế thôi.”

      Septimus nhìn Lucy đạp chiếc thuyền màu hồng khỏi cho tới khi chị ta ngoặt khúc quanh và biến mất khỏi tầm nhìn. Nó đừng bờ trượt hồi, lắng nghe tiếng guồng lách cách khi Lucy cương quyết hướng ra sông.

      Cuối cùng, đúng lúc Septimus định quay về nhà nó thấy… lửa cháy dưới nước.

      Chương 8. Lửa cháy dưới nước.

      Chẳng hiểu nổi – làm thế nào mà lửa cháy dưới nước được?

      Mặt nước đen ngòm và ánh lửa bập bùng dưới dòng chảy như là nến phập phù trước gió. Khi Septimus nhìn, nó di chuyển đều đặn xa khỏi bờ trượt, nhích dần đến chân bức tường bao quanh Lâu Đài. Đúng nó cảm thấy như lửa là do ai đó cầm bước dưới đáy hào. Con hào sâu khoảng sáu thước và ánh lửa, Septimus đoán, cách mặt nước chừng hơn bốn mét. Mê mụ người ra trước việc lửa cháy dưới nước, Septimus quỳ xuống mặt đá lạnh ngắt của bờ trượt và nhìn đăm đăm xuống độ sâu của con hào.

      Từ từ và chắc chắn, ngọn lửa bước dần xa khỏi nó, Septimus cảm thấy bồn chồn kinh khủng, tựa hồ như vừa bị mất vật gì đó rất quý giá. Nó chồm tới trước để nhìn cái lần cuối cùng.

      Đằng sau nó con ma nữ hoàng Etheldredda bước ra khỏi bóng tối, nụ cười mỏng quẹt môi mụ. Septimus mải nhìn vật dưới nước đến nỗi nhận thấy con ma, cho dù mụ có chọn cách Hình với nó chăng nữa – điều mà mụ nhất định làm. Nó bước hẳn qua khỏi mép bờ trượt và chồm nhoài người ra. Nếu nó áp sát mặt nước hơn nữa có lẽ nó thấy…

      Nữ hoàng Etheldredda đẩy Septimus cái thẳng cánh.

      tiếng tóc nước lớn và bất thình lình Septimus ở dưới nước, chìm nghỉm xuống đáy hào, láp ngáp vì choáng lạnh. Thủy triều chuyển hướng và dòng nước băng giá từ sông tràn vào – xoáy tít và mạnh – dẫu Septimus là tay bơi cừ, nó vẫn tức tốc bị lôi tuột từ bờ trượt ra giữa hào.

      Mãi cuối cùng Septimus mới ngoi lên được, run lập cập sao kìm nổi. Tay chân nó dần mất sức mạnh, trong khi dòng nước xoáy phải là thứ duy nhất nó cần chiến đấu lại. Giờ nó cảm thấy lực kéo mạnh bạo bên dưới bàn chân, và làm như có người bất ngờ giật nút chặn, dòng nước quanh nó như rút chảy xuống lỗ cống.

      Khoảnh khắc sau, đầu Septimus biến hẳn xuống dưới dòng nước đen như mực lần thứ hai. Sức kéo ngược lôi nó xuống cái vụt, và trong vòng vài giây bàn chân nó chạm đáy hào. Cố ráng mở mắt dưới làn nước quánh bùn và với buồng phổi tưởng bốc cháy, Septimus búng đạp khỏi lòng hào bùn đất và đâm thẳng tọt vào máng cỏ nhầy nhụa trong hào. Thoáng cái, nó bị những xúc tua quấn chặt quanh người và cảm thấy sức lực mình bị hút sạch ra ngoài. màn đen phủ ập trước mắt nó và Septimus bắt đầu mất ý thức; tuy nhiên, khi mê nó có cảm giác lạ lùng là có cái bàn kẹp lạnh giá gắp lấy tay nó, lôi nó lên… lên… lên, qua đường hầm tối tăm về phía có ánh sáng rực rỡ.

      “Ối, Sep… đau ?” Giọng Jenna ập đến với Septimus ở cuối đường hầm. Ho, láp ngáp, Septimus cuống cuồng thở lấy hơi.

      “Dẹp nhắng nhít , nhóc,” giọng ma gắt gỏng quát. “Đây, cháu , nhận lấy nó , bởi vì ta muốn bị Xuyên Qua lần nữa – khó chịu phát khiếp. Chẳng biết cư xử là gì, lũ Học Trò ngày nay.”

      “Sep, Sep,” giọng Jenna thào bên tai nó và Septimus cảm thấy như dẫn mình qua màn đen và… cuối cùng… ra ánh sáng.

      “Aaaah!” Septimus bất chợt ngồi thẳng dậy và hít vào hơi thở sâu nhất trong đời mình. Và rồi nó hít cái nữa, cái nữa, và cái nữa.

      “Sep, Sep, ổn chứ?” Jenna vỗ mạnh vào lưng nó. “ có thở được ? Hả?”

      “Aah… aah… aah…” Septimus hít thêm hơi đầy buồng phổi nữa.

      “Được rồi, Sep. an toàn ở đây rồi.”

      “Ah…” Septimus căng mắt nhìn quanh. Nó ngồi dưới sàn của phòng khách ở sau Cung Điện. Đó là căn phòng ấm cúng – lửa cháy trong vỉ lò cộng với cây nến mập mạp mặt lò sưởi nhiểu sáp long tong xuống nền lò. Phòng này từng là căn phòng ưa thích nhất của nữ hoàng Etheldredda, mụ thường ngồi đó mỗi chiều, nhấm nháp ly rượu mật và đọc truyện đạo lý. Và bây giờ nó là phòng khách của Sarah Heap, nơi chiều chiều bà cũng ngồi, có điều bà uống trà dược thảo và đọc tiểu thuyết tình cảm mượn của bà Sally Mullin. Nữ hoàng Etheldredda hài lòng tí nào với gu bày biện đồ đạc của Sarah, và cũng chả ủng hộ chuyện lãng mạn. Còn về cảnh tượng lộn xộn và bừa bãi tổng thể của phòng khách, nữ hoàng Etheldredda cho đó là ô nhục, tuy nhiên mụ chẳng thể làm gì được về điều đó, vì ma phải thích nghi với những thói quen xấu của người sống.

      Nữ hoàng Etheldredda đeo bộ mặt bất bình cố hữu trong khi nhìn Septimus ướt như chuột lột. Nó ngồi trong vũng nước bùn, bốc khói bên cạnh lò sưởi và tỏa ra mùi nước hào tởm lợm, con ma ngồi chiếc ghế duy nhất vẫn còn lại từ thời mụ đương triều – chiếc ghế gỗ bất tiện, kiểu lưng tựa thẳng mà Sarah có ý quẳng từ lâu. Silas bỏ quên miếng bánh xăng uých kẹp thịt muối đó từ vài ngày trước và giờ nữ hoàng Etheldredda ngồi chóc ngóc miếng bánh.

      “Ta tin là người học được bài học của người, thằng kia,” Nữ hoàng Etheldredda , gắn ánh mắt dữ tợn vào Septimus. Thằng bé ho khạc ra vài cọng cỏ lớp nhớp và nhổ phẹt chúng xuống thảm trải sàn.

      “Đúng giờ là luân lý,” Nữ hoàng Etheldredda tuyên bố. “Trễ nải là đồi bại. Tạm biệt.” Vẫn giữ nguyên tư thế ngồi như vậy, Nữ hoàng Etheldredda dâng cao lên khỏi ghế vài tấc. Mụ liếc nhìn miếng bánh mì kẹp thịt muối cách kinh hãi, và rồi lướt xuyên qua trần nhà. Bàn chân bọc trong đôi hài thêu xa xỉ, mũi nhọn hoắt của mụ ngúc ngoắc phía Jenna và Septimus chừng hai hay ba giây trôi biến .

      nghĩ bây giờ mụ ta chưa?” Jenna lào thào hỏi Septimus sau quãng nghĩ cho chắc ăn. Septimus đứng dậy để nhìn trần nhà cho hơn, nhưng cảm thấy mặt sàn nâng lên sầm sập vào mình, và nó thấy mình ngã nằm xoài xuống tấm thảm tưa sờn quý của Sarah Heap. Jenna lo lắng. “Tốt hơn đêm nay nên ở đây. Em phái Chuột Đưa Tin báo với bà Marcia.”

      Septimus rên rỉ. Bà Marcia. Nó quên béng bà Marcia đến giờ sực nhớ. “Có lẽ tốt hơn em nên đánh thức bà ấy, Jen à. Vả lại, em còn có Chuột Đưa Tin là hên lắm đó. Tốt nhất để mai hẵng báo cho bà,” nó mà hình dung cảnh bà Marcia xộc thẳng vào Cung Điện rồi đòi hỏi muốn biết Septimus nghĩ nó làm gì, điều hề vượt quá tính cách của bà. Đó phải, Septimus nghĩ, là câu hỏi nó dễ dàng trả lời ngay lập tức.

      khỏe rồi chứ?” Jenna hỏi.

      Septimus gật đầu, tức căn phòng bắt đầu quay quay. “Chuyện gì xảy ra vậy, Jen? Làm sao tới đây được?”

      bị rớt xuống hào, Sep à… ít nhất đó là điều Nữ hoàng Etheldredda . Mụ ta bảo đó là lỗi tại bởi vì trễ hẹn. Mụ bảo rằng may phước mụ tình cờ có mặt tại bờ trượt và ra tay cứu . Hừm, làm phép Giành Lại , theo như lời mụ . Hay đại loại phép phiếc gì đó.”

      “È… mới học nó hồi tuần trước xong. Nhưng thể nhớ nổi. Đầu óc hoạt động.”

      . cần nghĩ ra nó làm gì. suýt chết đuối mà.”

      biết. Nhưng muốn nhớ. Thỉnh thoảng, khi ta sắp chết đuối sau đó đầu óc ta hoạt động tốt. Chắc điều đó xảy ra với , Jen nhỉ?”

      “Vớ vẩn, Sep. Đầu óc là siêu hạng đối với em. Chỉ tại lạnh và mệt thôi.”

      “Nhưng… À, nhớ rồi. Nó nằm trong ấn bản mới nhất của cuốn Dẫn Lối Linh Hồn,” nó bật . “Đúng rồi. Giành Lại – tức là phép vận chuyển sinh vật sống để nhằm bảo đảm nó vẫn còn như là, tức là, sống. Ừm… liên quan tới việc vận chuyển ra khỏi mối nguy hiểm gây nguy hại đến tính mạng, hoặc là lập kế hoạch dài hạn hơn, kiểu như, nhằm bảo đảm họ chạm trán với nguy hiểm tới. Hầu hết những trường hợp được lưu truyền lại, đó là, bị đẩy khỏi đường chạy của con ngựa phi nước đại bởi bàn tay ma. Đấy, đầu óc thông rồi.” Septimus nhắm mắt lại và lộ vẻ hài lòng.

      “Dĩ nhiên,” Jenna như . “Nhìn này, Sep, ướt nhẹp à. Để em lấy đồ khô cho thay. Hãy cứ nghỉ ngơi trong lúc em tìm Quản gia Ban đêm.”

      Jenna nhót gót bước , để Septimus ngủ lơ mơ dưới thảm. Nữ hoàng Etheldredda chờ bé ngoài cửa.

      “Á, cháu ,” mụ ré lên chói lói.

      “Gì hả?” Jenna giận dữ.

      “Thằng nuôi của ngươi sao rồi?”

      tôi khá rồi, cảm ơn. Bà làm ơn tránh đường được ? Tôi muốn lấy đồ khô cho ấy.”

      “Hành vi cư xử của ngươi kém cỏi, cháu . Ngươi biết ta cứu nó mà.”

      “Vâng. Cảm ơn rất nhiều. Bà … tử tế. Nào, vui lòng cho tôi qua chứ?” Jenna cố ép người qua bên, ráng Xuyên Qua nữ hoàng Etheldredda.

      “Ngươi được qua.” Nữ hoàng Etheldredda xấn tới trước mặt Jenna và chắn lối bé. Từng nét của con ma đều toát lên vẻ lạnh như đá. “Ta có điều muốn với ngươi, cháu , và ta đề nghị ngươi hãy lắng nghe kỹ đây. rất bất tiện cho thằng nuôi của ngươi nếu ngươi lắng nghe.”

      Jenna dừng lại – cảm nhận có hơi hướm đe dọa khi nghe vậy. Nữ hoàng cúi xuống Jenna, phả hơi lạnh buốt vào khí. Rồi mụ thầm vào tai Jenna, và bé chưa bao giờ cảm thấy lạnh như thế trong đời.

      Chương 9. Bài kiểm tra Thực hành Tiên tri

      “Ngài Alther, ngài vậy ý là sao, ngài nghỉ đêm ở Cung Điện à?” Bà Marcia hỏi vào sáng sớm hôm sau. “Tại sao thế?”

      “Tại, à… è, có hơi phức tạp, Marcia,” ngài Alther gượng gạo đáp.

      “Sao lúc nào cũng thế vậy, ngài Alther?” Bà Marcia nổi tam bành. “Ngài có biết rằng nếu nó trở lại ngay nó lỡ bài kiểm tra Thực hành Tiên tri ?”

      Bà Marcia Overstrand ngồi bên bàn viết của mình trong thư viện Kim Tự Tháp đỉnh tháp Pháp Sư. Thư viện tối u trong ánh sáng buổi sớm, mấy ngọn nến bà Marcia thắp dạt nảy lên khi bà bực tức dằn xấp bài Thực hành Tiên tri của Septimus xuống bàn. Đôi mắt xanh lá cây của bà quắc lên giận dữ khi ngài Alther Mella trôi lềnh bềnh dọc theo các giá sách, ngó vào những tựa sách quý của ngài.

      “Thế này tệ , ngài Alther ạ. Tôi mất cả ngày hôm qua để soạn đề kiểm tra và ấn định là nó phải bắt đầu trước lúc 7 giờ 7 phút sáng. được trễ hơn chút nào, vậy mà dường như bao nhiêu phiền toái bắt đầu xảy ra… Tất cả là Thần Giao Cách Cảm và Nhận Thức, trễ là lỡ mất thời điểm.”

      “Cho thằng bé nghỉ ngơi , Marcia. Đêm qua nó rơi xuống hào và…”

      “Nó làm sao?”

      “Rơi xuống hào. Ta tình nghĩ nên hoãn…”

      “Làm sao mà nó rơi xuống hào, hả ngài Alther?” Bà Marcia hỏi cách ngờ vực.

      Nóng lòng muốn chuyển đề tài, ngài Alther phập phều bước tới bên bà Marcia và thân tình ngồi xuống góc bàn viết của bà. Ngài biết mình hối tiếc, nhưng thể ra, “Ờ, lẽ ra phải tiên đoán được việc này xảy ra, Marcia, và xếp lịch Thực hành Tiên tri trễ hơn trong ngày.”

      “Đó phải chuyện đùa,” bà Marcia cãi, đoạn xem lại xấp bài kiểm tra. “ ra ngài tự làm cho mình trở nên dễ đoán kinh khủng đấy. Dễ đoán như đoán trẻ con vậy. Ngài tiêu tốn quá nhiều thời giờ vào việc kéo Septimus bay lòng vòng quá đấy, mà chung quy chỉ rặt phô trương thôi, trong khi ở tuổi ngài ngài phải biết hơn mới đúng. Tôi sai Catchpole tới Cung Điện đưa Septimus về ngay lập tức. Thế thằng bé mới tỉnh ngủ hẳn.”

      “Ta tưởng tượng phải làm cho Catchpole tỉnh ngủ trước , Marcia,” ngài Alther bình luận.

      là phiên trực đêm của Catchpole, ngài Alther. ta thức suốt đêm.”

      thói quen tức cười, cái thằng cha Catchpole ấy,” ngài Alther trầm ngâm, “ngáy khò khò trong khi thức. có nghĩ rằng ta phát rồ với việc thức đêm rồi ?” Bà Marcia buồn trả lời. Bà đứng lên khỏi bàn, kéo quanh lớp áo thụng tía xuống và đùng đùng ra, đóng cửa thư viện cái rầm đằng sau.

      Ngài Alther lướt qua cửa sập dẫn lên mái Kim Tự Tháp vàng rồi nhẩn nha leo lên đỉnh tháp, khí buổi sáng mùa thu mát mẻ, mưa phùn lắc rắc. Chân tháp Pháp Sư biến mất vào làn sương mù dày đặc trắng xóa. Rải rác còn thấy được vài mái nhà cao xuyên thủng tấm màn trắng, còn đâu hầu như toàn Lâu Đài chìm khuất khỏi tầm nhìn. Dẫu sống kiếp ma, ngài Alther cảm thấy lạnh nhưng lại rùng mình trước cơn gió lốc xoáy quanh Kim Tự Tháp. Ngài quấn tấm áo thụng tía bạc màu quanh người và nhìn xuống bệ phẳng lấp lánh bạc bao quanh Kim Tự Tháp. Ngài Alther luôn bị thôi miên trước những dòng chữ tượng hình tạc vào bệ đỡ, nhưng chưa bao giờ ngài giải mã được chúng, mà ra chưa ai khác từng làm được điều này. Cách đây hàng mấy trăm năm, Pháp sư Tối thượng can đảm leo lên đỉnh Kim Tự Tháp và in lại lớp chữ tượng hình đó, bản in đến nay vẫn còn treo trong thư viện. Mỗi lần ngài Alther, hồi còn là Pháp sư Tối thượng, nhìn khung chữ treo tường ấy là ngài lại lên cơn chóng mặt, hoa mắt, bởi nó nhắc ngài nhớ lại hồi còn là Học Trò trẻ, ngài buộc phải đuổi theo Thầy mình, DomDaniel, lên tận nơi này.

      Nhưng bây giờ, là ma, ngài Alther còn sợ hãi nữa. Ngài thử đứng bệ bằng chân này, rồi lại đổi sang chân kia; sau đó ngài quăng mình vào hư , nhào lộn, xoay vòng trung. Trong khi rơi, ngài cố tưởng tượng con người sống mà rơi như vậy thế nào, như DomDaniel có lần rơi. Ngài bay là là ngay phía làn sương mù và bắt đầu hướng tới Cung Điện.

      Catchpole giấc mơ khủng khiếp và có lẽ nó còn khủng khiếp hơn nữa. ghét phải trực đêm trong căn buồng chứa bùa cũ, bên cạnh cánh cửa đôi khổng lồ bằng bạc dẫn vào tháp Pháp Sư. phải mùi bùa mục nát dai dẳng khiến Catchpole bực bội; mà là nỗi sợ hãi bị pháp sư bề nào đó sai làm việc vặt. Catchpole là phó pháp sư duy nhất ở đây và tiến thân nhanh như hy vọng – thi Pháp thuật Sơ cấp hai lần mà vẫn chưa đậu – điều đó có nghĩa là mọi pháp sư trong Tháp đều là bề của . Sau bao năm làm phó cho gã Thợ săn ác độc, Catchpole ghét nhất là bị sai khiến, đặc biệt là khi hình như luôn làm trật lất mọi việc. Cho nên, lúc bà Marcia Overstrand hằm hằm xông vào buồng chứa bùa cũ và cao giọng muốn nghĩ làm gì mà ngồi díp mắt lại trông vô dụng như con cừu chết thế kia, tim Catchpole tụt xuống. Bà ta sai mình làm gì đây? Và bà ta gì khi mà, như thường lệ, mình lại bới hỏng việc? Catchpole nhõm đến tin nổi khi tất cả những gì bà Marcia sai bảo chỉ là tới Cung Điện ngay lập tức và mang Học Trò của bà về cùng. Ờm, có thể xoay xở tốt việc đó – thế còn giải thoát khỏi căn buồng chật chội. Hơn nữa, Catchpole nghĩ, trong khi chạy xuống những bậc thang cẩm thạch và ló ra mảnh sân gạch phủ sương của tháp Pháp Sư, phen này xem ra cái thằng Thiếu sinh quân mới phất nhưng vớ bẫm thế nào lại nhoi lên được tận vị trí Học Trò Pháp sư Tối thượng đó rầy rà to. khoái chí trước ý nghĩ này và nhếch mép phọt ra tiếng cười khẩy.

      Lúc ấy Catchpole vừa tới khối nhà to chàng bành trông như cái cũi. Dựng bằng những khối đá hoa cương lớn, cao cỡ ngôi nhà và chiều rộng ít nhất phải gấp đôi chiều dài. Có hàng cửa sổ tí ti ngay bên dưới các mái hiên gie ra để tạo nhiều lỗ thông gió và để cho kẻ cư ngụ trong đó nếu muốn có thể nhìn ra ngoài. Ở đằng trước cũi, có con dốc bằng gỗ vững chắc dần tới cảnh cửa nhà kho đẽo từ những thớt gỗ sồi dày. Cửa đóng chặt và có ba thanh kim loại chặn ngang. Phía cửa ai đó nắn nót viết dòng chữ: KHẠC LỬA. Khi Catchpole lóc tóc ngang qua, cái gì bên trong cũi bỗng xồ mạnh vào cánh cửa. Có tiếng đồ đạc gãy vụn và thanh sắt chắn ở giữa cong oằn chút, nhưng chưa đủ cho cánh cửa xổ tung ra. Nụ cười khẩy mặt Catchpole vụt biến. co giò chạy chối chết và dừng lại cho tới khi ra tới giữa đường Pháp sư và có thể thấy ánh sáng từ hàng đuốc Cung Điện lóe nhóe xuyên qua sương mù.

      Sau khi sai Catchpole , bà Marcia vào thang máy bạc xoắn ốc trở lên các phòng của mình đỉnh tháp Pháp Sư. Có gì đó khiến bà bồn chồn đứng ngồi yên. Septimus đâu có hay bỏ lỡ bài kiểm tra – chắc phải có chuyện gì trục trặc. Vẫn còn ở trong trạng thái hoạt động ban đêm, dãy cầu thang bạc chậm chạp xoáy hình nút chai lên tháp Pháp Sư, và bà Marcia, vốn bao giờ dễ chịu vào sáng sớm, bắt đầu muốn buồn nôn vì chuyển động rì rì của cầu thang cộng với mùi thịt xông khói, mùi cháo quyện trong mùi hương trầm lãng bãng từ dưới tiền sảnh bốc lên. Khi bà Marcia lên tới tầng thứ mười bốn, vẫn còn quay quắt nghĩ về Septimus, chợt ý nảy bật trong đầu bà. ý gì đó rất quan trọng.

      “Này, nhanh lên,” bà Marcia sốt ruột quát chiếc cầu thang xoắn ốc. Nhận lệnh của bà, chiếc cầu thang liền chuyển qua tốc độ ban ngày, tăng tốc gấp đôi, và bà Marcia bắn vọt nốt quãng đường còn lại lên tháp, khiến cho ba pháp sư già dậy sớm sửa soạn câu cá trố mắt kinh ngạc. Cầu thang dừng lại với mức độ nhiệt tình y nguyên như lúc tuân theo mệnh lệnh trước đó của bà Marcia – trong cú chuyển động chút chậm trễ bà Pháp sư Tối thượng từ tầng thứ hai mươi bắn ra khỏi thang máy, xuyên luôn qua cánh cửa sổ tía nặng nề dẫn tới các phòng của bà. Hên là cánh cửa trông thấy bà tới và bung mở kịp thời. Thoáng sau bà Marcia chạy huỳnh huỵch cầu thang tới thư viện Kim Tự Tháp.

      Với vẻ lo lắng hằn sâu trán, bà Marcia hấp tấp lật xấp bài Thực hành Tiên tri cho đến trang bà cần tìm; chuỗi công thức và lời giải chi chít, do Jillie Djinn, tân Tổng trưởng Sao Chép Mật, cung cấp cho bà từ cuốn Biên Niên Sử Toàn Tập. Bà Marcia rút tờ công thức đó ra rồi lấy cây viết hoành tráng từ túi áo ra mà ngoáy lia lịa vào. Trong khi ngòi viết cạo rột rột giấy, những con số bắt đầu tự sắp xếp lại. Bà Marcia ngây đờ ra nhìn chúng mất vài phút, tin nổi.

      Đột nhiên bà thả cây viết xuống và hộc tốc chạy tới góc tối nhất của thư viện, nơi đặt kệ sách Niêm Kín. Run lẩy bà lẩy bẩy, bà phải cố ba lần mới bật ngón tay kêu đủ to để thắp cây nến khổng lồ gắn bên cạnh kệ sách. Ánh nến lung linh chiếu hai cánh cửa bạc đóng kín kệ sách và chỉ mở ra khi có Bùa Hộ Mạng Akhu, tấm bùa được lưu truyền qua các đời Pháp sư Tối thượng chạm vào. Bà Marcia tháo Bùa Hộ Mạng bằng đá lapis lazuli (*) vân vàng ra khỏi cổ và ấn vào miếng sáp Niêm đài màu tía bịt kín đường khe giữa hai cánh cửa. Dấu Niêm nhận ra Bùa Hộ Mạng, miếng sáp liền tự cuộn tròn lại, kèm theo tiếng rít nhè , cánh cửa mở bung ra. Đằng sau cửa là kệ sâu, tối hũ, bốc mùi uế khí hàng trăm năm. Bà Marcia hắt xì.

      Trước đây bà Marcia chưa bao giờ phải mở kệ Niêm Kín. Chưa bao giờ bà bị thôi thúc phải dùng tới nó, cho đến bây giờ. Ngài Alther từng lần hướng dẫn bà cách sử dụng kệ sau khi ngài quyết định chọn bà là người kế vị mình là Pháp sư Tối thượng. Bà Marcia nhớ lại ngài Alther luôn khích lệ mình như thế nào hồi mình là Học Trò của ngài, bất giác nỗi ân hận và tội lỗi dấy lên trong bà vì cáu gắt với con ma già.

      Hơi run lập cập, bà Marcia lùa cánh tay vào hốc kệ, bởi ai mà biết cái gì núp, rình rập trong cái xó bị Niêm Kín ấy hoặc cái gì phát sinh ở đó kể từ lần cuối cùng nó được mở ra. Nhưng cần phải lâu la bà mới biết mình tìm thấy cái gì – thở phào nhõm, bà Marcia lôi ra cái hộp bằng vàng đặc. Bà săm sói cái hộp dưới ánh nến, Tái Niêm cánh cửa lại và đặt chiếc hộp lên bàn. Lấy chiếc chìa khóa từ đai lưng Pháp sư Tối thượng, bà Marcia mở hộp và nhấc ra quyển sách mục nát. Khi ôm nó trong tay, bà Marcia có thể thấy rằng trước kia nó từng là quyển sách tuyệt đẹp. Quyển sách dày khổ được cột ruy băng đỏ phai màu và được bao bằng da mềm, giờ chỉ còn sót lại mỗi mẩu gãy giòn, đó cho thấy vài hình trang trí rối rắm bằng vàng lá – với tựa đề hình như là: Ta, Marcellus. Hết sức nhàng, bà Marcia đặt quyển sách lên bàn, nhưng bà vừa đặt xuống sợi ruy băng mủn tan ra thành bột, bay tung lên thành luồng bụi đỏ phủ kín bàn tay bà, và miếng xi Niêm Kín hai đầu dây rơi xuống sàn và lăn biệt tích vào bóng tối. Bà Marcia mất công đuổi theo nó, bởi vì bà lo lắng – sợ hãi đúng hơn – mở Ta, Marcellus.

      Tim đập gấp gáp, bà Marcia lần chần nhấc bìa sách lên, làm bay đống bụi da lên .

      “Hắt xì,” bà Marcia nhảy mũi. “Hắt xì, hắt xì, hắt xì!”. Và rồi “, ối eo ơi, phát khiếp lên được!” Bởi vì các trang sách bị làm mồi cho lũ bọ giấy hình thù đáng sợ trong thư viện Kim Tự Tháp. Bà Marcia cầm cặp nhíp mũi dài từ ống dụng cụ để bàn ra, và bà gắp từng con , những con bọ giấy cánh mỏng rách lưa tưa, xong rồi nghiên cứu quyển sách bằng chiếc kính lúp lớn. Ta, Marcellus được chia làm ba phần: Giả Kim thuật, Y thuật và Biên Niên Sử. Hai phần đầu, và đa số phần cuối cùng, tuyệt nhiên thể đọc được. Lắc đầu, bà Marcia lật nhanh quyển sách cho tới khi bà phát con bọ giấy mậu ú bị chèn bẹp dí dưới những con số tính toán thiên văn học. Rạng ngời hả hê, bà Marcia nhấc con bọ lên bằng cái kẹp và thả nó vào hũ thủy tinh bàn, sẵn sưu tầm đầy đủ các loại bọ giấy bẹp nhép. Lật nhanh hơn nữa qua những trang còn lại bị hỏng của phần Biên Niên Sử, bà Marcia tiến dần tới năm tại. Lia mắt nhanh xuống những bài viết bí , khó hiểu, thỉnh thoảng tra cứu những bảng sơ đồ ở cuối sách, nhưng trang lấm đầy vết mực, cuối cùng bà Marcia thấy ngày tháng năm mình tìm, đó là ngày Thu Phân(**) – ngày xê dịch khỏi trật tự – và lấy ra mảnh giấy chữ viết loằng ngoằng như nhện bò.

      Vẻ mặt bà Marcia khi đọc tờ giấy bỗng đổi sắc liên tục, từ bối rối ban đầu đến kinh hãi. Run lẩy bẩy, tím tái mặt mũi, Pháp sư Tối thượng vội vàng đứng lên, khẽ nhét mẩu giấy vào túi áo và tức tốc tới Cung Điện, càng nhanh càng tốt.

      (*) Loại đá quý màu xanh dương với những vân vện màu vàng, tự phát sáng, được mệnh danh là “ngôi sao của màn đêm”- ND

      (**) Ngày Thu phân (23-9 dương lịch) là 1 trong 24 Tiết Khí trong năm (như ngày Đông Chí, Hạ Chí…), được tính là lúc trái đất qua trong 24 điểm mốc cách đều nhau 15 độ quỹ đạo quanh mặt trời. Các nhà làm lịch dùng Tiết Khí như “thước đo” để tính mùa và theo dõi thời tiết- ND


      Chương 10. Phòng Hoàng Bào

      Ở Cung Điện, trong phòng khách của Sarah Heap. Septimus bắt đầu động cựa. Đầu nó kêu bưng bưng khi nó mở mắt ra, thắc mắc biết mình ở đâu. Ánh sáng xám nhạt lọt qua những tấm rèm hoa hòe của Sarah và Septimus cảm thấy khí vương vất cái ẩm ướt từ sông lùa vào. Chẳng phải là buổi sáng khiến nó muốn thức dậy.

      Jenna ngáp, vẫn ngái ngủ. bé kéo tấm chăn đan lên trùm đầu và ước gì trời đừng sáng. cảm giác ảm đạm quái gở cứ trì néo bé xuống dẫu hiểu tại sao. “Chào Sep. khỏe chứ?” bé lầm bầm.

      “Ờờờ…” lờ đờ. “ ở đâu đây?”

      “Trong phòng khách của mẹ,” Jenna mắt nhắm mắt mở.

      “Ờ phải. nhớ… Nữ hoàng Etheldredda...”

      Jenna lập tức tỉnh như sáo, nhớ lại cái cảm giác gở gói ấy và ước gì mình đừng cảm thấy nó.

      Đột nhiên Septimus sực nhớ ra điều nữa: bài kiểm tra Thực hành Tiên tri. Nó ngồi bật dậy, mớ tóc màu rơm chĩa ra lua tua, vẻ kinh hãi lóe trong đôi mắt xanh lá cây rực. “ phải đây, Jen, kẻo trễ mất. biết thế nào mình cũng rối trí với nó mà.”

      “Rối trí cái gì?”

      “Thực hành Tiên tri. biết mà.”

      “Dào, vậy sao?” Jenna ngồi dậy, cười toét. “Em đoán đậu là cái chắc.”

      chỉ có thế, Jen à,” Septimus ảo não. “Với bà Marcia chỉ đậu là xong. phải đây, kẻo…”

      “Hê, này Sep. chưa thể về được. phải xem cái này trước . Em hứa rồi.”

      “Hứa? Ý em hứa là sao?”

      Jenna đáp. Đủng đỉnh bé đứng lên và cẩn thận xếp tấm mền đan tay lại. Septimus thấy vẻ u ám và lo lắng trong mắt bé và quyết định đẩy tình hình xa thêm nữa. “Ồ, đừng lo,” nó , miễn cưỡng bò ra khỏi cái giường xếp, “ xem cái gì đó trước rồi mới về. Nếu chạy nhanh kịp.”

      “Cảm ơn, Sep,” Jenna .

      Khi Jenna và Septimus đóng cửa phòng khách của Sarah lại đằng sau lưng, con ma nữ hoàng Etheldredda sà xuống qua mái trần, vẻ mãn nguyện đậu nét mặt đanh xảo của mụ. Mụ ngồi xuống ghế xô pha, cầm quyển sách Sarah để bàn lên và, với vẻ gớm ghiếc, bắt đầu đọc: “Tình chân lừa dối bao giờ?”.

      Septimus và Jenna dọc theo Lối Dài – lối rộng chạy suốt chiều dài Cung Điện như xương sống. Nó vắng ngắt trong cái tù mù của buổi sáng sớm, vì đầy tớ Cung Điện lặng lẽ chuẩn bị công việc cho ngày mới ở đâu đó, còn những Cổ Nhân đủ mọi cấp bậc chiếm lĩnh Lối Dài vào ban đêm cứ sáng sớm ra là ngủ gật mất. Kẻ dựa dẫm vào ngưỡng cửa, người lại bằng lòng ngáy say sưa những chiếc ghế mối ăn dựng lỏng chỏng dọc theo hành lang, vốn làm chỗ nghỉ mệt cho những đôi chân thể liền mạch mà hết nổi quãng đường xa.

      tấm thảm đỏ sờn vẹt trải lên những phiến đá cổ chạy dài ra trước mặt Jenna và Septimus như con đường rộng thênh thang. Jenna luôn có cảm giác như Lối Dài kéo dài mãi mãi, mặc dù bây giờ nó vui mắt hơn ngày trước nhiều, kể từ khi cha Milo Banda của bé tha về đủ thứ của cải lạ đời từ những Vương quốc Xa xôi, và đem sắp đặt chúng trong từng ngóc ngách, xó xỉnh. Quả tình, ông Milo mãn nguyện với cái mà ông gọi là “thắp sáng nơi này” đến nỗi chẳng bao lâu sau ông lại lên đường thực chuyển hải hành khác, hầu tha về thêm nhiều kỳ trân bảo bối nữa.

      Khi chúng ngang qua chỗ mà Jenna cho là quãng quái đản nhất – cái khoảnh ông Milo trưng bày mấy hộp sộ từ đảo Ăn Thịt Người vùng biểm Nam – Septimus chùng chình chậm lại, cứ như bị hút hồn.

      , Sep,” Jenna phụng phịu. “Đừng dừng ở đây, chỗ này ớn sườn quá à.”

      phải cái đầu lâu làm mình ớn lạnh đâu, Jen. Mà là bức tranh kia kìa. Phải đó là hình nữ hoàng Etheldredda ?”

      Đó là bức vẽ toàn thân, nhìn hệt như người . Nét mặt đanh sắc của nữ hoàng Etheldredda nghênh ra nhìn Jenna và Septimus bằng cái thần thái thường nhật của mụ, được họa sĩ nắm bắt và chuyển tải cách chính xác. Toàn thân mụ ngạo mạn đứng dựa vào phông cảnh nền là Cung Điện.

      Jenna rùng mình. “Ba tìm thấy nó trong phòng Niêm Kín gác mái,” thầm như sợ bức chân dung nghe được. “Ba mang nó ra đây vì ba nghĩ nó làm kinh sợ những Đấu Thủ của ba. Em phải bảo ba cất nó lại mới được.”

      “Ừ, càng sớm càng tốt,” Septimus . “Trước khi nó làm bọn đầu lâu sợ chết khiếp.”

      Vài phút sau, Septimus và Jenna ở bên ngoài phòng Nữ hoàng đỉnh tháp cuối Cung Điện. Cánh cửa cao vàng chói, với những họa tiết màu xanh ngọc bích đẹp mắt nhấp nhánh trong luồng bụi của ánh nắng ban mai. Jenna lấy chiếc chìa khóa vàng to lớn nạm ngọc ra khỏi dải thắt lưng da đeo chồng lên tấm khăn buộc màu vàng của mình. Cẩn thận, bé tra chìa khóa vào lỗ khóa nằm ở giữa cánh cửa.

      Septimus đứng lùi lại nhìn Jenna đút chìa khóa vào nơi mà theo nó thấy là bức tường trơn trống lốc và nứt nẻ đúng hơn. Điều này chẳng làm cho Septimus bất ngờ, bởi vì nó biết mình thể nhìn thấy cánh cửa phòng Nữ hoàng. Chỉ những hậu duệ của nữ hoàng mới thấy được nó mà thôi.

      đợi em ở đây, Jen.”

      được, Sep. phải với em.”

      “Nhưng…” Septimus phản đối. Jenna chẳng gì – chỉ quay chìa khóa và nhảy qua bên kia khi cánh cửa đổ sập xuống như chiếc cầu rút. Xong, bé nắm tay Septimus và kéo về phía mà đối với Septimus là bức tường rắn chắc.

      Septimus kháng cự. “Jen, em biết là thể vào đó mà.”

      “Vào được chứ, Sep. Để em dắt vào. Cứ nắm lấy tay em và theo em.” Jenna lôi Septimus tới trước. Nó thấy bé biến dần qua bức tường cho đến khi chỉ còn thấy mỗi bàn tay duỗi ra sau và níu chặt tay nó. là điều quái dị nhất mà Septimus từng thấy, và theo bản năng nó lùi lại, sẵn lòng để bị lôi qua tường, dù người lôi là Jenna. Nhưng cú giật nóng nảy kéo nó mạnh đến nỗi mũi nó vập vào bức tường… à, chọc xuyên vào tường. Thêm cú giật cương quyết tiếp theo và Septimus thình lình thấy mình ở trong phòng Nữ hoàng.

      Thoạt đầu Septimus chỉ trông thấy nhập nhoạng, bởi vì có cửa sổ và căn phòng được thắp sáng duy nhất bằng chiếc lò sưởi đốt than. Nhưng khi mắt nó quen với bóng tối, Septimus kinh ngạc. Căn Phòng hơn nó nghĩ nhiều – đúng ra là hơi chật. Đồ đạc làng nhàng, chỉ có chiếc ghế cũ kỹ và tấm thảm rách đặt trước lò sưởi. Thứ duy nhất đáng nhìn đập vào mắt Septimus là căn buồng cũ ăn vào hốc lõm của bức tường đó khắc hàng chữ vàng quen thuộc: ĐỘC DƯỢC BẤT ĐỊNH VÀ ĐỘC DƯỢC ĐẶC BIỆT. Giống hệt như căn buồng trong mái tranh của dì Zelda ở đầm Cỏ Thô, và nó khiến Septimus bất giác thèm món bánh mì kẹp bắp cải của dì Zelda quá chừng.

      Cả Septimus lẫn Jenna đều trông thấy người ngự chiếc ghế bên lò sưởi – đó là con ma phụ nữ trẻ. Quay qua xem khách nào tới, người phụ nữ nhìn Jenna với niềm hạnh phúc vô ngần. Quanh mái tóc đen dài của mình, con ma cũng đội chiếc vòng vàng giống hệt chiếc Jenna đội. Bộ hoàng bào vàng và đỏ dành cho nữ hoàng của bà thấm bết máu từ tim bà rỉ ra. Khi ngắm Jenna no mắt, nữ hoàng hướng tia nhìn qua Septimus, thu tóm bộ áo chẽn với áo thụng Học Trò xanh lá cây và đôi mắt xanh lá cây rực của nó, đặc biệt chú ý đến dải đai lưng Học Trò Pháp sư Tối thượng màu bạc. Dường như hài lòng cho rằng Septimus xứng hợp làm bạn đồng hành của con mình, người phụ nữ trẻ thả lỏng ra ngồi thư thái trở lại ghế.

      “Ở đây tức cười quá,” Septimus lào khào, nhìn trơ trơ vào cái ghế trống trơn.

      “Em biết,” Jenna đáp ra điều hãy im . Hồi hộp nhớ những lời của nữ hoàng Etheldredda, bé nhìn quanh căn phòng, thầm mong nhìn thấy con ma mẹ mình. bé nghi có vệt lờ mờ gì đó trong ghế bành, nhưng nhìn kỹ lại bé chẳng nhìn thấy gì nữa. Tuy nhiên, Jenna lắc đầu cho ý nghĩ về mẹ thoát khỏi óc mình.

      ,” bé giục Septimus.

      đâu, Jen?”

      “Vào buồng của dì Zelda,” Jenna mở cánh cửa vào buồng và đợi Septimus.

      “Ồ, tuyệt quá, em định đưa tới dì Zelda hả?”

      “Đừng hỏi lôi thôi nữa, Sep,” Jenna hơi sẵng giọng. Septimus tuy ngạc nhiên nhưng vẫn theo bé vào buồng, và Jenna đóng cửa lại sau lưng. Người phụ nữ trẻ ghế mỉm cười, sung sướng nghĩ con mình qua lối Nữ hoàng để thăm Người Giữ Đầm ở đầm Cỏ Thô. Con bé, mẹ Jenna nghĩ, trở thành nữ hoàng tốt đây. Khi Thời Điểm Thích Hợp đến.

      Nhưng, mẹ biết, Jenna tới đầm Cỏ Thô. Vừa đóng cửa lại đằng sau Septimus, Jenna liền thào. “Tụi mình thăm dì Zelda đâu.”

      “Ố,” Septimus ngẩn tò te thất vọng. Thế rồi nó hỏi, “Sao em phải thầm thế?”

      “Suỵt. Em biết. Có cửa sập ở đâu đây. có thấy nó , Sep?”

      “Em cũng biết tụi mình đâu à?” Nó hỏi Jenna.

      . Này, chiếu nhẫn của vào đây coi? Em nghĩ nó giống cái cửa sập của dì Zelda.”

      “Em bí mật quá , Jen,” Septimus vừa vừa chiếu Nhẫn Rồng cho nó thắp sáng sàn nhà. Đúng vậy, cửa sập trong buồng Độc dược Bất định và Độc dược Đặc biệt của nữ hoàng giống hệt cửa sập ở chỗ dì Zelda.

      Jenna cẩn thận nhấc cái vòng vàng dày lên mà lôi (cái vòng ở chỗ dì Zelda chỉ bằng đồng). Cửa sập dễ dàng bật lên êm ru, Jenna và Septimus sợ hãi ngó vào khoảnh hố.

      “Giờ sao?” Septimus thào.

      “Tụi mình phải xuống,” Jenna đáp.

      “Xuống đâu?” Septimus hỏi, bắt đầu ngại ngần

      “Phòng Hoàng Bào. Đó là căn phòng bên dưới. Em trước nhé?”

      , Để trước cho. Đề phòng… với lại, có nhẫn phát sáng.” Septimus hạ thấp người chui qua cửa sập, và thay vì cái thang gỗ ọp ẹp dòng xuống từ cửa sập của dì Zelda, nó thấy hẳn dãy cầu thang bạc tinh xảo, mặt cầu thanh dát vàng, hai bên có những con tiện tay vịn bằng gỗ đào hoa tâm bóng láng. Đành phải leo giật lùi vì bậc thang bậc nào bậc nấy dốc đứng như thang của con tàu, Septimus gọi với lên Jenna, “Được đấy, Jen. nghĩ vậy.”

      Đôi ủng của Jenna thò qua cửa sập, Septimus xuống hết thang và chờ ở dưới sàn. Khi Jenna nhảy xuống khỏi bậc thang bạc cuối cùng, và bàn chân bé vừa chạm mặt sàn đá hoa cương đẹp đẽ, hai cây nến to tướng ở chân cầu thang chợt bùng sáng lên.

      “Oa!” Septimus ấn tượng. “Ở đây đẹp hơn kia, Jen.”

      Phòng Hoàng Bào của nữ hoàng còn thích mắt hơn nữa – lộng lẫy tráng lệ mới đúng. Lớn hơn căn phòng phía do tháp nở rộng ra ở tầng dưới. Những bức tường dát toàn vàng lá, chói lói – mặc dù hơi xỉn qua nhiều thế kỷ – sáng hừng hực dưới ánh nến. Ngay bức tường đối diện cầu thang bạc dựng tấm gương, đúng ra là tấm kính, trông cũ xì, lộng khung vàng chạm trổ cầu kỳ, nhưng dường như nó rất ít được sử dụng, bởi vì lớp gương tráng bong tróc phần lớn sau bao năm ở nơi ẩm thấp. Tấm kính tối đục, chỉ lòa nhòa phản chiếu duy nhất hình ánh nến.

      Dọc khắp các bức tường đóng đầy những chiếc móc bạc vững chãi, mang đủ mọi hình thù phức tạp khác nhau. Cái trông giống cổ thiên nga, cái tựa cổ rắn, lại có cái hình như là chữ viết tắt tên của nữ hoàng khuất núi xa xưa nào đó và tên bạn đời của bà đan lồng vào nhau. Có móc trống trơn, trong khi có móc treo áo choàng, áo thụng, phản ánh những kiểu mẫu khác biệt, thịnh hành qua các thế kỷ trước, nhưng tất cả đều cùng màu truyền thống là đỏ và vàng kim mà các nữ hoàng của Lâu Đài luôn mặc.

      Điều khiến Jenna kỳ mộ – dù Septimus để ý – là chiếc áo nào bị bám bụi cả. Hết thảy đều trông mới tinh tươm tựa hồ như vừa mới được toán thợ may của Cung Điện may xong.

      Bị quyến rũ đến mê hoặc, vì vốn thích quần áo xa hoa, Jenna thơ thẩn khắp phòng, rà ngón tay lên từng chiếc áo thụng mà suýt xoa. “Chao ôi, mềm rượi à, Sep… Ối, cái này, vải lụa hảo hạng… Trông cái viền lông thú này , nó còn đẹp hơn cả áo khoác mùa đông của bà Marcia nữa, hả?” Jenna nhấc hẳn tấm áo choàng len tốt ra khỏi chiếc móc bạc nạm ngọc lục bảo, xoắn thành hình chữ J. bé ướm thử lên vai – tấm áo đẹp tuyệt trần, mềm, mượt và mịn, gấu áo viền lông thú màu đỏ. Nó vừa khít với bé. Miễn cưỡng muốn mắc nó trở lại cái móc đơn độc, Jenna bèn tháo khuy áo ra và choàng hẳn nó vào người. Nó gợi nhắc bé nhớ đến tấm áo choàng xanh da trời của Lucy Gringe mà chính mặc cách đây lâu, và mới rồi lại được trao vào tay Lucy mừng rú lên sững sờ.

      “Nhìn này, nó hợp với em dễ sợ luôn. Cứ như là may cho em vậy. Coi đây, quà Nicko tặng em hợp quá.” Jenna cài chiếc kim vàng lên áo, nó cũng mang hình chữ J, mà Nicko mua của thương nhân ở Bến Cảng tặng bé nhân dịp sinh nhật vừa qua.

      “Ờ đẹp, Jen,” Septimus , nó chẳng thấy áo xống thú vị ở chỗ nào và nghĩ phòng Hoàng Bào hơi ngột ngạt. “Nè, tốt hơn em hãy chỉ cho cái mà em muốn coi chứ?”

      Jenna giật mình trở lại thực tại. Trong thoáng vừa qua, quên khuấy mụ nữ hoàng Etheldredda độc địa. bé chỉ tấm kính đen đen. “Nó đó, Sep. Giờ phải nhìn vô đó. Em hứa vậy rồi.”

      Septimus chột dạ. “Hứa với ai?”

      “Nữ hoàng Etheldredda,” Jenna khổ sở lí nhí. “Đêm qua. Mụ chờ em ngoài cửa.”

      “Ồ,” Septimus lầm bầm. “Ra vậy. Nhưng nhìn vào gương thường hay có những việc quái gở xảy ra lắm, Jen. Nhất là gương cũ. nghĩ mình nên nhìn vào đó.”

      “Làm ơn , Sep,” Jenna nài nỉ. “Làm ơn mà. .”

      “Sao vậy?” Septimus thấy vẻ khiếp hãi mặt Jenna. “Jen… có chuyện gì vậy?”

      “Bởi vì nếu nhìn vào đó, mụ ta …”

      làm gì?”

      Jenna trắng bệch. “Mụ Đảo Ngược phép Giành Lại. Lúc nửa đêm. chết đuối vào lúc nửa đêm nay.”

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :