Nữ Thần Mê Cung - Joe Alex(19c) (Kinh dị)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      [​IMG]



      Tên truyện: Nữ Thần Mê Cung

      Nguyên tác tiếng Ba Lan: Zmącony spokój Pani Labiryntu - Warsaw 1965

      Tác giả: Joe Alex

      Dịch giả: Trạng Khang, Quốc Thắng

      Thể loại: Văn học nước ngoài

      Nhà xuất bản: Tổng hợp Hậu Giang

      Năm xuất bản: 1989

      Số trang: 211

      Kích thước: 13 x 19 cm

      Số quyển / 1 bộ: 1

      Hình thức bìa: Bìa mềm

      ----------------------------------

      Nguồn: e-thuvien.com

      Đánh máy: maihnt

      Hiệu đính: huytran

      Chuyển sang ebook (TVE): santseiya

      Ngày hoàn thành: 18/03/2009

      Nơi hoàn thành: Hà Nội

      Ebook: http://daotieuvu.blogspot.com




      Mục Lục

      Lời mở đầu

      Chương I - “CHUYỆN NÀY ĐÁNG KINH NGẠC, JOE Ạ”

      Chương II - “Ở NƠI ĐÓ VÔ SINH, VÔ TỬ…”

      Chương III - “ĐẢO KEROS, THƯA BÀ…”

      Chương IV - LỜI NGUYỀN BẮT ĐẦU ỨNG NGHIỆM

      Chương V - HỌ NGHĨ GÌ NGÀY HÔM ĐÓ…

      Chương VI - “ Ở KEROS…”

      Chương VII - “CHÚNG TÔI SẴN SÀNG, THƯA GIÁO SƯ…”

      Chương VIII - TRẬN GIÓ THỨ NHẤT

      Chương IX - TRẬN GIÓ THỨ HAI

      Chương X - “TẠI SAO ẤY LẠI

      Chương XI - QUẤY RỐI YÊN TĨNH CỦA NỮ THẦN MÊ CUNG

      Chương XII - “TA ĐƯỢC RỜI KHỎI ĐÂY…”

      Chương XIII - PHO TƯỢNG NỮ THẦN MÊ CUNG

      Chương XIV - “ TÌNH AI THƯƠNG TIẾC TA”

      Chương XV - PHẢI TÌM RA BÀ ẤY

      Chương XVI - NỮ THẦN MÊ CUNG

      Chương XVII - VẾT CHÂN

      Chương XVIII - RƠI VÀO VỰC THẲM

      Chương XIX - TẤT NHIÊN TÔI Ở LẠI



      Lời mở đầu

      "... Ở nơi đó vô sinh vô tử

      Chẳng kẻ nào dám thử liều mình

      Đụng vào mảnh đất thần linh

      Trồng cây, bới của cho mình giàu sang

      Chỉ vì dạ những tham lam

      Hay vì kẻ đó lòng hiếu kỳ

      Dù kẻ đó muốn gì cũng kệ

      Keros này đâu để kẻ trần,

      Đụng vào những phiến đá thần

      gây náo động Nữ Thần Mê Cung.

      Kẻ đó khốn cùng tuyệt vọng

      Chết chìm trong lòng của biển khơi

      Và tên tuổi đời

      Biến mà chẳng người nào hay."


      NHỮNG DÒNG CHỮ ĐỌC ĐƯỢC MẢNH GIẤY TÌM THẤY

      TRONG NGÔI MỘ CỔ.​

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương I
      “CHUYỆN NÀY ĐÁNG KINH NGẠC, JOE Ạ”
      Tiếng gõ êm và đều đều của chiếc máy chữ , dẹt, nhãn hiệu Olivetti bỗng nhiên ngừng lại và phải sau lúc Alex mới hiểu ra rằng mảy chữ ngừng làm việc. nhìn xuống nó sau khi rời mắt khỏi tấm ảnh bạc màu cha mình treo tường. Giờ đây mới nhận thấy những ngón tay mệt mỏi của mình trượt khỏi phím máy chữ và chuyển động chậm chạp mặt bàn, dường như nó vẫn còn đánh những dòng chữ mà nội dung và ý nghĩa chính cũng thể hiểu nổi. rất mệt, mệt đến nỗi thể tưởng được. giơ hai bàn tay lên và ngắm nghía chúng cách lơ đãng. lại từ từ hạ tay xuống, ngồi thẳng người ghế, nhắm mắt lại rồi đột ngột mở ra để chống cơn buồn ngủ kéo đến. nhìn trang giãy đánh gần hết, đọc lướt qua và bình thản vặn nó ra khỏi trục máy chữ, vo tròn cách cẩn thận rồi ném vào sọt giấy ở cách bàn hai bước chân. Như thường lệ ném trúng, điều đó gây cho cảm giác thích thủ nhoi, ngắn ngủi. đứng dậy vươn vai.


      Đêm nay đánh trọn bốn mươi trang. Mặc dầu có ít hơn mười trang so với dự định, nhưng vào lúc này biết rằng mình thể làm thêm được nữa bởi vì tâm trí quá mỏi mệt. Chúng vô tích : Việc viết cuốn tiểu thuyết này lại kéo dài thêm tuần nữa đây.

      đứng dậy giống như người thủ lĩnh già đưa mắt giám sát toàn bộ quang cảnh chiến trường, lần lượt từ chiếc mặt bàn phẳng nhẵn đến những chồng sách, máy chữ và những chiếc bút chì còn cắm trong chiếc cốc. lần nữa nhắm mắt lại và với bực tức ngấm ngầm, quay lưng lại với tập giấy đánh máy và giấy than, chậm chạp bước đến cửa sổ vén rèm.

      Nắng xuân sớm tràn ngập đường phố, các mái nhà. Alex mở rộng cửa sổ, cặp mắt còn ngái ngủ ngắm nhìn đám khói thuốc lá bay lên cao và lan tỏa ra bầu khí trong lành buổi sớm.
      - Lạy Chúa - khẽ - đến bao giờ mọi chuyện mới kết thúc?
      Hỏi vậy thôi chứ Joe biết hơn ai hết rằng sau quyển sách này, viết tiếp quyển khác rồi lại quyển khác nữa. Tuy nhiên câu hỏi đó chỉ về những quyển sách. Caroline vẫn biệt tăm, biết bao giờ gặp lại . Trong cuộc sống của họ, những lúc như thế này xảy ra thường xuyên, nhưng khi Caroline thực muốn tách riêng khỏi mọi người ai tìm thấy được . con sẻ lông xám đậu dàn ăng-ten vô tuyến ở mái nhá phía đối diện, đầu ngó nghiêng vẫy vẫy cái đuôi,hót líu ríu vô tư, toàn thân nhuộm vàng ánh nắng, rồi nó bay vút vào hẻm phố còn tối.

      Joe nhìn theo theo con chim. Suốt cả đêm qua cố nghĩ về Caroline, nhưng bây giờ khi quá mệt mỏi đành chịu thua. Dù tự thú nhận với mình nhưng rất nhớ .

      hai tuần nay Caroline giam mình trong căn hộ ở tít phần bên kia thành phố. Khi hỏi qua điện thoại, bà Downby - người chủ cho thuê nhà - lúc nào cũng chỉ trả lời rằng Beacon còn bận thể đến nghe máy được.

      Theo cách hiểu của mình, Joe tin chắc rằng Caroline , nhưng cũng biết rằng niềm say mê lớn nhất và thực của bất thường này là những phiến gạch viết đầy những dòng chữ dạng vạch của người Crêt cổ xưa.

      Caroline là nhà khảo cổ học trẻ tuổi, có năng lực, người mà các giáo sư danh tiếng tiên đoán rằng có triển vọng lớn. Những triển vọng riêng của liên quan gì với những bí xung quanh vương quốc biển cả của người Crêt, cái vươn quốc có thời ngự trị hầu hết các hòn đảo của vùng biển Ê-giê kéo dài đến tận Tiểu Á? Có phải thực muốn giải mã loại chữ mà chưa ai đọc được và muốn tìm hiểu lịch sử của dân tộc tạo ra nền văn minh rực rỡ, để lại những lâu đài, những bình gốm quý giá, những tranh vẽ và hàng nghìn đồ vật các loại, đồng thời quanh dân tộc đó cũng bị che phủ tấm màn bí mật hoàn toàn mà người ta chỉ có thể đưa ra những giả thuyết về nguồn gốc, quá trình lịch sử và sụp đổ của nó.

      Suốt hai tuần gần đây chỉ nghe thấy tiếng lần khi gọi điện thoại vào buổi tối cách đây vài ngày.
      - Chào Joe! Nó bị hỏng ít và em phải vất vả khá nhiều với nó, nhưng có lẽ mọi chuyện kết thúc tốt đẹp. đáng kinh ngạc, nếu như em bị lầm. Mà có lẽ em lầm đâu.
      - Ai đáng kinh ngạc?
      - Mảnh giấy có chữ của em. Em gọi lại khi nào em làm xong và được biết hết mọi chuyện. Nhiều lúc em có cảm giác là việc này phải dành cho em, mà là cho . Có nhiều điều hoàn toàn thể hiểu nổi.
      - Liệu em có thể hơn được ?
      - Chưa được đâu. Câu chuyện đáng kinh ngạc, Joe ạ! Vài ngày nữa em cho tất cả. Chúc ngủ ngon, tác giả quý nhất của em. Tối hôm qua em phấn khởi quá đến nỗi phải đọc thử quyển sách của để cho nó dịu . Em thể quyển nào bởi vì em ngủ thiếp ngay. Em hy vọng rằng các độc giả của thường đọc mạch tới sáng. Thôi, chúc ngủ ngon.
      cười vang và cúp máy trước khi Joe định lại. Từ lúc ấy đến giờ gần tuần rồi. Alex nhớ và để giết thời gian trôi quá chậm chạp, trong tuần vừa rồi viết được nửa cuốn tiểu thuyết trinh thám. Nhà xuất bản giục làm nhanh vì mùa hè sắp đến rồi, người ta nghỉ hè và nghỉ phép, thời kỳ vợ mua cho chồng, chồng mua cho vợ, bố mẹ mua cho con cái và con cái mua cho bố mẹ truyện trinh thám để đọc khi tầu. Vì vậy, viết và hầu như ra khỏi nhà.
      Tiếng gõ cửa khẽ đến nỗi Joe nghe thấy, tựa người bậu cửa sổ, tiếng ồn ào của thành phố mới thức giấc lọt vào. Cánh cửa mở ra có tiếng động. ngưỡng cửa là Higgins đứng im bất động, điềm đạm, mày râu nhẵn nhụi và nghiêm trang như viên thủ đền. Ngay cả cái cách cúi đầu chào ông chủ của mình cũng mang dáng dấp của người giáo sĩ.

      - Chào ông chủ. Thưa ông, ông có nhận thấy là trời hôm nay rất đẹp ạ?
      Joe quay ngoắt người lại. Mãi tới lúc này mới hiểu rằng hình như ngủ mà nhắm mắt.
      - Chào Higgins. Phải, hôm nay trời tuyệt đẹp.
      - Bây giờ là đúng bảy giờ, thưa ông. Bữa ăn sáng chuẩn bị xong ở phòng ăn. Hôm nay có trứng, giăm bông, cà phê, rượu vang hâm nóng, đúng những món mà ông cầu
      - Ừ, là tuyệt - Joe lẩm bẩm cách thích thú lắm. cảm thấy đói, chỉ thấy mệt mỏi. Xoay lưng lại cửa sổ, đón nhận những tia nắng ấm áp và gây buồn ngủ chiếu cổ mình. - Mùa hè tới. Có lẽ chúng ta phải khỏi Luân Đôn thôi, phải Higgins?
      - Tất nhiên rồi, thưa ông. Rượu vang nóng và tuy tôi đậy lại nhưng…
      - Ngay sau khi tôi giải quyết xong số công việc, chúng ta cùng cho nhau nghỉ hè vài tuần, như thế có lợi cho cả hai ta.
      - Cám ơn ông - Higgins bao giờ mỉm cười đáp lễ khiến Joe nhiều lúc có cảm tưởng rằng nghiêm túc này xuất phát phải do kính trọng quá mức mà do dám thân mật mới ông chủ và tự tạo cho mình hàng rào cách biệt - Thưa ông, tôi vừa đặt tiền trước cho chuyến du lịch nước ngoài, thời gian cụ thể tôi xin báo với ông sau. Nếu ông cho phép, tôi xin được nhắc ông về món rượu vang hâm nóng.
      - Du lịch nước ngoài à? Đến nước nào vậy?
      - Đến Hy Lạp, thưa ông. Đây là chuyến du lịch rất tuyệt và đắt lắm do hãng Cook tổ chức.
      - Thế tại sao lại đến Hy Lạp?
      Higgins hắng giọng:
      - Beacon, khi tới chơi ở đây lần trước phải đợi mất gần tiếng đồng hồ vì lúc đó ông ra ngoại ô và ô tô lại bị hỏng. Có lẽ ông còn nhớ chứ?
      - Đúng. Tôi rất buồn vì điều này.
      - Vâng, chính thế, thưa ông. Beacon kể cho tôi nghe chút ít về công việc của ấy. về Hy Lạp, thưa ông, và hay đến nỗi tôi quyết định chính mình phải được ghé thăm đất nước này nếu như có dịp. Điều đó có nghĩa là nếu như tôi có được thời gian rỗi, thưa ông.
      - Hừm… Joe mỉm cười - Tôi thấy là tôi bị bao vây bởi những người chuyện cổ. Tôi dám tin Beacon lắm về những câu chuyện cổ vì ấy là nhà khoa học, như mọi người đều biết là các nhà khoa học thực chỉ coi chuyên môn của mình mới đáng chú ý. Nhưng dù sao Hy Lạp cũng là đất nước rất xinh đẹp và nếu như thời tiết tốt mà mùa này ở đó thời tiết thường tốt, chúng ta gặp lại nhau sau vài tuần nghỉ ngơi, cơ thể tràn đầy sinh lực mới để chống lại cái mùa thu nước đẹp đẽ nhưng đáng nguyền rủa ấy.
      - Vâng, thưa ông. Báo để sẵn bàn trong phòng ăn. Còn về món rượu vang hâm nóng
      - Cám ơn. Tôi đến đó ngay.
      Alex bước lại bàn, thu dọn đám giấy đánh máy xong và xếp nhanh theo thứ tự số trang. Đây cũng là thói quen: sắp xếp lại gọn gàng những đồ để sau đấy có thể ngồi viết tiếp mà cần phải bày xếp lại chỗ làm việc.
      - Còn việc nữa, thưa ông…
      Joe ngoái nhìn lại. Higgins vẫn đứng ở lối cửa ra vào.
      - Sao? Gì nữa? Rượu vang hâm cần phải nóng lắm đâu. Tôi ngay đây.
      - Tôi muốn thêm là trước đây nửa giờ Beacon gọi điện thoại và…
      Joe vụt đứng thẳng người.
      - Thế là thế nào? Tại sao mãi đến bây giờ tôi mới được biết?
      - Bởi vì Beacon cấm tôi được quấy rầy khi ông làm việc. ấy bảo tôi chỉ bảo cho ông việc gọi điện thoại khi nào ông làm xong việc và…
      - Làm xong việc, trời ơi! - Alex phẩy tay - Thế Beacon còn gì nữa?
      - rằng, ông hãy gọi điện thoại khi nào ông có thời gian rỗi và…
      Higgin chưa kịp hết Joe vọt qua kịp nghe, chạy dọc theo hành lang về phía buồng khách nơi có máy điện thoại đặt cái tủ gỗ cũ kỹ và nặng nề.
      quay nhanh đĩa số bằng ngón tay trỏ còn bị bẩn đen vì thay ruy băng máy chữ tối hôm trước. đợi lúc chờ nghe tiếng tín hiệu điện thoại, sốt ruột gõ gõ ngón tay vào mặt bàn sần sùi.
      - Tôi Caroline Beacon nghe đây…
      Tiếng trong trẻo và tươi mát. Alex thầm ghen với vì đêm qua trong khi ngủ ngon chiếc giường ấm áp còn cặm cụi miêu tả trong số những án mạng đầy bí và khó phát .
      - đây, nương bé bỏng và thông minh ơi. Higgins là em hỏi . thể tin được nên phải gọi ngay cho em.
      - Vâng, em gọi đấy. Em làm xong rồi. Bây giờ em tự do như con chim. ăn sáng chưa?
      - Chưa. Higgins thận trọng và báo tin quá sớm về cú điện thoại của em.
      Trong ống nghe vang lên tiếng cười trong trẻo, hiền hòa, hệt như tiếng trẻ .
      - Vậy , nếu như Higgins đồng ý và nếu như thích, chúng ta có thể cùng ăn sáng chứ?
      - Tuyệt vời. Thế còn mảnh giấy của em?
      - Em giải mã xong nửa giờ trước đây. Sau đó em đứng dậy gọi điện ngay cho .
      - Em làm việc suốt đêm à?
      - Em rời khỏi bàn làm việc trong suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Bây giờ mọi việc xong. Chuyện này hết sức kinh ngạc, Joe ạ!
      - Mình cũng đoán được như vậy - Alex lẩm bẩm, trong óc thích môn khảo cổ học tỷ lệ nghịch với nỗi nhớ Beacon - Này, thế ai mời ai tới ăn sáng đấy, em mời hay mời em?
      - Em mời . có thể có mặt ở đây sau nửa giờ được ? Em vừa mới tắm xong, thay quần áo và trông giống như thiếu phụ. Em đói sắp chết đây.
      - tới sau nửa phút nữa!
      Đặt vội ống nghe lên máy, chạy ngay về phía buồng tắm, vừa chạy vừa xoa tay lên cái cằm chưa cạo râu.
      - Tôi đến Beacon đây! - gọi qua cánh cửa khép vội - Tôi ăn sáng ở chỗ ấy!
      - Vâng, thưa ông…


      Alex cảm thấy sau câu trả lời này nghe thấy tiếng thở dài. Higgins là bậc thầy có hai về nghệ thuật làm món trứng rán và rượu vang hâm nóng. Và đây là bữa ăn sáng thứ bao nhiêu được đụng tới trong vòng hai năm từ khi họ biết nhau.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương II

      “Ở NƠI ĐÓ VÔ SINH, VÔ TỬ…”

      Khi bấm chuông, Carroline mở cửa ngay tức khắc. Cách đây lâu cắt bỏ cái “đuôi ngựa” đầu, hôm nay mặc chiếc quần chẽn mầu đen, áo sơ mi trắng. giống như cậu bé mảnh dẻ và rám nắng.

      - Chào cậu bé - Joe vuốt bàn tay mái tóc cắt ngắn của rồi vòng tay ôm lấy nhìn cách chăm chú. Đôi mắt của Carroline vẫn sáng và ánh lên dường như mới dậy sau đêm ngon giấc.

      - Trông em cứ như là chẳng mất ngủ tí nào cả - hôn và mỉm cười - Lạy chúa, Đức Chúa duy nhất của con ơi, cái gì xẩy ra với khoa học nếu tất cả các nhà nghiên cứu đều giống như em.

      - Em hiểu nghĩ gì - cách nghiêm nghị, nhưng sau giây lại mỉm cười - Joe, em van , hãy ngừng tán dóc lúc để nghe em nào! phải nghe, tuyệt đối phải nghe toàn bộ câu chuyện. Em thể nghĩ về cái gì khác được… - gỡ khỏi vòng tay đứng ở giữa phòng, hai tay chống vào eo lưng mảnh dẻ, giống con trai của mình - có thể tin em hay tùy, nhưng nếu như những gì em nghĩ về những dòng chữ mảnh giấy là Caroline Beacon viết thêm vài dòng có ý nghĩa vào lịch sử của nền văn minh chúng ta.

      Alex gật đầu vẻ hiểu biết.

      - Sếch xpia viết rằng nên tốt về mình bởi vì những người khác chẳng bao giờ làm điều này được bằng ta. Tuy nhiên từ trước đến nay vẫn nghĩ em là người khiêm tốn và …..

      - Bởi vì em khiêm tốn! - Carroline dài giọng. - Em rất khiêm tốn và rất đói. Beacon xin mời vào phòng ăn

      khẽ nghiêng người vòng tay cách duyên dáng, ngón tay gần như chạm sàn nhà giống như nhà quí tộc ngả mũ chào. Sau đó biến ngay vào bếp. Alex đứng im lặng lúc, mỉm cười nhìn theo cánh cửa bếp vừa khép lại sau . chậm rãi bước vào phòng ăn, ngồi xuống bàn dọn sẵn và nhắm mắt lại. Ở đây ấm áp và yên lặng. Đâu đấy có tiếng radio.

      Cánh cửa cọt kẹt mở, Carroline hai tay bê chiếc khay có hai ly cà phê bốc khói.

      - Em pha cà phê rất đặc, rất đặc đấy - và đặt khay lên bàn - mặc dù em biết rằng thích nước chè hơn. Nhưng mà em muốn để nghe kỹ hơn, và nhất thiết phải là Joe Alex mới đoán được rằng ai làm việc cả đêm ngủ quên ngay lặp tức nếu để cho người đó mình trong phút. Sau khi nghe xong câu chuyện em kể, tự nhận thấy câu chuyện quả là kinh ngạc.

      Joe gật đầu và cố nén cái ngáp và nhắm mắt lại. Sau đó cố mở mắt ra và mỉm cười.

      Đây nhất định trong những buổi sáng thú vị nhất đời .

      - cứ cười , hãy cười thương xót con người yếu ớt này , người mà tí nữa chăm cho ăn hết lòng. Nội dung mảnh giấy của em có thể thú vị gấp trăm lần so với nội dung của năm nhà xác chất đầy tận nóc những thây ma hạng bét của . Đấy là em chưa kể tới những kẻ kế thừa đần độn và sốt ruột mà sau này phải khám phá cách vất vả như báo chí viết, mặc dù cái việc này chẳng đòi hỏi tý sức lực nào bởi vì thông thường người nọ giết người kia vì những lý do đơn giản chỉ cần nghĩ lúc là…..

      - hiểu - Joe gật đầu - Em muốn rằng là thằng ngốc và được nổi tiếng chút trong các độc giả người chẳng qua là vì kẻ sát nhân mà giúp thám tử Parker bắt được còn ngu hơn cả có phải .

      - phải như vậy! Em chỉ muốn giải thích là nhà khảo cổ giỏi phải là nhà thám tử giỏi! Tất nhiên nhà khảo cổ giỏi chỉ là thám tử mà còn là…

      - Là đầu bếp - Joe gật đầu tán thưởng - nhìn thấy cà phê rồi. Thế được thêm gì nữa để nghe những điều hay ho mà Beacon về Beacon?

      - Tất cả những gì muốn, sau giây nữa, nhưng hãy để em nốt .

      - nghe đây - Alex đứng dậy, bước lại gần , nhấc bổng lên và đung đưa nhàng dường như chỉ là con búp bê lớn. hôn rồi đặt xuống - Có lẽ có gì thú vị đây. chưa bao giờ thấy em trong trạng thái này.

      - Bởi vì chưa bao giờ… À thôi, hãy đợi . Trước hết là ăn sáng. Mẹ em luôn rằng người đàn ông đói như thú dữ ấy, muốn dụ nó chỉ có thể bằng đĩa thức ăn đầy.

      - Hãy chuyển đến mẹ em lời chào kính trọng nhất của .

      Sau bữa sáng, họ ngồi cạnh nhau trong phòng khách sáng sủa, cũng đồng thời là phòng ngủ và phòng làm việc của Caroline. nhấc tấm vải trắng phủ lên vật nằm cái bàn giấy xinh xắn của . Thoạt đầu Alex ngỡ đó là bức tranh dài, khổ , nhưng khi Caroline nghiêng nó về phía và đưa sát vào mắt nhận thấy đó là mảnh giấy màu nâu nát, được đặt giữa hai lớp kính, chung quanh dán băng dính như cái khung vậy.

      - Hãy nhìn kỹ vật này, Joe. Chỉ xin cẩn thận.

      Alex im lặng xem xét mảnh giấy. mảnh giấy là nhưng hàng chữ Hy lạp đều đặn, đẹp và mờ, đôi chỗ hoàn toàn đọc được. Phía dưới có hình vẽ. Đó là hình phụ nữ đứng, mặc váy dài phủ kín bàn chân. Hai tay giang rộng và nắm vật gì trông như những con rắn. đầu là chiêc mũ có con chim xòe hai cánh.

      Hình vẽ được giữ tốt hơn chỗ có viết chữ, có lẽ nó được cuộn vào phía trong nên mặc dù chôn dưới đất có đến ngàn năm mà vẫn còn trông khá .

      Joe cúi xuống đọc dòng chữ viết dưới hình vẽ người đàn bà: ATANA POTNIA GIÓ BỒ CÂU MÊ CUNG.

      ngẩng đầu lên.

      - Vốn hiểu biết tiếng Hy lạp khá lắm nhưng theo đây có lẽ phải tiếng Hy lạp cổ.

      Carroline mắt tròn xoe nhìn cách ngạc nhiên.

      - Joe, thành làm sao có thể biết được điều này?

      - biết. suy luận thôi. Atlanta là tên gọi cũ của Athena[1] . Chắc sai đâu. Người có kiểu chữ viết đẹp như thế này hẳn là phải biết cách viết cái tên khá phổ biến đó.

      - Đúng, tuyệt ! Thế còn những suy luận khác?

      - Em đừng đòi hỏi quá nhiều ở người viết truyện trinh thám khiêm tốn. Chữ PTONIA, theo nghĩ, nhà thơ Homer dùng để về nữ thần. Có thể dịch chữ này là NỮ THẦN có được ? - lại ngắm nghía kỹ mảnh giấy - Như vậy dòng chữ dưới hình vẽ có nghĩa là: ATLANTA, NỮ THẦN CỦA GIÓ, CHIM CÂU VÀ MÊ CUNG.

      ngẩng đầu lên. nụ cười rộng lượng xuất mặt .

      - Thế mà em phải mất bao nhiêu thời gian cho cái mảnh giấy này - với giọng hơi đắc thắng - Tất nhiên, Nữ thần Mê cung là vị thần chính của dân Crêt.

      Carroline cầm mảnh giấy lên tay. ngắm nhìn Alex lúc mà mảy may thay đổi nét mặt. Rồi bỗng nhiên cười phá lên.

      - Tại sao chẳng bao giờ với em về điều này?

      - Về điều gì cơ?

      - Rằng cũng chú ý tới những công việc này này!

      - thích thú những công việc về cái nền văn minh Ê giê như em nghĩ. Dân Crêt đối với chả là cái gì. chỉ thấy vô cùng hạnh phúc nếu như em trở thành vợ và lo công việc khác như nội trợ chẳng hạn. Còn nếu như em có ý định làm việc này hãy đọc mảnh giấy và sau đó muốn được có thêm ly cà phê nữa.

      - có thậm chí cả đồn điền cà phê, Joe, nhưng trước hết phải nghe những điều em đây - do dự chút rồi tiếp - Em nghĩ rằng giúp ích cho em - giơ tay chỉ vào mảnh giấy - Thực còn nghi ngờ mảy may gì về tính chính xác của tài liệu này. phải là chuyên gia trong lĩnh vực khảo cổ, nhưng ngạc nhiên giống như khi em với về nó. Mảnh giấy này có khoảng hai nghìn ba trăm năm trước và được tìm thấy ở Ai cập năm ngoái trong khi khai quật ngôi làng cổ ven biển của người Hy lạp, ranh giới giữa châu thổ sông Nin và sa mạc. Chỗ đó khô ráo nhưng phải là bị ẩm. Em cho là phải có phép nhiệm mầu nên mảnh giấy này mới tồn tại được dù chỉ phần. Họ đem nó về nước cùng nhiều thứ khác. Sau đó, hoàn toàn ngẫu nhiên, nhà cổ ngữ học trẻ tuổi, bạn em từ thời sinh viên, tiến hành đọc nó. Như thấy, mảnh giấy này bị nát nhiều chỗ và phải chiếu tia hồng ngoại để đoán được nét bút viết bằng cây sậy đó. Nhưng những chi tiết đó để sau . Trước tiên, em muốn nghe bản dịch ra tiếng của em: có thể nó chưa hay nhưng hoàn toàn trung thực. Hãy nghe đây:

      “Ở nơi đó vô sinh vô tử

      Chẳng kẻ nào dám thử liều mình

      Đụng vào mảnh đất thần linh

      Trồng cây, bới của cho mình giàu sang

      Chỉ vì lòng da tham lam

      Hay vì kẻ đó lòng hiếu kỳ

      Dù kẻ đó muốn gì cũng kệ

      Keros này đâu để kẻ trần

      Đụng vào những phiến đá thần

      gây náo động Nữ thần Mê cung

      Kẻ đó khốn cùng tuyệt vọng

      Chết chìm trong lòng của biển khơi

      Và tên tuổi đời

      Biến mà chẳng người nào hay”

      ngừng lại lúc. Joe im lặng gật đầu giục đọc tiếp.

      - Đến đây là hết phần thơ - Caroline - Tiếp theo là lời do cùng người viết:

      “Những lời cổ xưa này về Đức Bà được chép lại trung thực từ tay ta, thủy thủ Perimos, người cả cuộc đời sống lênh đênh biển cả. Ta nhìn thấy Keros lần khi bơi thuyền chở lúa mì và rượu vang tới Bi dăng tin. Ta nhìn thấy hòn đảo, nhưng hướng thuyền về phía đó. Ta bơi vòng quanh đảo, cúi chào hòn đảo khi đêm xuống. Ta tự cầm lái khi gia nhân của ta ngủ say. Ngôi sao hàng hải chiếu trước mặt ta, sau lưng ta, rồi lại trước mặt ta khi ta dâng lễ vật cho thần bằng cách rót rượu vang xuống biển và rắc lúa mì sóng. Ta đánh thức kẻ nào dậy và ai trong số chúng nhìn thấy ta làm gì cho đến khi ta lại cho thuyền tiến về phía ngôi sao hàng hải. Ta đánh thức ai, vì ta muốn sau này khi chúng lại thấy Keros, chúng lên đảo quấy rầy yên tĩnh của Nữ thần Mê Cung. Trước đó Cụ của ta ở đấy, trước đó nữa là cha và ông của Cụ ta, và trước nữa là những người khác trong dòng họ của ta. Cụ của ta mất mà có con trai. Từ đó đảo có thủ đền, Mẹ của ta, con của người thuộc và cho ta những lời về Nữ thần. Ta em trai cũng như có con trai để lại cho họ những lời này. Thời gian của ta hết. Ta viết lại những lời này để Đức Bà biết rằng khi ta về cõi hư vô, ta dâng Người lễ vật. Cuộn giấy này, được niêm phong bằng triện của ta, được đặt vào mộ khi chôn, ta dặn phải đặt nó ở trong bàn tay phải của ta để ta trao lại cho Đức Bà khi trông thấy người. Và ta còn là người sống nữa khi biết rằng Người ở trong Mê Cung. Và khi họ bơi qua đây như là vượt qua nơi có bến đỗ, nơi có gì sinh ra cả. Và dù cho có kẻ nào liều mình tiến vào các mỏm đá hiểm trở, còn sống sót để lên bờ cũng rơi vào vực thẳm, biến mất cùng với tên tuổi của nó. Đức Bà ngủ như những người thường vẫn ngủ và thức dậy trong ánh hào quang của mình khi tới lúc.”

      Carroline dừng lời, đặt mảnh giấy cách thận trọng lên bàn.

      - Phía dưới là hình vẽ và dòng chữ mà được đọc rồi đấy - khẽ. Rời khỏi ghế, về phía cửa sổ, đứng im lặng lúc với đôi mắt nhắm nghiền, trán tì vào kính cửa sổ rồi đột ngột quay lại - Nếu như muốn biết điều này có ý nghĩa gì hãy nghĩ tới điều: người Crêt xây dựng vương quốc của mình cách đây sáu ngàn năm. Vương quốc hùng mạnh này tồn tại rất lâu và cuối cùng sụp đổ vào ba nghìn rưởi năm trước đây. Tất cả đều sụp đổ: các thành phố, tổ chức nhà nước, các thần linh, tiếng cũng mất , chỉ còn lại những dấu vết mờ nhạt trong thần thoại của người Hy lạp, những người phá hủy cái vương quốc này. Và lúc đó, khi triều đại Hy lạp tới chỗ suy vong trong ngôi làng nằm rất xa Hy lạp có người con của vương quốc bị diệt vong hấp hối và viết nên những dòng chữ này. Ông ta kể tằng cụ của ông ta là người thủ đền thờ Nữ thần Mê Cung, mà việc thờ cúng vị Nữ thần này còn từ ít nhất nghìn năm trước khi ông ta sinh ra. Mảnh giấy này mô tả kỹ lưỡng Atlanta, Potina, Nữ thần của Gió, Chim Câu, và Mê Cung, vị thần chính của người Crêt. Hơn thế nữa, ông ta còn giải thích rằng đền thờ của vị Nữ thần này nằm ở nơi hiểm trở, hoàn toàn phải ở đảo Crêt mà là hòn đảo có người ở, được giấu kín đến mức tìm ra được. Điều đó có nghĩa là đền thờ này tồn tại qua hàng nghìn năm, mặc dù người Hy lạp ra sức tìm kiếm khắp các đảo vùng Địa trung hải, và có thể nó vẫn còn tồn tại!

      Alex gật đầu cách tin tưởng mấy.

      - Chưa hết đâu - Carroline vội lấy tay che miệng lại - nghìn năm sau khi vương quốc Crêt sụp đổ, nhà sử học Hy lạp Tukidydes viết:

      “Như chúng ta từng nghe, Minos là người đầu tiên có trong tay hạm đội hùng mạnh. Ông ta thống trị phần lớn vùng biển mà ngày nay gọi là biển Hê len, đặt chính quyền lên toàn vùng Cyklad….” Cái từ “Như chúng ta từng nghe” có nghĩa là trong các câu chuyện kể của người Hy lạp có chứa dấu vết của những cuộc giao tranh với người Crêt, và cái tên Minos còn tồn tại bởi vì thực tế ông ta thống trị đất nước này. Ông ta ta là kẻ thù của các bộ tộc Hy lạp, những người từ những miền sâu trong đất liền ra sinh sống bờ biển, bị rơi vào ách thống trị của ông ta. Họ cố thoát khỏi ách thống trị này và phá hủy cả cái vương quốc rộng lớn của người Crêt, từ đó mở thông đường biển sang chinh phục các đảo và bờ biển vùng Tiểu Á. Nhưng em muốn sang vấn đề khác. Truyền thuyết các cuộc giao tranh với người Crêt có vài truyện có ý nghĩa lịch sử to lớn.

      Trước hết là về Mê Cung do Đêdal xây dựng cho quốc vương Minos để nuôi giấu đứa con Minotaur, nửa người nửa bò của mình. Chúng ta cũng biết qua các khu khai quật rằng bò được thờ đảo Crêt. Có thể người ta cúng lễ nó bằng việc hành hình các tù binh hoặc các con[2] tin người Hy lạp, từ đó có chuyện kể là nó ăn thịt người. Sau đó là truyền thuyết về người Hy lạp tên là Têdê tới hòn đảo này, công chúa Ariadna, thâm nhập vào sâu trong mê cung, giết Minotaur và lấy công chúa làm vợ. Có thể Têdê là thủ lĩnh của đội quân Hy lạp phá hủy thủ đô vương quốc Minos và lật đổ tượng đài con bò đáng căm ghét. Ariadna có thể thực là công chúa của vương quốc Crêt mà người thắng trận chiếm làm vợ, để có thể hòa hợp với dân tộc này và đứng ở vị tri cao quí hơn là bị coi là kẻ xâm lược. Từ thời điểm này tiếng Hy lạp bắt đầu dùng đảo. Qua những công trình nghiên cứu thiên tai của Ventris, chúng ta biết rằng người Crêt dùng chữ khác, tiếng khác, đến giờ chúng ta vẫn chưa tìm được cách đọc.

      Người Hy lạp chưa thể tiếp quản hết những kho báu của nền văn minh Crêt, và có thể những cuộc xâm chiếm về sau của những bộ tộc Hy lạp nguyên thủy hơn phá hủy cả cái nhà nước Hy lạp - Crêt? gọn là hệ chữ đó biến mất, hai trăm năm sau khi chinh phục được đảo Crêt, người Hy lạp vẫn mù chữ. Mãi sau này người Hy lạp mới lấy bảng chữ cái của người Phê ních để tạo ra hệ chữ mà ngày này gọi là chữ Hy lạp. Từ những vùng khai quật trong khu vực văn minh Crêt, chúng ta biết rằng họ thờ thần chính là Nữ thần Mê Cung, đồng thời cũng là nữ thần của Gió và Chim Câu. Bà ta cũng có tên là Atana. Còn cái tên Atena vẫn được gọi sau này có lẽ là tên vị thần thời kỳ tiền Hy lạp do người Hy lạp truyền lại. Ngược lại người Hy lạp chưa bao giờ thờ Nữ thần Mê Cung mặc dù họ biết tới nữ thần Persefon và ám chỉ Hades cũng là nơi khó tới được giống như vào Mê Cung…..

      - Nhưng ông thủy thủ Perimos của chúng ta…. Joe .

      - Chính thế! Ông thủy thủ Perimos gọi nữ thần của mình bằng cái tên mà chính ông ta cũng tự biết bởi vì nó bị lãng quên từ hàng nghìn năm rồi. Khi ông ta viết những giòng chữ này giấy, các thành phố Crêt bị phá hủy thành đống gạch từ lâu.

      - Có nghĩa là em muốn với rằng nếu ông ta biết được cái tên mà chính ông ta thể tự tìm ra đó là chứng cớ nhất về tồn tại hòn đảo Keros được truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác của ông ta.

      - Phải, em coi đó là luận cứ khoa học chắc chắn - Caroline trả lời dứt khoát - Bởi vì người bình thường thể biết được tên vị nữ thần này bằng cách khác. có thấy hình vẽ người đàn bà giang hai tay cầm những con rắn ? toàn bộ khu vực văn minh Crêt đều thờ tượng nữ thần này. Perimos có thể tìm được bức tượng này nhưng tự biết nó là ai nếu có những thông tin được truyền lại.

      Alex nhướng mày.

      - Khoan . Dù cho pho tượng này là ai Mê Cung đó vẫn nằm đảo Crêt chứ nằm hòn đảo nào khác, có phải ?

      - Joe, thế chúng ta biết gì về đảo Crêt và dân cư ở đấy? Chúng ta khai quật các thành phố của họ, chúng ta biết tới những hình vẽ, đồ gốm họ làm ra, chúng ta cũng biết họ ăn mặc thế nào, xây dựng ra sao, chúng ta có thể suy luận ra họ ăn gì và giải trí thế nào. Nhưng chúng ta hoàn toàn biết tí gì về lịch sử của Crêt, bời vì chúng ta chưa biết đọc dạng chữ vạch mà dân tộc đó sử dụng. Cho đến bây giờ chúng ta vẫn chưa vượt qua được trở ngại này.

      - Cứ cho là người thủy thủ Perimos kia viết chúng đúng và nhóm nghiên cứu của em tìm ra Keros với đền thờ của Nữ thần Mê Cung, nhưng có thể đó chỉ là trong số những nơi thờ cúng bé của địa phương còn tồn tại vì ở cách xa những nơi người Hy lạp chiếm đóng. Hòn đảo khó tới gần, từ xa trông như có người ở và hiếm nước (theo lời ông ta kể) và có cây mọc thu hút chú ý của ai. Những đền thờ như vậy, có thể rất nhiều. Tất nhiên, mảnh giấy này rất thú vị. Nhưng thấy nguyên nhân nào làm cho nó có thể trở thành tài liệu đặc biết.

      - Thế mà em lại thấy đấy - Caroline đáp lại bình thản - Nếu như đảo Keros bị phá phách từ trước và nếu như ở đó tồn tại đền thờ Nữ thần Mê Cung, còn dòng họ người thủ đền trong vòng nghìn năm bí mật tới đó để dâng lễ vật chúng ta có thể thực những phát bất ngờ. Hãy nhớ rằng, dòng họ ấy tới đảo thường xuyên trong vòng nghìn năm, họ nhất định phải để lại dấu vết. Tập quán ghi nhận lại những lễ vật hiến tế rất phổ biến ở Hy lạp. Perimos chưa bao giờ đến Keros nhưng lại vẽ được hình Nữ thần Mê Cung giống như người Crêt thể , như vậy có khả năng là dòng họ này truyền cho nhau kỹ năng viết chữ và ý nghĩa biểu tượng của Nữ Thần. Trong trường hợp những người tiếng Hy lạp cổ cũng đến thăm viếng đền thờ nữ thần họ để lại những ký hiệu hoặc văn tự của ngôn ngữ tiền Hy lạp và ta có thể tìm thấy những dòng chữ song ngữ ấy tượng, tường hay ở đâu đó. Đó chính là cuốn tử điển chuyên ngành khảo cổ học Crêt cầu mong. hiểu em chưa?

      - hiểu - Joe - Tất cả đều rất có thể xảy ra, mặc dù khả năng đó rất bé và thời gian hàng nghìn năm trôi qua. Tuy nhiên cho dù em tìm ra những dòng chữ song ngữ, việc phát ra đền thờ Nữ Thần Mê Cung theo những chỉ dẫn trong tài liệu cách đây 2.300 năm cũng làm chấn động thế giới.

      - Em thèm vào cái chấn động thế giới ấy! - Carroline nhíu mày - Điêu quan trong nhất là có lợi cho khoa học. Em điều này có vẻ hơi viễn tưởng về truyền thuyết Mê cung nổi tiến do Đêdal xây dựng. Khi nhà khảo cổ Evans phát ra cố đô Crêt là Knosos và khai quật lâu đài của nhà vua với hàng trăm hành lang, phòng ở, buồng khách, sân chơi người ta cho đó là Mê Cung bởi vì người ta có thể lạc ở trong đó. Nhưng điều đó chưa chắc chắn.

      - Em muốn rằng, Cung điện ở Knosos phải là Mê Cung do Đêdal xây dựng?

      - Phải.

      - Tại sao?

      - Em nghĩ như vậy vài năm trước đây khi em đọc những dòng chữ kiểu vạch các miếng gạch viết về Nữ thần Mê Cung.

      bỗng nhiên ngừng lời, nhìn Alex và mỉm cười.

      - Nào, xin mời thám tử nổi tiếng cho ý kiến!

      Joe gật đầu.

      - Có phải em định rằng nếu như họ viết về Nữ Thần Mê Cung có nghĩa đó phải là mê cung , chứ phải là cung điện nhà vua. Người ta có thể gọi là mê cung chứ người dân ở đấy thể như vậy, bởi vì đối với họ đó chẳng có gì bí mật cả. Họ chẳng đời nào gọi Nữ Thần của mình là Nữ thần Mê Cung chỉ vì cung điện nhà vua có nhiều phòng và hành lang. Có phải thế ?

      - Chính là như thế. Suy luận tiếp theo như sau: ở Knosos cũng như ở những nơi khác thuộc về nền văn minh Crêt phát ra công trình nào giống như Mê cung trong truyền thuyết của người Hy lạp. Tất nhiên Mê Cung trong đó nhất thiết phải nằm đảo Crêt. Crêt là vương quốc biển thống trị toàn bộ vùng đông Địa trung hải. Người Crêt có thể chọn bất kỳ hòn đảo nào trong bán kính hàng trăm dặm cách đó là thủ đô để làm trung tâm tín ngưỡng, nhằm mục đích đảm bảo kẻ nào cướp phá đền thờ của họ. Nếu như những khó khăn như Perimos mô tả điều đó càng trở nên đúng hơn. có thể hỏi tại sao dân tộc giầu có và hùng mạnh lại muốn có đền thờ thần linh của mình ở cách xa trung tâm? Trong khu vực này điều đó phải là hiếm. Thí dụ Aten và Spac trong suốt thời gian dài là hai vương quốc hùng mạnh nhất ở Hy lạp, thế mà những trung tâm tín ngưỡng lớn lại ở cách khá xa hai nơi thành phố này, nhiều đền thờ còn được dựng ở những hòn đảo đông người hoặc những nơi hẻo lánh. Hình như đó chính là tập quán của người Hy lạp, muốn để thần linh của mình ở nơi yên tĩnh cách xa những trung tâm buôn bán, chiến tranh và hỗn độn - ngừng lời - Vị vậy có khả năng dù rất nhoi, là mảnh giấy nát tìm thấy trong ngôi mộ cổ kia chỉ ra cho chúng ta ví trí của trong những công trình nổi tiếng nhất của thế giới cổ đại: Mê Cung của đức vua Minos.

      Họ im lặng lúc lâu, cuối cùng Alex nở nụ cười thoải mái. còn buồn ngủ nữa.

      - Tốt - giọng nghiêm chỉnh - muốn hỏi chỉ điểu thôi: đảo Keros ở đâu?

      Caroline giang tay bất lực.

      - Năm phút sau khi giải mã xong mảnh giấy, em bắt đầu tìm trong tất cả các Atlas và tử điển khảo cổ. Em có ở đây Đại Atlas thế giới cổ đại, em có các tử điển chỉ dẫn với các tên sông ngòi, địa danh, núi, đảo, vịnh, thành phố lớn trong các tài liệu cổ…

      - Và sao nữa?

      - Chẳng có gì cả - Caroline giang tay - chẳng ở đâu có đền Keros.

      - Em hỏi ai chưa?

      - Chưa. Trước hết em có nhiệm vụ phải tường trình lại toàn bộ việc cho giáo sư Lee

      Alex đứng dậy.

      - Chúng ta thôi - và tiến về phía cửa.

      - đâu? - Carroline cũng đứng dậy nhìn dò hỏi.

      - Còn đâu nữa? - nắm tay quả đấm cửa, nét mặt nửa đùa nửa - tất nhiên tìm đảo Keros!

      Ngạc nhiên, bước theo lời.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương III

      “ĐẢO KEROS, THƯA BÀ…”

      Mãi đến khi ô tô chuyển bánh hòa lẫn vào dòng xe cộ đại lộ Edgware, Caroline mới phá tan im lặng.

      - Joe này, nhiều lúc coi em cứ như đứa trẻ ấy, em đảm bảo với rằng em trưởng thành từ lâu và…

      - Em muốn biết là chúng ta đâu chứ gì? - liếc nhìn cười rồi lại tập trung nhìn về phía tay lái - Theo em, ở đâu trong Luân đôn có thể biết được vị trí của hòn đảo nào đấy?

      - Ở đâu à? Em hiểu… - Caroline nắm lấy cánh tay của - Joe, đừng có đùa như thế, nếu em thề là bịt mắt lại và chúng ta cùng đâm vào cái cột điện nào đó đường.

      - Ấy đừng! Em làm được điều đó đâu vì em còn mơ tới đảo Keros và người đàn bà cầm rắn trong tay. Còn nếu em biết tìm những hòn đảo mất tích ở đâu bảo cho em biết: tìm ở Bộ Hải quân Hoàng gia .

      - Ở bộ Hải quân? ơi, em chỉ quen có vài sĩ quan hải quân, em đánh cược rằng chẳng ai ở bộ này có thể biết Keros nằm ở đâu và chưa từng nghe tới người cổ đại Crêt.

      - Về điều này đánh cược, nhưng có thể cược rằng Phó Đô đốc Holinshead cho chúng ta tất cả những gì cần biết về hòn đảo của em - ngừng lời rồi vừa cười vừa thêm - tất nhiên là nếu như nó tồn tại.

      - Thế Phó Đô đốc Holinshead là ai?

      - À, đó là người mê truyện trinh thám và thích nhà văn Joe Alex - trả lời cách khiêm tốn - Chính ông ta với như vậy.

      - Nhưng… - Caroline tiếp. tin rằng vị đô đốc hải quân nào đấy lại có thể biết về Keros hơn là những quyển Atlas và từ điển về thế giới cổ đại. thở dài. mệt mỏi về mười mấy ngày làm việc, thiếu ngủ và thiếu khí trong lành. Mải cho tới lúc này mới nhớ ra rằng từ hai tuần nay chưa bước ra khỏi cửa.

      Joe khéo léo lách xe giữa luồng xe đông đúc của buổi sáng. Vừa vừa nghĩ gì về Keros cho Holinshead. Vị Phó đô đốc này quả là người thích truyện trinh thám. Alex biết ông ta trong bữa tiệc tại nhà người bạn thân. Khi chia tay, Holinshead câu xã giao với những người vừa quen biết. Nếu như tôi có thể giúp được ông điều gì, xin hãy đến gặp tôi ở Bộ hải quân. Joe chưa từng quên điều gì và cũng quên cả những lời này.

      Xe dừng lại trước toà nhà lớn, trụ sở của Bộ Hải quân. Họ vào. Khi người sĩ quan thường trực khỏi với tờ danh thiếp của Joe Alex, Caroline lại thở dài. Đáng lý ra phải báo cáo trước hết cho giáo sư Lee và cùng ông xác định vị trí của hòn đảo. Nhưng mà thế cũng chả hơn gì. Chỉ điều duy nhất có ý nghĩa: đảo Keros nằm ở đâu? Liệu nó có tồn tại như Joe nhận xét ?

      Viên sĩ quan quay lại và đứng trước Alex.

      - Xin mời theo tôi, Đô đốc tiếp ông.

      Caroline do dự nhưng Joe kéo cùng .

      Herbert Holinshead chưa phải già lắm, thậm chí Caroline còn cho rằng ông rất trẻ. biết tại sao nhưng cái từ “Đô đốc” làm nghĩ ngay tới tóc bạc. Trong khi đó, vị sĩ quan Hải quân này chưa quá năm mươi, dáng người cao lớn và đẹp, trong bộ quân phục ông giống diễn viên hơn là sĩ quan Hải quân thực thụ.

      Thế nhưng Holinshead chính là Đô đốc Hải quân, vì vậy ông hơi ngạc nhiên nhìn Caroline. Trong vài giây, trông ông như người bị chóng mặt, lúc này mới nhận thấy mình vẫn mặc áo sơ mi và quần dài. Có lẽ ít nhất từ trăm năm mươi năm nay chưa có phụ nữ trẻ đẹp nào bước qua ngưỡng cửa văn phòng này, và cũng chắc chắn là chưa có người phụ nữ nào mặc quần dài được bước vào đây[3]. Tuy nhiên Đô đốc trấn tĩnh ngay được. Bên cạnh này là Joe Alex, như vậy mọi có thế xảy ra được. Có thể đến thăm của họ che đậy điều bí rùng rợn gì chăng? Còn công việc của vị trưởng phòng hải đô Bộ Hải quân chẳng lấy làm mơ mộng và thú vị như trước đây ông tưởng khi còn là chàng trai muốn trở thành sĩ quan hải quân. Nếu được tự do , có lẽ ông thừa nhận ngay là công việc chán lắm. Mùa hè tới, ông chờ đón nghỉ hè như chờ cứu nạn.

      - Xin mời, xin mời, mời ông bà ngồi - ông hơi do dự, nghiêng đầu chào Caroline.

      - Tôi hi vọng là ông tha lỗi cho viếng thăm đường đột này - Alex nghiêm túc - nhưng việc đối với chúng tôi rất quan trọng. Có lẽ ông là người duy nhất ở Luân đôn này có thể giúp chúng tôi được. Beacon đây là đại diện của Viện khảo cổ, và cứ trông quần áo ông thấy đấy, ấy tới thẳng đây từ trường làm việc.

      để ý tới cái nhìn đầy biết ơn từ Caroline, tiếp:

      - Công việc vô cùng phức tạp giống như giải mật mã vậy. Chúng tôi muốn về hòn đảo…

      - Về đảo à… - vị phó đô đốc tươi tỉnh hẳn lên - Tất nhiên nếu như chúng tôi có thể giúp được - ông mỉm cười - Đảo là chuyên ngành của chúng tôi, trong số…

      - Vâng - Joe - nhưng chúng tôi muốn nhờ ông, thưa Đô đốc, tìm hộ chúng tôi hòn đảo mà chúng tôi biết là có tồn tại nhưng biết nó ở đâu và gọi là gì.

      - Chuyện vặt! - Holinshead cười thoải mái - Rất may là ông bà còn biết là nó tồn tại.

      - Ấy, ngay điều này chúng tôi cũng chưa .

      Sau những lời đó, Joe tóm tắt cho ông ta nghe câu chuyện. Càng về cuối nét mặt của vị Phó đô đốc càng tập trung. Khi Alex xong, ông :

      - Câu chuyện này rất thú vị. Tôi biết người có thể giúp được ông bà. Để tôi hỏi xem ta có ở trong khu vực này - ông nhấc máy điện thoại, cần quay số và : - Đại úy Brown có đấy ? - ông đợi lúc - Hãy bảo ta lại chỗ tôi… Phải, ngay lập tức - Ông đặt máy xuống quay lại với Alex - ta sắp tới đây. Đại úy Brown biết vùng phía đông Địa trung hải hơn là những người khác biết vị trí đồ đạc trong nhà mình. ta biết tất cả những hòn đảo nằm và dưới mặt nước, hơn nữa cả những hòn đảo mất tích và những hòn trồi lên phía nhưng vẫn còn nằm dưới sóng biển.

      Cùng lúc đó có tiếng gõ cửa và đại úy Brown bước vào phòng. Sau khi giới thiệu khách, đô đốc mục đích cuộc viếng thăm của khách. Đại úy Brown, theo Caroline, trông có vẻ thủy thủ hơn chỉ huy của mình, người chắc nịch, rám nắng, tóc cắt ngắn. ta bước vào phòng với dáng đặc biệt của người thủy thủ. suy nghĩ lâu.

      - Những tư liệu ông đưa ra khá chính xác, có lẽ đủ để xác định vị trí của hòn đảo này - và nghiêng người bên tấm bản đồ vùng biển Địa trung hải treo kín cả bức tường trong phòng đô đốc - Người này bơi theo hướng “sao hàng hải” có nghĩa là từ nam lên bắc, vì đó chính là sao Bắc đẩu. Ông ta đến Bi-dăng-tin, bây giờ là Công-stăng-ti-nô-pôn, như vậy có thể cho rằng ông ta từ Ai cập tới. Như ông bà nhận thấy khi đó sao Bắc đẩu hơi lệch về phía trái, tuy nhiên trong sách cổ hàng hải, hướng chỉ gọi theo cách tương đối, trong trường hợp này độ sai lệch lớn lắm…

      Đại úy ngừng lời, ngón tay vạch chậm theo con đường biển mà người thủy thủ Perimos cách đây hàng thế kỉ.

      - Thế… thế liệu ông có tìm thấy tuyến này có hòn đảo mà chúng tôi tìm ? - Caroline hỏi, cố giữ giọng bình tĩnh.

      - Loại đảo như vậy có ít nhất là vài hòn - Brown nhíu mày - Cả vùng này toàn những đảo đá màu trắng - Brown ngừng lời - Bà có thể cho tôi xem lại lời văn được ?

      cầm lên tay bản dịch sang tiếng những lời của Perimos. đọc từ từ và bỗng nhiên đứng thẳng người.

      - Có lẽ tôi tìm thấy. Vào thời đó người ta chèo thuyền dưới gió. Nhưng lúc đó thuyền thể được vì cả đoàn thủy thủ ngủ. Như vậy Perimos muốn bơi từ nam lên bắc nhờ buồm để đến cạnh hòn đảo này phải vào dòng hải lưu chảy từ bắc xuống nam. Trong trường hợp khác, ông ta thể làm được điều này nếu có người chèo. Chỉ có chỗ phù hợp với lời văn này. Do cấu tạo của đáy biển, dòng hải lưu này tạo ra dòng chảy quanh đảo và Perimos có thể lái thuyền cần chèo, sau đó khi thuận gió ông ta có thể ra khỏi đó - ngừng lời và lắc đầu - nhưng ở đây đền thờ cổ rất lớn phải ạ? Tôi e rằng ông bà thất vọng. Nơi đó hoàn toàn trơ trụi, có cây cối, và điều quan trọng là trước đây lâu có chỗ cập bến tự nhiên. Chung quanh đảo là vách đá dựng đứng, lại có những mỏm đá ngầm làm cho biển lúc nào cũng sủi bọt, gầm réo ngay trong những ngày yên tĩnh. Có sườn núi nghiêng thoai thoải làm thành mặt phẳng dài rộng khoảng vài trăm thước, nhưng ra phía biển lại có vách gần như dựng đứng. Có lẽ chưa bao giờ có người và súc vật ở đó cả. Giả sử rằng có ai đó ngẫu nhiên lại tới đây nếu như rơi xuống vực thẳm của biển cũng chết đói vì ở đó có cây cỏ, còn động vật, ngoài chim có loại nào sống ở đấy cả.

      - Ông rằng trước đây lâu đảo có bến cập tự nhiên phải ạ? - Caroline cúi người xuống bản đồ nhưng mắt vẫn nhìn viên đại úy.

      - Vâng - Brown gật đầu - trước đại chiến thế giới thứ hai, đảo này thuộc Italia. Sau chiến tranh nó được về Hy lạp. Trước đây, người Italia đục đá thành bến có bậc lên xuống dẫn tới chỗ bằng phẳng sườn núi, ở đây họ đặt trạm quan sát để theo dõi di chuyển của hạm đội . Trạm có đài phát tin. Gần đây người Hy lạp dùng bến này để đặt đảo cây đèn biển công suất lớn lắm. Mật độ tàu biển Địa trung hải ngày càng tăng nên cần phải đặt đèn biển đó mặc dù đảo nằm tuyến đường biển chính. Chính vì vậy nó có tên bản đồ và từ lâu lắm chẳng ai tới nó cả. Phía đông của Địa trung hải có rất nhiều đảo đá lớn . số đảo có bến đổ kín hoặc hở, thời cổ xưa và trung cổ đây là nơi trú của bọn cướp biển. Còn điểm nữa là núi đá có rất nhiều hang động. Chúng ta biết về điều này phải vì chúng có ý nghĩa với hàng hải mà đơn giản là trong trường hợp cần thiết có thể biến chúng thành nơi trú hoặc điểm tựa - giang tay - Có lẽ ông bà cũng hiểu được như vậy chứ?

      - Tất nhiên - Joe gật đầu - nhưng chúng tôi chú ý đến vấn đề chiến lược lắm.

      - Thế hòn đảo này tên gì? - Caroline hỏi khẽ.

      - À… - Brown khẽ nhún vai - hải đồ chi tiết nhất ông bà cũng nhìn thấy chấm đen. Đấy để cho thoáng chứ nhiều dấu với chữ quá làm cho bản đồ khó nhìn, mà những đảo như vậy ở đó có hàng chục cái. Mỗi mỏm đá từ dưới nước lên thể có tên riêng được. Người Ý đánh số cho chúng. Nhưng gần đây sau khi tiếp nhận các hòn đảo, người Hy lạp trả lại tên cho hàng loạt đảo, thậm chí cả những đảo rất . Bản đồ mới của họ có tên những đảo đó. Hòn đảo này có bến và đèn biển nên chắc chắn là có người trực thường xuyên mặc dù trông nó chẳng có vẻ mến khách. Chắc là nó cái tên, cái tên truyền thống do những người đánh cá đặt ra. Họ đặt tên cho các điểm mốc. Nếu như ông bà muốn tôi có thể tìm ở chỗ tôi…

      - Chúng tôi vô cùng biết ơn - Caroline và cười với vẻ hào hứng của đứa trẻ khiến Joe phải vội để dẹp bớt vui mừng thái quá của .

      - Tất nhiên sau khi nghe những điều ông , khả năng xác định hòn đảo của chúng tôi lại . Khó có thể cho rằng những người dân biển như người Crêt lại đặt đền thờ nữ thần của họ tại nơi thuyền nào tới được. Nhưng dù sao chúng tôi vẫn muốn kiểm tra ở mức độ có thể.

      - Vâng tất nhiên rồi - Đại úy quay lại thượng cấp của mình - Xin đô đốc cho phép tôi được kiểm tra lại ở chỗ của tôi.

      - Tất nhiên, xin mời.

      Brown đứng nghiêm chào và bước ra khỏi phòng, khép cửa cách nhàng.

      - Tôi rất tiếc là phải làm cho bà thất vọng - đô đốc với Caroline - nhưng tôi nghĩ rằng cái tên cổ Keros có lẽ tồn tại từ lâu và…

      Có tiếng chuông điện thoại. Vị đô đốc nhấc máy.

      - Holinshead đây… phải… Tôi nghe đây, đại úy… Cái gì? À phải, tôi hiểu… Rất cám ơn.

      Ông đặt máy và quay lại phía Alex.

      - Vâng - ông - Người Hy lạp quả đặt tên cho hòn đảo này năm năm trước đây theo cách gọi của dân đánh cá. Tên của nó là KEROS.

      - Keros? - Caroline lắc đầu như muốn tỉnh dậy khỏi cơn mơ - thế ư? Keros?

      Vị đô đốc giang hai tay.

      - Tôi hy vọng cái tên này thích hợp với bà hơn tất cả những tên nào khác mà người ta có thể nghĩ ra, có phải ?

      Và ông cười rất thoải mái.





      Chương IV

      LỜI NGUYỀN BẮT ĐẦU ỨNG NGHIỆM

      Họ ngồi vào xe và sắp ra phố; Caroline đặt bàn tay lên vai Alex.

      - Đừng vội - thầm - Em muốn tập trung suy nghĩ .

      - đâu bây giờ? - Joe rời tay khỏi chùm chìa khoá, quàng tay ôm tấm lưng mảnh mai của - Đến giáo sư Lee nhé? Nếu ông ta thực là nhà bác học quan trọng như người ta , chắc ông ta đuổi em về trường với câu chuyện cổ tích cho trẻ con về cái kho báu đảo này.

      quay lại nhìn với cặp mắt hề đùa cợt.

      - Lúc đầu em cứ ngỡ là mơ. Joe, có hiểu ? Keros, thế có nghĩa là lời mô tả của Perimos là đúng.

      - Hừm…, chỉ lo có điều.

      - Điều gì?

      - Nếu như Keros thực chất là hòn đảo trơ trụi, người, dấu vết của đào bới em khóc nhè mất. Còn nếu như ở đó vẫn tồn tại đền thờ Nữ thần Mê cung và lời mô tả của Perimos đúng thực em rơi vào vực thẳm và tên của em cũng mất .

      - Em biết vực thẳm nào sâu hơn cái vực thẳm mà phải hạ mình làm quen với tác giả những truyện rẻ tiền, mặc dù phải thừa nhận rằng giúp em tuyệt vời - để ý đến người qua đường, ôm lấy cổ và hôn - Ôi, Joe, Joe, Joe! biết là em nóng ruột đến như thế nào!

      đột ngột buông ra và ngồi ngay ngắn lại ghế - Ta thôi, thôi!

      - đâu - tác giả truyện rẻ tiền hỏi lại.

      - Tất nhiên là đến giáo sư Lee - nhìn đồng hồ - Mười hai giờ rồi! Chỉ lát nữa là có cuộc họp nhóm nghiên cứu hàng tuần. Nhanh lên, Joe! Em muốn chúng ta bị muộn.

      - Chúng ta bị muộn! - Alex khẽ nhún vai - Chắc em bắt phải tham gia họp với nhóm của em chứ?

      - phải đến giáo sư cùng em… Joe ạ!

      - ? - Alex suýt đâm phải chiếc ô tô phanh phía trước. có lý do để ngạc nhiên. Từ khi quen Caroline, cấm được tiếp xúc với những đồng nghiệp của . Vì vậy mặc dù có lẽ tất cả bạn đều biết rằng gắn bó với trong những người nổi tiếng nhất quần đảo Britain và cũng biết tất cả họ qua lời kể của , nhưng với họ chưa có lần nào gặp mặt. Hơn nữa cũng chẳng quan tâm đến điều đó lắm.

      - bắt đầu tin rằng - khi chiếc xe phía trước chuyển bánh - hòn đảo Keros làm em mất bình tĩnh hơn nghĩ. , tác giả truyện rẻ tiền, chuyên gia nghiệp dư tồi của phòng hình thuộc Scotland Yard[4] có thể làm gì được trong nhóm bạn của em. Thôi, ở nhà đợi tin em. Hay là ta hẹn nhau ăn trưa ở đâu đấy, nếu…



      ngừng lời và ngáp dài cách ngẫu nhiên. Mãi bây giờ mới nhớ rằng cả đêm hôm qua hề chợp mắt. nhìn sang Caroline. Cả nữa, đêm qua cũng ngủ, nhưng nét mặt hoàn toàn tỉnh táo. lập tức quay ngay lại phía .

      - , Joe! phải giúp em! Bọn họ bao nhiêu lần bắt em phải giới thiệu . Em biết tại sao tất cả các bạn em đều coi là nhân vật quan trọng và nổi tiếng. Họ về cứ như phải là người mà là… thánh ấy, và và… và em có cảm giác rằng họ đều ghen tị với em rằng với em, rằng chúng ta… rằng… thôi, biết đấy…

      - chả biết gì cả. Bởi vì em có gì với về chuyện này đâu - Alex khẽ mỉm cười - Em hãy làm ơn với các bạn của em rằng nếu như có ai trong số họ bị mất tích trong khu vực Viện khảo cổ trong những trường hợp khó hiểu cố gắng tới và thực những điều họ mong đợi. Còn hiểu tại sao hôm nay phải xuất trong cuộc họp nhóm công tác của em? Giáo sư Hugh Lee coi như kẻ hiếu kỳ mời mà đến. Mà có thể cũng muốn giáo sư tới thăm khi bận, có phải em?

      dừng xe bên hè đường, xuống xe, mở cửa.

      - Chúng ta gặp nhau vào lúc mấy giờ?

      Caroline nhảy ra khỏi xe và đứng trước . cúi mặt

      - Joe - giọng cầu khẩn - em kể cho nghe về tất cả câu chuyện kỳ lạ này và mọi giả thuyết đều mới chỉ dựa số tượng. Viện của em, cũng như nhiều viện nghiên cứu khác thế giới, tổ chức rất nặng nề, kém linh hoạt. Mà tìm đảo Keros đòi hỏi phải có dụng cụ, tiền nong và trước hết là cho phép của chính phủ cũng như các thủ tục với người Hy Lạp.

      - Nhưng phải là vua Hy Lạp, cũng chẳng phải giám đốc viện của em. Vì vậy hiểu tại sao… - Alex vừa vừa giang hai tay.

      - Joe! Giáo sư Lee cũng đọc truyện trinh thám. Nếu như em thuyết phục được mọi người đến đảo Keros có lẽ phải đợi đến hai mươi năm nữa mới có người nhìn nhận em và mảnh giấy cổ kia cách nghiêm túc. giúp em tạo khí thế trong lần thuyết trình đầu tiên. hoàn toàn phải gì cả. Còn việc mời tham gia cuộc họp của chúng em được thực ngay bây giờ.

      - Nhưng… - vẻ cương quyết. để cho tiếp.

      - Em chưa bao giờ cầu xin cái gì, còn bây giờ em xin hãy làm theo.

      Joe Alex đóng cửa xe, ngoan ngoãn bước theo .

      Phòng hợp có vẻ khá rộng nằm ở cuối hành lang tối có cửa ra vào hẹp. Alex phải đứng đợi ngoài hành lang. ít khi bị mất binh tĩnh, ấy thế mà cũng hơi hoảng khi Caroline để ở đây. Lát sau quay lại :

      - Giáo sư Lee và những người còn lại tha thiết muốn gặp .

      bước vào, tầm mắt bị lạc trong phòng rộng được ngăn lại bởi tủ và bàn làm việc, đó có hàng đống sách vở. Căn phòng này thoang thoảng mùi hơi mốc, dường như từ lâu được thông gió mặc dù có hai cửa sổ to mở rộng nhìn ra phía vườn.



      Lúc đầu Joe chẳng nhìn thấy ai. Mãi sau vài giây mới nhận thấy nhóm ít người tập trung quanh bàn tròn được phủ khăn xanh hơi cũ. Nhìn thấy , người cao, gầy đứng dậy bắt tay. Cứ theo vết nhăn trán ông ta vào khoảng sáu mươi tuổi, nhưng dáng nhanh nhẹn và nhàng, có lẽ thời trai trẻ ông là người thích nhiều môn thể thao. Alex nhận ra khuôn mặt quen vẫn thỉnh thoảng được in tuần báo ở Luân Đôn.

      - Trước tiên tôi muốn xin lỗi giáo sư về cuộc đột nhập này - bắt đầu , nhưng giáo sư vội vã lắc đầu:

      - Cuộc đến thăm của ông, ông Alex ạ, là niềm vui bất ngờ đối với chúng tôi - ông vui vẻ - Nếu như ông tìm tài liệu cho cuốn sách mới tôi vô cùng vui sướng. Lúc nào tôi cũng cho rằng đọc truyện trinh thám là hính thức giải trí tốt nhất sau ngày làm việc và truyện của ông, theo tôi, hay hơn những loại khác. Vâng đúng thế. Ông đừng quá khiêm tốn. Tôi nghĩ rằng, tiểu thuyết trinh thám viết về việc xảy ra trong khi khai quật di tích cổ hẳn là phải rất thú vị. trường tuyệt vời, phải ông? Đêm đến nơi khai quật, thành viên đoàn khảo cổ bỗng nhiên bị mất tích, nơi đó lại hẻo lánh và có lời nguyền của Pha - ra - ông trong ngôi mộ cổ. Rồi sau đó hoá ra là mưu đồ được chuẩn bị rất tinh vi và xảo quyệt của người…

      Ông cười phá lên.



      Nắm chặt bàn tay gầy guộc nhưng rất khoẻ của ông, Joe Alex hơi nghiêng mình đáp lễ.

      - Chúng tôi, những người dân thường, coi công việc của giáo sư cao đẹp hơn mọi thứ đời. Còn tội ác, thưa giáo sư, chỉ xảy ra với những thị hiếu tầm thường mà có lẽ bao giờ có trong cuộc sống và công việc của nhà khảo cổ. Độc giả có lẽ thể tin được, họ chờ đợi những chuyện giật gân kiểu khác.

      Giáo sư nắm lấy tay dẫn về phía bàn.

      - Lịch sử dạy rằng nhân loại chưa bao giờ tạo ra nhóm người hay quần thể xã hội thoát khỏi ảnh hưởng xấu cùng những nỗi bất hạnh của các nhóm khác. Nhưng thôi, tôi phải thêm điều này với ông nữa, chắc ông cũng biết như tôi. Caroline có với tôi rằng ông giúp ấy trong việc mà lát nữa kể cho chúng tôi.

      - Chưa thể gọi được đấy là giúp đỡ thưa giáo sư. ngừng lời và tiến lại gần phía bàn.



      tưởng rằng phải gặp những người tuổi ít nhất cũng trung niên và Caroline thuộc loại em út trong số họ. Thế nhưng ngạc nhiên thấy rằng chưa ai vượt quá tuổi ba mươi. Có năm người cả thảy. Ba người đàn ông trẻ tuổi, họ đứng dậy chào khi trông thấy . Còn hai ăn mặc khá đẹp, trạc tuổi Caroline. Thực ra, chưa biết Caroline bao nhiêu tuổi, nhưng... nhìn . Caroline hơi đỏ mặt, tay nắm chặt lưng chiếc ghế tựa còn để trống. mải đoán ấn tượng mà Joe gây ra đối với đám bạn của .

      - Các bạn thân mến, đây là ông Joe Alex, nhà văn nổi tiếng, công việc của ông gần giống với chúng ta. Ông cũng quan tâm tới những bí của các nấm mộ, nhưng có phần mới hơn so với những cái của chúng ta. Còn đây - giáo sư Lee giơ tay chỉ ra nhóm người có mặt - là các bạn cộng tác viên gần gũi nhất của tôi: Bà Gordon, Sandera, ông Gordon, Caruthers và Meliow.

      Joe cúi chào và bắt tay từng người. Khi mọi người ngồi xuống, giáo sư lại quay lại phía lần nữa.

      - Rất tiếc là chúng tôi hôm nay thể giới thiệu với ông những công việc thường ngày của nhóm, nhưng có lẽ thế lại hay hơn vì hôm nay cuộc họp bàn về vấn đề đặc biệt, mà ông lại thích những chuyện bình thường. Tôi muốn để Beacon kể lại những nhận xét của mình về mảnh giấy cổ mà đọc được. Có lẽ muốn về cái này phải , Caroline?

      - Thưa giáo sư, vâng ạ.

      Caroline lấy bản dịch từ trong túi ra. Khi Joe vô tình theo thói quen quan sát những người có mặt. Tuy nhiên chốc chốc lại có người đảo mắt nhìn trộm . cười thầm và khỏi tự hào chút về mình, tuy điều đó là khiêm tốn, nhưng cũng tự tha thứ cho bản thân. Mặc cho quan điểm của Caroline về tiểu thuyết trinh thám, có mặt bất ngờ của trong nhóm giáo sư Lee là kiện lớn đối với họ, những người thuộc tầng lớp tri thức của xã hội. thở dài lấy gì làm hứng thú lắm. Trong thâm tâm ghen với họ về nghề nghiệp vì theo , cái việc làm thể gọi là nghề được.



      cảm thấy nhõm khi sau những lời đầu tiên của Caroline, những người có mặt dường như quên mất . Tất cả các cặp mắt đều nhìn về phía . Khi ngừng lời, ai gì cả. Có lẽ họ đợi ý kiến của giáo sư Lee.



      Sau hồi im lặng, giáo sư Lee bất ngờ quay sang Alex, ông mỉm cười.

      - Bây giờ tôi mới hiểu nguyên nhân cuộc viếng thăm chúng tôi của ông. Tôi cũng nhận thấy rằng ít khi có thể nghe thấy trong cuộc họp khoa học điều gì bất ngờ cả. Giả sử giúp đỡ của chúng tôi ông cũng có thể từ mảnh giấy này nghĩ ra mọi tình huống để viết câu chuyện về nhóm nghiên cứu đổ bộ lên hòn đảo trơ trụi người, lại được bảo vệ bằng lời nguyền của Nữ thần Mê cung - ông cười to hơn, rồi quay sang những người cộng của mình - Xin lỗi các bạn. Cuộc họp hôm nay quả có hơi khác so với thường lệ. Vì được biết rằng Beacon mang đến cho chúng ta những kết quả bất ngờ như vậy nên tôi định họp để thông báo việc cũng bất ngờ: Viện khảo cổ, mà cụ thể là nhóm chúng ta bỗng nhiên được thừa kế khoản tiền lớn. phụ nữ quý phái, rất giàu có di chức lại cho chúng ta trăm nghìn bảng. Điều kiện của bản di chúc là số tiền này được sử dụng để tổ chức chuyến khai quật di tích dưới chỉ đạo của tôi. Mục tiêu và đặc điểm của chuyến do chúng ta tự quyết định. Tất nhiên là tôi phải trao đổi với các bạn, bởi vì số tiền này đến quá bất ngờ và nằm trong ngân sách của Viện cũng như được dành cho những mục đích khác, cho nên chúng ta phải sử dụng số tiền này với hiệu quả cao nhất cho khoa học. Theo ý kiến riêng, chúng ta nên chọn nơi khai quật trong khu vực hẹp để số tiền này khỏi bị mất hút như giọt nước giữa biển cả. Tôi cũng thêm là người đàn bà quá cố muốn đưa chuyện này lên báo chí. Như vậy khoản tiền này có tên người cấp. Tôi muốn các bạn đề xuất dự kiến của mình.



      Ông ngừng lời, đưa mắt nhìn những khuôn mật như muốn kiểm tra xem họ có hiểu hết .

      - Thưa giáo sư. - Caroline khẽ .

      - Thế nào, của tôi?

      - Tôi có thể ngay cho giáo sư biết dự định của mình. Tôi sợ là chúng ta phải đợi hàng năm để người ta cấp kinh phí cho việc tìm kiếm ở Keros. - ngừng lại.

      Giáo sư gật đầu.

      - tiếp .

      Caroline hồi hộp tiếp:

      - Mảnh giấy này nằm ở chỗ chúng ta năm năm mọi cũng chẳng có gì thay đổi nếu có ai tiến hành nghiên cứu sơ bộ. Chúng ta biết rất cái gì tới. Có thể chúng ta tìm ra chỗ rất quan trọng. Trường hợp xấu nhất chúng ta chẳng tìm thấy gì cả, nhưng đó phải là lần đầu hoặc lần cuối đoàn nghiên cứu tìm thấy gì. Điều này có thể xảy ra như mọi người đều biết. Người phụ nữ quá cố di chúc lại cho Viện với hy vọng rằng chúng ta phát ra điều gì quan trọng. Tôi nghĩ rằng nếu như bà ta còn sống, bà ta hẳn vui lòng với dự kiến của chúng ta về mảnh giấy này. Hơn nữa lúc đâu cần phải dùng đến phần tư số tiền đó. Để tiến hành nghiên cứu, theo tôi nghĩ chỉ cần khoảng mười đến mười hai nghìn bảng là đủ. Như chúng ta , đảo này là đảo đá nên cần phải đào, mà khoản chi phí này mới là tốn kém. Chúng ta cũng cần thuê nhân công, ít nhất cho đến khi chúng ta phát ra cái gì đó đòi hỏi phải có phương tiện vận tải và nhân lực lao động. Tôi nghĩ là chỉ cần nhóm người thăm dò hòn đảo và các hang động. Chi phí hạn chế ở mức chở người tới đó, mua thực phẩm dự trữ vài tuần lễ và vận chuyển số thiết bị cần thiết cho nghiên cứu. Các khoản này tốn bao nhiêu. Sau này… nếu khi chúng ta phát ra điều gì thú vị có thể mở rộng phạm vi nghiên cứu. Nếu như dự kiến của tôi được chấp nhận, tôi dành hai đến ba tuần lễ để lập dự toán, kế hoạch vận tải, danh mục đồ dùng và giải quyết các thủ tục cần thiết.

      ngưng lời, giáo sư Lee mỉm cười.

      - Các bạn nghĩ gì về dự kiến của Caroline Beacon? - ông lại đưa mắt nhìn mọi người.



      trẻ có mái tóc đen, dài, xoã xuống ngang vai ngẩng đầu lên nhìn Caroline, vẻ thiện cảm. Cặp mắt ta đen, và theo Alex nghĩ, nó phù hợp với khuôn mặt của vũ nữ Tây Ban Nha hơn là khuôn mặt của nhà khảo cổ người . Tên ta là gì nhỉ? - nghĩ - Sanders? Phải rồi, có lẽ là Sanders…

      - Theo chị số lượng người và thời gian ở lại Keros là bao nhiêu? Tất cả chúng ta đều có nhiệm vụ khác nữa, hơn nữa chuyến như vậy chưa được dự kiến trong kế hoạch của năm nay có phải ?

      - Tôi biết điều đó, Mary ạ - Caroline giọng buồn hẳn - Dĩ nhiên là tôi thể đưa ra cái gì làm đảo lộn công việc của nhóm. Tôi nghĩ rằng tất cả chúng ta cùng tới đó, làm việc ở đó từ ba đến bốn tuần tuỳ thuộc vào kết quả nghiên cứu. Còn về thời gian, … - hơi ngập ngừng - trong tháng tám toàn Viện hầu như làm việc và… Tôi liệu giáo sư có đồng ý như vậy ?

      nhìn giáo sư Hugo Lee nửa muốn hỏi, nửa cầu khẩn.

      - Vào tháng tám à? - Người thanh niên trẻ tuổi, đẹp trai, mặt rám nắng kêu lên. Alex có thiện cảm với ta ngay từ phút đầu. ta có vầng trán cao, thông minh của người tri thức, cặp mắt lanh lợi, sắc sảo. ta nhìn lên trời, làm điệu bộ sợ hãi cách khôi hài - Vào tháng tám tôi câu cá ở Scotland. Tôi muốn để mất cái thú vui này.

      Mặc dù như vậy nhưng ta vẫn nhìn sang phía giáo sư, vẻ dò hỏi.

      - Simon Caruthers bỏ phiếu chống - giáo sư Lee - Còn ai muốn gì nữa ? John. nghĩ thế nào? - Ông nhìn sang người tóc sáng, dáng thể thao, khuôn mặt gần như bị che kín bởi cặp kính cận gọng đồi mồi - có lẽ cũng muốn câu cá trong tháng tám chứ?

      - Tôi kinh tởm những con cá - người tóc sáng trả lời giọng và ấm - Tôi ăn cá, cũng chẳng câu cá. Tôi quan tâm đến bất cứ dạng nào của chúng ngoài hình vẽ các lọ gốm cổ.

      - bạn Mellow thích đề tài về cá - giáo sư giang tay - nhưng chúng tôi muốn nghe ý kiến của về đề nghị của Beacon cơ.

      - Nếu giáo sư muốn hỏi về điều này, tôi thấy chẳng có gì vướng mắc cả. Người đàn bà quá cố Mỹ hào phóng di chúc cho chúng ta khoản tiền lớn, còn Caroline giải mã được mảnh giấy cổ. Vì vậy tôi phản đối việc nghỉ hè ở hòn đảo nào đấy ở Hy Lạp, nhất là đảo người. Chúng ta biết là khó chịu như thế nào khi làm việc trong đám hàng nghìn khách du lịch.

      ta cười vẻ khinh khỉnh, tháo kính ra lau rồi lại đeo vào.

      - Pamela và Robert Gordon? - Giáo sư với tay cầm bản dịch của Caroline, đặt bàn và bắt đầu đọc lại, thỉnh thoảng lại nhìn về phía .



      Bộ dạng bên ngoài của Robert Gordon trông giống như nhà nghiên cứu khoa học kiểu mẫu. Người gầy, điềm tĩnh, hầu như bị hói hoàn toàn, quanh đầu chỉ còn lại vành tóc sáng cắt ngắn. Joe nhìn sang vợ ta. Đấy là phụ nữ đẹp, trắng trẻo, ôn hoà, dạng phụ nữ bao giờ biết to là gì. Khi nào bực tức lại điềm tĩnh hơn thường lệ. Khuôn mặt được chăm chút cẩn thận theo kiểu phụ nữ chính cống, thuộc tầng lớp trung lưu và mang đầy đủ sắc thái của tầng lớp này. Alex thích tầng lớp này cũng như kiểu phụ nữ như vậy.

      - Tôi đồng ý với John - Robert Gordon trả lời sau khi đưa mắt nhìn thấy vợ khẽ gật đầu - Đối với chồng tôi điều này hề gây cản trở gì vì chúng tôi dự định bơi thuyền tới biển Địa Trung Hải trong kỳ nghỉ hè này.

      - Ái chà! Thuyền buồm cơ à! - Caruthera nhanh với cái giọng như thể rất kính trọng người có thuyền nhưng đồng thời cũng vô cùng khinh rẻ họ.

      Giáo sư liếc nhìn Alex. Trong ánh mắt trẻ trung của ông thoáng thấy vui thích. Điều này quá ràng: giáo sư Lee coi tất cả học trò của mình như những đứa trẻ to xác và có lẽ chính vì thế mà ông hỏi ý kiến của họ.

      - Hừm… - Giáo sư , sau lúc cân nhắc - Đúng, chúng ta có thể coi chuyến công tác ở Keros vào tháng tám là kỳ nghỉ rất thú vị nếu như có trách nhiệm nặng nề phải gánh vác trước khi lên đường. Tất nhiên ở đó có chuyện tắm biển và nằm phơi nắng… mặc dù số chúng ta thích câu cá có thể câu vào lúc rỗi rãi. Còn theo đúng thủ tục mà , tôi phải nộp mảnh giấy cổ này cho hàng loạt các hội đồng xem xét và cân nhắc trước mục đích của chuyến . Như vậy phải mất năm hoặc lâu hơn. Sau đó, nếu như các hội đồng chấp thuận tôi phải tiến hành lập hồ sơ lý thuyết và trao đổi với các nhà sử học, địa lý, địa chất trong và ngoài nước. Rồi sau nữa tôi phải đề nghị Caroline sốt ruột đây viết luận án dưới đầu đề “Những lợi ích có thể đem lại cho khoa học từ việc nghiên cứu kỹ lưỡng về mặt và tầng dưới đảo Keros”. Chà, thậm chí tôi còn có thể phải nhờ người nào đó có uy tín và có tầm cỡ phản biện. Là giáo sư đầu bạc, có kinh nghiệm và sắp về hưu, tôi có trách nhiệm phải làm như vậy. Nhưng tôi thích làm theo các con đường mòn cổ hủ ấy. Thực lòng mà , mảnh giấy này hấp dẫn tôi. Và món quà di chúc lại xem như của trời cho để thực nó. Vì vậy tôi nghĩ rằng chúng ta nên tới đó. Hơn nữa các chuyên gia trẻ như các bạn đây cần phải rèn luyện nghiêm chỉnh tại trường khó khăn. Có ai muốn thêm gì ?

      - ạ - Caruthers sau lúc im lặng - Có lẽ quanh đảo có cá chứ nhỉ?

      - Tôi sợ rằng cậu phải mua riêng sà lan để ra biển câu cá - Mellow lau kính đứng dậy .

      - Hòn đảo này có lẽ quá nên mỗi lần cậu văng cần câu, có thể đe doạ ai đó trong bọn mình bị móc mắt mất.

      - bao giờ có chuyện này đâu - Caruthera cười lịch cách giả tạo - Cậu quên là Nữ thần Mê cung đẩy tất cả chúng ta xuống vực thẳm, còn riêng tớ được yên ổn vì tớ muốn quấy rầy bà ta.

      - Chúng ta hy vọng rằng Nữ thần Mê cung bị lãng quên như mọi thứ thế giới này. khi người ta thờ thánh cũng hết thiêng có phải ? - Giáo sư cũng đứng dậy nháy mắt với Alex.

      - Chúng ta chưa hẳn tin hoàn toàn như vậy - Robert Gordon cúi người bàn cầm lấy tờ chúc thư của Perimos đưa lên đọc - Tôi nghĩ rằng lời nguyền bắt đầu ứng nghiệm.

      - định ám chỉ cái gì đấy? - Mary Sanders giật lấy tờ giấy khỏi tay của Gordon và đọc lướt nhanh.

      - Tôi nghĩ về cái bà tặng tiền cho chúng ta chơi. Có thể coi bà ta là người khởi xướng ra chuyến này vì nhờ bà chúng ta phá rối yên tĩnh của Nữ thần Mê cung.

      - Thế sao? Caruthers nhíu mày - Cậu cứ như thấy bói ấy.

      - đâu. Bà ấy chết rồi phải ? Tức là rơi vào vực thẳm. Và tên của bà ta cũng biến mất, bởi vì bà ấy giấu tên tuổi của mình.



      ta khẽ cười lấy làm hài lòng về câu đùa của mình.



      Vài tháng sau, Joe Alex phải nhớ lại cái lúc này và cân nhắc rất lâu, liệu có thể giúp họ tránh được tai hoạ nếu như sau lời đùa đó linh cảm được điều gì chẳng lành. Thế nhưng, cả cũng như nhiều người khác có khả năng đoán trước được cái gì đến. Họ cùng cười vui vẻ sau câu đùa ý gì của Gordon.

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương V

      HỌ NGHĨ GÌ NGÀY HÔM ĐÓ…

      Thời gian trôi qua. Joe Alex viết xong cuốn sách và viết cuốn tiếp theo. ngồi bên bàn viết nhưng trong đầu nghĩ về Caroline. đợi điện thoại của . Tất cả các thủ tục làm xong và chuyến công tác được khởi hành sau vài ngày nữa. Họ lại chia tay nhau, tuy chỉ vài tuần, nhưng sau đó là mùa thu. Mùa đông họ dự định cùng nhau nghỉ ở nơi nào đó ven biển Châu Âu ấm áp, họ tránh mọi người bằng cách cho ai biết địa chỉ cả. Bây giờ khó có thể cho Caroline cái kế hoạch này. rất muốn tới Kenos. cảm thấy rằng tin vào mảnh giấy của Perimos cách ngây thơ như đứa trẻ vậy. tin cách tuyệt đối rằng chỉ cần được tới hòn đảo đó, tìm kiếm kỹ tý là trước mắt lên cái đền thờ Nữ thần mê cung, trong đó có chìa khóa giải mã mọi bí của đời sống người dân Crêt. Hai tháng lại đây sống bằng viễn cảnh của chuyến . Ngay hôm sau, hai thành viên của đoàn khảo cổ lên đường. Đó là Pamela và Robert Gordon, họ khởi hành chiếc thuyền buồm xinh xắn của họ. nhìn đồng hồ. Bốn giờ kém năm, Caroline chắc gọi điện ngay bây giờ. Họ dự định ra biển để tiễn vợ chồng Gordon.

      ***

      Simon Caruthers thắt ca-vat trước gương, trong chiếc buồng hẹp của căn hộ ở Mendow Street. vuốt thẳng chiếc cổ áo, tự ngắm mình cách hãnh diện. Phải, chắc chắn là người đẹp trai. Tuy nhiên, lúc này nghĩ tới điều đó. khoác chiếc áo vét và bước vào phòng. bàn để tờ giấy dày đặc số và ký hiệu. Caruthers cầm tờ giấy lên đọc lướt qua. nhíu mày. Có thể như thế này đạt được kết quả. Có thể nhưng chắc. nhìn lại lần nữa và lắc đầu đặt xuống bàn. ngồi suốt bốn giờ đồng hồ để nghĩ ra cách chơi xổ số thể thao nhằm đoạt giải độc đắc trăm nghìn bảng. Nhưng cách chơi này vẫn chưa hoàn chỉnh.

      - Trời ơi - Caruthers lẩm bẩm - Tại sao mình lại gặp may nhỉ? Mình thuộc loại thông minh cơ mà … thực thông minh. Mình biết mình có phải là người trí thức đặc biệt ? Có lẽ . Điều này chẳng có nghĩa lý gì thế giới cả . - liếc nhìn đồng hồ. Bốn giờ kém năm, định ngồi suy nghĩ thêm về cách chơi nhưng còn thời gian nữa. phải ra bến chia tay với Gordon vì giờ nữa họ rời bến. Chỗ bạn bè mà. Mọi người và cả giáo sư chắc cũng tới - thằng ngốc đáng nguyền rủa - nhưng từ này phải dành cho giáo sư Lee mà là dành cho Gordon - kẻ tầm thường, có trí thông minh của con lừa nhưng lại được số phận nâng đỡ. Trời ơi, giá mình có chỉ được phần mười số tiền của nó thôi. Mình viết sách và sợ những thằng cha cổ hủ và cần phải ngửa tay xin học bổng trợ cấp.

      lại cúi xuống nhìn cách tính toán gần như tối ưu của mình.

      - Rồi xem … - lẩm bẩm, cầm lấy mũ phớt và ra khỏi nhà.

      ***

      Pamela Gordon đứng chiếc thuyền buồm xinh xắn có gắn máy, mũi thuyền màu da trời nổi bật tên thuyền, là tên của . nghe thấy bước chân của Gordon chất vào trong khoang các hòm mà Caroline gửi họ mang trước, Caroline chịu trách nhiệm về toàn bộ chuyến . Trong hòm có các thiết bị nghiên cứu, máy chữ, giấy, bìa vẽ, cùng hàng trăm thứ lặt vặt cần thiết khác. Thực phẩm và hành lý cá nhân được mang với người theo tàu thủy tới Hy Lạp. Pamela ngả người cần lái, đưa mắt nhìn bờ biển ẩm ướt. Giờ này vẫn chưa có ai. Chắc họ sắp tới. Chỉ tí nữa thôi vợ chồng chị rời bến, Gordon mở máy và họ dọc theo sông Thames ra cửa biển. Sau đó là kênh La Manche, nước Pháp, bờ biển Tây Ban Nha, eo biển Gilbranta và chặng đường dài dưới nắng nóng biển Địa Trung Hải.


      Chị hơi mỉm cười. ai lại nghĩ rằng niềm vui sướng nhất của Pamela Gordon lại là được lái thuyền trong lúc biển động. Chị là người can đảm, biết suy xét và bao giờ bị mất bình tĩnh.

      Gordon trèo lên mui thuyền lấy tay lau mồ hôi mặt và mỉm cười với vợ. Chị đáp lại bằng nụ cười.

      - Mọi thứ sẵn sàng rồi chứ? - Chị hỏi

      - Rồi. Chúng ta có thể khởi hành.

      - Chúng ta phải đợi họ ? - chị nhàng sửa lại cổ áo sơ mi cho chồng bị quăn. - Robert có biết là em rất sung sướng ?

      - Em nghĩ là chúng ta tìm thấy gì đảo Keros? - giọng của đầy hoài nghi - Mảnh giấy này rất thú vị, nhưng quả thực ngạc nhiên khi giáo sư nhanh chóng quyết định lên đường. Chúng ta biết gì về hòn đảo này đâu…

      - Ôi, em có về cái hòn đảo này đâu. Mặc kệ nó. Em nghĩ về chuyến biển của chúng ta cơ. Chưa bao giờ người ta lại cảm thây gần gũi với nhau như biển trong khoang thuyền chật hẹp - lấy chân đạp khẽ xuống sàn thuyền - Em thích chúng ta hoàn toàn mình với nhau suốt tuần lênh đênh sông - Chị lại đặt khẽ bàn tay lên vai chồng rồi quay . Chị về phía bánh lái và nhìn lên bờ. Chị đợi. Simon Caruthers tới trong chốc lát.



      Hai năm trước đây, khi Robert Gordon được thừa hưởng gia tài kếch xù do cha để lại, Pamela quyết định ngay là trở thành vợ . Mặc dù vậy, giây phút nào ngừng Simon Caruthers. Tình của chị với Simon là tình cảm nóng bỏng thiếu chín chắn nhất trong con người phụ nữ lạnh lùng và tỉnh táo này.

      Điều này chị cũng biết làm thế nào để tránh khỏi.

      ***

      John Mellow vẫy taxi và chui vào xe cách khó nhọc vì nó quá hẹp so với khổ người của . Dựa tấm lưng to bè vào đệm ghế, cảm thấy mệt mỏi. Suốt đêm qua phải hiệu đính lại quyển sách được viết từ nhiều năm nay. Lẽ ra phải cảm thấy vui khi nghĩ về quyển sách này vì trước họ chưa có ai tổng hợp vấn đề rộng đến như vậy, nhưng trong thâm tâm lại cho rằng việc hợp tác cùng với Gordon viết chung quyển sách này là sai lầm lớn nhất trong đời. phải Gordon đủ thông tin cần thiết về đồ gốm Crêt. Ngược lại người bạn của biết vấn đề này hơn ai hết từ trước đến nay. Nhưng quyển sách của họ phải loại bách khoa thư. Tầm quan trọng của đồ gốm trong khảo cổ học lấy gì ghê gớm lắm, nó chỉ dùng để xác định niên đại của thành phố, vương quốc của nền văn minh. Vì vậy những giả thuyết rút ra từ việc hệ thống hoá đồ gốm cổ mới là điều quan trọng. Họ nêu vài giả thuyết mới có ý nghĩa quan trọng và làm thay đổi quan điểm từ trước tới nay về niên đại của số nhóm đồ gốm Crêt. Những giả thuyết này là cơ sở tuyệt vời và tạo nên giá trị cho tác phẩm của họ. Mặc dù bìa cuốn sách có hai cái tên, nhưng John Mellow biết rằng tất cả những cái gì có giá trị mới đều được rút ra từ bộ não của , Gordon phải là người phát minh. ta chỉ là người thợ cần cù, chăm chỉ, có ích cho công việc đòi hỏi cần mẫn như là công tác khảo cổ. Còn việc đối chứng những vấn đề tưởng chừng cách xa nhau, hoặc mạnh dạn phê phán những quan điểm do người khác trong quá khứ đưa ra chẳng bao giờ xuất trong đầu ta cả.



      Mellow thở dài. bao giờ hé ra với ai là bị ăn cắp. Điều tệ hại hơn là bản thân kẻ ăn cắp lại biết điều đó, Gordon rất dè dặt đồng ý để đưa vào cuốn sách những điều mà ta hiểu. Nhưng khi hiểu ra rồi lại đưa đến hàng tá những điều vụn vặt để nhằm củng cố các kết luận. Điều đó là cần thiết nhưng liệu nó có ý nghĩa cơ bản ?



      Mellow lại thở dài.

      - Thôi, bao giờ để lặp lại nữa … - lẩm bẩm. Xe taxi chạy nhanh đường nhựa rộng dọc theo bờ sông. sông có đến rừng cột buồm và bóng dáng lênh khênh của những chiếc cẩu cảng. John nghĩ thoáng qua về biển rồi lại về Gordon. Chiếc thuyền buồm này bơi qua vùng vịnh Biskay. Từ hồi còn học sinh, Mellow nhớ rằng có đến nửa số nhân vật chính trong các truyện phiêu lưu biển đều kết cục thảm thương ở vùng vịnh Biskay đầy giông tố. Nếu như có con sóng lớn nào lật chìm cái con thuyền bé này có thể hơi buồn nhưng có lẽ công bằng với quyển sách về đồ gốm Crêt. Nếu chẳng bao lâu nữa quyển sách đem lại niềm vinh quang xứng đáng cho Robert Gordon.



      Mellow vẫn mãi nghĩ ngợi thêm lúc nữa vì bản thân xúc động như thế nào về tin chiếc thuyền buồm “Pamela” bị chìm. Phải, đó chuyện bi thảm thực bạn Gordon đáng mến của chúng ta phải là nhà khoa học đầu đàn, nhưng đó cũng là tổn thất lớn lao cho tất cả chúng ta và… mặc dù ta phải là nhà khoa học chân chính. thuộc loại tài năng nhưng phải ta cũng chân thực, người bạn đáng mến.



      Luồng suy nghĩ của bị cắt đứt bởi vòng cua đột ngột của xe tắc xi. Trước mắt chiếc “Pamela” ra, màu da trời, thon dài lịch thả neo bến.

      ***

      Giáo sư Hugh Lee ra khỏi nhà, bước chân ông nhanh nhẹn thoải mái mặc dù tóc bạc và mặt cổ có nhiều nếp nhăn. Ông qua đường tiến tới xe của mình để ở phía bên kia hè.


      Xe chuyển bánh. Ngồi sau tay lái, ông nghĩ về Robert Gordon. Chốc nữa ông chia tay với ta để rồi gặp lại nhau ở đảo Keros sau vài ngày nữa. Ông là người chỉ huy nhóm nghiên cứu, người thầy và là người cha tinh thần của họ, nhưng ai biết rằng ông luôn luôn nghĩ về Robert Gordon từ nhiều năm khi Robert hãy còn là đứa trẻ con. Ông nghĩ rằng ngày nào đó nó trở thành nhà khảo cổ.



      Trong suốt những năm đó, ý nghĩ về Robert Gordon làm đau đớn thâm tâm giáo sư Hugh Lee.

      ***

      Mary Sanders hãy còn trần truồng trong buồng tắm. chải mớ tóc đen, dài óng ả của mình. Liếc nhìn chiếc đồng hồ đeo tay bé tí tẹo mà cởi ra khi tắm treo chiếc móc khăn mặt. Bốn giờ kém năm. Bàn tay cầm lược vội chuyển động nhanh hơn.

      - Mẹ ơi!



      Mary sống cùng với mẹ trong căn hộ ba phòng ở tầng của ngôi nhà lớn. Ngôi nhà này trước đây của cha . Khi cha mất, mới mười sáu tuổi. Mẹ đủ tài ba để duy trì cửa hàng đồ cổ. Hơn nữa cạnh tranh của các hãng buôn đồ cổ lớn vượt quá sức của người đàn bà già yếu này. Bà bán cửa hiệu, bán nhà và bộ sưu tập cổ, chỉ giữ lại phần buồng ở. Số lãi tiết kiệm hàng tháng vừa đủ để duy trì cuộc sống của hai mẹ con và cho học hành. Thỉnh thoảng lại phải chi thêm từ vốn. nay nếu có thêm lương của Mary có lẽ họ sống ở mức nghèo tý. Mỗi vi phạm ngân sách hàng tháng dù nhặt nhất cũng có thể gây tai hoạ lớn. Bây giờ, nhờ khả năng tháo vát của bà mẹ nên Mary bị thua kém bạn bè là mấy, mặc dù loại váy mặc thuộc loại vải tồi hơn của Caroline Beacon. Còn đồ trang điểm thể so với những thứ đắt tiền nhưng kín đáo của Pamela Gordon. nhíu mày cau có:

      - Mẹ ơi ! Đưa cho con cái váy màu mận chín nào! Nhanh lên con muộn mất!

      - Váy sẵn sàng rồi đây! - Giọng mẹ từ tốn.

      Mary chạy ra buồng mình mặc vội vàng. vẫn nghĩ ngợi về Robert Gordon.

      cố quên ta , , , phải ta mà là cái việc ấy. mấy năm qua rồi nhưng vẫn làm sao quên được. Hôm nay lại nghĩ tới nó từ sáng.

      - Có lẽ vì họ rời bến hôm nay chăng? - thầm, chân xỏ vội vào giày.

      Phải, có lẽ do cái kỷ niệm hay ho ấy lại liên quan tới ra khơi của thuyền “Pamela”. Có lẽ là như vậy.

      - thằng ngốc đáng nguyền rủa - nghĩ mà biết rằng đúng vào lúc đó Simon Caruthers cũng như vậy về Robert Gordon - kẻ đáng nguyền rủa. Đáng lẽ mình phải nhìn thấy trước có mặt của ở đấy chứ.



      việc mà nghĩ về nó là việc duy nhất đời, muốn quên được.



      Đó là vào kỳ thực tập cuối cùng trước khi tốt nghiệp, mọi người tham gia khai quật khu thành cổ do người La Mã xây dựng ngăn chia nước và Scốt len. nhớ rất cái buổi sáng hôm đó. họ sàng đất giữa móng của tưòng thành và ngôi nhà vừa mới đào lộ ra cách đấy vài tuần. Đó cũng là thời kỳ mà việc mua đôi tất dài, mới, là khoản chi phí thực quan trọng. Vừa sàng đất, vừa nghĩ về đôi tất. Các mảnh vật như tiền cổ, sắt rỉ, mảnh sứ vỡ được sàng ra để vào hộp giấy bên cạnh. Bỗng nhiên mặt sàng ánh lên màu của chiếc nhẫn vàng, tròn, nặng sáng và nhẵn bóng như thể ai vừa mới chôn cách đây giờ dưới đất. nghĩ ngợi gì, Mary cúi người nhặt chiếc nhẫn và đút ngay vào túi quần. nhìn quanh. Bên cạnh đấy vài bước chân, Robert Gordon vẫn sàng cát cách cần mẫn. ai nữa ở quanh đấy.



      Vào lúc nghỉ buổi chiều họ phải nộp lưu tất cả những vật tìm thấy và đánh dấu vị trí, độ sâu của vật bản đồ trường. Người thủ kho lưu trữ có chiếc bàn trước lều để thu nhận các vật tìm thấy khi khai quật. Mary viết tờ khai kèm theo cái hộp giấy đựng các vật tìm thấy của mình. giao nộp xong và quay nghe thấy giọng bình thản của Gordon:

      - Tôi nghĩ là hình như bạn quên khai chiếc nhẫn vàng mà bạn tìm thấy lúc sáng phải ?

      - À vâng, cảm ơn bạn nhắc tôi, Robert. Tôi cho nó vào túi quần vì tôi sợ đánh rơi mất nó.

      Giọng hoàn toàn bình tĩnh. quay lại mang nộp cho người thủ kho chiếc nhẫn, đánh dấu vào bản đồ nơi tìm thấy nó rồi . Tất cả chỉ có vậy. Sau này bao giờ họ với nhau về việc này. Nhưng có cảm giác rằng lúc nào Gordon cũng nhìn với vẻ khinh bỉ thầm kín.


      Điều tệ hại nhất đối với là Gordon có lý khi nhìn như vậy. Mặc dù bao giờ chịu thừa nhận việc này trước bất kỳ người nào, nhưng Mary Sanders tự biết rằng ăn cắp chiếc nhẫn đó nếu Gordon . Trong công tác khảo cổ việc ăn cắp đồ vật khai quật là tội phạm lớn nhất, giống như lừa đảo vậy.



      Từ ngày ấy trở thành người làm việc mẫn cán nhất trong nhóm. cũng tự xác định rặng nếu làm việc chỉ có mình mà đào được viên ngọc to bằng cái bánh mì chăng nữa chắc chắn cũng đem nộp ngay do dự giây.



      Nhưng cũng chính vì thế mà Mary Sanders căm thù Robert Gordon hơn ai hết. cầu mong cho ta chết , chỉ khi đôi mắt của ta nhắm vĩnh viễn mới có thể thở phào nhõm và quên được chuyện này.

      ***

      Sau những lời tạm biệt, chiếc thuyền từ từ rời bến, chân vịt làm sủi bọt mặt nước đầy váng dầu và lúc sau biến nhất trong màn sương mờ của buổi chiều tối. Mọi người chậm rãi bộ dọc theo bờ biển lúc rồi tản ra, mỗi người ngả. Chỉ còn lại Alex với Caroline.

      - Chúng ta cũng lên xe về chứ? - hỏi.

      - Chúng ta hãy dạo lúc - chỉ tay về phía con đường chạy vòng theo bến cảng về phía những dãy nhà màu xám từ thế kỷ mười chín.



      Họ chậm rãi bên nhau trong ánh nắng nhạt dần của mặt trời lặn, Joe cứ im lặng suốt cả thời gian, cuối cùng lắc đầu vẻ thiếu tin tưởng.

      - Cái thuyền buồm này thuộc loại đắt tiền nhất mà được trông thấy từ trước đến nay. Nó là cả tài sản lớn. ngờ rằng công việc của nhà khảo cổ trẻ tuổi lại đem lại lợi nhuận vật chất lớn đến như vậy.

      Caroline cười:

      - Đồ đạc của em như thấy đây, đủ để mua lấy chiếc ô tô và nếu như có bố mẹ cho thêm em thể tự sống độc lập ở Luân Đôn được. có quá nhiều tiền nên thể hiểu nổi những khó khăn vất vả của người dân thường đâu.

      - Nhưng vợ chồng Gordon trông cũng như những người dân thường đấy chứ? Thế mà cái thuyền của họ đáng giá bao nhiêu tiền?

      - Ồ, đối với Gordon đó lại là chuyện khác. Trong suốt thời gian dài ta cũng ở trong tình trạng kinh tế như tất cả chúng em thôi. Cách đây hai năm, bố ta mất, để lại gia sản. Gordon rất kín đáo nên mặc dù em biết ta từ thời sinh viên nhưng vẫn biết là ta có bố. ta sống độc và bao giờ gì về gia đình của mình.

      - là kỳ lạ….

      - Vâng, đúng thế, nhưng Gordon là…

      - về Gordon mà về em.

      - Về em à?

      - Trong ráng chiều đỏ ối như thế này trông em đẹp cách diệu kỳ. lấy làm kinh ngạc là Gordon lại Pamela trong khi em bên cạnh trong suốt bao nhiêu năm.

      - Em thể nào Gordon được - lắc đầu cách dứt khoát - , ta quá nghiêm chỉnh. Em đấy, đó chưa phải là lý do xác đáng, nhưng ở ta có cái gì… - ngừng lại - để người ta kính trọng chứ phải để - cười to - biết em muốn gì chứ, em biết chọn từ nào cho đẹp mà, Phụ nữ bao giờ cụ thể cả. Em biết chắc là Gordon thể như những người bình thường được. ta quá lãnh đạm. Phải, đấy là từ hợp phù hợp nhất: lãnh đạm. Có những người nghiêm chỉnh, nhưng có thể cảm thấy rằng dưới vẻ bình thản của họ có cái gì đấy sôi lên và bật ra khỏi vỏ khi có dịp. Nhưng Gordon vỏ bên ngoài và nội tâm như nhau. Khi nhìn ta, em có cảm tưởng rằng trong lồng ngực ta phải có quả tim đập mà chỉ có quả lắc đều đặn làm việc, nhanh cũng chậm.

      - Thế nhưng Pamela lại ta?

      Caroline lườm nhanh cái.

      - Tất nhiên - khẽ - nhưng đó là câu chuyện dài. Thế là chúng ta quay lại chủ đề này.

      - Chủ đề nào cơ? - Joe ngắm nhìn ngọn cây bên đường vội quay sang hỏi.

      - Em về bố ta. Em biết kỹ về chuyện này nhưng nghe họ đối xử với nhau tốt lắm. có trường hợp giữa bố và con hoàn toàn hiểu nhau. Em dám cuộc rằng Robert sử dụng tiền của bố ta khi ông bố còn sống. Phải đến khi ông ta chết, ta trở thành người thừa kế duy nhất ta mới nhận số tiền nay. Có lẽ đó là số tiền lớn, chúng ta tin như vậy và cả Pamela cũng thế.



      im bặt. Joe chợt nhớ rằng ngày hôm nay còn phải viết hai chục trang sách nữa, vì vậy hỏi cho qua chuyện.

      - Vậy theo em ta cũng thể Gordon được à?

      - Em biết. Nhưng em biết chắc rằng Gordon có hy vọng được ta dù cho suốt ngày chỉ mơ tới ta. Em cũng cho rằng thậm chí Pamela người khác. Nhưng chị ấy lấy ta chỉ tháng ngay sau khi ta được thừa kế gia tài. Đó là biết tính toán.

      - Tại sao có nhiều tiền như vậy mà họ vẫn ở lại nhóm nghiên cứu của em?

      - điều đó sao trong trường hợp này? Robert thực công tác khảo cổ. ta có triển vọng trở thành nhà khoa học tầm cỡ và chắc là danh hiệu giáo sư chờ đợi ta. ta làm việc rất chăm chỉ, mấy năm nay ta viết chung quyển sách với John Mellow về đồ gốm Crêt. Họ viết gần xong, có lẽ đó là tác phẩm đầu tiên thế giới viết về đề tài này. Em tin chắc nếu như bọn em tìm được tới Nữ thần Mê cung họ có thêm nhiều tư liệu có giá trị. Việc này đối với họ cũng là cơ hội lớn: nếu chúng em tìm thấy ngôi đền còn nguyên vẹn ở đó có hàng trăm cổ vật bằng gốm. Đó kiện cực kỳ quan trọng. hãy nhớ rằng đồ gốm là đồng hồ của khảo cổ, nhờ nó mà chúng ta xác định được niên đại khu khai quật. Phát này lấp đầy những chỗ trống trong hệ thống phân loại đồ gốm….

      - Thế Pamela Gordon có giúp chồng mình ?

      Caroline lắc đầu:

      - Có lẽ đâu. Chị ta và Caruthers chuyên về kiến trúc và vấn đề quy hoạch dân cư, đó là lĩnh vực rất quan trọng trong công việc của chúng em.. thể tưởng tượng nổi nhà chuyên môn giỏi có thể được những gì nếu như ông ta nghiên cứu kỹ lưỡng mảnh tường vỡ hoặc mảng sàn cổ. Caruthers rất có năng lực, mọi người đều phải thừa nhận rằng ta nổi bật nhất nhóm. Nhưng ta lại chịu quan tâm tới những chi tiết nhà khảo cổ phải chú ý, ta chỉ thích tìm ngay ra những quy luật lớn. Giáo sư Lee có lần ta có máu phóng viên, có lẽ ông lầm. Trong khảo cổ học được chạy theo những cái giật gân, những thứ này…

      Joe mặc dù rất có cảm tình với Caruthers nhưng phải vội vàng chuyển hướng câu chuyện.

      - Thế còn Pamela Gordon?

      - Pamela bù lại cho ta - Caroline mỉm cười - mặc dù khó có thể chị ấy là người nổi bật. Trước đây khi chưa là vợ của Gordon, chị ấy giúp đỡ Caruthers rất nhiều. Pamela giống như con ong: cả ngày làm việc cần cù chăm chỉ, tối đến ngủ ngon lành với cảm giác hoàn thành nhiệm vụ. làm hơn mà cũng làm kém. Có thể em nên như vậy về chị ấy. chung những người như vậy là trụ cột của xã hội. Pamela quả thực là người bạn đáng tin cậy.

      - Tất nhiên rồi, thế còn Sanders? Có phải đó là cái trẻ nhất, da ngăm ngăm ?

      - À, Mary lại hoàn toàn khác hẳn Pamela. Mary là bạn thân của em mà. Cả hai chúng em đều quan tâm đến vấn đề ngôn ngữ cổ. Rất may là chúng em vào lĩnh vực chuyên sâu rất khác nhau, cho nên chúng em sống hòa thuận. Em có thể sống trong tình bạn thân thiết với Mary bất cứ trường hợp nào.

      - Còn giáo sư?

      - Giáo sư là người cao hơn tất cả. Ông đối với chúng em như trời phật ấy. biết được là ông ấy giỏi như thế nào. Ông quan tâm dạy dỗ bọn em, bọn em phục tùng phải do kỷ luật mà vì ông biết hơn tất cả bọn em cộng lại. Khi nào ông mất - lại - chúng em trở nên độc và trưởng thành. Và chúng em dạy lại những người trẻ hơn. Nhưng làm được như ông ấy đâu. Những người như giáo sư Lee hiếm có lắm.



      Chiều hôm ấy họ ăn tối và cùng nhau nhảy cho đến sáng trong quán ăn mà trước đây họ chưa từng lui tới. Đèn ở đó mờ ảo và dàn nhạc chơi êm dịu. Nhưng buổi tối đó để lại ấn tượng sâu sắc cho Joe Alex bởi vì suốt cả thời gian chỉ về đề tài: Hòn đảo Keros



      Chương VI

      Ở KEROS…”

      Joe rời tay khỏi phím máy chữ, đọc lại dòng cuối cùng. Phải, còn nghi ngờ gì nữa, đó chính là dòng cuối cùng. vặn trục máy cách mệt mỏi, để cách vài dòng và dùng ngón tay đánh mổ cò như người mới tập đánh máy chữ: hết.



      Sau đó đứng dậy, nhìn lại những gì viết và bước lại phía cửa sổ. Lại buổi bình minh nữa, bình minh mùa hè. Luân Đôn thức giấc. Mái nhà phía đối diện bị phủ lớp sương mỏng từ từ bốc hơi dưới ánh nắng của mặt trời mới mọc.



      quay lại, bước nặng nề về phía bàn. Cuốn sách viết xong. Vài giờ nữa cậu bé ở nhà xuất bản tới để đem đống giấy này . hoàn thành hợp đồng và được tự do trong vài tuần lễ. Nhưng quá mệt, mệt đến mức đủ sức để đề ra kế hoạch tiếp theo cho mình.



      ngồi xuống, nhìn lơ đãng vào tường, suy nghĩ cách rời rạc : phải nghỉ ở đâu đấy. Nhưng đâu?.. Mình hết cả hơi rồi… Mình , chẳng đâu cả… ở nhà, ngủ tuần… Mình muốn khỏi đây ngay… Chán lắm rồi, cả cái nhà này, phố này, cả tay Higgins lễ phép nữa. Nhưng đâu?... có Caroline ở đây nữa. Nếu có nhà chắc ấy nghĩ ra cho cả hai người. ấy chọn nơi nào đó yên tĩnh, tuyệt đẹp. Nhưng ấy có ở nhà…



      Caroline có ở nhà. Hy Lạp cách đây tuần. Họ lên tàu thuỷ A-ten. Ở đấy có phân viện khảo cổ . Họ đứng chân ở đó rồi chuyển tiếp Keros.



      Joe ở lại mình, ngồi lì ở nhà viết liên tục trong vài ngày, bước chân ra khỏi cửa. Mỗi ngày chỉ ngủ có vài giờ.



      Quyển sách viết xong. đứng dậy bước rón rén về phía bếp. cảm thấy đói, nhưng muốn đánh thức Higgins. Với nghĩa vụ và bản năng của người phục vụ chắc ta dậy nấu bữa sáng ngay.



      mở cửa bếp rất khẽ. Trước tiên ngửi thấy mùi chả rán, sau đó nhìn thấy vóc người cao, gầy, mặc áo đầu bếp.

      - Trời ơi, Higgins! Bây giờ mới có năm giờ sáng.

      - Chào ông chủ - Higgins quay lại - Xin ông thứ lỗi, nhưng có lẽ tôi tính nhầm nửa giờ.

      - Tôi hiểu định gì?

      - Tôi nghĩ rằng ông viết xong cuốn sách vào trước sáu giờ. Hôm qua khi cắt tóc, ông rằng tên giết người sắp bị phát . Vì vậy tôi tính rằng ông còn viết thêm khoảng sáu đến tám trang. Sau đó, nhà thám tử phải giải thích và kết luận việc. Cái này thường chiếm mười lăm đến hai mươi trang trong truyện của ông. Tổng cộng còn khoảng hai mươi lăm trang. Ông thường viết các chương sau nhanh hơn nên thao cách tính của tôi, ông viết xong vào khoảng năm giờ rưỡi. Nhưng bữa ăn sáng xong…. Ấy chết!

      ta quay lại vội vàng và lấy chả ra khỏi bếp.

      - May quá! - thở phào nhõm - Bữa ăn sáng sẵn sàng sau năm phút nữa, thưa ông.

      - Cám ơn.



      Alex lắc đầu cách ngạc nhiên và quay . Thỉnh thoảng Higgins lại có những biểu khác thường như vậy.



      Khi ăn sáng quyết định ngủ ngay mà thức cho đến tận tối để ngủ cho ngon. thích ngủ ban ngày vì lúc tỉnh dậy vẫn cảm thấy khó chịu, chưa tỉnh táo ngay cả khi ngủ tới mười tiếng đồng hồ. Trong tờ báo mà người đầu bếp để sẵn bàn ăn, chẳng có gì thú vị cả. Tháng tám nắng ấm, thành phố yên tĩnh và bình thường. Các bạn bè của nghỉ hè. cũng cần phải nghỉ ở đâu đó. Chín giờ gọi điện cho nhà xuất bản, bảo họ đến lấy bản thảo. Sau đó chẳng có gì để làm ở Luân Đôn. Giá mà Caroline ở đây nhỉ, họ cùng nhau nghỉ…



      Tiếng chuông réo ngoài cửa. Nhà xuất bản cử người đến chăng? Chẳng lẽ nào lại vào lúc này? thể được.



      Higgins cầm chiếc khay có để bức thư bước vào.

      - Thư bảo đảm, thưa ông. Tôi trả tiền rồi.

      - Cám ơn.

      Joe cầm bức thư và lướt nhanh: Gilbraltar, Người gửi: Caroline Beacon., Tàu chở khách “Nova Scotia”

      xé phong bì.



      quý,

      Tàu thuỷ của chúng em chỉ nửa tiếng nữa cặp bến Gibraltar. Lợi dụng cơ hội này em viết ngay cho biết về em. Em nằm phơi nắng, cạnh em là Mary Sanders. Trời nóng quá. Mary rằng rất đẹp trai. Có nghĩa là xấu nhưng lại được phụ nữ thích. Em phát biểu ý kiến của mình. Caruthers và Mellow chơi trò gì giống như bắt bướm ấy, tung và chộp những cái vòng tròn. Em thử nhưng có năng khiếu. Mary cũng vậy nên bọn em phơi nắng. Giáo sư ngồi dưới chiếc dù to đọc quyển sách gì dày cộp. biết , trong khi mọi người chỉ mặc những thứ gì cần thiết nhất để khỏi mang tiếng là bất lịch giáo sư vẫn mặc com - plê, sơ mi trắng và ca-vát. Em thể trở thành giáo sư được. Joe ạ, ở đây tuyệt vời, có nghĩa là hầu như tuyệt vời. Đúng là đẹp trai, phải ? Em lúc nào cũng nghĩ là chúng em tìm thấy cái gì đảo. biết , đêm qua em nằm mơ thấy chẳng tìm được cái gì cả. Em tỉnh dậy, sợ hãi. Em nằm rất lâu bật đèn và nghĩ về khả năng của chúng em. biết , em nghĩ chỉ phần trăm thôi là có thể tìm được cái gì đấy. Thế cũng là xác suất lớn rồi. Trời ơi! Vắng em buồn quá. Nếu như ở đây chắc là dạy cho em trò chơi này. cái gì cũng biết mà, như thế phải ? Nhưng ở đây, ở A-ten, rồi lại ở Keros và chúng ta mãi đến tận tháng chín mới gặp được nhau. Tiếc , giá như viết xong cuốn sách … em bảo cùng em. Đêm qua em mới nghĩ được như vậy. có thể xem những người khảo cổ làm việc như thế nào chứ. Giáo sư cũng như các bạn em chẳng ai phản đối điều này đâu. Nhưng bận mà, đáng lý ra em chẳng viết thế này làm gì. Nhưng mà em thể viết được.

      Em tạm dừng bút, nếu kiêu ngạo mất.

      C.

      Tái bút: Mary rằng nhất định là người thông minh và can đảm. có biết , nó những đọc truyện ngắn của mà còn đọc những mẩu chuyện báo về nữa. Em sợ rằng mọi người lại biết về nhiều hơn em.

      Hôn C.

      Tái bút 2: Em thấy là nó quá nhiều về và muốn biết nhiều hơn. Có phải là em ghen ?

      C.





      Joe mỉm cười đọc lại những dòng chữ viết cẩn thận. Caroline có kiểu chữ của học sinh mười sáu tuổi. để bức thư xuống cạnh đĩa ăn, ngắm nhìn cốc cà phê bốc khói toả hương vị dễ chịu. nhắm chặt mắt lại rồi đột ngột mở ra để chống lại cơn buồn ngủ kéo tới. bước lại máy điện thoại, tìm lúc trong quyển danh bạ và quay số.



      ngồi lên tủ chờ nghe tiếng trả lời. giọng phụ nữ dịu dàng và rành rọt vang lên!

      - Tên tôi là Alex - - Tôi muốn đặt chỗ chuyến bay gần nhất A-ten… Tôi nghe đây… vào lúc giờ à? … Tuyệt… Vâng, tôi mình… Phòng đăng ký vé mở cửa từ tám giờ à?... Vâng, Joe Alex…

      - Ông Joe Alex à? - giọng của người bán vé máy bay vang lên ngạc nhiên, nhưng rồi lại nghiêm chỉnh ngay.

      - Tất nhiên, thưa ông. Vé được đặt sẵn.

      Joe cười mỉm. hơi tự phụ, nhưng biết làm thế nào để tránh vì cũng thích thế.

      - Cảm ơn . Tôi đến đấy trước chín giờ. Tạm biệt.

      đặt ống nghe xuống rôi lại nhấc lên ngay, quay số khác.

      - Tôi muốn gửi bức điện… Vâng, tên tôi là… - tên và số điện thoại của mình.



      “Gửi Caroline Beacon. Viện khảo cổ ở A-ten Stop. nhận được thư Stop tối nay có mặt ở A-ten Stop. em Stop. Hãy để lại tin ở khách sạn Hilton Stop. Gửi lời chào Mary Senders Stop Joe Alex.”



      đặt máy xuống và thở phào nhõm vì quyết định xong việc. quay lại, bước nhanh về phía buồng tắm.



      Lúc tám giờ, tắm rửa, cạo râu nhẵn nhụi. Khi vào trong phố, bảo Hinggins chuẩn bị sắp xếp va-li. Mua vé xong lại tạt vào tiệm cà phê ở phố Milford Lane, uống hai ly và nhìn đồng hồ.

      hãy còn gần bốn giờ nữa mới tới lúc bay, chẳng có gì phải vội vã cả. Ra khỏi hiệu cà phê phóng xe tới New Scotland Yard.



      Benjamin Parker, trưởng phòng hình , có mặt tại phòng làm việc. Người hạ sĩ trực ban vào báo tin có khách.

      - Mời vào, mời vào - Parker đứng dậy rời khỏi bàn, bắt tay Alex.

      - Có gì mới ? - Alex hỏi khi ngồi thoải mái vào trong hai chiếc ghế bành bọc da sang trọng chẳng hợp tý nào với cái phòng làm việc đơn sơ này.

      - Chẳng có gì cả - Parker nhún vai và mời thuốc lá - Bọn giết người Luân Đôn chắc cũng nghỉ hè vì nay chúng tôi thấy tình hình hoàn toàn yên tĩnh. Tuy nhiên, nếu có gì hay ho tôi gọi điện cho ngay. Hình như vừa mới viết xong quyển sách nữa phải. Bọn trẻ con nhà tôi vui lắm đây.

      - Thứ nhất là trước cơn bão, trời bao giờ cũng yên tĩnh. Thứ hai - đúng là tôi vừa mới viết xong quyển sách. Bọn trẻ con nhà nhận được món quà này giống như những lần trước. nên khuyến khích chúng nó đọc vì trong truyện của tôi bao giờ công lý cũng chiến thắng, điều này phải lúc nào cũng ra ngoài cuộc sống tại. Còn đừng gọi cho tôi khi có chuyện gì hay bởi tôi rời Luân Đôn vào lúc giờ và mười phút sau tôi có thể ngắm bờ biển nước từ mây. tháng nữa tôi trở về.

      - là người hạnh phúc - Parker khẽ - Đáng tiếc là tôi nghỉ phép rồi, bây giờ phải đợi đến tháng bảy năm sau. đến đâu?

      - Tôi cũng chưa biết nữa. Đến A-ten, sau đó đến hòn đảo tên là Keros. Tôi tham gia đoàn khảo cổ của giáo sư Hugh Lee. Họ dự kiến tìm ra trung tâm văn hóa của người Crêt.

      - Tôi hiểu - Parker cười hóm hỉnh - Này, tôi hơi tò mò nhưng chắc là Caroline Beacon cũng tham gia đoàn khảo cổ này chứ?

      - đoán đúng, nhà cảnh sát tài ba ạ. Beacon cũng ở đấy, ấy làm việc trong nhóm của ông ta.

      - Giáo sư Hugh Lee - Parker gật đầu - Ông ta là con người khá thú vị - ngừng lời nhìn Alex chăm chú nhưng ánh mắt của vui vẻ - Tôi nghiệm thấy rằng tôi càng làm việc lâu ở đây càng tin chắc rằng có ai là bị chúng tôi theo dõi bằng cách này hay cách khác.

      - Có lẽ định là giáo sư Lee trước khi bắt đầu con đường khoa học của mình từng là tên móc túi và bị quân của bắt giữ tại nhà ga Waterloo khi ông ta móc túi bà già chứ gì.

      - Ồ , tôi thậm chí còn biết ông ta nữa, nhưng cách đây hai năm Scotland Yard nhận được nhiều câu hỏi về vụ thừa kế. Này Joe, có thể giữ kín chuyện này được ?

      - hãy tin vào kín đáo của tôi - Alex - tiếp . Tôi thấy hay đấy. Tôi thích được biết nhiều về những người mà tôi là người đồng hành.

      - Vấn đề xảy ra lâu rồi, Lee lấy vợ rất sớm. Sau thời gian vợ ông theo người khác.

      - Chuyện thường tình - Alex đồng tình - Nhưng tôi nghĩ rằng Scotland Yard lại quan tâm đến những vấn đề như vậy. Tôi cho là chuyện này nên để giành cho các hầu phòng và các thám tử tư nhân.

      - phải vậy. Trong số trường hợp chúng tôi cũng muốn được biết nhiều. Bà ta bỏ với người khác và được đồng ý ly dị. Bà ta lấy người kia và sinh được đứa con trai.

      - Chuyện cảm động đấy - Joe nhắm mắt lại - lại cảm thấy buồn ngủ.

      - Nhưng người kia chắc phải là người tốt vì bỏ rơi bà ta và biệt tăm, để mặc bà ta với đứa con bơ vơ nơi nương tựa. Chuyện đó xảy ra từ trước chiến tranh.

      - Tình quả là rắc rối - Joe khó khăn lắm mới mở được mắt. cười vẻ xin lỗi - Này Ben, phải cho tôi cái gì khác thường chứ tôi nằm xuống ngủ ngay bây giờ. ba ngày nay tôi ngủ tổng cộng chỉ có năm giờ

      - Ái chà lại còn đòi thế nữa. Nghe này, vợ của Lee, lúc bấy giờ Lee chưa phải là giáo sư mà mới là nhà khoa học trẻ có triển vọng, bị thất bại bởi cuộc sống đầy sóng gió quyết định từ bỏ cõi đời này. Trước khi tự vẫn, bà viết lá thư dài cho người chồng cũ của mình đề nghị ông ta cưu mang hộ đứa con trai của bà ta với người đàn ông bỏ kia.

      - Và Lee nhận nuôi đứa trẻ phải ? - Alex hơi tỉnh ngủ - Phụ nữ họ có linh cảm rất đúng trong những trường hợp như vậy. Nếu bà ta tin chắc rằng vị giáo sư này có trái tim nhân từ chắc tự tử. Bà ta phải tin rằng Lee vẫn còn bà và và nhận nuôi đứa con.

      - Có lẽ đúng như vậy. Giáo sư Lee nhận nuôi đứa con trai.. Mọi chuyện xảy ra tốt đẹp nếu như tình huống bi kịch. Người cha của đứa trẻ sau nhiều năm lưu lạc quay về nước tìm đứa con mình. Khi trở về ông ta là người giàu có, tính tình thay đổi, già nhiều nhưng lại có ý định tốt, muốn chuộc lại lỗi lầm. Lúc bấy giờ, đứa con trai là sinh viên của trường tổng hợp, biết được tất cả. Giáo sư Lee bao giờ ông là bố của nó vì ông cảm thấy như thế là trung thực. Cậu con trai cho đến lúc đó chỉ biết rằng bố mẹ đẻ của mình chết trong vụ tai nạn máy bay và Lee là người họ hàng với mẹ nhận về nuôi. có cuộc gặp mặt và chuyện giữa ba người với nhau. Chàng trai sau khi biết được nguyên nhân mẹ mình tự sát từ chối chịu tiếp xúc với ông bố. ta chịu tha thứ và muốn thừa nhận mình là con ông ta. Cuối cùng, hai năm trước đây ông ta chết và để lại cho ta toàn bộ gia tài. Lúc bấy giờ chàng trai cán bộ nghiên cứu khoa học và ta nhận thừa kế. Họ hàng của người quá cố chắc là hiểu tại sao này lại được thừa kế. Họ cho rằng có chuyện gì mờ ám đây nên người trong số họ tìm đến chúng tôi để hỏi. Nhưng vấn đề quá ràng vì ta có đủ giấy tờ cần thiết: khai sinh, giấy giá thú và vì vậy chuyện được im . ai muốn gây ra chuyện rắc rối gia đình bởi vì họ có khả năng được hưởng thừa kế.

      - Và chàng trai trẻ này tên là Robert Gordon có phải ? - Alex hỏi - Tôi biết ta. Caroline với tôi là ta được giáo sư nuôi nấng. Có lẽ ấy biết chuyện này. Nhưng liệu ta có biết được ? , thể… - lắc đầu hoài nghi.

      - Ở nước này mọi chuyện đều có thể xảy ra - Parker cười - Tôi được biết từ hồi sinh viên, chàng trai này sống mình. Chắc giáo sư muốn cho ta tự lập sớm, hoặc này giống mẹ nên mỗi khi ông ta nhìn thấy lại thêm đau lòng? thấy đấy, cuộc sống là như vậy…

      - Phải - Alex uể oải rời khỏi ghế - Tạm biệt, Ben. Khi trở về tôi gọi điện cho .

      - Tạm biệt, Joe.



      quay về nhà. Mặc dù vấn đề này làm quan tâm lắm nhưng suốt dọc đường cứ nghĩ về Robert Gordon và mối quan hệ ấu thơ của ta với giáo sư. Đó cũng là điều kỳ lạ. biết quá tính tình của Caroline, nếu biết gì về chuyện này chắc chắn kể cho ngay.



      Rồi cũng quên nghĩ về giáo sư Lee và những cộng của ông. Trong máy bay ngủ say như chết và chỉ thức dậy vài phút trước khi hạ cánh xuống A-ten.

      Chiều buông xuống. Trời gợn mây, chỉ có ánh đỏ của mặt trời lặn chiếu rực hồng những dãy núi đá trắng ở phía dưới.

      - Đề nghị quý khách hút thuốc lá và đeo dây an toàn - Tiếng trong loa vang lên - Máy bay bắt đầu hạ cánh.

      Joe dập tắt điếu thuốc nhưng đeo dây an toàn. Phía dưới, trong thung lũng, thấp thoáng thành phố , lại thành phố nữa, dưới cánh máy bay ra vùng biển lặng yên như mặt nước hồ gợn sóng. Đất liền, biển. Máy bay bay vòng để hạ độ cao. Đảo.

      - Lạy chúa - Joe thầm - Thế là tới nơi.



      tới Hy Lạp.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :