Những Cuộc Phiêu Lưu Của Sherlock Holmes - Conan Doyle

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      [​IMG]

      Nguồn: http://forumtruyen.net/threads/sherlock-holmes-toan-tap.297/#post-986
      Tác giả: Conan Doyle
      Dịch giả: Nhiều dịch giả
      NXB: Văn học
      Thể loại: Trinh thám, Hình
      Số chương: 12 chương

      Giới thiệu:

      Sherlock Holmes là nhân vật thám tử hư cấu vào cuối thế kỉ 19 và đầu thế kỉ 20, xuất lần đầu trong tác phẩm của nhà văn Arthur Conan Doyle xuất bản năm 1887.

      Ông là thám tử tư ở Luân Đôn nổi tiếng nhờ trí thông minh, khả năng suy diễn logic và quan sát tinh tường trong khi phá những vụ án mà cảnh sát phải bó tay. Nhiều người cho rằng Sherlock Holmes là nhân vật thám tử hư cấu nổi tiếng nhất trong lịch sử văn học và là trong những nhân vật văn học được biết đến nhiều nhất toàn thế giới.

      Cuốn sách "Những cuộc phiêu lưu của Sherlock Holmes" với 12 truyện ngắn, 12 vụ án mà Holmes phá giúp bạn giải đáp về sức hút kỳ lạ của nhân vật thám tử này.

      Mục lục:
      1.Vụ tai tiếng xứ Bohemia
      2.Hội tóc hung
      3.Vụ mất tích kì lạ
      4.Bí mật tại thung lũng Boscombe
      5.Năm hạt cam
      6.Người đàn ông môi trề
      7.Viên ngọc bích màu xanh da trời
      8.Dải băng lốm đốm
      9.Ngón tay cái của viên Kỹ sư
      10.Chàng quý tộc độc thân
      11.Chiếc vương miện gắn ngọc Berin
      12.Vùng đất những dây dẻ đỏ

    2. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      Chương 1: Vụ tai tiếng của xứ Bohemia


      Với Sherlock Holmes, ấy luôn là người phụ nữ. Tôi ít khi nghe thấy đề cập đến ấy dưới hình thức khác. Trong mắt , ấy vượt hơn hẳn mọi người khác bởi vẻ nữ tính. Đó phải là tình cảm đương dành cho Irène Adler. Đó là cảm xúc trái ngược lại với điềm tĩnh, lạnh lùng và chính xác đến tuyệt đối của Holmes. Tôi biết từng có những lý luận sắc bén và quan sát tinh tế ai có được nhưng chính cảm xúc ấy làm sai lạc. còn đến cảm xúc lãng mạn và cũng thôi những lời chế nhạo.
      Gần đây tôi ít gặp Holmes. Từ khi tôi lấy vợ, chúng tôi sống mỗi người ngả, niềm hạnh phúc riêng tư tuyệt vời, những mối quan tâm về gia đình lên xung quanh người lần đầu tiên làm chủ cơ ngơi của mình, cũng đủ chiến hết chú ý của tôi. Trong khi đó, Holmes vẫn ở tại phố Baker, vùi đầu vào đống sách cũ của mình, hết tuần này sang tuần khác, mang hết khả năng và tài quan sát của mình để tháo gỡ những vụ án mà cảnh sát đầu hàng.
      Đêm 20 tháng Ba năm 1888, tôi trở về nhà sau chuyến thăm bệnh ngang qua phố Baker. Khi qua cánh cửa nhà quen thuộc, bỗng nhiên tôi muốn gặp Holmes. Phòng đèn sáng sáng choang, và khi nhìn lênn, tôi thấy cái dáng gầy gầy qua hai lần, bóng in lên tấm rèm. bước nhanh nhẹn, hăm hở, đầu cúi xuống ngực, hai tay bắt chéo sau lưng. Tôi rung chuông và được đưa vào căn phòng mà xưa kia tôi chiếm phần.
      lời, vẫy tôi đến chiếc ghế bành, ném cho tôi hộp thuốc xì gà và trỏ vào chiếc lò ga trong góc. Rồi đứng trước lò sưởi, nhìn tôi từ đầu đến chân.
      - Hôn nhân hợp với cậu đấy, Watson ạ. Cậu lên 7 cân rưỡi[1] kể từ lần sau cùng ta gặp nhau.
      - Bảy thôi.
      - Quả thế. Lẽ ra tớ phải suy nghĩ thêm chút. Cậu chưa cho tớ biết là cậu hành nghề trở lại đấy nhé!
      - Phải.
      - Mới đây cậu bị ướt sũng; cậu có hầu vụng về và bất cẩn nhất đời.
      - Đúng là hôm thứ năm, tớ có bộ ở vùng quê, nhưng mà tớ thay quần áo rồi. Còn về người giúp việc, ta quả bất trị, và nhà tớ cho ta nghỉ việc. Nhưng, cậu suy diễn như thế nào?
      cười khúc khích và xoa hai bàn tay vào nhau :
      - Phía bên trong chiếc giầy chân trái của cậu có sáu nhát cắt gần như song song với nhau. ràng là những đường cắt đó gây ra do người bất cẩn khi chà xát xung quanh mép gót giầy để lau bùn. Như thế chứng tỏ, cậu vừa gặp thời tiết xấu, vừa có hầu rất kém. Còn về chuyện hành nghề ... Nếu có người nào đó bước vào phòng tớ mà có mùi iode với chấm nitrate bạc ngón tay trỏ của bàn tay phải và chỗ phình ra cái mũ chóp cao - cho thấy nơi ông ta gắn cái ống nghe - tớ thằng ngu nếu ngay được rằng ông ta là đồ đệ của Hippocrate.
      Tôi thể nhịn cười.
      - Khi cậu đưa ra những lý lẽ, thể luôn luôn ra với tớ cách giản dị đến mức buồn cười, thậm chí tớ nghĩ là mình cũng tự suy diễn được dễ dàng. Tuy vậy, mỗi lần cậu đưa ra ví dụ mới, tớ lại hoàn toàn mù tịt nếu cậu giảng giải phương pháp của cậu. Tớ nhìn thấy việc như cậu chăng?
      - Có chứ, - Holmes trả lời, vừa châm điếu thuốc vừa ngả mình xuống ghế - Cậu có nhìn thấy nhưng cậu quan sát. Ví dụ, cậu thường thấy những bậc thang từ hành lang lên đến phòng này chứ?
      - Thường thấy.
      - Thường như thế nào?
      - Ồ, có đến hàng trăm lần.
      - Vậy nó có bao nhiêu bậc?
      - Bao nhiêu ư? Tớ biết?
      - Đó, thấy chưa? Cậu thấy nhưng cậu quan sát. Còn tớ, tớ biết chắc có 17 bậc vì tớ vừa thấy vừa quan sát nữa. Tiện thể, cậu xem, có thề cậu thích thú đấy - ném cho tôi tờ giấy dày màu hồng nằm mở ra bàn - Nó đến trong chuyến thư vừa rồi. Hãy đọc to lên. Mảnh giấy đề ngày thàng, có cả chữ ký và địa chỉ.
      đến thăm ông tối nay, vào lúc 8 giờ kém 15. người đàn ông muốn hỏi ý kiến ông về vấn đề rất quan trọng. Những việc làm mới đây của ông nhằm phục vụ cho trong những dòng hoàng tộc ở châu Âu cho thấy ông là người đáng tin cậy. Thành tích này của ông chúng tôi từ khắp nơi nghe thấy... Vậy ông hãy ở trong phòng ông vào giờ đó, và xin đừng phật ý nếu người khác của ông mang mặt nạ”.
      - Đây quả thực là vụ bí hiểm. Theo cậu, nó có ý nghĩa gì?
      - tớ chưa có dữ kiện. Lập giả thuyết khi chưa có dữ kiện là sai lầm nghiêm trọng. Còn về mảnh giấy này, cậu có suy diễn gì ?
      Tôi quan sát mảnh giấy và chữ viết
      - Người đàn ông này có vẻ khá giả - Tôi nhận xét, cố gắng bắt chước tiến trình lý luận của Holmes - Thứ giấy này rất đắt giá. Chất giấy bền và cứng cách đặc biệt.
      - Đặc biệt. Đúng như thế, phải là giấy sản xuất tại . Đưa lên ánh sáng thử xem.
      Tôi làm theo lời và thấy chữ “E” lớn với chữ “g” , chữ “P” và chữ “G” lớn với chữ “t” lồng vào nhau
      - Cậu suy ra được điều gì?
      - Chắc chắn là tên nhà sản xuất.
      - phải đâu. Chữ “G” và chữ “t” là viết tắt của “Gesellschaft”, tiếng Đức có nghĩa là “Công ty”. Nó giống như ta thường dùng chữ “Co.” vậy. “P” dĩ nhiên thay cho “Papier”. Bây giờ đến chữ “Eg.”. Tra trong Từ điển địa lý [2] xem sao.- lấy xuống quyền sách to tướng từ kệ sách - Eglow, Eglonizt... Đây rồi, Egria. vùng tiếng Đức, tại xứ Bohemia, cách Carlasd xa. Nổi tiếng nhờ Wallensten tạ thế tại đó, và nhờ có rất nhiều nhà máy thủy tinh, nhà máy giấy. Ha ha, bạn ơi, bạn có thấy gì ?
      - Giấy sản xuất tại Bohemia.
      - Chính xác. Và người đàn ông viết những dòng chữ này là người Đức. Cậu có thấy cấu trúc câu “Thành tích này của ông chúng tôi từ khắp nơi nghe thấy”. Người Pháp và người Nga có cách viết như vậy. Chỉ có người Đức mới sử dụng động từ ở cuối câu. Bởi vậy, bây giờ chỉ cần tìm xem cái gã người Đức thích đeo mặt nạ này muốn gì.
      Trong khi , có tiếng vó ngựa lọc cọc và tiếng xe nghiến mặt đường, theo sau là tiếng chuông giệt mạnh. Holmes huýt sáo :
      - cặp, theo tiếng động - , nhìn ra cửa sổ - xe song mã và cặp ngựa đẹp. Vụ này kiếm được khá tiềng đấy, Watson ạ.
      - Thôi, tớ xin phép cáo từ vậy.
      - Bạn ơi, cứ ngồi đây. Vụ này hứa hẹn đấy. Bỏ qua rất phí.
      - Nhưng còn ông khách của cậu ...
      - Đừng bận tâm đến ông ta. Có lẽ tớ cần trợ giúp của cậu và ông ta cũng thế. Hãy ngồi xuống và theo dõi xem.
      Tiếng bước chân chậm rãi và nặng nề vang lên cầu thang và nơi hành lang, ngừng lại ngay phía ngoài cửa lớn. Rồi tiếng gõ mạnh. đầy uy quyền.
      - Xin mời vào - Holmes .
      người đàn ông bước vào. Ông ta cao gần 6 feet rưỡi [3], có bộ ngực và tay chân to lớn của chàng Hercules. Y phục đắt tiền, diêm dúa, cái áo choàng dài màu xanh đậm, choàng qua hai vai, được thêu bằng lụa màu ngọn lửa. Giầy ủng cao lưng chừng bắp đùi, ống ủng được viền bằng lông thú đắt tiền. Ông cầm tay chiếc mũ rộng vành, đeo mặt nạ che phần mặt, kéo dài xuống tận hai gò má.
      - Ông nhận được mảnh giấy của tôi rồi chứ? - Ông ta hỏi bằng giọng trầm, khàn khàn, phát rệt là giọng Đức, ông ta nhìn tôi rồi lại nhìn Holmes, hình như biết phải với ai.
      - Xin mời ông ngồi. Đây là bạn và là người cộng của tôi, bác sĩ Watson. Tôi được hân hạnh hầu chuyện với ai thế nhỉ?
      - Ông có thể gọi tôi là Bá tước Von Kramm, quý tộc xứ Bohemia. Tôi hiểu rằng, vị này, bạn ông là người đáng trọng, người tôi có thể tin cậy, phó thác vấn đề vô cùng trọng đại. Nếu đúng như thế, tôi muốn chuyện với mình ông thôi.
      Tôi nhổm dậy để , nhưng Holmes chộp lấy cổ tay tôi và đẩy tôi trở lại ghế.
      - Ông có thể trước mặt bạn này bất cứ điều gì ông có thể với tôi.
      Vị bá tước nhún đôi vai to lớn của ông ta.
      - Vậy , trước hết tôi buộc lòng phải xin hai ông giữ hoàn toàn bí mật chuyện này trong vòng hai năm, sau thời gian đó, vấn đề quan trọng nữa.
      - Tôi xin hứa - Holmes .
      - Xin các ông thông cảm cho việc tôi phải dùng cái mặt nạ này. Con người uy nghi lẫm liệt, chủ của tôi, muốn rằng kẻ thay mặt cho ông phải giữ bí mật chân tướng, và tôi ccó thể thú ngay rằng cái tước hiệu mà tôi tự xưng khi nãy, hoàn toàn chính xác là tước hiệu của chính tôi.
      - Tôi biết - Holmes giọng tỉnh bơ.
      - trắng ra, vấn đề này có liên quan đến dòng họ Ormstein vĩ đại, những vị vua kế thừa của xứ Bohemia.
      - Điều này, tôi cũng biết - Holmes , ngồi xuống ghế bành và nhắm mắt lại.
      Vị khách của chúng tôi lộ vẻ kinh ngạc liếc nhìn người đàn ông có dáng điệu mệt mỏi, uể oải ngồi trước mặt ông ta. Holmes từ từ mở mắt ra và nhìn ông khách to lớn của bằng cái nhìn cau có.
      - Nếu Bệ hạ chịu khó nhún mình để trình bày việc của ngài, tôi mới có thể phục vụ ngài tốt hơn.
      Người đàn ông nhảy lên khỏi ghế và chậm rãi lại trong phòng với vẻ hốt hoảng tột độ. Rồi với cử chỉ tuyệt vọng, ông ta xé ta cái mặt nạ và liệng nó xuống đất.
      - Ông đúng - Ông ta kêu lên - Ta là vua. Tại sao ta lại phải tìm cách che giấu điều đó?
      - Đúng thế. Tại sao phải dấu?- Holmes thào - Bệ hạ tôi cũng biết tôi hân hạnh hầu chuyện với ngài Wilhelm Gottsreich Sigismond von Ormstein, Đại Công tước xứ Cassel - Falstein, vua kế vị xứ Bohemia.
      - Nhưng xin các ông thông cảm cho - Vị khách . Ông ta lại ngồi xuống và đưa tay xoa lên vầng trán - Xin các ông hiểu cho, tôi quen đích thân làm công việc như thế này. Song vấn đề quá tế nhị đến mức tôi thể giao phó cho ai. Tôi thẳng từ Praha [4] đến đây để nghe lời khuyên của các ông
      - Vậy xin bệ hạ hãy trình bày câu chuyện - Holmes , lại nhắm mắt lại.
      - Tóm tắt câu chuyện như thế này: Năm năm trước đây, trong lần thăm viếng Vacsava [5], tôi làm quen với Irène Adler. Cái tên đó chắc xa lạ với ông.
      - Bác sĩ làm ơn tra giùm tôi quyển danh mục - Holmes trong lúc vẫn nhắm mắt
      nhiều năm nay, thiết lập được hệ thống hồ sơ, gồm những mục nó về người và việc, đền nỗi khó có đề tài nào hoặc nhân vật nào mà thể cung cấp ngay tư liệu.
      - Đưa tôi xem nào - Holmes - Hừm! “Sinh tại New Jersey năm 1858. Giọng nữ trầm [6]. Hừm...La Scala, vai nữ chính của Nhà hát Opera Hoàng gia Vacsava. Vâng, rời rời sân khấu. ha! sống tại London”. Đúng thế, theo tôi biết bệ hạ dan díu với trẻ này, viết những lá thư tai hại, và bây giờ muốn lấy lại những lá thư ấy, đúng ?
      - Đúng vậy. Nhưng làm thế nào...
      - Có hôn nhân bí mật ?
      - .
      - Có giấy tờ pháp lý nào ?
      - .
      - Vậy nếu ta trưng ra những lá thư nọ để tống tiền hoặc với mục đích khác ta chứng minh xác thực của chúng như thế nào?
      - Có chữ viết.
      - Úi chà! Có thể giả mạo.
      - Loại giấy viết riêng của tôi.
      - Có thể đánh cắp.
      - Con dấu của tôi.
      - Có thể bắt chước.
      - Tấm hình của tôi.
      - Có thể mua.
      - Chúng tôi chụp chung tấm ảnh đấy.
      - Ôi chao! tai hại! Bệ hạ phạm phải hớ hênh đáng tiếc.
      - Tôi điên cuồng.
      - Ngài tự hại mình cách nghiêm trọng.
      - Lúc ấy tôi chỉ là hoàng thái tử trẻ mới có 30 tuổi.
      - Phải lấy lại.
      - Chúng tôi cố hết sức, nhưng đều thất bại.
      - Bệ hạ phải chi tiền. Phải mua lại nó.
      - ta bán.
      - Vậy phải đánh cắp.
      - 5 lần thực phương án đó. Hai lần tôi thuê những tên trộm lục soát nhà ta. lần chúng tôi đánh lạc hướng hành lý của ta khi ta du lịch. Hai lần ta bị đột kích, nhưng tất cả đều có kết quả.
      - thấy tăm hơi tấm ảnh đâu cả?
      - Hoàn toàn .
      - vấn đề khá rắc rối đối với tôi - Holmes cười, .
      - Nhưng đối với tôi, đó là vấn đền nghiêm trọng - Vị khách trách móc.
      - ta dự định làm gì với tấm ảnh.
      - Để làm hại tôi.
      - Nhưng bằng cách nào?
      - Tôi sắp cưới vợ.
      - Tôi nghe chuyện đó.
      - Tôi sắp cưới Clotilde Lothman von Saxe- Meningen, con thứ hai của vua Scandinavia. Chắc ông cũng biết lễ giáo khe khắc của gia đình này. Bản thân này cũng là người nhạy cảm.
      - Còn Irène Adler?
      - ta dọa gửi tấm ảnh cho gia đình vợ tôi, và tôi biết chắc ta làm. ta có khuôn mặt của người phụ nữ đẹp nhất nhưng lại có khối óc của người đàn ông cương quyết nhất.
      - Ngài có chắc là ta chưa gửi nó .
      - Chắc chắn.
      - Tại sao?
      - ta rằng gửi nó vào ngày mà lễ đính hôn được công bố. Đó là ngày thứ Hai tuần tới.
      - Vậy chúng ta chỉ còn có 3 ngày. Bệ hạ vẫn còn lưu lại London chứ?
      - Chắc chắn rồi. Ông tìm thấy tôi tại khách sạn Langham dưới tên bá tước Von Kramm.
      - Vậy tôi gửi cho ngài vài dòng để thông báo tiến trình công việc.
      - Xin cho tôi biết tin. Tôi rất sốt ruột.
      - Còn chuyện thù lao thế nào? Thưa ngài?
      - Ông nhận được ngân phiếu trắng.
      - Tuyệt đối?
      - Tôi chịu mất địa phận vương quốc của tôi để có tấm ảnh đó.
      - Còn việc chi tiêu giờ?
      Ông vua lấy cái túi bằng da sơn dương từ bên dưới áo choàng và đặt nó lên bàn.
      - Có ba trăm pound bằng tiền vàng và bảy trăm tiền giấy.
      Holmes nguệch ngoạc ký vào tờ biên nhận trong quyển sổ tay của và trao lại cho ông ta.
      - Còn địa chỉ của ta?
      - Biệt thự Briony Lodge, đại lộ Serpentine, St. John’s Wood.
      - câu hỏi nữa. Tấm ảnh to cỡ cái tráp đựng nữ trang.
      - Đúng thế.
      - Bây giờ, xin tạm biệt Bệ hạ. Tôi có ngay những tin tức tốt.
      Khi chiếc xe chạy khuất xuống phố, :
      - Tạm biệt nhé, Watson, chiều mai hãy ghé tôi, lúc ba giờ chiều. Tôi muốn bàn bạc vấn đề nho này với .
      Đúng ba giờ chiều, tôi ở phố Baker nhưng Holmes chưa trở lại. Bà chủ nhà báo cho tôi biết, sáng nay rời nhà sau tám giờ chút. Tôi ngồi xuống cạnh lò sưởi, có ý đợi . Tôi quan tâm sâu sắc đến cuộc điều tra này. Gần bốn giờ chiều cửa lớn mở và tay giữ ngựa có dáng say rượu, tóc tai bờm xờm và có râu mép, mặt đỏ bừng, áo quần xộc xệch bước vào. Mặc dù rất quen thuộc với khả năng hóa trang tuyệt. diệu của Holmes, nhưng phải nhìn nhìn lại ba lượt tôi mới chắc chắn đó là . Với cái gật đầu, biến mất vào phòng ngủ, năm phút sau ra trong bộ đồ bằng vải tuýt chỉnh tề, như thường lệ. Đặt hai tay vào túi, duỗi chân ra đằng trước lò sưởi và cười ha hả trong vài phút.
      - Ồ! - kêu lên, rồi cười sặc sụa, cho đến khi nằm rũ ra trong ghế.
      - Cái gì thế, bạn?
      - buồn cười. Tôi chắc là bao giờ đoán được là tôi sử dụng buổi sáng như thế nào, và sau cùng tôi làm gì.
      - Có lẽ quan sát những thói quen và ngôi nhà của Irène.
      - Đúng như vậy. Nhưng tiến trình hơi khác thường. Tôi rời nhà sau tám giờ chút đóng vai chàng thất nghiệp. Chẳng bao lâu tôi tìm thấy biệt thự của ta. Đó là biệt thự , xinh, có vườn phía sau, mặt tiền được xây nhô ra tận đường cái, có hai tầng. Cửa sổ có ổ khóa tròn. Phòng khách ở phía bên phải, trang bị tiện nghi với những cửa sổ dài xuống gần tới sát sàn, chốt cửa dễ mở. Phía sau có gì đáng chú ý, trừ ra những cửa sổ nơi hành lang, đứng từ nóc cái nhà để xe ngựa có thể với tới. Tôi xung quanh ngôi nhà, quan sát nó từ mọi vị trí, nhưng ghi nhận dược cái gì đáng kể.Tôi thơ thẩn xuống phố và phát ra cái chuồng ngựa trong con hẻm chạy xuống cạnh bờ tường của khu vườn. Tôi giúp những gã giữ ngựa tay để họ tắm ngựa. Về khoản thù lao, tôi nhận được hai xu, ly rượu pha, hai mồi thuốc lá và những tin tức mà tôi muốn biết về ta.
      - Còn ta thế nào?
      - Ồ! “Đó là người phụ nữ kiều diễm nhất hành tinh”. Những người ở xóm chuồng ngựa như vậy. ta sống lặng lẽ, hát tại những buổi hòa nhạc, mỗi ngày đánh xe ra khỏi nhà lúc năm giờ sáng, và trở về lúc bảy giờ đúng. Ít khi ra khỏi nhà vào những giờ khác, trừ khi hát. Chỉ có người khách nam giới, nhưng ta đến thường xuyên. Đó là ông Norton. Khi tôi nghe hết những gì mà tôi cần biết, tôi bắt đầu tới lui gần biệt thự lần nữa và xem xét các kế hoạch của tôi. chàng Norton này đến thăm ngày hai lần với mục đích gì? Phải chăng Irène là thân chủ của ta, là bạn, là người ? Nếu là thân chủ, có lẽ ta giao tấm hình cho ta giữ. Nếu là bạn ít có khả năng đó.
      Tôi phân vân, biết nên tiếp tục công việc ở nhà , hay quay sang chàng luật sư. Tôi cân nhắc mọi vấn đề trong đầu, xe song mã chạy đến biệt thự, ta và gã đàn ông nhảy ra, rất vội vàng, bảo tài xế đợi. Bà quản gia mở cửa, ta chạy vụt vào với cái vẻ hoàn toàn tự nhiên như ở nhà mình. ta ở trong nhà khoảng nửa tiếng, tôi có thể thấy ta nơi cửa sổ phòng khách, lại lại, năng rối rít và vẫy cánh tay. Về phần ta, tôi nghe thấy gì. Bỗng ta ra, trông có vẻ bồn chồn hơn trước. Khi bước lên xe ngựa, ta kéo cái đồng hồ vàng từ trong túi ra và nhìn vào nó, ra dáng sốt ruột.
      - “Chạy nhanh, nhanh lên” - ta quát to - “Đến ngay nhà thờ Sainte Monique. Nửa đồng guinée [7], nếu có thể đến trong hai mươi phút?”.
      Xe chạy .
      Khi tôi tự hỏi có nên theo họ , chiếc xe bé, xinh xắn từ đường hẻm chạy lên. Xe vừa đến nơi ta chạy bắn ra từ cửa hành lang và nhảy lên xe.
      - “Đến nhà thờ Sainte Monique” - ta kêu lên - “Nửa đồng souverain [8] nếu đến đó trong hai mươi phút?”
      Tôi tự hỏi, biết nên chạy theo xe hay leo lên phía sau xe chiếc xe băng qua đường phố. Bác tài xế nhìn hai lần vào ông khách rách rưới, nhưng tôi nhảy vào xe trước khi bác ta phản đối.
      - “Đến nhà thờ Sainte Monique” - Tôi - “Nửa đồng souverain, nếu đến đó trong hai mươi phút?”. Lúc ấy là mười hai giờ kém hai mươi.
      Khi tôi đến, hai chiếc xe với những con ngựa thở phì phì và ở trước cửa lớn. Tôi trả tiền xe và vội vã vào nhà thờ.Trong nhà thờ có ai ngoài hai người và ông linh mục. Hình như ông linh mục giảng cho họ điều gì đó. Ba người đứng thành hình cái nút thắt phía trước bàn thờ. Tôi thơ thẩn nơi lối hai bên như bất cứ gã nhàn rỗi nào tình cờ bước vào nhà thờ. Bỗng nhiên, ba người tại bàn thờ quay lại nhìn tôi và Norton chạy ba chân bốn cẳng về phía tôi.
      - “Cám ơn Chúa” - ta kêu lên - “Có bác là đủ. Xin bác làm ơn đến đây.”
      - “Cái gì vậy?” - Tôi hỏi.
      - “Xin bác đến giùm cho. Chỉ ba phút thôi. Nếu đúng phép”.
      Tôi gần như bị lôi đến bàn thờ. Trước khi biết mình ở đâu, tôi thấy mình lẩm bẩm những câu trả lời ( được thầm vào tai tôi) và thề thốt về những điều mà tôi chẳng biết ất giáp gì cả.
      chung, tôi là người làm chứng cho cuộc hôn lễ giữa dâu và chú rể. Dường như lễ cưới của họ có cái gì đó chưa đúng phép và ông linh mục dứt khoát từ chối làm phép cưới mà nhân chứng bất kỳ nào đó; xuất của tôi khiến cho chú rể khỏi mất công chạy ra phố kiếm chàng phù rể. dâu trao cho tôi đồng souverain và tôi có ý đeo nó lên dây đồng hồ để kỷ niệm.
      - Đây là điều bất ngờ, bước ngoặt của việc và rồi cái gì xảy ra? - Tôi hỏi.
      - Có vẻ như họ sắp lên đường ngay lập tức, và bởi thế, tôi phải có những biện pháp rất gấp rút và thích hợp. Tại cửa lớn nhà thờ, họ chia tay nhau. “Em xe ra công viên vào lúc năm giờ như thường lệ”, ta , khi chia tay. Tôi nghe thấy gì nữa. Họ xe về hai hướng khác nhau, và tôi cũng để thu xếp công việc của mình.
      - Thu xếp cái gì thế?
      - Vài miếng bít tết nguội và ly nước - , tay rung chuông - Tôi bận quá nghĩ đến chuyện ăn uống. Chiều nay, chắc còn bận rộn hơn nữa. Nhân thể tôi cần được giúp đỡ?
      - Rất thú vị.
      - ngại làm chuyện phi pháp chứ?
      - Hoàn toàn !
      - Có thể bị bắt giữ, chịu được chứ?
      - Nếu vì mục đích tốt đẹp.
      - Ồ, mục đích rất tuyệt diệu!
      - Vậy sẵn sàng.
      - Tôi rất tin .
      - Nhưng cần gì ở tôi?
      - Xin lỗi, tôi phải bàn chuyện đó trong khi ăn. Trong hai tiếng đồng hồ nữa, chúng ta trường. Irène trở về nhà lúc bảy giờ. Chúng ta phải có mặt tại đó để gặp ta.
      - Rồi làm gì nữa?
      - cứ để việc đấy cho tôi . được can thiệp, dù xảy ra chuyện gì nữa. hiểu chứ?
      - Hiểu.
      - Công việc bắt đầu khi người ta đưa tôi vào nhà ta. Bốn, năm phút sau dó, cửa sổ phòng khách mở ra. đứng trụ gần sát cánh cửa sổ mở ấy.
      - Vâng.
      - phải theo dõi tôi luôn.
      - Vâng.
      - Và khi tôi đưa bàn tay lên, ném vào phòng cái mà tôi trao cho , và cùng lúc ấy, kêu báo động: “cháy, cháy!”.
      - Hoàn toàn .
      - Chả có gì khủng khiếp - , lấy trong túi ra cuộn tròn có hình điếu xì gà - Đây là thứ lựu đạn khói bình thường. Công tác của chỉ có thế. Khi kêu báo động cháy, nhiều người khác tiếp tục kêu báo động. Rồi sau đó có thể bộ đến cuối phố, chờ tôi trong mười phút.
      - Những chuyện đó tôi làm được.
      - Tuyệt lắm!
      biến mất vào phòng ngủ, vài phút sau ra trong vai mục sư Tin lành chất phác và dễ mến. Cái mũ đen rộng thùng thình, cà vạt trắng, nụ cười dễ mến, thái độ sốt sắng, ân cần ít ai bì.
      Trời hoàng hôn và những ngọn đèn mới được thắp sáng lúc chúng tôi lại lại phía trước biệt thự. Có nhóm đàn ông ăn mặc xốc xếch hút thuốc và cười đùa, trong góc có thợ mài kéo với cái bánh xe của ông ta, hai người gác dan đứng đùa giỡn với vú trẻ, và dăm bảy chàng thanh niên ăn vận bảnh bao thơ thẩn lui tới, miệng ngậm xì gà.
      - thấy đó. Bây giờ tấm ảnh trở thành con dao hai lưỡi. ta thích ông Norton nhìn thấy nó, cũng như vị vua muốn vợ sắp cưới của ông ta nhìn thấy. Bây giờ, câu hỏi là chúng ta phải tìm tấm ảnh ở đâu?
      - Nó ở đâu?
      - Nó quá lớn, khó giấu vào áo phụ nữ, chắc mang nó bên mình.
      - Vậy nó ở đâu?
      - Nơi người chủ nhà băng hoặc người luật sư. Nhưng phụ nữ chỉ tin tưởng vào chính mình. Vả lại, ta quyết tâm sử dụng nó trong vài ngày tới đây, vậy nó phải ở cái nơi mà ta có thể lấy được dễ dàng: ngay trong nhà ta.
      - Nhưng hai lần người ta tìm cách đánh cắp nó rồi kia mà.
      - Ồ, họ biết cách tìm.
      - Nhưng tìm bằng cách nào?
      - Tôi cần tìm.
      - Vậy
      - Tôi buộc ta phải chỉ chỗ cất giấu tấm hình.
      - Nhưng, ta từ chối.
      - ta thể từ chối. Kia kìa, xe ta đến đấy! Nhớ lời tôi dặn nhé.
      Khi , ánh đèn bên hông của chiếc xe ngựa chiếu ra từ khúc quẹo của đại lộ. Khi xe đỗ lại, trong những tên lang thang từ góc phố nhào ra để mở cánh cửa, với hy vọng kiếm được chút cháo, nhưng lại bị tên khác chen lấn, ta cũng lao tới cùng với mục đích như vậy. cuộc xô xát dữ dội xảy ra. Hai gã gác dan nhảy vào hỗ trợ tên, còn người thợ mài kéo trợ lực tên kia. vừa xuống xe bị kẹt vào giữa đám đông. Bọn đàn ông mặt đỏ nhừ đánh loạn xạ vào nhau bằng tay và gậy. Holmes nhào vào đám đông để che chở cho người phụ nữ. Nhưng vừa đến gần ta kêu lên tiếng và ngã xuống, máu chảy ròng ròng xuống mặt. Hai gã gác dan hoảng hốt, bỏ chạy về phía, và những tên vô lại chạy về phía bên kia, trong khi đó, số người ăn vận bảnh bao - từ nãy giờ đứng ngoài quan sát - ùa vào trợ giúp người phụ nữ và chăm sóc kẻ bị thương. Irène vội vã lên những bậc cấp, song vẫn đứng ở bậc cấp cùng, nhìn ra đường phố.
      - Ông ta có bị thương ? - ta hỏi.
      - Ông ấy chết rồi? - vài giọng kêu lên.
      - , , ông ta còn thoi thóp - người khác quát to - Nhưng ông ta chết trước khi đến bệnh viện.
      - Ông ta rất dũng cảm - người phụ nữ - Hẳn chúng nó lấy mất cái ví và cái đồng hồ của bà ta, nếu ông ấy đến cứu. Đó là bọn cướp táo tợn. À, bây giờ, ông ta thở.
      - thể để ông ta nằm đường phố được. Chúng tôi có thể đưa ông ta vào nhà , thưa bà?
      - Được xin lối này!
      Holmes được đưa vào biệt thự và đặt nằm trong phòng chính, trong khi tôi vẫn quan sát diễn biến từ bên cạnh cửa sổ. Đèn được thắp sáng, nhưng các tấm rèm chưa được vén lên, để tôi có thể thấy Holmes nằm -văng. Trong đời, tôi chưa bao giờ thấy xấu hổ cho bằng khi nhìn thấy người phụ nữ xinh đẹp này, người mà tôi mưu gài bẫy để chống lại. Cũng xấu hổ khi thấy tử tế và ân cần biểu lộ ra trong việc chăm sóc kẻ bị thương. Song, nếu rút khỏi vai trò mà Holmes giao phó cho tôi, tôi lại phản bạn. Tôi lấy quả lựu đạn khói ra khỏi cái áo choàng dài và rộng. Dù sao nữa, chúng tôi cũng gây thương tích cho ta. Chúng tôi chỉ ngăn chặn, cho ta làm hại đến người khác thôi.
      Holmes ngồi dậy - văng, tôi thấy ra hiệu như người cần khí. tớ chạy băng tới và mở tung cửa sổ. Cùng lúc ấy tôi thấy đưa tay lên. Tôi liền ném quả lựu đạn khói vào phòng và kêu lên: “Cháy! Cháy!”. Ngay lập tức đám đông đứng đó cùng đồng thanh kêu to: “Cháy! Cháy!”. Những dám khói dày đặc cuồn cuộn dâng lên trong phòng và tuôn ra ngoài. Tôi thoáng thấy những bóng người chạy vụt , lát sau đó, nghe giọng của Holmes từ bên trong, trấn an mọi người rằng đó chỉ là báo động nhầm. Len lỏi qua đám đông hò hét, tôi tìm đường đến góc phố. Mười phút sau, tôi sung sướng thấy cánh tay Holmes trong tay tôi. Chúng tôi nhanh và im lặng trong vài phút cho đến khi xuống tới trong những đường phố yên tĩnh.
      - hành động rất tốt.
      - có tấm ảnh rồi ư?
      - Tôi biết nó ở đâu.
      - Làm sao biết.
      - ấy chỉ cho tôi, tôi rồi mà.
      - Tôi vẫn chưa hiểu gì.
      - thấy, mọi người phố đều là người của tôi.
      - Tôi cũng đoán như thế.
      - Khi cuộc ẩu đả nổ ra, tôi để chút thuốc màu đỏ trong lòng bàn tay. Tôi chạy vụt ra phía trước, ngã xuống, đập tay lên mặt.
      - Điều ấy, tôi cũng đoán được.
      - ta buộc phải cho tôi vào phòng khách. Tấm ảnh có khả năng nằm giữa phòng ngủ và phòng khách. Người ta đặt tôi lên cái -văng. Tôi ra hiệu cần khí, họ buộc phải mở cửa sổ, và có cơ hội để hành động.
      - Việc ấy giúp như thế nào?
      - Khi người phụ nữ nghĩ rằng ngôi nhà ta cháy, theo bản năng, ta lao tới cái mà ta cho là quý nhất. phụ nữ có chồng chộp lấy đứa con, chưa chồng với lấy hộp nữ trang; đối với Irène, ta chạy tới để cứu lấy tấm ảnh. Báo động cháy được thực cách đáng khâm phục. Khói và tiếng reo hò cũng đủ lay động bộ thần kinh bằng thép. Tấm ảnh ở trong góc phía sau tấm pa-nô trượt, chính ngay dây chuông bên phải. Thoắt cái ta ở đó, và tôi kêu to rằng đó là báo động nhầm, ta đặt nó vào chỗ cũ, liếc nhìn quả lựu đạn, chạy vội ra khỏi phòng. Tôi đứng dậy, lời cáo từ và thoát ra khỏi nhà. Tôi lưỡng lự, biết có nên lấy tấm ảnh ngay hay , nhưng người tài xế vào, ông ta nhìn tôi cách chăm chú...
      - Và bây giờ?
      - Bọn mình ghé thăm thân chủ của chúng ta. Có thể nhà vua thỏa mãn khi ngài tự tay lấy lại nó.
      - Bao giờ đến đó?
      - Lúc tám giờ sáng mai. ta chưa dậy, nhờ vậy mà chúng ta rảnh tay để hành động. Tôi phải đánh điện cho nhà vua ngay.
      Chúng tôi về tới phố Baker và ngừng lại ở cửa lớn. Holmes lục túi tìm chìa khóa người ngang qua :
      - Chào ông Sherlock Holmes, chúc ông ngủ ngon.Lúc đó có dăm bảy người vệ đường, nhưng lời chào hình như đến từ chàng trai mảnh khảnh trong chiếc áo choàng dài vừa mới vội vã qua.
      - Tôi có lần nghe giọng ấy - Holmes , trố mắt nhìn xuống đường phố mờ mờ ánh đèn - Bây giờ, tôi tự hỏi, người ấy là ai?
      Đêm ấy tôi ngủ tại phố Baker. Sáng hôm sau, khi chúng úng tôi ăn điểm tâm, nhà vua chạy vụt vào phòng.
      - Ông lấy được nó? - Ông ta kêu lên, nắm chặt hai vai Holmes.
      - Chưa đâu.
      - Nhưng có hy vọng?
      - Có.
      - Vậy . Xe của tôi đợi.
      - Tốt lắm!
      Chúng tôi xuống cầu thang, lên xe ngựa tiến về biệt thự của .
      - Nàng lấy chồng.
      - Lấy chồng? Bao giờ vậy?
      - Hôm qua.
      - Nhưng lấy ai?
      - luật sư người .
      - ta ta chứ?
      - Tôi hy vọng là ta ta.
      - Tại sao lại hy vọng?
      - Bởi vì chuyện ấy tránh cho Bệ hạ mọi chuyện rắc rối trong tương lai. Nếu người phụ nữ ấy chồng, tức là nàng Bệ hạ. Nếu nàng Bệ hạ, có lý do gì mà nàng lại can thiệp vào kế hoạch của Bệ hạ.
      - Đúng vậy! Ồ, nếu tôi chọn ta làm hoàng hậu, ta vị hoàng hậu tuyệt vời biết bao?
      Ông ta lại chìm vào im lặng trầm tư, im lặng chỉ bị phá vỡ khi xe chạy đến nơi.
      Cửa biệt thự mở ra. người đàn bà đứng tuổi đứng những bậc thềm. Bà ta nhìn chúng tôi bằng cái nhìn giễu cợt khi chúng tôi từ xe bước xuống.
      - Ông là Sherlock Holmes, phải ?
      - Tôi là Holmes - Bạn tôi đáp và nhìn bà ta bằng cái nhìn dò hỏi, sửng sốt.
      - chẳng sai? Bà chủ tôi bảo rằng thế nào ông cũng ghé đến. Sáng nay ông bà chủ tôi lên đường sang châu Âu.
      - Cái gì? - Holmes lảo đảo muốn ngã ra - ta rời nước ?
      - Vâng! bao giờ trở lại nữa.
      - Còn giấy tờ? - Ông vua hỏi, giọng khàn khàn - Tất cả đều bị mất rồi ư?
      - Chúng ta vào xem.
      băng qua bà quản gia và chạy vội vào phòng khách. Theo sau là nhà vua và tôi. Đồ đạc tung toé khắp nơi, những cái kệ trống rỗng, những ngăn kéo mở, hình như người phụ nữ lục lọi cách vội vã trước khi ra . Holmes lao tới cái dây chuông, kéo cái cửa pa- nô trượt xuống và thọc tay vào, kéo ra tấm ảnh và lá thư. Đó là tấm ảnh của chính nàng Irène Adler mặc dạ phục.
      Lá thư gửi cho “Ngài Sherlock Holmes”.
      “Ông Sherlock Holmes thân mến,
      ra ông hành động rất khéo léo. Ông hoàn toàn đánh lừa được tôi. Cho đến sau khi nghe báo động lửa, tôi vẫn mảy may ngờ vực. Nhưng, khi tôi phát ra tôi tự làm lộ chuyện của mình tôi bắt đầu suy nghĩ. Từ mấy tháng trước, người ta báo cho tôi biết, phải đề phòng ông. Tôi được báo tin rằng nếu nhà vua thuê thám tử, chắc chắn người đó phải là ông. Và người ta cho tôi địa chỉ của ông. Thế mà, sau cùng ông vẫn buộc tôi phải tiết lộ cho ông cái mà ông muôn biết. Thậm chí, sau khi bắt đầu ngờ vực tôi cũng thấy khó mà nghĩ xấu về ông mục sư tốt bụng.
      Nhưng ông biết đấy, tôi cũng được huấn luyện trong nghề diễn viên. Y phục nam giới đối với tôi chẳng có gì xa lạ. Trước đây, tôi thường cải trang để sinh hoạt thoải mái hơn. Nhờ có bác tài xế canh chừng ông, tôi chạy lên tầng , mặc y phục của đàn ông rồi theo đến nhà của ông để biết chắc chắn rằng ông theo dõi tôi. Hơi liều lĩnh chút, tôi chào ông, chúc ông ngủ ngon giấc, rồi đến Temple để gặp chồng tôi. Cảhai chúng tôi đều nghĩ rằng, tốt nhất là tẩu thoát còn hơn ở lại mà bị theo đuổi bởi đối thủ kinh khủng như ông. Như vậy, ông tìm thấy chiếc hộc trống . Còn về tấm ảnh, thân chủ của ông có thể yên tâm. Tôi và được bởi người tốt hơn ông ta. Nhà vua có thể làm những gì mà ông ta muốn, và gặp cản trở nào về phía người phụ nữ mà ông ta đối xử tàn tệ. Tôi giữ tấm ảnh chỉ để tự vệ như thứ vũ khí để chống lại toan tính nào mà ông ta có thể thực được trong tương lai. Tôi để lại tấm ảnh mà ông ta có thể muốn giữ. Xin chân thành chào ông, ông Sherlock Holmes thân mến!
      Irène Norton, nhũ danh Adler”.
      - phụ nữ phi thường - Vua xứ Bohemia kêu lên, khi cả ba chúng tôi đọc xong lá thư - ta được ở vào giai cấp của tôi, là điều rất đáng tiếc?
      - Tôi rất tiếc là đưa việc của ngài đến kết cục thành công hơn - Holmes .
      - Trái lại! có gì thành công hơn. Tôi biết rằng lời của ta chắc như đinh đóng cột. Tấm ảnh đó bây giờ an toàn như thể nó nằm trong lửa vậy.
      - Tôi rất vui khi nghe Bệ hạ vậy.
      - Tôi mang ơn ông vô cùng. Xin cho tôi biết, tôi có thể đền ơn ông như thế nào? Cái nhẫn này…
      Ông ta tháo cái nhẫn ngọc ra khỏi ngón tay và đặt nó giữa lòng bàn tay.
      - Bệ hạ có thứ mà tôi cho là quý hơn thế nữa.
      - Ông chỉ cần ra.
      - Tấm ảnh này?
      Nhà vua trố mắt nhìn , kinh ngạc.
      - Tấm ảnh của Irène à? Sẵn sàng thôi, nếu ông muốn.
      - Xin cám ơn Bệ hạ. Vậy , vấn đề kết thúc. Tôi trân trọng chúc Bệ hạ buổi sáng tốt đẹp.
      Holmes cúi chào, và quay nhìn thấy bàn tay nhà vua chìa ra cho .
      * * * * *
      Xưa nay, vẫn thường lấy chuyện thông minh của phụ nữ ra mà đùa cợt. Nhưng gần đây, tôi nghe làm việc đó nữa. Mỗi khi về Irène, hoặc khi nhắc đến tấm ảnh của nàng, luôn luôn gọi nàng bằng danh hiệu cao quý: “Người Phụ Nữ”.
      [1] Nguyên văn: pound, tức khoảng 3,5 kg (1 pound = 0,45 kg)
      [2] Nguyên văn: Continental Gazetteer
      [3] Nguyên văn: 6 feet 6 inches, khoảng 2 m (1 foot = 12 inch = 0,3 m)
      [4] Nguyên văn: Prague, nay là thủ đô Cộng hòa Czech
      [5] Nguyên văn: Warsaw, nay là thủ đô của Ba Lan
      [6] Nguyên văn: Contralto
      [7] loại tiền , có giá trị bằng 21 shilling.
      [8] loại tiền , có giá trị bằng 20 shiling.

    3. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      Chương 2: Hội tóc hung


      hôm, tôi bước vào phòng khách thấy Sherlock Holmes say sưa trò chuyện với người đàn ông vóc người to béo, sắc mặt hồng hào, mái tóc màu hung đỏ rực như lửa. Tôi xin lỗi vì đường đột và định quay ra, Sherlock Holmes kéo tôi vào, rồi đóng cửa lại.
      Watson thân mến, đến đúng lúc - .
      - Tôi sợ bận.
      - Đúng, rất bận là đằng khác.
      - Vậy để tôi sang phòng bên đợi .
      - sao đâu. Thưa ông Wilson, bác sĩ Watson đây là cộng và là trợ thủ của tôi trong nhiều vụ án thành công nhất. Tôi tin chắc trong vụ này ấy cũng rất hữu ích.
      Người đàn ông to béo hơi nhổm dậy, gật đầu chào, liếc cặp mắt nhìn tôi, vẻ dò xét.
      - Watson thân mến - Sherlock Holmes - Tôi biết từng chia sẻ cùng tôi lòng say mê tất cả những gì bí , và trái với lẽ thường. Đây, ông Jabezz Wilson có chuyện kỳ lạ nhất mà tôi từng nghe thấy trong mấy tháng nay. Ông Wilson, theo tôi, ông nên vui lòng kể lại từ đầu. Tôi cầu như vạy phải chỉ vì bác sĩ Watson, bạn tôi, chưa được nghe phần đầu, mà còn vì câu chuyện kỳ lạ này khiến tôi háo hức múon nghe kỹ lại mọi tình tiết. Thông thường, chỉ cần nghe qua vài tình tiết là tôi liên tưởng đến hàng ngàn vụ tương tự mà mình còn nhớ. Nhưng với vụ này, tôi phải buộc lòng thừa nhận rằng nhiều điểm quả là có hai.
      Ông khách hàng lôi từ túi trong chiếc áo choàng mặc ra tờ báo ố bẩn, nhàu nát. Cúi người xuống, ông đưa mắt nhìn vào mục quảng cáo đăng tờ báo trải đùi. “Đây rồi”, ông vừa vừa giơ ngón tay mập tròn, hồng hào, chỉ vào đoạn dưới nằm giữa cột quảng cáo.
      - Toàn bộ câu chuyện mở đầu từ chính cái mẩu này đây. Xin ông tự đọc lấy hơn.
      Tôi đón lấy tờ báo, rồi nhẩm đọc :
      “Hội những người tóc hung.
      Thể theo ý nguyện mà ông Ezekiah Hopkins ở Lebanon, Pennsylvania, U.S.S di chúc lại giờ đây, Hội cần tuyển hội viên làm công việc nhàn nhã với mức lương 4 bảng/tuần, trích từ các khoản tài sản của ông. Mọi người có mái tóc hung đỏ và có thể lực, trí lực tốt, 21 tuổi, đều có thể dự tuyển. Đơn từ xin gửi về cho ông Duncan Ross, vào sáng thứ Hai, lúc 11 giờ, tại văn phòng Hội, số 7 Pope’s Court, đường Fleet Street, Luân Đôn”.
      - Chuyện quái quỷ gì thế này? - Tôi kêu lên sau khi đọc đọc lại hai lần mẩu quảng cáo kỳ quặc đó .
      Sherlock Holmes mỉm cười :
      - Chuyện khá kỳ quặc, đúng ? - . - Bây giờ, ông Wilson, xin ông kể về chính ông, gia cảnh ông và ấn tượng mà mẩu quảng cáo này gây nên cho ông.
      - À, cũng như tôi vừa kể với ông đấy, ông Sherlock Holmes - Jabez Wilson . Tôi có cửa hiệu cầm đồ , tại Coburg Square, gần khu City. Công việc làm ăn của tôi chẳng bề thế gì cho lắm, và gần đây lời lãi chỉ tạm đủ sống. Trước tôi có thể thuê hai nhân viên giúp việc, nhưng giờ chỉ còn dám thuê có và cũng khó trả nổi tiền lương cho người ta, trừ phi người ấy vui lòng hưởng phần nửa mức lương thông thường, coi như để có dịp làm quen với công việc ở đây.
      - Thế chàng sốt sắng ấy tên là gì? - Sherlock Holmes hỏi.
      - Tên là Vincent Spaulding. còn trẻ nữa. Tuổi tác khó đoán. nhân viên nhanh nhẹn, ông Sherlock Holmes ạ, và tôi thừa biết dễ dàng kiếm được công việc khá hơn thế này nhiều, lương bổng cao gấp đôi so với đồng lương mà tôi trả nay. Nhưng rốt cục, vẫn nhận, và nếu thấy bằng lòng, việc gì tôi lại gợi ý cho rằng chịu thiệt kia chứ?
      - Đúng, chẳng ích gì . Xem ra ông quả tốt số khi kiếm được tay phụ việc như . Chắc cũng chú ý chính mẩu quảng cáo này.
      - Ồ, cũng có nhược điểm đấy - Ông Wilson . - Tôi chưa từng găp ai mê ảnh như gã này. Hễ cao hứng là bấm máy lia lịa, rồi nhanh như con thỏ chui tọt xuống hầm rượu in in tráng tráng những pô ảnh vừa chụp xong. Đó là nhược điểm chính của ; còn nhìn chung rất được việc. Tôi thấy chẳng có gì đáng phàn nàn.
      - Tôi đoán: chắc giờ vẫn còn làm cho ông?
      - Vâng, thưa ông. với bé mười bốn tuổi chỉ lo việc bếp núc và dọn dẹp. Ngoài ra nhà tôi chẳng còn ai, vì tôi vợ con. Ba chúng tôi sống rất bình lặng, thưa ông, cho tới lúc...
      “Mọi chuyện bắt đầu bị đảo lộn kể từ ngày tôi đọc được mẩu quảng cáo này. hôm, chuyện đó xảy ra cách đây hơn tám tuần, Spaulding bước vào cửa hiệu với tờ báo này tay, và “Ước gì tôi cũng được trời phú cho mái tóc hung đỏ, ông Wilson ạ”.
      - Sao vậy? - Tôi hỏi.
      - Sao ư? - . - Ông cứ đọc mẩu thông báo tuyển người của Hội Tóc Đỏ đây khắc . Ai may mắn chắc kiếm được gia tài chứ chẳng phải đùa. Tôi chắc họ còn khuyết nhiều hội viên so với số người xin vào hội. Chỉ cần mái tóc tôi đổi màu là tôi sẵn sàng xin nhập hội ngay, vì đây là công việc tôi thấy nhàn nhã.
      - Sao, vậy nghĩa là thế nào? - Tôi hỏi . - Ông Sherlock Holmes, ông thấy đó, vì công việc của tôi bắt tôi phải chạy ngược chạy xuôi tìm khách hàng, nên có khi suốt mấy tuần lễ, tôi chẳng bước chân ra khỏi nhà. Vì vậy, tôi chẳng biết gì nhiều về những chuyện diễn ra xung quanh, nên bao giờ tôi cũng háo hức nghe kể những chuyện mới lạ.
      - Thế bao giờ ông nghe tới Hội Tóc Đỏ chưa? - hỏi tôi.
      - Chưa bao giờ.
      - Ồ, ông chính là người có thể chiếm được trong những chỗ khuyết ấy đấy.
      Thế họ có thể kiếm được bao nhiêu? - Tôi hỏi.
      - À, mỗi năm chỉ vài trăm bảng thôi, nhưng được cái là công việc rất nhàn nhã, vả lại ảnh hưởng gì nhiều tới những chuyện họ làm.
      Vâng, điều kẻ khiến tôi phải dỏng tai lên nghe. Mấy năm nay, công việc làm ăn của tôi khấm khá lắm, nên cơ may kiếm thêm được vài trăm bảng quả hết sức hấp dẫn.
      - Này, hãy kể hết tôi nghe những gì biết về cái Hội nọ, tôi bảo .
      - Vâng đáp và chìa cho tôi xem mẩu quảng cáo nọ - như chính ông thấy đó, Hội khuyết chỗ. Họ có đăng đại chỉ ràng; ông có thể đến đó hỏi thêm. Theo tôi được biết, Hội này do Eekiah Hopkins, triệu phú Mỹ tính nết hết sức khác người, lập ra. Tóc ông ấy đỏ rực, nên ông ấy rất thiện cảm với hết thảy những ai có mái tóc cùng màu. Bởi vậy, sau ngày mất, ông ấy để lại tài khoản kếch xù để tạo công ăn việc làm nhàn nhã cho những ai cùng màu tóc với ông ta. Tôi nghe nhiều người đồn là công xá khá hậu mà công việc lại chẳng vất vả gì lắm.
      - Nhưng, - Tôi - số người tóc hung nộp đơn khéo lên đến cả hàng triệu.
      - nhiều như ông tưởng đâu - đáp.
      Như ông thấy đó, Hội chỉ nhận những ai người Luân Đôn. Ông triệu phú này vốn sinh ở Luân đôn, và sống tại đây thời trai trẻ, nên muốn làm những việc tốt đẹp cho thành phố nơi mình sinh trưởng. Hơn nữa, tôi còn nghe , Hội dành chỗ khuyết đó cho những ai tóc màu hung nhạt, hung sẫm, hoặc bất kỳ sắc hung nào, mà chỉ dành cho người có mái tóc , màu hung đỏ, đỏ rực như lửa. Ông Wilson, nếu muốn nhập đơn, ông nên đến ngay . Nhưng xem ra chắc ông chẳng thèm mất công chỉ để kiếm được có vài trăm bảng.
      Nhưng chắc quí ông thấy đó, tóc tôi quả thực màu hung đỏ với đủ mọi sắc thái mà chính mẩu quảng cáo kia đòi hỏi. Tôi tự cảm thấy nếu phải dự tuyển, tôi có nhiều cơ may hơn bất cứ ai tôi từng gặp từ trước tới giờ. Vincent Spaulding xem ra biết chuyện này nhiều hơn những gì tôi có thể trông đợi ở , nên tôi lập tức ra lệnh cho đóng cửa hiệu, rồi chúng tôi liền lên đường, tìm đến cái địa chỉ ghi trong mẩu quảng cáo kia.
      Ông Holmes ạ, tôi hy vọng đừng bao giờ phải chứng kiến thêm lần nữa cảnh tượng như thế. Từ bốn phương đông, tây, nam, bắc, tất cả những ai có mái tóc hung với đủ mọi sắc độ đều lũ lượt kéo đến City để tranh nhau cái chỗ khuyết đăng mẩu quảng cáo kia. Tôi thể hình dung nổi rằng đất nước lại có đến ngần ấy người háo hức đổ về đây chỉ vì mẩu quảng cáo vớ vẩn kia. Màu tóc họ thôi đủ mọi sắc độ, nhưng như Spaulding số người có mái tóc màu đỏ rực như lửa, quả nhiều . Khi thấy có ngần ấy người đứng đợi, tôi toan bỏ cuộc. Nhưng Spaulding chịu nghe. chen vai thích cánh mãi cho tới lúc lách được qua đám đông, và chúng tôi đặt được chân lên những bậc tam cấp dẫn lên văn phòng.
      Trong văn phòng tôi chẳng thấy bày biện gì nhiều, ngoài mấy chiếc ghế gỗ và cái bàn. Ngồi tại đó là mọt người bé loắt choắt, màu tóc còn đỏ hơn cả tóc tôi. vắn tắt vài câu với từng người dự tuyển, rồi với ai cũng cố tìm vài khiếm khuyết này nọ để từ chói. Chiếm được chỗ khuyết đó xem ra chẳng dễ. Nhưng khi đến lượt tôi, chàng loắt choắt nọ tỏ ra hài lòng hơn bất cứ ai khác. đóng chặt cửa lại ngay sau lúc chúng tôi bước vào, để có thể trò chuyện riêng với hai chúng tôi.
      - Đây là ông Jabez Wilsong, - Spaulding - ông ấy đến để dự tranh chỗ khuyết mà Hội tuyển.
      - Ông ấy rất xứng đáng - Gã nọ đáp.
      Lâu lắm rồi, tôi chưa từng thấy mái tóc nào tuyệt như thế này. lùi lại bước, nghiêng đầu ngắm nghía mái tóc tôi. Rồi thình lình chồm tới nắm chặt tay tôi, chức mừng tôi trúng tuyển.
      - còn gì để phân vân nữa - . - Nhưng để biết chắc, xin ông thứ lỗi, tôi phải thận trọng để đề phòng.
      chưa dứt lời, dùng cả hai tay tóm chặt tóc tôi giật lấy giật để cho tới lúc tôi rơm rớm nước mắt.
      Ông ứa nước mắt kìa - vừa vừa buông tay ra. - Tôi thấy mọi cái đều ổn. Nhưng chúng tôi phải thận trọng, vì chúng tôi hai lần bị lừa, lần tóc giả, lần tóc nhuộm.
      đến bên cửa sổ và lớn tiếng báo cho đám đông rằng tìm được ứng viên thích hợp. Tiếng suýt xoa và kêu la vì thất vọng từ dưới đường vọng lên, và mọi người lục tục bỏ , tản ra nhiều ngả, cho tới lúc chẳng còn thấy mái tóc hung nào, ngoại trừ mái tóc hung của tôi và của gã lo việc tuyển chọn các ứng viên.
      - Tên tọi là Duncan Ross - . - Bao giờ ông có thể bắt tay vào công việc?
      - À, có điều hơi bất lợi là tôi bận chuyện làm ăn ở nhà - Tôi đáp.
      - Ồ, ông Wilson, ông đừng lo! - Vincent Spaulding . - Tôi có thể thay ông trông coi.
      - Tôi phải làm việc vào những giờ nào? - Tôi hỏi.
      - Từ mười giờ sáng đến hai giờ chiều.
      giờ, ông Holmes ạ, cửa tiệm cầm đồ của tôi chủ yếu chỉ làm việc vào buổi chiều và buổi tối, vì vậy, tôi thấy có gì bất tiện cho lắm, nếu kiếm thêm được chút đỉnh vào các buổi sáng. Ngoài ra, tôi biết tay giúp việc của tôi là người đáng tin cậy, và ta có thể thay thế tôi xoay xở mọi việc khi cần.
      - Vậy rất thuận tiện cho tôi - Tôi . - Còn thù lao?
      - Bốn bảng mỗi tuần.
      - Thế công việc?
      - Nhàn nhã lắm.
      - Ông muốn ngụ ý gì khi gọi là nhàn nhã?
      - À, ông phải có mặt hàng ngày tại văn phòng, hay ít ra cũng tại tòa nhà này, trong suốt thời gian đó. Nếu bỏ ra ngoài, ông mất việc. Bản di chúc có ghi điểm này.
      - Mỗi ngày chỉ có mặt bốn tiếng chuyện ra khỏi văn phòng chắc chắn tôi thực được thôi - Tôi .
      - Chúng tôi bao giờ dung thứ vì bất cứ lý do nào - Ông Duncan Ross - Cả ốm đau lẫn bận công việc, hoặc bất cứ cớ gì khác. Ông hoặc phải ở lại, hoặc bị mất việc.
      - Thế tôi phải làm gì?
      - Chép lại bộ Encyclopedia Britannica, Bách khoa toàn thư Quốc. Đây là tập I. Bắt đầu từ mai trở , ông sẵn sàng chưa?
      - Dĩ nhiên - Tôi đáp.
      - Vậy tạm biệt ông, ông Jabez Wilson. lần nữa xin chúc mừng ông.
      Tôi cùng gã giúp việc trở về, chẳng biết gì hay làm gì thêm: tôi rất mừng rỡ vì tìm được công việc béo bở.
      Vâng, chuyện đó khiến tôi khấp khởi mừng thầm suốt ngày, nhưng đến chiều, tôi lại thấy lo. Tôi tự thuyết phục mình rằng toàn bộ chuyện này đúng là trò đùa, mặc dù thực chất nó là gì, tôi sao hình dung nổi. khó tin được rằng đời lại có kẻ để lại bản di chúc kỳ cục như thế, và chịu bỏ ra đống tiền như thế chỉ để thuê làm dịch vụ giản dị là chép toàn bộ Bách khoa toàn thư Quốc. Tuy vậy, sáng hôm sau tôi vẫn quyết định đến xem tận mắt thể thế nào, nên tôi lên đường đến Pope’s Court.
      Tôi sửng sốt và lấy làm thích thú vì mọi chuyện diễn ra hết sức tốt đẹp, ngoài sức tưởng. Họ kê sẵn cho tôi cái bàn, và Duncan Ross ngồi đó xem tôi bắt tay vào việc ra sao. Gã bảo tôi chép từ vần A, rồi lát sau bỏ , để mặt tôi ngồi chép. Nhưng chốc chốc lại tạt vào xem tôi làm việc ra sao. Đúng hai giờ gã khen tôi chép được nhiều, rồi tạm biệt tôi, tiễn tôi ra khỏi cửa, xong khoá cửa văn phòng ngay khi tôi vừa khỏi.
      Ông Holmes ạ, việc đó cứ tiếp diễn hết ngày này sang ngày khác, và đến thứ bảy gã bước vào, trao cho tôi bốn đồng sovereign vàng để trả cho công việc tôi làm tuần qua. Tuần sau mọi chuyện lại diễn ra như tuần đầu rồi tuần tiếp theo nữa cũng thế. Sáng nào tôi cũng có mặt ở đúng lúc mười giờ và ra về lúc hai giờ. Càng về sau, Duncan Ross càng đến thưa dần, chỉ lần vào buổi sáng, rồi ít lâu sau, thấy đến nữa. Tuy vậy, dĩ nhiên, tôi vẫn bao giờ dám rời khỏi phòng dù chỉ phút. Tôi làm thế nào biết chắc được lúc nào gã xuất , hơn nữa, công việc lại nhàn nhã, hợp với sở thích tôi, nên tôi muốn có nguy cơ bị thải hồi.
      Tám tuần liền trôi qua như vậy và số giấy tôi chép được chất đầy phân nửa cái giá sách trong phòng. Nhưng rồi toàn bộ công việc bỗng nhiên kết thúc”.
      - Kết thúc?
      - Vâng, thưa ông. Mà chỉ mới sáng nay thôi. Tôi đến nơi làm việc như thường lệ vào lúc mười giờ, nhưng thấy cửa khoá và chính giữa có đính mẩu thông báo , hình vuông, viết bìa cứng. Mẩu thông báo ấy đây, ông có thể tự đọc.
      Rồi ông thân chủ chìa ra mẩu bìa trắng, cỡ bằng trang sổ tay, viết chỉ vỏn vẹn mấy chữ :
      “Hội những người tóc hung đỏ giải thể ngày 9 tháng 10 năm 1890”
      Holmes và tôi ngắm nghía mẩu thông báo và gương mặt rầu rĩ thấp thoáng sau mảnh bìa nọ cho tới lúc khía cạnh khôi hài của vụ này khiến cả hai cùng cười phá lên.
      - Tôi chẳng thấy có gì đáng buồn cười trong chuyện này - Ông thân chủ của chúng tôi kêu lên, mặt đỏ ửng lên tận mái tóc hung đỏ rực. - Nếu quí ông thể làm gì khác ngoài việc nhạo báng tôi, tôi nhờ người khác ngay đây.
      - Ồ, , - Holmes kêu lên. - Tôi thực tình muốn bỏ qua vụ này, dù phải chịu mất bất cứ thứ gì. Nhưng, ông bỏ qua cho, trong chuyện này quả có điểm gì đó rất hài hước, Thế ông làm gì khi thấy mẩu bìa này đính cửa?
      - “Tôi chưa biết phải làm gì. Tôi tới dò hỏi các văn phòng kế cận của tòa nhà, nhưng chẳng ai biết gì về cái Hội kia. Rốt cục, tôi đành tìm gặp ông chủ nhà ở dưới tần trệt, hỏi xem ông ta có thể cho tôi điều gì xảy ra với cái Hội Tóc đỏ kia . Ông ấy đáp rằng chưa bao giờ nghe đến nó. Rồi tôi hỏi ông Duncan Ross là ai. Ông ấy : cái tên đó ông mới nghe thấy lần đầu.
      - Vâng - Tôi - đó chính là cái ông thuê căn phòng số 4.
      - À, cái gã tóc màu hung đỏ chứ gì?
      - Đúng thế.
      - Ồ, - Ông ta tiếp - tên gã ấy là William Moris kia. chỉ thuê tạm căn phòng tôi ít lâu trong lúc chờ tìm được chỗ mới để đặt văn phòng của . vừa dọn hôm qua.
      - Thế có thể tìm ở đâu?
      - À, tại văn phòng mới của . có cho tôi biêt địa chỉ đấy. Vâng, đây rồi, số 17, đường King Edward Street, cạnh giáo đường Saint Paul.
      Tôi đến ngay nơi đó, ông Holmes ạ, tìm được căn nhà theo địa chỉ, nhưng chẳng ai nghe tới cái tên William Morris lẫn cái tên Duncan Ross”.
      - Rồi ông còn làm gì nữa? - Holmes hỏi.
      - Tôi quay về Coburg Square, hỏi gã giúp việc nên tính sao, nhưng gã chẳng nghĩ được cách gì khả dĩ giúp tôi cả. Chỉ bảo tôi là nên chịu khó chờ thư từ qua đường bưu điện. Nhưng như thế tôi thấy chưa yên tâm, ông Holmes ạ. Tôi muốn bị mất việc, mà chẳng hề làm gì, chỉ khoanh tay ngồi chờ. Tôi nghe ông rất tốt bụng, sẵn lòng giúp những ai khốn khổ đến cầu cứu mình, nên tìm đến ông ngay.
      - Ông ứng phó như vậy là khôn ngoan. - Holmes . - Vụ của ông rất đáng chú ý, và tôi rất lấy làm sung sướng được mời đứng ra giải quyết. Từ những gì ông vừa kể, tôi nghĩ đây chắc chắn là vụ nghiêm trọng hơn so với mức mà người ta có thể tưởng khi mới nhìn qua.
      - Đúng là nghiêm trọng ! - ông Jabez Wilson. - dưng tôi bị mất bốn bảng mỗi tuần.
      - Riêng về phần ông, - Holmes nhận xét - tôi thấy ông có gì để oán trách cái hiệp hội kỳ quặc kia cả. Trái lại, theo như tôi hiểu, ông kiếm thêm được khoảng ba mươi bảng và thu thêm được ít nhiều tri thức sâu sắc về tất cả các mục được viết trong vần A. Ông chẳng mất gì cả.
      - Ồ, , thưa ông. Nhưng tôi còn muốn dò ra tung tích bọn chúng xem chúng là ai và chúng chơi trò này với tôi nhằm mục đích gì, nếu đó quả là trò đùa. trò đùa khá tốn kém với bọn chúng, vì chúng phải trả những ba mươi hai bảng.
      - Chúng tôi cố làm sáng tỏ những điểm ông vừa nhắc. Nhưng trước hết, tôi muốn hỏi ông vài câu, ông Wilson. chàng giúp việc của ông, người đầu tiên lưu ý ông về mẩu quảng cáo kia, làm việc cho ông bao lâu rồi?
      - Trước đó khoảng tháng.
      - đến với ông như thế nào?
      - Theo lời quảng cáo tôi cho đăng báo.
      - Chỉ mình đến hay còn có thêm ai khác?
      - , có khoảng tá đến dự tuyển.
      - Tại sao ông chọn ?
      - Vì năng nổ và đòi hỏi nhiều.
      - Thực , chỉ đòi phân nửa số lương phải ?
      - Vâng.
      - Tướng mạo thế nào, cái gã Vincent Spaulding ấy?
      - Thấp, mập, rất nhanh nhẹn, có râu, tuy tuổi khoảng ba mươi. trán có vết sẹo trắng.
      Holmes ngồi bật dậy, vẻ rất kích động.
      - Tôi cũng đoán vậy. - - dái tai ông có thấy hai lỗ đeo hoa tai ?
      - Có, thưa ông. bảo tôi bà di gan xỏ cho khi còn trẻ.
      - Thôi được rồi, ông Wilson. Vài ngày nữa, tôi rất sung sướng, báo cho ông biết kết quả vụ này. Hôm nay là thứ Bảy, tôi hy vọng đến thứ Hai chúng tôi có kết luận.
      Khi ông thân chủ ra về, Holmes liền thu người lại trong ghế bành, hai đầu gối khẳng khiu gần chạm mũi. ngồi ở tư thế đó hồi lâu, mắt lim dim, chiếc tẩu bằng đấu nung màu đen nhô ra phía trước, trông tựa cái mỏ của giống chim kỳ lạ. Tôi tưởng ngủ thiếp thình lình chồm dậy, dáng điệu như thể người vừa nảy ra quyết định, và đặt chiếc tẩu lên mặt lò.
      Chiều nay có buổi hòa nhạc tại St James’s Hall. - thốt lên. - nghĩ sao, Watson? Bệnh nhân của có thể vui lòng buông tha trong vài giờ được ?
      - Hôm nay tôi chẳng có gì phải làm. Công việc của tôi bao giờ khiến tôi phải miệt mài cả ngày trong phòng khám.
      - Vậy đội mũ vào, rồi ta thôi. Trước tiên, tôi phải đến khu City. Rồi sau đó, đường về, ta có thể ghé vào cửa hiệu nào đó ăn chiều. Nào, ta lên đường thôi!
      * * * * *Chúng tôi đáp tàu điện ngầm đến tận Aldersgate, rồi bộ quãng tới Coburg Square, nơi diễn ra câu chuyện kỳ dị mà chúng tôi vừa được nghe kể ban sáng. tấm biển hiệu màu nâu, kẻ hai chữ “JABEZ WILSON” bằng sơn trắng, treo ở góc nhà cho biết đó là cơ ngơi hành nghề của ông thân chủ tóc hung đỏ của chúng tôi. Holmes dừng lại ngay trước cửa hiệu, nghiêng đầu ngắm nghía mọi thứ, mắt sáng quắc. Rồi thong thả lại lại đường, sau đó vòng xuống tận góc phố, mắt vẫn chăm chú quan sát từng ngôi nhà. Cuối cùng, quay lại trước cửa hiệu. dùng đầu gậy nện mạnh hai ba lần xuống vỉa hè, rồi tiến thẳng tới trước cửa hiệu gõ cửa. Cánh cửa mở toang ngay và trong khung cửa ra chàng trai mặt mũi sáng sủa lên tiếng mời mọc.
      - Cảm ơn - Holmes . - Tôi chỉ muốn nhờ chỉ giúp đường đến Strand.
      - Đến ngã tư thứ ba rẽ phải, đến ngã tư thứ tư rẽ trái. - Gã giúp việc của ông Wilson vừa đáp, vừa đóng chặt cửa lại.
      - Quả là gã ranh mãnh. - Holmes nhận xét khi chúng tôi quay ra. - Theo tôi xét đoán, là tay ranh mãnh đứng hàng thứ tư ở Luân Đôn này, và có lẽ đứng hàng thứ ba về mặt liều lĩnh. Tôi biết ít nhiều về !
      - ràng là gã giúp việc của ông Wilson đóng vai trò đáng kể trong vụ làm ăn bí của Hội Tóc Hung - Tôi . - Tôi tin chắc việc hỏi đường chỉ là cái cớ để nhìn mặt .
      - phải đâu.
      - Vậy muốn xem gì?
      - Ống quần , nơi hai đầu gối.
      - Thế thấy được những gì?
      - Thấy cái mà toi mong đợi nơi ta.
      - Vậy tại sao gõ gõ đầu gậy xuống vỉa hè?
      - Bác sĩ thân mến ơi, đây là lúc để quan sát, chứ phải để trò chuyện. Ta biết được ít nhiều về Coburg Square. Giờ ta phải tìm kiếm những ngõ ngách nằm sau lưng nó.
      Con đường mà chúng tôi vừa đặt chân tới sau khi vòng qua góc quảng trường Coburg Square là trong những trục giao thông huyết mạch nối liền khu City với hai phần thuộc mạn phía Bắc và Tây của kinh thành. Khó mà hình dung nổi những dãy cửa hiệu và văn phòng hoa lệ mà chúng tôi nhìn thấy trước mắt lại chính là mặt sau của cái quảng cáo ảm đạm mà chúng tôi vừa mới ghé qua.
      - Để tôi ngắm chút nhé - Holmes khi dừng lại góc đường và đưa mắt nhìn dọc con đường. - Tôi muốn ghi nhớ thứ tự các tòa nhà ở đây. Tìm hiểu tường tận Luân dôn là thú vui của tôi. Đầu tiên là cửa hiệu thuốc lá Mortimer, kế đến là sạp báo , rồi chi nhánh Coburg của ngân hàng thành phố và các Vùng phụ cận. Chỗ này ăn thẳng sang lô nhà phía bên kia. Watson, thế là chúng ta xong việc. Bây giờ chúng ta được quyền thư giãn đầu óc trong chốc lát. khoanh sandwich, tách cà phê, rồi sau đó ta đến dự buổi hòa nhạc, nơi mà chẳng thân chủ tóc hung nào có thể quấy rầy chúng ta bằng những vụ rắc rối điên đầu.
      Bạn tôi say mê nhạc, vì vốn là người chơi nhạc và cũng là nhạc sĩ có tài. Suốt buổi chiều hôm đó, ngồi trong phòng hòa nhạc, tận hưởng niềm hạnh phúc tột đỉnh và khẽ đánh nhịp bằng mấy ngón tay dài khẳng khiu theo các tiết tấu được nghe.
      - Chắc muốn về ngay, phải bác sĩ? - Holmes khi chúng tôi vừa rời khỏi phòng hòa nhạc.
      - Vâng, tôi muốn về.
      - Còn tôi, tôi phải làm nốt số việc, mất khoảng vài tiếng nữa. Vụ Coburg Square quả là vụ nghiêm trọng.
      - vậy sao?
      - Đây là vụ phạm tội qui mô có mưu tính trước. Tôi có đủ lý do để tin chắc chúng ta còn kịp ngăn chận. Tôi mong vui lòng giúp tôi tối nay.
      - Vào lúc mấy giờ?
      - Từ mười giờ tối là vừa. Watson ạ, vụ này e nguy hiểm, nên xin bỏ túi khẩu súng nhà binh của . - Holmes vẫy tay tạm biệt, rồi quay và mất hút ngay trong đám đông.
      Tôi luôn bị ám ảnh bởi ý nghĩ là mình khù khờ mỗi lần cộng tác với Sherlock Holmes. Tôi cũng nghe những gì nghe thấy và cũng nhìn những gì nhìn thấy. Nhưng qua lời tôi hiểu rằng chỉ thấy được những gì xảy ra, mà còn tiên đoán được những gì sắp tới, trong khi dưới mắt tôi toàn bộ nội vụ vẫn chỉ là mớ bòng bong.
      Tối hôm đó, vừa đặt chân vào phòng Holmes, tôi thấy sôi nổi trò chuyện với hai người, mà tôi nhận ra ngay - đó là Peter Jones, thám tử của sở cảnh sát. Còn người kia cao gầy, nét mặt buồn bã, đầu đội chiếc mũ bóng loáng.
      - Ra, vậy là đủ mặt cả rồi - Holmes vừa vừa cài khuy chiếc áo vét, rồi với tay lên giá lấy chiếc gậy nặng trịch xuống - Watson, tôi nghĩ chắc biết ông Jones, đằng Scotland Yard? Vậy chỉ xin giới thiệu với : đây là ông Merryweather, cộng của chúng ta trong cuộc phiêu lưu tối nay. Với ông, ông Meryweatherr, món tiền đặt cọc cho cuộc chơi tối nay là ba mươi ngàn bảng. Còn với ông, ông Jones, đó là gã phạm mà từ lâu ông vẫn ước ao tóm cổ.
      - Vâng, đó là John Clay, tên giết người kiêm trộm cắp. Gã còn trẻ, ông Merryweatherr ạ, nhưng là tay rất sừng sỏ trong nghề. Tôi muốn bắt gã hơn bất cứ tên tội phạm nào ở Luân Đôn. nhân viên rất đáng chú ý, cái gã John Clay trai trẻ ấy. Đầu óc cũng tinh quái như đôi bàn tay vậy, nên tuy chúng tôi phát được dấu tích để lại khắp nơi, chúng tôi vẫn biết tìm ở đâu. Tôi theo dõi nhiều năm rồi, nhưng chưa bao giờ được nhìn thấy tận mắt.
      - Hy vọng rằng tối nay tôi có thể có hân hạnh đựoc giới thiệu với ông. Tôi cũng vai lần được nhìn thấy chiến công của cái gã John Clay này, và tôi hoàn toàn đồng ý với ông rằng quả là tay cao thủ trong nghề. Nhưng kìa, hơn mười giờ rồi, ta phải lên đường thôi. Nếu hai ông lên chiếc xe đầu, Watson và tôi theo sau chiếc xe thứ hai.
      đoạn đường dài, Holmes rất ít . Xe chúng tôi lăn bánh những dãy phố dài bất tận cho tới lúc đổ ra đường Farringdon Street.
      - Sắp đến nơi rồi - Bạn tôi . - Tay Merryweather kia là Giám đốc nhà băng và có liên quan trực tiếp đến vụ này. Tôi nghĩ Jones cũng rất cần cho chúng ta. Ta xuống đây thôi, họ chờ chúng ta kia kìa.
      Chúng tôi đặt chân xuống chính khúc đường vốn tập nập mà chúng tôi vừa tới hồi sáng. Theo chân Merryweather, ba chúng tôi băng qua con hẻm hẹp, rồi theo cánh cửa hông mở sẵn để đón chúng tôi, vào nhà. Bên ngoài cánh cửa là dải hành lang ngắn, dẫn thẳng tới cái cổng sắt đồ sộ. Cánh cổng cũng mở sẵn, và chúng tôi lần bước những bậc cầu thang xoắn bằng đá, dẫn xuống cái cổng đồ sộ nữa. Ông Merryweather dừng lại, châm đèn, xong dẫn chúng tôi xuống lối tối om, sực mùi đất ẩm, rồi ông mở tiếp cánh cửa thứ ba, đưa chúng tôi xuống căn nhà hầm rất rộng. Xung quanh, chúng tôi thấy chất đống hàng dãy thùng gỗ và hòm lớn.
      - Từ phía ông rất an toàn - Holmes vừa nhận xét, vừa giơ cao ngọn đèn lồng, đưa mắt nhìn quanh.
      - Cả từ phía dưới cũng thế - Ông Merrywether vừa vừa gõ gõ đầu gậy xuống mặt sàn bằng đá. - Trời ơi, sao nghe như trống rỗng thế này! - Ông ngước mắt, kinh ngạc thốt lên.
      - Tôi buộc phải cầu ông hơn chút. - Holmes nghiêm nghị . - Nếu chúng ta có nguy cơ chẳng gặt hái được gì trong chuyến phiêu lưu này. Xin qúi ông làm ơn ngồi xuống mấy cái thùng kia và đừng can thiệp vào công việc của tôi.
      Ông Merryweather liền ngồi ngay xuống cái thùng gỗ, vẻ mặt rất phật ý. Holmes quì xuống dười sàn và dùng chiếc đèn lồng bắt đầu xem xét cẩn thận từng kẽ đá. Chỉ vài phút sau mãn nguyện ngay vì tôi thấy đứng bật dậy.
      - Chúng ta phải chờ ít nhất tiếng nữa - - Vì bọn chúng khó có thể làm gì trước khi ông chủ hiệu cầm đồ ngủ yên. Bấy giờ, chúng bỏ lỡ lấy phút, vì công việc càng xong sớm, chúng càng có nhiều giờ để chạy trốn. Watson, chắc đoán được nay, chúng ta ở dưới tầng hầm Chi nhánh City của trong những nhà ngân hàng chủ chốt ở Luân Đôn. Ông Merryweather đây là chủ tịch ban Giám đốc. Ông ấy giải thích cho rằng lúc này bọn tội phạm táo tợn nhất của thành Luân Đôn có những lý do để quan tâm nhiều đến căn nhà hầm này.
      - Chúng tôi cất giữ tại đây toàn bộ số vàng Pháp mà ngân hàng vay được - ông Giám đốc khẽ .
      - Vàng Pháp của các ông?
      - Vâng. Cách đây vài tháng chúng tôi có vay của Ngân hàng pháp Quốc số vàng trị giá ba mươi ngàn bảng. Ai cũng biết là chúng tôi chưa bao giờ khui số vàng ấy ra, và cho tới bây giờ mấy thùng vàng đó vẫn còn nằm nguyên ở đây, tại căn hầm này. Cái thùng tôi ngồi này đựng số vàng trị giá tới hai ngàn bảng . Nghĩa là nhiều hơn rất nhiều so với mức bình thường tại văn phòng của chi nhánh , và các viên Giám đốc đều có những mối nghi ngờ về chuyện này.
      - Họ nghi ngờ là rất phải, - Holmes nhận xét - và bây giờ đến lúc chúng ta phải trù liệu những gì cần làm để hoàn tất cái kế hoạch của ta. Tôi hy vọng trong khoảng giờ nữa, mọi chuyện kết thúc. Trong thời gian đó, ông Meryweather ạ, chúng ta phải che tạm ngọn đèn lại.
      - Vậy là phải ngồi trong bóng tối?
      - Tôi e rằng đành phải thế thôi. Tôi thấy đối thủ của chúng ta chuẩn bị rất kỹ lưỡng, nên ta thể liều lĩnh để cho chúng thấy dưới này có ánh sáng. Và trước nhất, chúng ta phải chọn cho mỗi người vị trí thuận lợi để ra tay. Bọn này rất táo tợn, nên chúng ta có lợi thế hơn, chúng vẫn có thể gây tổn hại cho chúng ta, nếu ta cẩn thận. Tôi đứng nép sau cái thùng này; còn các ông hãy nấp sau mấy cái kia. Khi nào tôi chiếu đèn vào bọn chúng, các ông hãy mau lẹ bắt lấy chúng. Nếu chúng nổ súng Watson, hãy bắn hạ chúng.
      - Bọn chúng chỉ còn lối thoát - Holmes khẽ - Đó là lui về căn nhà Coburg Square. Ông Jones, tôi hy vọng chắc ông dã làm đúng những gì tôi cầu?
      - Toi cho viên thanh tra và hai cảnh sát mai phục ở cửa trước hiệu cầm đồ.
      - Vậy là chúng ta chặn hết tất cả các lối ra và giờ, chỉ còn phải ngồi im đợi chúng nữa thôi.
      Thời gian như thể ngừng trôi! Lúc này mới có giờ mười lăm phút, thế mà tôi có cảm giác như đêm sắp tàn và trời rạng sáng. Từ chỗ nấp, tôi có thể nhìn bao quát cả sàn hầm. Bỗng mắt tôi nhìn thấy ánh đèn.
      Mới đầu, đó chỉ là tia sáng mặt đá. Về sau, tia sáng cứ dài dần cho tới lúc trở thành vệt vàng, rồi bất thần, hề gây tiếng động, khe hở mặt sàn như mở rộng ra thành lỗ hổng. bàn tay ra, trắng trẻo như tay phụ nữ, sờ soạng ở phía giữa quầng sáng . Rồi trong những phiến đá rộng, màu trắng, bị lật sang bên, phát ra tiếng động ngắn, và lỗ hổng trắng hoác hình vuông xuất , khiến dòng ánh sáng từ ngòn đèn lồng tuôn vào căn hầm. Qua cái lỗ hổng đó, gương mặt rất trẻ con từ từ nhô lên, đưa cặp mắt dò xét nhòm quanh. Sau đó gã nọ vươn dần người lên cho tới lúc tỳ được gối vào mép lỗ. Chỉ khoảnh khắc sau, đứng bên mép lỗ, và đưa bàn tay ra, kéo tên đồng bọn lên theo, gã cũng thấp như , mặt mũi xanh xao mái tóc hung đỏ rực như lửa.
      - Ổn rồi - thầm. - Mày có mang theo mấy cái bao ? Thế là đại thắng! Nhảy , Archie, nhảy !
      Holmes lao ra, tóm chặt cổ áo gã mới đột nhập đó. Gã kia tụt vội xuống cái lỗ hổng nọ, và tôi nghe thấy tiếng vải rách soạt khi Jones túm lấy chiếc áo khoác của . Ánh đèn rọi thẳng vào khẩu súng ngắn cầm, nhưng chiếc gậy của Holmes giáng mạnh vào cổ tay , khiến khẩu súng rời xuống mặt sàn đá.
      - Vô ích thôi, John Clay - Holmes . - chẳng còn cơ may nào nữa đâu.
      - Ta biết - Gã đáp, giọng ráo hoảnh - Nhưng ta tin bạn ta thoát, tuy ta thấy vớ được chiếc áo choàng của cậu ta.
      - Có ba người đợi ngoài cửa đấy - Holmes .
      - À, ra thế. Xem ra tính đâu vào đấy rồi nhỉ. Khá khen cho .
      - Cả cho nữa. - Holmes đáp - Ý đồ lập Hội Tóc Đỏ của quả rất tân kỳ và hữu hiệu.
      John Clay nghiêng mình chào vòng cả ba chúng tôi, rồi lặng lẽ theo sau viên thám tử, .
      - Watson, thấy ? - Holmes giảng giải khi chúng tôi ngồi bên cốc whisky tại Baker Street. - Ngay từ đầu, tôi thấy ràng mục đích duy nhất của cái Hội nọ là điệu ông chủ hiệu cầm đồ ra khỏi nhà mình hàng ngày trong nhiều giờ. Cái biện pháp chọn quả có kỳ quặc , nhưng quả tình cũng khó tìm được cách nào tốt hơn. Ngón này ràng là do cái trí tuệ của Clay nghĩ ra nhờ mái tóc đỏ rực của tên đồng bọn gợi ý. Bốn bảng mỗi tuần là miếng mồi hết sức cám dỗ đối với ông chủ hiệu, nhưng có đáng là bao khi bọn chúng tính chuyện vớ được hàng ngàn? Chúng cho đăng quảng cáo, rồi gã lừa đảo thuê tạm văn phòng; còn gã kia khuyến khích ông chủ mình nộp đơn, và cả hai cùng nhau tìm cách làm sao cho ông ta chắc chắn vắng nhà tất cả các buổi sáng trong nhiều tuần lễ. Chỉ cần thoáng nghe câu chuyện là chỉ xin giúp việc với phân nửa số lương, tôi hiểu ngay: phải có động cơ mạnh mẽ nào đó thôi thúc chịu làm với đồng lương như thế!
      - Nhưng bằng cách nào mà đoán được động cơ của bọn chúng?
      - Công việc làm ăn của ông thân chủ chúng ta chẳng lời lãi bao nhiêu, nên trong nhà ông ta chẳng có món gì giá để chúng phải trù tính việc này, việc kia và chi tiêu tốn kém như vậy cả. Vì thế, ràng là cái mà chúng tìm phải ở chỗ khác kia. Nhưng đó là cái gì? Tôi nghĩ tới cái thói hay chụp ảnh của gã giúp việc cho ông ấy và cái thói quen chui xuống căn hầm của gã. Tầng hầm! Chìa hoá của mọi chuyện đây rồi. Tôi liền dò tìm lai lịch gã giúp việc bí nọ, và phát ra rằng mình đối mặt với trong những tên tội phạm nhẫn tâm nhất và táo tợn nhất thành Luân đôn. làm gì đó dưới tầng hầm - công việc phải mất nhiều giờ mỗi ngày và phải làm mấy tháng mới xong. Việc gì nhỉ? Tôi nghĩ: đó chỉ có thể là việc đào đường hầm để đột nhập vào tòa nhà.
      - Đó là những điều mà tôi suy ra được khi đến thăm trường. Tôi làm ngạc nhiên khi gõ gõ đầu gậy xuống vỉa hè. Tôi muốn biết tầng hầm đó dẫn ra phía trước hay phía sau. phải phía trước. Thế là tôi giật chuông gọi cửa, và gã giúp việc nọ ra mở ngay, đúng như tôi hy vọng. Tôi hầu như nhìn vào mặt , hai đầu gối mới nhìn. Chắc cũng nhìn thấy tận mắt: cả hai ống quần đều sờn nhàu và nhèm nhuốc nơi hai đầu gói. Đó là vết tích của bấy nhiêu giờ đào bới. Bấy giờ chỉ còn điểm chưa : con đường đó dẫn đến đâu? Tôi vòng ra góc quảng trường thấy ngân hàng City và Ngoài thành với cửa hiệu cầm đồ kia đấu lưng vào nhau. Tôi cảm thấy mình gửi xong bài toán. Khi ra về sau buổi hòa nhạc, tôi ghé đến Scotland yard, rồi gặp ông chủ tịch ban Giám đốc của ngân hàng nọ, và tôi gặt hái được kết quả như chính thấy đấy.
      - Nhưng làm cách nào mà đoán được rằng đêm nay chúng hành động? - Tôi hỏi.
      - Ấy, khi chúng đóng cửa văn phòng của Hội cũng chính là lúc chúng còn lo nghĩ gì nữa tới chuyện ông Jabez Wilson vắng hay ở nhà. cách khác, chúng đào xong con đường hầm kia. Nhưng cái chính là chúng phải sử dụng sớm thành quả đó, vì chúng sợ có thể bị phát hoặc ngân hàng chuyển chỗ vàng kia nơi khác. Thứ bảy là dịp thuận tiện cho chúng hơn bất kỳ ngày nào khác, vì chúng có tới hai ngày để tẩu thoát. Vì tất cả những lý do đó, tôi dự kiến chúng hành động ngay đêm nay.
      - Cách suy lụân của tài tình, - Tôi thán phục reo lên.
      - Nó chỉ cứu tôi ra khỏi cảnh buồn chán thôi - vừa đáp, vừa ngáp dài.

    4. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      Chương 3: vụ mất tích kỳ lạ


      - Bạn thân mến! - Sherlock Holmes khi chúng tôi ngồi cạnh lò sưởi trong căn hộ tại phố Baker - Cuộc sống là hơn bất cứ cái gì mà con người có thể khám phá. Chúng ta thể cảm nhận mọi thứ mà chỉ là những biểu của tồn tại. Nếu chúng ta có thể bay ra khỏi cửa sổ, bay lượn thành phố này, hãy nhìn vào bên trong những ngôi nhà, nơi những điều bất thường xảy ra, trùng hợp ngẫu nhiên, các kế hoạch được xếp đặt, những ý kiến mâu thuẫn, móc xích những kiện và liên kết chúng lại. Cuối cùng, nó giúp ta hình dung thói quen và thấy trước được kết quả của việc.
      - Tuy thế, tôi lại tin tưởng vào điều đó - Tôi trả lời - Nhiều vụ án được phanh phui báo chí đều dựa vào các quy tắc, trần trụi và thô kệch. Theo các báo cáo cảnh sát, thực đẩy tới giới hạn tột cùng của nó, và hiệu quả. Nó tường thuật từng yếu tố trực tiếp, hấp dẫn mà cũng nghệ thuật.
      - chọn lọc và thận trọng nhất định sản sinh hiệu ứng thực - Holmes nhận xét - Đấy chính là cái tồn tại trong các báo cáo của cảnh sát, nơi có quá nhiều căng thẳng, có lẽ, ở tính vô vị của thẩm phán hơn là ở những chi tiết, nơi người quan sát thấy được bản chất liên kết sống còn của toàn bộ vấn đề. Dựa theo đó, mọi thứ trở nên có gì là khác thường.
      Tôi cười và lắc đầu
      - Tôi có thể hiểu suy nghĩ của . - Tôi . - Tất nhiên, trong vị trí cố vấn và người giúp đỡ chính thức của mọi người mang đầy màu sắc huyền thoại, cả ba lục địa, được cho là bí và kỳ quái. Nhưng ở đây - Tôi nhặt tờ báo buổi sáng từ dưới nền nhà - Chúng ta thử xem. Tôi đọc ngay tiêu đề đầu tiên nhá. “ người chồng ngược đãi vợ”. nửa cột in, nhưng tôi cần đọc cũng có thể biết nội dung. Trong này, thể nào cũng có những thứ “người đàn bà khác”, “nghiện rượu”, “đấm đá”, “bầm tím”, “em xinh xắn”, “bà chủ nhà”... Chả có cái gì là hấp dẫn cả.
      - vậy, ví dụ của trường hợp may cho lý lẽ của , - Holmes . cầm lấy tờ báo và đọc tiếp xuống dưới - Đây là vụ ly dị của nhà Dundas, và cơ bản những thông tin của nó, tôi viết lại và liên kết các việc mà đụng đến các yếu tố . “Người chồng nghiện rượu và có người phụ nữ khác. Vấn đề than phiền là ta thường có thói quen khi nổi nóng trong mỗi bữa ăn lại lấy hàm răng giả của ta và ném vào vợ của ta”. Nào, có được ? Đây phải là những yếu tố kích thích trí tưởng tượng đối với người kể chuyện trung bình. Hút thuốc nhé, bác sĩ. Và cũng thấy là bản tường thuật của tôi nằm trong ví dụ của .
      cầm lấy cái hộp đựng thuốc lá bằng vàng. viên ngọc tím lớn được khảm nắp. Nó hoàn toàn tương phản với cách bài trí đơn giản của căn nhà mà trước đây tôi có dịp mô tả.
      - A, - - Tôi quên mất là mấy tuần rồi chúng ta gặp nhau. Đó là vật kỷ niệm nho của ông vua xứ Bohemia tặng cho trong vụ Irène Adler.
      - Còn cái nhẫn? - Tôi hỏi, liếc nhìn vật lấp lánh ở ngón tay ấy.
      - Nó là vật gia bảo của gia đình Hà Lan từng là thân chủ của tôi, tiếc là tôi thể tiết lộ cho được, dù rằng qua đó có thể bổ sung vào bộ sưu tập của hoặc hai vụ án nữa.
      - Lúc này vụ nào ? - Tôi hỏi với vẻ quan tâm.
      - Cả tá, toàn là những vụ quan trọng nên chúng chút hứng thú nào cả. Thường thường chỉ trong những vụ quan trọng, chúng ta mới thi thố được óc quan sát và khả năng phân tích nguyên nhân và hậu quả, khi tội ác càng lớn nguyên nhân lại càng giản dị, dễ hiểu, đó là nguyên tắc... Nhưng có lẽ chỉ trong vài phút nữa, chúng ta nữ thân chủ.
      Holmes rời khỏi ghế bành, đến đứng sau bức mành, hướng mắt xuống con đường ảm đạm. Nhìn qua vai , tôi thấy thiếu phụ, thân hình đẫy đà, đứng lề đường đối diện. Nàng đội nón rộng vành được trang điểm bằng chiếc lông chim lớn, màu đỏ. Nàng nhìn lên cửa sổ phòng chúng tôi với vẻ do dự. Thân hình nàng đong đưa. Thình lình, nàng chạy băng qua đường và tiếng chuông cửa reo vang.
      - Tôi từng biết loại triệu chứng này rồi - Holmes , vừa ném tàn thuốc lá vào lò sưởi - Người thiếu nữ này ở trong tình trạng bối rối vì vấn đề tình . Nàng muốn được giúp đỡ, nhưng biết có thổ lộ câu chuyện của mình ra chăng.
      Có tiếng gõ cửa, và người hầu vào thông báo có Mary Sutherland đến. Holmes lịch đón tiếp nàng. đóng cửa lại, mời nàng ngồi :
      - Thưa , với cặp kính cận, có cực nhọc lắm , khi phải đánh máy quá nhiều?
      - Đó là lúc đầu, bây giờ tôi có thể đánh máy mà cần nhìn vào bàn máy.
      Nàng trả lời cách tự động, chú ý đến tính cách đặc biệt của nó. Nhưng vừa xong, nàng bỗng giật nẩy mình, đưa mắt nhìn bạn tôi với vẻ kinh ngạc :
      - Ông Holmes! Phải chăng người ta với ông về tôi? Nếu , làm sao ông có thể biết được điều đó?
      - có gì quan trọng cả! - Holmes cười đáp - Nghề nghiệp bắt buộc tôi phải biết nhiều điều... Vả lại, nếu , đâu có đến đây tìm tôi?
      - Thưa ông, tôi đến tìm ông do lời giới thiệu của bà Etherege ông tìm ra được chồng của bà ấy cách dễ dàng, trong khi mọi người, kể cả cảnh sát, đều cho là ông ta chết? Ô, thưa ông Holmes! Tôi giàu, nhưng mỗi năm tôi được hưởng 100 bảng, ngoài ra tôi còn có tiền công đánh máy. Tôi sẵn sàng trả cho ông bao nhiêu cũng được, miễn là ông tìm ra ông Hosmer Angel giùm tôi.
      - Vì sao có vẻ quá hấp tấp vậy? - Holmes đan mười đầu ngón tay vào nhau, và đưa mắt nhìn lên trần nhà.
      lần nữa, nàng lại biểu lộ kinh ngạc đến sửng sốt.
      - Ông Windibank, cha của tôi, chẳng quan tâm gì đến việc này cả. Ông ấy muốn tôi báo cảnh sát, cũng muốn tôi đến gặp ông. Ông ấy rằng việc này có gì nghiêm trọng. Tôi nổi giận và chạy thẳng đến ông.
      Holmes hỏi :
      - Cha của à? Chắc là cha dượng của chăng?
      - Phải! Tôi gọi ông ấy bằng cha, nhưng ông ấy chỉ lớn hơn tôi có năm tuổi.
      - Mẹ vẫn còn sống chứ?
      - Vâng. Bà rất khỏe mạnh. Thưa ông, tôi được vừa lòng khi thấy mẹ tôi tái giá quá sớm, nhất là tái giá với người đàn ông kém hơn bà đến 15 tuổi. Cha ruột tôi là thợ sửa ống và đặt ống ở Tottenham Court Road. Ông để lại cả cơ xưởng trị giá 4.700 bảng hoạt động tốt. Mẹ tôi tiếp tục điều khiển cơ xưởng này với phụ tá của người đốc công là ông Hardy. Nhưng khi bà gặp ông Windibank, bà liền bán cơ xưởng và theo về với ông ấy.
      - Phải chăng số lợi tức hàng năm của là do cơ nghiệp của cha để lại?
      - Ồ . Đó là gia tài của chú Ned ở Auckland. Đó là những cổ phiếu New Zealand trị giá tổng cộng 2.500 bảng, với 4,5% tiền lời. Tôi chỉ lãnh số tiền lời đó thôi.
      - Câu chuyện của làm cho tôi thích thú. Xem nào! Như thế, mỗi năm lãnh được 100 bảng, và tiền công đánh máy. Với hai số tiền ấy, thiếu nữ độc thân có thể sống thoải mái, thỉnh thoảng du lịch hoặc mua sắm vài món đồ, phải ?
      - Vâng! Nhưng giờ tôi còn ở chung với mẹ tôi và ông Windibank. Do đó tôi để cho hai ông bà hưởng số tiền lời ấy, cho đến khi nào tôi có gia đình riêng. Cứ mỗi quý, ông Windibank lãnh số tiền lời của tôi đem về cho mẹ tôi. Còn tôi tôi chỉ tiêu xài số tiền đánh máy.
      - cho tôi biết rất ràng về tình trạng của - Holmes - Và bây giờ, đây là bác sĩ Watson, bạn thân của tôi. đừng e ngại gì cả, cứ tự nhiên kể lại cuộc giao thiệp giữa và ông Hosmer.
      Đôi má của nàng hơi ửng đỏ chút :
      - Khi cha tôi còn sống, các công nhân khí đốt thường gửi thiếp mời cả gia đình tôi đến khiêu vũ. Còn bây giờ họ gửi thiếp mời mẹ tôi và tôi. Ông Windibank chăng bao giờ muốn chúng tôi đâu cả. Lần này, tôi nhất quyết dự! Ông tìm đủ cách để bác bỏ. Sau cùng, thấy tôi chịu đổi ý ông ta bèn lên đường Pháp công tác cho công ty của ông ta. Mẹ tôi và tôi bảo ông Hardy đưa chúng tôi dự buổi khiêu vũ; và tôi gặp Hosmer ở đó.
      - Từ Pháp trở về, ông bố dượng rất giận dữ khi được biết dự buổi khiêu vũ hôm đó?
      - Ồ . Ông ta chỉ cười và nhún vai. Ông ta còn rằng nên cấm người phụ nữ làm điều gì họ thích, bởi vì có cấm họ cũng vẫn làm.
      - Tốt.
      - Ngày hôm sau, Hosmer đến thăm chúng tôi, sau đó chúng tôi có gặp lại ông ấy lần nữa... Nghĩa là, chúng tôi gặp nhau hai lần và dạo với nhau. Nhưng khi cha dượng tôi trở về, Hosmer thể đến nhà thăm tôi nữa.
      - Sao vậy?
      - Bởi vì, cha dượng tôi thích khách khứa đến nhà. Nhưng tôi với mẹ tôi rằng tôi muốn có gia đình.
      - Ông Hosmer tìm cách gặp lại sao?
      - Thế này: cha dượng tôi lại phải Pháp trong tuần lễ. Hosmer viết thư rằng nên chờ đợi cho cha dượng tôi rồi hãy gặp nhau. Trong thời gian chờ đợi, chúng tôi vẫn viết thư cho nhau. Mỗi buổi sáng, tôi đích thân ra hộp thư lấy thư, do đó cha dượng tôi chẳng hay biết gì cả.
      - Vào thời gian đó, hứa hôn với ông Hosmer chưa?
      - Ồ có, chúng tôi hứa hôn với nhau ngay từ buổi dạo đầu tiên. Hosmer là thủ quỹ trong văn phòng ở phố Leadenhall và...
      - Văn phòng nào?
      - Thưa ông, đây chính là điều làm cho tôi hoang mang nhất: tôi tiết đó là văn phòng nào.
      - Vậy ông ấy ở đâu?
      - ấy ngủ ngay tại chỗ làm việc.
      - biết địa chỉ của ông ấy?
      - . Tôi chỉ biết đó là phố Leadenhall.
      - Vậy, gửi thư đến địa chỉ nào?
      - Đến bưu điện phố Leadenhall, hộp thư lưu trữ. ấy bảo rằng nếu tôi gửi thư đến văn phòng, ấy bị các bạn đồng nghiệp chế nhạo. Tôi đề nghị đánh máy những bức thư của tôi; giống như những bức thư của ấy gửi cho tôi vậy. Nhưng ấy chịu, bảo rằng khi đọc những bức thư do chính tay tôi viết, ấy có cảm giác như được ở gần bên tôi. Thưa ông Holmes, điều này chứng tỏ ấy thương tôi đến mức nào, và luôn luôn quan tâm đến những chi tiết .
      - Rất hay! có thể nhớ lại những chi tiết nào khác về ông Hosmer ?
      - Thưa, đó là thanh niên rất nhút nhát. Vì thế, ấy thích dạo vào buổi tối hơn là ngay giữa ban ngày. ấy rất nhu mì, ngay cả đến tiếng cũng , dường như lúc có bị chứng viêm họng làm cho cổ họng bị yếu , do đó ấy có giọng hơi thầm... được ràng lắm... Luôn ăn mặc đàng hoàng, sạch và giản dị... Mắt của ấy cũng được tốt: lúc nào ấy cũng phải mang cặp kính màu.
      - Tốt lắm! Và chuyện gì xảy ra khi cha trở về?
      - Trước đó, Hosmer đến đề nghị cử hành hôn lễ trước khi cha dượng tôi trở về. ấy có vẻ gấp rút lắm, ấy bảo tôi đặt bàn tay lên quyển Kinh thánh, hứa rằng sau này dẫu cho có chuyện gì xảy ra, tôi vẫn luôn luôn trung thành với ấy. Mẹ tôi cho rằng đó là dấu hiệu đẹp đẽ của tình . Ngay từ lúc đầu, mẹ tôi có thiện cảm với ấy, tôi hỏi cha dượng tôi có ý kiến gì về việc này, bà hứa dàn xếp với ông ấy, điều này làm cho tôi thích lắm. Tại sao tôi lại phải xin phép cha dượng tôi để kết hôn. Nhưng tôi cũng viết thư cho ông ấy ở Bordeaux, nơi công ty ông ấy có văn phòng đại diện. Lá thư được gửi trả lại cho tôi ngay trong buổi sáng ngày hôn lễ.
      - Ông ấy chịu nhận thư à?
      - , ông ấy lên đường trước khi lá thư đến Bordeaux.
      - may mắn! Vậy là hôn lễ được dự tính cử hành vào ngày thứ sáu vừa qua?
      - Vâng, hôn lễ được dự tính cử hành ở nhà thờ St. Saviour’s, gần King’s Cross và sau đó chúng tôi dự bữa ăn trưa gia đình tại khách sạn St. Pancras. Hosmer đến nhà đón chúng tôi. đỡ mẹ tôi và tôi lên chiếc xe ngựa có mui, còn nhảy lên chiếc khác đậu gần đấy. Xe của chúng tôi đến nhà thờ trước. Khi chiếc xe ngựa của ấy ra, chúng tôi trông đợi Hosmer xuống xe, nhưng trông mãi chẳng thấy. Người đánh xe quay đầu nhìn vào bên trong xe: Hosmer biến mất. Người đánh xe bảo rằng ông ta chẳng hiểu gì cả, rằng chính mắt ông ta trông thấy người khách nhảy lên xe... Chuyện này xảy ra hôm thứ sáu vừa qua, và cho đến nay tôi vẫn được tin tức gì cả về Hosmer.
      - Tôi có cảm giác rằng bị lừa gạt cách hết sức bỉ ổi - Holmes .
      - Ồ , thưa ông. ấy quá tốt và quá ngay . Này nhé! Suốt cả buổi sáng hôm đó, ấy ngừng lặp lặp lại với tôi rằng dẫu cho có chuyện gì xảy ra, tôi phải luôn luôn trung thành với ấy, rằng dẫu có biến cố bất ngờ nào chia cách hai chúng tôi, tôi phải luôn luôn nhớ rằng tôi là của ấy, và sớm hay muộn gì ấy cũng tìm lại với tôi. Có lẽ đây là cuộc chuyện kỳ dị trong buổi sáng của ngày hôn lễ. Nhưng những việc xảy ra sau đó cho chúng ta thấy tất cả ý nghĩa của nó!
      - Như thế theo ý Hosmer gặp phải tai nạn bất ngờ
      - Thưa phải.
      - Nhưng hề biết gì về cái điều nguy hiểm mà ông ấy tiên đoán.
      - Hoàn toàn .
      - Mẹ phản ứng như thế nào trong vụ này?
      - Bà rất giận dữ. Bà bảo tôi đừng bao giờ nhắc đến cái tên ấy trước mặt bà nữa.
      - có cho cha dượng biết việc này ?
      - Có. Ông ấy cũng cho rằng có điều gì đó xảy ra. Và ông ấy bảo đảm rằng chỉ trong thời gian ngắn, tôi được biết tin tức về Hosmer. Ông ấy với tôi: “ có lý do gì người đàn ông đưa con đến tận ngưỡng cửa nhà thờ rồi lại bỏ rơi con cách ngang xương như vậy?”. Thưa ông, tại sao chuyện này lại có thể xảy ra?
      - Tôi giải quyết vụ này - Holmes , vừa đứng dậy - Tôi tin chắc đạt được kết quả. Nhưng trước mắt, hãy cố gắng xóa bỏ cái tên Hosmer ra khỏi tâm trí của , hãy quên ông ta cách hoàn toàn, cũng như ông ta hoàn toàn ra khỏi cuộc đời của .
      - Vậy... ông nghĩ rằng tôi còn gặp lại ấy nữa?
      - .
      - Nhưng điều gì xảy ra cho ấy?
      - Tôi trả lời câu hỏi này sau. Tôi muốn có bản mô tả đúng đắn hình dạng của ông ấy, và trong số những lá thư của ông ta.
      - báo Saturday’s Chronicle thứ bảy vừa qua có đăng bản tin “Tìm người mất tích” với những chi tiết về hình dạng của ấy. Đây là bản tin được cắt ra và bốn lá thư của ấy.
      - Cảm ơn . Địa chỉ của ?
      - 31, Lion Place, Camberwell.
      - Ông Hosmer hề cho biết địa chỉ của ông ấy. Còn cha dượng của , ông ấy làm việc ở đâu?
      - Ông ấy làm đại diện thương mại cho công ty Westhouse & Marbank ở phố Fenchurch.
      - Cảm ơn . Lời tường thuật của rất ràng và đầy đủ. Xin nhớ lời khuyên của tôi: “Hãy quên tất cả câu chuyện này, đừng bao giờ để nó ám ảnh cuộc đời của nữa”.
      - Cám ơn ông, thưa ông Holmes. Nhưng thể được. Tôi phải tin tưởng Hosmer.
      Mặc dầu trông nàng có vẻ xoàng xĩnh với chiếc mũ rộng vành kỳ dị và gương mặt hợi ngây ngô chất phác, tấm lòng chung thủy của nàng có cái gì cao quý làm cho người ta phaả kính trọng. Nàng đặt xấp thư của nàng lên bàn và ra về sau khi hứa trở lại bất cứ lúc nào chúng tôi cần đến nàng.
      Holmes ngồi im lặng lúc lâu: hai bàn tay đan nhà, hai chân duỗi thẳng, nhìn đăm đăm trần nhà. Rồi cúi xuống, cầm lấy cái tẩu đất cũ của ấy và mồi thuốc. Sau khi rít hơi thuốc, dựa thẳng người vào ghế bành, làn khói nhạt tỏa ra, vẻ mặt chìm đắm trong suy tư.
      - Thiếu nữ đó là nghiên cứu khá thú vị. - - Tôi nghĩ là ấy thú vị hơn là vấn đề bé của ấy. Nào, nhân tiện, tìm giúp tôi bộ hồ sơ cũ. Vụ án Andover hồi năm 1877, và vụ tương tự ở The Hague hồi năm ngoái. Về ý tưởng xưa rồi, tuy nhiên, cũng có vài chi tiết mới. Trừ phi chính thiếu nữ ấy là bổ ích.
      Tôi đưa ra nhận xét :
      - đọc thấy nơi nàng vô số những điều mà tôi hoàn toàn thấy được.
      - phải là thấy được, chỉ vì chú ý đến chúng đấy thôi, biết nhìn, chính vì thế mà nắm được cái chính yếu. Nào, bây giờ hãy thử mô tả lại nàng cho tôi xem .
      - Nàng đội chiếc nón rộng vành màu xám đá, được trang trí bằng cọng lông chim màu đỏ gạch. Chiếc áo jacket màu đen có gắn những hạt ngọc trai cũng màu đen. Nàng mặc chiếc áo dài nâu, sẫm hơn màu cà phê, cổ áo và hai cánh tay áo có miếng vải lông màu đỏ tía. Đôi găng tay màu xám, bị mòn ở ngón trỏ bên mặt. Tôi quan sát đôi giày của nàng. nàng mang đôi bông tai bằng vàng.
      Holmes vỗ tay khen ngợi, tuy giọng của có vẻ hơi chế nhạo.
      - Watson, tiến bộ nhiều đấy! , gần như bỏ sót chi tiết nào cả, ngoại trừ chi tiết khá quan trọng. Nhưng tôi khen có cái nhìn đúng về màu sắc. đừng bao giờ tin tưởng vào cái cảm giác tổng quát đầu tiên của mình, mà phải tập trung chú ý vào những chi tiết. Khi tôi quan sát phụ nữ, trước hết tôi nhìn vào hai cánh tay áo. nhận xét đúng, nàng có miếng vải lông hai cánh tay áo, và vải lông là yếu tố có ích, bởi vì nó giữ được những dấu vết. Nếu chú ý hơn chút nữa, thấy cái lằn nếp đôi ở phía bên cổ tay áo chút, nơi mà người đánh máy tựa tay vào bàn. Kế đó, quan sát gương mặt nàng, tôi để ý dấu vết của chiếc kính cặp mũi, tôi bèn đưa ra nhận xét về tình trạng cận thị của nàng và về chiếc máy đánh chữ, nhận xét khiến cho nàng phải kinh ngạc vì nó trúng phóc.
      - Tôi cũng kinh ngạc nữa.
      - Sau đó, nhìn đôi giày, tôi phải ngạc nhiên và chú ý. Đó là đôi giày bốt cao cổ, nhưng chiếc chỉ được cài ở hai nút phía dưới, còn chiếc kia chỉ được cài ở nút thứ nhất, thứ bà và thứ năm. Khi thấy thiếu nữ ăn mặt sang trọng như thế mà lại ra đường với đôi giày chưa được cài nút đàng hoàng, đoán biết nàng ra cách rất vội vã...
      - Còn gì nữa ? - Tôi rất quan tâm đến những suy luận sắc bén của Holmes.
      - Tôi nhớ rằng ấy viết trước khi nhưng sau khi ăn vận xong xuôi. có thể thấy găng tay bị mòn phía bên phải nhưng lại để ý rằng cả ngón tay lẫn găng tay đều bị lấm mực. ấy viết rất vội vã và nhúng bút quá sâu vào bình mực. Điều đó chỉ mới xảy ra sáng nay thôi. Còn nhiều điều thú vị khác nữa, nhưng bây giờ xin vui lòng đọc cho tôi bản tin rao vặt mô tả hình dạng của Hosmer.
      Tôi đưa miếng báo cắt đến gần đèn và đọc :
      người đàn ông tên Hosmer Angel mất tích vào buổi sáng ngày 14. Cao gần 1 mét 70, thân hình cân đối, nước da vàng, tóe đen, đầu hơi hói, râu mép và râu má rậm. Mang kính màu. giọng hơi khó nghe...”.
      - Như vậy đủ rồi - Holmes - Bây giờ chúng ta hãy xem qua những lá thư... Nội dung của chúng xoàng xĩnh đến phát chán và cho chúng ta biết gì cả về ông Hosmer. Tuy nhiên, có chi tiết đáng chú ý...
      - Tất cả những lá thư đó đều được đánh máy...
      - Đúng, nhưng đây là chi tiết quan trọng nhất: ngay cả chữ ký cũng được đánh máy. Bạn hãy xem hai chữ “Hosmer” được đánh máy rất ràng ở phía dưới lá thư. Có ghi ngày tháng, nhưng địa chỉ chỉ được ghi cách mơ hồ là phố Leadenhall. Cái chi tiết về chữ ký này có ý nghĩa rất quan trọng.
      - Ý nghĩa như thế nào?
      - Có lý nào nhận thấy tầm quan trọng cua nó.
      - Có lẽ ông Hosmer làm thế là để có thể chối bỏ chữ ký của mình trong trường hợp bị đưa ra tòa về tội đơn phương hủy bỏ hôn ước.
      - phải như thế. Nhưng tôi chỉ cần viết hai lá thư là giải quyết xong vấn đề. Lá thứ nhất gửi cho công ty ở trung tâm thương nghiệp London, lá thứ nhì gửi cho người cha dượng của Sutherland, cầu ông ấy đến gặp chúng ta vào lúc 6 giờ chiều ngày mai. Trong khi chờ đợi, chúng ta hãy tạm thời xếp cái vấn đề bé này vào ngăn tủ và khóa lại.
      Suốt cả ngày hôm sau, tôi mắc bận săn sóc cho bệnh nhân rất nặng. Mãi đến gần 6 giờ chiều tôi mới được rảnh, liền nhảy lên chiếc xe ngựa. Khi tôi bước vào, nằm gọn lỏn trong chiếc ghế bành ngủ gà ngủ gật. Chung quanh ngổn ngang vô số những chai lọ, ống nghiệm, và mùi acid clohidric còn phản phất trong khí.
      - Thế nào, bạn tìm ra chưa? - Tôi hỏi.
      - Tìm ra rồi! Đó là chất Sufat barium.
      - , , tôi muốn hỏi cái vụ bí mật của ông Hosmer kia.
      - À, cái vụ bí mật đó hả? Thế mà tôi cứ tưởng hỏi kết quả những thí nghiệm hóa học. Cái vụ đó chả có gì là bí mật cả. Điều làm cho tôi bực tức là trong trường hợp này có điều luật nào được trù liệu để trừng phạt tên đểu giả đó.
      - Vậy là ai? Và tại sao bỏ rơi nàng?
      Holmes mở miệng toan trả lời có tiếng bước chân ngoài hành lang và tiếng gõ cửa.
      - Đó là cha dượng của Sutherland. Ông ta trả lời rằng ông ta đến đây vào lúc 6 giờ. Xin mời vào.
      Khách là người đàn ông vạm vỡ, cao trung bình, trạc 30 tuổi. Gương mặt vàng nhạt, trụi lủi, có râu mép, râu cằm hay râu má gì cả. Ông ta có vẻ dịu dàng giả tạo. Đôi mắt xám, rất linh hoạt và sắc sảo ném cái nhìn dò hỏi về phía chúng tôi. Đoạn ông ta đặt nón lên chiếc tủ buýp-phê, hơi nghiêng mình chút và ngồi xuống chiếc ghế gần nhất.
      - Xin chào ông Windibank. Có phải lá thư đánh máy, xác nhận ông bằng lòng đến đây gặp chúng tôi, là của ông ?
      - Thưa ông, phải. Tôi đến hơi trễ chút nhưng tôi làm chủ được giờ. Tôi rất lấy làm tiếc rằng con tôi đến quấy rầy ông vì cái việc nhặt này. vậy, tôi thấy nên đem chuyện xấu của gia đình mình phơi bày ra cho người ngoài biết. Dĩ nhiên, ông chỉ là thám tử tư, dính líu gì cả với cảnh sát, nhưng dẫu sao tôi cũng thích thấy người ta làm rùm beng lên chung quanh chuyện của gia đình tôi. Hơn nữa, những chi phí này rất là vô ích, bởi vì làm sao ông có thể tìm ra được chàng Hosmer.
      - Trái lại. Tôi tìm ra được ông Hosmer.
      Ông Windibank giật nẩy mình, để rơi đôi găng tay xuống sàn nhà.
      - Tôi rất mừng được nghe ông báo tin này.
      - Điều đáng ngạc nhiên, là những máy đánh chữ cũng có cá tính riêng biệt của chúng! Những chữ của chúng đánh ra bao giờ y hệt nhau. Có những chữ có vẻ mòn hơn những chữ khác, có những chữ chỉ mòn có bên... Này ông, trong lá thư đánh máy của ông gửi cho tôi, tôi nhận thấy tất cả những chữ “e” đều có vết nhòe , và tất cả những chữ “t” đều có dấu gạch ngang hơi mờ. Tôi còn đếm được 14 đặc điểm khác, nhưng hai đặc điểm vừa kể, là nổi bật nhất.
      - Ở văn phòng, chúng tôi sử dụng cái máy chữ đó để đánh tất cả những thư tín của chúng tôi, chắc chắn là nó còn được tốt lắm.
      Trong khi trả lời, đôi mắt sắc sảo của ông ta nhìn Holmes đăm đăm.
      - Và bây giờ, tôi trình bày cho ông xem trường hợp là thú vị. Đây, bốn lá thư đều được đánh máy. Trong mỗi lá thư, bên những chữ “e” đều có những vết nhòe , và tất cả những chữ “t” đều có dấu gạch ngang được . Nếu ông chịu khó lấy chiếc kính lúp của tôi để xem, tôi chỉ cho ông thấy 14 đặc điểm khác mà tôi với ông lúc nãy.
      ông Windibank liền đứng phắt lên và chụp lấy chiếc nón của ông ta.
      - Ông Holmes, tôi giờ rảnh để những chuyện tầm phào! Nếu ông có thể bắt gặp được ông Hosmer hãy cứ bắt , rồi báo tin cho tôi biết.
      - Chắc chắn là như thế? - Holmes đáp, vừa lẹ làng đứng lên khóa trái cửa lại - Ông nên biết rằng tôi bắt được Hosmer rồi.
      - Sao? Ở đâu? - Ông Windibank kêu lên bằng giọng thảng thốt, gương mặt nhợt nhạt nhìn dáo dác khắp chung quanh như con chuột bị sa bẫy.
      - Ồ sao... sao cả! - Holmes đáp bằng giọng ngọt lịm - Ông Windibank, bây giờ ông còn cách nào để thoát được nữa. Tất cả đều quá ràng. Nào! Bây giờ ông hãy ngồi xuống và chúng ta chuyện với nhau!
      Ông Windibank ngồi phịch xuống. Gương mặt tái mét, trán ướt đẫm mồ hôi.
      - Pháp... pháp luật thể làm gì được tôi! - Ông ta lắp bắp.
      - Có thể là pháp luật làm gì được ông. Nhưng hành động của ông là vô cùng đê tiện, tàn nhẫn và ích kỷ.... Tôi kể lại việc từ đầu đến cuối và nếu tôi có sai chỗ nào ông cứ việc sửa.
      Ông Windibank ngồi thu mình trong chiếc ghế bành, hoàn toàn mất hết tinh thần. Holmes bắt đầu , hai tay thọc vào túi quần, hai chân gác lên góc lò sưởi.
      - Người đàn ông đó kết hôn với người đàn bà lớn tuổi hơn ông ta rất nhiều, chỉ vì tiền. Người đàn bà có con riêng còn sống chung trong nhà với họ, và cặp vợ chồng đó được hưởng số tiền 100 đồng bảng, lợi tức hằng năm của . Đó là số tiền khá lớn đối với họ, và họ muốn được hưởng nó mãi mãi. Dĩ nhiên, khi lập gia đình riêng, người cha dượng còn được hưởng số tiền đó nữa, ông ta bèn tìm cách ngăn cản việc lập gia đình của .
      Thoạt đầu, ông ta ngăn cấm cho nàng giao thiệp với những chàng trai cùng lứa tuổi. Nhưng ngăn cấm này có hiệu lực được lâu. hôm, nổi lên chống lại độc đoán của người cha dượng, và báo cho ông ta biết quyết định của nàng dự buổi khiêu vũ. Trước tình thế này, đầu óc thông minh của người cha dượng liền nghi ra kế: với đồng loã giúp đỡ của bà vợ và lợi dụng tình trạng cận thị của , ông ta bèn cải trang thành người đàn ông khác.
      Mang cặp kính màu, đeo bộ râu giả, và biến giọng bình thường của mình thành giọng thầm êm dịu, ông ta đến dự buổi khiêu vũ, làm quen với và tự giới thiệu mình là Hosmer, thế là người cha dượng đóng vai trò kẻ si tình con riêng của vợ mình, để gạt ra ngoài bất cứ chàng nào muốn lăm le tán tỉnh .
      - Lúc đầu, đó chỉ là trò đùa mà thôi - Ông Windibank bằng giọng rên rỉ - Vợ tôi và tôi, chúng tôi ngờ ấy lại có tâm hồn dễ say mê đến thế.
      - Có lẽ! Nhưng dầu sao, nàng cũng say mê ông Hosmer. Tin rằng người cha dượng ở bên Pháp, nàng hề nghĩ có sắp xếp giữa bà mẹ và ông ta để lừa gạt nàng. Và nàng còn say mê ông Hosmer nhiều hơn khi thấy chính mẹ nàng cũng tỏ ra rất có thiện cảm với ông ta. Sau đó hai người có những cuộc gặp gỡ, những cuộc dạo thân mật và đính hôn với nhau. Tuy nhiên lừa gạt thể kéo dài mãi mãi được. Ông Hosmer bèn nghĩ ra cách kết thúc vụ này như là bi kịch đột ngột và bí mật, cố ý gây cho ấn tượng sâu xa, xúc động mạnh mẽ để còn nghĩ đến bất cứ người đàn ông nào khác trong tương lai. Do đó mới có cái màn ông Hosmer cầu đặt tay lên quyển Kinh thánh thề trọn đời thủy chung với ông ta, và cũng do đó mới có những lời bóng gió của ông Hosmer về biến cố bất ngờ có thể xảy ra làm cho hai người phải xa nhau. Ngay trong buổi sáng ngày hôn lễ, Hosmer muốn làm cho Sutherland phải thương mình trọn đời, và đặt trong tình trạng hoang mang về số phận của người hôn phu mất tích. Mục đích của ông ta là làm cho nghe lời tán tỉnh của bất cứ người đàn ông nào, ít nhất là trong vòng 10 năm nữa, như thế ông ta còn được hưởng 100 bảng trong thời gian nữa. Ông ta đưa nàng đến tận cửa nhà thờ, đến đó tấn bi kịch lừa gạt phải chấm dứt. Chuyện phóng mình ra khỏi chiếc xe ngựa chạy thong thả có gì là khó khăn hết. Ông Windibank, tôi thuật lại câu chuyện từ đầu đến cuối như vậy có sai chỗ nào ?
      Trong khi Holmes mải mê , ông Windibank trấn tĩnh trở lại. Ông ta đứng lên, cất tiếng cười gằn :
      - Ông Holmes, có thể là ông sai lầm. Nhưng ông thông minh đến thế chắc phải hiểu rằng, trong lúc này, nếu có kẻ nào phạm pháp đó là ông, chứ phài là tôi. Từ đầu đến cuối, tôi hề phạm điều gì mà pháp luật có thể can thiệp được. Nhưng ông, cho tới khi nào ông vẫn còn khóa chặt cửa phòng này, ông có thể bị thưa về tội hành hung và giam giữ người trái phép.
      - Đúng vậy, ông có điều gì phạm pháp luật cả - Holmes đáp, vừa mở rộng cửa phòng ra - Mặc dầu vậy, ông vẫn đáng bị đánh đòn; nếu đó có người hay người bạn trai, chắc chắn ông bị trận đòn nhừ tử.
      Cái cười ngạo nghễ và chọc tức của Windibank làm cho Holmes nổi cơn giận dữ. như hét :
      - Hãy nếm thử cây gậy này.
      với tay chụp lấy cây gậy ở gần bên, nhưng gã lưu manh ba chân bốn cẳng chạy xuống cầu thang, rồi có tiếng cánh cửa ra vào của ngôi nhà đóng sầm lại. Đứng bên cửa sổ nhìn xuống, chúng tôi thấy gã chạy như bay lề đường.
      - Đúng là tên đểu giả mặt dày! - Holmes , rồi phá lên cười và buông mình xuống chiếc ghế bành - Tên này trong tương lai gần còn phạm thêm nhiều tội ác nữa, cuối cùng cũng đến cây cột trreo cổ thôi! Vụ này kể ra cũng phải là thú vị.
      - Tuy nhiên tôi thú rằng tôi theo kịp được những suy diễn của trong vụ này.
      - Này nhé! Ngay từ lúc đầu, tôi thấy là cái ông Hosmer đó có thái độ rất kỳ quặc. Và tôi cũng thấy là người duy nhất hưởng lợi trong vụ này là người cha dượng. Thế nhưng hai người đàn ông đó bao giờ gặp mặt nhau cả. Khi người xuất người kia biến mất; kiện này là chi tiết hướng dẫn rất quan trọng! Và rồi cặp kính màu, bộ râu giả, giọng khác lạ với giọng của người bình thường... Khi xem xét đến nhung lá thư đánh máy với chữ ký cũng được đánh máy, tôi thấy những nghi ngờ của tôi là đúng; người gửi những lá thư đó muốn che giấu chữ viết của mình mà quá quen thuộc. Tất cả những chi tiết rời rạc này được sắp xếp lại và phối hợp với nhung chi tiết khác, dẫn dắt suy luận của tôi vào chiều hướng duy nhất.
      - Và kiểm chứng nhung chi tiết đó như thế nào.
      - Tôi biết ông Windibank làm việc cho công ty Westhouse & Marbank ở Frenchurch. Tôi có bản mô tả hình dạng của Hosmer do Sutherland trao cho. Tôi bắt đầu loại bỏ tất cả những gì có thể ngụy tạo được: cặp kính màu, bộ râu, giọng , và gửi bản mô tả hình dạng đó đến công ty, cầu họ vui lòng cho tôi biết trong số những người đại diện thương mại của họ có ai phù hợp với hình dạng này .
      Trước đó, tôi chú ý đến những đặc điểm của những lá thư đánh máy, và tôi viết cho Windibank lá thư gửi ngay đến công ty của ông ta, cầu ông ta đến gặp tôi. Như tôi đoán trước, ông ta trả lời tôi bằng lá thư đánh máy, và lá thư này cũng có những đặc điểm y hệt như những đặc điểm mà tôi nhận xét nơi bốn lá thư kia. Đồng thời, tôi cũng nhận được của công ty Westhouse & Marbank lá thư xác nhận rằng bản mô tả hình dạng của tôi gửi đến hoàn toàn phù hợp với hình dạng của ông Windibank. Tất cả việc chỉ giản dị có thế thôi.
      - Còn Sutherland.
      - Nếu tôi cho ấy biết, ấy tin đâu. Bạn có nhớ câu tục ngữ của người Ba Tư : “Vào hang cọp để bắt cọp con là điều nguy hiểm; nhưng làm cho người đàn bà mất hết những ảo tưởng của họ lại càng nguy hiểm hơn”.

    5. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      Chương 4: Bí mật ở thung lũng Boscombe


      Vào buổi sáng. Khi hai vợ chồng tôi điểm tâm chợt con hầu chạy vào đưa cho tôi bức điện của Sherlock Holmes, nội dung bức điện như thế này :
      “Cậu có thể vắng nhà hai ngày được ? Tớ được mời đến miền Tây nước câu chuyện đau đớn xảy ra ở thung lũng Boscombe. Rất sung sướng nếu cậu cùng với tớ. Thời tiết rất tuyệt. Chúng ta từ ga Paddington vào lúc 11 giờ 15 phút”.
      - chứ? - Vợ tôi âu yếm nhìn tôi và hỏi.
      - chưa biết nữa. có nhiều bệnh nhân quá...
      - Ồ, ngài Anstruther tiếp nhận hết, lo gì! Trong thời gian gần đây được khỏe lắm. Cuộc dạo chơi này bổ ích cho đấy. Hơn nữa bao giờ cũng quan tâm đến từng công việc của ngài Sherlock Holmes kia mà?!
      Kinh nghiệm trong những năm sống hoang dã tại Afghanistan làm cho tôi cứng cáp chai sạn trong những chuyến tham quan dài ngày. Đồ đạc của tôi rất giản đơn vì vậy tôi ngoi lên chiếc xe ngựa sớm hơn dự định và phóng nhanh ra ga Paddington.
      Sherlock Holmes dọc theo chỗ đợi tàu. Bộ quần áo đường màu nâu với cái mũ nỉ làm cho thân hình gầy, cao của càng gầy nhom và dài ngoằng ra.
      - Rất tuyệt, cậu đến? Watson - Sherlock
      - Tớ rất mừng khi bên cạnh tớ là người mà tớ hoàn toàn tin cậy.
      Cảnh sát địa phương bất lực, hoặc theo hướng sai lầm. Cậu nhảy lên chiếm hai chỗ trong góc toa, còn tớ chạy lấy hai cái vé.
      Khi chúng tôi ngồi yên vị trong toa tàu, Holmes lấy báo ra đọc, thỉnh thoảng dừng lại ghi chép và nghĩ ngợi.
      Tàu đến ga Reading. Bỗng Sherlock vò nát tất cả giấy tờ lại nắm và ném vào gói hành lý.
      - Cậu nghe gì về câu chuyện này chưa? - hỏi.
      - Chưa nghe. mấy ngày nay tớ chưa hề ngó tới tờ báo!
      - Các báo xuất bản ở Luân Đôn đều đăng rất cụ thể. Tớ vừa mới đọc lướt qua để hiểu ràng hơn. Nhưng hình như đó là trường hợp phức tạp lắm, nhưng người ta cho là rất khó giải quyết.
      - Những lời cậu nghe mới ngược đời làm sao!
      - Nhưng đó là . Trong ngược đời thường có những căn cứ để làm sáng tỏ chân lý, vụ án càng đơn giản bao nhiêu càng khó phá bấy nhiêu... ở trường hợp này quan trọng là chứng cớ chống lại con trai của kẻ bị giết.
      - Tức là có vụ giết người à?
      - Họ cho là như vậy. Còn tớ chưa khẳng định khi tớ chưa tìm hiểu cụ thể việc. Tớ chỉ giải thích được cho cậu trong chừng mực nào đó về tình trạng nay mà tớ biết được.
      Thung lũng Boscombe là vùng nông thôn gần thị trấn Ross, thuộc miền Herefordshire. chủ đồn điền lớn nhất vùng ở vùng ấy là ngài John Turner. Ông ta làm giàu bên Áo và vài năm trước đây trở về tổ quốc. Ông ta cho ngài Charles McCarthy thuê trang trại của mình - người này trước kia cũng sống ở bên Áo. Họ quen nhau trong những năm bôn ba đất khách quê người và khi thay đổi môi trường sống họ vẫn quan hệ với nhau như những người bạn. Thực ra mà ngài Turner giầu có hơn, còn ngài McCarthy mướn ruộng đất của ngài Turner, nhưng quan hệ của họ vẫn thân thiết. Ngài McCarthy có cậu con trai khoảng 17-18 tuổi; còn ngài Turner con độc nhất cũng trạc tuổi như vậy. Cả hai người cha ấy đều góa vợ. Họ có vẻ như muốn lẩn tránh giao thiệp với những gia đình khác và sống rất tách biệt, mặc dù họ rất thích thể thao và thường tham gia đua ngựa. Ngài McCarthy chỉ thuê người hầu trai và người hầu . Ngài Turner giầu có hơn nên thuê nửa tá người hầu. Đó là tất cả những gì tớ biết về hai gia đình ấy. Còn bây giờ là những điều xảy ra với họ.
      Vào, ngày mùng 3 tháng 6, có nghĩa là vào hôm thứ hai. vừa rồi, ngài McCarthy đến Hatherley vào lúc 15 giờ chiều rồi sau đó ra hồ Boscombe. Đấy là cái hồ lớn lắm, hồ này do con suốt đổ vào, con suối ấy chảy dọc theo thung lũng Boscombe. Buổi sáng ông ta ra thị trấn Ross và có với người hầu là ông ta rất vội vì đúng 15 giờ có cuộc hẹn hò rất quan trọng. Sau cuộc hẹn thấy ông ta trở về nữa. Từ trang trại Hatherley đến hồ Boscombe khoảng phần tư dặm . Trong lúc ông ta đến đây có hai người nhìn thấy. Người thứ nhất là bà già thấy nhắc tên báo. Còn người thứ hai là ông William Crowder - người kiểm lâm của ngài Turner. Cả hai nhân chứng này đều rằng ngài McCarthy chỉ mình. Người kiểm lâm còn bổ sung chi tiết nữa là, sau cuộc gặp gỡ McCarthy cha lâu, ta lại nhìn thấy James McCarthy. chàng này mang theo khẩu súng săn bên mình. Người gác rừng khẳng định là chắc chắn người con trai cũng theo gót cha. Người gác rừng hoàn toàn quên biến cuộc gặp gỡ kia, nhưng đến tối khi nghe câu chuyện đau đớn xảy ra ta bỗng nhớ tất cả.
      Hồ Boscombe được bao bọc bởi khu rừng rậm rạp, xung quanh bờ lau sậy mọc um tùm. Con bé Patience Moran 14 tuổi, con người bảo vệ rừng, trong lúc hái hoa ở khu rừng bên cạnh nhìn thấy hai cha con nhà McCarthy cãi nhau gay gắt. ta nghe thấy tiếng quát của ông bố như tát nước, còn người con trai giơ tay lên như định dọa đánh bố mình. bé hoảng sợ trước cảnh tượng như vậy và vội vàng chạy về nhà kể lại cho bố mẹ nghe những gì xảy ra. bé kể xong câu chuyện đó được lát người con trai McCarthy lao đến gặp người gác rừng ta thều thào rằng vừa thấy bố mình bị sát hại và nhờ người gác rừng ra giúp tay. ta hoảng sợ mất bình tĩnh, người súng, mũ và ở cánh tay phải có dính những vệt máu còn mới nguyên. Người gác rừng nhanh chóng theo ta đến chỗ người bị giết. Xác chết nằm sõng sượt bãi cỏ gần mép nước. Sọ người chết bị dập dập bởi thứ vũ khí nặng và tà đầu. Những vết thương kiểu ấy chỉ có thể do báng súng gây ra, khẩu súng săn của con trai vứt lăn lóc cách thi hài chỉ vài ba bước. Trước những tang chứng đó, người con trai bị bắt ngay lập tức. Vào ngày thứ ba người ta buộc tội sơ bộ: “ vụ giết người có chủ tâm”. Vào hôm thứ tư cậu McCarthy phải ngồi ghế bị cáo của tòa sơ thẩm huyện Ross - Công việc chưa ngã ngũ ra sao còn phải đợi ngày ra tòa chung thẩm. Tất cả những kiện và dữ kiện ấy cảnh sát an ninh nắm đầy đủ hết.
      - Khó lòng mà tưởng tượng nổi, quả là việc hèn hạ và bỉ ổi! - Tôi nhận xét. - Đây là trường hợp mà bằng chứng gián tiếp đủ vạch mặt kẻ phạm pháp, tớ chưa thấy bao giờ.
      - Mọi chứng cớ gián tiếp đều dễ đánh lừa lắm. - Holmes đăm chiêu . - Nó có thể chứng minh theo hướng ràng; nhưng nếu cậu có khả năng phân tích những dẫn chứng ấy, cậu có thể phát ra những chứng cứ này thường dẫn chúng ta đến chân lý, mà vào hướng phi chân lý. Chắc chắn giờ đây việc dồi chống lại người con trai; loại trừ khả năng chính cậu ta là kẻ phạm pháp . Tuy thế vẫn có người làm chứng cho vô tội của cậu ta. Đó là nàng Turner - con ngài Turner. Tiểu thư nhờ luật sư Lestrade bào chữa cho bị cáo. Ngài luật sư Lestrade cho rằng bào chữa trong trường hợp này rất khó, vì vậy ông ta chuyển nó đến tôi và nhờ tôi giải quyết giúp. Thế là có hai thám tử đường phóng tới miền Tây với tốc độ 50 dặm giờ, để đến sáng mai có thể đàng hoàng ăn điểm tâm tại nhà.
      - Tớ chỉ ngại, - Tôi . - Từ dữ kiện buộc tội qua rồi, khả năng giành thắng lợi trong vụ này của cậu bị hạn chế.
      - Những kiện, hiển nhiên thể che mờ tất cả - Sherlock vừa cười vừa - Nhưng, nếu chúng ta cũng có khả năng tìm được những chứng cứ hiển nhiên thể chối cãi được như thế sao. Biết đâu chúng nó có ích cho ngài Lestrade. Cậu hiểu tớ quá rồi, trong suy nghĩ cậu đừng cho tớ là kẻ khoác lác. Tớ hoặc là sử dụng những dữ kiện do Lestrade thu thập được, hoặc là tớ bác bỏ hoàn toàn: bởi vì ngài Lestrade hiểu tí gì hết. Chỉ cần ví dụ như thế này: Tớ biết buồng ngủ của cậu quay về phía bên phải, nhưng chắc chắn ngài Lestrade chưa biết điều đó.
      - Quả như thế có sao đâu?...
      - bạn thân mến của tôi ơi! Tớ với cậu quen nhau lâu và tớ rất tính cẩn thận của cậu. Mỗi buổi sáng cậu đều cạo râu dưới ánh sáng mặt trời - Phía bên trái khuôn mặt của cậu cạo được tốt bằng phía bên phải. Điều đó chứng tỏ bên má phải cậu được ánh sáng chiếu nhiều hơn bên má trái.
      Cậu là con người cẩn thận, ăn mặc chải chuốt, cho nên khi quan sát thấy như vậy tớ có kết luận đúng đắn. Tớ chỉ ví dụ thế thôi, ví dụ đơn giản về quan sát để rút ra những kết luận. Nghề nghiệp của tớ chỉ gói gọn trong mấy thứ ấy và có thể nó rất cần thiết cho công việc sắp đến của chúng ta. Có vài chi tiết nhọ mọn được làm sáng tỏ trong lúc hỏi cung cậu con trai làm cho tớ chú ý.
      - Cậu chú ý cái gì?
      - Người ta đến bắt McCarthy con sau đó chút khi ta về đến trang trại Hatherley, khi cảnh sát đọc lệnh bắt, ta rằng - điều đó làm ta ngạc nhiên chút nào, vì ta đáng bị trừng phạt. Lời của ta mang tính chất phục tùng. Điều đó làm tiêu tan những nghi ngờ của ngài thẩm vấn.
      - thú nhận tội lỗi! - Tôi thốt lên.
      - đâu, sau đó ta mới bào chữa cho trong sạch của mình.
      - Nhưng những lời bào chữa xuất sau những chứng cớ xác đáng đến khủng khiếp như vậy, càng làm họ nghi ngờ thêm.
      - Ngược lại, - Holmes - Đó chính là , đốm sáng duynhất mà tớ hy vọng nhìn thấy từ trong đám mây đen. Chính chàng trai kia cũng thể ngờ rằng tai họa giáng xuống đầu cậu ta. Nếu ta giả vờ làm bộ ngạc nhiên và chống đối khi được tin mình bị bắt, điều đó, càng vạch mặt kẻ dối trá mà thôi. Bởi vì mọi công phẫn trong bối cảnh phức tạp như vậy chỉ là giả dối trắng trợn. Thái độ bàng quan, thờ ơ của ta trong giây phút bị bắt, hoặc lên ta vô tội hoặc ngược lại, nó vạch trần tính từ chủ có ý định và lòng kiên nghị của ta. Khi ta ta bị bắt là điều hiển nhiên mà thôi, vì ta quên mất, nghĩa vụ làm con của mình, dám lăng mạ cha mình, còn định đánh nữa. Câu trả lời ấy lên ăn năn hối hận, lương tâm ta bị vò xé, điều này làm cho tớ nghĩ ta là người trong sạch hơn là kẻ giết người.
      Tôi ngao ngán lắc đầu.
      - Nhiều người bị treo cổ vì những bằng chứng như thế. - Tôi nhận xét.
      - Đúng như vậy, và trong số họ cũng có nhiều người bị treo cổ oan ức.
      - Thế cậu có cách gì để cứu vớt chàng thanh niên kia chưa?
      - Chưa có gì đặc biệt để giúp cho ngài luật sư bào chữa cho ta cả mặc dù rằng có đôi chút hy vọng. Đây cậu đọc xem có tìm thấy gì ?!
      lấy trong cặp ra vài tờ báo địa phương, lật qua mấy trang rồi chỉ cho tôi mấy dòng tự khai của bạn trẻ McCarthy. Tôi ngồi vào góc toa tàu và chăm chú đọc tờ báo.
      Ngài James McCarthy được gọi lên chất vấn. ta khai :
      - Tôi vắng mặt ở nhà ba ngày đêm; những ngày này tôi ở Bristol và trở về nhà vào đúng hôm thứ hai tuần vừa rồi, ngày mùng ba khi tôi về tới nhà thấy cha tôi ở nhà; người hầu lại rằng cha tôi ra thị trấn Ross cùng với gã đánh xe ngựa John Cobb. lúc sau tôi nghe thấy tiếng kêu của cỗ xe ngựa trước nhà, và nhìn qua cửa sổ tôi thấy cha tôi rất vội ở ngoài sân; tôi biết cha tôi về hướng nào. Tôi vớ lấy khẩu súng săn của mình quyết định đến hồ Boscombe để săn thỏ ở bãi đất bỏ hoang nằm bên kia bờ hồ. đường tôi có gặp bác coi rừng William Crowder, như điều bác trong bản tường trình, tuy nhiên bác ta nhầm cho rằng tôi có ý định chạy theo cha tôi. Tôi biết là cha tôi phía trước.
      Khi cách hồ chừng trăm bước, tôi nghe thấy tiếng kêu “Cooee” tiếng mà cha con tôi vẫn thường hay gọi nhau. Tôi liền chạy đến chỗ phát ra tiếng gọi ấy và tôi nhìn thấy cha tôi đứng cạnh hồ. Cha tôi rất ngạc nhiên khi nhìn thấy tôi và hỏi cách giận dữ rằng tôi làm gì ở đây? Cuộc chuyện đến chỗ gay gắt suýt nữa xảy ra ẩu đả, vì cha tôi là người rất nóng tính. Khi cảm thấy cha tôi thể kìm chế được cơn giận nữa, tôi quyết định chuồn về trang trại Hatherley. Khi được quãng, tôi bỗng nghe thấy tiếng kêu lạnh buốt xương sống, thế là tôi lập tức quay trở lại. Tôi nhìn thấy cha tôi nằm sõng xoài mặt đất. Ở đâu có vết thương gớm ghiếc, toang hoác miệng, cha tôi thoi thóp thở. Khẩu súng săn vai tôi rơi xuống lúc nào hay, tôi nâng đầu cha tôi lên, nhưng trong khoảng tích tắc ấy cha tôi ngừng thở. Tôi quì gối bên thi hài vài phút đồng hồ, sau đó tôi chạy đến gặp người gác rừng của ngài Turner nhờ bác ta giúp tay, vì ngài nhà của bác ấy gần hơn cả. Khi quay lại chỗ cha tôi, tôi nhìn thấy ai cả, do vậy tôi biết được ai giết cha tôi. Ở đây, rất ít người biết cha tôi, bởi tính tình của cha tôi xưa nay rất ngại tiếp xúc với mọi người xung quanh. Nhưng tôi cũng biết là cha tôi nay có kẻ thù.
      Người thẩm phán :
      - Cha gì với trước lúc tắt thở ?
      Bị cáo :
      - Cha tôi có lắp bắp mấy tiếng , tôi chỉ nghe thấy từ hình như là “Arat” (Con chuột cống).
      Thẩm phán :
      - Điều gì làm cho và cha cãi nhau?
      Bị cáo :
      - Tôi thể chuyện đó ra đây được.
      Thẩm phán :
      - Rất tiếc là tôi buộc phải trả lời.
      Bị cáo :
      - Nhưng tôi thể trả lời câu hỏi đó. Tôi thề với ngài là câu chuyện của chúng tôi hề liên quan đến câu chuyện đau đớn đó.
      Thẩm phán :
      - Quan tòa quyết định chuyện đó. Tôi chỉ cho biết việc từ chối câu trả lời bất lợi cho .
      Bị cáo :
      - Tôi bao giờ trả lời chuyện ấy đâu.
      Thẩm phán :
      - Cha con thường dùng tiếng “Cooee” để với nhau phải ?
      Bị cáo :
      - Vâng.
      Thẩm phán :
      - Có nghĩa là, cha phát ra tiếng ấytrước khi ông biết từ Bristol trở về có phải ?
      Bị cáo :
      - Tôi biết nữa.
      Ông chánh án :
      - phát dấu hiệu nghi vấn gì khi chạy đến chỗ bố bị nạn à?
      Bị cáo :
      - Tôi phát được cái gì rệt hết.
      Thẩm phán :
      - Thế nghĩa là thế nào?
      Bị cáo :
      - Tôi hồi hộp và sợ hãi đến nỗi khi chạy ra khỏi khu rừng, tôi chỉ nghĩ đến cha tôi, ngoài ra còn chú ý gì nữa.
      Tôi chỉ mang máng nhớ là bên trái có vật gì, hình như là tấm khăn choàng. Khi tôi đứng lên khỏi cha tôi, tôi nhìn quanh tìm vật ấy, nhưng nó biến mất.
      - có cho là vật ấy biến mất trước lúc chạy nhờ người giúp chăng?
      - Vâng.
      - cố nhớ xem vật ấy là cái gì?
      - , tôi chỉ cảm thấy có vật gì đó, thế thôi.
      - Vật đó cách chỗ người chết bao xa?
      - Khoảng mười bước chân.
      - Và cách với góc rừng bao xa?
      - Gần bằng nhau.
      - Có nghĩa vật ấy cách khoảng hai mươi bước chân?
      - Vâng, nhưng tôi quay lưng về phía nó.
      Cuộc hỏi cung được kết thúc ở đây”.
      - Tớ thấy vào cuối cuộc hỏi cung, ngài thẩm phán hơi khắt khe với chàng McCarthy. - Tôi , sau khi đọc xong những dòng ghi báo. - Ông ta chứng minh những mâu thuẫn trong lời khai của bị cáo là hoàn toàn có căn cứ. Tại sao người cha gọi tên con khi biết con mình hoàn toàn có mặt? Ngay cả chuyện cậu con trai từ chối cung khai về nội dung câu chuyện giữa ta với người bố. Sau cùng là lời thốt ra khó hiểu của người bố khi sắp chết. Ngài thẩm phán nhận xét tất cả đều hết sức chống lại ta.
      Holmes đổi tư thế ngồi, vui vẻ :
      - Cậu và ngài thẩm phán cùng đau đầu vào chuyện đâu: trong khi đó vứt bỏ hết cái có lợi cho ta. Chẳng nhẽ cậu thấy ta diễn đạt lúc quá nhiều, lúc quá ít ư? Quá ít - vì McCarthy trai trẻ thể bịa ra nguyên nhân nào về chuyện cãi cọ với bố. Nếu ta giải thích cho ngài chánh án tội ta được hơn. Quá nhiều - Vì ta có thể bịa đặt ra “con chuột cống” của kẻ hấp hối và chuyện chiếc áo tự nhiên biến mất. Tớ có nhận xét như thế này : những gì McCarthy con khai đều là . Hãy xem giả thiết ấy dẫn chúng ta đến đâu? Chúng ta tạm dừng câu chuyện, vì chúng ta chưa đến nơi xảy ra án mạng. Hai chúng ta dùng bữa ăn sáng thứ hai ở Swindon. Chỉ còn 20 phút nữa chúng ta đến.
      Tàu vượt qua thung lũng Stroud và chạy vào thị trấn bé Ross - Lúc này gần 16 giờ. Ra đón chúng tôi ở sân ga là con người cẩn thận, có cặp mắt tinh ranh như loài cú vọ.
      ta mặc chiếc áo khoác màu xám và ủng cao gót phù hợp với vùng nông thôn này. Tôi nhận ra đó chính là ngài Lestrade từ Scoland đến. Chúng tôi cùng ta đến “Hereford Arms” ở đây, người ta chuẩn bị phòng ngú cho chúng tôi.
      - Tôi đăng ký cỗ xe ngựa rồi, - Sau khi uống chén trà, ngài Lestrade . - Tôi biết cách thức làm việc của ngài, ngài thể ngồi yên được khi chưa trực tiếp đến chỗ xảy ra vụ án mạng.
      - Ngài chỉ quá khen đấy thôi - Holmes trả lời. - Bây giờ tất cả mọi việc đều phụ thuộc vào kết quả chỉ của phong vũ biểu.
      Lestrade kinh ngạc, hiểu gì.
      - Tôi hoàn toàn hiểu ý của ngài. - ta .
      - Phong vũ biểu chỉ bao nhiêu? - 29 hả - có gió bầu trời gợn mây - có nghĩa là có mưa. Chúng ta cần hút vài điếu . Ghế đệm ở đây cũng tươm tất sạch hơn bất kỳ khách sạn nào ở nông thôn. Tôi dùng đến cỗ xe của ngài trong buổi chiều hôm nay.
      Lestrade cười trịch thượng và :
      - Chắc ngài đến kết luận phải vì ngài đọc hết bản luận tội đăng báo? việc quá ràng, như tôi thấy ngài. Càng nhìn càng thêm. Nhưng tất nhiên nên từ chối lời thỉnh cầu của đẹp và đáng như thế? ta có nghe về ngài và hy vọng ngài bào chữa cho bị cáo; mặc dù nhiều lần tôi cho ta biết là ngài cũng khoanh tay thể làm hơn những gì mà tôi gắng hết sức. Xe của nàng đến đây!
      Trong lúc Lestrade thao thao bất tuyệt người con duyên dáng bước vào phòng. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy ai đẹp như ta! Cặp mắt xanh biếc, đôi môi hé mở dịu dàng, đôi má ửng hồng, trông xinh xắn và dễ thương làm sao?! Nỗi lo lắng làm cho quên cả e dè.
      - Ôi! Thưa ngài Sherlock Holmes? - ta thốt lên đưa cặp mắt đẹp như mơ nhìn từ Sherlock sang tôi và cuối cùng bằng linh tính đặc biệt, của giới phụ nữ, ta dừng mắt lại ở chỗ bạn tôi - Tôi rất sung sướng vì ngài có mặt ở đây! Tôi đến đây để cho ngài câu chuyện. Tôi tin là James vô tội. Ngài hãy bắt đầu công việc, khi tôi cho ngài . Ngài đừng nghi ngờ gì hết dù chỉ trong phút thôi. Tôi kết bạn với ấy từ thời thơ ấu kia, nên tôi hiểu ấy hơn ai hết, tôi biết những nhược điểm của ấy. James nhân ái đến nỗi làm đau đến cả con ruồi. Những ai quen biết ấy đều cho lời buộc tội là hoàn toàn phi lý.
      - Tôi hy vọng, chúng tôi bào chữa được cho ấy, thưa tiểu thư Turner xinh đẹp? - Sherlock . - Tiểu thư hãy tin tưởng tôi làm hết sức của mình.
      - Ngài đọc được những lời buộc tội ấy chưa? Ngài có ý kiến gì ? Ngài có thấy tia hy vọng nào ? Ngài tin là ấy vô tội chứ?
      - Tôi cho rằng rất có thể.
      - Thế là ấy được tha! - vui mừng ra mặt và ngẩng cao đầu, đưa cặp mắt dò hỏi nhìn ngài Lestrade. - Ngài có nghe thấy gì ? Giờ tôi có thể hy vọng được rồi.
      Lestrade nhún vai :
      - Tôi chỉ sợ bạn của tôi hơi vội vã trong lời kết luận của mình. - Nhưng ông ấy đúng. Tôi tin ông ấy! James thể là tên giết người. Còn chuyện dính dáng đến vụ cãi cọ với cha ấy tôi biết hết - Và nguyên nhân nào khiến cho ấy với ngài thẩm phán vì chuyện này có dính líu đến tôi.
      - Như thế nào thưa tiểu thư? - Sherlock hỏi.
      - Bây giờ là lúc tôi phải dấu giếm cái gì hết. Vì tôi mà James đâu có những bất đồng với cha ấy. Cha của James muốn chúng tôi lấy nhau. Chúng tôi nhau, như em ruột thịt. Nhưng ấy, tất nhiên, còn quá trẻ, chưa hiểu gì về cuộc đời... và... và... tóm lại, ấy chưa muốn cưới vợ. Vì thế mà có cuộc cãi cọ kia. Tôi tin tưởng rằng đó là trong những nguyên nhân của cuộc cãi vã.
      - Ý kiến cha tiểu thư như thế nào? - Holmes hỏi. - Ông ấy có muốn chị lấy nhau ?
      - Cha tôi rất phản đối. Ngoài cha của James ra khôngai ủng hộ cuộc hôn nhân này cả.
      Holmes ném cái nhìn dò xét lên khuôn mặt làm ta ngượng ngùng đó bừng cả mặt.
      - Xin cám ơn tiểu thư về nguồn tin mới mẻ, - Holmes . - Ngày mai tôi có thể gặp cha của tiểu thư , nếu ngày maitôi ghé thăm?!
      - Tôi e rằng bác sĩ cho gặp?!
      - Bác sĩ ư?
      - Vâng, chẳng lẽ ngài biết sao? Trong những năm gần đây, cha tôi hay ốm lắt nhắt, nhưng cũng đủ làm cho cha tôi kiệt sức hoàn toàn. Cha tôi chỉ nằm suốt ngày, còn ngài bác sĩ Willows : Cha tôi bị chấn thương sọ não vì bị kích động mạnh. Ngài McCarthy là người duy nhất ở đây biết được cha tôi trong thời gian ở Victoria xa xôi.
      - Sao? Cha của tiểu thư từng ở Victoria hả?
      - Vâng, cha tôi tham gia vào đoàn tìm kiếm.
      - Tôi hiểu. Ngài Turner làm giàu tại những mỏ vàng có phải , thưa tiểu thư?
      - Vâng, đúng thế, thưa ngài.
      - Xin cảm ơn tiểu thư. Tiểu thư giúp cho tôi rất nhiều.
      - Ngày mai, nếu có tin tức gì mới ngài hãy làm ơn cho tôi biết với! Chắc ngài đến gặp James ở trại giam phải ? Nếu gặp ngài hãy giúp rằng tôi bao giờ cũng tin là
      ấy vô tội.
      - Tiểu thư cứ an tâm, thế nào tôi cũng lại điều đó.
      - Tôi phải về nhà gấp. Cha tôi nguy kịch và cần có tôi bên cạnh. Xin tạm biệt ngài, cầu chúa phù hộ cho ngài trong công việc.
      vội vã bước ra khỏi phòng và chúng tôi nghe tiếng cỗ xe xa dần.
      - Tôi ngượng thay cho ngài, ngài Holmes ạ! - Lestrade với giọng đàn , sau phút im lặng - Ngài hy vọng làm gì chứ?! phải tôi lo quá xa đâu, nhưng ngài làm như vậy quả là liều lĩnh.
      - Tôi nhìn thấy con đường mà tôi - James McCarthy, Holmes - Ngài có giấp phép vào thăm trại giam ?
      - Có đây nhưng chỉ dùng cho hai người thôi.
      - Như vậy, tôi thay đổi chương trình là đâu nữa. Chúng ta có kịp thời gian đến trại giam Hereford để thăm tù nhân ?
      - Hoàn toàn kịp.
      - Chúng ta cùng ? Watson, tớ sợ cậu buồn nhưng chỉ sauhai giờ tớ quay về đây.
      Tôi tiễn họ ra bến xe. Sau đó bách bộ dọc các đường phố của thị trấn. Rồi quay về khách sạn, tôi nằm xuống xa lông và lấy cuốn tiểu thuyết ra đọc. Nhưng cuốn sách ăn nhập với câu chuyện đáng thương ra trước mắt tôi. Tôi nhận thấy tất cả mọi ý nghĩ của mình lúc này đều quay về thực tại. Tôi ném cuốn sách vào góc phòng và thử ôn lại trình tự, suy luận về những kiện. Cứ cho những lời khai của chàng thanh niên kia là đúng , liệu có con quỷ nào lọt vào khoảnh khắc ngắn ngủi giữa lúc chàng trai khỏi và chạy lại với tiếng kêu của người cha. Ai vào đây? Điều này là kinh khủng, đáng sợ. Tôi là bác sĩ, công việc được ràng hơn, nếu tôi đưa xem xét những vết thương. Tôi gọi điện và đề nghị cung cấp cho tôi tất cả những số liệu và kết quả của cuộc giải phẫu giám định đầy đủ nhất.
      Trong bản kết luận của nhà giải phẫu cho biết: xương đỉnh phía sau và phần trái của xương chẩm bị vỡ do cú giáng rất mạnh bằng vũ khí nhọn. Tôi tự sờ lên đầu mình để kiểm tra, còn nghi ngờ gì nữa, cú đánh như vậy chỉ có thể thực từ phía sau lưng nạn nhân. Điều này biện hộ phần nào cho bị cáo, vì trong lúc cãi nhau người ta nhìn thấy ta đứng đối diện với người cha: Cần phải cho Sherlock biết điểm này. Tôi nhớ đến từ “con chuột cống”, có ý nghĩa gì nhỉ.
      Trong trường hợp này phải là lời mê.
      Con người trước lúc chết vì bị đánh bất ngờ, bao giờ mê cả. Chẳng lẽ, ông ta muốn giải thích tại sao ông ta chết?
      Ông ta muốn điều gì? Tôi cố gắng hết sức để tìm ra lời lý giải thích hợp. Tôi nhớ lại trường hợp chiếc áo xám ma quỷ.
      Nếu đúng như vậy kẻ thứ ba bỏ quên chiếc áo khi bỏ chạy và liều lĩnh quay lại lấy ngay sau lưng cậu con trai, cách cậu ta chỉ 20 bước chân. Toàn bộ câu chuyện này là vấn đề khó hiểu và khó tin!
      Lời nhận xét của Lestrade làm cho tôi kinh ngạc, nhưng tôi tin vào tầm nhìn xa trông rộng của Holmes nên tôi mất hy vọng. Đến lúc này tôi có cảm giác là Sherlock tóm được vài chi tiết để củng cố lương tâm của mình về trong trắng, vô tội của James.
      Khi Sherlock về trời tối từ lâu. mình vì Lestrade nghỉ lại ngoài thành phố.
      - Phong vũ biểu vẫn chưa chịu hạ tí nào. - ngồi xuống và , - Chỉ cầu sao cho trời đừng có mưa vào lúc chúng mìnhchưa đến nơi xảy ra án mạng? Con người cần phải dồn sức lực, trí tuệ và nhiệt tình vào công việc nhân đạo. lòng mà tớ cũng chưa hứng thú bắt tay ngay vào công việc vì tớ rất mệt sau chuyến xa như vậy. Tớ gặp chàng McCarthy rồi.
      - Gặp ta, cậu có hiểu thêm gì ?
      - có gì mới cả.
      - việc sáng sủa à?
      - Tuyệt nhiên . Lúc đầu tớ có ý nghĩ là ta biết họ. tên kẻ sát nhân, nhưng muốn giấu. Đến giờ tớ khẳng định là chính ta cũng thắc mắc như mọi người khác. McCarthy phải là người khôn ngoan cho lắm, song rất dễ thương. Tớ có cảm nghĩ ta là người tốt.
      - Tôi tán thành quan điểm của ta. - Tôi nhận xét. - Nếu đó là tại sao ta chịu cưới tiểu thư Turner kiều diễm kia làm vợ.
      - Cũng vì thế mà xảy ra câu chuyện đáng tiếc! ta tiểu thư Turner chân thành tha thiết, và say đắm. Nhưng cậu thử nghĩ xem? ta làm gì cách đây hai năm, khi còn là thằng con nít mới lớn, lúc ấy tiểu thư Turner học ở trường nội trú, cậu biết ? Thằng ngốc ấy bị rơi vào tay bán hàng ở Bristol và dại đột đăng ký kết hôn với ta. Về chuyện này ai biết cả. Cậu thử tưởng tượng xem, đối với ta là đau đớn khi phải nghe hoài những lời trách móc của người cha! Nỗi tuyệt vọng bao trùm, ám ảnh ta, khi ta giang hai tay lên trời cầu cứu để trả lời đề nghị của cha ta là kết hôn với tiểu thư Turner. Mặt khác, ta hết khả năng tự bào chữa rồi, và người cha, theo mọi người là kẻ hẹp hòi, đố kỵ, đuổi cậu ta ra khỏi nhà nếu biết được tất cả . Chàng thanh niên sống với người vợ của mình ở Bristol trong ba ngày cuối cùng, nhưng người cha biết cậu ta ở đâu. Hãy ghi nhớ kỹ điểm ấy.
      Điều này rất quan trọng. Trong cái rủi lại có cái may. bán hàng khi nghe tin chồng mình bị kết tội nặng và có thể lâu bị treo cổ nên bỏ ta ngay lập tức. ta tự thú nhận trong bức thư gửi cho chồng là từ lâu ta người chồng chính thức khác ở Bermuda; ta trắng trợn tuyên bố giữa ta và James McCarthy hề có ràng buộc nào hết. Tớ nghĩ tin ấy phần nào đền bù nỗi đau khổ của cậu McCarthy.
      - Nếu cậu ấy vô tội ai là thủ phạm gây án mạng?
      - Đúng, kẻ giết người là ai? Tớ lưu ý cho cậu hai điểm sau đây: thứ nhất - Người khuất cần gặp ai đó bên hồ, người đó thể là con trai ông ta được, bởi người con trai khỏi biết bao giờ mới về. Thứ hai - Người cha gọi “Cooee” trước khi ông tà nhìn thấy con trai. Đó là nút chính, nhờ nó mà chúng ta làm thấy đổi được tình thế. Còn bây giờ hãy đến những sáng tác mới của George Meredith nếu như cậu thích. Hay để những công việc thứ yếu khác đến mai.
      * * * * *
      Đúng như Sherlock mong muốn, hôm qua trời mưa.
      Sáng nay trời quang đãng bóng mây. Vào lúc 9 giờ Lestrade đến đón chúng tôi cỗ xe ngựa, chúng tôi tiến về trang trại Hatherley và từ đó bộ đến hồ Boscombe.
      - Có tin quan trọng. - Lestrade . - Nghe là ngài Turner ốm nặng đến nỗi khó lòng mà qua được.
      - Hình như ông ấy già lắm phải ? - Holmes hỏi.
      - Khoảng 60 tuổi, nhưng ông ta mất sức từ ngày ở đoàn tìm kiếm và từ lâu mang bệnh hiểm nghèo. Ông ta là bạn cũ của ngài McCarthy, hơn thế còn là ân nhân nữa. Tôi được biết ngài Turner lấy tiền thuê trại Hatherley của ngài McCarthy.
      - Ồ! Điều này rất lý thú đấy các vị ạ? - Holmes bỗng reo lên.
      - Vâng, ngài Turner giúp đỡ ngài McCarthy bằng mọi biện pháp có thể được. Ở đây mọi người đều là ngài Turner đối xử với bạn rất tốt.
      - Sao ngài lại nghĩ thế! Ngài lấy làm lạ là ngài McCarthy giầu có gì mà lại tính đến chuyện cưới tiểu thư Turner xinh đẹp - người thừa kế duy nhất gia tài kếch sù cho con trai? Ngài biết rồi đấy ông Turner chấp nhận cuộc hôn nhân ấy.
      Chính tiểu thư Tenter . Ngài có thể rút ra kết luận gì bằng phương pháp suy diễn.
      - Chúng tôi suy diễn và rút ra những kết luận lôgic nhất. - Lestrade và nháy mắt ra hiệu cho tôi. - Ngài cứ tiếp tục sử dụng các dữ kiện ấy, nó có thể xa chân lý để rơi vào thế giới hão huyền. - bao giờ cũng là . - Holmels , - Ngài sử dụng dữ kiện tốt lắm.
      - Tôi chỉ nhấn mạnh dữ kiện, mà đối với ngài khó hiểu - Lestrade .
      - Dữ kiện nào?
      - Là McCarthy cha đón nhận cái chết bi thảm của mình từ McCarthy con, còn tất cả mọi giả thiết khác bác bỏ nó - chỉ là vệt sáng trăng.
      - Nhưng dù sao vệt sáng trăng còn sáng hơn sương mù? - Holmes vừa cười vừa . - Nếu tôi nhầm bên trái kia là trang trại Hatherley.
      - Đúng, chính nó.
      Đó là ngôi nhà hai tầng khang trang đầy đủ tiện nghi,được lợp bằng tôn Fibrôximăng, rêu bám từng mảng lớn ở mặt tiền sảnh. Những tấm rèm thả xuống bịt kín mít các cửa sổ trông rất ảm đạm; những ống khói mấy hôm nay có khói bay. Những cái đó làm cho ngôi nhà trở nên hiu quạnh; dường như án mạng phủ lên, đè nén mấy bức tường với tất cả sức phá hoại ghê gớm của nó.
      Chúng tôi gọi cửa. Người hầu , theo cầu của Holmes, chỉ cho chúng tôi đôi giày của chủ nhân mang trong ngày hôm ấy, và đôi giày của cậu con trai mang. Holmes ngồiđo từng li từng tí đôi giày; sau đó đề nghị người ta dẫn chúng tôi ra sân, từ đó chúng tôi theo đường mòn quanh co uốn khúc dẫn đến hồ Boscombe.
      Sherlock biến đổi hoàn toàn, khi lôi theo dấu vết bẩn thỉu. Những người từng biết ngài thám tử lừng danh ở hẻm Baker, lúc này chắc thể nhận ra được. ta ủ dột, mặt hơi phớt hồng, cặp mắt lấp lánh dưới hàng mi đen chạy dài.
      Đầu cúi xuống, cặp vai nhô lên, đôi môi cắn chặt: cái cổ gân guốc hằn những đường mạch máu xanh. Hai lỗ mũi của phồng lên như cặp mũi của những nhà săn thú lão luyện.
      say mê công việc đến nỗi trả lời bất cứ câu hỏi nào, hoặc nếu có chỉ nhấm nhẳn cho qua chuyện. thầm, nhưng rất nhanh theo lối mòn xuyên qua cánh rừng và đồng cỏ tới hồ Boscombe. Đó là vùng đầm lầy trước kia nay khô ráo giống như cả vùng thung lũng. lối mòn, hai bên có những loại cỏ dại thấp mọc dày xuất những dấu vết dẫmnát. Holmes lúc vội vội vàng vàng, lúc dừng hẳn lại. Có lần bất thình lình quay lại và ngược vài ba bước.
      Lestrade và tôi theo dõi từng bước. Lestrade quan sát với thái độ thờ ơ, khinh khinh ra mặt, còn tôi luôn luôn theo sát Sherlock với hứng thú trong lòng, bởi tôi dám khẳng định là mỗi động tác của đều dẫn tới kết cục tốt đẹp.
      Hồ Boscombe rộng chừng 50 yard, lau sậy bao bọc xung quanh. Nó kéo dài ranh giới của trang trại Hatherley và địa hạt của ngài Turner giàu có. Ở phía xa, nơi khu rừng chạy dài đến tận bờ xa tắp, thấp thoáng những ngọn tháp nhọn đỏ chót.
      Ở phía Hatherley khu rừng rất rậm rạp, um tùm; chỉ có khoảng đất hẹp, rộng chừng hai mươi bước là có cỏ dại mọc và số cây sậy còn sót lại bao quanh. Lestrade chỉ cho chúng tôi chính xác nơi nạn nhân ngã xuống. Mảnh đất chỗ ấy bị dẫm nát đến nỗi tôi dễ dàng nhận ra ngay nơi nằm của người bị giết.
      Còn những gì liên quan Holmes quan sát rất kỹ lưỡng.
      Holmes chăm chú nhìn kỹ đám cỏ bị xéo nát. chạy chạy lại, sau đó lại gần người bạn đồng hành với chúng tôi.
      - Ngài làm những gì ở đây?
      - Tôi cào xới khắp bãi cỏ, tìm kiếm loại vũ khí và những chứng cớ khác, nhưng ngài thấy đấy...
      - Thôi đủ rồi. Tôi có nhiều thời giờ! Dấu chân tráicủa ngài lên khắp nơi. Thậm chí con chuột chù cũng có thể đánh hơi được điều đó. Còn đến chỗ đám lau sậy dấu vết biến mất. Nếu tôi đến đây trước khi bị đàn trâu dẫm nát mọi việc đơn giản! Những người ra đây làm loạn xị ngậu mọi dấu vết xung quanh chỗ nạn nhân chừng 6 hoặc 7 foot.
      Sherlock lấy kính lúp ra rồi nằm xuống tấm vải thấm nước để quan sát và thầm với bản thân mình hơn là với chúng tôi.
      - Đây là dấu vết của chàng McCarthy, ta điqua đây hai lần và lần chạy nhanh đến nỗi vết giầy hầu như khó nhìn thấy, những vết còn lại rất . Những dấu vết này khẳng định cho lời khai của ta. Chàng thanh niên chạy đến nhìn thấy cha mình nằm gục mặt đất. Tiếp theo là những dấu chân của người cha lui tới. Cái gì thế này? À, dấu vết của báng súng khi người con đứng và dựng súng xuống nghe cha . Còn đây nữa? Cái gì nhỉ? Có người rón rén đầu các ngón chân! Đây là đôi giày bình thường, hình như hình vuông?! đến rồi chuồn khỏi, rồi lại đến, chắc là để lấy chiếc áo. Nhưng từ đâu đến?
      Holmes chạy chạy lại quan sát, đôi lúc mất dấu vết, đôi lúc nhìn thấy. Trong lúc đó chúng tôi chưa vào bìa rừng, dưới bóng cây bạch dương to già cỗi, Holmes bắt được các dấu vết, nhàng nằm xuống. Bỗng reo lên sung sướng.
      Holmes nằm yên rất lâu, lật lật lại những chiếc lá cây và cành cây khô queo, nhặt bỏ vào phong bì vật gì đó giống như là bụi đất. thận trọng nhìn qua kính lúp chiếc vỏ cây, hòn đá có cạnh đều nhau. cầm hòn đá lên và ngắm nghía vẻ thỏa mãn, sau đó theo lối mòn dẫn đến con đường ở đây mọi dấu vết bị xóa sạch.
      - Hòn đá này quan trọng đấy. - nhận xét khi quay lại với giọng bình thường. - Ngôi nhà xam xám phía bên phải kia có lẽ là nhà của người gác rừng. Tôi ghé lại chỗ ngàiMoran để vài lời và viết bức thư. Rồi chúng ta về khách sạn trước bữa ăn sáng thứ hai. Hai người cứ đến xe ngựa trước, tôi tới sau.
      Sau 10 phút, chúng tôi về tới thị trấn Ross. Hòn đá nhặt được ở trong khu rừng vẫn nằm trong tay Holmes.
      - Vật này có thể làm cho ngài chú ý, thưa ngài Lestrade. - Holmes chìa hòn đá ra. - Đây chính là vũ khí mà kẻ sát nhân dùng.
      - Tôi nhìn thấy vết tích nào cả?!
      - Đúng, có.
      - Vậy làm sao ngài quả đoán như thế?
      - Vì dưới hòn đá này cỏ vẫn mọc bình thường.
      Có nghĩa nó nằm chỉ vẻn vẹn có vài ngày. Còn xung quanh thấy dấu chỗ hòn đá được nhặt lên. Hòn đá này tương xứng với những thương tích. có dấu vết của loại vũ khí nào khác.
      - Ai là kẻ sát nhân?
      - Đó là người cao to, thuận tay trái và bị thọt chân phải. mang giày săn, đế to và mặc bành tô xám. Hút thuốc Ấn Độ bằng tẩu, ở trong túi có chiếc dao cùn gấp cán. Có nhiều đặc điểm nữa, nhưng như thế cũng đủ cho chúng ta tìm kiếm.
      Lestrade cười mỉm.
      - Đáng tiếc, đến bây giờ tôi vẫn là kẻ hoài nghi. - Ông ta . - Mọi giả thiết của ngài đều chí lý, nhưng chúng ta cần làm việc với đạo luật của Hoàng gia nước .
      - Chúng tôi tìm thấy. - Holmes bình tĩnh trả lời. - Ngài có cách của ngài, tôi có phương pháp của tôi. tuyệt vời, có thể hôm nay tôi về Luân Đôn trong chuyến tàu tối.
      - Ngài bỏ dở công việc ư?
      - , mọi việc sáng tỏ.
      - Bí mật là gì?
      - Chiếc màn bí mật được vén lên.
      - Ai là kẻ sát nhân?
      - Kẻ mà tôi vừa mô tả.
      - Nhưng là ai?
      - Ồ, có khó gì đâu, dân cư ở đây nhiều nhặn gì.
      Lestrade nhún vai :
      - Tôi là con người thực tế - Ông ta - thể tìm kiếm người chỉ thọt chân phải và thuận tay trái. Chắc tôi bị cả vùng Scoland chế nhạo mất thôi.
      - Được, - Holmes điềm đạm trả lời, - Tôi cho ngài biết mọi khả năng để tìm ra điều bí mật. Tôi cần che giấu, còn ngài có lẽ khám phá ra vụ án khó hiểu này.
      Sau khi từ biệt ngài Lestrade, chúng tôi quay về căn buồng của mình, ở đây bữa ăn sáng thứ hai dọn sẵn.
      Holmes im lặng, trầm ngâm suy nghĩ. Khuôn mặt của buồn rười rượi, giống như khuôn mặt của người rơi vào tình trạng khó giải quyết.
      - Hãy nghe đây Watson, - , khi người hầu dọn xong mọi thứ bàn ăn, - Cậu ngồi vào kia, tớ kể cho cậu nghe số điều tớ biết. hiểu tớ phải làm gì bây giờ? Tớ muốn nghe ở cậu lời khuyên. Cậu hãy hút thuốc , tớ bắt đầu.
      - Nào, kể .
      - Trong khi nghiên cứu công việc, tớ nhận thấy có hai điểm trong bản tường trình của chàng McCarthy làm tớ chú ý; tớ cho là điểm đó có lợi cho ta, còn cậu cho là có hại. Thứ nhất là: Người cha kêu “Cooee” trước khi nhìn thấy con trai củamình; thứ hai là : cha ta tới con chuột trong cơn hấp hối. Cậu nên hiểu, người cha lắp bắp vài từ, nhưng người con chỉ nghe được có . Công cuộc khám phá của chúng ta xuất phát từ hai điểm này. Tớ nghĩ những điều chàng thanh niên khaitrên đều đúng với trăm phần trăm.
      - Tiếng gọi “Cooee” là gì?
      - ràng ông ta gọi con trai. Vì ông nghĩ con ông vẫn ở Bristol. Người con nghe thấy tiếng gọi rất tình cờ. Tiếng “Cooee” để gọi người hẹn gặp ông ta. Từ “Cooee” là từ của người Áo, nó chỉ dùng giữa những người Áo với nhau mà thôi. Đó là điều chứng minh xác đáng cho giả thiết rằng, người mà McCarthy hẹn gặp ở hồ Boscombe phải là người Áo.
      - Nhưng còn chuyện con chuột cống?
      Sherlock Holmes lôi trong túi ra tờ giấy gấp làm tư rồi cẩn thận trải nó ra bàn
      - Đây là tấm bản đồ bang Victoria. - .
      - Tối hôm qua tôi đánh điện đến Bristol và nhờ họ gửi cho tấm bản đồ này. - lấy tay che phần tấm bán đồ. - Cậu đọc - ta đề nghị.
      - ARAT
      ARAT - Tiếng nghĩa là con chuột cống.
      - Còn bây giờ? - nhấc tay lên.
      - BALLARAT
      - Hoàn toàn đúng. Đây chính là từ mà người hấp hối thốt ra, nhưng con trai chỉ kịp nghe có hai tiết cuối cùng.
      Nạn nhân cố gượng tên kẻ giết người và tên đó là Ballarat.
      - tuyệt diệu! - Tôi thốt lên.
      - nghi ngờ gì nữa, vòng vây khép kín. Chiếc áo choàng màu xám của tên tội phạm là bằng chứng thứ ba. Nhưng điều chưa biết này biến mất, và xuất người áo mặc bành tô màu xám nào đấy từ Ballaret tới.
      - thể ra sao?
      - Chắc chắn, là người địa phương ở đây; vì bên cạnh hồ ngoài trang ấp ấy ra, còn gì nữa. Người lạ đến đấy làm gì.
      - Tất nhiên.
      - Sau đó là cuộc khám nghiệm trường của chúng ta. Trong khi xem xét nền đất, tớ phát thêm số chứng cớ mà tớ cho lão Lestrade nghe tuy quan trọng lắm. Những chứng cớ này chỉ có liên quan tới việc mô tả hình dáng kẻ phạm tội mà thôi.
      - Nhưng bằng cách nào mà cậu phát được?
      - Cậu quá quen phương pháp của tớ rồi! Nó dựa so sánh tất cả dữ kiện đáng kể.
      - Về tầm vóc của tên sát nhân cậu phán đoán gần đúngdựa nào bước chân, hoặc đôi giày, nhưng cũng có thể dựa những dấu vết để lại; phải ?
      - Đúng, loại giày bình thường.
      - Sao cậu biết bị thọt?
      - Dấu chân phải được nhừ dấu chân trái. Bàn chân phải dẫm hơn. Tại sao? Chỉ vì bị thọt.
      - Còn chuyện thuận tay trái?
      - Chính cậu kinh ngạc với đặc điểm vết thương mà người phẫu thuật mô tả. Nạn nhân bị cú giáng bất ngờ từ phía sau lưng; nhưng ở bên trái. Ai có thể làm được? Nếu như thuận tay trái?! Trong lúc hai cha con chuyện với nhau, thủ phạm núp sau thân cây. Thậm chí còn hút thuốc. Tớ tìm thấy tàn thuốc lá, và nhờ khiếu phân biệt cácloại thuốc của mình tớ xác định được hút loại thuốc của Ấn Độ. Cậu biết đấy, tớ nghiên cứu về thuốc lá và có viết bài báo về tro của 140 loại thuốc lá khác nhau, kể cả thuốc điếu cũng như thuốc tẩu. Sau khi phát ra tàn thuốc lá, tớ quan sát xung quanh, và tìm thấy mẩu thuốc còn lại mà vứt. Đó là loại thuốc của Ấn Độ, sản xuất tại Rotterdam.
      - Còn cái tẩu?
      - Tớ nhận thấy mẩu thuốc bị ngậm, suy ra dùng tẩu. Phần cuối của điếu thuốc bị cắt, nhưng nhát cắt sắc gọn, mà nham nhở, vì thế tớ quả quyết dao của bị cùn.
      - Holmes, - Tôi - Cậu giăng xung quanh tên tội phạm tấm lưới, thể chui ra được và cậu cứu thoát chàng thanh niên vô tội kia. Cậu tháo chiếc nút thòng lọng khỏi cổ ta. Tớ hình dung được tất cả những dẫn chứng của cậu tụ điểm vào ai rồi. Tên của kẻ giết người là...
      - Ngài John Turner đến. - Người hầu phòng báo, sau khi mở cửa phòng chúng tôi và dẫn người khách vào.
      Thân hình của kẻ vừa vào khác thường, dáng chậm chậm, khập khiễng; đôi vai buông xuống làm cho ông trông khắc khổ già nua; còn bộ mặt trông gớm ghiếc và thô tục; tấm thân đồ sộ toát lên sức mạnh khôn lường của con người kỳ dị ấy. Bộ râu để dài xồm xoàm, mái tóc bạc trắng phủ kín gáy lởm chởm, cặp lông mày rậm làm cho ông ta có vẻ kiêu kỳ và mãn nguyện. Mặt ông xám xịt, còn môi và hai cánh mũi nhợt nhạt xanh tái. Thoạt nhìn tôi biết ngay ông mắc thứ bệnh kinh niên khó chữa khỏi.
      - Mời ngài ngồi. - Holmes đề nghị nhàng, - Chắc ngài nhận được bức thư của tôi?
      - Vâng, người gác rừng mang đến. Ngài muốn gặp tôi ở đây để tránh bớt lôi thôi.
      - Tôi nghĩ rằng, có chuyển biến nếu tôi phát biểu tại phiên tòa.
      - Ngài cần tôi ư?
      Turner nhìn chằm chằm vào bạn của tôi. Trong đôi mắt mệt mỏi của ông chứa đựng nỗi tuyệt vọng, dường như ông đoán được câu trả lời cho câu hỏi của mình.
      - Vâng, - Holmes , cái nhìn của thay cho câu trả lời. - Vấn đề là như thế. Tôi biết hết câu chuyện về ngài McCarthy rồi.
      Lão già dang hai tay ôm lấy mặt.
      - Các ngài hãy làm ơn giúp tôi? - Ông ta kêu lên tuyệt vọng. - Tôi thể để cho chàng trai kia chết đâu? Tôi hết trong phiên tòa trung thẩm.
      - Rất hân hạnh được nghe. - Holmes lạnh lùng.
      - Từ lâu tôi muốn phơi bày tất cả, nhưng còn đứa con thân của tôi. Chuyện này làm trái tim nó tan nát mất, nó đau khổ và sống khi tôi bị bắt.
      - Có thể xảy ra chuyện đó đâu, - Holmes an ủi.
      - Có thể như vậy sao?
      - Tôi phải là kẻ thừa hành chính thức. con của ngài cần có mặt của tôi, cho nên tôi phải làm mọi việc vì lợi ích của ta. Ngài hiểu cho: chàng McCarthy kia cần được tự do ngay bây giờ.
      - Tôi ở gần cửa địa ngục lắm rồi, - Ông Turner - Tôi bị bệnh đái đường lâu. Bác sĩ biết tôi có sống được tháng nữa hay . Dẫu sao tôi cũng muốn được chết dưới mái nhà của mình, hơn là phải chết trong tù.
      Holmes đứng dậy, đến bàn viết cầm cây bút và tờ giấy :
      - Ngài hãy kể tất cả những gì xảy ra. - đề nghị. - Còn tôi viết lại vắn tắt, ngài ký vào đó và Watson là người làm chứng. Tôi chỉ công bố lời tứ thú của ngài trong trường hợp cần thiết nhất thôi, để cứu tính mạng chàng trai McCarthy.
      Ngược lại tôi hứa với ngài dùng biện pháp ấy.
      - Được, - Lão già trả lời - có lẽ tôi còn sống đến phiên tòa phúc thẩm đâu. Cho nên điều kiện của ngài làm cho tôi lo lắng. Tôi chỉ muốn đỡ cho Alice khỏi đòn khủng khiếp. Tôi kể cho ngài nghe tất cả... việc kéo dài lâu nhưng tôi kể vắn tắt:.. Ngài chưa được biết tay Carthy khuất đâu. Đó là mộtcon quỷ hình, tôi thề với ngài đúng như thế. Cầu chúa hãy cứu thoát ngài khỏi bàn tay thép dơ bẩn của ! - Hai chục năm cuối cùng của đời tôi, tôi bị kìm kẹp và chi phối. đầu độc toàn bộ cuộc đời của tôi. Trước hết tôi kể vì sao tôilại rơi vào nanh vuốt kìm kẹp của . Câu chuyện này xảy ra vào đầu những năm sáu mươi (1860) của thế kỷ XIX trong đoàntìm kiếm vàng. Thời đó tôi còn là cậu bé thiếu suy nghĩ, nóng nảy sẵn sàng lao vào bất cứ việc gì. Tôi lọt vào băng của những người xấu và bắt đầu cuộc đời rượu chè be bét. Tôi sống cuộc sống lang thang nay đây mai đó như hiệp khách giang hồ. Bọn tôi có sáu người, chúng tôi trải qua cuộc đờihoang dã, phóng đãng, ngày này qua tháng khác chúng tôi đột nhập vào các bến xe, nhà ga, chặn đứng từng đoàn xe ở dọcđường để cướp bóc. Lúc ấy người ta gọi tôi là Jack ở Ballaret.
      Bạn bè ngày ấy của tôi cho đến bây giờ vẫn nhớ tôi với cái tên Ballaret.
      Hôm đó có đoàn hộ tống áp tải vàng từ Ballaret đến Melbur. Chúng tôi tổ chức cuộc tấn công, có sáu người áp tải canh giữ xe vàng. Chúng tôi cũng có sáu người. Thế là xảy ra trận cướp bóc, giết người tàn ác và quá khủng khiếp.
      Loạt súng đầu tiên chúng tôi hạ thủ. Nhưng khi thu chiến lợi phẩm chúng tôi còn có ba người. Tôi chĩa súng vào thái dương tên xà ích - Người ấy là McCarthy. Lúc ấy tôi giết luôn hay quá! Nhưng tôi thương hại, mặc dù tôi nhận thấy nhìn tôi bằng cặp mắt ti hí gian ác, dường như muốn ghi nhớ bộ mặt của tôi. Chúng tôi cướp được số vàng đáng kể, trở thành những người giầu có và hồi hương về quốc, bị ai nghi ngờ. Ở đây tôi vĩnh viễn từ bỏ những người bạn xưa của mình để bắt đầu cuộc đời no đủ và yên ấm.
      Tôi mua cơ ngơi này và cố gắng bằng những đồng tiền của mình làm những công việc từ thiện để chuộc lại quá khứ đen tối của mình. Trong thời gian đó tôi lấy vợ, ta chết trong lúc còn quá trẻ và để lại cho tôi con bé Alice dịu dàng nết na. Thậm chí khi Alice còn bé bỏng, bàn tay múp míp xíu của nó giữ chân tôi con đường làm ăn lương thiện hơn bất cứ cái gì thế giới này. Tôi vĩnh viễn chôn vùi quá khứ của mình. Mọi việc đều trôi chảy, tốt đẹp khi tôi chưa bị rơi vào tay của McCarthy.
      lần tôi ra thành phố để giải quyết công chuyện tiền nong và bất ngờ tôi gặp McCarthy ở góc phố Regent. người có cả áo bành tô, giày dép gì hết.
      Thế là chúng ta lại gặp nhau, Jack - và chìa tay nắm lấy tay tôi. - Từ nay chúng ta phải xa nhau nữa.
      Tớ phải mình mà mang theo cả thằng con, cậu cần phải quan tâm giúp đỡ tớ. Ngược lại cậu biết đấy: “Nước nước tuyệt vời, ở đấy luật pháp mạnh lắm. Ngoài ra khắp nơi còn có đội tuần tra cảnh sát”.
      Thế là cùng với thằng con trai đến miền Tây sinh sống, và tôi thể nào thoát khỏi con người đáng sợ ấy được. Bọn họ sống mảnh đất của tôi phải mất tiền.
      Tôi có phút giây nào thanh thản, được nghỉ ngơivà luôn luôn nơm nớp lo sợ cái quá khứ của mình bị vạch ra.
      Nơi nào tôi đến tôi cũng gặp bộ mặt đắc chí và ranh ma của . Khi đứa con của tôi trưởng thành nỗi lo sợ của tôi tăng thêm, bởi vì biết rằng: Đối với tôi điều đáng sợ nhất, còn sợ hơn cảnh sát là con tôi biết quá khứ của tôi. có cái gì mà muốn, đòi hỏi, bắt tôi cấp đất,cấp nhà, cấp tiền, đó mới là cầu nhất, trong khi chưa đến những đòi hỏi khác. đòi luôn cả Alice cho con trai . Mọi người đều biết con bệnh hiểm nghèo của tôi, dự tính khả năng tuyệt diệu là thằng con của chiếm toàn bộ gia sản của tôi. Nhưng lần này tôi cương quyết, tôi thể cho phép cái giống đáng nguyền rủa ấy kết hôn với con tôi cho dù ở trong ý nghĩ.
      Tôi và hẹn gặp nhau ở khoảng giữa hai nhà sát bờ hồ để trao đổi mọi chuyện. Nhưng khi tới chỗ hẹn tôi nhìn thấy chuyện với con trai. Tôi đứng đợi sau gốc cây và lấy thuốc ra hút, chờ . Trong khi nghe những lời với con trai, trong tôi trào lên tức giận, máu sôi lên tôi thể chịu đựng được nữa. ép buộc thằng con phải cưới con tôi làm vợ, tuyệt nhiên hề đếm xỉa đến con tôi có chấp thuận hay , cứ như con tôi là đứa con làm tiền.
      Tôi phát điên lên khi nghĩ là tất cả những gì tôi quý phải lọt vào tay con người ấy. Tôi thể chặt đứt gông cùm trói buộc hay sao? Tôi sắp chết vì tuyệt vọng, mặc dù lý trí tôi vẫn rất minh mẫn và tay chân còn khỏe mạnh, tôi hiểu rằng, cuộc đời tôi như thêm là hết. Nhưng còn tên tuổi tôi, còn đứa con cưng của tôi? Tôi cứu vớt được cả hai, nếu như tôi buộc lão McCarthy giữ mồm giữ miệng... Tôi giết nó, ngài Holmes ạ... Tôi giết nó, lần này tôi tha. Tôi là kẻ trọng tội nhưng chẳng lẽ cuộc đời đầy rẫy bất công, đau thương này thể chuộc được lỗi lầm hay sao? Tôi phạm tội nhưng cứ nghĩ con tôi bị rơi vào cạm bẫy là tôi thể chịu được. Tôi giết , lương tâm hề cắn rứt tôi vứt bỏ tên độc địa kinh tởm nhất. Thằng con trai chạy lại, tôi kịp trốn vào rừng, nhưng buộc phải quay lại để nhặt chiếc áo bành tô đánh rơi... Đó là hoàn toàn, thưa các ngài, tất cả những gì xảy ra chỉ có thế.
      - Tôi kết tội ngài. - Holmes thủ thỉ, trong khi lão già ký vào tờ khai. - Tôi thiết nghĩ chúng tôi phải đưa chuyện này ra tòa.
      - Tôi cầu mong như thế. Thưa ngài! Ngài giải quyết như thế nào?
      - Tình trạng sức khỏe của ngài quan trọng. Ngài biết đấy, sắp tới ngày phải có mặt tại phiên tòa. Tôi giữ kín lời thú nhận của ngài. Chỉ trong trường hợp McCarthy bị kết tội tôi mới buộc lòng phải sử dụng. Nếu ta trắng án, dù ngài còn sống hay chết ai biết điều bí mật của ngài. Nó chỉ ở trong chúng tôi và ngài.
      - Xin tạm biệt! - Ông già trịnh trọng . - Khi nào đến lúclâm chung, tôi nhõm với ý nghĩ là ngài xoa dịu tâm hồn tôi.
      Lảo đảo đứng lên, tấm thân đồ sộ rung rung, ông già chậm chạp nặng nề bước ra khỏi phòng, chân cà nhắc.
      - Chúng ta bất hạnh - Holmes thốt lên sau hồi im lặng khá lâu. - Vì sao số phận cứ đùa giỡn với tạo hóa lại giúp đỡ những con người khốn khổ này?
      Phiên tòa trung thể xử trắng án cậu thanh niên James McCarthy nhờ những dẫn cứ, biện luận hùng hồn của Holmes. Ngài Turner già yếu sống thêm được bảy tháng nữa kể từ khi đến gặp chúng tôi. nay ông ta khuất. Chàng và Alice có thể sống yên vui hạnh phúc mà hề biết gì về những đám mây ảm đạm của bầu trời dĩ vãng xa xôi.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :