Những bí ẩn của sa mạc - Frederik Forsythe [Bí ẩn]

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      NHỮNG BÍ CỦA SA MẠC - FREDERIK FORSYTHE


      [​IMG]


      Tác Giả : Frederik Forsythe

      Thể Loại : Tiểu Thuyết

      Dịch Giả : Hồng Vũ





      Trích đoạn:

      Người đàn ông còn mười phút để sống phá lên cười. Nguồn gốc vui vẻ của ông là câu chuyện do trợ lý Monique Jaminé kể khi lái xe đưa ông từ văn phòng về nhà trong buổi tối lạnh lẽo, có mưa phùn ngày 22 tháng Ba năm 1990 .

      Chuyện về đồng nghiệp chung của cả hai người tại văn phòng Hãng Nghiên cứu vũ trụ phố Stalle, người đàn bà trông y như rắn độc, kẻ ăn tươi nuốt sống đàn ông, lại hoá ra là kẻ đồng tính. Người đàn ông thấy tức cười vì lừa phỉnh đó.

      Hai người rời văn phòng ở ngoại ô Uccle thành phố Brussels nước Bỉ vào lúc 7 giờ kém 10 phút; Monique lái chiếc Renault 21 thân dài. Vài tháng trước bán chiếc Volkswagen của ông chủ vì ông là tay lái rất tồi, sợ ông gặp nguy hiểm nếu tự lái xe lấy. Chỉ mất 10 phút- ôtô từ văn phòng về căn hộ của ông ở khu nhà cao tầng nằm giữa tổ hợp ba toà nhà mang tên Cheridreu ở phố Francois Folie. nhưng dọc đường họ còn dừng lại tại cửa hàng bánh. Cả hai vào và ông mua chiếc pain de campagne mà ông rất thích ăn. Trời đổ mưa; họ cúi đầu chạy thẳng ra xe, hay biết có chiếc xe bám theo. dễ thấy điều này. hề nổi bật trong dòng xe cộ, chiếc xe bình thường với hai người râu cằm đen rậm rì theo dõi nhà khoa học từ nhiều tuần nay, lúc nào để mất hút ông, nhưng bao giờ lại gần ông - họ chỉ quan sát; và ông trông thấy họ. Những người khác có, nhưng ông hề hay biết.

      Ra khỏi hiệu bánh nằm ngay trước nghĩa trang, ông nhét chiếc bánh vừa mua vào băng ghế sau và trèo lên xe tiếp chặng đường về nhà. Vào lúc 7 giờ 10 phút, Monique dừng xe trước những cánh cửa kính phẳng lỳ của toà nhà, cách đường phố 15 mét. để lên với ông để tận mắt yên tâm thấy ông vào nhà, nhưng ông từ chối. Ông đoán người tình của mình, Helene, đến và muốn hai người đàn bà chạm mặt nhau. ông luôn rằng Helene chỉ là người bạn tốt, làm bạn với ông khi ông ở Brussels còn vợ ông ở Canada, nhưng nhân viên kiều diễm thừa biết ông chỉ tránh trớ thế thôi.​

    2. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      CHƯƠNG 1


      Người đàn ông còn mười phút để sống phá lên cười. Nguồn gốc vui vẻ của ông là câu chuyện do trợ lý Monique Jaminé kể khi lái xe đưa ông từ văn phòng về nhà trong buổi tối lạnh lẽo, có mưa phùn ngày 22 tháng Ba năm 1990.

      Chuyện về đồng nghiệp chung của cả hai người tại văn phòng Hãng Nghiên cứu vũ trụ phố Stalle, người đàn bà trông y như rắn độc, kẻ ăn tươi nuốt sống đàn ông, lại hoá ra là kẻ đồng tính. Người đàn ông thấy tức cười vì lừa phỉnh đó.

      Hai người rời văn phòng ở ngoại ô Uccle thành phố Brussels nước Bỉ vào lúc 7 giờ kém 10 phút; Monique lái chiếc Renault 21 thân dài. Vài tháng trước bán chiếc Volkswagen của ông chủ vì ông là tay lái rất tồi, sợ ông gặp nguy hiểm nếu tự lái xe lấy. Chỉ mất 10 phút- ôtô từ văn phòng về căn hộ của ông ở khu nhà cao tầng nằm giữa tổ hợp ba toà nhà mang tên Cheridreu ở phố Francois Folie. nhưng dọc đường họ còn dừng lại tại cửa hàng bánh. Cả hai vào và ông mua chiếc pain de campagne mà ông rất thích ăn. Trời đổ mưa; họ cúi đầu chạy thẳng ra xe, hay biết có chiếc xe bám theo. dễ thấy điều này. hề nổi bật trong dòng xe cộ, chiếc xe bình thường với hai người râu cằm đen rậm rì theo dõi nhà khoa học từ nhiều tuần nay, lúc nào để mất hút ông, nhưng bao giờ lại gần ông - họ chỉ quan sát; và ông trông thấy họ. Những người khác có, nhưng ông hề hay biết.

      Ra khỏi hiệu bánh nằm ngay trước nghĩa trang, ông nhét chiếc bánh vừa mua vào băng ghế sau và trèo lên xe tiếp chặng đường về nhà. Vào lúc 7 giờ 10 phút, Monique dừng xe trước những cánh cửa kính phẳng lỳ của toà nhà, cách đường phố 15 mét. để lên với ông để tận mắt yên tâm thấy ông vào nhà, nhưng ông từ chối. Ông đoán người tình của mình, Helene, đến và muốn hai người đàn bà chạm mặt nhau. ông luôn rằng Helene chỉ là người bạn tốt, làm bạn với ông khi ông ở Brussels còn vợ ông ở Canada, nhưng nhân viên kiều diễm thừa biết ông chỉ tránh trớ thế thôi.

      Ông ra khỏi xe, cổ áo bành tô như mọi khi vẫn dựng lên, đeo vai cái túi to luôn ở cạnh ông. Nó nặng hơn 15 kilô và chứa hàng núi giấy tờ: báo khoa học, các dự án, tính toán, và tài iệu. Nhà khoa học tin tưởng vào bất cứ biện pháp an toàn nào và nghĩ, cách rất phi lôgic, rằng mọi chi tiết của các dự án mới nhất được an toàn hơn nếu được đeo vai như thế này.

      Đó là lần cuối Monique trông thấy ông chủ mình, ông đứng trước những cánh cửa kính, cái túi to đeo vai, cái bánh kẹp dưới nách, lùng sục trong túi để tìm chìa khoá. nhìn ông qua các cánh cửa và cánh cửa bằng kính tự động đóng lại sau ông. Rồi lái xe .

      Nhà khoa học sống ở tầng 6 của toà nhà 8 tầng. Hai thang máy lên xuống bức tường phía sau toà nhà, xung quanh có các cầu thang, ở mỗi chiếu nghỉ đều có cửa thoát hiểm. Ông dùng trong hai thang máy đó và bước ra ở tầng thứ 6. Những ngọn đèn mờ tỏ của hành lang tự động sáng lên khi ông bước ra. Ông vẫn lùng sục tìm chìa khoá, hơi chùng người xuống vì trọng lượng của cái túi, nách cắp theo chiếc bánh, ông rẽ trái hai lần rồi qua tấm thảm màu nâu đậm và cố nhét chìa khoá vào lỗ khoá cửa căn hộ của mình.

      Tên giết người rình sẵn ở cái hành lang tối. lặng lẽ rút khẩu giảm thanh 7,65 ly của mình. Khẩu Beretta tự động, gói trong túi nylon để tránh vỏ đạn rơi xuống thảm.

      5 phát súng, được bắn từ khoảng cách chưa đầy mét vào sau đầu và cổ, là quá thừa. Người đàn ông to lớn, bệ vệ đổ ập vào cảnh cửa và trượt xuống thảm. Tay sát thủ buồn kiểm tra ông chết hay chưa; chẳng cần phải làm thế. tập nhiều với các tù nhân làm bia rồi, và biết công việc của mình hoàn thành. nhàng chạy xuống 6 tầng gác, ra khỏi toà nhà từ phía sau, cắt ngang những khu vườn đầy cây, và đến chiếc xe đợi sẵn. Trong giờ nữa hẳn có mặt ở sứ quán nước , và ngày sau rời khỏi Bỉ.

      5 phút sau Helene lên đến nơi. Thoạt nhìn nghĩ người tình bị lên cơn đau tim. Trong cơn lo lắng bỏ ông đó chạy gọi y sĩ. Rồi nhớ ra bác sĩ riêng của ông cũng sống trong toà nhà này, bèn báo luôn cho ông. Các y sĩ đến trước. trong số họ cố nâng thân hình nặng nề của ông lên, vẫn úp mặt xuống đất. Tay người đàn ông rút ra đầy máu. Mấy phút sau ta và bác sĩ thông báo nạn nhân chết. Người ở cùng tầng duy nhất ra, đó là bà già nghe buổi hoà nhạc cổ điển và biết điều xảy ra sau cánh cửa dày của nhà mình. Cheridreu là kiểu nhà như thế, rất kín đáo.

      Người đàn ông nằm sàn là tiến sĩ Gerald Vincent Bull: thiên tài ngây thơ, nhà thiết kế súng cho toàn thế giới, và từng là người cung cấp vũ khí cho Saddam Hussein của Iraq. Sau cái chết của tiến sĩ Gerry Bull, số việc lạ thường xảy ra toàn châu Âu. Ở Brussels, cơ quan phản gián Bỉ nhận thấy trong vài tháng Bull bị theo dõi gần như hàng ngày bởi nhiều chiếc xe hơi, bên trong là hai người da ngăm đen, có vẻ ngoài của người Đông Địa Trung Hải.

      Ngày 11 tháng Tư, các quan chức hải quan ánh bắt được những tàu chở hàng ở Middlesborough 8 kiện chứa những ống thép lớn, được rèn và uốn rất đẹp, ở đầu có vành, có nhiều lỗ khoan để buộc dây chặt. Các quan chức hoan hỉ thông báo các ống này phải để chuyển đến nhà máy hoá dầu, như được ghi vận đơn và chứng từ xuất khẩu, mà là những phần của nòng súng khổng lồ do Gerry Bull vẽ mẫu cho Iraq. Câu chuyện về khẩu súng siêu đẳng sinh ra, và cứ thế lan , gợi ra những bàn luận, chú ý của các cơ quan tình báo, thờ ơ của giới quan chức, và giễu cợt của giới chính trị.

      Trong vài tuần, nhiều bộ phận của khẩu súng siêu đẳng bắt đầu xuất khắp châu Âu. Ngày 23 tháng Tư, Thổ Nhĩ Kỳ thông báo bắt được chiếc xe tải Hungary chở ống thép dài 10 mét cho Iraq, được cho là phần của nòng súng. Cùng ngày, các nhân viên Hy Lạp giữ chiếc xe tải khác với những linh kiện thép và giữ tay lái xe bất hạnh người trong nhiều tuần như kẻ đồng phạm. Tháng Năm người Italia bắt được 75 tấn phụ kiện, trong khi 15 tấn khác bị tịch thu ở công trường Fucine, gần Rome. Sau đó là hợp kim thép và titan để chế tạo khoá nòng, cũng như nhiều mảnh khác tại nhà kho ở Brescia, miền bắc Italia. Người Đức vào cuộc, với những phát ở Frankfurt và Bremerhaven, cũng được coi là các phần của Khẩu súng siêu đẳng giờ đây trở nên nổi tiếng toàn thế giới.

      Quả thực, Gerry Bull đặt sản xuất các chi tiết cho sản phẩm của mình. Các ống thép để chế tạo nòng súng được sản xuất ở bởi hai công ty, Walter Somers of Bermingham và Sheffield Forgemasters. Nhưng 8 ống bị giữ trong tháng Tư năm 1990 là những ống cuối cùng trong số 52 mảnh, đủ để ghép thành hai nòng súng dài 156 mét; cò súng có độ dài khó tin: 1 mét, có khả năng bắn quả đạn kích thước bằng bốt điện thoại. Giá súng đến từ Hy Lạp, còn các loại ống, pittông, van để chế tạo bộ phận giật từ Thụy Sĩ và Italia, khoá nòng từ Áo và Đức, thuốc nổ đẩy từ Bỉ. Tính toàn bộ, 7 nước có liên quan đến khẩu súng, và ai biết mình làm gì.

      Báo chí có ngày sôi nổi, khi các quan chức hải quan nóng vội cùng hệ thống luật pháp bắt đầu hăng hái điều tra các bên liên quan, và thấy rằng tất cả đều trong sạch. Điều ai biết là thực ra mọi việc hoàn tất. Những phần thu dược là để làm những khẩu Siêu đẳng 2,3 và 4.
      Về phần vụ ám sát Gerry Bull, báo chí vẽ ra số giả thuyết rất kỳ khôi. Thoắt cái CIA được đặt lại tên, thành CIA- chiu-trách-nhiệm-mọi-việc. Đó là phi lý. Mặc dù Langley trong quá khứ và trong những hoàn cảnh đặc biệt, từng cân nhắc việc loại trừ số phần tử, nhưng các phần tử đó phải là những kẻ phản bội hoặc các điệp viên hai mang. Lời đồn đại cho rằng Langley đầy ắp xác của các nhân viên cũ bị chính đồng nghiệp mình hạ sát theo lệnh của các ngài giám đốc ham mê giết chóc nghe bùi tai nhưng hoàn toàn có cơ sở.

      Hơn nữa, Gerry Bull phải người của thế giới bí mật đó. Ông là nhà khoa học có tiếng tăm, nhà sáng chế, nhà thầu vũ khí pháo binh, công dân Mỹ từng làm việc cho nước Mỹ nhiều năm và luôn thẳng thắn về mọi chuyện với những người bạn trong quân đội Mỹ của mình. Nếu tất cả các nhà sáng chế và nhà công nghiệp trong ngành vũ khí từng làm việc cho đất nước khi đó bị coi là kẻ thù của Mỹ đều bị "thanh toán", ít nhất danh sách phải lên tới 500 người, từ Bắc đến Nam Mỹ cũng như châu Âu.

      Và cuối cùng, trong mười năm qua Langley bị khoá kín bởi bộ máy kiểm soát mới và những hội đồng quá nhiều quyền hạn. sĩ quan phản gián chuyên nghiệp nào được phép làm việc gì nghiêm trọng mà có lệnh bằng văn bản ký tên cẩn thận. Để "thi hành án". người như Gerry Bull, cần đến chữ ký của chính Giám đốc Cục Phản gián Trung ương (DCI). Giám đốc DCI vào thời gian đó là William Webster, người theo lý lịch là cựu thẩm phán bang Kansas. Rất dễ dàng có được giấy phép có chữ ký của William Webster như là mượn Marion với cái thìa uống trà

      Nhưng dù thế nào nữa đáng khả nghi nhất trong những kẻ có thể giết Gerry Bull, dĩ nhiên, là cơ quan Mossad của Irsael. Toàn thể báo chí và bạn bè cũng như gia đình Bull đều đến kết luận đó. Bull làm việc cho Iraq; Iraq là kẻ thù của Israel; hai với hai là bốn. Cái khó là trong thế giới của những bóng ma và những tấm gương dị hình này, hai nhân với hai lại nhất thiết bằng bốn.

      Mossad là cơ quan phản gián nhất thế giới, tàn độc nhất, và hay dùng trò súng ống nhất. nghi ngờ gì nữa, trong quá khứ nó tiến hành nhiều vụ ám sát, sử dụng trong số ba đội kidonim của mình - từ trong tiếng Hebrew để chỉ lưỡi lê. Các kidonim nằm dưới chỉ đạo của các chiến binh Sư đoàn Komemiut, những người rất bí , đội hành quyết tàn bạo. Nhưng ngay cả Mossad cũng có những nguyên tắc của mình. Hai loại người thường bị cho vào tầm ngắm: là "đòi hỏi tác chiến",ai đó làm ảnh hưởng đến tính mạng nhiều người khác trong hoạt động tác chiến nhất định phải bị nhanh chóng loại bỏ. Trong những trường hợp đó, viên katsa điều hành, hay chỉ huy trực tiếp, có quyền thanh toán thành phần làm hỏng việc, và có được hậu thuẫn của những ông chủ của mình ở Tel Aviv.

      Loại thứ hai nằm trong danh sách hành quyết có sẵn. Danh sách này nằm ở hai địa điểm: tủ an toàn của thủ trưởng và tủ an toàn ở trụ sở của Mossad. Mọi người sắp trở thành thủ tướng đều được cầu xem danh sách này, danh sách có thể có từ ba mươi đến tám mươi cái tên. Ông ta có thể chỉ cái tên nào đó, giao cho Mossad quyền xử lý, hoặc có đòi được biết trước trong mỗi phi vụ. Ông ta phải ký lệnh cho mỗi vụ hành quyết. Những người nằm trong danh sách này rơi vào ba hạng. Vài kẻ là những tên phát xít đầu sỏ còn lại, dù hạng này nay gần như còn nữa. Những năm trước đây, Israel lên kế hoạch lớn bắt cóc và xử lý Adolf Eichmann để lấy lão làm gương cho toàn thế giới, tuy vậy những tên Nazi khác lại bị thanh trừng rất êm . Hạng hai phần lớn là những tên khủng bố sống, nhất là những kẻ A rập từng gây đổ máu cho người Do Thái hay người Israel như Ahmed Jibril và Abu Nidal, cộng với những đối tượng có ý đồ gây đổ máu và trong đó ít phải người A rập. Hạng thứ ba, có thể chứa cái tên Gerry Bull, là những người làm việc cho các kẻ thù của Israel và công việc của họ có thể gây ra nguy hiểm lớn cho Israel và những công dân nước này nếu được tiếp tục.

      Việc ám sát thường chỉ được tiến hành đối với những kẻ có vấy máu tay, hoặc vấy máu trong tương lai. Nếu tình hình cấp bách, thủ tướng giao vấn đề cho nhà điều tra tư pháp hết sức bí mật. số ít nhà luật Israel mà công dân nào từng nghe đến. Viên thanh tra tổ chức "toà án", có mặt kẻ chịu trách nhiệm, người thi hành, và người bảo vệ. Nếu cầu của Mossad được chấp nhận, tờ lệnh được.trình Thủ tướng để lấy chữ ký của ông này. Đội kidon làm phần còn lại - nếu nó có thể.

      Vấn đề với giả thuyết Mossad-giết-Bull là ở chỗ nó có chỗ hở ở hầu như mọi cấp độ. Quả đúng là Bull từng làm việc cho Saddam Hussein, vẽ mẫu cho những khẩu pháo lớn mới (có thể để bắn tới Israel), chương trình rocket (có thể, ngày kia). Và khẩu súng khổng lồ ( làm Israel lo lắng mảy may). Nhưng có hàng trăm người như thế. tá công ty Đức đứng sau công nghệ chất khí độc của Iraq làm ra những loại sản phẩm mà Saddam dùng để đe doạ Israel. Người Đức và người Brasil là những người đầu và những người ủng hộ nghiên cứu bom nguyên tử của lraq.

      rằng những ý tưởng, mẫu vẽ, hoạt động và tiến triển của Bull khiến Israel quan tâm sâu sắc, hẳn nhiên là sai. Tiếp sau cái chết của ông người ta biết rằng trong những tháng trước đó ông lo lắng bởi những vụ đột nhập liên tục vào căn hộ của ông khi ông vắng. bị lấy thử gì, nhưng những dấu vết còn lại. Chai lọ bị dịch chuyển và đổi chỗ: các cửa sổ bị để mở; băng video bị quay ngược và bị lôi ra khỏi máy. Liệu ông được báo trước, ông suy nghĩ, và liệu Mossad có đứng sau mọi chuyện đó? Họ cảnh báo ông - nhưng với nguyên do khó thấy hơn.

      Thêm nữa, những người lạ mặt râu cằm màu đen với giọng giật cục theo ông khắp Brussels được các phương tiện thông tin đại chúng xác nhận là những tay sát thủ người lsrael chuẩn bị thời điểm của mình. may cho giả thuyết ấy các nhân viên của Mossad bao giờ vờn quanh để nhìn ngó và hành động kiểu gà mờ như thế. Họ mà có mặt ai có thể thấy họ hết; kể cả Bull, những người bạn của là đình ông và cảnh sát Bỉ. Họ tới Brussels cải trang giống với người châu Âu - Bỉ. Mỹ. nghĩa là mọi loại người họ muốn. việc diễn ra như vậy nên ràng là Bull bị nhóm khác theo dõi.

      đặc điểm nữa, Gerry Bull là người ít kín đáo đến lạ thường. Ông bao giờ có thể cưỡng lại được trước lời thách thức. ông làm việc cho Israel trước đó. thích đất nước 'và con người ở đó, có nhiều bạn trong quân đội Israel. Và thể giữ im lặng được. Bị thách thức bằng câu đại loại: "Gerry, tôi cá bao giờ làm các tên lửa ở Saad hoạt động được" là Bull có thể hăng hái độc thoại suất ba tiếng đồng hồ để miêu tả cặn kẽ điều ông làm, dự án đến đâu, vấn đề nằm ở đâu, và ông hy vọng giải quyết chúng bằng cách nào - nghĩa là toàn bộ. Với cơ quan tình báo, ông là cả mỏ vàng để khai thác. Ngay cả trong tuần cuối cùng của đời mình ông cũng giải trí cho hai vị tướng Israel ở văn phòng của mình, đưa cho họ bức ảnh hoàn toàn mới mẻ, và bị ghi bởi các thiết bị trong cặp của họ. Tại sao họ lại muốn tiêu diêt kho thông tin quý như thế?

      Cuối cùng, Mossad có thới quen xử với nhà khoa học hay nhà công nghiệp khác hẳn với tên khủng bố. Họ luôn có thông báo cuối cùng trước đó; phải là những kiện như dịch chuyển chai lọ hay quay ngược băng video, mà là lời báo trước bằng miệng. Chẳng hạn chuyện xảy đến với Yahin El Meshad, nhà vật lý nguyên tử người Ai Cập làm việc cho lò phản ững nguyên tử đầu tiên của Iraq và bị ám sát trong căn phòng của ông ở khách sạn Meridien, Paris ngày 13 tháng Sáu năm 1980. katsa nới tiếng Arập đến phòng ông và thẳng điều gì sẻ xảy đến với ông nếu ông lùi bước. Người Ai Cập đuổi thẳng cổ người lạ mặt, cử chỉ thiếu khôn ngoan. Hai giờ sau, Meshad chết. Nhưng ông ta có cơ hội của mình. năm sau, toàn bộ khu sản xuất nguyên tử Osirak 1 và 2 do Pháp giúp làm bị lực Israel phá tan.

      Bull khác hẳn - công dân Mỹ sinh ở Canada, tài năng, dễ tiếp cận, tay nốc whisky thành thần. Người lsrael luôn có thể chuyện với ông như người bạn. thẳng với người bạn là ta phải dừng lại nếu đội hành quyết đến là việc dễ nhất đời.

      Bull khác hẳn- công dân Mỹ sinh ở Canada, tài năng, dể tiếp cận, tay nốc Whisky thành thần. Người Israel luôn có thể chuyện với ông như người bạn. thẳng với người bạn là ta phải dừng lại nếu đội hành quyết đến là việc dễ nhất đời.

      Bull thuộc hạng những người được gắn huân chương sau khi chết. Hơn nữa, ông với người lsrael và người bạn thân George Wong rằng ông muốn thoát khỏi mọi ràng buộc với Iraq. ông chán. Việc xảy đến với tiến sĩ Gerry Bull là điều gì đó khác hẳn.

      Gerald Vincent Bull sinh năm 1928 ở North Bay, Ontario. Ở trường cậu bé thông minh và được khích lệ để thành công toàn thế giới. Mười sáu tuổi cậu tốt nghiệp trung học, nhưng vì còn quá trẻ nên chỉ có trường nhận cậu vào học- là Đại học tổng hợp Toronto, khoa cơ khí. Tại đó cậu tỏ ra chỉ thông minh mà còn xuất chúng. Hai mươi hai tuổi Bull trở thành tiến sĩ trẻ nhất trong lịch sử. Ngành chế tạo máy hay thu hút trí tưởng tượng của , đặc biệt là tên lửa - nghiên cứu các vật thể, dù là đường đạn hay tên lửa, bay. Chính nó dẫn đến với pháo binh. Sau Toronto, tham gia ngành quân giới Canada và Cơ quan phát triển nghiên cứu CARDE ở Valcartier, hồi đó còn là thành phố tĩnh lặng ngoài rìa thành phố Quebec. Những năm đầu thập niên 1950 con người chỉ hướng cái nhìn lên vũ trụ mà còn ngay khoảng đầu mình. Tên lửa trớ thành quan trọng. Chính khi đó Bull chứng tỏ tài năng vượt xuất sắc về kỹ thuật. nhà sáng tạo tuyệt vời khuôn mẫu, và đầy tưởng tượng. trải qua mười năm ở CARDE để phát triển ý tưởng của mình, và suốt đời theo đuổi giấc mơ đó.

      Cũng như mọi ý tưởng mới, ý tưởng của Bull có vẻ khá đơn giản. Khi quan sát nổi trội của tên lửa Mỹ những năm cuối thập niên 50, nhận ra chín phần mười những tên lửa đầy ấn tượng đó mới chỉ là tầng thứ nhất. tầng đó cần có tầng thứ hai và thứ ba với kích thước hơn nhiều, và cùng, còn hơn nữa, là đầu đạn.
      Tầng đầu tiên khổng lồ được làm ra để đưa tên lửa lên độ cao đầu tiên 150 km trung, nơi bầu khí quyển dày nhất và trọng lực là lớn nhất. Sau mốc 150 km, chỉ cần tốn ít năng lượng hơn nhiều để có thể đưa vệ tinh lên tận vũ trụ, và lên quỹ đạo ở vào giữa 400 và 500 km phía trái đất. Mỗi lần tên lửa được phóng lên, toàn bộ tầng thứ nhất nặng nề và rất đắt tiền đều bị phá huỷ - bị đốt cháy, để rồi rơi xuống nằm vĩnh viễn tại các đại dương.

      Bull đặt ra câu hỏi liệu có thể đẩy tầng thứ hai và tầng thứ ba, cộng thêm đầu đạn, lên 150 km đầu tiên từ nòng khẩu súng khổng lồ? lý thuyết, ông đồng ý với những người trả tiền, điều đó là có thể, dễ hơn, và rẻ hơn, hơn thế khẩu súng có thể được sử dụng rất nhiều lần. Đó là lần đầu tiên ông đối mặt với các chính trị gia và những kẻ quan liêu, và ông thất bại. chủ yếu là do cá tính của mình. Ông ghét họ, và họ ghét ông. Nhưng vào năm 1961 ông gặp may. Trường Đại học Tổng hợp McGrill đến vì họ thấy trước được tính hấp dẫn của dự án. Quân đôi Mỹ cũng xuất với những lý do của riêng mình; pháo binh Mỹ ở trong cuộc chơi sức mạnh với quân: đội quân chiếm quyền kiểm soát mọi tên lửa hay hoả tiễn bay cao hơn 100 km. Với ngân sách phối hợp của họ, Bull có khả năng xây dựng cơ sở nghiên cứu đảo Barbados. Quân đội cho ông nòng khẩu 16-inch của thuỷ quân còn dùng đến nữa (nòng súng lớn nhất thế giới), cái nòng hiếm hoi. đơn vị dò sóng radar, bệ pháo, và vài xe tải.

      McGrill dựng lên xưởng kim loại. Nó làm ra vẻ cố đoạt giải thưởng lớn trong ngành công nghiệp với những thiết bị của garage ở nơi khuất. Nhưng Bull thực được. nghiệp của những phát minh đầy mê hoặc của ông bắt đầu, khi ông mới 33 tuổi: rụt rè, ít , đầy óc sáng tạo, và vẫn là tay phù thuỷ.

      Ông gọi nghiên cứu của mình ở Barbados là Dự án nghiên cứu độ cao, hay HARP. Khẩu súng cũ của hải quân được dựng lại cẩn thận, và Bull bắt tay vào làm việc với các hoả tiễn. ông gọi chúng là Martlet, theo tên của con chim đưa tin xuất biểu trưng của trường McGrill. Bull muốn đưa lượng chất nổ của các dụng cụ vào quỹ đạo trái đất rẻ hơn và nhanh hơn bất kỳ ai khác. Ông biết rất ai có thể chịu đựng được sức ép khi được bắn ra từ khẩu súng, nhưng ông phán đoán đúng rằng trong tương lai chín mươi phần trăm nghiên cứu khoa học và công việc trong vũ trụ có thể được làm bằng máy móc, chứ phải bằng con người. Nước Mỹ dưới thời Kennedy, tức mình bởi chuyến bay của người Nga Yuri Gagarin, theo đuổi từ Cape Canaveral những thử nghiệm tinh tế hơn nhưng cuối cùng lại đạt được kết quả cao với chuột, chó, khỉ, và thậm chí cuối cùng là người. Còn ở Barbados, Bull bắt tay làm khẩu súng độc nhất vô nhị của mình và những hoả tiễn Martlet. Năm 1964 ông cho ra lò quả Martlet bay cao được 92 km, sau đó thêm vào được 10 mét vào nòng súng của khẩu súng của mình (chỉ tốn có 41.000 đôla). làm thành nòng súng dài 36m - dài nhất thế giới. Với nòng súng đó, ông đại được độ cao 150 km với trọng lượng thuốc nổ 180 kg.

      Ông giải quyết được các vấn đề nảy sinh. vấn đề quan trọng trong đó là thuốc đẩy. Trong khẩu súng thuốc nổ cung cấp cho hoả tiễn chỉ cú đập mạnh là chuyển từ trạng thái rắn sang khí trong phần triệu giây. Khí cố thoát ra khỏi sức nén nhưng có đường ra nào khác ngoài nòng súng, đẩy quả đạn lên trước. Nhưng với nòng súng dài như Bull tạo ra, nòng súng đặc biệt, thuốc đẩy nổ chậm là cần thiết để làm tung nòng súng ra. Ông cần có chất bột có thể đẩy quả hoả tiển lên cái nòng dài ngoằng đó, với gia tốc ổn định. Ông vẽ kiểu cho khẩu súng đó.

      Năm 1966, những đối thủ cũ của Bull trong số các quan chức Bộ Quốc phòng Canada muốn có được ông, họ thúc ông bộ trưởng xuất tiền để tài trợ. Bull phản đối việc chỉ trả phần mà Cape Canaveral chi ra cho công việc của ông. có khả năng. Để bảo vệ quyền lợi của mình, quân đội Mỹ chuyển Bull từ Barbados đến Yuma, bang Arizona. Ở đây, vào tháng Mười cùng năm, ông bắn được trọng tải lên độ cao 180 km, kỷ lục đứng vững trong suốt hai mươi nhăm năm. Nhưng vào năm 1967, Canada rút lui hoàn toàn, cả Chính phủ cũng như đại học tổng hợp McGrill. Quân đội Mỹ bèn tiếp chân. HARP bị bỏ lửng. Bull tự mình dựng lên cơ sở tư vấn ở trụ sở ông mua ở Highwater ở ven Vermont ở về phía bắc và nước Canada quê hương ông. Ông đặt tên công ty của mình là Hãng Nghiên cứu vũ trụ.

      Vào năm 1990. để phóng mỗi kilôgam dụng cụ vào vũ trụ tốn mất mười nghìn đôla với chương trình Con thoi Vũ trụ ở Cape Canaveral. Cho đến ngày chết , Bull biết là ông có thể phóng kilo với giá chỉ có 600 đôla. Vào năm 1988, công việc bắt đầu với dự án mới ở Phòng thí nghiệm quốc gia quốc gia Lawrence Livermore ở California. Dự án liên quan đến khẩu súng khổng lồ, nhưng cho đến lúc đó với nòng súng chỉ có rãnh nòng bốn inch và nòng súng chỉ dài năm mươi mét. Cuối cùng, và với chi phí hàng trăm triệu đôla, có thể hy vọng nóng súng lớn, lớn hơn rất nhiều, để bắn các trọng lương khác nhau vào vũ trụ . Dự án có tên là Dự án nghiên cứu siệu độ cao, hay SHARP.

      Gerry Bull sống và tiếp tục tìm tòi của mình ở Highwater trong khoảng mười năm. Trong quãng thời gian đó ông bỏ rơi giấc mơ làm khẩu súng có thể bắn trọng lượng lên vũ trụ và tập trung vào lĩnh vực chuyên môn thứ hai của mình - pháo binh chính quy, lĩnh vực có hiệu quả cao hơn nhiều. Ông bắt đầu với bài toán chủ yếu: gần như mọi quân đội thế giới đều dựa pháo binh của mình loại tên lửa đạn đạo howitzer 155 ly. Bull biết rằng trong cuộc đấu pháo, bên nào bắn được tầm xa hơn là người chiến thắng. ta có thể ngồi ở đằng sau và đuổi quân địch hề chịu thiệt hại gì . - Bull được chỉ định để tăng tầm bắn và tăng độ chính xác cho súng mặt đất 155 ly. ông bắt đầu với đạn dược. Điều này được thử trước đây, nhưng ai thành công cả. Trong vòng bốn năm Bull làm được điều đó. _

      Trong những lần kiểm tra thử nghiệm, quả đạn do Bull chế tạo bay được cùng quãng đường trong nửa thời gian với cùng khẩu 155 ly chuẩn, chính xác hơn, và nổ với cùng lượng thuốc nổ thành 4700 mảnh so với 1350 mảnh của đạn NATO. NATO chú ý lắm. Nhờ Chúa mà Liên Xô cũng chú ý.

      Thất vọng, Bull lại tiếp tục cải tiến, làm ra quả đạn có tầm xa hơn hẳn. NATO vẫn chú ý, thích dừng lại với những vũ khí truyền thống của mình và những quả đạn tầm ngắn hơn.

      Nhưng nếu những quyền lực lớn để mắt đến, phần còn lại của thế giới lại chú ý. Những phái đoàn quân để dồn đến Highwater để nhờ Gerry Bull cố vấn. Trong đó có Israel (chính vào thời gian đó mà ông củng cố những tình bạn bắt đầu với những gì từng ở Barbados, Ai Cập, Venezuela, Chilê, và Iran. ông cũng trở thành cố vấn về các vấn đề pháo binh khác cho , Hà Lan, Italia, Canada, và Mỹ, mà các nhà khoa học quân (nếu phải là Lầu Năm góc) tiếp tục nghiên cứu với những quan tâm ngày càng tăng.

      Năm 1972, Bull gần như trở thành công dân Mỹ. Năm tiếp theo, ông bắt đầu làm việc với khẩu 155 rãnh nòng đối đất nay. Trong hai năm ông có bước đột phá mới, phát rằng chiều dài lý tưởng cho nòng súng là ngắn hơn dài hơn bốn mươi nhăm lần cỡ nòng của nó. ông hoàn thiện mẫu mới của khẩu 155 đối đất tiêu chuẩn và gọi nó là GC (viết tắt của Gun Caliber) - cỡ nòng 45. Khẩu súng mới, với những quả đạn tầm xa hơn, có thể trở thành vũ khí của bất kỳ pháo binh nào trong tất cả các kho vũ khí của Cộng sản. Nhưng nếu ông trông mong những hợp đồng, ông phải thất vọng. lại thêm lần nữa, Lầu Năm góc vẫn tiếp tục mẫu súng cũ và ý tưởng mới của mình về những quả đạn đối tên lửa với giá gấp tám lần mỗi quả. thực là hai loại đạn này giống hệt nhau.

      Bull bị thất sủng vào năm 1976 khi ông được CIA mời đến giúp nâng cấp pháo binh và các quả đạn của Nam Phi, nước đánh nhau với Cuba được Matxcơva hậu thuẫn tại Angola. Bull chỉ là tay mơ hồ về chính trị - ở mức khó tưởng nổi. Ông đến đó, thấy thích Nam Phi, và hợp tác chặt chẽ với họ. Ông mảy may quan tâm đến chế độ Apartheid ở đây. Ông giúp họ thiết kế lại pháo binh theo những hướng của khẩu howitzer tầm xa nòng dài GC-45 ngày càng được ưa chuộng. Sau đó, Nam Phi sản xuất được loại riêng của mình, và chính những nòng súng nghiền nát pháo binh Xô viết, đẩy lui người Nga và Cuba.

      Quav trở về Mỹ, Bull tiếp tục cho ra lò những quả đạn của mình. Tuy nhiên, vào năm 1977, Liên Hợp Quốc ấn định lệnh cấm vận vũ khí đối với Nam Phi, và sau đó Jimmy Carter trở thành tổng thống, Bull bị bắt và bị buộc tội xuất khẩu trái luật vào chế độ bị cấm. CIA dần ông trận tơi bời. Ngày 16 tháng Sáu năm 1980, toà án ớ Mỹ kết án Buii năm tù, với sáu tháng tù treo, và phải nộp 105.000 đôla. Ông thực phải ngồi nhà đá bốn tháng mười bảy ngày ở nhà tù Allewood ở Pennsylvania. Nhưng với Bull điều đó khóng nghĩa gì. Ông cảm thấy hổ thẹn và cay đắng, cộng thêm với cảm giác bị phản bội. Làm sao họ có thể làm thế với ông? Ông tự hỏi, ông giúp nước Mỹ mọi việc mà ông có thể, mang quốc tịch nước này, theo tiếng gọi của CIA. Trong khi ông Ở Allenwood, công ty của ông, hãng nghiên cứu vũ trụ, bị phá sản và đóng cửa. ông lụn bại.

      Ra khỏi tù ông rời Mỹ và Canada vĩnh viễn, di tản sang Brussels và bắt đầu mọi thứ lại từ đầu trong căn hộ tồi tàn phòng với cái bếp . Sau nàv bạn bè kể lại là ông thay đổi sau vụ việc, bao giờ còn là người như trước được nữa. Ông bao giờ tha thứ cho CIA, và bao giờ tha thứ cho nước Mỹ; ông đấu tranh nhiều năm để phục hồi danh dự.

      Ông trở lại nghề tư vấn và tiếp tục đơn đặt hàng làm trước khi bị kết án: làm việc cho Trung Quốc để cải tiến pháo binh của họ. Qua những năm đầu và giữa thập kỷ 80 ông làm chủ yếu cho Bắc Kinh và thiết kế lại pháo binh của họ theo những tiêu chuẩn của súng đại bác GC-45 của mình. loại súng giờ đây được bán dưới bản quyền quốc tế của hãng Voest- Alpine của Áo, hãng mua lại quyền sáng chế của Bull trả trọn gói hai triệu đôla lần, Bull vẫn luôn là doanh nhân cỡ bự, hoặc ông có lẽ triệu phú.

      Trong khi Bull ở Trung Quốc, nhiều kiện xảy ra ở những nơi khác. Nam Phi sử dụng những mẫu của ông và phát trỉển thêm nhiều, tạo ra loại howitzer kéo dài được gọi là G-5 từ khầu GC-45 của ông và loại đạỉ bác tự hành tên là G-6. Cả hai có tầm bắn bốn mươi km với những quả đạn nặng hơn. Nam Phi bán chúng khắp thế giới. Vì kém quan hệ với người Nam Phi, Bull thu được đồng nào cho phát minh của mình.

    3. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      khách hàng của những khẩu súng này là có tên Saddam Hussein của Iraq. Chính những khẩu đại bác này bắn vào những đợt sóng người những tín đồ Irản trong cuộc chiến Iran-iraq kéo dài tám năm, cuối cùng đánh bại họ tại bãi lầy Fao. Nhưng Saddam Hussein thêm vào rãnh xóay, đặc biệt trong trận đánh ở Fao. Ông ta cho thêm khí vào các quả đạn.

      Khi đó Bull làm việc cho Tây Ban Nha và Nam Tư, chuyển pháo 130 ly sản xuất tại Liên Xô của quân đội Nam Tư cũ sang đại bác 155 ly với những quả đạn tầm xa hơn. Ông còn sống để nhìn thấy chúng trở thành những khẩu súng mà người Serb, thừa hưởng khi Nam Tư sụp đổ, bắn vào những thành phố của người Croat và người Hồi giáo trong cuôc nội chiến. Và năm 1987 ông biết được rằng Liên Xô có thể, sau mọi chuyện, nghiên cứu súng đại bác bắn trọng tải vào vũ trụ - nhưng với Gerry Bull việc đó hoàn toàn chấm dứt.

      Mùa đông đó ông nhận được cú điện thoại lạ thường từ đại sứ quán Iraq ở Bonn: tiến sĩ Bull có muốn đến thăm Baghdad với tư cách là khách mời của Iraq?

      Điều ông biết là vào giữa những năm 1980, Iraq chứng kiến Chiến dịch Staunch, cố gắng của Mỹ để chặn đứng mọi nguồn vũ khí nhập khẩu vào Iran. Điều này tiếp theo thảm kịch giữa hải quân Mỹ ở Beirut khi những tín đồ Herbollah được hậu thuẫn của Iran tấn công các trại lính của họ. Phản ứng của Iraq, mặc dù được hưởng lợi trong trận chiến với Iran từ Chiến dịch Staunch, là: nếu người Mỹ có thể làm điều đó với Iran, họ cũng có thể làm điều đó với chúng ta. Từ điểm đó, Iraq quyết định nhập khẩu phải là vũ khí mà là mọi công nghệ từ khắp nơi có thể được để chế tạo vũ khí cho riêng mình. Bull là nhà chế tạo đầu tiên và quan trọng hơn cả; họ quan tâm tới ông. Sứ mệnh tuyển ông được giao cho Amer Saadi, nhân vật thứ hai của Bộ Công nghiệp và Công nghiệp hoá quân , được biết đến với cái tên Mimi. Khi Bull đến Baghdad tháng Giêng năm 1988, Amer Saadi, nhà ngoại giao - nhà khoa học mềm dẻo, thông thạo tiếng , Pháp và Đức cũng như tiếng Arập, - Người Iraq, ông , muốn có giúp đở của Bull với giấc mơ của họ đưa những vệ tinh hoà bình lên vũ trụ . Để làm được điều đó họ phải có mẫu tên lửa có thể phóng trọng tải lên đó. Các nhà khoa học Ai Cập và Brasil của họ đề xuất bước đầu tiên là nên gắn chung với năm tên lửa Scud, mà Iraq mua chín trăm quả từ Liên Xô. Nhưng có những vấn đề về kỹ thuật, rất nhiều vấn đề. Họ cần có được siêu máy tính. Liệu Bull có thể giúp họ hay ?

      Bull những bài toán - chúng là lẽ sống của ông. Ông làm ra siêu máy tính, nhưng bằng sức lực của mình ông gần đạt được thứ tương tự. Bên cạnh đó, ông với Amer Saadi, nếu Iraq thực muốn là nước A rập đầu tiên phóng vệ tinh vàao vũ trụ, cách khác - rẻ hơn, đơn giản hơn, nhanh hơn các hoả tiễn ngay từ đầu. Hãy cho tôi tất cả những cái đó, người đàn ông Iraq . Thế là Bull . Ông , chỉ với ba triệu đôla ông có thể làm ra khẩu súng lồ bắn được tải trọng vào trung. Chương trình có thể mất năm năm. Ông có thể đánh gục những người Mỹ ở Livermore. Đó thắng lợi của người A rập. Tiến sĩ Saadi ngưỡng mộ nghe ông . Ông trình bày và tiến cử ý tưởng trước Chính phủ. Trong khi chờ, liệu tiến sĩ Bull có thể ngó qua pháo binh Iraq được ?

      Vào cuối chuyến viếng thăm tuần của mình, Bull đồng ý giải quyết các bài toán để kết hợp năm tên lửa Scud với nhau để tạo thành tầng thứ nhất của hoả tiễn xuyên lục địa hay loại súng bắn được vào gian; thiết kế hai thiết bị pháo binh mới cho quân đội; và đưa ra đề nghị chính thức cho Khẩu súng siêu đẳng bắn vật nặng vào vũ trụ của mình. Cũng như với Nam Phi, ông hề biết đến thực chất chế độ mà ông phụng . Bạn bè với ông Saddam Hussein là người giữ kỷ lục về những bàn tay đẫm máu nhất của Trung Đông Nhưng vào năm 1988 có hàng nghìn công ty đáng kính trọng và hàng chục chính phủ tỏ ra mơn trớn để được làm việc với Iraq nước chịu chi. Với Bull, Vấn đề chính là khẩu súng của ông, cái khẩu súng quý của ông, giấc mơ của cả đời ông, cuối cùng với người hậu thuẫn chuẩn bị giúp ông thực nó, và có chỗ trong điện thờ của các khoa học gia.

      Tháng Ba năm 1988, Amer Saadi gửi nhà ngoại giao đến Brussels để bàn bạc với Bull. Được, nhà thiết kế súng , ông bắt tay nghiên cứu những vấn đề kỹ thuật của tầng đầu tiên của quả tên lửa của Iraq. ông rất vui mừng nếu có thể giao chúng thông qua hợp đồng với công ty của ông, lần này vẫn lại mang tên SRC. Vụ buôn bán ngã giá. Người lraq nhận ra rằng giá ông đòi có ba triệu đôla cho khẩu súng là quá thấp: họ bèn nâng lên mười triệu nhưng đòi phải làm nhanh hơn.

      Khi Bull làm việc nhanh, ông làm việc nhanh đến khó tưởng, trong tháng ông hình thành được nhóm những nhà khoa học tự do giỏi nhất có thể tìm được. Đứng đầu nhóm Khẩu súng siêu hạng ở lraq là kỹ sư các dự án người có tên Christopher Cowley. Bản thân Bull cũng đẩy nhanh tiến độ dự án hoả tiễn, đặt ở Saad 16 Bắc lraq. Dự án Bird. Nhiệm vụ khẩu súng siêu hạng được mang tên Dự án Babylon.
      Vào tháng Năm, những số liệu chính xác của Babylon được đưa ra. Nó có thể là thứ máy móc thể tượng tượng nối. Cở nòng mét; chiều dài nòng lên tới 156 mét và nặng 1665 tấn - bằng trọng lượng bức tượng Washington. Bull thông báo cho Baghdad rằng ông có thể làm tiêu bản hơn, tiểu-babylon cỡ nòng 350 ly và chỉ nặng 130 tấn Nhưng trong đó ông có thể thử nghiệm những vật hình nón to cũng có thể hữu dụng cho dự án hoả tiễn. Người lraq thích cái đó - họ cũng cần công nghệ chóp nón.

      Có vẻ như lúc đó Gerry Bull nắm được ý nghĩa toàn bộ nồng nhiệt của Iraq đối với công nghệ chóp nón. Có thể, trong nhiệt tình vô bờ bến của ông được thấy giấc mơ của mình cuối cùng thành thực, ông coi nó. Những chóp nón của mẫu thiết kế rất tiên tiến là cần thiết để ngăn chặn trọng tải bùng cháy từ sức nóng lớn có trong khí quyển trái đất. Nhưng những trọng tải trong quỹ đạo vũ trụ trở lại; chúng ở mãi đó.

      Cuối tháng Năm 1988, Christopher Cowley đặt những đơn đặt hàng đầu tiên với Walter Somers của Birmingham cho những phần hình ống để làm nòng cho khẩu tiểu-babylon. Những phần cho những khẩu Babylon hoàn thỉnh l,2,3 và 4 đến sau đó. Những đơn đặt thép lạ thường khác được đặt khắp châu Âu

      Bước tiến mà Bull thực được khủng khiếp. Trong hai tháng ông làm được công việc mà công ty nhà nước phải mất đến hai năm. Cuối năm 1988, ông vẽ mẫu xong cho Iraq hai khẩu súng mới - những khẩu súng tự hành, để đối lại những khậu súng kéo được do Nam Phi tài trợ. Cả hai đều rất mạnh, chúng có thể vượt trội súng của các quốc gia lân cận như Iran, Thổ Nhĩ Kỳ, Jordan và Arập Xê-út, những nước mua súng từ NATO và Mỹ.

      Bull cũng giải quyết được các bài toán để nối năm tên lữa Scud vào với nhau để tạo thành tầng thứ nhất của hoả tiễn Bird, được gọi là Al-Abeid, tức "Tín đồ"'. Ông khám phá rằng những người Iraq và Brasil ở Saad 16 làm việc với số liệu sai, sản xuất bằng lò gió hoạt động kém. Sau đó, ông dựa những tính toán vừa xong và để những người Brasil sử dụng. Tháng Năm 1989 gần như toàn bộ ngành công nghiệp vũ khí của thế giới và giới truyền thông, cùng với các nhà quan sát và cơ quan phản gián của các chính phủ, đến dự cuộc triển lãm vũ khí lớn ở Baghdad. quan tâm lớn được thể đối với hai phiên bản làm mẫu của hai khẩu súng lớn. Vào tháng Chạp, tên lửa Al-Abeid được bắn thử trước chứng kiến của giới truyền thông đại chúng, rất được các nhà phân tích phương Tây theo dõi. Được các máy quay phim của truyền hình Iraq chiếu vào, hoả tiễn ba tầng lớn được nhô lên từ căn cứ nghiên cứu vũ trụ Al Anbar, trồi dần lên khỏi mặt đất, và biến mất. Ba ngày sau, Washington chấp nhận rằng quả hoả tiễn quả thực tỏ ra có khả nâng đẩy vệ tinh lên vũ trụ. Nhưng các nhà phân tích còn xa hơn thế. Nếu Al-Abeid có thể làm được vậy, nó cũng có thể là tên lửa đạn đạo xuyên lục địa. Đột nhiên các cơ quan tình báo phương Tây tung ra ý kiến: Saddam Hussein phải là mối nguy hiểm thực , phải mất rất nhiều năm mới có thể trở thành mối lo đáng ngại.

      Ba cơ quan tình báo : CIA của Mỹ, SIS ở và MOSSAD ở Israel cho rằng trong hệ thống hai khẩu, khẩu Babylon là thứ đồ chơi vui vẽ và hõa tiễn Bird mới là mối đe dọa . Cả ba đều sai. Chính là vì Al Abeid hoạt động.
      Bull biết tại sao, và ông với người Israel điều gì xảy ra. Tên lửa Al-Abeid bay lên đến mười hai nghìn mét và biến mất khỏi tầm nhìn. Tầng thứ hai chịu rời khỏi tầng thứ nhất Tầng thứ ba hề tồn tại. Đó chỉ là màn lừa đảo. ông biết bởi vì ông có trách nhiệm cố thuyết phục Trung Quốc cung cấp tầng thứ ba và có thể Bắc Kinh vào tháng Hai. Ông thực , và người Trung Quốc cho ông rớt đài Khi ở đó, ông gặp và chuyện lâu với người bạn cũ George Wong. Có cái gì đó ổn với cuộc làm ăn với người Iraq, điều gì đó đáng lo ngại ở ngoài Gerry Bull, và đó phải là người Israel- Nhiều lần ông nhấn mạnh ông muốn rời khỏi Iraq, và phải gấp lên. điều gì đó xảy ra ngay trong đầu óc ông, và ông muốn rời khỏi Iraq. Trong quyết định này ông hoàn toàn đúng, nhưng quá muộn.

      Ngày 15 tháng Hai năm 1990, tổng thống Saddam Hussein triệu tập cuộc họp toàn thể nhóm cố vấn thân cận ở lâu đài của mình ở Sarseng, những đỉnh núi vùng Kurd. Ông ta thích Sarseng. Nó nằm đỉnh đồi, và từ những cửa sổ ba lớp kính ông có thể phóng tầm mắt ra bên ngoài và nhìn xuống toàn thể phong cảnh phía dưới, nơi các nông dân người Kurd chịu đựng những mùa đông khắc nghiệt trong túi ngủ và lều của mình . Nơi đó lại xa thành phố bị tàn phá Halabja bao xa, nơi trong hai ngày 17 và 18 tháng Ba năm 1988, ông hạ lệnh trừng trị bảy mươi công dân vì tội ngầm câu kết với người Iran.

      Buổi sáng đó ông đứng trước những cánh cửa sổ của phòng mình và nhìn xuống dưới. ông có quyền lực, quyền lực thể tranh chấp, trong mười sáu năm, và ông bị buộc phải trừng trị nhiều người. Nhưng những điều đó xong rồi. Sennacherib mới mọc lên từ Nineveh và Nebuchadnezzar từ Babylon. số con đường rất dễ dàng, tức là khuất phục. Những người khác chọn lấy con đường khó nhọc, rất khó nhọc và gần như đều chết cả. Vẫn còn những kẻ khác, nhiều kẻ khác, vẫn chưa học được. Nhưng chúng có phải học thôi, phải học thôi.

      Ông lắng nghe đội trực thăng của mình kêu phành phạch từ phía Nam, trong khi người hầu cuống cuồng sửa lại cái khăn màu xanh lá cây ông thích mặc thành hình chữ V bên chiếc áo nhà binh để che quai hàm. Khi mọi thứ làm ông thoả mãn, ông cầm khẩu súng tay cá nhân, khẩu Beretta do Iraq sản xuất có cán nạm vàng, lên đạn và cài vào thắt lưng, và đeo nó vào quanh người. Trước ông từng dùng nó cho bộ trưởng của nội các và có thể còn phải làm thế tiếp. Ông luôn luôn mang theo nó.

      tiếng gõ vào cửa thông háo cho tổng thống biết những người ông triệu tập đợi ông trong phòng họp. Khi ông vào căn phòng dài với những cửa sổ kính phẳng ngư trị cảnh trí phủ đầy tuyết, mọi người đồng loạt đứng lên. Chỉ có ở đây ở Sarseng này nỗi sợ bị ám sát của ông mới giảm . ông biết rằng toà lâu đài được bao quanh bởi ba vòng của đội cận vệ tốt nhất của mình, Amn-al-khass, được chỉ huy bởi chính con trai ông Kusay, và ai có thể lại gần những cửa sổ lớn này. mái nhà là những tên lửa phòng Crotale của Pháp, và những tay súng của ông luôn theo dõi bầu trời những ngọn núi.

      Ông ngồi vào chiếc ghế bành giống cái ngai vàng ở giữa cái bàn cùng tạo thành rìa của chữ T. Đứng bên cạnh ông, mỗi bên hai người, là bốn trong số những cận thần thân tín nhất của ông. Với Saddam Hussein chỉ có phẩm chất mà ông đòi hỏi từ người ông tin tưởng: trung thành. trung thành tuyệt đối, hoàn toàn, say mê. Trong phẩm chất này, kinh nghiệm dạy ông, rằng có các cấp độ khác nhau. cùng của danh sách là gia đình; sau đó là thị tộc; rồi đến bộ lạc. Có câu ngạn ngữ A rập rằng: "Tôi và tôi chống lại người họ; tôi và người họ chống lại thế giới ". Ông tin vào điều đó. Nó là đúng. Ông xuất thân từ những ngôi nhà ổ chuột của thành phố mang tên Tikrit và từ bộ lạc của người Al-Tikriti. Rất nhiều người của gia đình ông và người từ Al-tikriti nắm những chức vụ cao ở Iraq, và họ có thể được tha thứ mọi bạo tàn, mọi thất bại, mọi thái quá cá nhân, được người ta trung thành.

      Bên phải ông là Izzat Ibrahim, cận thần, và ngoài nữa là con rể ông, Hussein Kamil, ông chủ của Mìmi, người chịu trách nhiệm về xử lý vũ khí. Bên trái ông là Taha Ramadam, thủ tướng, và xa hơn là Sadoun Hammadi, chủ tịch quốc hội và là tín đồ nhiệt thành của Shi's Moslem. Saddam Hussein theo đạo Sunni, nhưng ông khá khoan dung về tôn giáo, địa hạt duy nhất. ông buồn quan tâm chuyện đó. Bộ trưởng ngoại giao của ông, Tariq Aziz. là tín đồ Thiên chúa giáo. "Thế sao nào" ông ta biết điều ông ta được mà.

      Các chỉ huy quân đội ngồi ở đầu kia thân chữ T. những tướng lĩnh chỉ huy đội vệ binh cộng hoà, bộ binh, quân giới, pháo binh, và các kỹ sư. Xa hơn nữa là bốn chuyên gia mà những báo cáo và kiểm tra là lý do để ông triệu tập cuộc họp.
      Hai người ngồi bên phải bàn: tin sĩ Amer Saadi. nhà công nghệ và là phó cho con rể ông: và cạnh ông là thiếu tướng Hassan Rahmani. chỉ huy bộ phận phán gián của Mukhabarat: hay Cơ quan tình báo. Ngồi đối diện họ là tiến sĩ lsmail. Ubaidi. phụ trách nhánh nước ngoài của Mukhabarat: và thiếu tướng Omar Khatib: ông chủ của an ninh mật đáng sợ. Amn-al-Amn. hay AMAM.

      Ba con người của mật vụ có những nhiệm vụ hết sức ràng. Tiến sĩ Ubaidi chủ huy gián điệp ở nước ngoài; Rahmani chống lại gián điệp nước ngoài trong lraq: Khatib chịu trách nhiệm giữ ôn định trong dân chúng lraq, ủi bằng bất kỳ chống đối bên trong nào thông qua phối hợp giữa mạng lưới những người lấy tin rộng lớn và những thông tin viên cùng chỉ điểm, những nhân viên đặc biệt lừng danh với biết bao nhiêu lời đồn đại về những việc ông ta làm với những người bị bắt và mang đến cho nhà tù Abu Ghraib ở tây Baghdad hoặc cho trung tâm thẩm vấn cá nhân của ông được gọi cách đùa cợt là nhà tập nằm ngay ở đại bản doanh AMAM.

      Nhiều khiếu nại đến với Saddam Hussein về bạo tàn của vị giám đốc mật vụ của ông, nhưng ông bao giờ phản đối hay cách chức họ. Có tin đồn rằng cá nhân ông đặt cho Khatib cái biệt danh Al-mu'azib. "Kẻ Tra tấn". Dĩ nhiên Khatib là người Al-Tiknti và trung thành cho đến cùng. số nhà cầm quyền, khi các vấn đề tế nhị cần thảo luận, thích triệu tập họp ít người. Saddam lại nghĩ ngược lại: nếu có công việc bí mật nào phải thực , tất cả đều có thể tham dự vào. ai có thể : "Tôi có bàn tay sạch, tôi biết". Theo cách này, mọi người xung quanh ông đều có thê nhận được thông điệp: "Nếu tôi đổ cũng đổ theo".

      Khi tất cả vào chỗ. Tổng thống hất hàm cho con rể Hussein Kamil của mình, tay này gọi tiến sĩ Saadi lên báo cáo. Nhà kỹ nghệ gia đọc bản báo cáo của mình, hề ngước mắt nhìn lên. con người khôn ngoan nào lại giương mắt lên nhìn thẳng vào Saddam. Tổng thống tuyên bố ông có thể đọc được tâm hồn con người qua mắt ta. Và nhiều người tin điều đó. Nhìn chằm chằm vào mặt ông có thể là để biểu thị can đảm, tin tưởng, trung thành. Nếu Tổng thống nghi ngờ vào lòng trung thành, người chống đối thường gặp bất hạnh. Khi tiến sĩ Saadi kết thúc. Saddam suy nghĩ lúc.

      - Tay này, cái tay Canada. ông ta biết được những gì?

      - phải tất cả, nhưng khá là nhiều, sayidi. -

      Sayidi là danh xưng tôn kính của Arập tương đương với sir trong ngôn ngữ phương Tây, nhưng kính trọng hơn. danh hiệu khác có thể chấp nhận được là Sayid Rais, hay "Ngài tổng thống".

      - Từ bao giờ?

      - Từ sớm, nểu như phải biết, sayidi

      - Và đă cho bọn Israel rồi à?

      Vâng, Sayid Rais, tiến sĩ Ubaidi trả lời. là bạn của chúng trong nhiều năm. đến thăm Tel Aviv và giảng về tên lửa đạn đạo cho các sĩ quan pháo binh của chúng. có nhiều bạn ở đó, có thể còn có cả bạn trong Mossad, dù biết điều đó.

      - Liệu chúng ta có thể hoàn thành dự án mà ? Saddam Hussein hỏi.

      Hussein Kamil chen vào:

      - tay lạ lắm. nhất định đòi phải luôn được mang theo tất cả những giấy tờ khoa học quan trọng trong cái túi deo to. Tôi hạ lệnh cho bên phản gián coi sóc vấn đề giấy tờ này và sao lại chúng.

      - Thế làm chưa? Tổng thống nhìn chằm chằm Hassan Rahmani. trùm phản gián của ông ta.

      - làm rồi, Sayid Rais. Tháng trước trong khi đến thăm đây. uống quá nhiều whisky. Trong rượu có thuốc ngủ, và ngủ khá lâu và khá sâu. Chúng tôi lấy cái túi và chụp lại mọi thứ giấy tờ trong đó. Chúng tôi cũng ghi mọi cuộc trò chuyện về kỹ thuật của . Giấy tờ và băng từ đều được chuyển cho tiến sĩ Saadi của chúng ta.

      Cái nhìn của tổng thống chuyển sang nhà khoa học.

      - Thế, lần nữa, ông có thể hoàn thành dự án mà ?

      - Được Sayid Rais, tôi tin chúng ta có thể. số tính toán chỉ mới hiểu được, nhưng tôi có những nhà toán học giỏi nhất nghiên cứu chúng trong suốt tháng nay. Họ có thể hiểu được chúng. Các kỹ sư có thể làm được những việc còn lại.

      Hussein Kamil bắn vào vị phó của mình cái nhìn cảnh báo:

      - ông hẳn là có lý, ông bạn ạ.

      - Bây giờ ở đâu? Tổng thống hỏi.

      - rời Trung Quốc, sayidi. tiến sĩ Ubaidi trả lời.

      cố tìm cho chúng ta cái tầng thứ ba cho hoả tiễn Al- Abeid. Thế nhưng, thất bại thôi. có dự dịnh quay về Brussels vào giữa tháng Ba.

      - Ông có người ở dó , tụi tốt ấy?

      - Có, sayidi. Tôi đặt dưới giám sát ở Brussels tư mười tháng rồi. Chính vì thế chúng tôi biết tán chuyện với các đoàn lsrael tại văn phòng của ở đó. Chúng tôi cũng có chìa khoá căn hộ của rồi.

      - Thế tiến hành . Khi trở về đó.

      - ngần ngừ gì nữa, Sayid Rais. Tiến sĩ Ubaili nghĩ đến bốn người ông ta có ở Brussels cho nhiệm vụ giám sát ngày đêm. trong số đó từng làm việc trước đó. Abdelrahman Moyesdin, tay này có thể làm việc được.

      Ba nhân viên phản gián và tiến sĩ Saadi lui. Những người khác ngồi lại. Khi còn lại mình với họ, Saddam Hussein quay về phía người con rể :

      -Thế còn những việc kia, khi nào làm xong?

      -Con đảm bảo là chỉ đến cuối năm thôi, Abu Kusay.

      Trong gia đình ,Kamil có thể sử dụng danh hiệu thân thiết hơn "Cha Kusay". Nó chỉ ra mối quan hệ gia đình. Tổng thống hài lòng

      - Chúng ta cần địa điểm, địa điêm mới. pháó đài: phải địa điểm tồn tại, dù bí mật đến đâu chăng nữa. địa điểm bí mật mới mà al biết đến cả. ai ngoàí nhóm , thậm chí phải tất cả chúng ta ở đây hôm nay. phải là dự án xây dựng dân , mà là quân . Các ông có thể làm được điều đó ?

      Tướng Ah Musuli bên Công binh đửng nghiêm. Nhìn thẳng vào Tổng thống:

      - Rất vinh dự. Sayid Rais.

      - Người có trách nhiệm, người tốt nhất của ông. rất tốt đấv

      - Tôi có người rồi. sayidi. trung tá. siêu sao về xây dựng và nguỵ trang. Stepanov người Nga từng ta là học trò giỏi nhất- trong maskirovka mà ông ta từng dạy được.

      - Thế mang ta đến chỗ tôi. phải ở đây, mà Baghdad, trong hai ngàỵ nữa. Tôi tự ra lệnh cho ta. ta có là taỵ Ba'athist khá . tay trung tá này? Có trung thành với đảng và với tôi ?

      - Hết mức, sayidi. ta có thế chết vì ngài.

      - Tất cả các ông cũng thế. tôi hỵ vọng. Ngừng chút rồi tiếp: chúng ta hãy hy vọng đến nổi phải như thế.

      Cuộc hội đàm kết thúc theo cách như thế. may mắn dù sao cũng là kết thúc cuộc họp.
      Tiến sĩ Gerry Bull về đến Brussels ngày 17 tháng Ba: kiệt sức và thất vọng. Các đồng nghiệp của ông hiểu được nỗi thất vọng do đạt được kết quả ở Trung Quốc. Nhưng còn hơn thế nữa. Kể từ khi đến Baghdad hơn hai năm trước, ông bị thuyết phục - vì đó là cái ông muốn tin - rằng chương trình hoả tiễn và khẩu súng Babylon là để cho việc phóng vệ tinh lên quỹ đạo trái đất. Ông có thể thấy những lợi ích khổng lồ trong việc tự đánh giá và tự hào cho cả thế giới Arập nếu Iraq có thể làm dược điều đó. Hơn thế nữa, nó có thể mang lại tiền bạc, tự trang trải, khi Iraq truyền được liên lạc và vệ tinh dự báo thời tiết cho các nước khác.

      Theo ông hiểu, dự án là khẩu Babylon bắn hoả tiễn mang vệ tinh về phía đông nam, qua lãnh thổ của Iraq. Arập Xêut và nam Ấn Độ Dương để lên quỹ đạo. Ông vẽ mẫu theo hướng đó. Ông buộc phải đồng ý với các đồng nghiệp của mình rằng quốc gia phương Tây nào có thể nhìn vấn đề theo cách đó. Họ có thể kết luận đó là khẩu súng cho mục đích quân . Do đó, mới có lập lờ trong việc đặt mua các phần của nòng súng, rãnh nòng và cơ chế chuyển đạn. Chỉ có ông, Gerald Vincent Bull, biết được , điều đó rất giản đơn - khẩu Babylon thể được sử dụng như thứ vũ khí có thể bắn những quả đạn có lượng nổ lớn. dù những quả đạn này lớn đến đâu chăng nữa.

      Khẩu Babylon, với nòng dài tới 156 mét: thể đứng vững nếu thiếu giá đỡ. Nó cần đến cái bệ. hay giá cực kỳ chắc chắn. có những giá đỡ này, nòng súng có thể gẫy gập như sợi mì ống và vỡ tan như những mảnh vụn. Do đó, nó thể nâng lên hay hạ xuống, cũng thể di nòng từ bên này sang bên kia. Do vậy nó thể nhằm vào được nhiều đích. Để thay đổi góc bắn của nó, lên hay xuống hay quay ngang, nó cần phải được tháo ra, việc này mất nhiều tuần. Ngay cả để lau chùi và lắp lại đạn cũng mất đứt vài ngày. Hơn thế nữa, những phát bắn liên tục có thể làm vỡ cái nòng súng rất đắt đỏ này. Cuối cùng, khẩu Babylon thể giấu đề tránh bị bắn trả.

      Mỗi lần phát hoả, quả cầu lửa dài chín mươi mét có thể bay ra từ nòng súng, bất kỳ vệ tinh hay máy bay nào cũng có thể định vị ngay được khẩu súng. Những dữ liệu đó có thể đến chỗ người Mỹ trong vòng vài giây. Cũng vậy, cử động giật ngược của nó có thể được đo bởi bất kỳ nhà địa chấn học nào ở tận Califorma. Chính vì lẽ đó mà ông với tất cả những ai có thể nghe: "Nó thể được sử dụng làm vũ khi đâu."
      Vấn đề của ông là sau hai năm ở Iraq, ông nhận ra rằng với Saddam Hussein khoa học chỉ có ứng dụng duy nhất: vũ khí chiến tranh và năng lượng. Do đó, ông ta chi tiền cho khẩu Babylon vì cái quái gì? Nó chỉ có thể khai hoả lần trong cơn thịnh nộ trước khi những máy bay thả bom của đối phương nghiền nó ra thành từng mảnh vụn, và nó chỉ có thể bắn ra vệ tinh hay quả đạn hợp lý.

      Chính là Ở Trung Quốc, tại công ty của George Wong đáng mến ông hiểu điều đó. Đó là phương trình cuối cùng mà ông có thể giải được. Nhưng quá muộn.

    4. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      CHƯƠNG 2



      Chiếc Ram Charger to lớn lao xuống từ đường núi chính từ Qatar dẫn về Abu Dhabi ở Các tiểu vương quốc Arập, đúng giờ. Điều hoà nhiệt độ giữ mát bên trong xe, và người lái xe bật vài bài đồng quê và miền Tây thích của mình khiến cho bên trong ngập tràn tiếng nhạc quê nhà.

      quá Ruweis, họ ở giữa đồng quê, biển ở bên trái họ chỉ đôi khi ra giữa những đụn cát, còn ở bên phải sa mạc rộng lớn trải dài hàng trăm dặm nóng và cát về phía Dhofar và Ấn Độ Dương. Bên cạnh người chồng Maybelle Walker nhìn chăm chăm vào cái sa mạc màu xám xịt chạy dài dưới bầu trời giữa trưa. Ray Walker vẫn nhìn ra đường. Cả đời là tay buôn dầu, ông từng nhìn thấy sa mạc trước đó. " thấy tức là thấy tất cả" , ông hững hờ khi người vợ tung ra những câu cảm thán, thán phục với những cảnh tượng và thanh mới mẻ với bà. Nhưng với Maybelle Walker tất cả đều là mới, và mặc dù bà nghiền ngẫm khá đủ trước khi rời Oklahoma đến mở chi nhánh mới ở Eckerd. bà vẫn quý những giây phút của chuyến hai tuần ở vùng vịnh Arập - thường được gọi là vịnh Pecxich.

      Họ bắt đầu chuyến ở phía Bắc Kuwait, rồi lái chiếc xe công ty thuê cho để xuống phía Nam đến A rập Xêut, qua Khafji và Al-khobar, cắt chéo đường để đến Bahrain. rồi quay trở lại và xuống qua Qatar và đến UAE. Ở mỗi điểm đỗ Ray Walker lại "kiểm tra" chiếu lệ văn phòng công ty mình - lý do bề ngoài của chuyến - trong khi bà lấy người hướng dẫn từ văn phòng công ty và thám hiểm các địa điểm trong địa phương. Bà cảm thấy mình can đảm khi dám xuống tất cả các phố chật hẹp cùng duy nhất người đàn ông da trắng theo. hề ý thức được rằng bà có thể gặp nhiều nguy hiểm ở bất kỳ đâu trong số năm mươi thành phố lớn nhất nước Mỹ hơn là ở vịnh A rập này.

      Các địa điểm làm bà say đắm trong chuyến đầu tiên và cũng có thể là cuối cùng ngoài nước Mỹ. Bà ngưỡng mộ các lâu đài và các tháp có chóp của người Hồi giáo, lang thang ở dòng thác vàng, và lo sợ làn sóng những khuôn mặt tối tăm và những chiếc áo dài nhiều màu sắc quây quanh mình khi ở các khu phố cổ.
      chụp ảnh mọi thứ và mọi người để khi về cho những người đàn bà ở câu lạc bộ xem những nơi bà đến và những gì bà thấy. Bà ghi nhớ lời dặn của người đại diện hãng ở Qatar được chụp người Arập ở sa mạc mà cho phép của ông, vì nhiều người vẫn tin chụp ảnh đồng nghĩa với bị lấy mất linh hồn.

      Bà thường xuyên tự nhủ mình là người phụ nữ hạnh phúc và phải hạnh phúc về điều đó. Lấy chồng gần như ngay sau khi rời trung học hai năm sau lần gặp đầu tiên. bà thấy mình lấy được người đàn ông tốt, vững vàng với nghề nghiệp tại công ty dầu mỏ địa phương vươn lên qua những vị trí mà công ty mở rộng được, cho đến nay trở thành trong số các phó chủ tịch.
      Họ có ngôi nhà dẹp bên ngoài Tulsa và ngôi nhà bãi biển cho các kỳ nghỉ hè ở Hatteras, giữa Đại Tây Dương và Pamlico Sound ở bang Carolina Bắc. cuộc hôn nhân tốt đẹp dài ba mươi năm, được ban thưởng với đứa con trai xinh xẻo. Và giờ, chuyến hai tuần bằng chi phí của hãng đến mọi thắng cảnh xa xôi và những thanh, những mùi vị: và những kinh nghiệm của thế giới khác, vịnh Arập.

      - Đường tốt đấy, bà nhận xét về con đường trải nhựa ánh lên trước xe họ. Nếu nhiệt độ trong xe là bảy mươi độ (F) sa mạc hẳn phải là trăm hai mươi.

      - Ừ! Chồng bà hờ hững- Bọn làm nó đấy.

      - Công ty á?

      - . Nước Mỹ, mẹ kiếp.

      Ray Walker có thói quen đệm từ mẹ kiếp. Họ ngồi lúc trong im lặng rồi bà ngồi sát lại chồng hơn, bà luôn muốn làm vậy bên cạnh chồng.
      Sắp sang tuổi sáu mươi, Ray Walker đến chuyện về hưu với khoản lương hưu cao và số cổ phiếu giá trị cao, và công ty đáng kính tặng ông chuyến hai tuần, trả hết mọi chi phí, hạng nhất đến Vịnh để "thanh tra" những trạm của họ dọc theo bờ biển. Dù ông cũng chưa bao giờ đến đây, nhưng ông cũng phải công nhận ông chẳng mấy say mê với những cái như vợ mình, nhưng ông thích thấy bà như thế. Ông định kết thúc chuyến ở Abu Dhabi và Dubai. rồi mua vé khoang hạng nhất chuyến bay thẳng về Mỹ qua London. Ít nhất ông cũng có khả năng mua bia Bud dài, lạnh cần phải xin phép văn phòng công ty. Đạo Hồi có lẽ cũng tốt thôi, ông đùa. Nhưng sau khi ở tại những khách sạn tốt nhất ở Kuwait và Arập Xêut, những nơi khô hạn, ông tự hỏi tôn giáo nào có thể ngăn can gã đàn ông được dùng bia vào ngày nóng nực.

      Ông ăn mặc theo đúng cách ông thấy cần phải thế đối với tay buôn dầu mỏ sa mạc - bốt cao, quần jean, thắt lưng, áo phông. và Stetson - cái cần thiết, vì thực ra ông là nhà hoá học về quản lý chất lượng. ông nhìn máy đo: tám mươi dặm nữa đến chỗ rẽ Abu Dhabi.

      - Phải nghỉ đấy, em ạ. ông thầm.

      - cứ lo xa, Maybelle báo trước. Có bọ cạp ở đó đấy. Nhưng chúng nó thể nhảy cao hai feet được, ông , và cười phá lên trong lời đùa của mình. Bị cắn vào mông bởi con bọ cạp nhảy cao - là nhộn đối với những chàng về nhà.

      - Ray, khủng khiếp đấy. Maybelle trả lời, và cũng cười. Walker lăn bánh chiếc Ram Charger đến bờ con đường vắng tanh và mở cửa xe. Cơn nóng hầm hập ập đến như thể từ cánh cửa của cái lò. Ông bò ra và sập cửa lại sau lưng mình để giữ khí lạnh ở bên trong. Maybelle ngồi lại chiếc ghế đằng sau khi chồng bà đến đụn cát gần nhất và đóng cửa lại sau lưng mình. Khi đó bà nhìn chằm chằm qua làn gió và thầm :

      - Ôi. Chúa tôi, có thấy kìa.

      Bà với lấy chiếc máy ảnh Pentax của mình, mở cửa xe, và trườn xuống dưới đất.

      - Em thích cứ việc, em . Ai cơ?

      Người Bedouin đứng bên kia đường, dường như bước ra từ giữa hai đụn cát. ta thoắt thoát . Maybelle Walker ngồi lên thanh kim loại phía trước chiếc xe, máy chụp hình trong tay, bất động. Chồng bà quay quanh và cũng đứng bật dậy. ông nhìn chằm chằm người đàn ông qua dường.

      - Đừng làm thế, ông , đừng có làm. Đừng có lại gần quá nguy hiểm đấy. nổ máy. Em chụp nhanh bức ảnh, và nếu ta lại gần, lập tức nhảy lên ngay nhé. Nhanh lên.

      Ông nhảy lên chỗ lái xe và giật cần khởi động. Máy điều hoà cũng tự động được bật lên.

      Maybelle Walker tiến lên trước vài bước và giương máy ảnh lên.

      - Tôi có thể chụp hình bà hỏi. Máy ảnh? ảnh? Click click? Cho album ảnh ở nhà tôi?

      Người đàn ông chỉ đứng yên và nhìn bà chằm chằm. Chiếc djéllaba, cũ và bẩn, rơi từ vai ta xuống cát dưới chân ta. Cái keffiyeh xấu xí màu đỏ trắng buộc đầu ta bằng cái dây hai mảnh màu trắng, và trong những góc được buộc lại dưới thái dương bên kia để quần áo

      - Ray, nghĩ là em có thể chụp ảnh ta ?

      Ray quay mặt sang hướng khác, sung sướng theo lối người đàn ông đứng tuổi, quấn lấy mặt ta từ chỏm mũi xuống. Phía quần áo cũ nát là đôi mắt đen nhìn mãi vào bà. Cái mà lớp da trán và tròng mắt bà có thể nhìn thấy bị cháy nâu bởi sa mạc.

      có nhiều bức hình cho album ảnh mà bà định làm ở nhà, nhưng có bức nào chụp người bộ lạc Bedouin với sa mạc trải dài sau lưng như thế này. Bà nâng máy ảnh của mình lên. Người đàn ông nhúc nhích. Bà nhìn qua ống kính, lấy hình chuẩn khuôn mặt thuôn, tự hỏi liệu có kịp nhảy lên xe nếu người đàn ông Arập chạy qua đường đến chỗ bà. Click.

      - Cám ơn nhiều. bà . ta vẫn cử động. Bà giật lùi về phía chiếc xe, cười rạng rỡ. "Cứ cười nhé" bà nhớ tờ Reader's Digest từng quảng cáo người Mỹ bị tấn công bởi ai đó hiểu nổi tiếng .

      - Em , lên xe di! Chồng bà kêu lên.

      - Ổn mà, em nghĩ ta ổn thôi, bà , mở cửa xe.

      Đài chạy nữa khi bà chụp ảnh. Sóng đài bị cắt. Tay Ray Walker với ra và kéo bà vào trong xe, nó chồm lên khỏi vệ đường.
      Người Arập nhìn họ , nhún vai, và bước vào sau đụn cát, nơi ta lái chiếc Land-Rover mui của mình ra. Trong vài giây ta cũng lái chiếc xe về hướng Abu Dhabi.

      - Tại sao phải gấp thế? Maybelle Walker phàn nàn. ta tấn công em đâu.

      - Đó phải là vấn đề, em - Ray Walker mím chặt môi, con người có kiểm soát, có khả năng đối đầu với bất kỳ nổi lên nào của quốc tế - Chúng ta đến Abu Dhabi và chuyến bay gần nhất để về nhà. Có vẻ như là sáng nay Iraq tấn công Kuwait, mẹ kiếp. Họ có thể đến đây bất kỳ lúc nào.

      mười giờ, giờ vùng Vịnh, vào buổi sáng mồng Hai tháng Tám năm 1990.
      Mười hai tiếng sau: đại tá Osman Badri chờ đợi, bồn chồn và nóng nảy, bên cạnh vết những chiếc xe tăng của bãi T-72 gần sân bay có tên Safwan. biết rằng cuộc chiến chống Kuwait bắt đầu ở đó và kết thúc ở đó, Ở Safwan. Bên ngoài sân bay có những đường băng nhưng hề có nhà cửa gì hết, đường chính chạy theo hướng bắc nam. con đường hướng về bắc, xuống chỗ qua ba ngày trước. là chỗ nối nơi khách du lịch có thể rẽ sang phía đông để Basra hay tây bắc Baghdad.

      Ở phía nam, con đường chạy thẳng qua trạm biên giới Kuwait năm dặm cách đó. Đứng từ đây nhìn xuống phía nam, có thể nhìn thấy dòng chảy đen tối của sông Jahra, và đó. xa hơn về phía đông ngang qua vịnh, là ánh sáng của Kuwait City bồn chồn bởi vì thời điểm của đất nước mình đến. Thời gian để trừng phạt láo lếu của người Kuwait về những gì họ làm cho Iraq, cho những phúc lợi kinh tế được tuyên bố, cho thiệt hại về tài chính và cho cao ngạo phách lối của họ.

      Chẳng phải đất nước của mất tong tám năm trời giúp đỡ những người từ Ba Tư khỏi bị dồn đến miền bắc vịnh và mất hết xa xỉ của cuộc sống? Và giờ đây chẳng nhẽ lại phải ngồi yên lặng nhìn người Kuwait lấy nhiều hơn là phần họ đáng được hưởng từ vùng dầu mỏ Rumailah được chia sao? Chẳng phải họ trở nên nghèo đói chính vì Kuwait sản xuất quá đà khiến giá dầu giảm xuống ư? Bây giờ họ lại phải nghe lời bọn chó Al Sabah đòi cái khoản tiền vớ vẩn nợ 15 tỷ đôla họ cho lraq vay trong cuộc chiến sao?

      , như thường lệ, Rais lại có lý. Trong lịch sử Kuwait từng là tỉnh thứ mười chín của Iraq; luôn là như vậy, cho đến khi người vạch ra cái đường đáng nguyền rủa cát vào năm 1913 và tạo ra tiểu vương giàu có nhất thế giới. Đêm nay Kuwait bị xử lý, đêm khuya này, và Osman Badri thành viên trong đó.
      kỹ sư quân giới, có thể phải đứng ở hàng đầu, nhưng luôn ở cạnh những đơn vị cầu đường của mình, những người làm đường, xe ủi, và máy phá đường vì có thể người Kuwait ngăn chúng lại. Nhưng hề có kháng cự nào. cần công binh, cần đào cát, cần các đội chống tăng, có những cạm bẫy cụ thể. Nhưng chính trong trường hợp này, các kỹ sư phải ở đó dưới lệnh của Osman Badri để mở đường cho xe tăng và bộ binh cơ giới hoá của Vệ binh cộng hoà.

      Cách vài yard từ nơi đứng, các sĩ quan cao cấp nhìn xuống bản đồ và đưa ra những sửa chữa cuối cùng cho kế hoạch tấn công với giờ và phút chính xác ở nơi họ đợi cho lệnh "xuất phát " từ Rais ở Baghdad. Đại tá Badri từng gặp và trò chuyện với vị tướng chỉ huy mình, Ali Musuli, người chịu trách nhiệm cả cơ quan kỹ thuật của quân đội Iraq và giao nhiệm vụ cuối cùng vào tháng Hai vừa qua "lệnh đặc biệt". đảm bảo với thượng cấp của mình rằng những người của , Badri, dã được trang bị đầy đủ và sẵn sàng lên đường.

      Khi chuyện với Musuli, tướng khác vào, và được giới thiệu với Abdullah Kadiri, chỉ huy xe tăng. Từ xa nhìn thấy tướng Saadi Tumah Abbas, chỉ huy đội Vệ binh Cộng hoà toàn tinh hoa, vào lều. Là thành viên trung thành của Đảng và là người sùng bái Saddam Hussein, bối rối nghe tướng xe tăng Kadiri thầm "bước tiến chính trị, trong hơi thở gấp. Sao mà có thể như vậy? Chẳng phải Tumah Abbas là người thân tín của Saddam Hussein, và chẳng phải ông được thưởng vì thắng trận đánh tàn bạo Fao đánh bại được người Iran sao? Đại tá Badri thèm tin lời đồn rằng thực chất chiến thắng Fao 1à nhờ ở vị tướng chết Maher Rashid.

      Xung quanh , người và sĩ quan của các sư đoàn Tawakkulna và Medina của đội Vệ binh di chuyển trong bóng tối Những suy nghĩ của quay ngược về cái đêm đáng nhớ vào tháng Hai, khi tướng Musuli lệnh cho rời cơ sở ở Al Qubai về báo cáo tại tổng hành dinh ở Baghdad. cho rằng mình có thể được điều động lại.

      - Tống thống muốn gặp . Musuli ngắn gọn. Ngài muốn truyển đạt mệnh lệnh cho . Hảy đến hành dinh sĩ quan ở đây, và hãy sẳn sàng cả ngày lẫn đêm.

      Đại tá Badri cắn môi. làm gì? gì? có gì trung thành cả - mà cũng có thể là thể. có được nâng chức cách vô lý? . tổng thống thể giao trách nhiệm cho người như thế. Người làm sai đơn giản bị loại trừ bởi những đội hành quyết khủng khiếp của độì Amn-al-Amn của thiếu tướng Khatib và bị lôi mất tiêu để coi như bài học. Nhìn mặt , tướng Musuli bật lên cười, răng ông ánh lên dưới hàng ria đen rậm giống như nhiểu sĩ quan cao cấp để bắt chước Saddam Hussein.

      - Đửng lo. Ông có nhiệm vụ giao cho đấy, nhiệm vụ đặc biệt.

      được giao việc. Trong hai mươi tư giờ Badri được tnệu tập đến hành lang của khu sĩ quan. nơi chiếc xe cho nhân viên màu đen đợi sẵn. với hai người từ Amn-al-Khass, đội cận Vệ Của tổng thống. được đưa thẳng tới dinh thự của tổng thống để đến với cuộc gặp rùng rợn và đáng sợ nhất trong đời mình.
      Dinh thự dược đặt ở góc đường Kindi và 14 tháng Bảy, gần cầu cùng tên, cả hai đều để kỷ niệm ngày của hai vụ đảo chính dều tiên vào tháng Bảy năm 1968 đưa đảng Ba'ath lên nắm quyền và chấm dứt thời kỳ thống trị của các vị tướng. Badri được dẫn vào phòng chờ và ở đó trong hai tiếng. bị khám xét rất kỹ lưỡng, hai lần, trước khi được đến trước mặt tổng thống.

      Ngay khi các vệ binh sau lưng dừng chân, cũng dừng lại, rồi cung kính cúi gập người chào và giữ nguyên tư thế đó trong ba giây, trước khi bỏ mũ beret và kẹp nó dưới nách. Sau đó tập trung chú ý.

      - Thế là con người thiên tài của Maskirovka đó hả?

      được cho biết được nhìn Rais thẳng vào mắt, nhưng khi thể làm vậy. Saddam Hussein có tâm trạng vui vẻ. Mắt của vị sĩ quan trẻ trước mặt ông đầy vẻ kính trọng và ngưỡng mộ.

      - Tốt, việc gì phải lo cả. Bằng điệu Rais với kỹ sư điều ông mong muốn. Ngực Badri nảy lên vì tự hào và sung sướng.

      Trong vòng năm tháng tiếp theo đó, làm việc với tốc độ thể tưởng tượng và làm xong trước được mấy ngày. có mọi thiết bị mà Rais hứa cho. Mọi thứ và mọi người đều đặt dưới quyền của . Nếu cần thêm bê tông và thép, chỉ cần gọi điện thẳng cho Kamil theo số cá nhân, và con rể của tổng thống cung cấp ngay lập tức từ các nguồn của Bộ Công Nghiệp. Nếu cần thêm người, hàng trăm nhân công được đưa đến, luôn là những người Triều Tiên và Việt Nam sang làm việc ở đây. Họ cắt và đục, họ sống trong những lán trại tồi tàn dưới thung lũng trong mùa hè này, và sau đó họ được đưa , biết là đâu.

      Ngoài các công nhân. ai có thể vào bằng đường, chỉ có lối khó , được tính toán kỹ khi xây dựng, chỉ dành cho những xe tải chở thép và các kiện hàng, và các máy trộn xi măng. Mỗi người khác ngoài những tài xế xe tải đến bằng trong những chiếc trực thăng Nga hiệu MIL, và chỉ khi họ đến băng bịt mắt họ mới được bỏ ra, lại được đeo lại khi họ rời nơi đó. Điều này được áp dựng cho người cao cấp nhất cũng như người Iraq bình thường nhất.

      Badri tự chọn chỗ này, sau nhiều ngày xem xét kỹ càng từ trực thăng bay qua các núi. Cuối cùng tìm được địa điểm này, phía Jebal al Hamreen, phía bắc và xa hơn vào trong núi từ Kifri, nơi những ngọn đồi của dãy Hamreen trở thành núi con đường đến Sulaymaniyam. Mỗi ngày làm việc hai mươi giờ, ngủ ngay ở công trường, doạ nạt, răn đe, ve vãn, và lừa phỉnh người của mình để tăng tốc độ, và cuối cùng hoàn thành trước khi tháng Bảy kết thúc. Địa điểm được xoá mọi dấu vết công việc, mọi viên gạch và mọi chồng vật liệu. mọi mẩu thép có thể ánh lên trong ánh nắng mặt trời, mọi vết đá. Ba ngôi làng bảo vệ được hoàn thành và được dùng để nuôi dê và cừu. Cuối cùng, đường vào được lấp , ba thung lũng và đỉnh núi cao được khôi phục nguyên trạng. Gần như thế.

      Với , Osman Badri, đại tá kỹ sư, người kế thừa những kỹ năng xây dựng cao cấp, học trò của Stepanov vĩ đại nước Nga, bậc thầy của maskirovka, nghệ thuật nguỵ trang những cái để nó như là có gì cả hoặc như là cái khác, xây dựng cho Saddam Hussein "Qu'ala"( pháo đài). ai có thể thấy nó, và ai biết nó ở đâu.

      Trước khi hoàn thành tất cả, Badri nhìn những cái khác, những tập hợp và nhà khoa học về súng, làm nên cái nòng súng khủng khiếp dường như vươn tới những vì sao xa xôi. Khi mọi thứ hoàn thành họ khỏi đó, để lại đội khác ở lại. Họ ở lại và sống ở đó. ai được phép ra khỏi. Những người phải đến và phải bằng trực thăng. ai trong số đó được hạ cánh: họ có thể bằng con đường đầy cỏ xa ngọn núi. số ít người đến hay có thể luôn phải đeo khăn bịt mắt. Những người phi công và đội lái phải được để trong căn cứ quân có khách đến thăm cũng có điện thoại . Những cọng cỏ hoang cuối cùng phủ lên, những cây cuối cùng được trồng, và pháo đài được bỏ lại đơn mình.

      mơ mộng của Badri bị cất đứt bởi tiếng kêu to từ lều chỉ huy, lệnh tấn công được ban xuống: "khởi hành".
      Kỹ sư chạy đến xe tải của mình và nhảy lên chỗ ngồi, tài xế của nổ máy. Họ ngồi vào chỗ là những đội lái xe tăng của hai sư đoàn vệ binh khai hoả cuộc tấn công làm ngập khí với thanh xé màng nhĩ và những chiếc T-72 của Nga lao lên khỏi các sân bay để lên đường đến Kuwait.

      Sau này với người Abdelkarim của mình, phi công máy bay quân và đại tá trong quân, điều này giống như tiếng gà tây quang quác vậy. Trạm cảnh sát đáng thương ở biên giới bị hất sang bên cạnh và bị nghiền nát. Khoảng hai giờ sáng đoàn quân qua biên giới và lao về phía nam. Nếu người Kuwait dám chống lại đội quân này: quân đội lớn thứ tư thế giới, tiến đến Multa Ridge và vào tận sâu trong nước theo lệnh của Rais, họ có chẳng có tý vận may nào cả. Nếu phương Tây nghĩ rằng quân đội này chỉ có thể chiếm được những hòn đảo đáng thèm muốn của Warbah và Bubuiyan, mang lại cho Iraq lối vào đầy hấp dẫn vùng Vịnh, họ quá lầm. Mệnh lệnh từ Baghdad là: chiếm lấy tất cả.

      Trong lúc Ray Walker, sau câu của mình, lao như điên đến phi trường Abu Dhabi, hăm doạ người bán ở quầy vé đòi quyền của người Mỹ để kiếm bằng được vé máy bay ngay tắp lự, số những người đồng hương bạn ông kết thúc đêm ngủ. Cách Washington tám múi giờ, Hội đồng An ninh Quốc gia bị dựng dậy giữa đêm. Trong những ngày trước đó họ thường xuyên có những cuộc gặp cá nhân với Nhà Trắng; công nghệ mới giờ đây cho phép họ có được những đường dây liên lạc có hình ảnh từ nơi họ ở.

      Tối hôm trước, vẫn là mồng tháng Tám ở Washingtơn, những báo cáo sớm xác định vài vụ nổ dọc theo biên giới phía bắc Kuwait. Điều này nằm ngoài dự kiến. Trong nhiều ngày các thông tin từ các vệ tinh khổng lồ KH-11 bầu trời phía bắc Vịnh cho thấy hình thành các lực lượng của Iraq, cho Washington biết nhiều hơn vị đại sứ Mỹ ở Kuwait thực biết được. Vấn đề là, đâu là dụng ý của Saddam Hussein: đe doạ hay xâm chiếm?

      Những điều tra thẳng thắn ngày hôm trước được gửi tới cho trụ sở CIA ở Langley, nhưng cơ quan kém hiệu quả, quay ra với những phân tích "có thể" cơ sở những hình ảnh vệ tinh do Cơ quan do thám Quốc gia cung cấp, cùng sôi sục về chính trị được biết đến ở Phân khoa Trung Đông của Bộ Ngoại giao.

      - Nhẽ ra chúng ta phải có của chìm. Chẳng nhẽ có ai cắm trong chế độ Iraq đó sao?

      Câu trả lời là tiếng đầy đáng tiếc- Để giải quyết vấn đề này cần đến hàng tháng trời.
      Câu trả lời đến trước mười giờ tối, khi tổng thống George Bush ngủ và nghe điện thoại từ Scowcruft nữa. Đó là sau khi hoàng hôn buông xuống theo giờ vùng Vịnh, và các xe tăng Iraq đến Jahra, xâm nhập vào những ngoại ô tây bắc Kuwait City.

      gần nửa đêm, những người tham dự sau đó nhớ lại. có tám người trong máy video, là đại diện của NSC, của Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao, CIA, các phó giám đốc về nhân , và Lầu Năm Góc. loạt những mệnh lệnh được đưa ra và được gửi : loạt tương tự cũng đến từ cuộc gặp hội đồng COBRA (Phòng phụ của Cơ quan Tin tức Chính phủ) ở London, tức là cách Washington năm múi giờ nhưng chỉ cách vùng Vịnh có hai giờ.

      Cả hai chính phủ phong toả mọi tài sản tài chính của Iraq có ở nước ngoài, cũng như (với đồng ý của các đại sứ Kuwait ở cả hai thành phô) và các tài sản của Kuwait, do đó mọi chính phủ mới dựng lên làm việc cho Baghdad thể mó tay được vào các ngân quỹ. Những quyết định đó làm đóng băng hàng tỷ và hàng tỷ đôla dầu mỏ. Tổng thống Bush được đánh thức vào 4 giờ 45 sáng mồng Hai tháng Tám để ký vào các tài liệu. Ở London. Margaret Thatcher, theo dõi vụ việc từ lâu ký các tài liệu của mình trước khi lên máy bay sang Mỹ.

      bước quan trọng nữa là đưa Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đóng ở New York vào việc lên án xâm lược và kêu gọi khẩn cấp Iraq rút quân. Điều đó được ghi trong văn kiện số 660, được ký vào bốn giờ rưỡi sáng cùng hôm. Vào lúc bình minh khi cuộc hội đàm qua điện đàm kết thúc, và những người dự họp có hai giờ về nhà, tắm rửa, thay quần áo, cạo râu, và quay trở lại Nhà Trắng cho cuộc họp toàn thể vào tám giờ của NSC. do đích thân tổng thống Bush chủ trì.

      Những người mới đến ở cuộc họp toàn thể gồm có Richard Cheney của Bộ Quốc phòng. Nicholas Brady của Bộ Tài Chính. và tổng chưởng lý Richard Thornburgh. Bob Kimmitt tiếp tục đại diện cho Bộ Ngoại giao vì bộ trưởng James Baker và thứ trưởng Lawrence Eagleburger cả hai đều vắng. Người phụ trách các viên tướng Cohn Powell quay trở lại từ Florida, mang theo ông tướng tổng tư lệnh, người đàn ông to lớn râu rậm sau này được biết đến nhiều. Norman Schwarzkopf bên cạnh tướng Powell khi ông này vào phòng họp.

      George Bush rời cuộc họp vào lúc 9 giờ 15. khi Ray và Maybelle Walker nhờ trời lên được máy bay ở đâu đó ở Arập Xêut theo hướng tây bắc để về nhà cách an toàn. Tống thống chiếc máy bay trực thăng từ vùng phía nam lên cơ sở quân Andrews. nơi ông chuyển sang lực và bay đến Aspen, Colorado. Ông dự định ra lệnh chi tiền cho quốc phòng.

      trung ông có cuộc chuyện dài qua điện thoại với quốc vương Hussein của Jordan, láng giêng yếu thế hơn và bị chìm khuất hơn nhiều của lraq. ông vua Hashemite ở Cairo, họp với tổng thống nước này Hosni Mubarak. Hussein van nài nước Mỹ để cho các quốc gia Arập vài ngày để giải quyết mọi việc cần đến chiến tranh. Ông đề xuất cuộc gặp bốn bên, gồm tổng thống Mubarak, ông, và Saddam Hussein và chủ toạ là quốc vương Fahd của Arập Xêut. ông tự tin rằng cuộc gặp như thế có thể thuyết phục lraq rút quân khỏi Kuwait cách hoà bình. Nhưng ông cần ba, có thể là bốn ngày, và lời kết tội nào công khai chống lại Iraq bởi bất kỳ nước thành viên nào tham dự cuộc họp.

      Tổng thống Bush với ông: "Tôi đồng ý, tôi ủng hộ ông". Vị tổng thống may chưa gặp được bà thủ tướng đến từ London, đợi ông ở Aspen. Họ gặp nhau tối hôm đó.
      Người đàn bà thép sớm có cảm giác rằng người bạn tốt của mình lại bắt đầu dao động. Trong hai giờ bà dồn cho tổng thống đến chân tường.

      - Ông ta thể, chỉ đơn giản là ông ta thể, được phép thoát ra theo cách đó, George ạ.

      Đối mặt với cặp mắt xanh lơ sáng rực và những điệu sắc lạnh qua máy điều hoà nhiệt độ, George Bush chấp nhận rằng đó cũng phải là ý định của nưỏc Mỹ. Những người thân cận của ông sau đó cảm thấy ông ít bị lo lắng bởi Saddam Hussein với pháo binh và xe tăng của ông ta bằng cái túi xách đầy ám ảnh này.
      Ngày Ba tháng Tám, nước Mỹ gửi lá thư điềm đạm cho Ai Cập. Tổng thống Mubarak được nhắc lại lực lượng quân của ông phụ thuộc vào vũ khí của Mỹ như thế nào, Ai Cập nợ Ngân hàng thế giới và Quỹ tiền tệ thế giới bao nhiêu tiền và giúp đỡ của Mỹ có thể giúp đỡ về phương diện này đến đâu. Ngày bốn tháng Tám chính phủ Ai Cập ra văn bản chính thức lên án cuộc tấn công của Saddam Hussein.

      Trong thất vọng nhưng đến nỗi bất ngờ lắm đối với quốc vương Jordan, chính quyền Iraq ngay lập tức tử chối đến cuộc họp Jeddah và ngồi bên cạnh Hosni Mubarak dưới chủ toạ của vua Fahd.
      Với quốc vương Arập Xêut đó là nhục nhã: trong cái văn hoá mà những điều kiêu hãnh cần đôi với lịch thiệp. Quốc vương Fahd, người có bộ óc chính trị cao thủ bên cạnh cá tính tầm thường, cám thấy thoải mái. Đó là trong hai yếu tổ làm hỏng cuộc họp Jeddah. Yếu tố còn lại là vị quân vương Xêut được xem những bức ảnh của người Mỹ chụp từ vũ trụ cho thấy quân đội Iraq, hề giảm bước hành quân, mà vẫn còn trong mệnh lệnh quân và di chuyển về phía nam đến biên giới Saudi ở những rìa tây của Kuwait.

      Liệu Iraq có đủ táo tợn để đến và xâm chiếm cả Arập Xêut ? Thế nghĩa là mở rộng lãnh thổ. Arập Xêut có những giếng dầu lớn nhất thế giới. Đứng tiếp theo là Kuwait, với hơn trăm năm mươi giếng vào thời điểm mức sản xuất nay. Thứ ba là Iraq. Khi chiếm lấy Kuwait, Saddam Hussein làm nghiêng cán cân di. Hơn thế nữa, chín mươi phần trăm các giếng và kho chứa dầu của Xêut bị khoá lại ở góc xa đông bắc của vương quốc, quanh Dhahran, Al-khobar, Dammam, và Jubail, và vùng nội địa từ các cảng đó. Tam giác nằm ở giữa đường tiến quân của các đội Vệ binh Cộng hoà, và những bức ảnh cho thấy nhiều đơn vị nữa kéo vào Kuwait.
      May mắn thay, ngài ngự bao giờ phát rằng những bức ảnh bị nguỵ tác. Các sư đoàn gần biên giới , nhưng những chiếc xe ủi làm chứng cứ được vẽ thêm vào.

      Ngày Sáu tháng Tám vương quốc Arập Xêut chính thức cầu quân đội Mỹ tiến vào nước mình để bảo vệ. Những chiếc phi cơ chiến đấu đầu tiên của các máy bay thả bom rời căn cứ đến Trung Đông vào cùng ngày. Chiến dịch Lá chắn Sa mạc bắt đầu.
      Thiếu tướng Hassan Rahmami nhảy ra khỏi chiếc xe của mình và chạy nhanh đến khách sạn Hilton, toà nhà nhanh chóng được trưng dụng làm tổng hành dinh của các lực lượng an ninh Iraq đất Kuwait bị chiếm đóng. thấy vui, khi qua những cánh cửa kính vào buổi sáng mồng Bốn tháng Tám này, vì Hilton nằm ngay bên cạnh Đại sứ quán Mỹ, cả hai đều ven biển với những cảnh sắc ngoạn mục
      làn nước xanh óng ánh của vịnh A rập. Thế này chẳng chóng chầy nhân viên toà đại sứ bị tóm cả thôi – theo lệnh của toà nhà ngay lập tức bị Vệ binh Cộng hoà bao vây. Tất nhiên thể ngăn chặn các nhà ngoại giao nước ngoài gửi thông tin từ bên trong lãnh thổ chiếm đóng cho chính phủ của họ ở nhà, và biết có những siêu máy tính để có thể phá được những mật mã tinh vi mà người hay người Mỹ có thể sử dụng. Nhưng là chỉ huy của Cơ quan phản gián cho Mukhabarat, có thể đảm bảo rằng họ có ít điều hay ho để gửi về nhà bằng cách hạn chế những gì họ nhìn thấy qua cửa sổ.

      Dĩ nhiên còn lại khả năng có được thông tin bằng cách gọi điện cho những người Kuwait quen biết trong thành phố. Thế nên mọi đường dây điện thoại ra bên ngoài đều phải bị cắt hoặc chặn lại - chặn lại tốt hơn, nhưng phần lớn những người tốt nhất của đều bận bịu quá nhiều với Baghdad rồi. vào dãy phòng bên dành cho đội phản gián, cởi chiếc áo jacket quân đội đưa cho người cần vụ xách hai chiếc va li tài liệu, và bước tới cửa sổ để nhìn xuống phố Hilton Marina. ý tưởng hay là bơi, nghĩ, rồi nhận ra có hai người lính lấy nước từ bể bơi vào những cái chai của mình rồi tè xuống đó. thở dài.

      Ớ tuổi ba mươi bảy, Rahmani là người đàn ông kín đáo, đẹp trai, râu tóc nhẵn nhụi - thấy phải bắt chước bộ ria mép của Saddam Hussein. ở chức vụ này, và biết mình được giao công việc này vì có năng lực, phải vì do chính trị: kỹ nghệ gia giữa thế giới của những chính trị gia đểu giả có học. Tại sao, bị các bạn bè nước ngoài hỏi, lại phục vụ cho chế độ này? Câu hỏi thường được đưa ra khi gặp họ lơ mơ say sưa ở quán bar ở khách sạn Rashid hay ở chỗ kín đáo nào đó. dược phép giao du với họ vì đó là phần trong công việc của . Nhưng lúc nào cũng giữ cho mình kín kẽ. hề kiêng khem theo các quy định tôn giáo - chỉ gọi ly gin và tonic, và biết chắc cái tay bán bar cho rót cho đúng là tonic.

      mỉm cười khi nghe câu hỏi và nhún vai trả lời: Tôi là người lraq và tôi tự hào về điều đó; thế tôi có thể phụng chính phủ nào cơ chứ?
      Còn bản thân biết rất chính xác tại sao lại phục vụ chế độ toàn những thứ phù hoa mà trong thâm tâm chán ghét. Nếu có chút ít nào xúc động trong người, mà thường chối phắt là có, nó xuất phát từ trìu mến dành cho đất nước mình và cho dân tộc mình, những con người bình thường mà từ lâu đảng Ba'ath còn đại diện nữa.

      Nhưng lý do cơ bản là muốn nhập vào cuộc sống. Với người Iraq ở cùng thế hệ với chỉ có ít lựa chọn. có thể phản kháng chế độ và rời khỏi đất nước, để kiếm được cuộc sống tằn tiện đủ ăn ở nước ngoài, trốn tránh những đội ám sát và kiểm tiền bằng cách dịch từ tiếng A rập sang tiếng và ngược lại, hay có thể ở lại Iraq.
      Có ba con đường đế chọn. Chống đối chế độ, và kết thúc tại trong những phòng tra tấn của Omar Khatib, kẻ mà biết tỏng là chẳng có cám giác gì; hay cố sống sót với tư cách nhà kinh doanh độc lập trong nền kinh tế bị hạ xuống đất cách có hệ thống; hay giữ nụ cười môi trước những tên ngốc và vươn lên trong hàng ngũ của chúng nhờ đầu óc và tài năng.

      thể thấy gì là sai trái với việc cuối cùng này. Giống như Reinhard Gehlen, người thoạt tiên phục vụ Hitler: sau đó người Mỹ: và tiếp nữa là Tây Đức: cũng giống như Marcus Wolf, người phục vụ Cộng sản Đông Đức mà tin lời nào của họ, người chơi cờ. sống cho cuộc chơi, những bước do thám và phản do thám đầy phức tạp Iraq là bàn cờ của riêng . biết rằng những nhà chuyên nghiệp khác toàn thế giới có thể hiểu được điều này.

      Hassan Rahmani quay trở lại từ cửa sổ, ngồi vào chiếc ghế bành sau cái bàn, và bắt đầu ghi chép. Có cả đống việc phải làm nếu Kuwait bao giờ có an ninh khả dĩ để trở thành tỉnh thứ mười chín của lraq.
      Bài toán đầu tiên của biết Saddam Hussein có ý định ở lại Kuwait trong bao lâu. ngờ rằng chính ông ta cũng biết. Chẳng việc gì phải nhúng vào chiến dịch phản gián khổng lồ, dán kín mọi lỗ thủng và thiếu sót về an ninh mà có thể, nếu Iraq rút quân về. Cá nhân mà , tin Saddam có thể chẳng làm được gì sất. Nhưng điều đó cũng có nghĩa là phải đấm bốc cách tinh quái, có những chuyển động hợp lý, được những điều đúng. Việc đầu tiên phải là tham dự vào cái cuộc họp tổ chức ngày mai ở Jeddah, để nịnh quốc vương Fahd cho đến khi ông ta tiếp tục dấn thêm xa nữa đến chỗ lên án lraq chỉ muốn hiệp ước đúng đắn về dầu mỏ, về xâm nhập vào Vịnh. Và món nợ khổng lồ, và có thể trở về nhà ở Baghdad. Nghĩa là, nắm mọi lực lượng Arập trong tay và bằng mọi giá giữ người Mỹ và người ở bên ngoài. Saddam có thể dựa vào ưu tiên Arập để giữ liên lạc cho đến khi địa ngục qua .

      Phương Tây, với chú ngày càng tăng trong vài tuần, có thể chán và bỏ việc đó lại cho bốn người Arập - hai ông vua và hai vị tổng thống - và cho đến chừng nào mà dầu vẫn còn tạo ra thứ khói làm họ bị sốc, những người Anglo-saxon có thể vẫn thoải mái được. Trừ phi Kuwait bị đối xử tàn ngược cách hung tợn, các phương tiện truyền thông có thể đưa tin, chế độ Al Sabah có thể bị quên lãng trong lưu vong đâu đó ở Arập Xêut, người Kuwait có thể lấy lại cuộc sống của mình dưới chính phủ mới, và cuộc họp về vấn đề rời khỏi Kuwait có thể cân nhắc từ ngữ cho thập kỷ cho đến khi nó chẳng là vấn đề gì nữa cả.
      Điều đó có thể được thực , nhưng nó cần đến tác động đúng đắn. Tác động của Hitler - "Tôi chỉ tìm kiếm giải quyết hoà bình cho những đời hỏi đúng đắn của mình. Đó là tham vọng về lãnh thổ cuối cùng của tôi." Vua Fahd có thể thất bại trong việc đó - dù sao cũng ai có chút mến gì đối với người Kuwait, kể những kẻ ăn sen Al Sabah. Vua Fahd và vua Hussein có thể chia cắt đất nước này, như Chamberlain chia nước Séc vào năm 1938.

      cách nào đó, Hassan Rahmani lý luận, Rais có thể sai; ông ta thể bỏ qua cũng thể tiếp tục, nắm giữ đất dầu của người Xêut, và đưa ra cho thế giới phương Tây thấy rồi mà họ thể làm gì khác ngoài việc chấp nhận phá huỷ dầu mỏ và quyền lợi của chinh họ trong thế hệ. "Phương Tây" có nghĩa là người Mỹ, người ớ phía họ, và họ đều là Anglo-Saxon. biết về người Anglo-Saxon.
      Năm năm ở trường dự bị Tasisiya của ông Hartley dạy tiếng cách hoàn hảo, hiểu biết của về , và thức nhận về thói quen người Anglo-Saxon trong việc đưa cho bạn quả đấm chí mạng vào quai hàm lời báo trước. xoa cằm nơi nhận quả đấm nhiều năm trước đây và cười phá lên. Cậu cần vụ của rón rén vào phòng. Mike Martin quỷ quái, giờ cậu ở đâu?

      Hassan Rahmani - thông minh, có học thức, quảng giao, có giáo dục, và lịch thiệp. Trong số 1,8 triệu người ở Kuwait tháng Tám này, chỉ 600.000 người là người Kuwait. Còn có thêm 600.000 người Palestine, số trong đó có thể trung thành với nước Kuwait, số trong đó có thể đứng về phía Iraq bởi vì PLO dã làm như thế, và phần lớn trong số họ làm gì cả chỉ cố làm sao để sống sót được. Rồi lại có thêm 300.000 người Ai Cập, số nghi ngờ gì nữa làm việc cho Cairo, giờ đây cũng có khác gì làm việc cho Washington hay London, và 250.000 người Pakistan, người Ấn Độ. người Bangladesk và Philippin, chủ yếu là lao động bậc thấp hay phục vụ trong nhà - là người Iraq, tin rằng người Kuwait thể nào làm được việc gì mà phải mượn đến bàn tay của người nước ngoài. Và sau đó có thêm 50.000 người công dân của Thế giới Thứ nhất - , Mỹ, Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Thuỵ Điển, Đan Mạch. Và cho rằng phải đối mặt với gián điệp nước ngoài... Là chỉ huy bộ phận phản gián, có thể cho đóng cửa biên giới và cắt các đường dây điện thoại. Nhưng giờ đây bất cứ cái vệ tinh dở hơi nào cũng có thể phun các số liệu vào điện thoại di động hay cái modem máy tính và với đến tận California. Khó mà có thể cắt đứt hoặc theo dõi nguồn, trừ phi có thiết bị cực tốt, mà có.

      biết mình thể kiểm soát đường ra của các thông tin hay mạng lưới lằng nhằng của những người tị nạn do thám qua biên giới. cũng thể gây tác động nào tới các vệ tinh Mỹ bay tít trời cao, mà ngờ rằng giờ đây được lập chương trình để bay quỹ đạo quanh Kuwait và Iraq trong mỗi phút. Chẳng ích gì chú tâm vào cái thể. Mục tiêu chính là ngăn chặn phá hoại chủ động, tấn công giết người lraq thực tế diễn ra và phá hoại những thiết bị của họ: và tạo thành của phong trào kháng chiến. Và có thể phải ngăn chặn những giúp đỡ từ bên ngoài, theo hình thức người, kỹ nghệ, hay thiết bị, để có thê hình thành bất kỳ loại phản kháng nào.

      Trong đó có thể vượt lên trước các đối thủ của mình ở AMAM, cảnh sát mật, những người đóng ở hai tầng gác. Sáng nay được biết Khatib đặt Sabaawi, làm chỉ huy AMAM ở Kuwait. Nếu những người Kuwait kháng chiến rơi vào tay mấy lão này, họ có thể phải học cách gào to như là những kẻ ly khai ở trong nước. Đó là tóm tắt ngắn gọn của .

      Sáng hôm đó, tiến sĩ Terry Martin kết thúc bài giảng của mình tại trường Nghiên cứu Phương Đông và Châu Phi, trường thuộc hệ thống đại học tổng hợp London ở phố Gower. vào buổi trưa và về nghỉ ở phòng nghỉ chung của nhân viên. Bên ngoài phòng mình, va phải Mabel, thư ký cùng với hai giảng viên cao cấp khác về các nghiên cứu Arập.

      - Ồ, tiến sĩ Martin, có bức tin cho ông đây. lục tìm trong cái cặp to đùng của mình, đeo lùng thùng xuống tận đầu gối mặc juýp ngắn của mình, và chìa ra mẩu giấy

      - Ông này gọi cho ông đấy. Ông ấy ông hãy gọi khẩn cấp cho ông ấy.

      Trong phòng chung, Martin đắm chìm trong những ghi chép bài giảng về Abassid Caliphate rồi gọi cú điện thoại bằng máy treo tường. Có người trả lời khi chuông reo lần thứ hai, và giọng nữ trong trẻo nhắc lại số điện thoại. có tên công ty, chỉ có số điện thoại.

      - Ông Stephen Laing có ở đó ? Martin hỏi.

      - Tôi có thể biết ai gọi ạ?

      - Ờ... tiến sĩ Martin. Terry Martin. Ông ấy gọi cho tôi.

      - À phải, tiến sĩ Martin. ông chờ máy nhé.

      Martin nhăn trán. ta biết về cuộc gọi, biết tên . Trong đời mình, chưa từng nhớ ra cái tên Stephen Laing nào hết cả.
      người đến máy điện thoại: Stephen Laing đây. Chà, là rất tuyệt vì ông gọi lại sớm thế. Tôi biết đó quả là lời nhắn quá ngắn ngủi, nhưng trước chúng ta từng gặp nhau ở Viện Nghiên cứu chiến lược. Ngay sau khi ông đọc bài diễn văn tuyệt vời về hệ thống tiến hành chiến tranh của lraq. ông có dự định gì cho trưa nay chưa?
      Laing, dù là ai nữa: tỏ ra rất độc đáọ và thuyết phục.

      - Hôm nay? Bây giờ luôn à?

      - Trừ khi ông có việc gì dự định trước. -ông nhớ đến chuvện gì nào?

      - Ăn xăng uých ở căng tin. Martin .

      - Liệu tôi có thể mời ông bữa ở nhà hàng Scott's được ? ông biết nó mà, dĩ nhiên. Phố Mount.

      Martin biết có biết nhà hàng đó, trong số những tiệm hải sản ngon nhất và đắt nhất London. Cách đây hai mươi phút xe điện. Mới mười hai giờ rưỡi. Và thích ăn đồ biển. Và Scott's lại ở ngoài tầm của lương giáo sư. Phải chăng chẳng maỵ mà Laing biết được những điều đó?

      - Ông có làm cho ISS ? hỏi.

      - Hãy giải thích trong bữa trưa, thưa tiến sĩ. giờ nhé. Ông nhớ nhé. Điện thoại dập xuống.

      Khi Martin vào nhà hàng, người hầu bàn chính về phía và chào .

      - Tiến sĩ Martin đấy phải ạ? ông Laing đợi ông ở bàn. Xin hãy theo tôi.

      Đó là cái bàn yên tĩnh ở góc phòng, rất kín đáo. Có thể chuyện mà lo bị nghe thấy. Laing, người mà cho đến giờ Martin vẫn chắc là chưa bao giờ gặp, đứng dậy để chào , là người đàn ông xương xương trong bộ comple đen và ca vát màu sẫm cùng bộ tóc xám dầy. Ông ta chỉ cho ông và cúi xuống nhìn chai Meursault hảo hạng khay đá Martin lúc lắc người.

      - Ông hề ở Viện. phải hả ông Laing?

      Laing dễ bị bắt nọn, ông ta nhìn vào chai rượu lạnh và người hầu bàn xa, bỏ lại cho mỗi người bản thực đơn. Ông ta nâng cốc với người khách của mình.

      - Nhà Thế kỷ, dĩ nhiên rồi. Điều đó có làm ông phiền ?

      Sở Phản gián bí mật làm việc ở Nhà Thế kỷ, toà nhà khá kín đáo ở bờ nam sông Thames giữa Elephant và Castle và phố Old Kent. Đó phải là toà nhà mới và có vẻ hợp với công việc bên trong, nó có cấu trúc rối rắm đến nỗi cần thiết phải kiểm tra giấy ra vào của khách; trong vài giây, họ lạc đường và phải kêu cứu.

      - , chỉ thấy thú vị thôi, Martin nới.

      Trong vòng năm năm vừa qua, mặc dù mới chỉ ba mươi nhăm tuổi, còn rất trẻ nhưng tiến sĩ Martin dần được đặt hàng phát biểu giới thiệu những tài liệu khó nhằn của các cơ quan như là Viện Nghiên cứu Chiến lược (ISS). Viện United Services, và cho cơ quan nghiên cứu về ngoại giao, Chatham House. Survival là tờ tạp chí của ISS, và mỗi số hai mươi nhăm bài viết tự động được chuyển đến cho Cơ quan nước ngoài và Khối thịnh vượng chung ở phố King Charles, ở đó nãm bài được lọc để chuyển cho Nhà Thế kỷ.

      Lợi ích của Terry Martin đối với những người này là nằm ở hiểu biết tuyệt vời mang tính kinh viện của về Lưỡng Hà trung cổ, mà là ở điểm thứ hai mà có. Là quan tâm cá nhân, từ nhiều năm nay bắt đầu nghiên cứu các lực lượng quân đội của Trung Đông, quan tâm đến các triển lãm quốc phòng và quan hệ thân mật được vun trồng giữa những nhà sản xuất và các khách hàng người Arập, nơi tiếng Arập thành thục của mình khiến có được nhiều mối quan hệ. Sau mười năm đă trở thành bách khoa toàn thư về chủ đề tay trái này và luôn được các chuyên gia hàng đầu kính trọng lắng nghe, rất giống với nhà tiểu thuyết người Mỹ Tom Clancy đượe xem như là chuyên gia tầm cỡ thế giới về trang thiết bị quốc phòng của NATO và của Hiệp ước Vacsava trước đây.

      Chai rượu thứ hai được mang đến, và họ bắt đầu chén ngon lành.
      Tám tuần trước Laing, người vào thời gian đó là giám đốc bộ phận Trung Đông của Nhà Thế kỷ, cầu được xem bức chân dung Terry Martin. Ông bị ấn tượng với những gì trông thấy.
      Sinh ở Baghdad, lớn lên ở Iraq, rồi học ở , Martin rời Halleybury với ba bằng ở cấp độ cao, tất cả đều xuất sắc, tiếng . lịch sử, và tiếng Pháp. Haileybury phê ông là học trò xuất sắc, được dành cho học bổng học ở Oxford hoặc Cambridge.

      Nhưng cậu bé, người tiếng Arập thành thạo, muốn theo con đường nghiên cứu Arập, thế là đệ đơn nghiên cứu sinh vào trường Nghiên cứu Phương Đông và Châu Phi ở London, tham dự vào kỳ phỏng vấn mùa xuân năm 1973
      Được chấp nhận ngay lập tức. tham dự kỳ học mùa thu năm 1973, nghiên cứu lịch sử Trung Đông. đứng đầu trong ba năm học và sau đó được cấp thêm ba năm học bổng để làm bằng tiến sĩ, chuyên ngành Iraq các thế kỷ tám đến mười lãm, với đánh giá đặc biệt cao cho luận văn về Abassid Caliphate từ năm 750 trước Công nguyên đến năm 1258. đạt bằng tiến sĩ năm 1979, sau năm thực tập - ở Iraq năm 1980 khi Iraq xâm chiếm Iran. khai mào cho cuộc chiến tám năm, và kinh nghiệm này bắt đầu hướng quan tâm của tới các lực lượng vũ trang của Trung Đông.

      Khi trớ về được giao ghế giảng dạy ở tuổi mới hai mươi sáu, vinh dự đặc biệt ở SOAS, trường cho tới lúc đó là trong số những trường tốt nhất và do đó khó nhất về nghiên cứu A rập thế giới. được thăng chức giảng viên do tính đến xuất sắc trong những nghiên cứu độc đáo. và trở thành ứng viên về lịch sử Trung Đông ở tuổi ba mươi tư, ràng rất được coi trọng để có được học hàm giáo sư vào tuổi bốn mươi.

      Tất cả những cái đó Laing dã đọc được trong bản tiểu sử viết tay. Cái làm ông quan tâm hơn cả thế nữa là cái chuyên ngành thứ hai, quan tâm hiểu biết đến các kho vũ khí ở Trung Đông. Trong nhiều năm, đó vấn đề chỉ được đề cập cách vòng vo. bị cấm kỵ bởi cuộc chiến tranh lạnh. Nhưng bây giờ . . .

      - Chuyện này liên quan đến vụ Kuwait, cuối cùng ông . Những dư vị của món cá tiêu. Hai người thưởng thức món đét xe. Meursault rất êm ái trôi qua, và Laing được đảm bảo tuyệt đối rằng Martin ăn nhiều. Giờ đây hai người uống rượu vang đến những chuyện khác.

      - Như ông cũng biết đấy, mấy ngày vừa qua địa ngục đột ngột ập đến.

      Laing hiểu vấn đề. Bà thủ tướng quay trở về từ Colorado với những lưu ý quan trọng theo cung cách Boadicea của bà, lưu ý đến cái mà bà Nữ hoàng già cả nước sử dụng để chẻ người La Mã ra ở đầu gối với những thanh kiếm gắn ở các bánh xe nếu họ dám chạy. Bộ trưởng ngoại giao Douglas Hurd có tiếng suy nghĩ đến chuyện đội mũ giáp, và những đòi hỏi ngay lập tức rơi xuống đầu Nhà Thế kỷ.

      - Vấn đề là, chúng ta có thể tuồn ai đó vào Kuwait để biết thực điều gì xảy ra.

      - Dưới chiếm đóng của người Iraq ư? Martin hỏi.

      - Tôi e rằng đúng thế đấy, kể từ khi họ có vẻ có trách nhiệm.

      - Thế tại sao lại là tôi?

      - Hãy để tôi thẳng thắn nhé, Laing . rất tập trung, chúng ta thực cần biết điều gì xảy ra ở bên trong. chiếm đóng của quân đội Iraq - bao nhiêu, sức mạnh thế nào, trang thiết bị ra sao? Những người của chúng ta - họ có gặp nguy hiểm , họ có thể thực được cứu thoát an toàn ? Chúng ta cần người vào trong đó. Thông tin này là tối cần thiết. Cần ai đó tiếng A rập như người A rập, người Kuwait hay lraq. Bây giờ, ông sống giữa những người tiếng A rập, nhiều hơn là tôi.

      - Nhưng chắc chắn là ở phải có đến hàng trăm người Kuwait có thể được đưa về nước chứ, Martin đề xuất.

      Laing thoải mái chọc lưỡi vào chỗ ngứa giữa hai răng.

      - Tất nhiên. ông ta thầm, nhưng tốt hơn hết vẫn là người của ta.

      - người ư? Ai có thể trở thành người A rập ngay giữa họ được cơ chứ?

      - Đó là cái mà tôi muốn. Tôi e rằng chúng ta nghi ngờ biết có ai đó ...

      Tại rượu vang, hoặc là đồ nhắm. Terry Martin quen uống Meursault vào bữa trưa. Sau này, sẳn lòng cắn vào lưỡi mình nếu có thể quay đồng hồ lại được mấy giây. Nhưng ra, và quá muộn để dừng lại.

      - Tôi biết người. trai tôi, Mike. là người chủ chốt trong SAS. ta có thể biến thành người A rập.

      Laing giật nảy người lên ngay như thể bị cắn vào răng.

      - Liệu ta có thể bây giờ ? ông ta thầm, liệu ta có thể bây giờ "

    5. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      CHƯƠNG 3


      Steve Laing quay về Nhà Thế kỷ bằng xe điện trong tâm trạng của bất ngờ thú vị và thăng hoa. Ông thu xếp ăn trưa với nhà A rập học thông thái với hy vọng tuyển mộ ông ta cho nhiệm vụ khác, mà ông vẫn giữ trong đầu và chỉ mới nêu ra được vấn đề Kuwait như là chủ đề trò chuyện. Nhiều năm hoạt động dạy ông cách bắt đầu với vấn đề hay đòi hỏi mà mục tiêu có thể được hòan bị, rồi sau đó chuyển sang vấn đề thực tế cần giải quyết.

      Lý thuyết là người chuyên gia, bị bất ngờ bởi lời đòi hỏi đầu tiên. có thể dễ xoay chuyển hơn cho tự kính trọng bản thân để đồng ý cái thứ hai. ngạc nhiên của tiến sĩ Martin trả lời câu hỏi từng được nêu ra trong cuộc họp ở cấp cao ở Nhà Thế kỷ hôm trước. Vào lúc nó thường được xem như là mong muốn vô kế khả thi. Nhưng nếu tiến sĩ Martin trẻ tuổi đúng... người tiếng A rập thậm chí còn tốt hơn ông ta . . . và ở trong binh đoàn lực đặc biệt và do đó quen cuộc sống nguỵ trang... thú vị, là thú vị.

      Về đến Nhà Thế kỷ, Laing thẳng đến gặp thượng cấp trực tiếp của mình: người phụ trách Trung Đông. Sau giờ chuyện cả hai lên gác để gặp trong hai ông phó. Cơ quan phản gián bí mật, hay SIS - cũng được biết đến rộng rãi với cái tên chính xác MI-6 - vẫn hoạt động ngay cả trong những ngày chính phủ "mở cửa" tổ chức trong bóng tối với các nhân viên bí mật. Chỉ trong những năm gần đây Chính phủ mới chính thức thừa nhận rằng tất cả tồn tại. Và chỉ sau năm 1991 vẫn chính phủ đó mới rộng rãi cho công bố tên người lãnh đạo của nó, bước tiến được xem bởi những người nắm nội tình như là bước điên rồ và thiển cận chẳng phục vụ cho mục đích nào khác ngoài việc đẩy con người kém may mắn này đến những lời đàm tiếu xấu về những vệ sĩ, được trả tiền bằng nguồn quỹ công. Đó là những trò chính trị dở hơi.

      Nhân viên SIS có vỏ bọc là nhân viên của nhiều bộ khác nhau, chủ yếu là Bộ Ngoại giao. Ngân sách xuất trong tài khoản nào, được che giấu cẩn thận trong những ngân quỹ của hàng chục bộ khác nhau. Ngay cả tổng hành dinh tối tăm của nó trong nhiều năm được coi là bí mật quốc gia, cho đến khi nó bị phơi bày bởi mọi người lái xe điện London, được hỏi để đến Nhà Thế kỷ, có thể trả lời. "Ồ, ông muốn đến nhà Spook chứ gì?" Ở điểm này, người ta chấp nhận nếu những lái xe điện của Lon don biết nó ở đâu, KGB cũng có thể xử lý nó.
      Mặc dù kém nổi tiếng hơn CIA, nhất định là hơn và kém đại hơn, "Hãng" có được tiếng tăm vững chắc trong số bạn bè và kẻ thù vì chất lượng "sản phẩm" của mình (những thông tin phản gián thu thập được). Trong số những cơ quan tình báo lớn của thế giới. chỉ Mossad của Israel là hơn và thậm chí còn tăm tối hơn.

      Người đứng đầu SIS dược biết đến cách chính thức là Lãnh đạo, và bao giờ, dù hàng đống tên giả báo chí, là Giám đốc-Tướng. Tổ chức chị em của nó. MI-5 hay cơ quan an ninh,chịu trách nhiệm phản gián trong lãnh thổ Vương quốc mới có giám đốc-tướng.
      Trong nhà, lãnh đạo được gọi là "C", dường như viết tắt của từ Chief, nhưng hoá ra lại phải vậy. Người chỉ huy đầu tiên là đô đốc Sir Mansfield Cummings. và chữ C là viết tắt của họ của quý ngài chết từ lâu đó.

      Dưới lãnh đạo là hai phó và dưới họ là các trợ lý lãnh đạo Những người này chỉ huy năm ban khác nhau: Chiến dịch (hay Ops, cơ quan thu thập các tin tức quan trọng). Tình báo (cơ quan phân tích chúng để đưa ra bức tranh có nghĩa đáng tin cậy), Kỹ thuật (chịu trách nhiệm với những giấy tờ giả mạo, camera mini, chữ viết bí mật, những liên lạc siêu . và mọi thứ bit của kim loại khác cần thiết để làm cái gì đó trái với pháp luật và giữ nó để thế giới thù địch mò đến); Hành chính (coi về lương bổng, lương hưu: danh sách nhân viên, kế toán ngân sách, Cơ quan luật: đăng ký trung tâm, và những cái tương tự); và Phản gián (cơ quan có nhiệm vụ giữ cho đơn vị được trong sạch khỏi thâm nhập đối nghịch bằng việc kiểm tra).

      Dưới Ops là những người Kiểm tra, những người trông coi các đơn vị khác nhau của toàn thế giới - thế giới phương Tây, khối Vacsava, châu Phi, châu Âu, Trung Đông và Á-Úc - với cơ quan bên cạnh phụ trách các mối quan hệ, cơ quan có nhiệm vụ cố gắng hợp tác với các cơ quan "thân thiện" khác. Tháng Tám năm 1990 do, tiêu điểm của quan tâm là Trung Đông, và đặc biệt là Ban Iraq, đơn vị bị toàn bộ giới chính trị và quan chức của Westminster và Whitehall đổ xô đến như câu lạc bộ người hâm mộ ồn ã.

      Vị phó cẩn thận nghe những gì người Kiểm soát Trung Đông và giám đốc Ops của vùng trình bày trình bày lại nhiều lần ý tưởng. Ông nghĩ đó là, hoặc có thể là, lựa chọn thú vị. hẳn là có thông tin nào lọt dược ra ngoài Kuwait. Trong bốn mươi tám giờ đầu tiên. trước. khi người Iraq đóng các dường dây điện thoại quốc tế, ngay cả công ty có văn phòng ở Kuwait cũng chuyện qua điện thoại, fax, telex cho người sở tại ở đó. Đại sứ quán Kuwait rót vào tai cơ quan Ngoại giao với những câu chuyện khủng khiếp đầu tiên và đòi được tự do ngay lập tức.

      Vấn đề là ở chỗ, hiển nhiên là thông tin nào trong đó thuộc vào loại mà lãnh đạo có thể trình bày lên Chính phủ với tin cậy tuyệt đối được. Ngay sau vụ xâm chiếm, Kuwait "đống lầy tởm lợm", như bộ trưởng Ngoại giao nhấn mạnh rất sáu giờ trước. Ngay cả nhân viên của Đại sứ quán giờ đây cũng bị đóng chặt trong chính nó ở bên lề của Vịnh, gần như trong bóng tối của những ngọn tháp Kuwait nhọn hoắt, cố gắng liên lạc bằng điện thoại với những công dân danh sách chẳng chính xác tẹo nào để xem họ có ổn . Đôi khi chuyện với những doanh nhân và kỹ sư hoảng sợ đó là họ có thể nghe thấy tiếng súng. "Hãy cho tôi cái gì đó mà tôi biết ấy." Đó là phản ứng của Nhà Thế kỷ trước những viên đá quý của tình báo đó.

      Giờ đây người ngay trong cuộc,, và là tay xâm nhập sâu được đào luyện, người của Ops có thể biến thành người A rập - trở nên hết sức hấp dẫn. Ngoài số thông tin thực tế rất hiếm hoi như là cái quái quỷ gì xảy ra ở đó, cơ may tồn tại để chỉ cho các nhà chính trị cái gì đó thực xảy ra và làm cho William Webster cẩm đầu CIA phải ngậm đắng nuốt cay.
      Vị phó hề có ảo tưởng nào về đánh giá cao hết sức của Margaret Thateher đối với SAS từ cái buổi chiều tháng Năm năm 1980 khi họ hạ đo ván những tên khủng bố ở Đại sứ quán Iran tại London. và bà qua cả buổi tối với đội ở các công dường Albany uống whisky và nghe những câu chuyện bậy bạ của họ.
      Tôi nghĩ, cuối cùng ông , tốt hơn hết là tôi phải chuyện với bên DSF.

      Công khai mà , SAS chẳng có gì liên quan với SIS. Những mạng lưới chỉ huy khá là khác nhau. Đội SAS số 22 năng nổ (ngược với đội 23 làm nửa giờ) được đặt ở công gọi là Stirling Lines, ở bên ngoài thành phố Hereford ở miền tây nước . Vị chỉ huy của nó báo cáo cho giám đốc các lực lượng đặc biệt. hay DSF, cái cơ quan trong dãy toà nhà ớ tây London. Cơ quan thời nằm ở cùng toà nhà có hàng cột từng rất duyên đáng ở cái bao bọc, là phần của cái bẫy thỏ của những phòng thiếu những thứ rực rỡ tầm quan trọng của nhưng chiến dịch được hoạch định tại đây. DSF nằm dưới vị giám đốc của các chiến dịch quân ( vị tướng) người đứng dưới vị lãnh đạo của Cơ quan tướng ( vị tướng cấp còn cao hơn). và cơ quan tướng này lại đặt dưới Bộ Quốc phòng.

      Nhưng từ Special trong tên của SAS là do nguyên nhân. Ngay cả từ khi nó được thành lập ở sa mạc miền tây Libya năm 1941 do đại tá David Stirling, SAS thay đổi chiến dịch nhiều. Nhiệm vụ của nó thường là luồn sâu với cái nhìn được đặt kín và quan sát những chuyển động của kẻ thù; luồn sâu với mục đích phá hoại, ám sát, và những vụ thông thường; thanh trừng khủng bố. khôi phục; bảo vệ từ rất gần; làm vệ sĩ các nhân vật cao cấp và có quyền lực; và những nhiệm vụ huấn luyện ở nước ngoài.

      Là thành viên của đơn vị toàn tinh hoa, các sĩ quan và người của SAS sống khá tách biệt, thể nào trò chuyện về công việc của mình với người ngoài, từ chối chụp ảnh: và hiếm khi xuất bên ngoài bóng tối.
      Vì cách sống của các thành viên của hai xã hội bí mật có nhiều điểm tương đồng. SIS và SAS biết nhau chí ít là qua quan sát và thường xuyên hợp tác trong quá khứ, cả trong những chiến dịch phối hợp hoặc với những người tình báo. "Vay mượn" lính chuyên gia từ trung đoàn cho nhiệm vụ đặc biệt. Cũng chính cách này mà vị phó của SIS (người hủy chuyến thăm của mình với lãnh đạo, ngài Colin) có trong đầu óc của mình khi ông nâng ly whisky mạch đơn từ tay thiếu tướng J.P.Lovat trong cái tổng hành dinh khó nhận dạng ở London vào buổi tối khi mặt trời sụp xuống.

      Đối tượng diện của cuộc trò chuyện đó giờ này nhìn bản đồ trong doanh trại khác cách đó hàng dặm. Tám tuần vừa qua, và đội của mình với mười hai thông tín viên sống ở trong những khu phố được chỉ định cho đội vệ sĩ của Sheikh Zayek bin Sultan của Abu Dhabi. Đó là nhiệm vụ trung đoàn giao nhiều lần trước đó Mọi thăng trầm của bờ biển phía tây Vịnh, từ Sultanate của Oman miền nam đến Bahrain ở miền bắc, nằm trong chuỗi các sultanate, emirate. và sheikhdom ở trong và ngoài nó người chiếm đóng hàng thế kỷ. Các quốc gia Trucial, giờ đây là Các tiểu vương quốc Arập, được gọi thế là vì tửng ký hoà ước với những người có trách nhiệm của họ để bảo hộ họ với Hải quân Hoàng gia chống lại những tên cướp biển xấu xa trong những ưu tiên về trao đổi thương mại. Quan hệ tiếp diễn, và nhiều trong số những người câm đầu đó có những đơn vị cao cấp đào tạo ở những nơi tốt hơn của bảo hộ chặt chẽ bởi người giảng những đội của SAS đến thăm. khoản phí được trả. tất nhiên, nhưng là cho vị Bộ trưởng Quốc phòng ở London.

      Thiếu tá Mike Martin có bản đồ lớn của vùng Vịnh và phần lớn vùng Trung Đông trải dài cái bàn rộng và nghiên cứu nó, xung quanh là nhiều người của . Ba mươi bảy tuổi, phải là người nhiều tuổi nhất trong phòng. hai trong số trung sĩ của bốn mươi, cứng rắn, khắc khổ, và những người lính rất thiện chiến mà trong số đó người trẻ hơn cả hai mươi tuổi đặc biệt quan tâm chăm chú.

      - Có gì trong đó cho chúng ta , ông chủ? trong số các trung sĩ hỏi.

      Trong những đơn vị thế này, các thành viên thường gọi nhau bằng tên thân mật. nhưng các sĩ quan vẫn được gọi là "ông chủ ".

      - Tôi biết. Martin , Saddam Hussein đích thân vào Kuwait. Vấn đề là: ông ta có làm trái với chính thoả thuận của mình hay ? Nếu , quân Liên Hợp Quốc có quyền được đưa lực lượng vào và đuổi ông ta ra. Nếu thế tôi nghĩ ở đó phải có việc gì đó cho chúng ta làm đấy.

      - Tốt, trung sĩ hài lòng . và sáu người khác ngồi xung quanh bàn cũng gật gù. quá lâu rồi. kể từ khi họ vào đây, họ được tham dự vào chiến dịch đánh nhau nào thực , ác liệt.

      Tại trung đoàn có bốn môn cơ bản, mỗi người được tuyển phải làm chủ được trong số chúng. Có lính dù, chuyên nhảy dù từ độ cao; những người chuyên leo núi, những người chỉ thích đá dựng dứng chặn dường và những đỉnh cao; những người chuyên lái xe, lái những chiếc Land-Rovers mọi địa hình; cuối cùng là lính thuỷ, chuyên sử dụng canô, những người mệt mỏi thầm . và lặn trong những công việc cần ở dưới nước. Trong đội mười hai người của mình, Martin có bốn lính dù, kể cả , bốn chuyên gia lái xe dạy người Abu Dhabi về những nguyên tắc tấn công chớp nhoáng và phản công nền sa mạc. và vì Abu Dhabi nằm ở vùng Vịnh, có thêm bốn lính thuỷ. Ngoài những chuyên môn đặc biệt của mình, những người của SAS phải có kiến thức tốt về những môn còn lại, để có thể thay đổi nhau được dễ dàng. Bên cạnh đó họ còn phải làm chủ được nhiều kỹ năng khác - vô tuyến điện, sơ cứu và ngôn ngữ. Đơn vị chiến đấu cơ bản gồm bốn người. Nếu trong số đó bị loại khỏi cuộc chiến, nhiệm vụ của ta nhanh chóng được san sẻ giữa ba người còn sống, dù đó là những người vận hành radio hay những người chuyên về y tế.

      Ngoài ra họ còn tự mình học hỏi để đạt đến trình độ cao hơn bất kỳ đơn vị nào khác trong quân đội, và vì họ khắp thế giới: họ buộc phải biết nhiều thứ tiếng. Trong nhiều năm tiếng Nga được ưa chuộng giờ đây hết mốt sau khi chiến tranh lạnh kết thúc. Tiếng Malay luôn rất hữu dụng ở vùng Viễn Đông, nơi trung đoàn chiến đấu nhiều năm ở Borneo. Tiếng Tây Ban Nha tăng lên từ khi các chiến dịch phản kháng ở Colombia chống các ông trùm ma tuý của Medellin và Cali. Tiếng Pháp cũng cần học - trong số trường hợp nhất định. Và vì trung đoàn tiêu tốn nhiều năm phục vụ Sultan Qaboos ở Oman trong trận chiến của ông với những phần tử Cộng sản từ nam Yemen tiến vào sâu trong Dhofar. nhiều nhiệm vụ huấn luyện khác dược tiến hành ở khắp vùng Vịnh và tại A rập Xêut, nhiều người của SAS tốt riêng A rập.

      Trung sĩ : "ông chủ lạ . cái gì cũng biết."

      Mike Martin đứng thẳng và xoa tay lên mái tóc nâu sậm.

      - đến lúc trở vào rồi đấy.

      Mới hơn mười giờ. Họ phải dậy từ tinh mơ đế tập chạy mười dặm hàng ngày với những gánh nặng trước khi mặt trời trớ nên thiêu đốt. Đó là cái Abu Dhabi thích lắm nhưng các tộc trưởng của ông lại rất ưa. Nếu những người lính ngoại quốc từ này thế là tốt cho họ, đúng là tốt cho họ . Bên cạnh đó, ông ta trả tiền cho nó, và ông ta muốn tiền của mình thực có giá.
      Thiếu tá Martin quay về hành dinh của mình và ngủ giấc ngắn nhưng sâu. Trung .sĩ đúng; có thể nhìn thấy mọi thứ. Người của thường xuyên nghĩ thừa hưởng nước da màu bánh mật, mắt đen, và tóc đen sậm từ tổ tiên người Địa Trung Hải. bao giờ với họ, nhưng họ nhầm.

      Ông ngoại của cả hai cậu bé Martin từng là người trồng chè của ở Darjeeling, Ấn Độ. Các cậu bé được nhìn ảnh của ông - cao. mặt hồng hào, ria mép màu vàng hung, tẩu thuốc ngậm trong miệng, súng cầm tay. đứng bên con hổ bị bắn chết. Rất giống pukka sahib, người vùng Raj, Ấn Độ. Sau đó vào năm 1928 Terence Granger thực điều tưởng ấy: ông đem lòng và cố mà lấy người Ấn. hẳn vì nàng đẹp và duyên dáng. Đó hoàn toàn phải lý do. Công ty chè sa thải ông - có thể làm họ nguy hiểm. Họ đày ông vào sâu trong lục địa đến đồn điền hoang vắng ở Assam xa xôi.

      Điều này được coi như là trừng phạt, nhưng thực như vậy. Granger và dâu mới của mình, hoa hậu Indira Bohse trước đây, thích được ở đó - vùng đất hoang dã, kỳ ảo, săn thú và những con hổ, những ruộng chè xanh đậm, khí hậu, con người. Và ở đó Susan được sinh ra vào năm 1930. Họ nuôi lớn ở đó, Anglo-Ấn với những đứa bạn chơi đùa người Ấn.
      Năm 1943 cuộc chiến tranh lan đến tận Ấn Độ, với cuộc tấn công của người Nhật Bản qua Miến Điện đến biên giới. Granger đủ già để phải tình nguyện, nhưng ông cứ cố xin , và sau khoá huấn luyện cơ bản ở Delhi ông được phong chức thiếu tá trong đội Assam Rifle. Mọi binh sĩ người đều được thăng thẳng lên thiếu tá; họ bao giờ phải phục vụ dưới quyền sĩ quan người Ấn, người Ấn chỉ có thể lên đến trung úy hay đại uý mà thôi.

      Năm 1945 ông chết khi hành quân qua Irrawaddy. Thi hài của ông bao giờ được tìm thấy; nó vun thêm chất mùn cho những cánh rừng Miến Điện rậm rạp, đó là trong mười nghìn người từng nhìn thấy những trận chiến giáp lá cà ghê rợn của chiến tranh.
      Với khoản trợ cấp của công ty, người vợ goá của ông trở về với nền văn hoá riêng của mình. Hai năm sau đó. nhiều vụ loạn lạc lại xảy đến. Ấn Độ bị chia cắt vào năm 1947. Người phải . Ali Jinnah cương quyết giữ Moslem Pakistan của mình ở phía bắc, Pandit Nehru đặt chủ yếu quân đội của Ấn Độ Hindu ở phía nam. Vì những làn sóng người tị nạn của hai tôn giáo đổ về phía bắc và nam, chiến ác liệt nổ ra. Hơn triệu người chết. Bà Granger, sợ hãi cho an nguy của con mình. gửi học với người cậu tuổi nhất của bà, kiến trúc sư thực thụ ở Haslemere, Surrey.

      Sáu tháng sau, người mẹ chết trong cuộc bạo loạn. Thế là đến năm mười bảy tuổi Susan Granger đến nước , mảnh đất của ông cha chưa bao giờ được nhìn thấy. bỏ học năm ở trường nữ học gần Haslemere và sau đó hai năm ở trại huấn luyện y tá ở bệnh viện Tướng Farnham, tiếp theo làm thư ký cho cố vấn luật. Ở tuổi hai mốt, tức là tuổi nhất được chấp nhận, đệ đơn xin phục vụ cho quân hải ngoại . được huấn luyện với các khác ở trường BOAC. trước đây là nhà tu kín St.Mary cổ kính ở Heston, ngay bên ngoài London. Khoá huấn luyện tốt, và trông rất già dặn. Hai mươi mốt tuổi đẹp, với mái tóc ken dầy, mắt đậm, và da như của người châu Âu với màu vàng óng ả. Sau khi được huấn luyện được chỉ định vào đường số , London Ấn Độ - lựa chọn tất yếu đối với tiếng Hindu thành thạo như vậy.

      chuyến dài, rất dài trong những ngày đó chiếc Argonaut bốn động cơ đẩy. Lộ trình là London-Rome- Cairo-Basra-Bahrain-Karachi-Bombay. Rồi sau đó là Delhi. Calcutta, Colombo, Rangoon, Bangkok, và cuối cùng là Singapore, Hongkong và Tokyo. Dĩ nhiên, phi hành đoàn thể thực được tất cả những cái đó, và phi hành đoàn thứ nhất dừng ở Basra phía nam Iraq, nơi phi hành đoàn khác thay họ.

      Đó là vào năm 1951, tại lần uống rượu ở Port Club, gặp kế toán trẻ nhút nhát của Công ty Dầu mỏ Iraq, khi đó còn do người quản lý và điều hành. Tên là Nigel Martin, và mời ăn tối. từng được cảnh báo về những gã chim - những hành khách, phi hành đoàn, và trong những lần dừng nghỉ chân. Nhưng đẹp trai, do đó nhận lời. Khi đưa về nhà trọ của BOAC, nơi các nữ chiêu đãi viên tập trung. chìa tay mình ra. rất kinh ngạc và nắm lấy nó. Rồi cứ tự hỏi trong cái nóng kinh người làm thế nào để mà có thể hôn Nigel Martin được.

      Lần dừng sau đó ở Basra, lại có ở đó. Chỉ sau khi họ cưới mới nhận rằng dã theo dõi chặt chẽ thông qua viên sĩ quan Alex Reid của BOAC. Mùa thu năm 1951 đó họ chơi tennis, bơi Ở Port Club. và cùng nhau đến những khu chợ của Basra. Theo gợi ý của xin nghỉ và đến với ở Baghdad, nơi sống. nhanh chóng nhận ra rằng có chỗ có thể hạ cánh. diện những chiếc váy màu sắc sặc sỡ. những dấu hiệu và mùi vị của đường phố. những món ăn bên bờ sông Tigris, những cửa hàng diệu kỳ bán cỏ cây và gia vị, vàng, và đồ trang sức - mọi cái gợi cho nhớ đến Ấn Độ nơi chôn rau cắt rốn. Khi đề nghị cưới , nhận lời ngay tức khắc.

      Họ cưới nhau năm 1952 ở nhà thờ lớn St.George, nhà thờ giáo ở phố Haifa. và mặc dù có ai đứng bên cạnh ở trong nhà thờ, nhiều người đến từ IPC và từ Đại sứ quán để trám vào chỗ hai bên nhà trai .
      Đó là khoảng thời gian tốt để sống ở Baghdad. Cuộc sống chậm rãi và dễ dàng, ông vua trẻ con Faisal ở ngai vàng với Nuri nhiếp chính cầm quyền trong đất nước, và ảnh hưởng lớn nhất là từ . lẽ vì đóng góp to lớn của IPC cho nền kinh tế và lẽ khác phần lớn các sĩ quan trong quân dội đều được học ở , nhưng chủ yếu là do tầng lớp nhiễm giáo dục theo lối , điều luôn luôn để lại ấn tượng rất lâu dài.

      Trong thời gian đó nhà Martin có hai cậu con trai, sinh năm 1953 và 1955. Được đặt tên thánh là Michael và Terry, chúng chẳng giống gì nhau hết cả. Ở Michael, gene của hoa hậu Indira Bohse đậm nét: cậu có tóc đen, mắt sẫm màu, và da bánh mật, các thành viên của cộng đồng cho rằng cậu giống người A rập hơn. Terry, kém hai tuổi, lại mang những nét của cha mình: thấp, đậm, da hồng hào, và tóc màu hung.
      Vào lúc ba giờ sáng, thiếu tá Mike Martin bị lay dậy bởi người lính có tuổi.

      - Có bức điện, sayidi.

      Đó là thông điệp khá đơn giản, nhưng dấu mã khẩn của nó là "blitz", và dấu hiệu đó có nghĩa là nó được chuyển thẳng từ Giăm đốc các lực lượng đặc biệt. cần trả lời. Nó lệnh cho lập tức quay về London ngay chuyến bay gần nhất. bàn giao nhiệm vụ cho viên đại uý SAS. người luôn thay khi về trung đoàn và là người thứ hai sau làm công tác huấn luyện, và chạỵ nhanh đến sân bay trong bộ đồ dân .

      2 giờ 55 sáng chuyến bay về bắt đầu cất cánh. Hơn trăm hành khách ngáy hoặc càu nhàu với các chiêu đãi viên tuyên bố vì lý do quan trọng nên máy bay cất cánh muộn chín mươi phút. Khi các cánh cửa lại mở ra để nhận người duy nhất, người trong bộ đồ jean, bốt cao cổ sa mạc, và áo jacket kín bưng với cái túi to đeo vai, số người phải đợi lâu quá chửi rủa . Người đàn ông được chỉ cho chỗ trống ở hàng hạng nhất, khiến cảm thấy thoải mái. Và trong mấy phút sau khi máy bay cất cánh ngả ghế của mình và ngủ thiếp nhanh chóng. doanh nhân ngồi cạnh , ăn bữa tối thịnh soạn để rồi phải đợi hai giờ trong sân bay và hai giờ nữa máy bay. chán ngán chửi vào khuôn mặt ngủ cách thoải mái gần mình.

      - Đồ Arập khát máu, lão lầm bầm. và cố gắng ngủ mà được.

      Bình minh lên vùng Vịnh được hai giờ, nhưng chiếc máy bay của British Airways vẫn lao về phía tây bắc, đỗ xuống Heathrow ngay trước mười giờ sáng giờ địa phương. Mike Martin ra khỏi sảnh trong những người đầu tiên vì có hành lý gửi trong máy bay. ai ra đón : biết trước. cũng biết là phải đến đâu.
      Ở Washington bình minh chưa lên, nhưng những dấu hiệu đầu tiên của mặt trời làm hồng những ngọn đồi xa xa của hạt Prince Georges, nơi dòng sông Patuxent chảy xuôi xuống gặp Chesapeake. Ở tầng sáu và cũng là tầng cao nhất của toà nhà lớn, hình thuôn giữa đám nhà tạo nên hình dáng cho đại bản doanh của CIA và được biết đơn giản dưới cái tên Langley, ánh sáng vẫn còn tỏ rạng.

      Luật gia William Webster, giám đốc Cục Tình báo Trung ương, nhấn nhấn đầu ngón tay vào đôi mắt mỏi mệt, đỏ ngầu, và đến những cánh cửa sổ có vẽ hình. Màu sắc bạc trước mặt ông của dòng Potomac khi chúng mùa xanh tốt vẫn còn chìm trong bóng tối. Trong giờ mặt trời lên có thể khiến chúng trở lại màu xanh nhạt. Lại thêm đêm thức trắng nữa. Kể từ cuộc xâm lược Kuwait ông phải phập phồng giữa những cú điện thoại từ Tổng thống, Hội đồng An ninh Quốc gia. Bộ Ngoại giao. và có vẻ như, từ bất kỳ ai có số điện thoại của ông- Đằng sau ông, cũng mệt mỏi như ông, là Bill Stewart ngồi, đó là người phó của ông phụ trách các chiến dịch, và Chip Barber, chỉ huy bộ phận Trung Đông.

      Thế là ra sao, DCI hỏi, như thể là hỏi lại câu hỏi có thể có được câu trả lời tốt hơn.

      Nhưng vẫn có thay đổi gì hết cả. Tổng thống, NSC, và Nhà nước đều chờ ngóng những điệp viên cắm sâu từ bên trong trái tim của Baghdad, từ những hội đồng bí mật nhất của chính Saddam Hussein. Liệu ông ta có ở lại Kuwait ? Ông ta có chịu khuất phục trước sức ép của các nghị quyết của Liên Hợp Quốc được Hội đồng Bảo an thông qua? Ông có lùi bước trước lệnh cấm vận dầu mỏ và thắt chặt thương mại? Ông nghĩ gì? Ông ta dự định gì? Mẹ nó chứ, dù sao ông ta ở đâu?

      Cơ quan hề biết. Họ có trạm lớn ở Baghdad: dĩ nhiên. Nhưng người này bị đóng băng từ nhiều tuần qua. Người của cơ quan bị Rahmani lãnh đạo phản gián Iraq phát . Những "nguồn" tốt nhất của ta có vẻ như đều bị Rahmani dò ra cả. Dĩ nhiên, họ có những bức ảnh - đủ ảnh để rút ra cái gì đó. Các vệ tinh, KH-11 và KH- 12, quay quanh Iraq cứ vài phút lần để có được những bức ảnh cận cảnh nét về mọi thứ toàn đất nước .Các chuyên gia chứng nhận có thể có nhà máy sản xuất chất khí độc, cái có thể là thiết bị nguyên tử - hay có thể chỉ là nhà máy sản xuất xe đạp.

      Các chuyên gia của Cơ quan do thám Quốc gia, phần thuộc CIA và phần thuộc quân, cùng với các nhà khoa học ở ENPIC, Trung tâm Xử lý Hình ảnh Quốc gia. đều đưa ra bức ảnh ngày nào đó có thể được hoàn chỉnh. Đó là vị trí chỉ huy chủ yếu: đó là địa điểm tên lửa SAM. đó là căn cứ máy bay chiến đấu. Tốt, bởi vì các bức ảnh với chúng ta như thế. Và ngày nào đó: có thể lắm chứ, chúng tất cả đều phải bị ném bom để trớ lại thời kỳ đồ đá. Nhưng Saddam còn có cái khác nữa ? Còn được giấu kỹ: được chôn sâu dưới lòng đất?
      Nhiểu năm bỏ bê lraq giờ đến ngày phải gặt trái đắng.

      Những người bị quay như chong chóng ghế của mình đằng sau Webster đều là những tay cựu trào ghi vào xương tuỷ về vụ bức tường Berlin khi mà thực còn chưa tòi ra. Họ chặng đường dài để trớ về. trước khi những thiết bị điện tử đảm nhiệm những công việc thu thập thông tin của tình báo. Và họ với ông rằng các máy quay phim của NRO và những tai nghe của Cơ quan An ninh Quốc gia ở Fort Meade phát được các bản đồ, chúng thể do thám các định hướng, chúng thể vào trong bộ não của nhà độc tài.

      Do đó NRO chụp những bức ảnh và tai nghe của Fort Meade được nghe và ghi từng từ ở mợi cuộc gọi điện thoại và các thông điệp phát thanh, bên ngoài và bên trong lraq. Và họ vẫn có câu trả lởi.
      Cũng vẫn cơ cấu chỉ huy đó, cũng vẫn đồi Capitol đó bị thôi miên vớl những thiết bị điện tử mà họ tiêu hàng tỷ đôla để phát triển và tiêu tốn những cái mà bộ óc tinh tế con người có thể cố vấn, giờ đây đòi hói những câu trả lời mà những thứ máy móc đó thể cung cấp được. Và những người đứng sau DCI rằng elint. tình báo điện tử, là chỗ dựa và thêm vào cho humint, phương thức thu thập tin tức tình báo bằng con người, chứ phải thay thế cho họ. Điều này hay ho, nhưng mang lại giải pháp nào cho vấn đề của ông.

      Vấn đề là Nhà Trắng đòi hỏi câu trả lời mà chỉ có thể được cung cấp bằng chắc chắn bởi nguồn tin, người nằm vùng, điệp viên, kẻ phản bội, dù sao nữa cũng leo cao được bên trong hệ thống chính quyền của Iraq. Cái mà chưa thể có được.

      - hỏi Nhà Thế kỷ chưa?

      - Rồi. Cũng như chúng ta thôi.

      - Tôi chuyện với Tel Aviv trong hai ngày nữa, Chip Barber . Tôi gặp Yaacov Dror. Tôi có thể hỏi ông ta ?

      Vị DCI gật đầu. Tướng Yaacov "Kobi" Dror là chỉ huy của Mossad, là cơ quan ít chịu hợp tác nhất của các cơ quan "thân thiện". DCI vẫn còn nhớ đến trường hợp Jonathan Pollard, người do Mossad gài sâu vào Mỹ chống lại nước Mỹ. vài người bạn, ông ghét phải hỏi xin điều gì đó ở Mossad.

      - Hỏi ông ta , Chip. Chúng ta quanh quẩn đây nữa. Nếu ông ta có nguồn tin nào trong Baghdad, chúng ta xin. Chúng ta cần loại sản phẩm này. Trong lúc đó, tốt hơn hết là tôi quay trở lại Nhà Trắng và đối mặt lại với Scowcroft vậy.

      Với lời nhắn nhủ mấy hữu ích đó. cuộc họp kết thúc.
      Bốn người đàn ông đợi ở trụ sở SIS London trong buổi sáng hôm ấy ngày 5 tháng Tám hẳn là đêm trước rất bận rộn. Giám dốc các lực lượng đặc biệt, thiếu tướng J.P.Lovat. nới chuyện diện thoại rất nhiều, tự cho phép mình gà gật hai tiếng đồng hồ trong ghế của mình từ hai đến bốn giờ sáng. Cũng giống như rất nhiều lính chiến khác, từ lâu ông rèn luyện khả năng chợp mắt vài giờ ở bất kỳ đâu và vào bất kỳ lúc nào khi tình thế cho phép. thể biết bao lâu nữa mới lại được 'xạc pin'. Trước bình minh, ông tắm và cạo râu và sẵn sàng cho ngày mới đầy kiện. Chính cú điện thoại của ông liên lạc với cấp cao British Airways vào nửa đêm (giờ London) khiến chiếc máỵ bay nằm lại chờ ở Abu Dhabi. Giám đốc British Airways, càu nhàu ở nhà, hỏi tại sao lại phải cho dừng chiếc máy bay cách đây đến ba nghìn dặm cho đến khi người khách lạ có thể lên được. Ông biết Lovat bởi vì họ từng là thành viên Câu lạc bộ Những lực lượng Đặc biệt ở Herbert Crescent, biết điều ông ta làm, và đáp ứng đòi hỏi của ông mà phải hỏi han gì cả.

      Vào giờ ăn sáng viên trung sĩ trực kiểm tra lại ở Heathrow rằng chiếc máy bay từ Abu Dhabi đến trễ chín mươi phút và có thể hạ cánh vào lúc mười giờ. Viên thiếu tá có thể đến doanh trại vào khoảng mười giờ.
      người truyền tin xe máy đến lấy hồ sơ nghề nghiệp cá nhân ở doanh trại Browning, đại bản doanh của trung đoàn lính dù ở Aldershot. Viên thượng sĩ trực rút nó từ tập hồ sơ ngay sau nửa đêm. Đó là hồ sơ quản lý Mike Martin ở Paras từ ngày tự giới thiệu mình với tư cách học sinh mười tám tuổi, đến năm mười chín tuổi người lính chuyên nghiệp, trừ hai khoảng thời gian dài chuyển sang trung đoàn SAS. Người sĩ quan chỉ huy của đội SAS thứ 22. đại tá Bruce Craig, người Xcốtlen khác, trong đêm đến từ Hereford, mang theo mình bản hồ sơ chứa đựng hai giai đoạn này, ông đến đúng lúc bình minh.

      - Chào buổi sáng, J.P! Sao rồi?

      Họ biết nhau khá kỹ. Lovat, thường được biết đến với cái tên J.P hay Jaypee, từng là người chỉ huy đội hành quyết chiếm lại Đại sứ quán Iran ở London từ những tên khủng hố mười năm trước đây, còn Craig từng là chỉ huy đội dưới quyền ông vào thời đó. Họ có thời gian dài cùng hoạt động với nhau.

      - Bên Thế kỷ muốn đưa người vào Kuwait, ông . Có vẻ như thế là đủ. dài phải là sở thích của ông.

      - người trong số chúng tôi ư? Martin? Đại tá Craig đặt tập hồ sơ ông cầm theo xuống.

      - Có vẻ như thế đấy. Tôi gọi ta từ Abu Dhabi về.

      - Tốt, mẹ nó chứ. Ông giải quyết chuyện này à?

      Mike Martin là trong số các sĩ quan của Craig, và họ cũng khá thân. Ông muốn người Nhà Thế kỷ lôi kéo người của mình. DSF nhún vai.

      - Có lẽ phải vậy thôi. Nếu ta thích hợp. Nếu họ thấy thích điều đó, cấp cao lắm đấy.

      Craig chun mũi và nhấc ly cà phê đen từ viên trung sĩ trực mà ta chào là Sid - họ từng cùng chiến đấu ở Dhofar. Khi chuyển sang chính trị, đại tá nắm ngay được điểm cốt yếu. Nhà Thế kỷ có khả năng thắng trong mọi chuyện họ muốn. Trung đoàn phải hợp tác thôi, ngay cả khi bên Thế kỷ có quyền kiểm soát toàn bộ dưới cái vẻ ngoài của phi vụ hợp tác.
      Hai người từ Thế kỷ đến ngay sau đại tá, và họ đều được giới thiệu. Người cao cấp hơn là Steve Laing. ông mang theo mình Simon Paxman, chỉ huy Bàn Iraq. Họ ngồi trong phòng chờ, được mời cà phê, và được đưa cho hai tài liệu CV để đọc. Cả hai người đều đắm chìm vào lý lịch của Mike Martin từ tuổi mười tám trở . Tối hôm trước, Paxman bỏ ra bốn giờ đồng hồ với người em trai để tìm hiểu về nguồn gốc gia đình và thời gian lớn lên ở Baghdad và trường công Haileybury.

      Học kỳ cuối ở Haileybury, hè năm 1971. Martin viết thư cá nhân cho Paras và được phỏng vấn vào tháng Chín tại cơ sở ở Aldershot. được trường coi là học sinh bình thường nhưng là vận động viên điền kinh siêu hạng. Rồi vào Paras suôn sẻ. Cậu bé được nhận và bắt đầu luyện tập cùng tháng đó, hai mươi hai tuần lễ mệt nhọc để chuẩn bị cho cuộc đua tháng Tư năm 1972.

      Đầu tiên họ có bốn tuần tập đối kháng trong phạm vi hẹp, những vũ khí cầm tay, những đồ dùng đánh bộ cơ bản, và tập thể lực; rồi thêm hai môn nữa là sơ cứu, tín hiệu và học cách chống NBC - các loại vũ khí nguyên tử, vi trùng và hoá học. Tuần thứ bảy dành cho tập luyện thể lực hơn nữa, luôn tăng thêm độ nặng nhọc, nhưng thấm gì so với tuần thứ tám và thứ chín - tập chạy xuyên qua rặng núi Brecon ở xứ Wales, nơi những người mạnh khoẻ đầy sức lực chết vì quá sức và thiếu khí. Tuần thứ mười là cuộc đua ở Hythe, Kent, thi bắn súng trong rặng núi, nơi Martin, vừa mới sang tuổi mười chín, bị trượt vì điểm kém. Tuần thứ mười và mười hai là những tuần kiểm tra được thực ở đồng quê gần Aldershot - chỉ chạy lên và xuống những quả đồi cát mang theo ba thân cây trong bùn, mưa, và mưa rào lạnh giá của giữa đông.

      Những tuần kiểm tra? Paxman lẩm bẩm, giở sang trang. Thế cái cuối cùng là quỷ quái gì vậy?
      Sau những tuần kiểm tra. những chàng trai trẻ được trang bị mũ beret đỏ và nhảy dù trước khi bước vào ba tuần ở Brecon tập luyện tự vệ, hướng đạo và bài tập trong lửa cháy. Thời điểm đó - vào cuối tháng Giêng - Brecon rất trơn và lạnh giá các học viên ngủ ít, trời ẩm ướt và có lửa.

      Tuần thứ mười sáu đến mười chín là cho cuộc thi nhảy dù cơ bản ở Abingdon RAF, nơi họ phải nhảy từ cao xuống, và chỉ từ máy bay.
      Sau hai tuần nữa dồn sức cho tập luyện mặt đất gọi là hàng rào cuối cùng và số kỹ năng cải trang, tuần thứ hai mươi hai là duyệt binh, với những bậc phụ huynh đầy kiêu hãnh cuối cùng cũng được phép gặp những chàng trai trẻ của mình rời họ sáu tháng trước.

      Binh nhì Mike Martin từ lâu được cho là là POM – sĩ quan tiềm năng - và tháng Năm năm 1972 đến Viện Hàn lâm Quân Hoàng gia Sandhurst, tham gia cuộc thi năm tiêu chuẩn quân . Mùa xuân năm 1973, trung úy mới được thăng hạng Martin thẳng đến Hythe để giữ chức huấn luyện dự bị cho Bắc Ailen, và chỉ huy đội trong vòng mười hai tuần đáng nản trong trạm quan sát tên là Flax Mill bao phủ phòng tuyến Ardoyne, Belfast của nước Cộng hoà cực đoan. được chỉ định về Tiểu đội ba, được biết dưới cái tên Para thứ ba, và sau Belfast trở về đơn vị ở Aldershot để chỉ huy đội tuyển quân, đưa người mới vào qua những cuộc khó nhọc chính mình phải trải qua. Mùa hè năm 1977 quay về Para thứ ba, bấy giờ đóng ở Osnabrueck, bộ phận của Quân đội vùng sông Ranh.

      Đó cũng là khoảng thời gian khốn khổ. Các Para được áp dụng "phương thức cánh cụt". nghĩa là cứ chín năm lại mất ba năm, hay ba năm lần, phải nhảy dù và được sử dụng như là lính bộ binh bình thường. Mọi đội Para đều ghét phương thức Cánh cụt. Tinh thần xuống, các cuộc đánh nhau nổ ra giữa các Para và bộ binh, và Martin phải trừng phạt những người mà rất lấy làm quý. bị mắc ở đó mất gần năm, rồi tháng Mười năm 1977 tình nguyện chuyển sang SAS.

      tỉ lệ lớn người trong SAS chuyển từ các Para sang, có thể vì công tác huấn luyện gần giống nhau, mặc dù SAS tự cho người của mình giỏi hơn, rằng họ có được những người rất tuyệt và sau đó bắt đầu làm việc với họ. Giấy tờ của Martin được đưa đến Văn phòng Hồ sơ của trung đoàn tại Hereford, nơi tiếng Arập lưu loát của được ghi nhận, và vào mùa hè 1978 Martin trở thành lựa chọn số cho khoá huấn luyện sáu tuần. Ngày đầu tiên giảng viên tươi cười với tất cả bọn
      họ:

      - Trong khoá học này, chúng tôi thử thách và huấn luyện các bạn. Chúng tôi thử thách và giết các .

      Họ làm đúng như vậy. Chỉ mười phần trăm qua được kỳ thi cuối cùng để vào được SAS. Nó giúp tiết kiệm được thời gian cho sau này. Martin qua được. Rồi đến huấn luyện thường xuyên, huấn luyện trong rừng rậm ở Belize, và tuần về tập kháng cự lại tra khảo. Kháng cự có nghĩa là cố giữ yên lặng trong khi phải chịu những thứ kinh khủng xảy đến với mình.
      Họ đúng là điên rồ, Paxman , thả tập tài liệu xuống và tự tìm tách cà phê mới. Họ điên kinh khủng lên được.
      Laing chun mũi, ông chuyển sang đọc tài liệu thứ hai; đó là kinh nghiệm của người đàn ông ở Arập mà ông cần cho điệp vụ ở trong tâm trí ông.

      Lần đầu Martin ở lại SAS ba năm, với quân hàm đại uý và vai trò trưởng nhóm. được chọn vào phi đội A của những lính dù - được xếp vào các đội A,B,C và G - là lựa chọn đầu tiên cho người nhảy dù trong các Para với những độ cao kinh người, Những con quỷ đỏ.
      Nếu các Para có lý do nào để sử dụng tiếng Arập của , trung đoàn lại có. Trong ba năm 1979-1981 phục vụ các lực lượng của Sultan của Oman ở tây Dhofar, dạy bảo vệ VIP ở hai tiểu vương vùng Vịnh. dạy Đội vệ binh Quốc gia Xêut ở Riyadh, và giảng cho các vệ sĩ của Sheikh Isa của Bahrain. Những nhận xét sau các vụ đó trong hồ sơ SAS đều ghi tại đó sử dụng rất tốt vốn văn hoá Arập, rằng trong trung đoàn ai thứ ngôn ngữ đó tốt như , và rằng ta có thói quen dài trong sa mạc khi muốn nghiền ngẫm vấn đề nàn đó, chịu ngâm mình trong cái nóng và ruồi.

      Hồ sơ cho thấy quay lại các Para sau ba năm làm cho SAS trong mùa đông năm 81 và vui sướng thấy rằng các Para có chỗ trong chiến dịch Lở đá tháng Giêng và tháng Hai năm 1982 ở khắp Oman. Thế là thời gian đó trở về Jebel Akdar, trước khi nghỉ vào tháng Ba. Tháng Tư được gọi về cách khẩn trương - Arghentina tấn công Falkland. Các Para hai và ba đến Nam Cực. Họ chèo chiếc thuyền Canberra, nhanh chóng được sử dụng trong quân đội, và ra biển đến San Carlos Water. Đội Para thứ ba đóng ngay tại đông Falkland, trong mưa gió đến cảng Stanley. Tabbing có nghĩa là cố trong điều kiện khủng khiếp trong khi vác theo 120 pound.

      Đội Para ba đóng bản doanh ở trang trại hoang vắng tên là Estancia House và chuẩn bị cho trận tiến công tối hậu vào cảng Stanley, điều đó có nghĩa lần đầu tiên tấn công vào đỉnh Longdon được phòng vệ hết sức nghiêm ngặt.

      Trận đó bắt đầu bằng cuộc tấn công im lặng vào các vị trí của Arghentina và trở nên rất ầm ĩ khi hạ sĩ Milne giẫm phải quả mìn phát nổ. Súng máy của Arghentina khai hoả, những chớp lửa soi sáng hòn núi như ban ngày, và đội Para số ba có thể hoặc chạy lui để bảo toàn lực lượng hoặc tiến lên vào lửa để chiếm Longdon. Họ chiếm được Longdon, với hai mươi ba người hy sinh và hơn bốn mươi người bị thương. trong số những người bị thương đó là Mike Martin, bị viên đạn vào chân và trốn xuống dòng suối.

      Sau cả ngày sườn núi. được đưa ra vị trí an toàn hơn ở vịnh Ajax, được băng bó, và được máy bay trực thăng đưa đến thuyền bệnh viện Uganda. Thuyền Uganda đỗ ở Montevideo, và Martin là trong số những người được chở về nhà chuyến bay dân đến Brize Norton. Các đội Para cho ba tuần nghỉ ở Headley Court, Leatherhead, để hồi phục vết thương.
      Chính ở nơi đây gặp y tá Lucinda, người trở thành vợ sau hồi tán tỉnh nhanh chóng. có vẻ khoái hào nhoáng khi có được người chồng ở Para, nhưng ta nhầm. Họ dựng nhà ở bờ biển gần Chobham, thích hợp cho nghề của ở Leatherhead và cho ở Aldershot. Nhưng sau ba năm, được gặp trong khoảng thời gian bốn tháng rưỡi: Lucinda thẳng thắn cho lựa chọn: có thể có Para và sa mạc đẫm máu của , hoặc có thể có em. suy nghĩ và chọn sa mạc.

      khá đúng đắn khi bỏ . Vào mùa thu 1982, học ở Staff College, đường vào cho cấp bậc cao hơn và địa vị tốt hơn, có thể là ở Bộ. Tháng Hai năm 1983 trải qua cuộc thi tuyển.

      - ta suy nghĩ kỹ trước khi làm vậy, Paxman . Nhận xét CO của ta ở đây ta có thể làm nếu ta muốn.

      - Tôi biết, Laing . Tôi đọc nó. người... bình thường.

      Hè 1983 Martin được bổ nhiệm sĩ quan phụ trách các nhân viên phục vụ cho các lực lượng bộ ở Muscat của Sultan, Oman. biệt phái suốt hai năm, giữ huy hiệu của Para nhưng chỉ huy trung đoàn mặt trận phía bắc, Muscat. được thăng thiếu tá ở Oman vàn mùa hè năm 86.

      Các sĩ quan từng phục vụ lần cho SAS có thể trở về lần thứ hai, nhưng chỉ khi được mời. rất ít về . Mùa đông năm 87, khi diễn ra vụ ly hôn thể đảo ngược của mình, lời mời đến từ Hereford. quay trở lại làm chỉ huy phi đội vào tháng Giêng năm 88, phục vụ ở Flank phía bắc (Na Uy), rồi Sultan Brunei và sáu tháng với đội an ninh trong nước ở Stirling Lines ở Hereford. Tháng Sáu 1990 được gửi cùng nhóm các giảng viên của mình đến Abu Dhabi.

      Trung sĩ Sid gõ cửa và ló đầu vào.

      - Thiếu tướng hỏi các có muốn gặp ta . Thiếu tá Martin đến đấy.

      Khi Martin bước vào, Laing ghi nhớ khuôn mặt, tóc và cặp mắt sạm đen vì nắng và liếc nhìn Paxman. ta nhìn quanh. Bây giờ, liệu ta có thể làm được việc này , và liệu ta có được tiếng Arập giỏi như người ta truyền tụng ?

      J.P. dến bắt tay Martin, húng hắng ho.

      - Rất mừng thấy trở lại, Martin.

      - Cám ơn ngài. bắt tay đại tá Craig.

      - Để tôi giới thiệu hai người này. DSF . Ông Laing và ông Paxman, đều từ Nhà Thế kỷ. Họ có - e hèm - đề xuất có lẽ họ muốn với . Các ngài, hãy bắn . Hay cần riêng với thiếu tá Martin?

      - Ồ đâu, Laing vội . Giám đốc chúng tôi hy vọng nếu hôm nay có được kết quả gì, đó nhất định phải là phi vụ hợp tác.

      đòn đẹp mắt, J.P. nghĩ, nghĩ đến ngài Colin. Những. kẻ này làm gì mà chẳng được.

      Cả năm người ngồi xuống. Laing , giải thích về vấn đề chính trị: về việc mù mờ biết liệu Saddam Hussein có rời khỏi Kuwait nhanh, chậm, hay rời khỏi đó trừ khi bị đuổi khỏi dó. Nhưng phân tích chính trị cho rằng Iraq có thể trước hết tước hết những gì giá trị của Kuwait, rồi nhằng nhẵng đòi hỏi nhượng bộ của Liên Hợp Quốc đơn giản lâ muốn lùi bước. Chắc phải đợi hàng tháng.
      Nước cần biết điều gì diễn ra bên trong Kuwait - phải tin đồn nhảm, cũng phải những câu chuyện đầy rẫy báo chí, mà là những thông tin độc về những công dân còn mắc lại đó, về các lực lượng chiếm đóng, và lực lượng nào thực được sử dụng, liệu kháng chiến Kuwait có thể hữu dụng trong việc hạ các đội quân tiên phong của Saddam Hussein hay .

      Martin gật đầu, nghe và hỏi vài câu hỏi lễ độ nhưng chủ yếu là ngồi im lặng. Hai sĩ quan cao cấp nhìn ra cửa sổ. Laing kết luận ngay sau mười hai giờ.

      - Thế đấy, thiếu tá ạ. Tôi mong chờ câu trả lời ngay lập tức, ngay bây giờ, nhưng thời gian là cốt tử rồi đấy.

      - Ông có phiền gì nếu chúng tôi riêng vài câu với đồng nghiệp của mình? J.P. hỏi.

      - Tất nhiên là rồi. Xem kìa. Simon và tôi về cơ quan ngay. Các ông có số phòng chúng tôi rồi đấy. Có lẽ các ông cho tôi biết vào chiều nay chứ.

      Trung sĩ Sid dẫn đường cho hai người mặc thường phục ra và theo họ xuống tận dưới đường, nơi ta thấy họ bắt chiếc taxi. Rồi trở lên.
      J.P. đến tủ lạnh lấy ra ba lon bia lạnh. Khi những cánh cửa đóng lại. cả ba người cụng ly.

      - Xem nào, Mike. cậu biết đó là gì rồi đấy. Đó là cái họ muốn. Nếu cậu thấv nó ngớ ngẩn, chúng tôi giải quyết cho.

      - Tất nhiên rồi, Craig . Trong trung đoàn cậu có dấu đen nào để mà cả. Đó là ý của họ, phải của chúng tôi.

      - Nhưng nếu cậu muốn với họ. J.P. , cứ , rồi ở lại với họ cho đến khi trở về. Chúng tôi cũng có liên quan, dĩ nhiên rồi. Họ thể làm việc đó thiếu chúng tôi đâu. Nhưng cậu ở dưới quyền họ. Họ chịu trách nhiệm. Khi xong, cậu về với chúng tôi như là nghỉ vậy.

      Martin biết chuvện gì xảy ra. nghe những người khác làm từng làm việc cho Nhà Thế kỷ. Bạn tồn tại với Trung đoàn nữa cho đến khi bạn quay trở lại. Rồi tất cả họ : "Rất mừng gặp lại " và bao giờ nêu ra hay hỏi bạn từng ở đâu.

      - Tôi làm, .

      Đại tá Craig đứng lên, ông phải quay về Hereford. Ông bắt tay .

      - Chúc may mắn. Mike.

      - Dù sao, thiếu tướng , cũng ăn trưa . Chỉ cần xuống phố thôi. Bên Thế kỷ lo rồi đó.

      Ông đưa cho Martin cặp giấy và chào tạm biệt .
      Mike Martin xuống tầng. Bữa trưa của được chuẩn bị trong nhà hàng cách đây bốn trăm yard, và người tiếp là ông Wafic Al-Khouri.
      Ngoài MI-5 và MI-6 cánh tay chủ chốt nữa của Tình báo là Trụ sở Liên lạc Chính phủ, hay GCHQ: tập hợp các toà nhà trong khu được bảo vệ ở ngoài thành phố

      Cheltenham ở Gloucestershire. GCHQ là bản sao của Cơ quan An ninh Quốc gia Mỹ, với nó cũng có hợp tác rất chặt chẽ - những người nghe trộm với ăng-ten chĩa gần như mọi đài phát thanh và cuộc trò chuyện điện thoại thế giới nếu họ muốn. Qua hợp tác của mình với GCHQ, NSA của số điện thoại đặc biệt bên trong nước , ngoài những địa điểm nghe khác của mình toàn thế giới, và GCHQ cũng có những trạm ở nước ngoài. nhất là cái rất lớn ở Akrotiri đảo Syp thuộc chủ quyền .

      Trạm Akrotiri, gần trường, quản lý hình ảnh Trung Đông, nhưng chuyển mọi thành phẩm của mình về Cheltenham để phân tích. Trong số các nhà phân tích có số các chuyên gia mà, mặc dù sinh ra là người Arập. lên được vị trí rất cao. trong số đó là ông Al-Khouri, người trước đây lâu được định cư ở . được nhập quốc tịch. và lấy người vợ .
      Nhà ngoại giao người Jordan tài năng truớc kia giờ là nlhà phân tích cấp cao ở bộ phận Arập của GCHQ nơi, ngay cả dù cho có nhiều người học tiếng Arập. Ông thường có thể đọc được ý nghĩa sâu của đoạn chuyện ghi được của lãnh đạo trong thế giới Arập. Đó là người mà. Theo cầu của bên Thế kỷ, chờ Mike Martin ở nhà hàng.

      Họ có bữa trưa vui vẻ kéo dài tới hai giờ đồng hồ và chẳng gì khác ngoài tiếng Arập. Khi họ chia taỵ, Martin ngược về toà nhà SAS. phải mất hàng giờ để thu thập thông tin trước khi sẵn sàng để Riyadh với hộ chiếu biết Thế kỷ có sẵn, điền vào visa với cái tên giả.
      Trước khi rời tiệm ăn ông Al-Khouri gọi số điện thoại từ máy điện thoại tường bởi phòng.

      - vấn đề gì đâu. Steve ạ. ta hoàn hảo đấy. Tôi nghĩ từng biết đến ai đó bảnh được như ta. Đó phải là người học tiếng Arập. cũng biết đấy, tốt hơn thế nhiều, theo đúng ý của nhé. Tiếng Arập đường phố, mọi từ lóng, linh tinh... ,. giọng rất chuẩn... Phải. ta ổn thôi... dù rơi vào bất kỳ phố nào ở Trung Đông. , . hề, bạn ạ. Rất vui được phụ .

      Ba mươi phút sau, Mike Martin quay về chiếc xe hơi thuê và trớ về M4 ở Cheltenham. Trước khi vào đại bản doanh, gọi cú điện thoại. đến số ngay phố Gower. Người gọi cầm lấy máy, từ máy của mình ở văn phòng SOAS, nơi ông làm việc với giấy tờ trong buổi chiều có giờ giảng nào.

      - Chào em. đây.

      Người lính cần tự giới thiệu mình. Kể từ khi họ cùng vào trường dự bị ở Baghdad, thường xuyên gọi em mình là "bro". Có đoạn ngắt ở đầu kia đường dây.

      - Mike hả? ở chỗ quái nào đấy?

      - Ở London, trong bốt điện thoại.

      - Em nghĩ ở đâu đó vùng Vịnh kia.

      - về sáng nay. Có thể tối lại ngay.

      - Xem nào, Mike, đừng . Đó là lỗi của em.... Nhẽ ra em phải kín miệng.

      Người phá lên cười qua đường dây điện thoại. tự hỏi tại sao bọn rận lại đột nhiên để ý đến . Chúng đưa em ăn trưa à?

      - Phải, bọn em chuyện về đề tài khác. Em chỉ buột mồm thôi, chó . Xem nào, việc gì phải đâu. Cứ với họ là em nhầm.

      - Quá muộn rồi. Dù sao cũng nhận.

      - Chúa ôi... Trong văn phòng mình, bao quanh bởi những tấm hình về Lưỡng Hà thời Trung Cổ, người em gần như bật khóc.

      - Mike, hãy tự chăm sóc nhé. Em cầu nguyện cho .

      Mike nghĩ chốc. Phải, Terry luôn có tình cảm tôn giáo. Cũng có thể lắm chứ.

      - Em cũng thế nhé, nhóc. Hẹn gặp lại khi nào về.

      bỏ máy. Còn lại mình trong văn phòng, nhà học giả tóc nâu gục đầu vào tay.

      Khi chuyến bay lúc 8 giờ 45 tối của British Airways Arập Xêut cất cánh khỏi Heathrow đêm đó, đúng giờ, Mike Martin có ở với cái hộ chiếu được đóng dấu thị thực nhập cảnh với cái tên khác. có thể gặp được chỉ huy trạm của Thế kỷ ở Đại sứ quán ở Riyadh trước khi bình minh.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :