Nạn Nhân Thứ Tư - Tess Gerritsen(27c+1kết)(Kinh dị, Trinh thám)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      [​IMG]

      Tên sách: Nạn Nhân Thứ Tư


      Nguyên bản: The Surgeon


      Tác giả: Tess Gerritsen


      Nhà xuất bản: Văn Hóa Thông Tin


      Người dịch: Thu Hương


      Số trang: 411


      Năm xuất bản: 2010


      Hình thức bìa: Mềm


      Kích thước: 15x22cm


      Giá bìa: 81.000


      Đánh máy ebook: Lizzy, Hoàng Liêm


      Soát lỗi chính tả: Lizzy


      Tạo prc: Lizzy


      Nguồn: e-thuvien.com


      Ebook: http://www.dtv-ebook.com


      Ebook hoàn toàn mang tính chia sẻ, vì mục đích thương mại. Nếu có điều kiện, các bạn nên mua sách để ủng hộ và tôn trọng Nhà xuất bản.





      Giới thiệu nội dung:






      lẻn vào những ngôi nhà khi đêm đến. tiến lại gần mép giường, nơi các ngủ say. Họ thức dậy và gặp cơn ác mộng kinh khủng nhất trong đời. Tính chính xác trong cách thức hoạt động của cho thấy bác sỹ bệnh hoạn, điều đó khiến báo chí gọi bằng cái tên “Bác sỹ phẫu thuật”. Dẫn đầu là thám tử Moore và Rizzoli, các cảnh sát tìm ra nạn nhân của loại tội phạm tương tự. Hai năm trước, bác sỹ Catherine Cordell chống cự và giết chết kẻ tấn công mình trước khi có thể hoàn thành việc tra tấn .


      Giờ tên sát nhân mới tái tạo lại cách chính xác đến rợn người cung cách giết người mà Andrew làm với bác sỹ Cordell. Sau mỗi vụ giết người, muốn làm hoang mang. tiếp cận ngày càng gần hơn ở cả bệnh viện nơi làm việc và căn hộ của . Cả Moore và Rizzoli đều thể bảo vệ Cordell khỏi tên sát nhân máu lạnh. Bằng cách thức nào đó, hiểu hết và cảm nhận được nỗi sợ hãi của tất cả những bị giết.











      LỜI CẢM ƠN




      Tôi đặc biệt cảm ơn:


      Bruce Blake và thám tử Wayne R.Rock thuộc Sở cảnh sát Boston và tiến sỹ Chris Michalakes vì những hỗ trợ về mặt kỹ thuật.


      Jane Berkey, Don Cleary và Andrea Cirillo vì những đóng góp ý bổ ích của họ về bản nháp đầu tiên.


      Người biên tập, Linda Marrow tận tình dẫn đường cho tôi.


      Thiên thần hộ mệnh của tôi, Meg Ruley. (Mỗi nhà văn đều cần có người như Meg Ruley!).


      Và cám ơn chồng tôi, Jacob. Mãi mãi cảm ơn .




    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      PHẦN MỞ ĐẦU

      Hôm nay họ tìm thấy ta.

      Ta biết việc này xảy ra. Ta có thể tưởng tượng khá sống động các chuỗi kiện dẫn đến phát đó. Vào 9 giờ, mấy bà ở Hãng lữ hành Kendall và Lord đó ngồi ở bàn làm việc, những móng tay được cắt tỉa đẹp đẽ của họ bàn phím máy tính. Họ đăng ký chuyến viễn du đến biển Địa Trung Hải cho bà Smith, kỳ nghỉ ở khu trượt tuyết tại Kloters cho ông Jones. Còn ông bà Brown có chút thay đổi trong năm nay. Họ đến nơi nào đó tuyệt đẹp như Chiang Mai hay bán đảo Madagascar nhưng họ chẳng gặp chút mạo hiểm nào. Ồ , chuyến hết phải thoải mái và dễ chịu. Đó là khẩu hiệu của Hãng lữ hành Kendall và Lord: “Những chuyến thoải mái”. Đây là hãng lữ hành đông khách và điện thoại reo liên tục.

      Rồi chẳng bao lâu sau, các bà chị mới nhận thấy Diana có ở bàn làm việc.

      trong số họ gọi đến khu dân cư Back Bay của Diana, điện thoại reo nhưng ai nhấc máy. Có lẽ Diana ở trong buồng tắm nên nhận điện. Hay ta làm nhưng chạy cuống cuồng vì muộn giờ làm. Người gọi điện nghĩ rằng hàng chục khả năng tốt lành đến mức hoàn hảo. Nhưng cả ngày trôi qua, và những cuộc gọi liên tục có ai nhận máy người đó nghĩ đến những khả năng khác đáng lo hơn.

      Ta nghĩ người quản lý tòa nhà cho phép đồng nghiệp của Diana vào căn hộ của ta. Ta thấy ông ta lo lắng xục xạo chùm chìa khóa và .

      là bạn của ấy à? chắc là ấy phiền chứ? Vì tôi phải với ấy là tôi cho phép vào.

      Họ bước vào căn hộ, bạn đồng nghiệp gọi to.

      Diana, có nhà ? Họ bắt đầu dọc hành lang, qua những tấm áp phích quảng cáo du lịch được đóng khung cẩn thận. Người quản lý đứng ngay sau ta để canh chừng xem ta có cuỗm vật gì .

      Rồi ông nhìn lối vào và nhìn giường ngủ. Ông ta thấy Diana Sterling và còn lo ngại về những việc vụn vặt như việc ăn cắp nữa. Ông ta chỉ muốn ra khỏi căn hộ trước khi bị đuổi.

      Ta muốn có mặt ở đó khi cảnh sát đến nhưng mình đâu có ngu. Ta biết họ để ý từng ô tô qua, từng khuôn mặt trong đám người đứng xem túm tụm bên đường. Họ biết ta rất muốn trở lại đó. Ngay cả bây giờ, khi ngồi ở Starbucks, ngắm nhìn ngày sáng sủa qua cửa sổ, ta vẫn cảm thấy căn phòng đó gọi ta quay lại. Nhưng ta rất giống chàng Ulysses, an toàn buộc mình vào cột buồm, khao khát điệu hát của nàng tiên cá. Ta tự đập đầu vào đá. Ta phạm sai lầm.

      Thay vào đó, ta ngồi uống cà phê, trong khi bên ngoài, cả thành phố Boston thức tỉnh. Ta khuấy tan ba thìa đường vào cốc cà phê, ta thích cà phê có vị ngọt. Ta muốn mọi thứ phải như vậy, hoàn hảo.

      nàng tiên cá ở đằng xa mời gọi ta. Ta thấy như thể Ulysses cố dứt dây thừng nhưng chúng giữ rất chắc.

      Hôm nay họ tìm thấy ta.

      Hôm nay họ biết chúng ta trở lại.








      năm sau

      Thám tử Thomas Moore thích mùi cao su. vỗ đôi găng tay, mùi bột tan bay lên. Cơn buồn nôn mà đoán trước cuộn lên trong bụng. Thứ mùi đó gợi lên những việc mấy dễ chịu trong nghề của . Như con chó trong thí nghiệm của Pavlov được rèn luyện để tiết nước bọt trong điều kiện nào đó, mỗi khi ngửi thấy mùi cao su lại liên tưởng đến những hình ảnh thể tránh được của máu và những chất dịch trong cơ thể. Cảnh báo về khứu giác đó cứ quấn lấy .

      Và bây giờ nó xảy ra khi đứng ngoài phòng mổ tử thi. vừa từ chỗ nóng bước vào thế nhưng mồ hôi hình như làm da lạnh toát. Hôm đó là ngày mười hai tháng bảy, chiều thứ sáu ẩm ướt đầy sương. Khắp thành phố Boston, những chiếc máy điều hòa nhiệt độ kêu xoạch xoạch và nước. Nhiệt độ quá cao. cầu Tobin, những chiếc ô tô bị lùi lại, chạy về phía bắc, nơi có những khu rừng mát mẻ ở bang Maine. Nhưng thám tử Moore thuộc số đó. bị gọi về khi nghỉ và phải chứng kiến nỗi sợ hãi mà muốn đối diện.

      mặc bộ đồ dành cho bác sỹ phẫu thuật. lấy nó từ ngăn đựng vải lanh ở nhà xác. Giờ đội mũ giấy, túm gọn những sợi tóc xõa ra và dùng ủng giấy bọc bên ngoài đôi giày của mình. làm vậy vì thi thoảng chứng kiến thứ gì đó chảy từ bàn mổ xuống sàn nhà. Đó là máu và những tế bào. phải là người quá sạch nhưng muốn đôi giày của mình dính bất cứ dấu vết nào trong phòng mổ tử thi và mang nó về nhà. dừng lại mấy giây ngoài cánh cửa và hít sâu. Rồi buộc mình phải đối diện với thử thách đó, đẩy cửa bước vào.

      Cái xác được quấn nằm bàn - căn cứ vào hình dáng đó là phụ nữ. Moore tránh nhìn nạn nhân quá lâu, thay vào đó, tập trung vào những người còn sống trong căn phòng. Đó là bác sĩ Ashford Tierney, bác sỹ giám sát y khoa và nhân viên nhà xác xếp các dụng cụ lên khay. Đứng đối diện với Moore ở bên kia bàn là Jane Rizzoli, cũng thuộc bộ phận Điều tra các vụ giết người ở Boston. Rizzoli, năm nay ba mươi ba tuổi, là phụ nữ bé có chiếc cằm vuông. Những lọn tóc bướng bỉnh của giấu trong mũ giấy phòng mổ. Thiếu mất mái tóc đen giúp các đường nét mềm mại nên khuôn mặt dường như chỉ toàn góc cạnh, đôi mắt sẫm màu lồi ra, nghiêm nghị. chuyển từ Bộ phận phòng chống tệ nạn và ma túy sang Bộ phận điều tra các vụ giết người cách đây sáu tháng. là phụ nữ duy nhất thuộc Bộ phận điều tra các vụ giết người. và các thám tử khác có mâu thuẫn, bất đồng về việc quấy rối tình dục, bất đồng về những ác ý dứt. Moore biết mình có ưa Rizzoli cũng vậy. Đến giờ họ vẫn giữ mối quan hệ đồng nghiệp nghiêm túc. cho là cũng thích như thế hơn.

      Đứng sau Rizzoli là cộng của , Barry Frost, viên cảnh sát vui vẻ, vô tư. Khuôn mặt ôn tồn, nhẵn nhụi khiến trông rất trẻ dù ở tuổi ba mươi. Frost làm việc cùng Rizzoli được hơn hai tháng và phàn nàn gì. là người duy nhất thuộc bộ phận này đủ điềm tĩnh để chịu đựng tính khí bất thường của .

      Khi Moore lại gần bàn, Rizzoli :

      - Chúng tôi biết khi nào mới đến.

      - Tôi ở tiểu bang Maine Turnpike nhận được tin nhắn của .

      - Chúng tôi chờ ở đây từ lúc năm giờ.

      - Còn tôi mới bắt đầu khám nghiệm bộ phận bên trong - bác sỹ Tierney - Vì vậy tôi là thám tử Moore đến đây đúng giờ - bào chữa cho Moore. đóng mạnh cửa tủ, khiến tiếng động dội lại khắp phòng. Đây là lần hiếm hoi tỏ ra tức giận. Bác sỹ Tierney là người thuộc thời vua George chính cống, người xuất thân ở nông thôn và tin rằng phụ nữ phải cư xử cho ra phụ nữ. thích làm việc cùng Jane Rizzoli dễ nổi cáu.

      Nhân viên nhà xác đẩy khay dụng cụ lại gần bàn mổ. Ánh mắt nhìn Moore như thể muốn , tin bà này ?

      - Xin lỗi về chuyến câu cá của - Tierney với Moore - Có vẻ như kỳ nghỉ của bị phá hỏng.

      - có chắc lại là do tên đó ?

      Vừa trả lời, Tierney vừa túm vải trùm, kéo ngược lên, để lộ ra xác chết.

      - Tên ấy là Elena Ortiz.

      Mặc dù Moore chuẩn bị tinh thần nhưng khi thoáng thấy nạn nhân lần đầu tiên, toàn thân bị tác động mạnh. Mái tóc đen của người phụ nữ khô lại và bê bết máu. Nó thò ra như lông nhím, khuôn mặt màu xanh như bi ve. Môi hé mở, như thể bị đông cứng khi dở. Người ta lau máu cho cái xác. lớp da sẫm lại, những vết thương của ngoác ra từ những cái lỗ có màu hơi tím. Có hai vết thương có thể nhìn thấy . vết cắt sâu rạch ngang cổ họng, kéo dài từ dưới tai trái, cắt đứt động mạch cảnh, khiến sụn thanh quản lộ ra. Vết cắt rất gọn. Vết cắt thứ hai ở phần bụng dưới. Vết thương này gây tử vong, nó có mục đích hoàn toàn khác.

      Moore nuốt khan.

      - Tôi hiểu tại sao các bạn gọi tôi trở về khi tôi nghỉ.

      - Tôi là người chỉ huy vụ này - Rizzoli .

      nhận thấy câu đó của như muốn cảnh cáo, bảo vệ lãnh thổ của mình. hiểu tại sao làm vậy. hiểu những cảnh sát nữ phải liên tục chịu những lời chế nhạo và thái độ hoài nghi. Và điều đó khiến họ luôn tấn công nhanh. Thực muốn thách thức . Trong vụ này họ phải làm việc cùng nhau, và lúc này còn quá sớm để chơi trò tranh giành quyền chỉ huy.

      thận trọng trả lời cách tôn trọng.

      - cho tôi biết tình tiết vụ án chứ?

      Rizzoli gật đầu rất nhanh.

      - Nạn nhân được tìm thấy vào lúc chín giờ sáng nay, tại căn hộ phố Worvester, cuối phía Nam thành phố. ấy thường đến nơi làm việc lúc sáu giờ sáng ở khu Cửa hàng hoa Celebration, cách nơi ở của ấy mấy tòa nhà. Đây là công việc kinh doanh của cả gia đình, bố mẹ ấy là người quản lý. Khi ấy xuất , họ lo lắng. trai ấy đến kiểm tra. ấy thấy ấy trong phòng ngủ. Bác sỹ Tierney dự đoán thời gian tử vong vào khoảng mười hai giờ đêm đến bốn giờ sáng nay. Gia đình ấy cho biết ấy có bạn trai. ai trong khu chung cư thấy bất kỳ vị khách nam nào. ấy là theo đạo Thiên chúa, làm việc chăm chỉ.

      Moore nhìn cổ tay nạn nhân.

      - ấy bị trói.

      - Đúng vậy! Có băng dính ống nhựa ở cổ tay và mắt cá chân. Người ta tìm thấy ấy trong tình trạng khỏa thân, người chỉ có vài đồ nữ trang.

      - Nữ trang gì?

      - chiếc vòng cổ, chiếc nhẫn, hai bông tai. Hộp nữ trang ngay cạnh giường vẫn còn nguyên. Động cơ phải là cướp tài sản.

      Moore nhìn vệt thâm tím ngang hông nạn nhân.

      - Phần thân cũng bị trói.

      - Có băng dính ống nhựa ngang eo, đùi và ngang miệng ấy.

      Moore thở dài.

      Lạy chúa! Khi nhìn kỹ Elena Ortiz, Moore thấy vết cắt khó hiểu khác cơ thể phụ nữ. Đó là cái xác khác - tóc vàng và các vết cắt cũng rạch ngang cổ họng và bụng.

      - Diana Sterling - lẩm bẩm.

      - Tôi vừa lấy các báo cáo xét nghiệm tử thi của Diana Sterling ra xem - Tierney - Nếu cần xem lại.

      Nhưng Moore xem. Vụ án của Sterling mà là thám tử điều tra chính bao giờ mờ trong tâm trí .

      Cách đây năm, Diana Sterling, ba mươi tuổi, là nhân viên hãng lữ hành Kendall và Lord được phát trong tình trạng khỏa thân, bị trói giường bằng băng dính ống nhựa. Cổ họng và bụng dưới bị cứa đứt. Vụ giết người đó vẫn chưa phá được.

      Bác sỹ Tierney chiếu đèn kiểm tra vào bụng của Elena Ortiz. Trước đó máu được lau bớt, và mép vết rạch có màu hồng nhạt.

      - Tìm được dấu vết nào ? - Moore hỏi.

      - Chúng tôi tìm thấy vài sợi vải khi lau chùi cho ấy, và sợi tóc cạnh mép vết thương.

      Moore nhìn lên chăm chú.

      - Của nạn nhân à?

      - Nó ngắn hơn nhiều và có màu nâu sáng.

      - Tóc Elena Ortiz màu đen.

      Rizzoli .

      - Chúng tôi cầu lấy mẫu tóc của tất cả những người có tiếp xúc với cái xác.

      Tierney chuyển chú ý của họ sang vết thương.

      - Thứ chúng ta thấy ở đây là vết cắt ngang. Các bác sỹ phẫu thuật gọi nó là vết cắt Maylard. Thành bụng bị cắt từng lớp . Đầu tiên là da, sau đó đến lớp bề mặt, rồi đến cơ, cuối cùng là màng bụng ở khung xương chậu.

      - Giống như Sterling - Moore .

      - Đúng vậy, giống với Sterling. Nhưng có vài điểm khác biệt.

      - Khác biệt gì?

      - Vết thương của Sterling có vài vết nham nhở, chứng tỏ lưỡng lự và chắc chắn. Hãy để ý xem da bị rạch gọn mức nào với vết cắt này. hề nham nhở. làm việc này hết sức tự tin - Tierney nhìn Moore - Con mồi của chúng ta rèn luyện. Kỹ thuật của tiến bộ.

      - Nếu việc này là do cùng kẻ bí - Rizzoli .

      - Có những nét tương đồng khác. Hãy nhìn mép hình vuông của vết thương! Nó cho thấy vết rạch từ phải sang trái, như vết rạch của Sterling. Lưỡi dao được dùng để rạch vết thương này chỉ có lưỡi, có răng cưa, giống lưỡi dao được dùng khi rạch lên người Sterling.

      - con dao mổ ư?

      - Nó rất giống con dao mổ. Vết cắt gọn cho tôi biết lưỡi dao xoắn. Nạn nhân có thể bất tỉnh hay bị trói chặt nên cử động, chống cự được. ấy thể làm cho lưỡi dao chệch khỏi đường của nó.

      Barry Frost nhìn như muốn buồn nôn.

      - Ồ. Hãy với tôi là ấy chết khi làm việc này!

      - Tôi e rằng đó phải là vết thương sau khi chết - Chỉ cặp mắt của Tierney lộ ra dưới khẩu trang và chúng ánh lên vẻ giận dữ.

      - Có tượng chảy máu trước khi chết à? Moore hỏi.

      - Máu ộc ra từ khoang xương chậu. Điều đó nghĩa là tim ấy vẫn bơm máu. ấy vẫn sống khi… quá trình này được thực .

      Moore nhìn hai cổ tay có hai vòng bầm tím do dây trói. Có những vết bầm tím tương tự ở mắt cá chân, vùng da bị xuất huyết - đó là chứng xuất huyết đốm da - chạy ngang hông . Elena Ortiz giãy giụa khi trói.

      - Có dấu hiệu khác chứng tỏ ấy còn sống trong suốt quá trình rạch ấy - Tierney - Hãy cho tay vào trong vết thương, Thomas. Tôi nghĩ biết thấy điều gì.

      Moore lưỡng lự cho bàn tay đeo găng vào vết thương. Thịt lạnh ngắt do được bảo quản trong kho đông lạnh mấy tiếng. Nó gợi cho nhớ cảm giác khi thọc tay vào xác con gà tây và xoay quanh để tìm bộ lòng. thọc sâu đến tận khuỷu tay, ngón tay thăm dò mép vết thương. Đây là đụng chạm rất gần gũi khi thọc sâu vào phần bên trong sâu kín nhất của phụ nữ. tránh nhìn khuôn mặt của Elena Ortiz. Đây là cách duy nhất để xem xét những gì còn lại của cách rành mạch, và cũng là cách duy nhất để có thể tập trung vào các kỹ thuật được áp dụng cơ thể .

      - Tử cung mất - Moore nhìn Tierney.

      Bác sỹ chuyên khoa gật đầu.

      - Nó bị cắt rời.

      Moore rút tay khỏi cái xác, cúi nhìn vết thương ngoác ra như cái miệng. Giờ Rizzoli đeo găng tay vào, những ngón tay ngắn của run rẩy thăm dò khoang xương hông.

      - Còn vật gì khác bị cắt bỏ ? - hỏi.

      - Chỉ tử cung thôi - Tierney khẳng định - để phần bàng quang và ruột còn nguyên.

      - Thứ tôi cảm thấy ở đây là gì? Dây gì đó ở bên trái - thắc mắc.

      - Đó là chỉ khâu. dùng nó để thắt mạch máu lại.

      Rizzoli kinh hãi nhìn lên.

      - Đây là chỉ khâu khi phẫu thuật?

      - Dây ruột mèo cỡ 2-0 - Moore mạnh bạo và nhìn Tierney chờ xác nhận.

      Tierney gật đầu.

      - Đó là dây khâu tương tự mà chúng tôi tìm thấy cơ thể Diana Sterling.

      - Dây ruột mèo 2-0 à? - Frost thẽ thọt hỏi. lùi khỏi bàn và giờ đứng ở góc phòng, sẵn sàng nhảy bổ tới bồn nước - Nghe tên đó giống như thương hiệu hay thứ gì đó phải ?

      - phải là thương hiệu - Tierney - Dây ruột mèo là loại chỉ y tế được làm từ ruột của bò hay cừu.

      - Vậy tại sao gọi đó là dây ruột mèo? - Rizzoli hỏi.

      - Việc này xuất phát từ thời Trung cổ, khi những dây ruột được dùng làm nhạc cụ. Các nhạc sỹ gọi nhạc cụ của mình là kit[1], và dây đàn được gọi là kitgut. Từ này cuối cùng được chuyển thành catgut[2]. Trong ngành giải phẫu, loại chỉ y tế này được dùng để khâu các lớp mô nối tiếp nằm sâu bên trong. Cuối cùng, cơ thể làm đứt và tiêu hóa sợi chỉ đó.

      - Vậy lấy chỉ ruột mèo ở đâu? - Rizzoli nhìn Moore - có tìm thấy nguồn gốc của nó trong vụ án của Sterling ?

      - Gần như thể xác định nguồn gốc cụ thể - Moore lắc đầu - Chỉ ruột mèo được nhiều quốc gia sản xuất, phần lớn ở châu Á. Nó vẫn được sử dụng ở số bệnh viện nước ngoài.

      - Chỉ bệnh viện nước ngoài thôi sao?

      Tierney giải thích.

      - Giờ có nhiều giải pháp tốt hơn. Chỉ ruột mèo có sức mạnh và độ bền như chỉ nhân tạo. Tôi nghĩ rất ít bác sỹ phẫu thuật ở Mỹ sử dụng loại chỉ này.

      - Tại sao tên sát nhân lại dùng nó?

      - Để thỏa mãn nhu cầu quan sát, để điều khiển cho máu chảy đủ lâu để có thể thấy mình làm gì. Tên sát nhân này làm rất gọn.

      Rizzoli rút tay khỏi vết thương. Trong lòng bàn tay đeo găng của giọt máu , như hạt cườm đỏ tươi.

      - tinh xảo mức nào? Chúng ta đương đầu với bác sỹ, hay tên đồ tể?

      - ràng có kiến thức ngoại khoa - Tierney nhận định - Tôi nghi ngờ gì về việc từng làm việc này rồi.

      Moore lui khỏi bàn, buộc mình nghĩ đến việc Elena Ortiz chắc hẳn đau đớn mức nào. Nhưng thể xóa những hình ảnh đó. Hậu quả phơi bày ngay trước mắt , mở mắt trừng trừng nhìn .

      giật mình quay khi các dụng cụ kêu loảng xoảng khay. Nhân viên nhà xác đẩy chiếc khay đến gần chỗ bác sỹ Tierney để chuẩn bị cắt hình chữ Y. Giờ nhân viên đó cúi xuống, nhìn chằm chằm vết thương bụng.

      - Chuyện gì xảy ra với nó? - hỏi - Sau khi cắt rời tử cung, làm gì với nó?

      - Chúng tôi biết - Tierney đăm chiêu - Chúng tôi tìm được các bộ phận đó.




      HAI



      Moore dừng ở vệ đường gần phần cuối phía nam, nơi Elena Ortiz bị giết. Có thời, đây là khu phố của những ngôi nhà cho thuê tồi tàn, cạnh đó là khu nước đen bẩn thỉu. Những đường ray tách biệt khu phố này với nửa phía bắc phát triển hơn của thành phố Boston. Nhưng thành phố phát triển là con thú đói khát, luôn tìm vùng đất mới. Và những đường ray còn là vật ngăn cản con mắt thèm khát của các nhà đầu tư. thế hệ mới được khai quật ở miền nam Boston, những ngôi nhà cho thuê cũ nát dần bị biến thành những tòa nhà chung cư.

      Elena Ortiz sống trong tòa nhà như vậy. Mặc dù cảnh vật nhìn ra từ căn hộ tầng hai của có gì đáng ngạc nhiên - cửa sổ phòng trông ra cửa hàng giặt khô là hơi bên kia đường - nhưng tòa nhà này cho người ta thú vui hiếm có và khó tìm thấy ở thành phố Boston: đó là khu đỗ xe của chủ nhà nằm trong ngõ hẻm gần đó.

      Lúc này Moore xuống ngõ hẻm đó, quan sát cửa sổ của những căn hộ phía và tự hỏi biết lúc đó có ai nhìn . có gì chuyển động sau những tấm cửa kính. Những người thuê nhà có căn hộ nhìn ra ngõ hẻm này được thẩm tra, ai cung cấp thông tin hữu ích.

      dừng lại dưới cửa sổ phòng tắm của Elena Ortiz và ngước nhìn lối thoát hiểm dẫn lên đó. Thang được kéo lên và đóng khóa gập. Vào đêm Elena bị sát hại, ô tô của người thuê nhà đỗ ngay dưới lối thoát hiểm. Sau đó các dấu giày cỡ tám rưỡi được tìm thấy nóc xe. Tên sát nhân sử dụng chiếc xe làm bước đệm để leo lên lối thoát hiểm.

      thấy cửa sổ phòng tắm đóng kín. Vào đêm ấy bị giết, nó đóng.

      rời ngõ hẻm, vòng trở lại rồi vào bên trong tòa nhà.

      Dây phân cách trường của cảnh sát giăng ngang cánh cửa căn hộ của Elena Ortiz. mở cửa và thấy bột in dấu vân tay bám vào tay trông như bồ hóng. Dải dây lỏng lẻo kêu soàn soạt vai khi bước vào căn hộ.

      Phòng khách vẫn y như khi cùng Rizzoli đến xem lần trước. Chuyến đó dễ chịu mấy. Đầy những đối kháng và tranh chấp. Vụ án của Ortiz được khởi động và người đứng đầu là Rizzoli. cảm thấy an tâm và có nguy cơ ai đó làm lung lay vị thế của , nhất là nam cảnh sát già tuổi hơn. Mặc dù bây giờ họ cùng đội nhưng đội có đến năm thám tử. Moore cảm thấy mình như kẻ đột nhập vào lãnh địa của . thận trọng giấu những lời gợi ý của mình cách ôn hòa nhất. muốn tham chiến vì cái tôi cá nhân mặc dù nó biến thành trận chiến cá nhân. Hôm qua cố tập trung vào trường vụ án nhưng đố kỵ của khiến tập trung của tan thành bong bóng.

      Chỉ lúc này, khi ở mình, mới có thể tập trung toàn bộ tâm trí vào căn hộ, nơi Elena Ortiz chết. Trong phòng khách, thấy đồ đạc các kiểu được xếp quanh chiếc bàn thấp làm bằng gỗ liễu gai. chiếc máy tính để bàn nằm ở góc phòng. chiếc thảm màu be pha lẫn họa tiết dây nho đầy lá và những bông hoa màu hồng. Kể từ khi vụ án xảy ra, theo như Rizzoli vật gì bị dịch chuyển, vật gì bị thay đổi. Những tia sáng cuối cùng của ngày mờ dần bên cửa sổ nhưng bật điện lên. đứng đó rất lâu, thậm chí xoay đầu, chờ im lặng hoàn toàn bao trùm lên căn hộ. Đây là lần đầu tiên có dịp quan sát trường mình, lần đầu tiên đứng trong căn phòng này và bị giọng , khuôn mặt của những người còn sống làm phân tâm. tưởng tượng những phân tử khí bị bước chân của xáo trộn giờ di chuyển chậm lại và trôi dạt. muốn căn phòng chuyện với mình.

      chẳng cảm thấy gì, có hơi hướng của tội ác, run rẩy lẩn quất.

      Tên sát nhân vào phòng bằng cửa chính. cũng lang thang trong vương quốc chết chóc mà mới giành được. dồn toàn bộ thời gian, tâm trí vào phòng ngủ.

      Moore chầm chậm bước qua nhà bếp, nhìn dọc hành lang. cảm thấy tóc gáy bắt đầu dựng lên. Khi đến cánh cửa đầu tiên, dừng lại, nhìn vào phòng tắm và bật điện.

      Đêm thứ năm là đêm nóng bức. Thời tiết thường ấm áp khắp thành phố, các cửa sổ để mở để cuốn bất cứ cơn gió hay luồng khí mát nào qua. Ngươi trèo lên lối thoát hiểm, vã mồ hôi trong bộ đồ sẫm màu, nhìn chằm chằm vào phòng tắm. thanh gì, ngủ trong phòng. ấy phải dậy sớm để làm tại cửa hàng bán hoa. Lúc này giấc ngủ của ấy đến lúc sâu nhất, và đó là giai đoạn gần như thể đánh thức nổi.

      ấy nghe thấy tiếng ken két của con dao gắn ma tít của ngươi khi ngươi tò mò nhìn vào.

      Moore nhìn giấy dán tường sáng lên với những bông hồng màu đỏ. Đây là kiểu giấy rất nữ tính, nam giới chọn màu này. Mọi thứ đều thể đây là phòng tắm của phụ nữ, từ dầu gội hương dâu tây đến gói băng vệ sinh dưới bồn nước, đến tủ chất đầy mỹ phẩm. Tất cả đều phảng phất bóng dáng của .

      Ngươi leo vào qua cửa sổ, mảnh vải áo sơ mi màu xanh nước biển của ngươi mắc kẹt vào khung cửa. Nó làm bằng vải pô-li-etx-te. Giày đế mềm cỡ tám rưỡi của ngươi để lại dấu vết tấm vải sơn lót sàn nhà trắng tinh. Có những vết cát, lẫn bụi thạch cao. Đó là loại hỗn hợp rất đặc trưng khi người ta lại trong thành phố Boston.

      Có lẽ ngươi dừng lại, nghe ngóng trong bóng tối, hít thở hương vị ngọt ngào kỳ lạ trong căn phòng của . Hoặc có thể ngươi lãng phí thời gian mà thực luôn mục đích của mình.

      khí dường như hôi hám hơn, dày đặc hơn khi theo dấu chân của kẻ đột nhập. Nó chỉ là cảm giác về thứ mùi của tội ác, thứ mùi đó có .

      đến cánh cửa phòng ngủ. Lúc này tóc gáy dựng ngược lên. biết trước mình thấy gì trong phòng, tưởng mình chuẩn bị tinh thần cho việc đó. Nhưng khi bật điện lên, nỗi sợ lại xâm chiếm như lần đầu nhìn thấy căn phòng.

      Các vết máu có hơn hai ngày. Dịch vụ lau chùi vẫn chưa đến. Nhưng dù có dùng chất tẩy rửa, bình xịt khí và những chai thuốc tẩy trắng họ cũng thể xóa hết những gì xảy ra ở đây. Bởi khí ám màu sợ hãi.

      Ngươi bước vào phòng qua cánh cửa. Rèm cửa rất mỏng, chỉ là tấm vải côt-tông nếp gấp. Ánh sáng từ những bóng đèn đường chiếu lên giường qua rèm cửa, lên say giấc. Chắc chắn ngươi phải nán lại lúc, nhìn ấy kỹ và hài lòng xem xét nhiệm vụ cần thực tiếp theo. Bởi vì ngươi cảm thấy rất vui sướng vì điều đó, đúng ? Ngươi cảm thấy ngày càng hưng phấn. Cảm giác rùng mình đó len lỏi trong mạch máu của ngươi như thứ thuốc phiện, đánh thức mọi dây thần kinh cho đến khi các đầu ngón tay ngươi giật mạnh vì háo hức.

      Elena Ortiz kịp hét lên. Hoặc nếu có hét cũng ai nghe thấy. có gia đình nào sống bên cạnh, cũng có hàng xóm nào sống bên dưới.

      Kẻ đột nhập lấy dụng cụ. Đó là băng dính ống nhựa, tấm giẻ rách tẩm thuốc gây mê, bộ sưu tập các dụng cụ phẫu thuật. chuẩn bị rất kỹ.

      Thử thách đó có lẽ kéo dài hơn giờ đồng hồ. Ít ra trong lúc đó Elena Ortiz vẫn tỉnh táo. Phần da cổ tay và mắt cá chân bị chà xát, chứng tỏ chống cự. Trong cơn hoảng loạn và đau đớn, tống hết dung dịch trong bàng quang ra ngoài. Nước tiểu ngấm vào đệm, pha lẫn với máu của . Việc mổ xẻ được tiến hành rất tinh vi và chọn đúng thời điểm thực nó, chỉ lấy thứ muốn, lấy thêm gì khác.

      cưỡng bức , có lẽ thể làm vậy.

      Khi thực xong các vết cắt khủng khiếp, vẫn còn sống. Cổ tử cung vẫn chảy máu, tim vẫn đập. Trong bao lâu? Bác sỹ Tierney đoán việc đó kéo dài ít nhất nửa tiếng, ba mươi phút. Chắc chắn ba mươi phút đó đối với Elena Ortiz kéo dài vô tận.

      Ngươi làm gì trong suốt thời gian đó? Cất dụng cụ chăng? Hay ngươi chỉ đứng đó, sung sướng chứng kiến cảnh tượng?

      Hành động cuối cùng diễn ra rất nhanh gọn và chuyên nghiệp. Kẻ tra tấn Elena Ortiz lấy thứ muốn và giờ đến lúc chấm dứt toàn bộ việc này. đến đầu giường. Tay trái túm chặt tóc , giật về phía sau mạnh đến nỗi hàng chục sợi rụng ra. Những sợi tóc này sau đó được tìm thấy, rải rác gối và sàn nhà. Những vết máu và những tiếng la hét là việc cuối cùng xảy ra. Khi giữ chặt đầu và để phần cổ lộ ra, thực nhát cắt duy nhất rất sâu từ bên hàm trái, thẳng sang phải, cắt ngang cổ họng. phá hủy hoàn toàn động mạch cảnh và khí quản. Bức tường bên trái giường có khối các vệt hình tròn chảy xuống. Điều đó cho thấy máu phun ra và bắn lên từ khí quản. Gối và ga trải giường ướt đẫm những giọt máu. Vài giọt bắn lên rèm cửa khi tên sát nhân rút mạnh lưỡi dao ra.

      Elena Ortiz sống đủ lâu để nhìn thấy máu từ cổ mình ộc ra và bắn lên tường như cỗ máy phun nước màu đỏ. sống đủ lâu và hít cả máu vào khí quản bị thủng và nghe thấy nó chảy ồng ộc trong hai lá phổi. Rồi cố ho khạc nó ra, lẫn trong nước đờm đỏ tươi.

      vẫn sống và biết mình sắp chết.

      Và khi làm xong việc đó, khi những cơn giãy giụa đau đớn của ấy ngừng lại, ngươi để lại cho bọn ta thẻ điện thoại. Ngươi gấp áo choàng ngủ của nạn nhân gọn gàng, để nó ghế cạnh giường. Tại sao vậy? Có phải đó là dấu hiệu chứng tỏ tôn trọng méo mó của ngươi với người phụ nữ ngươi vừa mổ xẻ ? Hay đó là cách ngươi chế giễu bọn ta, là cách để ngươi với bọn ta là ngươi kiểm soát hoàn toàn?

      Moore quay lại phòng khách, ngồi sụp xuống ghế bành. Căn hộ rất nóng bức và ngột ngạt nhưng run rẩy. biết đó là ớn lạnh về thể xác hay tinh thần. Đùi và vai đau buốt, có thể loại vi rút nào đó xâm nhập vào cơ thể . Cúm trong mùa hè là loại cúm đáng sợ nhất. nghĩ đến tất cả những địa điểm mà muốn đến lúc đó, hồ Adrift hay hồ Maine. Dây câu của văng lên trung. Hoặc đứng bờ biển, nhìn sương mù tràn vào. muốn đến bất cứ nơi nào, trừ trường vụ án mạng.

      Tiếng kêu của máy nhắn tin làm giật mình. tắt nó và thấy tim mình đập mạnh. Đầu tiên, cố trấn tĩnh lại, rồi mới lấy di động ra, nhìn kỹ số gọi đến.

      - Rizzoli đây - trả lời sau tiếng chuông đầu tiên, lời chào của thẳng như viên đạn.

      - nhắn tin cho tôi à?

      - chưa bao giờ cho tôi biết có tên trong VICAP - .

      - Được ghi danh sao?

      - Về Diana Sterling. Giờ tôi xem hồ sơ vụ giết người của ấy.

      VICAP, tức Chương trình tìm hiểu những tên tội phạm bạo lực, là thông tin về các vụ giết người và hành hung được thu thập từ các vụ án khắp nước Mỹ. Những tên sát nhân thường lặp lại các kiểu gây án. Nhờ các dữ liệu này, các điều tra viên có thể liên kết các vụ án do cùng thủ phạm gây ra. Và theo thói quen, Moore và cộng của mình, Rusty Stivack bắt đầu lục tìm VICAP.

      - Chúng tôi tìm thấy trường hợp nào ăn khớp tại bang New England - Moore - Chúng tôi xem qua mọi vụ giết người có liên quan đến việc cắt mổ nạn nhân, đột nhập ban đêm và trói bằng băng dính ống nhựa. Nhưng có gì trùng khớp với hồ sơ của Sterling.

      - Còn chuỗi các vụ ở Georgia sao? Cách đây ba năm có bốn nạn nhân, ở Atlanta, ba ở Savannah. Tất cả đều nằm trong dữ liệu của VICAP.

      - Tôi xem qua mấy vụ đó. Tên tội phạm đó phải là kẻ tình nghi của chúng ta.

      - Nghe này, Moore! Dora Ciccone, hai mươi hai tuổi, sinh viên tốt nghiệp ở Emory. Đầu tiên nạn nhân bị đánh gục bằng thuốc Rohypno có tác dụng làm mất trí nhớ tạm thời, sau đó bị trói vào giường bằng băng dính ống nhựa.

      - Còn tên tội phạm của chúng ta lại dùng thuốc gây mê và băng dính ống nhựa.

      - mổ bụng ấy, cắt rời tử cung. thực hai vết cắt, vết duy nhất ngang cổ. Và cuối cùng… hãy nghe cho nhé… gấp bộ quần áo ngủ của ấy và đặt chúng lên chiếc ghế cạnh giường. Tôi muốn với đó là màn kết thúc khốn nạn.

      - Các vụ án tại Georgia khép lại - Moore cố giải thích - Chúng được khép lại hai năm rồi. Tên tội phạm đó chết.

      - Nếu Sở cảnh sát Savannah thổi phồng việc đó lên sao? Nếu phải là tên giết người sao?

      - Họ có bằng chứng ADN, các sợi vải và tóc. Thêm vào đó, còn có nhân chứng, nạn nhân còn sống sót.

      - Ồ, đúng vậy. người còn sống sót. Đó là nạn nhân số năm - Giọng Rizzoli có vẻ giễu cợt.

      - ấy nhận dạng tên sát nhân - Moore khẳng định.

      - ta cũng tiện thể bắn chết luôn phải ?

      - Vậy sao? muốn bắt bóng ma của à?

      - chuyện với nạn nhân sống sót đó chưa? - Rizzoli hỏi.

      - Chưa.

      - Sao chưa?

      - Làm vậy ích gì chứ?

      - Vấn đề là có thể tìm thấy điều gì đó đáng quan tâm. Ví dụ như ta rời khỏi Savannah lâu sau vụ tấn công đó. Và thử đoán xem giờ ta ở đâu?

      Qua tiếng rè rè điện thoại di động, nghe thấy mạch mình đập mạnh.

      - Boston à? - khẽ hỏi.

      - Và tin nổi ta làm nghề gì để kiếm sống đâu.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      BA




      Bác sỹ Catherine Cordell lao nhanh dọc hành lang bệnh viện. Đế giày của nện vang nền nhà lót vải. đẩy cửa vào phòng cấp cứu.


      y tá hét to:


      - Họ ở phòng chấn thương số hai, thưa bác sĩ Cordell.


      - Tôi đến ngay - Catherine , và lao như tên bắn vào phòng chấn thương số hai.


      Gần chục khuôn mặt giãn ra nhõm khi thấy bước vào. Chỉ cần nhìn qua, hiểu ngay tình hình. thấy những dụng cụ lộn xộn lấp lánh khay. Các cực gắn điện tâm đồ cùng túi đựng chất lac-tat Ringer treo lơ lửng như trái cây mọng cột thép. Gạc lau máu và túi bị xé rách rải rác khắp sàn nhà. Các đường xoang chạy ngang màn hình điện tâm đồ - mẫu điện tâm đồ đó cho thấy quả tim chạy đua đến nơi của Tử thần phía trước.


      - Chúng ta có gì đây? - hỏi khi mọi người dạt ra để qua.


      Ron Littman, nhân viên phụ mổ số báo cáo nhanh.


      - Ông ta là người bộ tên John Doe, bị xe đâm và kéo lê. Được đưa vào phòng cấp cứu trong tình trạng bất tỉnh. Đồng tử đều nhau, vẫn hoạt động. Phổi sạch nhưng bụng sưng to. bụng. Huyết áp giảm xuống sáu mươi. Tôi chích dịch trong bụng. Bụng ông ấy có máu. Chúng tôi luồn đường dây trung tâm vào trong, ống lac-tat Ringer mở rộng nhưng chúng tôi thể làm huyết áp của ông ấy tăng lên.


      - Ống truyền máu và huyết tương đông lạnh sắp đến chưa?


      - Mấy phút nữa đến.


      Người đàn ông nằm giường được cởi hết quần áo, những chi tiết nhạy cảm đều phơi bày trước mắt . Ông ta khoảng sáu mươi tuổi, được luồn ống thở và máy trợ thở bật lên. Những thớ cơ còn sức sống xệ xuống thành những nếp nhăn tứ chi gầy gò. Sườn ông ta nhô lên như những lưỡi dao. Đây là biểu của căn bệnh kinh niên trước đây, nghĩ, suy luận đầu tiên của là căn bệnh ung thư. Cánh tay và hông phải bị trầy xước, chảy máu là do bị lê dọc vỉa hè. Phần dưới ngực bên phải có vết thâm tím, tạo thành mảng màu tím chỗ da trắng. có vết thương sâu.


      đeo ống nghe để xác nhận những gì nhân viên y tá báo cáo. nghe thấy thanh gì trong bụng, chút ầm ì, chút lục bục. Đó là im lặng của phần bụng bị chấn thương. di chuyển ống nghe lên phần ngực, nghe tiếng thở và xác nhận là ống thở được luồn đúng chỗ. Cả hai lá phổi được thông khí. Tim đập mạnh như đấm vào thành ngực. chỉ cần kiểm tra trong vòng vài giây nhưng cảm thấy cử động của mình như quay chậm và xung quanh , căn phòng chật ních người lúc đó như chững lại, chờ động thái tiếp theo của .


      y tá to.


      - Tôi thấy tâm thu quá mức năm mươi nữa!


      Thời gian trôi với tốc độ đáng sợ.


      - Lấy áo khoác và găng tay cho tôi! - Catherine gằn giọng - Mở khay ve áo!


      - đưa ông ấy đến phòng mổ sao? - Littman ngạc nhiên.


      - Tất cả các phòng kín. Chúng ta thể chần chừ - Ai đó ném cho mũ giấy. nhanh chóng túm gọn mái tóc đỏ dài đến vai, đeo khẩu trang. y tá làm nhiệm vụ vệ sinh cầm sẵn chiếc áo khoác phẫu thuật tiệt trùng. Catherine mặc áo và đeo găng tay. có thời gian rửa tay, thể chần chừ. là người chịu trách nhiệm và John Doe trông cậy ở .


      Ngực và hông nạn nhân được lau sạch bằng khăn tiệt trùng. lấy chiếc kẹp cầm máu khay rồi nhanh chóng cố định các khăn tiệt trùng. Các mũi thép bị xiết chặt tạo nên những tiếng ken két.


      - Máu từ đâu ra? - hét to.


      - Giờ tôi kiểm tra phòng thí nghiệm ngay - y tá vội .


      - Ron, là người phụ trách số - Catherine với Littman. nhìn khắp phòng và để ý thấy thanh niên có khuôn mặt xanh xao đứng gần cửa. Thẻ bệnh viện của ta ghi: Jeremy Barrows, sinh viên y khoa - - chỉ tay - là phụ tá số hai.


      Ánh mắt chàng thanh niên thoáng vẻ sợ hãi.


      - Nhưng… tôi mới là sinh viên năm thứ hai. Tôi đến đây để…


      - Chúng ta có thể gọi nhân viên trực nào khác đến đây ?


      Littman lắc đầu.


      - Ai cũng chạy dài rồi. Họ có vụ chấn thương ở đầu ở phòng chấn thương số vụ mê man dưới đại sảnh.


      - Được rồi - quay lại nhìn chàng sinh viên - Barrows, cậu làm việc đó. Y tá, lấy cho cậu ta áo choàng và găng tay!


      - Tôi phải làm gì? Vì thực tôi biết…


      - Nghe này, cậu muốn làm bác sĩ ? Vậy đeo găng tay vào!


      Mặt cậu sinh viên đỏ bừng, cậu ta quay lại mặc áo khoác. Cậu ta rất sợ nhưng vì nhiều lý do, Catherine thích sinh viên lo lắng như cậu ta hơn người hiếu chiến. chứng kiến quá nhiều bệnh nhân chết vì tự tin quá mức của bác sỹ.


      Ai đó thông báo điện đàm.


      - Xin chào, phòng chấn thương số hai phải ? Phòng thí nghiệm đây. Tôi có mẫu máu cho ông John Doe. Đó là số mười lăm.


      Ông ta chảy máu, Catherine nghĩ.


      - Chúng tôi cần ống máu đó ngay bây giờ.


      - Chúng tôi đưa đến.


      Catherine lấy dao mổ. Tay cầm và chất liệu thép của dao mổ có vẻ như đều thoải mái trong tay . Chúng chỉ là phần phụ mọc thêm chính bàn tay và da thịt của . hít nhanh hơi, thấy mùi cồn và mùi bột tan bốc ra từ găng tay. Rồi ấn mũi dao lên da nạn nhân, rạch đường chính giữa bụng.


      Mũi dao mổ vạch đường màu đỏ tươi lên tấm khăn phủ trắng phau.


      - Chuẩn bị ống hút và các tấm dùng để mổ bụng - - Bụng ông ấy đầy máu.


      - Huyết áp khó duy trì ở mức năm mươi.


      - Ống máu và huyết tương đông lạnh được đem đến.


      - Ai đó hãy quan sát nhịp tim và báo cho tôi biết nó biến đổi ra sao - Catherine .


      - Màn hình điện tim! - Nhịp tim lên mức trăm năm mươi.


      cắt xuyên qua lớp da và lớp mỡ dưới da, chú tâm gì đến việc thành bụng chảy máu, chỗ xuất huyết nặng nhất vẫn ở bên trong bụng. phải ngăn nó ngay. Có nhiều khả năng đó là do lá lách hay gan bị rách gây ra tượng đó.


      Màng bụng phình to, bên trong đầy máu.


      - Nó khá lộn xộn đấy - cảnh báo trước. Mũi dao mổ của chuẩn bị xọc sâu xuống. Mặc dù giữ chặt chất sắp phun ra nhưng tiếng nổ đầu tiên của màng bụng mạnh đến nỗi thoáng thấy hoảng loạn. Máu phọt ra khăn phủ, chảy xuống sàn. Nó bắn lên cả áo khoác của . Nó ấm như nước tắm có mùi đồng và ngấm qua tay áo . Nó vẫn chảy ra như lụa.


      dùng dụng cụ banh miệng vết mổ, mở rộng vết thương, để lộ ra toàn bộ phần bụng bên trong. Littman nhét ống hút nước tiểu vào. Máu òng ọc chảy vào ống. dòng nước màu đỏ tươi bắn lên hộp kính chứa chất lỏng.


      - Lấy thêm các tấm mổ bụng! - Catherine hét lên. nhét hơn mười cuộn bông thấm vào vết thương và thấy chúng biến thành màu đỏ như có ma. Trong vòng mấy giây, chúng ướt đẫm. lấy bông cũ ra, cho bông mới vào, gói chúng lại thành các hình vuông.


      y tá .


      - Tôi thấy có tượng rung tim màn hình.


      - Tệ ! Tôi hút hai lít máu vào hộp chứa - Littman .


      Catherine ngẩng lên. thấy túi máu và huyết tương đông lạnh rất nhanh vào dây truyền, như thể họ đổ máu lên cái sàng. Máu chảy vào động mạch, rồi lại chảy ra từ vết thương. Chúng chảy kịp. thể kẹp chặt mạch máu khi chúng bị nhấn chìm trong bể máu, thể phẫu thuật mà nhìn thấy chúng.


      lôi bông thấm ra. Chúng nặng và giọt. cho thêm bông vào. Trong mấy giây quý giá đó, thấy các cột mốc. Máu ộc ra từ gan nhưng có dấu hiệu tổn thương rệt. Dường như máu tràn lên toàn bộ bề mặt gan.


      - Huyết áp của ông ấy giảm mạnh - y tá kêu lên.


      - Kẹp! - Catherine kêu lên và ngay lập tức, dụng cụ đó được chuyển đến tay - Tôi cố thực thủ thuật cắt màng ngoài. Barrows, cho thêm bông thấm vào!


      Cậu sinh viên y khoa giật mình nên khi với tay về chỗ khay đựng dụng cụ y tế, cậu ta làm rơi các cuộn bông thấm. Cậu ta sợ hãi khi chúng rơi lộn xộn sàn.


      y tá xé gói mới.


      - Chúng phải được đặt vào bụng nạn nhân, chứ phải sàn - mắng. bỗng gặp ánh mắt Catherine. Ánh mắt hai người phụ nữ đó cho thấy họ đều có chung suy nghĩ.


      chàng đó là bác sỹ ư?


      - Đặt ở đâu đây? - Barrows hỏi.


      - Hãy thấm vết mổ. Tôi thể quan sát khi máu ngập hết chỗ này!


      cho cậu ta vài giây để thấm máu cho vết thương, rồi cho tay vào, xé toang các màng nối. di chuyển kẹp từ bên trái, xác định được cuống gan. Trong đó có các động mạch gan và các mạch máu. Đây chỉ là giải pháp tạm thời. Nhưng nếu lúc đó có thể cầm máu có thể kiểm soát tình trạng xuất huyết. Việc đó cho họ chút thời gian quý giá để ổn định huyết áp, bơm thêm máu và huyết tương vào mạch của ông ấy.


      đóng chặt kẹp, ngăn cho mạch máu chảy vào cuống gan.


      Nhưng ngạc nhiên khi máu vẫn tiếp tục ộc ra như trước.


      - có chắc kẹp vào cuống gan ? - Littman hỏi.


      - Tôi biết là tôi kẹp đúng. Và tôi còn biết là lúc trước nó chảy từ màng bụng.


      - Đó có thể là mạch trong gan ?


      chộp hai bông thấm khay. Lần thực thủ thuật tiếp theo là cố gắng cuối cùng của họ. đặt bông thấm lên bề mặt gan, rồi đôi tay đeo găng bóp chặt gan.


      - ấy làm gì vậy? - Barrows hỏi.


      - Ép gan - Littman - Đôi khi nó có thể đóng và che mất mép của chỗ thủng. ấy ngăn cho máu chảy hết.


      Mọi thớ cơ vai và cánh tay rã rời khi cố hết sức để duy trì huyết áp và bóp chặt cho máu chảy vào trong.


      - Máu vẫn trào ra - Littman thông báo - có tác dụng.


      nhìn kỹ vết thương và thấy máu lại tích tụ ở đó. Ông ấy bị chảy máu từ chỗ quái nào vậy? nghĩ. Đột nhiên thấy máu cũng từ từ trào ra từ những chỗ khác, chỉ riêng gan mà cả từ thành bụng, mạc treo ruột và mép chỗ da bị rạch.


      nhìn cánh tay trái của bệnh nhân thò ra khỏi chăn phủ. Miếng gạc phủ chỗ ống dẫn huyết thanh ướt đẫm máu.


      - Tôi muốn sáu đơn vị tiểu huyết cầu và huyết tương đông cứng - cầu - Hãy bắt đầu pha chế hê-pa-rin. Mười nghìn đơn vị thuốc truyền nước cỡ lớn, sau đó truyền thêm mười nghìn đơn vị nữa trong vòng giờ.


      - Hê-pa-rin à? - Barrows ngơ ngác - Nhưng ông ấy chảy máu…


      - Đây là tượng DIC - Catherine giải thích - Ông ấy cần thuốc chống đông tụ.


      Littman nhìn .


      - Giờ chúng ta có phòng thí nghiệm. Sao biết ông ấy cần thuốc chống đông tụ?


      - Khi chúng ta nghiên cứu thuốc chống đông tụ xong quá muộn. Chúng ta phải hành động ngay - gật đầu với y tá - Tiêm !


      y tá ấn kim tiêm vào ống truyền. Hê-pa-rin là phương án vô vọng cuối cùng. Nếu Catherine chẩn đoán đúng, nếu bệnh nhân bị DIC - tức bệnh đông máu trong mạch phổ biến - trong khắp mạch máu của ông ấy, các cục máu đông lớn hình thành như những trận mưa đá cực . Chúng phá hủy toàn bộ các nhân tố giúp đông máu và tiểu huyết cầu quý giá của ông ấy. vụ chấn thương mạnh, căn bệnh ung thư hay loại truyền nhiễm tiềm có thể khiến các cục máu đông hình thành với tốc độ thể kiểm soát nổi. DIC ngốn hết các nhân tố giúp đông máu và tiểu huyết cầu. Cả hai yếu tố đó đều cần thiết để giúp máu đông lại. Nếu có chúng, bệnh nhân bị xuất huyết. Để ngăn tượng DIC, họ phải dùng hê-pa-rin, loại thuốc chống đông máu. Đây là phương pháp chữa trị ngược đời. Và nó cũng là ván bài. Nếu Catherine chẩn đoán sai, hê-pa-rin khiến bệnh nhân chảy máu nhiều hơn.


      Và như vậy mọi việc dường như thể tệ hơn. Lưng đau buốt, tay run rẩy vì cố giữ áp lực ở gan. giọt mồ hôi chảy dọc , làm ướt khăn bịt mặt.


      Phòng thí nghiệm điện đàm.


      - Phòng chấn thương số hai, tôi có kết quả xét nghiệm máu cho ông John Doe.


      - Tiếp tục - y tá .


      - Số lượng tiểu huyết cầu chỉ còn nghìn. Chất Prothombin lên tới ba mươi. Ông ấy có các chất tơ huyết bị thoái hóa nặng. Có vẻ như bệnh nhân của các bạn bị chứng DIC nặng.


      Catherine bỗng nhìn thấy vẻ mặt sửng sốt của Barrows. Các sinh viên y khoa rất dễ bị xúc động.


      - Rung tim! Ông ấy bị rung tim!


      Catherine nhìn ngay màn hình. đường bị đứt quãng như các vết răng cắn chạy ngang màn hình.


      - Huyết áp còn ?


      - , tôi thấy huyết áp nữa.


      - Hãy bắt đầu ép tim! Littman, chịu trách nhiệm vận hành máy.


      hỗn loạn cuốn mọi người như cơn lốc. Cơn lốc đó cuốn mạnh hơn. chiếc xe đẩy lao vào phòng, mang theo huyết tương đông lạnh và tiểu huyết cầu. Catherine nghe thấy Littman hét to cầu thêm thuốc trợ tim. thấy y tá đặt tay lên xương ức bệnh nhân và bắt đầu bơm máu vào tim. Đầu ấy giật lên xuống như chú chim máy uống nước. Sau mỗi lần ép, họ bơm máu lên não, giúp nó tiếp tục hoạt động. Nhưng họ cũng tiếp thêm máu cho quá trình xuất huyết.


      Catherine cúi nhìn ổ bụng của bệnh nhân. vẫn giữ chặt gan, ngăn cho đợt máu khác trào ra. Có phải tưởng tượng hay ? Máu rỉ ra như những sợi dây trang trí qua ngón tay dường như chảy chậm lại.


      - Gây sốc cho ông ấy! - Littman hét - Luồng điện trăm jun.


      - , chờ . Nhịp ông ấy trở lại.


      Catherine nhìn màn hình. Nhịp tim của phần lõm gian thùy. Tim đập trở lại, nhưng nó cũng khiến máu lại chảy vào các động mạch.


      - Chúng ta có bơm máu vào được ? - hét to - Huyết áp bao nhiêu?


      - lên mức chín mươi bốn mươi. Có thể bơm máu được.


      - Nhịp tim ổn định. Vẫn duy trì nhịp.


      Catherine nhìn phần bụng mở phanh ra. Chứng xuất huyết giờ chỉ rỉ ra và hầu như nhìn thấy được. đứng đó, ôm chặt gan trong lòng bàn tay và nghe tiếng kêu đều đều màn hình. Với đôi tai của đó chính là nhạc.


      - Các bạn - - Tôi nghĩ chúng ta cứu được ông ấy.






      Catherine tháo đôi găng tay đầy máu, theo xe đẩy đưa John Doe ra khỏi phòng chấn thương số hai. Các thớ cơ vai run rẩy vì mệt mỏi nhưng đó là mệt mỏi hạnh phúc, mệt mỏi sau chiến thắng. Các y tá đẩy xe vào thang máy để đưa bệnh nhân đến Bộ phận chăm sóc đặc biệt sau phẫu thuật. Catherine định bước vào thang máy nghe thấy ai đó gọi tên mình.


      quay lại, thấy người đàn ông và phụ nữ tiến về phía . Người phụ nữ thấp bé, trông rất đáng sợ. Đôi mắt nâu nhìn thẳng vào như tia la-ze. ta mặc bộ com-lê màu xanh dương trông rất khắc khổ. Nó khiến ta trông như quân nhân. ta trông như người lùn khi bên cạnh người đồng hành cao hơn nhiều. Người đàn ông có vẻ gần bốn mươi lăm tuổi, những sợi tóc bạc lốm đốm đầu. Tuổi tác in hằn những đường nét chín chắn khuôn mặt nổi bật và rất điển trai của . Catherine rất chú ý đôi mắt của . Chúng có màu ghi nhạt và thể đọc được suy nghĩ bên trong.


      - là bác sĩ Cordell phải ? - hỏi.


      - Vâng.


      - Tôi là thám tử Thomas Moore. Còn đây là thám tử Rizzoli. Chúng tôi đến từ Bộ phận điều tra Án mạng - giơ huy hiệu lên nhưng trông nó như món đồ rẻ tiền ở cửa hàng. Hầu như chẳng để ý đến nó, ánh mắt dồn hết về phía .


      - Chúng tôi chuyện riêng với được ? - hỏi.


      nhìn mấy y tá chờ cùng John Doe trong thang máy.


      - trước nhé! - với họ - Bác sỹ Littman viết các cầu.


      Chỉ khi thang máy đóng lại, mới quay sang chuyện với Moore.


      - Có phải vì vụ đâm xe vừa xảy ra ? Có vẻ như ông ấy sống được.


      - Chúng tôi đến đây phải vì bệnh nhân đó.


      - Các vị các vị đến từ Bộ phận điều tra Án mạng đúng ?


      - Đúng vậy - Giọng có chút trầm xuống khiến lo lắng. Đó là lời cảnh báo nhàng cho biết có tin xấu.


      - Ôi lạy Chúa, tôi mong là điều này có liên quan đến ai đó mà tôi biết.


      - Về Andrew Capra và việc xảy ra với tại Savannah.


      im lặng lúc. Chân đột nhiên tê dại. tựa vào bức tường phía sau như để tránh cho mình khỏi ngã.


      - Bác sỹ Cordell? - Giọng đột nhiên tỏ ra quan tâm - ổn chứ?


      - Tôi nghĩ… tôi nghĩ chúng ta nên chuyện trong văn phòng của tôi - thầm. nhanh chóng quay , và ra khỏi phòng cấp cứu. quay lại xem hai vị thám tử có theo mình , cứ , chạy trốn về phía văn phòng an toàn của mình ở tòa nhà bên cạnh. nghe thấy tiếng bước chân họ ngay phía sau khi dẫn đường trong khu nhà lộn xộn. Đó chính là Trung tâm Y tế Hành Hương.


      Chuyện gì xảy ra với ở Savannah?


      muốn về chuyện đó. mong phải về Savannah với bất cứ ai, bao giờ. Nhưng đây là các nhân viên cảnh sát và thể lảng tránh những câu hỏi của họ.


      Cuối cùng, họ đến dãy phòng có tấm biển:




      Bác sỹ chuyên khoa Peter Falco.


      Bác sỹ chuyên khoa Catherine Cordell.


      Khoa phẫu thuật thông thường và phẫu thuật mạch.




      bước vào văn phòng phía trước. Nhân viên lễ tân nhìn lên và cười chào theo thói quen. Nụ cười tắt ngấm môi khi thấy khuôn mặt Catherine tái và thấy hai người lạ mặt theo vào.


      - Bác sỹ Cordell, có chuyện gì vậy?


      - Chúng tôi vào văn phòng, Helen. Đừng chuyển cuộc gọi nào cho tôi!


      - Bệnh nhân đầu tiên của đến lúc mười giờ. Ông Tsang thực thủ thuật cắt bỏ lách tiếp theo.


      - Hủy !


      - Nhưng ông ấy lái xe từ tận Newbury. Có thể ông ấy lên đường rồi.


      - Vậy để ông ấy đợi. Nhưng làm ơn, đừng nối cuộc gọi nào cho tôi!


      Catherine để ý đến ánh mắt ngạc nhiên của Helen, thẳng vào văn phòng. Moore và Rizzoli theo ngay sau . đưa tay lấy ngay chiếc áo khoác màu trắng. Nó móc treo ở cửa, chỗ vẫn thường treo. Đó chỉ là điều bực mình nho nhưng nó khiến tâm trạng thêm bực tức. Dường như đó là điều thể chịu đựng thêm. nhìn quanh phòng, tìm chiếc áo khoác trắng như thể mạng sống của hoàn toàn phụ thuộc vào nó. thấy nó phủ ngăn tủ đựng hồ sơ. cảm thấy thoải mái thể giải thích nổi khi chộp lấy nó rồi lui về sau bàn làm việc. Ở đó cảm thấy an toàn hơn, được ngăn cách bởi mặt bàn bằng gỗ hồng sắc bóng loáng. thấy an toàn khi là người kiểm soát.


      Căn phòng được sắp xếp cẩn thận như cách sắp xếp cuộc sống của mình. thể chịu nổi bừa bộn. Các tệp hồ sơ của được sắp xếp vào hai ngăn gọn gàng bàn. Sách của được xếp theo trật tự chữ cái của tên tác giả giá sách. Máy tính kêu rầm rì, màn hình ở chế độ chờ có hình những mẫu hộp chất lên nhau. khoác chiếc áo trắng để che vết máu cổ tay áo bên trong. lớp áo đồng phục mới khiến có cảm giác như lớp bảo vệ và ngăn cách trước những biến đổi lộn xộn và nguy hiểm của cuộc sống.


      ngồi sau bàn, nhìn Moore và Rizzoli. Họ nhìn khắp căn phòng và chắc chắn đưa ra những nhận định về chủ nhân của nó. Có phải các nhân viên cảnh sát đều tự động nhìn nhanh lượt để đánh giá tính cách của người dựa các đồ vật của người đó? Điều đó khiến Catherine cảm thấy bị phơi bày và dễ tổn thương.


      - Tôi biết đây là vấn đề khiến đau lòng khi tôi nhắc lại - Moore và ngồi xuống.


      - biết việc đó khiến tôi đau đớn mức nào đâu. hai năm rồi. Tại sao bây giờ các vị lại muốn bới nó ra?


      - Nó có liên quan đến hai vụ giết người ở Boston này.


      Catherine cau mày.


      - Nhưng tôi bị tấn công ở Savannah.


      - Đúng, chúng tôi biết. Có trung tâm dữ liệu tội phạm quốc gia tên là VICAP. Khi chúng tôi tìm kiếm VICAP, và tìm những vụ án tương tự vụ giết người ở đây cái tên Andrew Capra xuất .


      Catherine im lặng lúc để ghi nhận thông tin đó. cố thu hết can đảm để đối diện với câu hỏi logic tiếp theo. cố bình tĩnh .


      - Chúng ta về những nét tương đồng nào vậy?


      - Đó là cách những người phụ nữ bị trói và kiểm soát, loại dụng cụ được dùng để cắt mổ nạn nhân và… - Moore dừng lại, cố chọn lọc từ ngữ sao cho khéo léo hết mức có thể - Và bộ phận lựa chọn để cắt bỏ - khẽ.


      Cả hai tay Catherine bám chặt vào bàn, cố ngăn cơn buồn nôn đột ngột trào lên. nhìn chồng hồ sơ xếp gọn gàng ngay trước mặt. nhìn thấy vết mực màu xanh lơ cánh tay áo phòng thí nghiệm. Dù ngươi có cố bao nhiêu để kiểm soát cuộc sống của mình, dù ngươi có cẩn thận mức nào để bảo vệ bản thân khỏi những lỗi lầm và những điều hoàn hảo lúc nào cũng có vết nhơ, sai lầm nào đó lẩn khuất khỏi tầm mắt. Chúng chỉ chực khiến ngươi kinh ngạc.


      - Hãy kể cho tôi nghe - - Về hai người phụ nữ đó.


      - Chúng tôi được phép tiết lộ nhiều.


      - Các vị có thể cho tôi biết điều gì?


      - có gì nhiều hơn những gì được viết trong tờ Toàn cầu ngày Chủ nhật.


      mất mấy giây để hiểu những gì vừa . Người cứng đơ kinh ngạc.


      - Các vụ giết người tại Boston… chúng chỉ mới xảy ra thôi sao?


      - Vụ mới nhất xảy ra vào thứ sáu vừa rồi.


      - Vậy chẳng có gì liên quan đến Andrew Capra! Chẳng có gì liên quan đến tôi hết!


      - Có những điểm tương tự đáng ngạc nhiên.


      - Vậy đó chỉ là ngẫu nhiên! Chắc chắn là vậy. Tôi nghĩ các vị về những vụ án cũ, việc gì đó mà Andrew Capra làm cách đây mấy năm, chứ phải tuần trước - đẩy nhanh chiếc ghế về phía sau - Tôi thấy tôi giúp gì được hai vị.


      - Bác sỹ Cordell, tên giết người này biết những tình tiết mà chưa được tiết lộ cho công chúng. có những thông tin về các vụ tấn công của Capra mà ai bên ngoài vụ điều tra Savannah biết được.


      - Vậy có thể các vị nên điều tra những người trong ban điều tra đó, những người biết mọi việc.


      - trong số đó, bác sỹ Cordell.


      - Vậy các vị quên rồi à, tôi cũng là nạn nhân.


      - từng tiết lộ về chi tiết vụ án của với bất cứ ai chưa?


      - Chỉ cảnh sát ở Savannah thôi.


      - chưa từng về nó rất lâu với bạn bè sao?


      - .


      - Gia đình sao?


      - .


      - Chắc chắn phải tin tưởng ai đó chứ.


      - Tôi ra chuyện đó. Tôi bao giờ ra chuyện đó.


      nhìn chằm chằm, tỏ vẻ tin.


      - bao giờ ư?


      quay mặt .


      - Chưa hề! - thầm.


      Họ im lặng rất lâu, rồi Moore khẽ.


      - bao giờ nghe thấy cái tên Elena Ortiz chưa?


      - Chưa.


      - Diana Sterling?


      - Chưa. Họ là những phụ nữ…


      - Đúng vậy, họ là những nạn nhân.


      nuốt khan.


      - Tôi biết tên họ.


      - biết gì về những vụ giết người này à?


      - Tôi cố tránh đọc bất cứ thứ gì bi thương. Đó là việc tôi thể chịu nổi - thở dài mệt mỏi - phải hiểu chứ. Tôi thấy quá nhiều chuyện khủng khiếp trong phòng cấp cứu. Khi tôi về nhà vào cuối ngày, tôi muốn yên bình. Tôi muốn cảm thấy an toàn. Những việc xảy ra thế giới - toàn bộ những chuyện bạo lực đó - tôi cần đọc những thông tin về chúng.


      Moore cho tay vào áo khoác, lấy ra hai tấm ảnh, rồi đặt lên bàn, đẩy về phía .


      - nhận ra ai trong hai người phụ nữ này ?


      Catherine nhìn kỹ hai gương mặt đó. Người bên tay trái có đôi mắt đen và cười. Tóc bay trong gió. Người kia có mái tóc vàng như thiên thần, ánh mắt mơ màng, xa xăm.


      - Người tóc đen là Elena Ortiz - Moore - Người kia là Diana Sterling. Diana bị giết năm ngoái. nhận ra ai ?


      lắc đầu.


      - Diana Sterling sống tại Back Bay, chỉ cách chỗ ở của dặm. Căn hộ của Elena Ortiz chỉ cách bệnh viện này hai tòa nhà về phía nam. Có thể nhìn thấy họ. có chắc chưa từng thấy ai trong hai người này ?


      - Trước đây tôi chưa từng thấy họ - đưa những bức ảnh cho Moore và đột nhiên nhận thấy tay mình run lẩy bẩy. Chắc chắn nhận ra điều đó khi cầm những bức ảnh và những ngón tay của chạm vào tay . nghĩ chắc chắn để ý thấy nhiều thứ khác, cảnh sát làm vậy. quá bận tâm về tâm trạng bất ổn của mình nên hầu như để ý đến người đàn ông này. ta im lặng và nhàng, hề cảm thấy bị đe dọa chút nào. Chỉ lúc này mới nhận thấy nghiên cứu rất kỹ và chờ đợi bất cứ biểu nào bên trong Catherine Cordell. Đó phải là bác sỹ điều trị chấn thương nổi tiếng, phải sành điệu và thanh lịch với mái tóc màu đỏ mà đó là phụ nữ dưới vẻ ngoài đó.


      Giờ thám tử Rizzoli mới lên tiếng. Khác với Moore, cố làm câu hỏi của mình dịu . chỉ muốn biết câu trả lời và lãng phí thời gian để có được chúng.


      - chuyển tới đây từ bao giờ, bác sỹ Cordell?


      - Tôi rời Savannah tháng sau khi bị tấn công - Catherine . Giọng ấy rất ăn ý với giọng điệu kiểu công việc của Rizzoli.


      - Tại sao lại chọn Boston?


      - Tại sao lại ?


      - Nó cách miền Nam quá xa.


      - Mẹ tôi lớn lên ở Massachussetts. Hè nào bà cũng đưa chúng tôi đến New England. Tôi có cảm giác… tôi về nhà.


      - Vậy ở đây hơn hai năm?


      - Đúng vậy?


      - Để làm gì?


      Catherine cau mày, bối rối vì câu hỏi đó.


      - Làm việc tại bệnh viện Hành Hương cùng bác sỹ Falco, thuộc bộ phận chấn thương.


      - Vậy tôi nghĩ tờ Quốc tế viết sai.


      - Xin lỗi, gì?


      - Tôi đọc bài báo về cách đây vài tuần, bài báo về các bác sỹ phẫu thuật nữ. Nhân tiện cũng muốn ảnh của rất đẹp. Họ mới làm việc ở bệnh viện Hành Hương này được năm.


      Catherine dừng lại, rồi bình tĩnh .


      - Bài báo đó đúng. Sau khi rời Savannah, tôi dành thời gian để… - hắng giọng - Mãi tháng bảy vừa rồi tôi mới tham gia cùng bác sỹ Falco.


      - Còn năm đầu tiên ở Boston sao?


      - Tôi làm việc.


      - làm gì?


      - làm gì hết - câu trả lời đó quá cộc và cụt lủn, đó chính là những gì có thể được. tiết lộ đáng xấu hổ về năm đầu tiên của mình. Những ngày kéo dài thành nhiều tuần liền, rất sợ phải ra khỏi căn hộ của mình. Khi đêm đến, tiếng động cũng khiến run rẩy hoảng loạn. Rồi chậm chạp và đau đớn quay trở lại với thế giới bên ngoài. Đầu tiên chỉ là cố thang máy, rồi bộ đến ô tô của mình trong đêm tối cũng là hành động quá gan dạ. rất xấu hổ vì mềm yếu của mình, bây giờ vẫn thấy xấu hổ. Lòng tự hào của cho phép tiết lộ chuyện đó.


      nhìn đồng hồ.


      - Tôi có vài bệnh nhân sắp đến. Tôi thực thể thêm điều gì.


      - Hãy để tôi kiểm tra vài việc tôi thu thập được ở đây - Rizzoli mở cuốn sổ tay , đóng gáy xoắn - Hơn hai năm trước, vào đêm ngày mười lăm tháng sáu, bị bác sỹ Andrew Capra tấn công tại nhà của mình. biết người đó. Đó là thực tập sinh tại bệnh viện - ngước lên nhìn Catherine.


      - biết câu trả lời rồi.


      - ta cho uống thuốc, lột quần áo, trói vào giường, đe dọa .


      - Tôi thấy có ích gì khi…


      - Và cưỡng bức - Những từ đó, dù được rất khẽ nhưng rất độc ác. Chúng như cái tát vào mặt .


      Catherine gì.


      - Đó phải là tất cả những gì định làm - Rizzoli tiếp tục.


      Lạy Chúa, hãy ngăn ấy lại !


      - định phẫu thuật cơ thể bộ phận tồi tệ nhất. làm vậy với bốn phụ nữ khác ở Georgia. mổ phanh người họ, phá hủy chính bộ phận làm nên người phụ nữ.


      - Đủ rồi! - Moore ngăn.


      Nhưng Rizzoli vẫn ngoan cố.


      - Có thể điều đó xảy ra với , bác sỹ Cordell.


      Catherine lắc đầu.


      - Tại sao các người làm vậy?


      - Bác sỹ Cordell, tôi chẳng muốn gì hơn ngoài việc bắt được gã này. Tôi muốn giúp chúng tôi. muốn việc này xảy ra với những người phụ nữ khác chứ?


      - Tôi chẳng liên quan gì đến việc này hết! Andrew Capra chết! chết hai năm trước.


      - Ồ, tôi đọc báo cáo khám nghiệm tử thi của .


      - Vậy, tôi đảm bảo chết - Catherine - Vì tôi chính là người kết liễu đời tên khốn khiếp đó.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      BỐN



      Moore và Rizzoli ngồi vã mồ hôi trong ô tô. Luồng khí nóng kêu ầm ĩ qua lỗ thông hơi xoay chiều. Họ bị mắc kẹt mười phút trong đám xe cộ và chiếc xe mát mẻ lên chút nào.

      - Những người nộp thuế nhận được những gì họ phải chi trả - Rizzoli bực tức - Chiếc xe này chỉ là món đồ chơi.

      Moore đóng cánh quạt điều hòa, cuộn cửa xuống. khí nóng bức và chất thải xe cộ bay vào xe. Người ướt đẫm mồ hôi. hiểu nổi tại sao Rizzoli vẫn có thể mặc chiếc áo cộc tay như quân phục được. cởi áo khoác ngay khi họ ra khỏi Trung tâm y tế Hành hương. làn khí ẩm ướt dày đặc bao trùm lấy họ. biết chắc chắn cảm thấy hơi nóng vì thấy mồ hôi lấp lánh môi . Có lẽ đôi môi đó chưa bao giờ tiếp xúc với thỏi son nào. Rizzoli trông xấu, nhưng thay vì có thể làm da mềm nhờ trang điểm hay đeo bông tai Rizzoli dường như rất ngoan cố và che giấu quyến rũ của chính mình. mặc những bộ com-lê tối màu. Chúng thể tôn thân hình mảnh mai của . Tóc trông như búi lọn xoăn lộn xộn. chỉ là . Người khác phải chấp nhận điều đó, nếu muốn xuống địa ngục. hiểu tại sao có kiểu hành xử tùy người khác nghĩ sao nghĩ, có thể cần làm như vậy để là nữ cảnh sát. Rốt cuộc Rizzoli là người sống sót.

      Giống như Catherine Cordell cũng là người may mắn sống sót. Nhưng Cordell áp dụng chiến lược tồn tại khác: đó là rút lui, tạo khoảng cách. Trong suốt thời gian thẩm tra, có cảm giác nhìn qua tấm kính mờ. Dường như quá xa vời.

      Chính khác biệt đó khiến Rizzoli khó chịu.

      - ấy có vấn đề gì đó - Rizzoli thắc mắc - Có cái gì đó thiếu sót về mặt tình cảm và cảm xúc.

      - ấy là bác sỹ phẫu thuật chấn thương. ấy rèn luyện cho bản thân phải lạnh lùng.

      - Đúng, lạnh như băng vậy. Hai năm trước, ấy bị trói, cưỡng bức và suýt nữa bị mổ xẻ. Giờ ấy lạnh lùng về chuyện đó đến mức khó chịu. Điều đó khiến tôi băn khoăn.

      Moore dừng xe lại trước đèn đỏ. ngồi xe, nhìn khu ngã tư ùn tắc. Mồ hôi từng giọt lưng . làm việc được tốt khi trời nóng, nó khiến cảm thấy bơ phờ và ngu muội. Nó khiến mong cho mau đến cuối hè và khao khát tinh khiết của những bông tuyết đầu tiên của mùa đông…

      - Này - Rizzoli nhắc - có nghe đấy?

      - ấy hoàn toàn tự chủ - thừa nhận. Nhưng đó phải là băng đá, nghĩ và nhớ lại bàn tay Catherine run rẩy như thế nào khi trả lại những tấm ảnh của hai người phụ nữ.

      Khi trở lại văn phòng làm việc, uống long -ca ấm và đọc lại bài báo được phát hành cách đây vài tuần tờ Quốc tế Boston: “Những người phụ nữ cầm dao”. Bài báo về ba bác sỹ phẫu thuật nữ ở Boston - thành công và những khó khăn của họ, những vấn đề đặc biệt họ gặp phải trong chuyên môn. Trong số ba bức ảnh, Cordell trông quyến rũ nhất. chỉ do rất xinh đẹp, mà đó là do ánh mắt của . Đôi mắt tự tin và thẳng thắn đến nỗi chúng như thách thức chiếc máy ảnh. Bức ảnh và cả bài báo đều khắc sâu ấn tượng rằng người phụ nữ này hoàn toàn làm chủ cuộc sống của mình.

      bỏ bài báo sang bên và nghĩ xem những ấn tượng đầu tiên có thể nhầm lẫn mức nào. nỗi đau có thể dễ dàng che giấu bằng nụ cười hay chiếc cằm hếch lên ngạo nghễ như thế nào.

      Giờ mở hồ sơ khác. hít sâu hơi, rồi đọc lại báo cáo của cảnh sát ở Savannah về Andrew Capra.

      Capra được biết đến lần đầu tiên khi giết sinh viên y khoa năm cuối tại Đại học Emory ở Atlanta. Nạn nhân là Dora Ciccone, sinh viên chưa tốt nghiệp tại Đại học Emory. Thi thể được tìm thấy, bị trói giường tại căn hộ thuê bên ngoài. Người ta tìm thấy dấu vết của thuốc Rohypno khi khám nghiệm tử thi cho . Căn hộ của có bất cứ dấu vết bị xâm nhập nào.

      Nạn nhân mời kẻ giết người về nhà.

      Khi bị tiêm thuốc xong, Dora Ciccone bị trói vào giường bằng dây ni-lông. bị dán băng dính ống nhựa vào miệng nên la hét được. Đầu tiên, tên sát nhân cưỡng bức . Rồi cắt mổ bộ phận người .

      Khi cắt và lấy chiến lợi phẩm, thực hai nhát cắt: nhát cắt duy nhất rất sâu ngang cổ: từ trái sang phải. Mặc dù cảnh sát có mẫu ADN từ tinh trùng của tên sát nhân nhưng họ có manh mối nào. Cuộc điều tra rất phức tạp vì Dora được mọi người biết đến là rất ham tiệc tùng. thích lui tới các quán rượu địa phương và thường đưa những người đàn ông mới gặp về nhà.

      Vào đêm chết, người đàn ông đưa về nhà là sinh viên y khoa tên là Andrew Capra. Nhưng cảnh sát hề chú ý đến tên Andrew Capra cho đến khi ba khác bị giết tại thành phố Savannah, cách đó hai trăm dặm.

      Cuối cùng, vào đêm tháng sáu oi bức, những vụ giết người đó chấm dứt.

      Catherine Cordell, ba mươi mốt tuổi, trưởng bộ phận phẫu thuật tại bệnh viện Riverland ở Savannah giật mình khi có người gõ cửa. Khi mở cửa, thấy Andrew Capra, sinh viên thực tập tại phòng phẫu thuật của đứng ngoài mái hiên. Cách đó hôm, tại bệnh viện, khiển trách mắc lỗi. Và giờ tuyệt vọng tìm cách chuộc lỗi. muốn vào để chuyện với về việc đó.

      Trong khi uống bia, họ xem xét lại việc thực tập y khoa của Capra, những lỗi lầm mắc phải, những người bệnh có thể bị hại do bất cẩn của . hề che giấu rằng: Capra thất bại và được phép hoàn thành chương trình thực tập. Rồi sau đó Catherine rời phòng khách, vào nhà vệ sinh, quay lại tiếp tục cuộc chuyện và uống nốt chỗ bia.

      Khi tỉnh lại, thấy mình bị lột truồng, bị trói vào giường bằng dây ni-lông.

      Báo cáo của cảnh sát miêu tả chi tiết cơn ác mộng diễn ra sau đó.

      Những bức ảnh chụp trong bệnh viện cho thấy phụ nữ với cặp mắt như bị ma ám. Má bị vết thâm tím và sưng to. Những gì nhìn thấy trong bức ảnh được tóm gọn lại bằng từ duy nhất: nạn nhân.

      Đó phải là từ dành cho người phụ nữ kỳ lạ mà gặp hôm nay.

      Khi đọc lại những lời khai của Cordell, có thể nghe thấy giọng của trong đầu mình. Những lời đó phải của nạn nhân vô danh mà của phụ nữ biết mặt.



      Tôi biết tôi cởi trói tay bằng cách nào. Lúc đó cổ tay tôi bị trầy xước hết nên chắc tôi lôi nó ra khỏi dây trói. Tôi xin lỗi, nhưng mọi việc trong đầu tôi được ràng. Tất cả những gì tôi còn nhớ là tôi cầm dao mổ. Tôi biết nhất định tôi phải lấy con dao mổ ra khỏi chiếc khay và tôi phải cắt dây trói trước khi Andrew trở lại…

      Tôi nhớ tôi lăn sang bên kia giường. Tôi ngã xuống sàn, đập đầu xuống. Rồi tôi cố tìm khẩu súng. Đó là khẩu súng của bố tôi. Sau khi thứ ba bị sát hại ở Savannah, ông cầu tôi giữ nó.

      Tôi nhớ luồn tay xuống dưới giường, cầm lấy khẩu súng. Tôi nhớ những bước chân về phía phòng ngủ. Rồi tôi chắc lắm. Hình như đó là khi tôi bắn . Vâng, tôi nghĩ mọi việc xảy ra như vậy. Họ với tôi là tôi bắn hai phát. Tôi nghĩ điều đó chắc là đúng.



      Moore dừng lại, ngẫm nghĩ về những lời khai đó. Bộ phận Nghiên cứu Đường đạn xác nhận cả hai viên đạn được bắn từ khẩu súng của bố Catherine và được tìm thấy bên cạnh giường. Các bài thử máu tại bệnh viện xác nhận có chất Rohypno trong máu của , đó là loại thuốc khiến người ta mất trí nhớ. Do vậy rất có thể trí nhớ của bị mất phần, có thể do thuốc mất trí nhớ hay do chấn thương. Chỉ cú đấm rất mạnh mới có thể gây ra vết thâm tím và sưng phồng như vậy. nhớ bị đấm và đấm khi nào.

      Moore quay sang nhìn những tấm ảnh chụp trường. sàn nhà trong phòng ngủ, Andrew Capra chết, nằm úp mặt xuống sàn. bị bắn hai lần, viên ở bụng, viên ở mắt. Cả hai đều được bắn ở cự ly gần.

      nghiên cứu những bức ảnh rất lâu, chú ý tư thế của Andrew Capra và mẫu những vết máu.

      quay sang bản báo cáo của cảnh sát, đọc đọc lại nhiều lần.

      Rồi lại nhìn tấm ảnh chụp trường lần nữa.

      Có cái gì đó ổn ở đây, nghĩ. Những lời khai của Cordell rất vô lý.

      Đột nhiên bản báo cáo được đặt lên bàn . ngước lên và giật mình khi thấy Rizzoli.

      - nhận được cái này chưa?

      - Cái gì vậy?

      - Bản báo cáo về sợi tóc tìm thấy ở mép vết thương của Elena Ortiz.

      Moore nhìn câu cuối. Và .

      - Tôi hiểu điều này có nghĩa gì.





      Vào năm 1997, nhiều bộ phận khác nhau của Phòng cảnh sát Boston hoạt động trong cùng cơ quan. Cơ quan đó được đặt bên trong khu nhà mới xây tại Plaza One Schroeder, gần khu Roxbury tồi tàn và cũ nát của Boston. Các nhân viên cảnh sát gọi cơ quan mới của mình là “cung điện cẩm thạch” vì tòa nhà của họ dùng đá granit đánh bóng để xây hành lang phụ. Người ta thường đùa với nhau “Hãy cho chúng tôi vài năm để bày bừa nơi này và chúng tôi có cảm giác nó là nhà của chúng tôi”. Schroeder Plaza giống với các sở cảnh sát tồi tàn mà người ta thường thấy ti vi. Đó là tòa nhà đại và sang trọng, sáng lên vì những ô cửa và ánh sáng tự nhiên. Bộ phận điều tra các vụ giết người có sàn nhà trải thảm và hệ thống máy tính đại. Đáng lẽ nó phải dành cho văn phòng thuộc tổng công ty nào đó. Điều mà các cảnh sát thích nhất về Schroeder Plaza là các nhánh của Sở Cảnh sát Boston có liên kết.

      Các thám tử điều tra vụ giết người chỉ cần bộ xuống hành lang là đến phòng thí nghiệm hình . Nó nằm ở mạn trái của tòa nhà.

      Tại Phòng Kiểm tra Tóc và Sợi vải, Moore và Rizzoli quan sát Erin Volchko, nhà khoa học chuyên về pháp lý, xem xét tỉ mỉ các túi đựng vật chứng.

      - Tất cả những gì tôi nghiên cứu chỉ là sợi tóc đó - Erin - Nhưng kỳ diệu khi chỉ sợi tóc lại có thể cho ta biết nhiều điều. Được rồi, nó đây rồi - tìm túi đựng có đánh số vụ án của Elena Ortiz, rồi cho nó lên kính hiển vi - Tôi cho các bạn thấy trông nó như thế nào dưới kính hiển vi. Các số liệu được ghi lại trong bản báo cáo.

      - Các con số này à? - Rizzoli hỏi và nhìn chuỗi các mã số dài trang giấy.

      - Đúng vậy. Mỗi mã số miêu tả đặc điểm khác nhau của tóc, từ màu sắc và độ xoăn đến các đặc điểm siêu . Sợi tóc này thuộc lớp A01 - sợi tóc màu vàng đậm. Độ xoăn của nó thuộc loại B01, tức là xoăn và đường kính mỗi lọn xoăn quá tám mươi. Nó hẳn nhưng gần như thẳng. Độ dài của sợi tóc là bốn centimet. đáng tiếc, sợi tóc này ở giai đoạn hình thành, vì vậy có các biểu mô bao bọc quanh nó.

      - Nghĩa là có ADN.

      - Đúng vậy. Telogen là quá trình kết thúc phát triển của ngọn tóc. Sợi tóc này rụng ra do tự nhiên, là phần của quá trình rụng tóc tự nhiên. cách khác bị giật đứt. Nếu có bất cứ tế bào biểu mô nào ở ngọn tóc chúng ta có thể sử dụng hạt nhân bên trong để phân tích ADN. Nhưng sợi tóc này lại có loại tế bào đó.

      Rizzoli và Moore thất vọng nhìn nhau.

      - Nhưng - Erin thêm - Ở đây chúng ta lại có thứ khác khá có ích. Nó hữu ích bằng ADN nhưng nó có thể được giữ lại khi ra tòa khi các vị tìm được kẻ tình nghi. tệ là chúng ta có sợi tóc nào trong vụ của Diana Sterling để đối chiếu - nhìn vào ống kính hiển vi rồi đứng sang bên - Nhìn xem!

      Chiếc kính hiển vi có kính quan sát để giải thích cho người xem nên cả Moore và Rizzoli có thể quan sát hình ảnh cùng lúc. Khi nhìn vào ống kính, vật Moore nhìn thấy là sợi tóc bị gập cong bởi những nút phồng.

      - Các nốt đó là gì? - Rizzoli hỏi - Chúng bình thường.

      - chỉ bất thường, mà nó còn rất hiếm - Erin giải thích - Đó là tình trạng mà chúng tôi gọi là Trichorrhexis invaginata, nó còn có tên khác là “tóc tre”. Các bạn có thể thấy tại sao nó có tên đó. Các nút đó khiến nó trông như đoạn thân cây tre, đúng ?

      - Đó là các nút gì? - Moore tò mò.

      - Đó là các khiếm khuyết lớn trong sợi tóc, là các điểm yếu khiến tóc tự gập lại, khiến người đó bị hói hay trọc đầu. Các nút phồng lên là các điểm yếu. Tại đó, sợi tóc bị thu ngắn lại và tạo thành các nút.

      - Tại sao người ta lại bị như vậy?

      - Thường tình trạng đó gia tăng khi làm đầu quá nhiều, nhuộm, buộc, đại loại như vậy. Nhưng vì có nhiều khả năng chúng ta đối đầu với đối tượng tình nghi là nam và tôi thấy dấu hiệu tẩy màu nhân tạo nên tôi nghiêng về khả năng đây phải do làm đầu nhiều mà là loại lỗi gen nào đó.

      - Cụ thể là gì?

      - Ví dụ như triệu chứng Netherton. Đó là tình trạng thoái hóa tóc tự nhiên, ảnh hưởng đến phát triển của chất sừng kê-ra-tin trong tóc. Chất sừng rất cứng, là loại pro-tê-in dạng sợi được tìm thấy trong tóc và móng tay hay móng chân. Nó cũng là lớp ngoài cùng da chúng ta.

      - Nếu bị lỗi gen chất sừng phát triển bình thường và tóc bị yếu đúng ?

      Erin gật đầu.

      - Và chỉ tóc bị ảnh hưởng. Những người mắc chứng bệnh Netherton thường cũng bị rối loạn da như tẩy đỏ hay tróc vảy.

      - Vậy chúng ta tìm tên sát nhân bị bệnh gàu rất nhiều à? - Rizzoli hỏi.

      - Có thể nó còn hơn thế. Vài bệnh nhân mắc bệnh này còn mắc chứng bệnh nặng tên là icthyosis. Da của họ khô đến mức trông giống như vảy cá sấu.

      Rizzoli cười.

      - Vậy là chúng ta tìm người bò sát! Điều đó thu hẹp phạm vi tìm kiếm.

      - hẳn đâu. Vì bây giờ là mùa hè.

      - Điều đó có liên quan gì?

      - Cái nóng và ẩm ướt khiến da khô bớt thoái hóa. Trông có thể hoàn toàn bình thường vào thời gian này trong năm.

      Rizzoli và Moore nhìn nhau, họ có chung suy nghĩ.

      Cả hai nạn nhân đều bị giết vào mùa hè.

      - Miễn là thời tiết oi bức này kéo dài - Erin - vẫn như bao người khác.

      - Bây giờ mới là tháng bảy - Rizzoli lẩm bẩm.

      Moore gật đầu.

      - Mùa săn của chỉ mới bắt đầu.



      Bệnh nhân vô danh giờ có tên. Các y tá phòng cấp cứu tìm thấy thẻ tên được gắn móc chìa khóa của ông. Ông ấy là Herman Gwadowski, sáu mươi chín tuổi.

      Catherine đứng trong buồng bệnh thuộc Bộ phận chăm sóc đặc biệt sau khi phẫu thuật. nghiên cứu cách chuyên nghiệp những màn hình và các thiết bị được đặt quanh giường của ông. Đường tim điện tâm đồ bình thường máy nghiệm dao động. Các đường động mạch ở mức trăm mười bảy mươi. Sơ đồ đường tĩnh mạch trung tâm của ông lên xuống như những con sóng cồn biển nổi gió. Căn cứ vào những con số ca mổ của ông Gwadowski thành công.

      Nhưng ông vẫn chưa tỉnh lại, Catherine nghĩ khi soi đèn pin vào con ngươi bên trái, rồi bên phải. Gần tám mươi tiếng sau ca mổ mà ông ấy vẫn trong tình trạng hôn mê sâu.

      đứng thẳng lên, nhìn ngực ông nâng lên hạ xuống theo nhịp quay của máy thông khí. giúp ông ấy bị chảy máu đến chết. Nhưng thực cứu vãn được gì? cơ thể có trái tim còn đập nhưng bộ não tê liệt chăng?

      nghe tiếng gõ cửa kính. Qua ô cửa phòng bệnh, thấy bạn đồng nghiệp của mình, bác sỹ Peter Falco. vẫy tay chào . Khuôn mặt lúc nào cũng vui vẻ của có vẻ lo lắng.

      Vài bác sỹ phẫu thuật nổi tiếng vì hay phát cáu trong phòng mổ. Có người hùng hổ lao vào phòng mổ và khoác áo choàng của họ theo cái cách mà người ta khoác áo choàng của hoàng đế. Có người lại tỏ ra là những kỹ thuật viên tài ba lạnh lùng. Với họ, bệnh nhân chỉ là mớ dụng cụ kỹ thuật cần được sửa chữa.

      Và rồi sau đó có Peter, Peter hài hước, cởi mở, luôn hát lạc điệu những bài hát chói tai của Elvis Presley trong phòng mổ, người tổ chức cuộc thi máy bay giấy trong văn phòng và vui vẻ bò bằng tay và đầu gối để chơi trò Lego với các bệnh nhân tuổi. quen nhìn thấy nụ cười khuôn mặt của Peter. Vì vậy khi thấy cau mày bên ô cửa phòng bệnh, bước ra khỏi phòng bệnh ngay.

      - Mọi việc ổn chứ? - hỏi.

      - Mới xong các bước đầu.

      Peter nhìn ống dẫn và đống máy móc quanh giường ông Gwadowski.

      - Tôi nghe cứu sống ông ấy cách tuyệt vời, ca chảy máu cần mười hai đơn vị máu liền.

      - Tôi biết có nên gọi đó là cứu sống ông ấy hay - quay lại nhìn người bệnh - Mọi bộ phận đều hoạt động, trừ não.

      Họ im lặng lúc. Cả hai đều nhìn ngực ông Gwadowski nâng lên, hạ xuống.

      - Helen với tôi là hôm nay cảnh sát đến gặp , có chuyện gì vậy?

      - có gì.

      - Lại quên trả tiền phạt đỗ xe sai quy định à?

      cố cười.

      - Đúng vậy, và tôi chỉ còn biết trông cậy vào thôi.

      Họ rời Bộ phận chăm sóc đặc biệt, dọc hành lang. Peter cao lênh khênh thong thả bên cạnh . Khi họ vào thang máy, hỏi.

      - ổn chứ, Catherine?

      - Sao hỏi vậy? Trông tôi ổn sao?

      - chứ? - nhìn kỹ mặt . Đôi mắt màu xanh dương của thẳng thắn đến mức có cảm giác nhìn thấu tâm trạng - Có vẻ như cần cốc rượu và bữa ăn tối bên ngoài ngon. muốn cùng tôi chứ?

      - lời mời hấp dẫn đấy.

      - Nhưng?

      - Nhưng tôi nghĩ tối nay tôi ở nhà.

      Peter ôm ngực như bị thương nặng.

      - Lại bị bắn hạ! Hãy cho tôi biết, lời nào có thể thuyết phục nổi đây?

      cười.

      - phải tự tìm ra điều đó.

      - Còn chuyện này sao? chú chim bảo tôi rằng sinh nhật vào thứ bảy này. Hãy để tôi đưa bằng máy bay của tôi!

      - được. Hôm đó tôi phải trực.

      - có thể đổi cho Ames. Tôi với ấy.

      - Ôi, Peter. biết tôi thích bay mà.

      - Đừng với tôi là có chứng bệnh sợ bay đấy nhé!

      - Tôi chỉ giỏi điều khiển khi lơ lửng thôi.

      buồn bã gật đầu.

      - Tính cách cổ điển của bác sỹ phẫu thuật.

      - Đó là cách lịch rằng tôi là kẻ cứng nhắc.

      - Vậy là có buổi hẹn hò bay bổng nào sao? Tôi thể khiến thay đổi ý kiến à?

      - Tôi nghĩ vậy.

      thở dài.

      - Ồ, đó là những lời của tôi. Tôi xài hết mọi tiết mục rồi.

      - Tôi biết. bắt đầu xào lại rồi đấy.

      - Helen cũng vậy.

      nhìn ngạc nhiên.

      - Helen có khuyên làm cách nào để mời tôi chơi ?

      - ấy ấy thể chịu đựng được cảnh tượng đáng thương khi thấy người đàn ông đập đầu vào bức tường rắn chắc.

      Họ đều cười khi bước ra khỏi thang máy và về phía phòng làm việc của mình. Đó là những tiếng cười sảng khoái của những người đồng nghiệp, những người hiểu rằng trò chơi này chỉ là đùa vui. Giữ nó ở mức độ đó nghĩa là cảm giác của họ bị tổn thương, cảm xúc của họ quá mạo hiểm. Đó là chút phỉnh phờ giúp họ tránh những điều rối rắm. mời chơi cách tếu táo, và cũng tếu táo từ chối. Cả văn phòng làm việc của họ chỉ là trò đùa vui.

      Năm giờ rưỡi. Các nhân viên của họ về hết. Peter lui về văn phòng của mình, về văn phòng của , treo áo khoác và lấy ví. Khi treo áo lên móc cửa, ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu.

      qua hành lang, thò đầu vào văn phòng của Peter. xem lại các bản đồ, cặp kính lủng lẳng sống mũi. Khác văn phòng gọn gàng của , phòng làm việc của Peter trông như trung tâm hỗn độn. Sọt rác đầy máy bay giấy. Sách báo về phẫu thuật chồng chất ghế. vách tường chằng chịt cây ráy thơm bò lổm ngổm. Vùi trong đống lá cây đó có những bằng cấp của Peter: bằng cử nhân về kỹ thuật hàng của Đại học MIT, bằng tiến sỹ của Đại học Y khoa Harvard.

      - Peter, câu hỏi này hơi ngớ ngẩn chút…

      nhìn lên qua cặp kính.

      - Vậy là tìm đúng người rồi.

      - bao giờ vào văn phòng của tôi chưa?

      - Tôi có nên gọi luật sư trước khi trả lời câu hỏi đó ?

      - Thôi nào, tôi nghiêm túc đấy.

      ngồi thẳng lên, ánh mắt nghiêm túc nhìn .

      - , chưa hề. Sao thế?

      - có gì. Việc đó chẳng có gì quan trọng - quay đầu ra và nghe thấy tiếng ghế cót két khi đứng lên. theo vào văn phòng của .

      - Cái gì quan trọng? - hỏi.

      - Tôi bị ám ảnh và ép buộc, thế thôi! Tôi thấy bực mình vì mọi thứ ở chỗ mọi khi.

      - Ví dụ như?

      - Áo khoác phòng thí nghiệm của tôi. Tôi luôn treo nó cánh cửa. biết bằng cách nào mà nó lại phủ tủ hồ sơ hay chiếc ghế. Tôi biết đó phải do Helen hay các y tá khác. Tôi hỏi họ rồi.

      - Có thể nhân viên vệ sinh để nó ra chỗ khác.

      - Vậy tôi càng phát điên lên vì tìm thấy ống nghe.

      - Vẫn chưa tìm thấy à?

      - Tôi phải mượn ống nghe của người trông coi việc chăm sóc bệnh nhân.

      cau mày, nhìn khắp phòng.

      - Ồ, nó đây rồi, giá sách - về phía giá sách, đó ống nghe của nằm cuộn trong những cuốn sách.

      im lặng nhận lại nó từ tay và nhìn nó chằm chằm, như thể nó là sinh vật lạ, con trăn màu đen, cuộn quanh tay .

      - Này, có chuyện gì vậy?

      hít sâu.

      - Tôi nghĩ tôi mệt rồi - đặt ống nghe vào túi áo khoác bên trái, chỗ vẫn thường để nó.

      - có chắc là chỉ mệt ? Có chuyện gì xảy ra vậy?

      - Tôi phải về nhà - ra khỏi văn phòng, theo đến tận hành lang.

      - Có chuyện gì mà cảnh sát lại đến? Nghe này, nếu gặp rắc rối gì, nếu tôi có thể giúp

      - Tôi cần ai giúp đỡ, cảm ơn! - Câu trả lời của lạnh lùng hơn mong muốn. Lập tức cảm thấy hối hận về điều đó. Peter đáng bị đối xử như vậy.

      - Tôi biết, tôi phiền nếu nhờ tôi giúp đỡ thường xuyên hơn - khẽ - Đó là phần khi chúng ta làm việc cùng nhau và là đồng nghiệp. nghĩ vậy sao?

      trả lời.

      trở về văn phòng của mình.

      - Hẹn gặp sáng mai.

      - Peter.

      - Sao?

      - Về hai nhân viên cảnh sát đó và lý do họ đến gặp tôi…

      - phải với tôi.

      - , tôi nên ra. thắc mắc chuyện đó nếu tôi ra. Họ đến hỏi tôi về vụ giết người. bị sát hại vào đêm thứ năm. Họ nghĩ có thể tôi biết ấy.

      - biết à?

      - . Đó là nhầm lẫn, thế thôi - thở dài - Chỉ là nhầm lẫn.





      Catherine xoay chốt cửa, cảm nhận nó vào đúng chỗ khi thanh gọn vang lên, rồi luồn dây xích vào. Lại thêm hàng rào bảo vệ khỏi nỗi sợ tên lẩn khuất bên ngoài bức tường của . Sau khi được ngăn cách an toàn trong căn hộ của mình, tháo giày, đặt ví và chìa khóa ô tô lên chiếc bàn bằng gỗ đào. Đôi chân đeo tất dài của bước tấm thảm màu trắng dày trong phòng khách. Căn hộ mát mẻ và dễ chịu, nhờ hệ thống điều hòa trung tâm. Nhiệt độ ngoài trời là ba mươi độ nhưng trong này, nhiệt độ hiếm khi dao động mức hai mươi hai độ vào mùa hè hay hai mươi độ trong mùa đông. Rất ít việc trong cuộc sống mà ta có thể thiết lập hay quyết định trước. Và cố hết sức duy trì trật tự mà có thể làm được trong phạm vi cuộc sống được vạch sẵn của mình. chọn tòa nhà gồm mười hai bộ phận cai quản đại lộ Commonwelth vì nó mới được xây và có khu đỗ xe an toàn. Dù nó đẹp nên thơ và có những ngôi nhà xây bằng gạch đỏ như ở Back Bay nhưng nó phiền nhiễu vì các cố đường ống nước hay dây điện như những tòa nhà cũ khác. bất ổn là điều thể chịu đựng nổi. giữ cho căn hộ của mình vết bẩn. Trừ vài gam màu sặc sỡ chọn các đồ đạc trong phòng hầu hết là màu trắng: ghế trắng, bàn trắng và gạch lát trắng. Đó là màu tinh khiết, bị vấy bẩn và trinh nguyên.

      vào phòng ngủ, cởi hết quần áo. treo váy lên, đặt áo khoác sang bên để nhân viên giặt quần áo làm sạch . mặc quần thụng và chiếc áo sát nách bằng lụa. Khi chân trần vào bếp, cảm thấy bình tĩnh và trở lại trạng thái kiểm soát mọi việc.

      còn cảm thấy như lúc trước đây. Chuyến thăm của hai thám tử khiến run rẩy. Suốt buổi chiều, nhận thấy mình mắc những lỗi lầm ngớ ngẩn: bị trượt chân trong phòng thí nghiệm, viết những dữ liệu sai trong hồ sơ bệnh án. Đó chỉ là những lỗi nhưng chúng như những gợn sóng lăn tăn, làm xao động mặt nước và khuấy động mặt nước đó rất nhiều. Trong hai năm qua, nén tất cả những suy nghĩ về việc xảy ra ở Savannah. Nhưng hề báo trước, hình ảnh nào đó thường bất chợt về. Nó sắc như lưỡi dao. cố nhảy nhót, trốn chạy nó, khéo léo lượn những dòng suy nghĩ của mình sang chuyện khác. Hôm nay, thể trốn tránh những ký ức đó. Hôm nay, thể vờ như có chuyện gì ở Savannah.

      Những viên gạch lát trong bếp dường như lạnh hơn dưới đôi chân trần của . cầm cái vặn nút, bật chai vodka và nhấp ngụm. nạo pho mát Parmesan, thái cà chua, hành và rau thơm. Sau bữa sáng, vẫn chưa ăn gì. Chất cồn ào ào chảy thẳng vào mạch máu. Ga của vodka dễ chịu và đê mê. thấy thoải mái khi nghe tiếng dao gõ đều đều mặt thớt, khi cảm thấy mùi thơm của rau húng quế và tỏi. Nấu ăn cũng là liệu pháp.

      Bên ngoài cửa sổ phòng bếp của , thành phố Boston là cái vạc bị nấu chín với những chiếc xe ùn tắc, những người dễ nổi giận. Nhưng ở đây, được bao bọc trong lớp kính, lặng lẽ chiên áp chảo cà chua trong dầu ô-liu, đổ cốc Chianti và đun sôi nước để chuẩn bị món mỳ sợi - tóc - thiên thần mới. Luồng khí mát mẻ kêu xè xè từ lỗ thông hơi máy điều hòa.

      ngồi xuống, cầm món mỳ Ý, rau trộn và rượu. vừa ăn, vừa nghe những giai điệu nhàng của nhóm Debussy được chơi máy nghe nhạc. Mặc dù rất đói và chuẩn bị công phu cho bữa ăn nhưng mọi thứ hình như đều vô vị. ép mình phải ăn nhưng thấy cổ họng đầy ứ, như thể vừa nuốt thứ gì rất to và dinh dính. Ngay cả khi uống cốc rượu thứ hai, vẫn thể nuốt trôi vật tắc nghẽn trong cổ họng. bỏ dĩa xuống, nhìn bữa tối bỏ dở. Tiếng nhạc lớn dần và cuốn theo những con sóng đứt đoạn.

      gục đầu vào lòng bàn tay. Đầu tiên thanh gì. Dường như nỗi buồn khổ của bị nhốt quá lâu, nút chai bị gắn quá chặt đến mức đóng thành băng. Rồi thanh thoát ra khỏi cổ họng , thứ rất mỏng và . hớp lấy khí, ngay lập tức tiếng khóc của nỗi đau giằng xé suốt hai năm cứ thế tuôn ra. xúc động mạnh mẽ của khiến sợ hãi vì thể kìm nó lại. thể thăm dò nỗi đau của mình sâu mức nào hay liệu có ngăn nó lại được hay . khóc cho tới khi cổ họng khô rát, hai lá phổi co thắt và tiếng thút thít của bị cách hoàn toàn trong căn phòng được đóng kín bằng các tấm kim loại.

      Cuối cùng, khi nước mắt cạn, nằm xuống ghế băng và lập tức chìm vào giấc ngủ sâu và mệt mỏi.

      chợt tỉnh và thấy mình nằm trong bóng tối. Tim đập thình thịch. Áo đẫm mồ hôi. thanh gì vậy? Tiếng cửa kính bị nạy, tiếng bước chân xa xăm chăng? Có phải đó chính là thanh khiến bừng tỉnh khi ngủ say? dám nhúc nhích vì sợ mình bỏ lỡ mất tiếng động nào đó của kẻ đột nhập.

      luồng sáng chuyển động chiếu qua cửa sổ, đó là ánh đèn của chiếc ô tô qua. Phòng khách của chợt sáng, rồi lại tối như trước. lắng nghe tiếng khí rì rì từ cánh quạt trong máy điều hòa, tiếng ầm ì của tủ lạnh trong bếp. có gì lạ. gì có thể gợi lên cảm giác sợ hãi như vậy.

      ngồi dậy, thu hết can đảm bật đèn lên. Nỗi sợ hãi tưởng tượng của lập tức tan biến dưới ánh đèn ấm áp. đứng lên khỏi ghế băng, chủ ý hết phòng này sang phòng khác, bật hết điện lên, nhìn vào từng ngõ ngách. Nếu suy nghĩ lô-gic, biết rằng có kẻ đột nhập, rằng căn hộ của được trang bị hệ thống báo động phức tạp, chốt cửa và các cửa sổ được chốt chặt. Nó được bảo vệ như mọi ngôi nhà khác. Nhưng dừng lại cho đến khi làm xong việc đó và kiểm tra mọi ngách tối trong nhà. Khi hài lòng vì an toàn của bị đe dọa, mới cho phép mình thở nhàng như trước.

      Mười giờ rưỡi. Hôm nay là thứ tư. Mình cần chuyện với ai đó. Đêm nay mình thể chịu đựng đơn.

      ngồi xuống bàn, khởi động máy tính và nhìn màn hình sáng lên. Nó là nhựa sống, là chuyên gia chữa bệnh của . Nó chỉ là đống thiết bị điện, dây rợ và nhựa nhưng nó là nơi an toàn duy nhất mà có thể thổ lộ mọi nỗi đau của mình.

      đánh tên của mình, CCORD, đăng nhập vào mạng. Chỉ sau vài cú nhấp chuột và đánh vài chữ bàn phím, tìm được phòng chuyện riêng của mình, tên đơn giản là phụ nữ giúp nhau.

      Gần sáu cái tên đó. Những phụ nữ mặt, tên, tất cả bọn họ đều lao vào nơi náu an toàn, danh này mạng. ngồi lúc, nhìn những tin nhắn chạy dọc theo màn hình. Trong tâm tưởng, nghe thấy giọng của những người phụ nữ bị tổn thương mà chưa từng gặp, ngoại trừ trong căn phòng ảo này.



      LAURIE 45: Vậy sau đó làm gì?

      VOTIVE: Tôi với ấy tôi chưa sẵn sàng. Tôi vẫn hồi tưởng lại chuyện cũ. Tôi với ấy rằng nếu ấy sợ tôi ấy nên chờ đợi.

      HBREAKER: Điều đó tốt cho .

      WINKY98: Đừng để ấy lấn át !

      LAURIE 45: ấy phản ứng sao?

      VOTIVE: ấy tôi chỉ cần VƯỢT QUA CHUYỆN ĐÓ. Như thể tôi là người yếu đuối, hay đại loại như vậy.

      WINKY98: Đàn ông đáng bị cưỡng hiếp!!!

      HBREAKER: Tôi mất hai năm mới sẵn sàng.

      LAURIE 45: Còn tôi hơn năm.

      WINKY98: Tất cả những gì những gã đàn ông đó nghĩ đến là của quý của họ. Chỉ vì cái đó thôi. Họ chỉ muốn CÁI CỦA NỢ ĐÓ của họ được thỏa mãn.

      LAURIE 45: Ôi! Hôm nay bạn hơi quá đấy, Wink.

      WINKY98: Có lẽ vậy. Có lúc tôi nghĩ Lorena Bobbitt có suy nghĩ đúng.

      HBREAKER: Wink thoát khỏi lưỡi dao của chính ấy!

      VOTIVE: Tôi nghĩ ấy sẵn lòng đợi. Tôi nghĩ ấy bỏ tôi.

      WINKY98: đáng được chờ đợi. ĐÁNG ĐƯỢC NHƯ VẬY!



      Vài giây trôi qua, hộp thoại trống . Rồi sau đó…



      LAURIE 45: Chào CCord, rất vui khi bạn trở lại.

      Catherine gõ.

      CCORD: Tôi thấy chúng ta lại chuyện về đàn ông.

      LAURIE 45: Đúng vậy. Làm sao chúng ta có thể bỏ qua chủ đề mệt mỏi này nhỉ?

      VOTIVE: Vì họ là người khiến chúng ta tổn thương.



      Họ dừng lại rất lâu. Catherine hít sâu hơi rồi gõ tiếp.



      CCORD: Hôm nay tôi có ngày tồi tệ.

      LAURIE 45: Hãy với chúng tôi, CC. Có chuyện gì vậy?



      Catherine gần như nghe thấy tiếng thầm của đó, nhàng và an ủi.



      CCORD: Tối nay tôi bị trận hoảng loạn. Tôi ở đây, trong căn phòng được khóa kín, nơi ai có thể chạm vào tôi. Vậy mà chuyện đó vẫn xảy ra.

      WINKY98: Đừng để chiến thắng. Đừng để biến bạn thành tù nhân.

      CCORD: Muộn rồi. Tôi tù nhân rồi. Vì đêm nay tôi nhận thấy chuyện gì đó rất khủng khiếp.

      WINKY98: Cái gì vậy?

      CCORD: Cái ác chết! Cái ác bao giờ chết! Nó chỉ biến tướng thành gương mặt hay cái tên khác. Chỉ vì chúng ta bị nó sờ đến lần điều đó có nghĩa là chúng ta có thể được miễn dịch khỏi nó và bị đau đớn nữa. Sét có thể đánh trúng hai lần mà.



      ai đánh thêm dòng chữ nào nữa. ai trả lời.

      Dù chúng ta cẩn thận mức nào cái ác vẫn biết chúng ta sống ở đâu, nghĩ. Nó biết cách tìm ra chúng ta.

      giọt mồ hôi chạy dọc sống lưng .

      Giờ tôi cảm thấy nó. Ở rất gần.





      Nina Peyton đâu, gặp ai nữa. ta làm mấy tuần liền. Hôm nay ta gọi đến văn phòng của ta tại Brookline, ta làm đại diện bán hàng ở đó và đồng nghiệp của ta rằng biết ta có trở về với họ . ta như con thú cái bị thương, bị nhốt trong hang và sợ hãi chỉ vì tiếng bước chân trong đêm. ta biết điều gì chờ ta trong đêm đó, vì ta bị cái ác của bóng đêm sờ đến. Và ngay cả lúc này, ta cảm thấy nó rỉ ra như hơi nước và ngấm vào những bức tường trong ngôi nhà của ta. Rèm cửa đóng kín, những tấm vải đó rất mỏng, và ta nhìn thấy ta lại bên trong. Dáng người bé của ta có vẻ bối rối, tay đặt lên ngực như thể cơ thể ta cuộn vào trong. Những cử động của ta giật cục và máy móc khi ta lại lại.

      ta kiểm tra khóa cửa, chốt cửa sổ, cố ngăn cách với bóng tối bên ngoài.

      Chắc chắn bên trong ngôi nhà đó rất oi bức. Đêm nay như cái lò hơi, và cửa sổ của ta có máy điều hòa. ta ở trong nhà suốt buổi tối và cánh cửa đóng chặt, dù nóng bức. Ta có thể tưởng tượng ra ta vã mồ hôi. ta chịu đựng cả ngày nóng bức, và giờ lại đến đêm. ta rất muốn cho chút khí trong lành vào nhưng lại sợ ai đó có thể đột nhập.

      ta lại qua cửa sổ, dừng lại, nán lại ở đó. Dáng ta in dưới bóng đèn hình chữ nhật. Đột nhiên, cửa sổ mở ra. ta thò tay mở chốt cửa. ta cuộn cửa lên, đứng trước nó và vội vàng hớp lấy chút khí trong lành. Cuối cùng, ta lui về trong cái căn phòng nóng bức.

      gì thú vị hơn với tên săn khi thấy con mồi bị thương. Ta có thể ngửi thấy nó lan tỏa trong khí, mùi của con quái vật đẫm máu, mùi của đống thịt ô uế. Chỉ cần ta hít thở khí ban đêm ta cũng ngửi thấy mùi của ta và nỗi sợ của ta.

      Tim ta đập nhanh hơn. Ta cho tay vào cặp, mơn trớn những công cụ của ta. Ngay cả thép cũng ấm lại dưới đụng chạm của ta.

      ta đóng sầm cửa lại. ta chỉ dám cho mình hớp vội chút khí lành. Và giờ ta khổ sở rụt đầu vào trong ngôi nhà ngột ngạt.

      Ta chấp nhận thất vọng lúc, ta bỏ , để lại ta toát mồ hôi suốt đêm chiếc giường nóng như lò thiêu.

      Người ta là ngày mai, trời còn nóng hơn.

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      NĂM



      - Kẻ tình nghi của chúng ta đúng là kẻ mắc bệnh thích cắt bỏ - bác sỹ Lawrence Zucker - kẻ dùng dao để thỏa mãn ham muốn gián tiếp hay hạ cấp về mặt tình dục. Bệnh thích cắt bỏ là hành động đâm hay cắt bỏ cái gì đó, bất cứ hành động xâm hại đến da nhiều lần bằng vật nhọn. Con dao là biểu tượng của dương vật - vật thay thế cho bộ phận sinh dục nam. Thay vì thực quá trình giao cấu thông thường, tên sát nhân này thực khoái cảm bằng cách bắt nạn nhân chịu đau đớn và sợ hãi. Chính sức mạnh đó khiến hưng phấn. Đó là quyền lực cao nhất, có thể định đoạt sống và cái chết.

      Thám tử Jane Rizzoli dễ bị khiếp sợ nhưng bác sỹ Zucker khiến rùng mình. Trông ta như nhân vật John Malkovich xanh xao, người béo phục phịch, giọng ta thào và nghe như giọng con . Khi ta , những ngón tay của ta di chuyển mềm mại như những con rắn. ta phải là cảnh sát, mà là chuyên gia tâm lý tội phạm đến từ Đại học Southeastearn, là người cố vấn cho Sở cảnh sát Boston. làm việc với ta lần trong vụ giết người. Khi đó khiến sởn gai ốc. Đó chỉ là do vẻ ngoài của mà còn do cách đặt hẳn bản thân vào tâm trí của kẻ tình nghi và tâm trạng vui sướng của khi lang thang trong gian của kẻ điên loạn. thích chuyến phiêu lưu kiểu đó. có thể nhận thấy vui thích trong tiếng ngân nga từ tiềm thức lộ ra trong giọng của .

      nhìn quanh, quan sát bốn thám tử khác cùng ngồi trong phòng họp và biết có ai khác cảm thấy rùng mình vì con người lập dị này . Nhưng tất cả những gì thấy chỉ là những biểu mệt mỏi và những cái bóng khác nhau vào lúc năm giờ chiều.

      Tất cả mọi người đều mệt mỏi. Đêm qua cũng ngủ quá bốn tiếng. Sáng nay, dậy trước khi trời sáng. Đầu óc như chiếc hộp số xử lý để hiểu chiếc kính vạn hoa với hàng vạn hình ảnh và màu sắc. Vụ án của Elena Ortiz ăn quá sâu vào tiềm thức của đến mức trong mơ, thấy mình và Elena cùng chuyện với nhau, mặc dù đó là cuộc chuyện vô lý. có mối liên hệ siêu nhiên, có chi tiết nào vượt khỏi khu mộ của đó mà chỉ có những hình ảnh được các tế bào nơ-ron thần kinh tạo ra. Nhưng Rizzoli vẫn nghĩ giấc mơ đó có ý nghĩa với . Là thám tử điều tra đứng đầu vụ điều tra quan trọng, cảm thấy như thể mình sợi dây cao, và có lưới đỡ bên dưới. Chỉ cần bắt được tên sát nhân mọi người vỗ tay tán thưởng. Nếu thất bại, cả thế giới chứng kiến sụp đổ.

      Giờ vụ này biến thành vụ quan trọng hàng đầu. Cách đây hai ngày, trang nhất tờ báo lá cải ở địa phương viết: “Bác sỹ phẫu thuật lại mổ xẻ”. Nhờ tờ Người đưa tin Boston mà kẻ tình nghi của họ có biệt danh riêng và cả cảnh sát cũng dùng. Đó là Bác sỹ phẫu thuật.

      Lạy Chúa, sẵn sàng thực động tác bộ dây cao, sẵn sàng đối diện với khả năng nâng cao hay sụp đổ toàn bộ công cán của mình từ trước đến nay. Cách đây tuần, khi bước vào căn hộ của Elena Ortiz với tư cách thám tử đứng đầu, biết ngay rằng vụ này gây dựng nghiệp cho . Và nóng lòng muốn chứng tỏ khả năng của mình.

      Mọi việc thay đổi nhanh.

      Trong vòng ngày, vụ của bùng phát thành vụ điều tra quá lớn, dẫn đầu là Trung úy Marquette. Vụ của Elena Ortiz được gộp chung với vụ của Diana Sterling. Cả đội điều tra tổng cộng lên tới năm thám tử, cộng thêm Trung úy Marquette. Trong đó có Rizzoli, cộng của Barry Frost, Moore và cộng to béo của Jerry Sleeper, cộng thêm thám tử thứ năm là Darren Crowe. Rizzoli là người phụ nữ duy nhất trong đội. Thực ra còn là người phụ nữ duy nhất trong Bộ phận điều tra các vụ giết người và có vài người đàn ông bao giờ cho phép quên điều đó. làm việc với Barry Frost rất lâu, bất chấp tính khí vui vẻ đến khó chịu của . Jerry Sleeper quá lãnh đạm nên bao giờ phỉ báng ai và cũng ai phỉ báng . Còn với Moore - mặc dù ban đầu còn e dè nhưng thực bắt đầu mến và tôn trọng làm việc im lặng và có phương pháp. Quan trọng nhất là dường như cũng tôn trọng . Bất cứ khi nào lên tiếng biết lắng nghe.

      , chính viên cảnh sát thứ năm trong đội, Darren Crowe là người gây rắc rối với . Giờ ta ngồi đối diện với ở bên kia bàn. Khuôn mặt rám nắng vẫn giữ nụ cười tự mãn như mọi khi. lớn lên và gặp nhiều thanh niên như ta. Đó là những cậu bé vai u thịt bắp, có nhiều bồ và có cái tôi to tướng.

      và Crowe thích nhau.

      Mấy xấp giấy được chuyển quanh bàn. Rizzoli lấy bản và thấy đây là tập hồ sơ tài liệu tội phạm do bác sỹ Zucker vừa hoàn thành.

      - Tôi biết vài người trong số các vị có thể nghĩ công việc của tôi là trò lừa bịp - Zucker tiếp tục - Vì vậy cho phép tôi giải thích lý do. Chúng ta biết những điều sau đây về chủ thể vô danh của chúng ta. xâm nhập chỗ ở của nạn nhân qua cửa sổ để mở. làm việc này vào đầu giờ sáng, đôi khi vào khoảng nửa đêm và hai giờ sáng. khiến nạn nhân kinh hoàng khi nằm giường. lập tức vô hiệu hóa nạn nhân bằng thuốc gây mê. lột quần áo họ. Khiến họ bất động bằng cách trói họ vào giường rồi buộc băng dính ống nhựa quanh cổ tay và cổ chân nạn nhân. Cuối cùng, dán băng dính vào miệng nạn nhân. Điều đạt được chính là kiểm soát hoàn toàn. Khi nạn nhân tỉnh sau đó lúc, ấy thể cử động, thể la hét. Như thể ấy bị tê liệt nhưng ấy lại tỉnh táo và hiểu chuyện gì xảy ra tiếp theo.

      - Và chuyện xảy ra sau đó chắc chắn là cơn ác mộng kinh hoàng nhất với bất cứ ai - Giọng của Zucker dần thành kiểu đều đều. Các chi tiết càng kỳ lạ càng . Dường như chúng ngả hết về phía trước và lơ lửng ở đầu những từ - Tên sát nhân bắt đầu cắt mổ. Theo báo cáo khám nghiệm tử thi, mất khá nhiều thời gian. rất tỉ mỉ. mổ phần bụng dưới, từng lớp . Đầu tien là lớp da, sau đó đến lớp dưới da, lớp cân, rồi đến cơ. dùng chỉ y tế để ngăn cho vết thương chảy máu. tìm kiếm rồi lấy bộ phận duy nhất mà muốn. hơn! Và thứ muốn chính là tử cung.

      Zucker nhìn quanh bàn, chú ý phản ứng của mọi người. Ánh mắt dừng lại ở Rizzoli, viên cảnh sát duy nhất trong phòng sở hữu bộ phận họ đến. cũng nhìn lại , và tức giận vì giới tính của mình khiến tập trung vào .

      - Điều đó cho chúng ta biết điều gì về , Rizzoli? - hỏi.

      - căm ghét phụ nữ - bực tức trả lời - cắt bỏ bộ phận khiến họ trở thành phụ nữ.

      Zucker gật đầu. Nụ cười của khiến rùng mình.

      - Đó chính là điều Jack, tên thợ mỏ làm với Annie Chapman. Khi cắt bỏ tử cung, khiến nạn nhân còn là đàn bà nữa. lấy sức mạnh của họ. màng đến đồ trang sức hay tiền bạc của họ. chỉ muốn thứ. Khi lấy được chiến lợi phẩm của mình rồi, có thể tiếp tục phần việc cuối cùng. Nhưng đầu tiên, dừng lại trước lần hồi hộp cuối cùng. Việc khám nghiệm tử thi của cả hai nạn nhân cho thấy khi đó dừng lại. Có lẽ cả giờ trôi qua khi nạn nhân vẫn tiếp tục chảy máu dần dần. vũng máu đọng lại từ vết thương của họ. Vậy làm gì trong suốt thời gian đó?

      - Thủ dâm - Moore khẽ .

      - Ý là cho cái thứ đó ra à? - Darren Crowe hỏi cách thô lỗ như mọi khi.

      - có bằng chứng là xuất tinh tại trường vụ án - Rizzoli ngần ngại lên tiếng.

      Crowe ném về phía ánh mắt như thể muốn chẳng thông minh gì.

      - - tượng - xuất - tinh - ta và cố tình nhấn mạnh từng cách giễu cợt - Điều đó loại bỏ khả năng là làm việc đó.

      - Tôi tin là thủ dâm - Zucker giải thích - Tên sát nhân đặc biệt này mất cảnh giác quá như vậy trong môi trường quen thuộc. Tôi nghĩ chờ cho đến khi ở nơi an toàn để đạt được khoái cảm tình dục. Tất cả mọi thứ tại trường đều cho thấy điều. Đó là kiểm soát. Khi tiếp tục làm công việc cuối cùng, làm việc đó cách tự tin và tự chủ. cắt cổ nạn nhân bằng vết dao sắc ngọt duy nhất. Rồi thực nghi thức cuối cùng - Zucker lục va li, lấy ra hai bức ảnh chụp trường, đặt chúng lên bàn. tấm chụp phòng ngủ của Diana Sterling, tấm kia là của Elena Ortiz - cẩn thận gấp quần áo ngủ của họ, đặt gọn gàng gần thi thể họ. Chúng ta biết việc gấp quần áo được thực sau khi giết người vì ta thấy các vết máu bên trong các nếp gấp.

      - Tại sao làm vậy? - Frost hỏi - Hành động đó tượng trưng cho điều gì?

      - Lại là kiểm soát - Rizzoli khẳng định.

      Zucker gật đầu.

      - Chắc chắn đó là phần lý do. Bằng nghi thức này, chứng tỏ hoàn toàn làm chủ trường gây án. Nhưng đồng thời, chính nghi thức đó cũng kiểm soát . Đó là thôi thúc mà thể kìm nổi.

      - Nếu thể thực việc đó sao? - Frost băn khoăn - Giả sử có ai đó làm phiền thể thực việc đó.

      - Điều đó khiến tức giận đến phát điên. Có thể thấy buộc phải săn nạn nhân tiếp theo. Nhưng đến nay, luôn cố hoàn thành thủ tục đó. Và mỗi lần giết người khiến hài lòng đủ lâu để động tĩnh gì trong khoảng thời gian dài - Zucker nhìn quanh phòng - Đây là loại tội phạm tồi tệ nhất mà chúng ta có thể gặp phải. Các vụ tấn công của diễn ra cả năm, điều này thực hiếm có. Điều đó nghĩa là ngừng lại vài tháng trước khi săn. Chúng ta có thể chạy hết tốc lực cố tìm trong khi im lặng ngồi chờ lần giết người tiếp theo. rất cẩn thận. rất có tổ chức. Nếu có chỉ để lại rất ít manh mối - nhìn Moore xem Moore có xác nhận điều đó .

      - Chúng ta tìm thấy dấu vân tay, AND hay bất cứ dấu vết nào tại trường - Moore thêm vào - Tất cả những gì chúng ta có là sợi tóc được lấy từ mép vết thương của Elena Ortiz và vài sợi polieste tối màu khung cửa sổ.

      - Tôi nghĩ là các vị cũng tìm được nhân chứng.

      - Chúng tôi phỏng vấn mười ba người trong vụ án của Sterling và đến nay có trăm tám mươi người được phỏng vấn trong vụ của Elena Ortiz. ai nhìn thấy kẻ đột nhập. ai biết có người lén theo dõi.

      - Nhưng chúng ta có ba lời thú nhận - Crowe - Tất cả bọn họ đều bước từ ngoài phố vào. Chúng tôi lấy lời khai của họ và gửi người tìm - ta cười lớn - Tìm những kẻ điên rồ!

      - Tên sát nhân của chúng ta hề điên - Giọng Zucker đều đều - Tôi nghĩ trông hoàn toàn bình thường. Tôi tin gã đàn ông da trắng, vào tuổi cuối hai mươi, đầu ba mươi, ăn mặc chỉnh tề, gọn gàng và có trí thông minh mức bình thường. Ta có thể gần như chắc chắn rằng tốt nghiệp trung học phổ thông, có lẽ học xong đại học, hoặc hơn thế nữa. Hai trường gây án cách nhau hơn hai dặm, những vụ giết người được thực vào cùng thời gian trong ngày, khi có ít phương tiện giao thông công cộng lại. Vì vậy bằng ô tô. Chiếc xe đó gọn và được bảo quản tốt. Có lẽ có vấn đề sức khỏe gì trong hồ sơ bệnh án nhưng có thể có tiền sử trộm cắp hay thích xem tranh ảnh khiêu dâm khi còn là thiếu niên. Nếu có công ăn việc làm công việc đó đòi hỏi cả trí thông minh và tỉ mỉ. Chúng ta đều biết biết lên kế hoạch, điều đó được chứng tỏ bằng hộp dụng cụ mang - gồm dao mổ, chỉ y tế, băng dính ống nhựa và thuốc gây mê, cộng thêm hộp chứa để mang chiến lợi phẩm về nhà. Có thể đó chỉ đơn giản là túi đựng vật chứng Ziploc. làm việc trong lĩnh vực nào đó đòi hỏi phải tỉ mỉ đến từng tiểu tiết. Căn cứ vào việc ràng có kiến thức về giải phẫu và các kỹ năng phẫu thuật chúng ta có thể đối đầu với chuyên gia y khoa.

      Rizzoli bắt gặp ánh mắt của Moore. Có lẽ ở Boston có nhiều bác sỹ hơn bất cứ nơi nào thế giới.

      - Vì thông minh - Zucker tiếp tục - biết chúng ta khoanh cọc trường nên cố nín nhịn cám dỗ muốn đến đó. Nhưng cám dỗ vẫn còn đó nên chúng ta phải cố gắng tiếp tục theo dõi trường nơi ở của Ortiz, ít nhất là trong tương lai gần.

      - đủ thông minh để tránh chọn nạn nhân ở ngay sát nhà . là loại người mà chúng ta nên gọi là “người vé tháng”, chứ phải “kẻ cướp”. ra khỏi khu gần nhà mình để săn mồi. Cho đến khi chúng ta có thêm hồ sơ dữ liệu để phân tích tôi thực thể đưa ra phân tích về nơi ở của . Tôi thể khoanh vùng nơi nào trong thành phố các vị cần tìm kiếm.

      - cần bao nhiêu hồ sơ dữ liệu nữa? - Rizzoli hỏi.

      - Ít nhất là năm.

      - Nghĩa là ít nhất chúng ta phải có năm vụ giết người sao?

      - Chương trình phân tích địa lý nơi ở của tội phạm mà tôi dùng đòi hỏi phải có năm điểm mới đủ. Tôi thử chạy chương trình phân tích địa hình với bốn dữ liệu. Đôi khi các bạn có thể dự đoán về nơi ở của tên sát nhân dựa vào đó nhưng nó được chính xác. Chúng ta cần hiểu sâu hơn về những chuyển động của . Nơi hoạt động của ở đâu, nơi dừng chân của ở đâu. Mỗi tên giết người làm việc trong khu vực an toàn nhất định. Chúng như những con thú ăn thịt săn mồi. Chúng có lãnh thổ riêng, có khu săn mồi riêng, để tìm thấy con mồi - Zucker nhìn khuôn mặt biểu cảm xúc của các vị thám tử ngồi quanh bàn - Chúng ta vẫn chưa đủ thông tin về tên sát nhân để đưa ra bất cứ phán đoán nào. Vì vậy chúng ta cần tập trung vào các nạn nhân. Họ là ai? Tại sao chọn họ?

      Zucker lục va li, lấy ra hai hồ sơ, tên là Sterling, tên là Ortiz. lấy ra hàng chục tấm ảnh, rải lên bàn. Đó là bức ảnh của hai khi còn sống, vài bức được chụp khi còn .

      - Các vị chưa xem những tấm ảnh này. Tôi cầu gia đình họ cung cấp để chúng ta hiểu phần nào về cuộc sống của hai đó. Hãy nhìn kỹ khuôn mặt họ xem! Và hãy xem trước đây họ là những như thế nào? Tại sao tên sát nhân lại chọn họ? gặp họ ở đâu? Họ có điểm gì khiến chú ý? nụ cười chăng? Hay cách họ xuống phố?

      bắt đầu đọc tờ giấy được đánh máy.

      Diana Sterling, 30 tuổi, tóc vàng, mắt xanh. Cao 1,7 mét, nặng 56 cân. Nghề nghiệp: nhân viên hãng lữ hành. Nơi làm việc: phố Newbury. Nơi ở: phố Marlborough ở vịnh Back. Sinh viên tốt nghiệp trường Smith. Bố mẹ đều là luật sư, sống trong ngôi nhà trị giá 2 triệu đô ở Connecticutt. Bạn trai: có bạn trai quanh thời điểm bị giết.

      đặt tờ giấy lên bàn, cầm tờ khác lên.

      - Elena Ortiz, hai mươi hai tuổi. Người gốc Tây Ban Nha, tóc đen, mắt nâu. Cao mét sáu, nặng sáu mươi ba cân. Nghề nghiệp: nhân viên bán lẻ tại cửa hàng bán hoa tươi của gia đình ở South End. Nơi ở: căn hộ ở South End. Trình độ học vấn: tốt nghiệp trung học phổ thông. sống cả đời ở Boston. Bạn trai: có bạn trai tại thời điểm bị sát hại.

      ngước lên.

      - Hai sống ở cùng thành phố nhưng đến từ những trường học khác nhau. Họ mua sắm ở những cửa hiệu khác nhau, ăn ở những nhà hàng khác nhau và có chung bạn bè. Làm sao tên sát nhân tìm ra họ? tìm thấy họ ở đâu? Họ chỉ khác nhau mà họ còn là nạn nhân của vụ hành hung tình dục khác biệt. Hầu hết những kẻ săn mồi tấn công những người yếu ớt trong xã hội, như những làng chơi hay người vẫy xe nhờ. Như bất cứ thú ăn thịt săn mồi nào, bọn chúng thường tấn công con vật ở ngoài rìa của đàn. Vậy tại sao lại chọn hai đó? - Zucker lắc đầu - Tôi hiểu.

      Rizzoli nhìn những bức ảnh bàn và bức hình của Diana Sterling khiến chú ý. Nó cho thấy đó là trẻ, rạng ngời, sinh viên mới tốt nghiệp trường Đại học Smith trong chiếc áo dài và mũ lưỡi trai. điệu đà. điệu đà như thế nào nhỉ? Rizzoli băn khoăn. biết. lớn lên, là bà chị khó tính của hai đứa em trai tinh nghịch. tinh nghịch bé nhưng tuyệt vọng, chỉ muốn được làm con trai. Chắc chắn Diana Sterling, với đôi gò má quý phái và chiếc cổ dài như thiên nga chưa bao giờ biết bị nhốt bên ngoài và bị loại trừ như thế nào. ấy bao giờ biết được mọi người để ý tới là như thế nào.

      Ánh mắt của Rizzoli dừng lại mặt dây chuyền bằng vàng cổ Diana. cầm tấm ảnh lên, nhìn kỹ hơn. Mạch đập mạnh, nhìn khắp căn phòng để xem có viên cảnh sát nào để ý thấy chi tiết mà vừa phát ra - bọn họ đều tập trung vào bác sỹ Zucker.

      vừa mở bản đồ thành phố Boston. những ô đường thành phố có hai chỗ bị bôi đậm, chỗ bao quanh Back Bay, chỗ bao quanh South End.

      - Đây là các khu vực hoạt động của hai nạn nhân, những nơi họ thường làm việc và sinh sống. Tất cả chúng ta đều có xu hướng sống những ngày bình thường ở nơi quen thuộc. Có câu được các nhà lập hồ sơ địa lý sử dụng: Nơi chúng ta phụ thuộc vào những gì chúng ta biết, và những gì chúng ta biết là nhờ nơi chúng ta . Điều này đúng với hai nạ nhân và kẻ sát nhân của chúng ta. Nhìn bản đồ này, các vị có thể thấy hai sống ở hai nơi tách biệt hoàn toàn. có điểm giao nhau. có cầu hay điểm nối để họ có thể gặp gỡ nhau khi còn sống. Đây chính là điều khiến tôi băn khoăn nhất. Nó chính là mấu chốt của cuộc điều tra. Sterling và Ortiz có mối liên hệ gì?

      Rizzoli lại cúi nhìn bức ảnh, nhìn mặt dây chuyền ở cổ Diana. Mình có thể nhầm lẫn. Mình thể gì cho tới khi mình chắc chắn, nếu lại có thêm điều nữa để Darren Crowe tận dụng đem mình ra làm trò cười.

      - có biết là trong vụ này còn có mắt xích nữa ? - Moore hỏi - Đó là bác sỹ Catherine Cordell.

      Zucker gật đầu.

      - Nạn nhân sống sót ở Savannah.

      - số chi tiết nhất định về vụ giết Andrew Capra được tiết lộ cho công chúng. Như việc sử dụng chỉ ruột mèo, việc gấp bộ quần áo ngủ của nạn nhân. Nhưng tên sát nhân của chúng ta ở đây lại gây dựng toàn bộ các chi tiết đó.

      - Những tên sát nhân thực có liên hệ với nhau. Đó là loại em xa.

      - Capra chết hai năm. thể liên lạc với ai được nữa.

      - Nhưng trong lúc còn sống, có thể tiết lộ toàn bộ chi tiết độc ác đó cho tên sát nhân của chúng ta. Đó là lời giải thích mà tôi mong đợi, bởi vì nếu lý giải cách khác việc còn đáng sợ hơn nhiều.

      - Rằng tên sát nhân của chúng ta đọc được bản báo cáo của cảnh sát Savannah.

      Zucker gật đầu.

      - Điều đó nghĩa là là ai đó thuộc cơ quan hành pháp.

      Căn phòng im lặng. Rizzoli thể nhìn các đồng nghiệp xung quanh. nghĩ về loại người bị công việc của cảnh sát lôi cuốn, loại người thích sức mạnh, quyền lực, súng đạn, huy hiệu, và cả cơ hội trấn áp người khác. Đó chính là điều tên sát nhân của chúng ta khao khát.





      Khi cuộc họp tan, Rizzoli chờ các thám tử khác rời phòng họp rồi mới lại gần Zucker.

      - Tôi có thể giữ tấm ảnh này ? - hỏi.

      - Tôi có thể biết lý do ?

      - linh cảm.

      Zucker cười theo kiểu của John Malkovich khiến sởn gai ốc.

      - Chia sẻ với tôi được ?

      - Tôi chia sẻ những linh cảm của mình.

      - Đó là điềm xấu à?

      - Để bảo vệ lãnh địa của tôi.

      - Đây là cuộc điều tra của cả nhóm.

      - Có những điều nực cười khi điều tra theo nhóm. Cứ khi nào tôi với họ những linh cảm của tôi ai đó lại luôn tin - cầm bức ảnh, ra khỏi phòng và ngay lập tức thấy hối hận vì đưa ra lời bình phẩm đó. Nhưng cả ngày nay mấy đồng nghiệp nam, những lời nhận xét nho và vẻ khinh rẻ của họ khiến bực bội. Họ ngày càng tỏ vẻ khinh thường . Việc vặt vãnh gần nhất là buổi thẩm vấn người hàng xóm ngay cạnh phòng Elena Ortiz của , cùng Darren Crowe. Crowe liên tục ngắt lời câu hỏi của Rizzoli để đưa ra câu hỏi của chính ta. Khi lôi ta ra khỏi phòng và đề nghị ta cư xử cho đúng mực ta cự lại bằng lời thóa mạ cổ điển của đàn ông: “Tôi nghĩ chắc đến kỳ.”

      Zucker động viên .

      - giữ linh cảm đó cho riêng mình. Nếu chúng đúng chẳng ai có thể chế giễu . Và nếu chúng đơm hoa kết trái chắc chắn là người được tin cậy.

      quay về khu làm việc của mình, ngồi xuống và nhìn kỹ tấm ảnh chụp lễ tốt nghiệp của Diana. lấy kính lúp, đột nhiên chú ý chai nước khoáng mà luôn để bàn. Cơn tức giận của tan biến khi tháy chất bẩn gì đó sủi tăm bên trong.

      Đừng phản ứng, nghĩ. Đừng để họ lấn át!

      lờ chai nước và chất bẩn bên trong , chiếu kính lúp vào vùng cổ Diana Sterling. Đột nhiên căn phòng có vẻ im lặng cách kỳ lạ. Dường như có thể cảm thấy ánh mắt của Darren Crowe chờ nổi điên.

      Việc đó xảy ra đâu, đồ con lừa! Lần này tôi bình tĩnh.

      tập trung vào vòng cổ của Diana. Suýt nữa bỏ qua chi tiết này vì điều khiến chú ý là khuôn mặt của , từ đôi gò má quý phái đến đường cong mềm mại của lông mày. Giờ xem xét kỹ hai mặt dây chuyền. mặt có hình ổ khóa, mặt kia có hình chiếc chìa khóa. Đó là chìa khóa vào trái tim mình, Rizzoli nghĩ.

      lật nhanh các hồ sơ bàn và thấy các bức ảnh lấy từ trường của vụ Elena Ortiz. dùng kính lúp, nghiên cứu tấm ảnh chụp thân thể nạn nhân ở cự ly gần. Qua lớp máu khô đóng lại cổ, vẫn nhìn thấy sợi dây bằng vàng, hai mặt dây chuyền bị mờ .

      lấy điện thoại, quay số của phòng y tế.

      - Bác sỹ Tierney ra ngoài cả buổi chiều - thư ký - Tôi có thể giúp gì cho ?

      - Về việc khám nghiệm tử thi của ấy vào thứ sáu tuần trước. Vụ của Elena Ortiz.

      - Vâng.

      - Nạn nhân có đeo trang sức khi ấy được đưa đến nhà xác. còn giữ nó ?

      - Để tôi xem!

      Rizzoli chờ đợi, gõ bút chì lên bàn. Chai nước ở ngay trước mặt nhưng quên nó ngay lập tức. Cơn tức giận của nhường chỗ cho thích thú và hồ hởi của việc săn tìm.

      - Thám tử Rizzoli?

      - Tôi đây.

      - Các vật dụng tư trang được gia đình ấy đem , bao gồm khuyên tai bằng vàng, vòng cổ và chiếc nhẫn.

      - Ai ký tên lấy chúng?

      - Anna Garcia, chị của nạn nhân.

      - Cảm ơn! - Rizzoli gác máy, nhìn đồng hồ đeo tay. Anna Garcia sống ở tận Danvers. Điều đó có nghĩa là phải vào đúng giờ cao điểm…

      - biết Frost đâu ? - Moore hỏi.

      Rizzoli giật mình khi thấy đứng cạnh bàn.

      - , tôi biết.

      - ấy có đây à?

      - Tôi kiểm soát ấy.

      dừng lại, rồi hỏi.

      - Cái gì thế?

      - Các bức ảnh chụp trường của Ortiz.

      - , vật trong chai cơ.

      nhìn lên và thấy cau mày.

      - Trông nó giống cái gì? miếng băng vệ sinh khốn nạn. Ai đó quanh đây có khướu hài hước phức tạp - nhìn thẳng Darren Crowe cố nín cười và quay .

      - Tôi lo vụ này - Moore , cầm cái chai lên.

      - Này, này! - vặc lại - Khốn kiếp, Moore. Quên chuyện đó !

      bước vào văn phòng của Trung úy Marquette. Qua lớp cửa kính ngăn cách, thấy Moore đặt cái chai có băng vệ xuống bàn của Marquette. Marquette quay lại, nhìn về phía Rizzoli.

      Lại thế rồi. Giờ họ là con chó cái thể chịu nổi trò đùa ác ý.

      chộp lấy ví, thu các tấm ảnh và ra khỏi bộ phận điều tra giết người.

      ra đến thang máy Moore gọi .

      - Rizzoli?

      - Đừng đấu tranh vô ích vì tôi, được chứ? - hét lên.

      - đấu tranh. chỉ ngồi yên đó với cái… cái thứ vớ vẩn đó.

      - Băng vệ sinh. có thể từ đó to và ràng được ?

      - Tại sao lại giận tôi? Tôi cố đấu tranh cho thôi mà.

      - Nghe này, vị thánh Thomas, đây chính là cách mọi việc xảy ra ở thế giới với phụ nữ. Nếu tôi than phiền tôi bị châm biếm. ghi chú được điền vào bản nhận xét về bản thân tôi. hòa đồng với đồng nghiệp nam. Nếu tôi phàn nàn thêm lần nữa danh tiếng của tôi chấm hết. Rizzoli kẻ than vãn. Rizzoli kẻ lắm mồm!

      - để bọn họ thắng nếu lên tiếng.

      - Tôi cố làm theo cách của . Nó có tác dụng. Vì vậy đừng giúp đỡ tôi, được chứ? - vắt túi lên vai, bước vào thang máy.

      Khi cánh cửa đóng lại giữa họ, muốn rút lại những lời đó. Moore đáng bị xỉ vả như vậy. luôn là người đàn ông lịch , nhã nhặn. Và trong lúc bực tức, ném biệt danh mà cả bộ phận điều tra các vụ giết người đặt cho : thánh Thomas. cảnh sát bao giờ quá trớn, chửi thề, mất bình tĩnh.

      Và rồi đời tư của có những chuyện buồn. Cách đây hai năm, vợ , Mary suy sụp sau trận xuất huyết não. Trong suốt sáu tháng, bám trụ lại trong trạng thái hôn mê tăm tối. Nhưng mãi cho đến ngày mất, Moore vẫn chịu từ bỏ hy vọng là tỉnh lại. Ngay cả bây giờ, năm rưỡi sau khi Mary qua đời, dường như vẫn chấp nhận điều đó. vẫn đeo nhẫn cưới, vẫn để ảnh bàn làm việc. Rizzoli chứng kiến nhiều cuộc hôn nhân của cảnh sát đổ vỡ, nhìn thấy phòng trưng bày các bức ảnh thay nhau tấm bàn của các bạn đồng nghiệp. Còn bàn của Moore, tấm hình của Mary vẫn còn. Nụ cười của ấy vẫn còn mãi.

      Vị thánh Thomas ư? Rizzoli lắc đầu hoài nghi. Nếu thế gian này có những vị thánh chắc chắn họ phải là cảnh sát.





      người muốn ông sống, người kia muốn ông chết và cả hai đều khăng khăng là mình ông hơn. Con trai và con Herman Gwadowski ngồi đối diện nhau bên giường cha và ai chịu đầu hàng.

      - phải là người chịu trách nhiệm chăm sóc bố - Marylin - Em nấu cơm cho bố. Em dọn nhà cho bố. Em đưa bố khám bệnh hàng tháng. Lần cuối gặp bố là khi nào? Lúc nào chả có việc hay ho hơn để làm?

      - Lạy Chúa, sống ở Los Angeles - Ivan cự lại - còn có công việc của mình.

      - Lẽ ra có thể bay về mỗi năm lần. Việc đó khó lắm sao?

      - Ồ, giờ về đây.

      - Được. Ông To bổ nhào về đây để tiết kiệm ngày tháng. Trước đây thèm về thăm bố. Nhưng giờ muốn mọi thứ được tiến hành.

      - thể tin là em lại để bố ra .

      - Em muốn bố chịu đựng thêm nữa.

      - Hoặc em chỉ muốn bố đừng có tốn tài khoản trong ngân hàng.

      Mỗi thớ cơ mặt Marylin căng lên.

      - khốn nạn!

      Catherine thể nghe tiếp nữa, cắt ngang.

      - Đây phải là nơi bàn bạc chuyện đó. Hai chị làm ơn ra khỏi phòng!

      Hai em im lặng, nhìn nhau với ánh mắt nảy lửa như thể ai là người đầu tiên ra khỏi phòng là kẻ đầu hàng. Rồi Ivan bước ra, dáng dọa dẫm trong bộ com-lê thêu hoa. Em ta là Marylin, mỗi đường nét đều lộ đây là bà nội trợ ở thành thị rất mệt mỏi. xiết chặt tay bố, rồi theo trai ra ngoài.

      Ở hành lang, Catherine báo cho họ tin xấu.

      - Bố của chị bị hôn mê sau vụ tai nạn. Thận của ông ấy hoạt động ngày càng kém. Do bệnh tiểu đường lâu năm, chúng bị hư hại nhiều và vụ chấn thương khiến mọi thứ tồi tệ hơn.

      - Bao nhiêu trong số đó là do ca mổ? - Ivan hỏi - tiêm cho bố tôi bao nhiêu thuốc gây mê?

      Catherine cố nén cơn giận ngày càng tăng, bình tĩnh .

      - Ông ấy bất tỉnh khi nhập viện. Thuốc mê phải là nguyên nhân. Chính hủy hoại các mô gây áp lực cho thận và thận của ông ấy dần dần ngừng hoạt động. Thêm vào đó, chúng tôi chẩn đoán ông ấy mắc bệnh ung thư tuyến tiền liệt. Nó ăn vào xương. Ngay cả khi ông ấy tỉnh lại những vấn đề đó vẫn còn.

      - muốn bỏ cuộc phải ? - Ivan hỏi.

      - Tôi chỉ muốn chị nghĩ lại về tình trạng hôn mê của ông ấy. Nếu tim ông ấy ngừng đập chúng tôi thể khiến ông ấy tỉnh lại nữa. Chúng tôi chỉ có thể để ông ấy ra yên bình.

      - Ý là chỉ cần để ông chết.

      - Đúng vậy.

      Ivan khịt mũi.

      - Hãy để tôi kể nghe về bố tôi. Ông phải là người bỏ cuộc. Và tôi cũng vậy.

      - Vì Chúa, Ivan, đây phải là vấn đề thắng thua! - Marylin gắt - Mà đây là việc để bố khi nào.

      - Và cũng mong điều đó mau chóng xảy ra đúng ? - ta bực bội, quay lại đối mặt với - Khi có dấu hiệu khó khăn đầu tiên, em Marylin bé bỏ cuộc và để bố mình chết. Ồ, bố bao giờ bỏ tôi.

      Cặp mắt Marylin chứa chan nước mắt.

      - Đó phải là vì bố phải ? Đó là vì chỉ muốn chiến thắng thôi phải ?

      - , đó là để cho bố có cơ hội chiến đấu - Ivan nhìn Catherine - Tôi muốn mọi việc được làm vì bố tôi. Tôi chỉ mong điều đó phải ràng.

      Marylin lau nước mắt mặt khi nhìn trai bỏ .

      - Làm sao ấy có thể bố trong khi chẳng bao giờ đến thăm ông? - nhìn Catherine - Tôi muốn bố tôi tỉnh lại. có thể ghi lại điều đó vào hồ sơ bệnh án ?

      Đây là tình thế khó xử về mặt đạo lý mà bác sỹ nào cũng sợ. Mặc dù Catherine đứng về phía Marylin nhưng những lời cuối cùng của trai có tính đe dọa ràng.

      .

      - Tôi thể thay đổi mọi việc cho đến khi trai thống nhất về vấn đề này.

      - ấy bao giờ đồng ý. nghe ấy rồi đấy.

      - Vậy phải chuyện thêm với ấy. Hãy thuyết phục ấy!

      - sợ ấy kiện phải ? Đó là lý do tại sao chịu thay đổi cầu.

      - Tôi biết ấy tức giận.

      Marylin buồn bã gật đầu.

      - Đó là cách ấy chiến thắng. ấy luôn chiến thắng.

      Mình có thể khâu cơ thể liền lại, Catherine nghĩ. Nhưng mình thể hàn gắn gia đình tan vỡ này.

      Nỗi đau và xung đột của cuộc gặp mặt đó vẫn bám lấy Catherine khi ra khỏi bệnh viện giờ sau. Đó là chiều thứ sáu và kỳ nghỉ cuối tuần rảnh rỗi chờ phía trước. Nhưng khi lái xe ra khỏi bến đỗ của trung tâm y tế, cảm thấy tự do chút nào. Hôm nay thậm chí còn nóng bức hơn hôm qua, nhiệt độ lên tới ba mươi hai độ. Và thèm khát mát mẻ trong căn hộ của mình, muốn ngồi xuống cùng cốc trà đá rồi bật kênh Khám phá ti vi.

      chờ ở chỗ đường giao nhau để đèn chuyển sang màu xanh ánh mắt bị thu hút bởi tên phố cắt ngang. Phố Worcester.

      Đây là khu phố Elena Ortiz sống. Địa chỉ của nạn nhân được nhắc đến trong bài báo tờ Quốc tế Boston mà Catherine buộc mình phải đọc.

      Đèn chuyển màu. bị thôi thúc và lái xe rẽ vào phố Worcester. Trước đây chẳng có lý do gì để rẽ vào phố này nhưng có điều gì đó lôi kéo về phía đó. Đó chính là mong muốn bệnh hoạn. muốn nhìn thấy chỗ tên sát nhân ra tay, muốn nhìn thấy tòa nhà, nơi ác mộng của riêng biến thành với khác. Tay đẫm mồ hôi. cảm thấy mạch mình đập nhanh hơn khi nhìn những số nhà bên đường tăng dần.

      Khi đến chỗ ở của Elena Ortiz, phanh lại.

      Dinh thự này chẳng có gì đặc biệt, chẳng có gì gợi cho sợ hãi và chết chóc. chỉ thấy tòa nhà ba tầng bằng gạch.

      bước ra khỏi xe, nhìn những ô cửa tầng . Cửa sổ nào là cửa sổ căn hộ của Elena Ortiz? Cửa sổ có rèm mở chăng? Hay là ô cửa có rừng chậu cây? về phía lối vào, quan sát tên của những người thuê nhà. Có sáu căn hộ, tên người thuê ở căn hộ 2A bỏ trống. Elena bị xóa tên, nạn nhân bị loại khỏi danh sách những người còn sống. ai muốn nhớ về cái chết.

      Theo tờ Quốc tế, tên sát nhân đột nhập bằng đường thoát hiểm. Quay trở lại vỉa hè, Catherine để ý thấy hàng rào mắt cáo bằng thép ở khu ngõ hẻm của tòa nhà. vài bước trong con hẻm tối, rồi đột ngột dừng lại. Tóc gáy dựng ngược. quay lại nhìn khu phố và thấy chiếc xe tải qua, phụ nữ chạy bộ, đôi tình nhân vào xe. Chẳng có gì khiến cảm thấy bị đe dọa nhưng thể vờ như có những tiếng kêu im lặng hoảng loạn.

      trở lại xe, khóa cửa xe, ngồi bám chặt vô lăng và lại với chính mình.

      Chẳng có vấn đề gì cả. Chẳng có vấn đề gì - luồng khí lạnh phả vào qua bộ phận thông hơi và mới thấy mạch mình đập chậm lại chút. Cuối cùng, thở dài và ngả người về sau.

      Ánh mắt lại hướng về phía căn hộ của Elena Ortiz.

      Khi đó, mới chú ý chiếc ô tô đậu trong con hẻm và để ý thấy biển xe đăng ký ở bộ phận hãm phanh phía sau.

      POSEY5.

      Lập tức, lục tung ví, tìm tấm danh thiếp của vị thám tử hôm trước. Tay lẩy bẩy bấm số máy di động.

      nhận điện, trịnh trọng .

      - Thám tử Moore đây!

      - Tôi là Catherine Cordell - - Mấy hôm trước có đến gặp tôi.

      - Vâng. Bác sỹ Cordell?

      - Elena Ortiz có lái chiếc ô tô Honda màu xanh lá cây ?

      - Xin lỗi?

      - Tôi cần biết biển số đăng ký của ấy.

      - Tôi xin lỗi, tôi hiểu.

      - Hãy cho tôi! - Mệnh lệnh chắc nịch của làm giật mình. im lặng rất lâu điện thoại.

      - Để tôi xem - . nghe thấy tiếng chuông điện thoại và tiếng nhiều người đàn ông chuyện ở đầu kia. trở lại.

      - Đó là biển đăng ký ảo… Tôi nghĩ nó có liên quan đến công việc kinh doanh hoa của gia đình.

      - POSEY 5 - thầm .

      dừng lại.

      - Đúng thế - . Giọng đột nhiên trầm xuống và cảnh giác.

      - Hôm trước, khi chuyện với tôi, hỏi tôi có biết Elena Ortiz .

      - Và .

      Catherine run rẩy thở hắt ra.

      - Tôi nhầm.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :