1. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Nếu Như Được Làm Lại

Thảo luận trong 'Truyện Phương Tây'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      Giới thiệu


      Andrew Stilman, nhà báo nổi tiếng của tờ The New York Times, vừa kết hôn.


      Sáng ngày 9 tháng Bảy 2012, đột ngột bị tấn công khi chạy bộ dọc sông Hudson. gục ngã trong vũng máu…



      Andrew tỉnh lại vào ngày 9 tháng Năm 2012, hai tháng trước lễ cưới.



      Kể từ giờ phút đó, có 60 ngày để tìm ra kẻ giết mình, 60 ngày giằng co với số phận.



      Từ New York đến Buenos Aires, Stilman lao vào cuộc chạy đua hối hả với các kiện, tình tiết đan cài, cuộc chạy đua với thời gian, phập phồng lo sợ xen lẫn háo hức thách thức định mệnh, cho đến khi nút thắt cuối cùng được gỡ. kết thúc bất ngờ đến nghẹt thở.



      Với Nếu như được làm lại, Marc Levy khiến người đọc ngây ngất với sức viết dồi dào của ông, và chuyển mình quá đỗi hoàn hảo từ chất lãng mạn thường thấy sang phong cách trinh thám ly kỳ, cuốn hút.



      Nhận định


      “Nên đọc ngay, đừng chần chừ!”

      - La Dépêche du Midi

      cách suy nghĩ thú vị về số mệnh.”

      - Metro

      “Nhiều nút thắt mở, cốt truyện được đan cài khéo léo.”


      - Paris Match

      “Đủ mọi sắc thái cảm xúc…say mê, hồi hộp, hài hước.”


      Tác giả

      Marc Levy sinh ngày 16 tháng Mười năm 1961, tại Pháp và có thời gian dài sinh sống tại Mỹ. Sau những thất bại thuở lập nghiệp với nghề đồ họa và kiến trúc, ông chuyển sang viết văn và giành được thành công vang dội ngay từ tác phẩm đầu tay Nếu em phải giấc mơ.



      Marc Levy là tác giả hàng đầu của dòng văn học lãng mạn đương đại Pháp. Sách của ông được dịch sang 45 thứ tiếng và bán được hơn 24 triệu bản toàn thế giới.



      Marc Levy (sinh ngày 16 tháng 10 năm 1961, tại Boulogne-Billancourt, nước Pháp) là nhà văn người Pháp gốc Do Thái.



      Marc Levy viết quyển tiểu thuyết đầu tiên của mình với tên Et si c'était vrai... (Và nếu như chuyện này là có hay còn gọi là " nếu em phải giấc mơ ") vào năm 1998. Ông viết cuốn sách này cho con trai mình, khi thương gia thành công. Năm 1999, sau khi bán bản quyền film Et si c'était vrai... cho hãng Dreamworks, ông kết thúc công việc ở hãng kiến trúc để theo đuổi nghiệp viết văn của mình. Năm 2001, ông cho xuất bản quyển sách thứ hai, Où es-tu? (Em ở đâu?), tiếp theo là quyển Sept jours pour une éternité... (Bảy ngày cho mãi mãi) vào năm 2003, La prochaine fois (Kiếp sau) vào năm 2004 và quyển Vous revoir (Gặp lại em) vào năm 2005. Năm 2005 cũng là năm trình chiếu bộ phim Just like Heaven (Như giấc mơ) của hãng Dreamworks - phỏng theo tiểu thuyết Et si c'était vrai... bởi các diễn viên chính: Reese Witherspoon và Mark Ruffal.

      Chân thành gửi lời cảm ơn tới

      Pauline, Louis và Georges.

      Raymond, Danièle và Lorraine.

      Susanna Lea.

      Emmanuelle Hardouin.

      Nicole Lattès, Leonello Brandolini, Antoine Caro.

      Elisabeth Villeneuve, Anne-Marie Lenfant, Arié Sberro, Sylvie Bardeau, Lydie Leroy,

      toàn bộ ê kíp của Nhà xuất bản Robert Laffont.

      Pauline Normand, Marie-Eve Provost.

      Léonard Anthony, Sébastien Canot, Romain Ruetsch,

      Danielle Melconian, Naja Baldwin, Mark Kessler,

      Stéphanie Charrier,

      Katrin Hodapp, Laura Mamelok, Kerry Glencorse,

      Julia Wagner, Aline Grond.

      Brigitte và Sarah Forissier.

      Tới Mary’s Fish.

      Và chân thành gửi lời cảm ơn sâu sắc tới

      Victoria Donda, hành trình và các ghi chép của bà góp phần làm sáng tỏ câu chuyện này.

      Dành tặng Louis, Georges và Pauline

      “Ta vô cùng hạnh phúc

      nếu có thể từ bỏ bản thân như

      có thể từ bỏ người khác.”

      Bà DEFFAND
      Last edited by a moderator: 31/7/14

    2. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      #000080']Chương 1


      Hòa mình vào giữa đám đông, gây ra tấn thảm kịch kỳ lạ này mà ai nhận thấy bất cứ điều gì, nhớ về bất cứ thứ gì.

      Chạy bộ, trang phục hợp cảnh để ai chú ý. Dọc công viên River Park, vào lúc 7 giờ sáng, tất cả mọi người đều chạy bộ. Trong thành phố nơi thời gian được quý trọng đến từng phút, nơi thần kinh mỗi con người đều phải trải qua những thử thách cam go, họ chạy; họ chạy để giữ gìn vóc dáng, xóa tan những điều thái quá của ngày hôm qua và chuẩn bị đón nhận những căng thẳng của ngày sắp tới.

      băng ghế dài; bàn chân đặt lên mặt ghế, buộc lại dây giày trong lúc đợi mục tiêu lại gần. Mũ liền áo sùm sụp trán che bớt tầm nhìn, nhưng cũng góp phần che khuất khuôn mặt. Tranh thủ lấy lại hơi, tránh để bàn tay run lên. Mồ hôi có hề chi, nó chẳng khiến ai chú ý cả, cũng chẳng biểu lộ điều gì, ở đây, tất thảy mọi người đều toát mồ hôi.

      Khi xuất , để chạy vượt qua, đợi vài giây trước khi lại tiếp tục chạy thong thả. Giữ khoảng cách lý tưởng cho đến thời điểm thích hợp.

      Cảnh tượng như vậy lặp lặp lại đến bảy lần. Tất cả các buổi sáng trong tuần, vào cùng giờ nhất định. Mỗi lần ham muốn hành động lại trỗi dậy mạnh mẽ hơn. Nhưng thành công phụ thuộc vào việc chuẩn bị kỹ càng. được phép phạm sai lầm.

      Giờ xuôi xuống phố Charles, trung thành với thói quen của mình. đợi đèn giao thông chuyển sang đỏ để băng qua bốn làn đường đầu tiên của xa lộ West Side. Đám ô tô di chuyển về mạn Bắc thành phố, người dân đổ dồn tiến về nơi làm việc của mình.

      đến dải phân cách. Hình người bé sáng trưng cột đèn tín hiệu giao thông nhấp nháy. Ở đoạn TriBeCa và Financial District, đám ô tô nhích từng tí từng tí , thanh chống sốc xe này chạm vào thanh chống sốc xe kia, dẫu vậy vẫn cứ tiến lên. Như mọi khi, đáp trả tiếng còi xe bằng cách giơ nắm tay lên, ngón giữa chĩa thẳng lên trời, rồi rẽ sang trái vào con đường dành cho khách bộ hành dọc theo sông Hudson.



      chạy qua hai mươi khối nhà, giữa những người chạy bộ khác, thích thú bỏ lại sau lưng mình những ai khỏe khoắn và nguyền rủa những ai vượt lên trước mình. Họ chẳng có chút công trạng gì, họ kém những mười hay hai mươi tuổi. Hồi mười tám tuổi, phần này của thành phố chẳng mấy ai lui tới, nhưng trong những người đầu tiên hổn hển chạy tới đây. Các kho cảng ngày xưa đua ra phía các cột trụ giờ chỉ còn sót lại chút dấu tích, ngày ấy chúng sặc mùi cá chết và han gỉ. Sặc mùi máu. Trong vòng hai mươi năm, thành phố của đổi thay biết mấy, nó trẻ lại và đẹp lên; còn , năm tháng bắt đầu hằn dấu khuôn mặt.

      Phía bên kia sông, ánh đèn từ khu Hoboken, ngay tiếp sau là ánh đèn khu Jersey City, vụt tắt trong cảnh ngày lên.

      để khuất tầm mắt; khi đến đoạn giao cắt phố Greenwich, liền rời khỏi đường dành cho người bộ. Cần phải hành động trước. Buổi sáng đó, đến được Starbucks Coffee nơi vẫn thường gọi món mocaccino cho mình.

      Tới đoạn qua Cầu tàu số 4, cái bóng vẫn luôn theo , mà hề hay biết, bắt kịp được .

      Thêm khối nhà nữa. Tăng tốc chạy, hòa mình vào nhóm người luôn tụ lại ở chỗ này, do lối thu hẹp lại và do những kẻ chậm chạp nhất cản trở những kẻ nhanh nhất. Chiếc kim dài luồn dưới ống tay áo, bàn tay đầy quyết tâm giữ chặt lấy nó.

      Đâm vào khoảng giữa chóp xương cùng và xương sườn cuối cùng. cú đâm nhanh và mạnh, cú “đâm -giật lại” sâu vào trong cơ thể để xuyên thủng thận rồi móc ngược lên tận động mạch bụng. Khi rút ra, chiếc kim kéo theo vết rách vô phương cứu chữa, chẳng kịp để ai đó hiểu chuyện gì xảy ra, để cứu hộ đến và để được chuyển tới bệnh viện và đưa đến phòng phẫu thuật. Ngay cả khi tất cả còi cứu thương đều rú lên inh ỏi đến được bệnh viện cũng chẳng phải là chuyện dễ dàng vào giờ này buổi sáng, khi mật độ giao thông dày đặc đến nỗi tài xế xe cứu thương chỉ có thể lấy làm tiếc về bất lực của mình.

      Nếu là hai năm trước, hẳn có thể có chút may mắn thoát chết. Kể từ khi người ta đóng cửa bệnh viện St Vincent để tạo điều kiện thuận lợi cho mấy tay kinh doanh bất động sản, trung tâm cấp cứu gần nhất cũng ở tận mạn Đông, đối diện với công viên River Park. Chảy máu quá nhiều, sớm cạn sạch máu.

      phải chịu đau đớn, đến mức đó đâu. chỉ thấy lạnh, càng lúc càng lạnh hơn. run lập cập vì rét, mất dần cảm giác với các bộ phận cơ thể mình, hai hàm răng gõ vào nhau để rồi thể thốt lên lời được nữa, mà để gì cơ chứ? Rằng bị thương rất nặng ở lưng ư? Để được gì nào? Cảnh sát có thể rút ra được kết luận nào từ đó cơ chứ?

      Tội ác hoàn hảo có thể tồn tại và những cảnh sát giỏi nhất thổ lộ với bạn vào lúc kết thúc nghiệp rằng họ kéo lê đằng sau, như gánh nặng đè lên tâm trí họ, hàng lô những vụ án phá được.

      Thế là đúng vị trí. Hành động này được thực bao cát nhiều lần, nhưng khi chiếc kim đâm vào da thịt con người ấn tượng vô cùng khác. Điều quan trọng là để đâm trúng xương. Đâm phải đốt sống thắt lưng coi như thất bại hoàn toàn. Chiếc kim phải đâm sâu vào rồi được rút ra ngay lập tức giấu vào trong ống tay áo.

      Sau đó, tiếp tục chạy với tốc độ như cũ, cưỡng lại mong muốn quay lại nhìn và giữ mình vô danh, vô hình giữa đám người chạy bộ kia.

      Bấy nhiêu giờ chuẩn bị chỉ để cho vài giây hành động.

      cần nhiều thời gian hơn thế để đến với cái chết, có lẽ là mười lăm phút, nhưng sáng đó, khoảng 7h30, chết.



      #000080']Chương 2



      Tháng Năm 2011

      Andrew Stilman là phóng viên tờ The New York Times. Gia nhập tòa báo trong vai trò nhà báo hạng xoàng ở tuổi hai mươi ba, dần leo lên từng bậc . Nhận thẻ nhà báo của trong những tờ nhật báo nổi tiếng nhất thế giới từng là mơ ước ấp ủ từ thuở thiếu thời. Mỗi sáng, trước khi bước qua cánh cửa đôi của tòa nhà số 860 đại lộ 8, Andrew tự thưởng cho mình niềm vui nho bằng cách hiên ngang ngẩng cao đầu. liếc mắt nhìn dòng chữ viết ở mặt trước tòa nhà và tự nhủ rằng văn phòng của mình ở đây, trong giáo đường báo chí chí thánh nơi hàng nghìn kẻ mê viết lách vẫn mơ ước được đặt chân vào dù chỉ lần, để thăm thú trụ sở tòa báo.

      Andrew từng làm công tác thu thập tài liệu bốn năm trước khi đảm nhiệm vị trí trợ lý biên tập tại mục “Sổ tay trong ngày”, chuyên mục cáo phó. Người phụ nữ phụ trách chuyên mục này trước nằm dưới gầm xe buýt ngay khi rời nhiệm sở để rồi lại xuất trong chính chuyên mục mà bà từng phụ trách. Vì vội vội vàng vàng trở về nhà đón nhân viên của hãng chuyển phát UPS đến giao bộ đồ lót mỏng tang đặt hàng qua mạng. Mạng sống mong manh!

      Andrew Stilman lại tiếp tục nai lưng làm việc năm năm nữa trong tình trạng vô danh. Các cáo phó bao giờ được ký tên, chỉ riêng người quá cố là được vinh danh trong ngày. Năm năm để viết về những con người là và chỉ còn là những hoài niệm, cả tốt lẫn xấu. nghìn tám trăm hai mươi ngày và gần sáu nghìn ly Martini suông được uống hết tối này đến tối khác, vào tầm từ 19h30 đến 20h15 tại bar Marriott phố 40.

      Ba trái ô liu mỗi ly và cứ mỗi hạt được nhổ vào chiếc gạttàn đầy ắp toàn đầu mẩu thuốc lá, Andrew lại đánh bật khỏi tâm trí mình phần tin súc tích đọng về sống vừa vụt tắt mà viết trong ngày. Có thể là sống cùng cái chết khiến Andrew dần phí sức vào rượu chè. Vào năm thứ tư ở chuyên mục “cáo phó” tay phục vụ quán bar Marriott phải phục vụ đến lần thứ sáu mới đủ cho vị khách thân thiết của mình uống cho khát. Andrew thường xuyên đến văn phòng với bộ mặt xám xịt, mí mắt trĩu nặng, cổ áo xộc xệch còn áo vét nhàu nhĩ; tuy vậy bộ lễ phục-cà vạt kèm áo sơ mi hồ bột phải trang phục bắt buộc trong các khu vực gian mở tại phòng biên tập tòa báo và lại càng phải trong phòng tác nghiệp.

      vì ngòi bút nhã nhặn và chính xác của , hay vì những hậu quả của mùa hè vô cùng nóng mà chuyên mục nắm giữ nhanh chóng trải ra hai trang kín đặc. Trong quá trình chuẩn bị báo cáo kết quả hằng quý, tay phân tích thuộc phòng tài chính, vốn say mê các con số thống kê, nhận thấy rằng số tiền tòa báo thu được từ mỗi người quá cố tăng lên rất nhanh. Các gia đình có tang ngày càng mua nhiều dòng hơn để bày tỏ niềm đau đớn của họ lớn lao nhường nào. Các con số, khi chúng tốt đẹp, du hành khá nhanh trong lòng những doanh nghiệp lớn. Tại cuộc họp ban lãnh đạo vừa mới được bổ nhiệm từ hồi đầu mùa thu, họ tranh luận về những kết quả này và dự kiến khen thưởng vị tác giả từ giờ được thừa nhận. Andrew Stilman được bổ nhiệm làm biên tập viên, vẫn luôn ở chuyên mục “Sổ tay trong ngày”, nhưng lần này là ở mục đám cưới mà kết quả vốn rất thảm hại.





      Andrew bao giờ thiếu ý tưởng, thi thoảng bỏ quán bar thường đến để lân la đến những địa điểm sang trọng mà nhiều cộng đồng đồng tính trong thành phố thường lui tới. Bắt quen hết mối này đến mối khác qua những ly Martini suông mà thể đếm nổi nữa, tranh thủ dịp này phân phát rất mau lẹ danh thiếp của mình, đồng thời cũng giải thích cho những ai muốn nghe rằng chuyên mục mà phụ trách rất sẵn lòng in mọi thông báo kết hôn, kể cả những thông báo thuộc loại mà phần lớn các báo khác từ chối tiếp nhận trong chuyên mục của mình. Kết hôn đồng tính vẫn còn chưa được pháp luật New York công nhận, còn khuya mới đến được đó, nhưng báo chí được tự do xuất bản mọi lời chúc tụng được cho là riêng tư; rốt cuộc, chỉ cần muốn là được.

      Trong vòng ba tháng, chuyên mục “Sổ tay trong ngày” trải rộng đến tận bốn trang trong ấn bản Chủ nhật và lương của Andrew Stilman tăng lên rệt.

      Khi đó, quyết định giảm lượng tiêu thụ cồn, phải bởi do lo lắng giữ gìn lá gan mà bởi vì vừa tậu được con Datsun 240Z, mẫu xe hằng mơ ước từ khi còn là cậu bé con. Cảnh sát giờ đây hề nhân nhượng trong chuyện liên quan đến nồng độ cồn khi lái xe. Uống hay lái… Chết mê chết mệt con xe cổ, vốn được phục chế chê vào đâu được tại xưởng của người bạn thân sở hữu ga ra chuyên về xe sưu tập này, Andrew buộc phải lựa chọn. Và nếu lại lui tới Marriott nữa bao giờ uống quá hai ly mỗi tối, ngoại trừ thứ Năm.

      Chính xác là vào thứ Năm, vài năm sau đó, trong lúc rời khỏi quán bar Marriott, Andrew mặt giáp mặt với Valérie Ramsay. cũng say hệt như phá lên cười ngặt nghẽo kiểm soát nổi sau khi vấp phải thùng đựng báo rồi ngã bệt xuống đất ngay giữa vỉa hè.

      Andrew ngay lập tức nhận ra Valérie phải qua đường nét của chẳng hề giống từng biết cách đây hai mươi năm – mà qua tiếng cười. Tiếng cười khó quên khiến lồng ngực quặn thắt. Bộ ngực của Valérie Ramsay từng ám ảnh thời niên thiếu của Andrew.

      Họ quen nhau hồi trung học. Valérie, bị đội cổ vũ – mấy thiếu nữ mặc bộ áo liền quần khêu gợi mang màu cờ sắc áo của đội bóng đá địa phương – thẳng thừng chối bỏ vì vụ ẩu đả ngớ ngẩn trong phòng thay đồ với đứa con tự mãn hơi quá đà, đành bằng lòng với vị trí trong dàn hợp xướng. Andrew, bị mắc chứng teo sụn đầu gối mà mãi nhiều năm sau mới chịu phẫu thuật vì thích khiêu vũ, được miễn mọi hoạt động thể thao. Cả cũng vậy, vì thể làm gì khác, đành góp giọng trong cùng dàn hợp xướng đó.

      hẹn hò với tới tận khi kết thúc quãng thời gian học chung. hề có quan hệ tình dục đúng nghĩa, mà chỉ đủ để đôi tay và chiếc lưỡi thích dạo chơi được vui đùa ghế nhà trường dục vọng, bằng cách tranh thủ trọn vẹn cơ thể nở nang của Valérie.

      Dẫu sao cũng chính nhờ mà lần đầu tiên biết đến cơn cực khoái do bàn tay người khác. tối có trận đấu bóng, đôi trẻ trốn trong phòng gửi quần áo vắng tanh vắng ngắt để tự tình lâu hơn thường lệ, Valérie cuối cùng cũng đồng ý cho tay vào trong quần jean của Andrew. Mười lăm giây bàng hoàng chóng mặt, tiếp theo là tràng cười của Valérie khiến ngực lắc lư góp phần kéo dài thú nhục dục chóng tàn. Lần đầu tiên thể quên.

      - Valérie à? Stilman ấp úng.

      - Ben ư? Valérie trả lời, vẻ cũng vô cùng ngạc nhiên.

      Tại trường trung học, tất cả đều gọi là Ben, thể nhớ là tại sao; hai mươi năm qua còn ai gọi như vậy.

      Để lý giải cho tình trạng tồi tệ của mình, Valérie viện cớ buổi tối đám bạn tụ tập với nhau vui quá vì còn sống kiểu như vậy kể từ quãng thời gian học đại học. Andrew, vốn cũng trong tình trạng chẳng khá khẩm hơn là mấy, viện dẫn đến việc được thăng chức, nhưng là chuyện đó xảy ra từ hai năm trước; nhưng để ăn mừng những tin tốt lành có cần thời hạn hay ?

      - Em làm gì ở New York vậy? Andrew hỏi.

      - Em sống ở đây, Valérie đáp trong lúc Andrew giúp đứng dậy.

      - Từ bao lâu rồi?

      - Được thời gian rồi, đừng hỏi em là bao nhiêu lâu, em đủ minh mẫn để nhẩm tính được đâu. Thế làm gì rồi?

      - Làm nghề mà luôn hằng mơ, thế còn em?

      - Hai mươi năm cuộc đời, đó là cả câu chuyện dài, biết đấy, Valérie vừa phủi bụi chiếc jupe vừa trả lời.

      - Chín dòng, Andrew thở dài.

      - Cái gì chín dòng?

      - Hai mươi năm cuộc đời, nếu em thổ lộ cho biết, tóm lược chúng thành chín dòng.

      - vớ vẩn.

      - Em đánh cược ?

      - Còn tùy là cược cái gì nữa?

      - bữa tối.

      - Andrew, em còn có người đồng hành trong đời, Valérie trả lời đốp chát.

      - đâu có đề nghị em đêm trong khách sạn. bát xúp há cảo ở Joe’s Shanghai… em vẫn còn mê mệt món há cảo chứ?

      - Vẫn còn.

      - Em chỉ việc với bạn trai rằng bạn cũ.

      - Nhưng trước tiên phải tóm tắt được hai mươi năm vừa qua của đời em trong chín dòng .

      Valérie, với nụ cười nơi khóe môi như vẫn thường khoe ra vào thời người ta còn gọi là Ben, trước khi đề nghị tới gặp ở nhà để xe phía sau tòa nhà thí nghiệm; nụ cười mỉm hề tạo thành nếp nhăn.

      - Được thôi, , ly cuối cùng và em kể về đời mình cho nghe.

      - phải ở quán bar này, trong đó quá ồn ào.

      - Tốt thôi, nếu định dẫn em về nhà tối nay nhầm người rồi đó.

      - Valérie, điều đó thậm chí còn chưa thoáng qua tâm trí , chỉ là với tình trạng của hai ta như thế này, ăn chút gì đó chẳng phải là điều quá xa xỉ đâu, nếu thế, e rằng vụ cá cược của chúng ta uổng công thôi.

      Andrew hề sai. Dù rằng cả hai chiếc giày cao gót của cắm chặt xuống vỉa hè bẩn thỉu của phố 40 kể từ khi giúp đứng đậy, Valérie vẫn có cảm giác như lảo đảo boong tàu. Ý tưởng lót dạ thứ gì đó hề làm cho phật ý. Andrew vẫy taxi rồi cho tài xế địa chỉ quán rượu mở thông đêm nằm ở khu SoHo nơi thường lui tới. Mười lăm phút sau, Valérie ngồi bên bàn, đối diện với cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.

      nhận được học bổng của trường Đại học Indianapolis. Trong tất cả những trường mà gửi hồ sơ, đó là trường đầu tiên chấp nhận hồ sơ dự tuyển của . Ngôi trường ở vùng Midwest chưa bao giờ là niềm mơ ước của trẻ, nhưng xa xỉ đến nỗi đợi câu trả lời danh giá hơn nữa; nếu có khoản trợ cấp tài chính này để trang trải học phí, tương lai của chỉ gói gọn trong cảnh làm bồi bàn tại quán bar ở Poughkeepsie, thành phố nằm ở mạn Bắc tiểu bang New York nơi cả hai cùng lớn lên.

      Tám năm sau, với bằng bác sĩ thú y trong túi, Valérie rời tiểu bang Indiana và, như phần nhiều các trẻ đầy tham vọng, đến sống ở Manhattan.

      - Em theo học cả khóa nghiệp vụ ở trường thú y tại Indiana để rồi đến New York ư?

      - Sao lại nhỉ? Valérie đáp.

      - Giấc mơ của em là thăm khám hậu môn cho lũ chó xù à?

      - khốn, Andrew à.

      - muốn làm em tổn thương, nhưng em phải biết rằng Manhattan hề chuộng động vật. Nếu ta trừ lũ chó của mấy mụ béo ở Upper East Side khách hàng của em còn lại những ai?

      - Trong thành phố có tới hai triệu người độc thân ngạc nhiên khi biết rằng lũ vật bầu bạn giữ vai trò quan trọng đến nhường nào.

      - hiểu rồi, nghĩa là em cũng chăm sóc cả bọn chuột hamster, đám mèo đực và lũ cá vàng.

      - Em là bác sĩ thú y thuộc biên chế đội cảnh sát cưỡi ngựa. Em chăm sóc bầy ngựa của họ, và cả lũ chó của đội cảnh khuyển, chứ hề có con chó xù nào cả. Chỉ có đám chó labrador chuyên tìm kiếm xác chết, vài con béc giê Đức gần về hưu, lũ chó săn nghiệp vụ chuyên phát ma túy và chó bi gơn để tìm chất nổ.

      Andrew nhướng hết bên mày này rồi đến bên kia. học tiểu xảo này trong khóa học làm báo của mình. Hành động ấy luôn khiến người đối thoại với ta bối rối. Khi phỏng vấn ai đó mà nghi ngờ độ chân thực của lời chứng, bắt đầu điệu valse nhíu mày, rồi qua phản ứng của “khách hàng” mà đánh giá xem liệu họ có dối hay . Nhưng khuôn mặt Valérie vẫn rất thản nhiên.

      - Dĩ nhiên rồi, Andrew sững sờ , ngờ đấy. Nhưng vậy , em làm trong ngành cảnh sát hay chỉ trong lĩnh vực thú y? Rốt cuộc, ý là, em có thẻ cảnh sát và có mang súng ?

      Valérie nhìn chằm chằm rồi phá lên cười.

      - Em thấy chín chắn hơn rất nhiều kể từ lần cuối ta gặp nhau rồi đấy, Ben thân mến.

      - Em giễu đấy hả?

      - hề, nhưng nhìn mặt nghệt ra em cứ ngỡ gặp lại bộ mặt non choẹt của hồi còn học cơ đấy.

      - ngạc nhiên khi em trở thành bác sĩ thú y, Andrew tiếp tục. Em vẫn luôn các con vật mà. Có tối em từng gọi đến nhà bố mẹ , năn nỉ vượt rào để tới gặp em ngay tức ; những tưởng là em đột nhiên có ham muốn, nhưng hề. Em buộc vác con chó già gãy chẫn, hôi hám mà em nhặt được bên lề đường lúc từ trường về. Chúng ta phải đánh thức bác sĩ thú y ngay giữa đêm hôm khuya khoắt.

      - vẫn còn nhớ chuyện đó sao Andrew Stilman?

      - nhớ mọi chuyện của hai ta, Valérie Ramsay à. Còn bây giờ, em có thể cho biết chút xem chuyện gì xảy ra từ buổi chiều dài cổ đợi em ở rạp Poughkeepsie cho tới tận buổi tối nay khi em tái xuất ?

      - Em thấy trong đống thư từ buổi sáng lá thư chấp thuận của Đại học Indianapolis và em thể đợi thêm ngày nào nữa. Em thu xếp hành lý và nhờ vào khoản tiết kiệm có được từ tất cả những công việc làm thêm mùa hè cũng như việc trông trẻ mà em từng cáng đáng, em rời nhà và Poughkeepsie ngay tối đó. Quá hạnh phúc vì bao giờ phải tham dự vào cảnh chiến tranh gia đình giữa bố mẹ em nữa, họ thậm chí còn muốn tiễn em ra ga, thấy đấy! Và bởi chỉ có chín dòng để về bạn cũ, em miễn cho các chi tiết trong quá trình em học đại học. Khi đến New York, em làm nhiều việc lặt vặt ở các phòng khám thú y khác nhau. ngày nọ, em trả lời mẩu tin tuyển dụng của sở cảnh sát và em được nhận vào vị trí dự khuyết. Em vào biên chế cũng được hai năm rồi.

      Andrew gọi bồi bàn ngang qua gần chỗ họ, nhờ phục vụ hai ly cà phê.

      - rất thích ý tưởng em làm bác sĩ thú y trong sở cảnh sát. soạn thảo nhiều cáo phó với thông báo đám cưới đến nỗi em thể tưởng tượng nổi đâu, nhưng chưa bao giờ đụng phải công việc này. thậm chí còn hình dung ra là nó có tồn tại.

      - Dĩ nhiên là nó có tồn tại.

      - vẫn giận em, em biết chứ?

      - Giận vì cái gì?

      - Vì em chạy trốn mà hề từ biệt .

      - là người duy nhất em từng thổ lộ rằng em ra ngay khi có thể.

      - hề coi lời thổ lộ đó là lời báo trước. Giờ em vậy hẳn nó có nghĩa là vậy.

      - Thế mà vẫn còn giận em sao? Valérie giễu.

      - Lẽ ra phải thế, nhưng nghĩ em có thông báo.

      - Thế còn , thực trở thành nhà báo ư?

      - Sao em biết?

      - Em vừa hỏi làm nghề gì, trả lời rằng: “Nghề mà luôn hằng mơ”… và từng muốn trở thành nhà báo còn gì.

      - Em vẫn nhớ chuyện đó sao, Valérie Ramsay?

      - Em nhớ mọi thứ mà, Andrew Stilman.

      - Vậy là em có bạn đồng hành trong đời?

      - Muộn rồi, Valérie thở dài, em phải về thôi. Hơn nữa nếu em quá nhiều, bao giờ có thể tóm lược tất cả trong chín dòng.

      Andrew mỉm cười tinh quái.

      - Có nghĩa là em đồng ý ăn tối ở Joe’s Shanghai?

      - Nếu thắng cược. Em là người giữ lời.

      Họ dạo bước các con phố vắng tanh ở khu SoHo cho tới tận đại lộ 6 mà ai cất lời. Andrew dìu Valérie để giúp băng qua những con phố với lớp gạch lát mấp mô của khu phố cổ.

      vẫy gọi chiếc taxi ngược lên đại lộ rồi mở cửa cho Valérie, trong lúc đó ngồi vào băng ghế sau.

      - Quả là hạnh phúc bất ngờ khi gặp lại em, Valérie Ramsay.

      - Em cũng thế, Ben à.

      - Bài văn xuôi chín dòng của , có thể gửi đến cho em theo địa chỉ nào?

      Valérie lục tìm trong túi xách, lôi ra cây chì kẻ mắt rồi bảo Andrew chìa lòng bàn tay ra. ghi vào đó số điện thoại của mình.

      - Chín dòng đó, có thể gửi cho em qua tin nhắn. Chúc ngủ ngon, Ben.

      Andrew nhìn chiếc xe ngược về mạn Bắc. Đến khi nó khuất tầm mắt, tiếp tục bộ về phía căn hộ nằm cách đó tầm mười lăm phút. cần hít thở khí ngoài trời trong lành. Dù ghi nhớ ngay từ lúc mới nhìn thấy số điện thoại viết bằng chì kẻ lông mày lòng bàn tay mình, Andrew vẫn cẩn trọng nắm tay lại suốt quãng đường về nhà.



      #000080']Chương 3



      lâu rồi Andrew bắt tay vào tóm lược cuộc đời trong vài dòng. Từ hai năm nay, làm việc ở bộ phân “Thời quốc tế” của tòa báo. Andrew đặc biệt tò mò về cuộc sống, về trật tự thế giới và nuôi dưỡng trí tò mò nhất định về tất cả những gì có quan hệ với nước ngoài.

      Giờ đây khi màn hình máy tính thay thế bàn sắp chữ nơi người thợ sắp chữ máy linô từng thao tác trước kia, mỗi biên tập viên đều có thể tiếp cận những bài báo xuất ấn bản ngày hôm sau. Andrew nhiều lần phát ra những lỗi phân tích hay những điều sai trong chuyên mục thời quốc tế. Những nhận xét đưa ra trong cuộc họp hằng tuần tập trung tất cả các phóng viên nhiều lần giúp tòa báo khỏi phải cải chính sau khi độc giả viết thư thể thái độ bất bình của mình. Khả năng của Andrew nhanh chóng được nhận ra và giữa khoản tiền thưởng cuối năm hay việc được bổ dụng vào vị trí mới, Andrew gặp chút khó khăn nào trong việc lựa chọn.

      Ý nghĩ lần nữa được thảo “biên niên đời người”, như vẫn thích thú gọi tên những bài báo mình viết trước kia, kích thích rất nhiều; thậm chí còn cảm thấy chút luyến tiếc khi bắt đầu thảo “biên niên” của Valérie.

      Hai tiếng đồng hồ với tám dòng rưỡi, sau đó sao chép phần văn bản đó bàn phím điện thoại rồi gửi tới đương .

      Thời gian còn lại trong ngày cố thử viết bài báo về tình huống có thể dân Syrie nổi dậy, nhưng vô ích. Tình huống có thể xảy ra mà các đồng nghiệp của cho rằng chưa chắc chắn, nếu muốn là bất khả.

      tài nào tập trung nổi, ánh mắt lướt từ màn hình máy tính sang chiếc điện thoại di động vẫn luôn lặng câm cách tuyệt vọng. Khi nó rốt cuộc cũng sáng lên vào quãng 17 giờ, Andrew lao tới chỗ điện thoại. Báo động giả, cửa hiệu giặt là báo tin rằng đám áo sơ mi của được giặt xong.

      Mãi đến tận ngày hôm sau vào quãng giữa trưa mới nhận được tin nhắn sau:

      “Thứ Năm tới, 19h30. Valérie”

      trả lời ngay tức : “Em có địa chỉ chưa?”

      cảm thấy hối tiếc về vội vàng của mình khi vài giây sau đọc được câu trả lời “Rồi” cụt lủn.

      *



      Andrew tiếp tục công việc, và sống điều độ trong suốt bảy ngày liền. uống bất cứ giọt rượu nào, à đấy là trong trường hợp ta đồng ý với coi bia là thứ đồ uống quá ít cồn để có thể xem như là rượu.

      Thứ Tư, đến hiệu giặt là để lấy bộ vét để lại đây ngày hôm trước rồi mua chiếc sơ mi trắng. tranh thủ dịp này để sửa sang lại phần gáy và khuôn mặt ở chỗ thợ cạo. Và như mọi tối thứ Tư khác, gặp Simon, cậu bạn chí thân của mình, vào tầm 21 giờ, trong quán trông chẳng ra vẻ gì, nhưng ở đó có món cá chuẩn nhất khu West Village. Andrew sống cách đây hai bước chân, và nhà bếp của Mary’s Fish trở thành căng tin của những khi từ tòa báo về muộn, mà điều này thường xuyên xảy đến với . Trong khi Simon, như mỗi dịp cả hai cùng ăn tối, nổi cơn thịnh nộ với tụi Cộng hòa vì ngăn cản tổng thống thực những cải cách mà nhờ vào nó ông mới đắc cử, Andrew, tâm hồn lang thang tận đẩu tận đâu, nhìn ngắm dòng người qua đường cùng khách du lịch dạo trong những con phố tại khu mình ở qua cửa kính.





      - Và điều thực đáng ngạc nhiên tớ đồng ý với cậu, là đây: theo nguồn tin đáng tin cậy, Barack Obama phải lòng Angela Merkel.

      - Hoặc là cậu làm việc quá căng với tin đặc biệt tày đình và tớ thứ lỗi cho cậu, hoặc là cậu gặp ai đấy và trong trường hợp đó, cậu nên cho tớ biết ngay tức ! Simon hét toáng lên.

      - Chẳng phải lọ cũng chẳng phải chai, Andrew đáp, tớ rất lấy làm tiếc, tớ mệt quá.

      - Đừng chơi trò đó với tớ! Tớ thấy cậu cạo râu tóc nhẵn nhụi đến vậy kể từ khi cậu chơi với nàng tóc nâu cao hơn cậu cả cái đầu. Sally phải, nếu trí nhớ tớ vẫn còn hoạt động tốt.

      - Sophie, nhưng cũng chẳng quan trọng gì, điều đó chứng tỏ rằng cậu quan tâm biết bao đến cuộc đàm đạo của tớ. Làm sao có thể trách cậu vì quên tên nàng chứ, tớ chỉ ở bên nàng có năm rưỡi thôi mà!

      - Nàng ấy nẫu đấy nhỉ, tớ chưa từng nghe thấy tiếng nàng cười bao giờ, Simon tiếp lời.

      - Bởi nàng chẳng bao giờ cười trước những lời đùa cợt của cậu. Cậu ăn nốt cho xong , tớ muốn về ngủ rồi, Andrew thở dài.

      - Nếu cậu ra điều cậu lo lắng trong lòng, tớ gọi hết món tráng miệng này đến món tráng miệng khác, cho đến no căng mà chết cho mà xem.

      Andrew nhìn thẳng vào mắt cậu bạn.

      - Cậu từng có người con ghi dấu thuở niên thiếu chưa? vừa hỏi vừa ra dấu cho phục vụ mang hóa đơn đến.

      - Tớ biết ngay là phải công việc khiến cậu rơi vào tình trạng này mà!

      - Đừng nghĩ vậy, tớ làm về chủ đề gây phẫn nộ, câu chuyện nhớp nhúa khiến cậu quặn ruột.

      - Chủ đề gì vậy?

      - Bí mật nghề nghiệp!

      Simon thanh toán hóa đơn bằng tiền mặt rồi đứng dậy.

      - Dạo bộ chút , tớ cần hít thở khí ngoài trời.

      Andrew lấy áo khoác cây mắc rồi bắt kịp cậu bạn đứng đợi mình vỉa hè.

      - Kathy Steinbeck, Simon thầm.

      - Kathy Steinbeck?

      - Người con ghi dấu thuở niên thiếu của tớ, cậu vừa đặt câu hỏi đó cách đây năm phút, cậu quên rồi hả?

      - Cậu chưa bao giờ kể cho tớ nghe chuyện đó.

      - Cậu chưa bao giờ đặt câu hỏi đó, Simon đáp.

      - Valérie Ramsay, Andrew khai.

      - Thực ra cậu hoàn toàn cóc quan tâm đến chuyện làm sao Kathy Steinbeck từng có thể ghi dấu trong cuộc đời trai trẻ của tớ. Cậu chỉ đặt câu hỏi đó cho tớ với mục đích kể cho tớ nghe về Valérie của cậu.

      Andrew nắm lấy vai Simon rồi kéo cậu xa vài bước nữa. Ba bậc thang dẫn xuống tầng hầm tòa nhà xây bằng gạch. đẩy cửa vào Fedora, quán bar nơi xưa kia những nghệ sĩ trẻ như Count Basie, Nat King Cole, John Coltrane, Miles Davis, Billie Holiday hay Sarah Vaughan từng biểu diễn.

      - Cậu thấy tớ quá tập trung vào chính mình phải ? Andrew hỏi.

      Simon đáp lời.

      - Hẳn là cậu có lý. Cứ mải miết tóm tắt cuộc đời của những con người xa lạ trong ngần ấy năm, tớ rốt cuộc tin rằng cái ngày duy nhất mà người ta quan tâm đến tớ là ngày đến lượt tớ xuất những cột báo tồi tệ dành cho người chết kia.

      Tay nâng cốc, Andrew bắt đầu cao giọng:

      - Sinh năm 1975, phần lớn cuộc đời Andrew Stilman làm việc cho tờ báo nổi tiếng The New York Times… Cậu thấy đấy, Simon, chính vì lẽ đó mà các thầy thuốc chẳng bao giờ chữa bệnh cho chính mình được, tay họ run run khi phải tự phẫu thuật. Tuy nhiên, đó lại là khái niệm cơ bản của nghề. Các từ chỉ phẩm chất chỉ chuyên để dành cho người chết. Tớ bắt đầu lại… sinh năm 1975, Andrew Stilman từng cộng tác nhiều năm với The New York Times. Việc thăng quan tiến chức nhanh như diều gặp gió đưa tới chỗ đảm nhiệm vị trí tổng biên tập ngay hồi đầu những năm 2020. Chính nhờ đốc thúc mà tờ báo có bước phát triển nhảy vọt mới và trở lại vị trí trong những nhật báo uy tín nhất thế giới… Có thể tớ hơi quá chút, phải ?

      - Cậu bắt đầu lại từ đầu tiểu sử người chết của cậu đấy chứ!

      - Kiên nhẫn , để tớ đến cùng chứ, rồi tớ đọc cả tiểu sử người chết của cậu nữa, cậu thấy cực nhộn cho mà xem.

      Cậu tính chết lúc bao nhiêu tuổi để tớ còn biết cơn ác mộng này tiếp diễn bao lâu nữa?

      - Ai mà biết được với những tiến bộ y học... Tớ đến đâu rồi ấy nhỉ? À đúng rồi, chính nhờ đốc thúc, bla- bla-bla, mà tờ báo tìm lại được ánh hào quang. Năm 2021, Andrew Stilman nhận giải Pulitzer cho bài báo dự cảm về... ờ, giờ tớ chưa tìm ra cái gì, nhưng sau này tớ xác định chủ đề. Mặt khác, chủ đề này gợi cảm hứng cho cuốn sách đầu tay của , cuốn sách cũng được ngợi khen hết lời và ngày nay nó còn được đưa vào chương trình học trong tất cả các trường đại học danh tiếng.

      - Chuyên luận về đức khiêm tốn của nhà báo là nhan đề kiệt tác này, Simon nhạo bạn. Thế cậu nhận giải Nobel năm bao nhiêu tuổi?

      - Năm bảy mươi hai tuổi, tớ đạt được... Rời vị trí tổng giám đốc sau khi có được nghiệp rạng rỡ, về hưu ở tuổi bảy mươi mốt và ngay năm sau đó, được trao...

      - ... Lệnh bắt giam vì cố ý giết người, bởi làm người bạn thân thiết nhất của mình chết vì muộn phiền.

      - Cậu động lòng trắc gì hết.

      - Thế tớ phải động lòng trắc cái gì đây?

      - Tớ trải qua thời kỳ kinh khủng, Simon thân mến à; nỗi đơn đè nặng tâm trí tớ, chuyện này hề bình thường, bởi từ trước tới giờ tớ chỉ đánh giá cao cuộc sống độc thân.

      - Cậu gần bốn mươi rồi còn gì!

      - Cảm ơn cậu nhắc, tớ vẫn còn vài năm nữa mới tới ngưỡng đó. Bầu khí ở tòa báo rất độc hại, Andrew tiếp tục, bọn tớ sống dưới mối hiểm họa thường trực đầu. Tớ chỉ muốn tìm cho mình chút niềm an ủi trong lòng... Kathy Steinbeck của cậu là ai vậy?

      - giáo dạy triết của tớ.

      - ư? Tớ thể nghĩ rằng người con ghi dấu thuở niên thiếu của cậu... lại phải là .

      - Cuộc sống chẳng ra làm sao cả; lúc tớ đôi mươi, cánh phụ nữ hơn tớ mười lăm tuổi khiến tớ mơ mộng hão huyền, còn ở độ tuổi ba mươi bảy, chỉ có đám kém mười lăm tuổi mới khiến tớ quay đầu lại nhìn.

      - Cái chính là đầu óc cậu chẳng ra làm sao ấy, ông bạn thân mến à.

      - Cậu cho tớ nghe thêm chút về Valérie Ramsay của cậu được ?

      - Tuần trước tớ vừa gặp nàng khi rời khỏi bar Marriott.

      - Tớ biết.

      - , cậu chẳng biết gì sất. Tớ phát điên vì nàng khi còn học trung học Khi nàng chạy trốn khỏi ngôi làng của hai đứa như tên trộm, tớ phải mất hàng năm trời mới quên được nàng. Thẳng thắn mà , thậm chí tớ còn tự hỏi liệu mình thực quên nàng chưa.

      - Thế khi gặp lại nàng, thất vọng lớn lao chứ?

      - Hoàn toàn ngược lại, nàng thay đổi gì đó khiến giờ đây nàng càng khêu gợi hơn.

      - Nàng trở thành phụ nữ, ngày nào đó tớ giải thích cho cậu. Cậu với tớ rằng cậu lại vướng vào lưới tình phải ? Andrew Stilman, bị tiếng sét ái tình quật ngã phố 40, ôi cái nhan đề mới giật gân làm sao!

      - Tớ với cậu là tớ bối rối, và rằng chuyện này từ lâu hề xảy ra với tớ.

      - Cậu biết làm thế nào để gặp lại nàng chưa?

      - Tối mai tớ ăn tối cùng nàng và tớ cảm thấy lo sợ hệt như khi còn niên thiếu.

      - với cậu nhé, tớ tin là nỗi lo sợ đó bao giờ rời khỏi chúng ta đâu. Mười năm sau khi mẹ tớ mất, bố tớ gặp phụ nữ trong siêu thị. Khi đó ông sáu mươi tám tuổi và trước hôm ông hẹn ăn tối lần đầu với bà, tớ phải chở ông lên thành phố. Ông nhất định muốn mua bộ quần áo mới. Trong phòng thử đồ của tiệm may đo, ông nhắc nhắc lại cho tớ nghe những điều ông với bà bên bàn ăn và hỏi ý kiến tớ. thống thiết! Về mặt tinh thần, chúng ta luôn lực bất tòng tâm trước phụ nữ khiến ta bấn loạn, cho dù có ở độ tuổi nào cũng thế thôi.

      - Cảm ơn cậu, thế là tớ an tâm cho buổi hẹn ngày mai rồi.

      - Tớ với cậu điều đó để cảnh báo cậu trước rằng cậu hết điều hớ hênh này đến điều ngớ ngẩn khác, cậu có cảm tưởng rằng cuộc trò chuyện với nàng chẳng có chút thú vị nào, khả năng trường hợp này xảy ra, và khi trở về nhà, cậu cũng tự nguyền rủa bản thân mình vì thảm hại đến vậy trong suốt buổi tối đó.

      - Nhất là đừng có dừng lại, Simon, tốt khi có những người bạn thực .

      - Đợi , đừng có vội cãi. Tớ chỉ muốn giúp cậu nghĩ đến điều duy nhất. Tối mai, hãy vận hết khả năng để tận dụng thời khắc mà cậu ngờ đó. Hãy là chính mình, nếu nàng thích cậu kiểu gì cũng vẫn thích thôi.

      - Nữ giới chi phối chúng ta tới mức độ này sao?

      - Cậu chỉ việc nhìn quanh ta mà xem, ngay trong quán bar này thôi. Được rồi, tớ kể chuyện giáo dạy triết của tớ vào buổi khác. Chúng ta ăn trưa thứ Sáu nhé, tớ muốn nghe kể chi tiết về cuộc hội ngộ này. Ngẫm kỹ ra có thể cũng chi tiết bằng mục dành cho người chết của cậu đâu.

      Bầu khí mát mẻ buổi đêm ập xuống cả hai khi họ rời khỏi bar Fedora. Simon nhảy lên chiếc taxi để mặc Andrew bộ về nhà.

      Thứ Sáu, Andrew thổ lộ với Simon rằng buổi tối của diễn ra đúng như cậu bạn dự đoán, có lẽ còn tệ hơn nữa. kết luận rằng có khả năng mình lại phải lòng Valérie Ramsay, chuyện này chẳng tiện cho nàng chút nào, vì nàng hề nấn ná lâu ở chủ đề này và nhắc lại với rằng mình người đàn ông song hành trong cuộc đời. Nàng hề gọi lại cho vào ngày hôm sau, rồi cả tuần sau nữa. Và Andrew cảm thấy cơn ủ dột xâm chiếm mình. dành trọn ngày thứ Bảy để làm việc ở tòa soạn rồi Chủ nhật gặp Simon tại sân bóng rổ ở góc giao giữa đại lộ 6 và West Houston, nơi họ chuyền bóng cho nhau thay lời .

      Tối Chủ nhật của cũng u buồn hệt như mọi tối Chủ nhật khác. bữa đồ Tàu đặt qua điện thoại, bộ phim phát lại xen kẽ với trận đấu khúc côn cầu và bộ phim biết thứ bao nhiêu về các nhân viên pháp y làm sáng tỏ những vụ giết người nhớp nhúa. tối sầu thảm, cho đến khi, tầm 21 giờ, màn hình điện thoại di động sáng bừng lên. phải tin nhắn của Simon, mà là của Valérie, muốn gặp càng sớm càng tốt, cần chuyện với .

      Andrew trả lời ngay tức chút ý tứ rằng rất mừng và hỏi khi nào muốn gặp.

      “Ngay bây giờ”. Và tin nhắn tiếp theo chỉ cho địa điểm hẹn gặp, ở góc Phố 9 và Đại lộ A, đối diện quảng trường Tompkins, trong khu East Village.

      Andrew liếc mắt nhìn vào gương phòng khách. Phải mất bao lâu mới lấy lại dáng vẻ con người đây? Quần soóc và áo phông polo cũ vẫn chưa thay ra sau trận bóng rổ với Simon phải là trang phục hay ho gì cho cam và chầu tắm ra trò dưới vòi hoa sen phải là thứ xa xỉ lắm. Nhưng nhận thấy trong tin nhắn của Valérie điều gì đó cấp thiết khiến lo lắng. xỏ vội quần jean, áo sơ mi sạch và vớ chùm chìa khóa trong chiếc cốc đặt ở lối vào rồi vội vàng chạy xuống ba tầng gác.

      Khu phố vắng tanh vắng ngắt, bóng người lẫn bất cứ chiếc taxi nào. bắt đầu chạy về Đại lộ 7, rồi nhận ra có chiếc dừng ở chỗ đèn giao thông tại góc phố Charles và bắt kịp chiếc xe ngay trước khi nó rời . hứa boa hậu hĩnh cho tài xế nếu đưa tới điểm đến trong vòng chưa đầy mười phút.

      Ngồi rung lắc nơi ghế sau, Andrew thấy hối tiếc về lời vừa hứa, tuy vậy cũng đến được đích sớm hơn dự định và chàng tài xế nhận được khoản tương đối.

      Valérie đợi trước cánh cửa đóng kín của quán cà phê có tên Pick Me Up, cái tên khiến phì cười trong giây lát. Chỉ trong giây lát ngắn ngủi thôi, bởi Valérie mang vẻ mặt rất mệt mỏi.

      lại gần, và Valérie cho cái tát ra trò.

      - Em bắt chạy xuyên thành phố chỉ để tát thôi ư? vừa vừa xoa má. làm gì mà được hưởng quan tâm đến vậy?

      - Cuộc sống của em gần như hoàn hảo trước khi em gặp ở lối ra của cái quán bar chết tiệt đó, và giờ em hoàn toàn biết mình ở đâu nữa.

      Andrew cảm thấy luồng hơi ấm xâm chiếm lòng mình, tự nhủ rằng mình vừa mới được nhận cái tát tuyệt nhất trần đời.

      - trả lại em cái tát tương tự, người đàn ông chân chính bao giờ làm chuyện đó, nhưng có thể điều tương tự, thầm, mắt vẫn rời , vừa trải qua hai tuần thẳng ra là vô cùng u ám.

      - mười lăm ngày nay em ngừng nghĩ đến Andrew Stilman à.

      - Khi em bỏ Poughkeepsie mà , Valérie Ramsay, lúc nào cũng nghĩ đến em, cả ngày lẫn đêm, và cứ như thế suốt ba năm... thực tế là bốn, thậm chí có thể hơn nữa.

      - Đó là ngày xưa rồi, em về thời chúng ta còn niên thiếu, mà là thời tại này đây.

      - Giờ vẫn vậy thôi, Valérie. gì thay đổi cả, cả em lẫn tác động của việc gặp lại em cũng thay đổi gì hết.

      - vậy, nhưng biết đâu chỉ muốn trả thù cho việc em bắt chịu đựng sao.

      - hiểu em lấy đâu ra mấy cái ý nghĩ gàn dở đến thế, hẳn là em được hạnh phúc cho lắm trong cuộc đời gần như hoàn hảo của em nên mới nghĩ như vậy.

      Và trước khi Andrew kịp hiểu chuyện gì xảy đến với mình, Valérie choàng tay ôm lấy cổ rồi hôn . Ban đầu là nụ hôn dè dặt đặt lên đôi môi , rồi sau đó Valérie trở nên phiêu lưu hơn. ngừng ôm rồi nhìn , mắt ươn ướt.

      - Em là đồ hư hỏng, .

      - Valérie, ngay cả khi cực kỳ thiện chí, vẫn chẳng hiểu em cái gì cả.

      lại gần rồi hôn mãnh liệt hơn nữa, và lại đẩy ra lần nữa.

      - Hỏng rồi.

      - Khỉ , em đừng có mà thế nữa!

      - Thứ duy nhất còn có thể cứu giúp em là nụ hôn này ...

      - gì? Andrew hỏi, tim đập rộn hệt như mỗi lần gặp sau buổi học khi xưa.

      - Andrew Stilman, em muốn kinh khủng.

      - Xin lỗi nhé, phải ngay tối đầu tiên, vấn đề nguyên tắc thôi, vừa đáp vừa mỉm cười.

      - Valérie đập phát vào vai trong khi Andrew tiếp tục cười khoan khoái, nắm chặt tay trong tay mình.

      - Chúng ta làm gì đây Ben?

      - đoạn đường cùng nhau, Valérie, đoạn đường cùng nhau và còn hơn thế nữa... nếu em bao giờ gọi là Ben nữa.



      #000080']Chương 4



      Để theo còn đường ấy, Valérie giờ chỉ còn phải chia tay bạn trai, hai năm chung sống cùng nhau thể giải quyết bằng cuộc chuyện trong tối. Andrew chờ đến, biết rất rằng nếu nóng vội, chịu ở lại.

      Hai mươi ngày sau, ngay giữa đêm hôm khuya khoắt nhận được tin nhắn gần giống với tin nhắn làm đảo lộn cuộc sống của vào Chủ nhật nọ. Khi chiếc taxi chở đến trước Pick Me Up, Valérie đợi ở đó, hai vệt đen ở mỗi bên mặt cùng chiếc va li nằm dưới chân.

      Về đến nhà , Andrew đặt va li của vào phòng mình rồi để Valérie tự sắp xếp đồ đạc. Khi quay trở lại, chui vào nằm dưới chăn mà hề bật đèn. lại ngồi gần , ôm hôn rồi lại trở ra bởi đoán rằng cần được ở mình để đưa tang mối quan hệ mà vừa cắt đứt. chúc ngủ ngon rồi hỏi xem có phải vẫn mê món sô la nóng . Valérie gật đầu ra hiệu đồng ý; Andrew rút lui.

      Đêm đó, từ tràng kỷ phòng khách nơi tài nào chợp mắt được, nghe thấy thổn thức khóc mà lòng dấy lên mong muốn cháy bỏng là đến an ủi , nhưng rồi kìm lại; chữa lành nỗi buồn đau dạng này chỉ phụ thuộc vào mình mà thôi.

      Sáng ra Valérie thấy chiếc bàn thấp trong phòng khách khay đồ ăn sáng với bát đựng bột sô la kèm lời nhắn ngắn gọn.

      “Tối nay đưa em ăn.

      Đó là lần đầu tiên của chúng ta.

      để chùm chìa khóa cho em ở lối vào.

      Hôn em,

      Andrew.”

      Valérie bảo với Andrew rằng mình chỉ lưu lại đây trong khi chờ bạn trai cũ thu dọn đồ đạc khỏi căn hộ của mình. Nếu bạn Colette lại sống ở New Orleans, dọn đến ở nhờ nhà bạn. Mười ngày sau, trước niềm tiếc nuối sâu sắc của Andrew vốn ngày càng thích thú với diện của , Valérie lại thu dọn va li quay về East Village. Trước vẻ mặt buồn thiu của Andrew, nhắc lại với rằng chỉ có nhiều nhất là tầm mười lăm khối nhà ngăn cách hai người mà thôi.

      Mùa hè đến. Cứ mỗi cuối tuần khi cái nóng New York trở nên thể chịu đựng nổi, họ lại bắt tàu điện ngầm đến đảo Coney rồi dành hàng giờ liền bên bãi biển.

      Đến tháng Chín, Andrew tới Mỹ mười ngày liền mà cho Valérie biết bất cứ thông tin gì về chuyến của mình. viện dẫn bí mật nghề nghiệp và thề rằng chẳng có bất cứ lý do gì mà nghi ngờ cả.

      Tháng Mười, khi lại vắng lần nữa, và để được tha thứ, hứa đưa nghỉ ngay khi có thể. Nhưng Valérie thích cả lô những lời an ủi suông và trả lời cứ việc biến luôn với kỳ nghỉ của .

      Cuối thu, Andrew được đền bù từ công việc vốn tước đoạt của quá nhiều. Hàng tuần trời tìm hiểu, hai chuyến đến Trung Quốc nhằm thu thập bằng chứng, nhằm đối chiếu nhiều nguồn tin khác nhau để kiểm chứng độ xác thực, cho phép làm sáng tỏ những chi tiết của vụ buôn bán trẻ em tại tỉnh Hồ Nam và kết thúc trong những cuộc điều tra chứng thực chuyện mua bán trẻ em là có và mức độ khủng khiếp của nó. Bài báo của được in trong ấn bản Chủ nhật, được tìm đọc nhiều nhất trong tuần, gây tiếng vang lớn.





      Sáu mươi lăm nghìn trẻ em Trung Quốc được các gia đình người Mỹ nhận làm con nuôi trong vòng mười năm qua. Vụ bê bối này liên quan đến hàng trăm trẻ, chúng hề bị bỏ rơi trong khi các loại giấy tờ chính thức lại chứng nhận điều đó, thực ra chúng bị cưỡng đoạt khỏi tay bố mẹ hợp pháp của mình để đưa vào trại mồ côi và trại này thu mỗi trường hợp nhận con nuôi khoản bồi thường là năm nghìn đô la. Khoản lợi tài chính này làm giàu cho đám mafia gồm cảnh sát và cán bộ viên chức tha hóa dính líu vào vụ buôn bán nhơ nhớp. Chính quyền Trung Quốc nhanh chóng ngăn chặn vụ bê bối nhưng nỗi đau cũng in dấu. Bài báo của Andrew khiến nhiều bậc cha mẹ Mỹ đắm chìm trong câu hỏi đạo đức về những hậu quả của tấn thảm kịch đó.

      Tên của Andrew được lưu truyền khắp ban biên tập rồi được nhắc đến các chương trình truyền hình buổi tối vốn thường xuyên chọn cách phát triển nhiều chủ đề vay mượn từ các mục tin bài The New York Times.

      Andrew được các bạn đồng nghiệp chúc mừng. còn nhận được mail từ tổng biên tập cùng rất nhiều thư của độc giả sửng sốt trước cuộc điều tra của . Nhưng cũng nhận được ghen tị của vài bạn đồng nghiệp, và ba lá thư nặc danh đe dọa giết được gửi đến tòa báo, chuyện ấy đôi khi vẫn xảy ra.

      trải qua kỳ nghỉ cuối năm trong đơn. Valérie rời New York để đến New Orleans với Colette.

      Ngay ngày hôm sau , Andrew bị tấn công tại bãi đỗ xe, vụ tấn công bằng gậy bóng chày hẳn gây ra thảm kịch nếu có người thợ máy mà hẹn xuất .

      Simon đón giao thừa với nhóm bạn trượt tuyết ở Beaver Creek trong vùng Colorado.

      Andrew hề quan tâm chút nào đến ngày Giáng sinh cũng như năm mới; ghét những buổi tối lễ lạt được lập trình sẵn nơi ta phải vui vẻ bằng bất cứ giá nào. Hai tối đó đều đến ngồi ở quầy bar Mary’s Fish, trước đĩa sò và vài cốc vang trắng suông.

      Năm 2012 khởi đầu với nhiều may mắn. Ngoại trừ vụ tai nạn vào những ngày đầu tháng Giêng. Andrew bị chiếc xe ô tô lao ra từ trụ sở cảnh sát phố Charles đâm phải. Tài xế, cảnh sát về hưu, vừa thực chuyến thăm viếng nơi làm việc ngày xưa của mình nhân đợt lưu lại New York, vừa ngượng vì đâm phải vừa thở phào nhõm khi thấy đứng dậy được mà bị xây xước gì. Ông ta tha thiết muốn mời ăn tối tại quán nào đó tùy chọn. Andrew vốn cũng chẳng có việc gì làm tối đó, đĩa bít tết ngon tốt hơn cái biên bản bảo hiểm nhiều và nhà báo bao giờ từ chối bữa ăn với cựu cảnh Sát New York vốn muốn chuyện. Viên thanh tra kể cho nghe cuộc đời mình và những trường đoạn đáng nhớ trong nghiệp của mình.

      Valérie vẫn giữ căn hộ của mình vốn được Andrew gọi là “dù nhảy”, nhưng kể từ tháng Hai, ngủ tại nhà mỗi tối và họ bắt đầu nghiêm túc nghĩ đến việc tìm nơi lớn hơn để chuyển đến sống cùng nhau. Chỉ có trở ngại duy nhất là Andrew muốn rời West Village, nơi từng thề sống đến hết đời. Trong khu phố chủ yếu toàn những ngôi nhà , căn ba phòng quả tình rất hiếm. Valérie có bàn bạc mãi cũng vô ích và biết rằng mình bao giờ buộc được rời khỏi những con phố lạ thường mà vốn biết từng chuyện. sẵn lòng kể chúng cho nghe mỗi khi cả hai cùng dạo bộ, họ vừa qua ngã tư nào đó đại lộ Greenwich nơi ngày xưa từng có nhà hàng gợi cảm hứng cho Hopper vẽ bức tranh nổi tiếng Nighthawks, men theo những khuôn cửa sổ của ngôi nhà mà John Lennon từng sống trước khi chuyển đến Dakota Building. Khu West Village từng là nơi xuất mọi cuộc cách mạng văn hóa, nơi có những quán cà phê, quán rượu và hộp đêm nổi tiếng nhất cả nước và khi Valérie giải thích với rằng những nghệ sĩ thời nay phần lớn đều sống ở Williamsburg, Andrew nhìn với vẻ vô cùng nghiêm túc rồi thốt lên:

      - Dylan, Hendrix, Streisand, Peter, Paul & Mary, Simon & Garfunkel, Joan Baez, tất thảy đều khởi nghiệp từ khu Village này, trong những quán bar tại khu phố của , đó phải là lý do đủ để muốn sống ở đây ư?

      Và Valérie vốn chẳng muốn phật lòng vì bất cứ thứ gì đời liền đáp:

      - Dĩ nhiên là có chứ!

      Khi ca ngợi tiện nghi của những tòa tháp được dựng lên chỉ cách đó vài dãy nhà, Andrew vặc lại rằng bao giờ muốn đến sống tại phòng tít cao bằng thép. muốn lắng nghe phố xá, tiếng còi xe, tiếng còi của đám taxi tại ngã tư, tiếng rắc rắc của ván sàn gỗ cũ kỹ, tiếng lạch xạch trong hệ thống ống khi nồi hơi của căn hộ bắt đầu kêu ro ro, tiếng cửa ra vào kẽo kẹt, những thanh đó khiến nhớ rằng mình sống và có đồng loại bao quanh.

      chiều, rời tòa soạn về nhà, lấy hết đồ trong tủ tường ra rồi chuyển phần lớn đồ đạc của mình đến kho chứa đồ trong khu phố. Mở tủ treo áo ra, thông báo với Valérie rằng cần thiết phải chuyển nhà và từ giờ có chỗ cần thiết để dọn đến sống thực .

      Vào tháng Ba, Andrew được tổng biên tập giao cho vụ điều tra mới cùng dòng với điều tra trước. hồ sơ quan trọng mà bắt tay vào ngay chút chần chừ, và vui mừng khi thấy nhiệm vụ này đưa tới Argentina.

      Trong những ngày đầu tháng Năm, trở về từ Buenos Aires và biết rằng mình phải trở lại đó ít lâu sau, Andrew tìm thấy cách nào khác để xin Valérie tha thứ ngoài việc thổ lộ với , trong bữa ăn tối, rằng muốn cưới .

      nhìn chằm chằm, thận trọng, trước khi phá lên cười. Tiếng cười của Valérie khiến xáo động. Andrew nhìn , bối rối nhận ra rằng lời cầu hôn mà vừa thổ lộ chút đắn đo khiến chính cảm thấy rất hạnh phúc.

      - nghiêm túc phải ? Valérie vừa hỏi vừa lau khóe mắt.

      - Sao lại nghiêm túc cơ chứ?

      - Rốt cuộc Andrew à, chúng ta mới bên nhau vài tháng nay. Đó có thể là quãng thời gian hơi ngắn để ra quyết định như vậy.

      - Chúng ta bên nhau từ năm nay rồi, và chúng ta biết nhau từ thuở thiếu thời, em nghĩ rằng mình có đủ thời gian rồi à?

      - Với giai đoạn ngắt quãng chừng hai chục năm..

      - Với , việc chúng ta gặp nhau từ thời niên thiếu, rồi bặt vô tín, sau đó lại tình cờ gặp lại nhau vỉa hè New York, đó là dấu hiệu rồi.

      - , nhà báo vô cùng lý tính và tư duy logic, giờ lại tin vào dấu hiệu cơ à?

      - Khi đối diện với em, đúng thế đó!

      Valérie im lặng nhìn thẳng vào mắt Andrew, rồi mỉm cười với .

      - lặp lại lời cầu hôn đó .

      Giờ lại đến lượt Andrew quan sát Valérie. còn là trẻ nổi loạn mà từng quen hai mươi năm trước. nàng Valérie ăn tối trước mặt thay chiếc quần jeans vá chằng vá đụp bằng chiếc jupe rất hợp, thay đôi giày bát két có phần mũi tô màu sặc sỡ bằng lọ sơn móng bằng đôi giày cao gót sáng bóng, chiếc áo vest bằng vải gai thô thường mặc che kín đường cong cơ thể nhường chỗ cho chiếc áo pull cổ chữ V bằng cachemire làm nổi bật đôi gò bồng đảo hoàn mỹ. Cặp mắt còn được trang điểm quá mức mà chỉ phủ lớp mỏng phấn mắt và chuốt chút mascara. Valérie Ramsay còn xa mới là người phụ nữ đẹp nhất mà từng gặp nhưng chưa bao giờ cảm thấy gắn bó với ai đó đến vậy.

      Andrew cảm thấy lòng bàn tay mình xâm xấp mồ hôi, điều chưa từng xảy đến với bao giờ. đẩy ghế ra rồi vòng quanh bàn và quỳ gối xuống đất.

      - Valérie Ramsay, mang theo nhẫn để đeo cho em, bởi ý định của là bột phát nhưng chân thành, nhưng nếu em muốn làm vợ , chúng ta cùng nhau chọn nhẫn vào cuối tuần này, và định làm sao cho xứng là người đàn ông tốt nhất để em đeo chiếc nhẫn đó suốt cả cuộc đời mình. Hay có thể là cả cuộc đời , nếu em quyết định tái hôn sau khi chết.

      - thể ngăn mình khiến người ta cười chảy cả nước mắt, ngay cả khi cầu hôn em à!

      - đảm bảo với em trong tư thế này, với tất thảy những ai nhìn mình, hề tìm cách làm trò hề đâu.

      - Andrew, Valérie nghiêng người ghé vào tai thầm, em muốn đồng ý lời cầu hôn của , bởi vì em muốn điều đó và cũng để tránh cho trở thành kẻ ngốc trước bàn dân thiên hạ, nhưng khi ngồi lại vào chỗ của mình, em cho đòi hỏi duy nhất mà em đặt ra cho cuộc hôn nhân của chúng ta. Thế nên lời “đồng ý” mà em to này vẫn còn ở thức điều kiện trong vài phút tới đây, chúng ta thống nhất chứ?

      - Thống nhất, đến lượt mình Andrew cũng thầm lại.

      Valérie đặt nụ hôn lên môi rồi đồng ý rất ràng.

      Trong nhà hàng, các thực khách nín thở chờ đợi liền vội vỗ tay nhiệt liệt.

      Ông chủ quán ăn bình dân kiểu Ý bỏ luôn quầy tính tiền để chạy lại chúc mừng vị khách quen. Ông ôm Andrew trong vòng tay, siết chặt rồi thầm vào tai với điệu pha lẫn Ý-New-York câu từ bộ phim của Scorsese[1]:

      [1] Martin Scorsese (sinh năm 1942), là người Mỹ gốc Ý, ông được biết tới nhiều nhất qua vai trò đạo diễn các bộ phim hình -tội ác như Taxi driver (1976), Goodfellas (1990) hay Điệp vụ Boston (The Departed, 2006.)

      - Ta hy vọng biết điều mình sắp làm!

      Rồi ông nghiêng về phía Valérie và hôn lên tay .

      - Giờ tôi có thể gọi là Bà được rồi! Tôi cho mang sâm banh tới để ăn mừng kiện này, nhà hàng thết đãi. Đúng vậy, đúng vậy, tôi tha thiết được mời mà!

      Rồi Maurizio quay lại sau quầy tính tiền đồng thời ra hiệu cho tay bồi bàn duy nhất thực thi ngay lập tức.

      - nghe em đây, Andrew thào khi nút chai sâm banh bật ra.

      Người phục vụ rót đầy ly của họ và Maurizio quay trở lại với chiếc cốc tay, ràng là nhất đinh muốn cụng ly với cặp dâu chú rể trong tương lai này.

      - Cho chúng tôi chỉ giây thôi Maurizio, Andrew vừa vừa giữ tay ông chủ quán.

      - muốn em thông báo điều kiện của mình trước mặt ông đây ư? Valérie ngạc nhiên hỏi.

      - Đó là người bạn lâu năm, có gì là bí mật với những người bạn lâu năm của mình, Andrew trả lời với giọng mỉa mai.

      - Tốt thôi! Thế thế này, thưa ông Stilman, tôi kết hôn với ông với điều kiện ông phải thề danh dự của mình rằng bao giờ dối tôi, lừa dối tôi hay chủ tâm làm tôi đau khổ. Nếu ngày nào đó ông tôi nữa, tôi phải là người đầu tiên biết chuyện đó. Tôi có quá đủ những câu chuyện kết thúc trong đêm buồn rồi. Nếu ông hứa với tôi như vậy, tôi rất muốn làm vợ ông.

      - thề với em, Valérie Ramsay-Stilman.

      - mạng sống của ư?

      - mạng sống của !

      - Nếu phản bội em, em giết !

      Maurizio nhìn Andrew rồi làm dấu thánh giá.

      - Giờ chúng ta cụng ly được rồi chứ? ông chủ quán lên tiếng hỏi, tôi vẫn còn khách phải phục vụ nữa.

      Sau khi tặng cho họ hai phần bánh tiramisu tráng miệng của nhà hàng, Maurizio từ chối đưa họ hóa đơn tính tiền.

      Andrew và Valérie cùng trở về nhà những con phố của West Village.

      - Chúng ta thực cưới nhau chứ? vừa Valérie vừa siết chặt tay Andrew.

      - Đúng vậy, thực đó. Và phải thú với em, chưa từng nghĩ rằng cầu hôn lại khiến hạnh phúc đến vậy.

      - Em cũng thế, Valérie đáp. Điên . Em phải gọi điện cho Colette để thông báo cho ấy. Chúng em học cùng nhau, cùng sẻ chia đắng cay ngọt bùi, nhất là những đắng cay, ấy là người làm chứng của em trong đám cưới. Thế còn , chọn ai?

      - nghĩ là Simon.

      - muốn gọi cho ấy à?

      - Có chứ, ngay ngày mai gọi.

      - Tối nay , gọi điện cho ấy tối nay trong khi em gọi cho Colette!

      Andrew chẳng hề muốn làm phiền Simon vào cái giờ muộn màng như thế này để thông báo cho bạn cái tin mà bạn kiểu gì cũng hay biết vào ngày mai, nhưng nhận thấy trong mắt Valérie lời thỉnh cầu của con trẻ, và ánh mắt đột nhiên xen lẫn giữa niềm vui và nỗi sợ ấy khiến xúc động.

      - Mình gọi lần lượt từng người hay mình đánh thức cả hai người bạn thân cùng lúc?

      - có lý đấy, giờ mình phải bắt đầu quen với việc làm mọi thứ cùng nhau , Valérie đáp.

      Colette hứa với Valérie đến thăm ở New York càng sớm càng tốt. cũng chúc mừng Andrew và với rằng còn chưa biết hết niềm may mắn mà cuộc đời trao cho đâu. Bạn thân của phụ nữ vô cùng đặc biệt.

      Về phần mình, Simon ban đầu còn nghĩ đây là trò đùa. đòi được chuyện với Valérie và Andrew nuốt cơn tức tối trong lòng khi Simon chúc mừng Valérie đầu tiên. thế cậu ta còn mời cả hai ăn trưa vào ngày mai mà thèm hỏi ý kiến .

      - Đó chính là lý do những muốn tự mình thông báo cho cậu ấy hơn, Andrew với Valérie để lý giải cho vẻ cáu bẳn của mình.

      - Đó chính là điều vừa làm đấy thôi.

      - , cậu ta đâu có tin , chính em điều đó cho cậu ta cơ mà. Thế mà cậu ta vẫn cứ là bạn thân nhất của đấy, mẹ kiếp!

      - Nhưng chúng mình vừa thống nhất với nhau rằng em có liên can gì mà, vừa Valérie vừa ghé mặt lại gần Andrew.

      - , em đâu có liên can gì, và đây này, em cắn môi đấy.

      - Em biết.

      Họ làm tình suốt đêm, và giữa hai pha âu yếm nhau, họ bật vô tuyến được đặt tủ côm mốt ở đầu giường để xem những bộ phim đen trắng ngày xưa. Vào lúc sáng tinh mơ, họ xuyên qua thành phố rồi đến ngồi chiếc ghế băng đối diện với East River để ngắm cảnh ngày mới rạng.

      - Em đừng bao giờ quên đêm qua nhé, Andrew thầm với Valérie.


    3. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      Chương 5





      Mười ngày đầu tháng Sáu, Andrew ở tại Buenos Aires. Trở về sau chuyến công tác thứ hai tới Argentina, thấy Valérie rạng rỡ hơn bao giờ hết. bữa tối lịch thiệp, gồm cặp đôi sắp cưới cùng nhân chứng riêng của mỗi người, tạo nên trong những buổi tối dễ chịu nhất mà từng biết. Colette thấy rất quyến rũ.

      Trong khi chờ đợi đám cưới dự kiến vào cuối tháng. Andrew dành trọn thời gian ban ngày cùng nhiều buổi tối để tỉ mỉ chau chuốt bài báo của mình, đôi khi mơ mộng mình đoạt giải Pulitzer.

      Chiếc điều hòa trong căn hộ chết ngóm và cặp đôi chuyển đến căn hộ hai buồng của Valérie tại khu East Village. thường phải ở lại tòa soạn đến tận nửa đêm bởi tiếng gõ bàn phím lạch cạch khiến Valérie tài nào ngủ nổi khi làm việc tại nhà .

      Bầu khí trong thành phố nóng thể chịu nổi, những cơn giông được truyền hình cho là kinh khủng như sắp tận thế giáng xuống Manhattan gần như hằng ngày. Khi nghe thấy từ “tận thế”, Andrew tài nào hình dung ra được cuộc sống của riêng mình sớm bị đảo lộn đến mức nào.

      trang trọng hứa với Valérie: có chuyện lẩn trốn trong những câu lạc bộ thoát y, có chuyện tìm vui trong những hộp đêm đầy nhóc lũ con đơn, chỉ có đơn giản là buổi tối để bạn bè chém gió với nhau.

      Để chia tay đời trai, Simon mời Andrew đến trong những nhà hàng mở theo mùa vụ mới khai trương. Ở New York, các nhà hàng theo mùa vụ được mở và đóng cửa cùng dịp với các mùa trong năm.

      - Cậu tin chắc về điều mình làm chứ, Simon vừa đọc thực đơn vừa hỏi.

      - Tớ chỉ còn do dự giữa món bít tết dày với diềm thăn thái mỏng nữa thôi, Andrew trả lời bằng giọng tỉnh bơ.

      - Tớ về đời cậu ấy.

      - Tớ quá hiểu mà.

      - Thế sao?

      - Thế cậu muốn tớ gì với cậu đây, Simon?

      - Mỗi lần tớ đề cập đến chuyện đám cưới của cậu là y như rằng cậu lảng tránh ngay. Dù sao tớ cũng là bạn thân của cậu cơ mà! Tớ chỉ muốn cùng chia sẻ những gì cậu gặp phải mà thôi.

      - dối, cậu quan sát tớ như thể tớ là chuột thí nghiệm ấy. Cậu muốn biết điều tớ giấu kỹ trong lòng phòng loại trường hợp này xảy đến với cậu ngày nào đó.

      - hề có cơ may đó đâu!

      - Tớ có thể như cậu cách đây vài tháng.

      - Vậy điều gì thực xảy ra khiến cậu dấn bước vậy? Simon nghiêng người về phía Andrew hỏi. Đồng ý rằng cậu là con chuột thí nghiệm của tớ, nhưng giờ hãy cho tớ biết cậu cảm thấy mình có thay đổi gì từ khi quyết định như vậy.

      - Tớ ba mươi tám rồi, cả cậu cũng vậy, và tớ chỉ thấy có hai con đường mở ra trước mắt chúng ta: tiếp tục đùa nghịch với những tạo tác ràng đẹp như mơ ngày xuất nhiều tại những nơi thời thượng…

      - Cái đó để vui thú là chính! Simon thốt lên.

      - Hay trở thành trong những lão già lụ khụ bảnh bao độc thân chuyên tán tỉnh mấy em kém những ba chục tuổi mà vẫn nghĩ rằng mình bắt kịp tuổi thanh xuân vốn chạy nhanh hơn bản thân họ.

      - Tớ đòi cậu dạy khôn về cuộc sống mà là với tớ liệu cậu có Valérie đến mức muốn dành cả cuộc đời bên ấy .

      - Còn tớ, nếu nhờ cậu làm người làm chứng tớ có thể đáp rằng chuyện đó chẳng hề liên quan đến cậu.

      - Nhưng tớ là người làm chứng của cậu!

      - Cả đời mình, tớ chẳng biết gì về chuyện đó, vả lại điều này chẳng phụ thuộc riêng mình tớ. Dù sao nữa tớ cũng thể tưởng tưởng nổi cuộc sống nếu vắng ấy. Tớ ngập tràn hạnh phúc, Valérie khiến tớ nhớ da diết khi ấy ở đó, tớ chẳng bao giờ muộn phiền khi ở bên ấy, tớ nụ cười của ấy mà ấy rất hay cười. Tớ tin rằng đó là điều tớ thấy quyến rũ nhất ở người phụ nữ. Còn về cuộc sống tình dục của chúng tớ…

      - Thôi được rồi, Simon ngắt lời, cậu thuyết phục được tớ, phần còn lại hoàn toàn chẳng hề liên quan gì đến tớ.

      - Cậu là nhân chứng, đúng hay nào?

      - Tớ chẳng cần làm chứng những cái chuyện xảy ra trong bóng tối đâu.

      - Ra thế, nhưng chúng tớ chẳng hề tắt đèn mà…

      - Đủ rồi đó, Andrew, ngừng ! Chúng ta chuyển chủ đề khác được ?

      - Tớ chọn món diềm thăn…, Andrew . Cậu có biết điều gì khiến tớ hài lòng ?

      - Rằng tớ viết cho cậu bài diễn văn hay ho tại lễ cưới.

      - , tớ thể cầu cậu điều bất khả, nhưng tớ rất thích chúng ta kết thúc buổi tối nay tại quán bar mới thích của tớ.

      - Quán bar kiểu Cuba ở Tribeca á!

      - Argentina chứ.

      - Tớ dự kiến điều gì đó khác cơ, nhưng đây là buổi tối của cậu, cậu ra lệnh còn tớ thực thi.

      *



      Quán bar Novecento chật như nêm. Simon và Andrew mãi mới mở được lối dẫn đến quầy bar.

      Andrew gọi ly Fernet pha với Coca. cho Simon nếm thử nhưng bạn nhăn mặt rồi gọi ly vang đỏ.

      - Làm sao cậu uống được cái thể loại này nhỉ? Sao nó đắng thế!

      - Tớ hóng hớt ở số quán bar tại Buenos Aires thời gian qua. Tin tớ , cứ làm quen rồi ta thậm chí còn bén mùi nữa cơ.

      - Tớ chẳng thấy mùi mẽ gì sất.

      Simon phát ra nàng có cặp chân dài miên man ở trong phòng, bạn bỏ Andrew lại ngay tắp lự mà chẳng hề cáo lỗi nửa lời. mình ngồi ở quầy bar, Andrew mỉm cười nhìn bạn xa dần. Trong hai đường đời nhắc tới ban nãy, còn nghi ngờ gì về con đường mà Simon chọn.

      phụ nữ ngồi xuống chiếc ghế mà Simon vừa bỏ trống rồi mỉm cười với trong lúc gọi ly Fernet-Coca thứ hai.

      Họ trao đổi vài câu xã giao. Người phụ nữ thú nhận với rằng rất ngạc nhiên khi thấy chàng người Mỹ đánh giá cao món đồ uống này, chuyện khá là hiếm. Andrew đáp lại rằng mình là gã khá là hiếm trong nhân loại. nàng mỉm cười thêm chút nữa rồi hỏi điều gì có thể phân biệt với những người đàn ông khác. Andrew bối rối trước câu hỏi, và còn càng bối rối hơn nữa khi nhìn thấy ánh mắt sâu thẳm của người đối thoại với mình.





      - làm nghề gì?

      - Nhà báo, Andrew ấp úng.

      - Đó là nghề thú vị.

      - Nó còn phụ thuộc vào các ngày khác nhau, Andrew đáp.

      - Mảng tài chính à?

      - Ồ , điều gì khiến nghĩ vậy?

      - Chúng ta xa phố Wall lắm.

      - Thế nếu tôi uống ly ở Meatpaccking District nghĩ tôi là hàng thịt chắc?

      Người phụ nữ phá lên cười sảng khoái và Andrew thấy thích tiếng cười đó.

      - Mảng chính trị ư? tiếp tục.

      - Cũng phải.

      - Được rồi, tôi rất thích chơi trò đoán biết, . có làn da rám nắng, tôi suy ra rằng vừa du lịch về.

      - Giờ là giữa hè mà, cũng thế, cũng có nước da rám nắng... nhưng, thực ra là công việc buộc tôi phải .

      - Tôi có làn da bánh mật, đó là vấn đề nguồn gốc thôi. là phóng viên nổi tiếng chứ!

      - Đúng thế, có thể như vậy.

      - Thế vào lúc này điều tra về cái gì?

      - Toàn những vụ mà tôi thể với trong quán bar.

      - Thế ở nơi khác quán bar sao? thầm.

      - Chỉ duy nhất tại phòng biên tập thôi, Andrew vừa đáp vừa đột nhiên nhận thấy luồng hơi nóng xâm chiếm cơ thể. vội lấy khăn giấy ở quầy lau gáy.

      rất nóng lòng muốn đến lượt mình đặt câu hỏi cho , nhưng chỉ duy nhất việc thuận theo cuộc trò chuyện của khởi đầu trò chơi hề vô hại như trò giải đố.

      - Thế còn ? vừa ấp úng vừa tuyệt vọng đưa mắt tìm kiếm Simon.

      trẻ xem đồng hồ rồi đứng dậy.

      - Tôi rất lấy làm tiếc, , tôi quên mất xem giờ, tôi phải đây. Tôi rất hân hạnh được quen , tên là gì nhỉ?

      - Andrew Stilman, trả lời rồi cũng đứng dậy.

      - Hẹn gặp vào dịp khác nếu có thể...

      cáo từ . rời mắt khỏi . Thậm chí còn hy vọng ngoảnh lại khi bước qua ngưỡng cửa quán bar, nhưng bao giờ biết được có chuyện đó hay . Bàn tay Simon đặt lên vai khiến giật bắn mình.

      - Cậu nhìn cái quái gì mà đắm đuối thế?

      - Chúng mình về , cậu đồng ý chứ? Andrew thẽ thọt hỏi.

      - về rồi ư?

      - Tớ cần hít thở khí bên ngoài.

      - Cậu bị sao thế, cậu tái mét rồi kìa, có phải do cái thứ cậu uống hợp ?

      Simon lo lắng trong lúc rời khỏi quán bar.

      - Tớ chỉ muốn về nhà thôi.

      - Trước tiên hãy cho tớ chuyện gì xảy đến với cậu . Cậu giận dỗi à? Tớ rất muốn chúng ta tôn trọng bí mật nghề nghiệp của cậu, nhưng nhìn xem, cậu làm việc quá sức tưởng tượng của tớ đó !

      - Cậu hiểu đâu.

      - Có cái gì mà tớ hiểu về cậu trong mười năm qua cơ chứ?

      Andrew đáp lại và bắt đầu ngược lên phố West Broadway. Simon theo sau bén gót.

      - Tớ nghĩ là mình vừa trúng tiếng sét ái tình, Andrew thầm.

      Simon phá lên cười, Andrew rảo bước nhanh hơn.

      - Cậu nghiêm túc đấy chứ? Simon hỏi trong lúc cố bắt kịp bạn.

      - Cực kỳ nghiêm túc đấy.

      - Cậu trúng tiếng sét ái tình nàng xa lạ trong khi tớ vệ sinh ư?

      - Cậu hề vệ sinh nhé.

      - Vậy cậu chết đứ đừ em chỉ trong có năm phút thôi hả?

      - Cậu để tớ bơ vơ mình ở quầy bar hơn mười lăm phút đó chứ?

      - ràng là cậu đâu có bơ vơ. Cậu có thể giải thích cho tớ được ?

      - Chẳng có gì phải giải thích cả, tớ thậm chí còn hề biết tên ấy…

      - Thế rồi sao?

      - Tớ nghĩ mình vừa gặp người phụ nữ của đời mình. Tớ chưa từng có cảm giác như vậy bao giờ, Simon à.

      Simon tóm lấy tay áo Andrew rồi buộc dừng lại.

      - Cậu chẳng gặp chuyện gì sất. Cậu uống hơi quá rồi đó, ngày cưới của cậu cận kề, và toàn bộ chuyện này tạo thành mớ hổ lốn khá đáng ngờ.

      - Tớ rất chân thành đó Simon, tớ muốn đùa cợt đâu.

      - Tớ lại càng nhé! Đó là nỗi sợ hãi lên tiếng đấy, cậu có thể bịa ra bất cứ lí do nào để lùi bước.

      - Tớ hề sợ gì cả, Simon. Rốt cuộc tớ hề sợ cho đến khi bước chân vào quán bar đó.

      - Cậu làm gì khi nàng đó chuyện với cậu?

      - Tớ duy trì cuộc chuyện chẳng mấy thú vị với ấy và rồi tớ cảm thấy nhớ quay quắt khi ấy khỏi.

      - Con chuột thí nghiệm của tớ khám phá những hiệu ứng phụ của thứ thuốc nước có tên là hôn nhân, điều này khá là kì quặc khi ta biết rằng liều thuốc này vẫn còn chưa được tiêm vào nó…

      - Cậu toàn linh tinh!

      - Sáng mai, cậu thậm chí chẳng còn nhớ khuôn mặt của người phụ nữ đó. Và điều chúng ta làm chính là quên buổi tối hôm nay tại Novecento và mọi chuyện lại đâu vào đó thôi.

      - Tớ cũng chỉ muốn mọi thứ đơn giản như vậy thôi.

      - Cậu muốn chúng ta quay lại đây vào tối mai ? Với chút may mắn, biết đâu nàng quen biết của cậu ở đó, và khi gặp lại nàng, cậu kiểm chứng được trực cảm của mình có đúng với thực tế hay .

      - Tớ thể làm thế với Valérie. Tớ làm đám cưới trong mười lăm ngày nữa thôi!

      Ngay cả khi thi thoảng tỏ thái độ hơi tự do quá trớn mà ta dễ lầm tưởng là kiêu ngạo, Andrew vẫn là người đàn ông trung thực có thể tin tưởng được. uống quá nhiều rượu nên khó mà suy nghĩ cho thấu đáo được, Simon có thể đúng, chỉ là do nỗi sợ khiến trật hướng. Valérie là phụ nữ tuyệt vời, cơ hội dám mong mà cuộc sống ban cho , bạn thân Colette của Valérie chẳng ngừng nhắc nhắc lại với điều đó sao.

      bắt Simon thề bao giờ tiết lộ chuyện vừa xảy ra với bất cứ ai và cảm ơn cậu bạn phân tích phải trái giúp .

      Cả hai cùng lên chiếc taxi, Simon để Andrew xuống West Village rồi hứa với trưa mai gọi điện để cập nhật tin tức.

      *



      Sáng hôm sau thức dậy, Andrew cảm thấy điều ngược lại với những gì Simon từng dự đoán. Các đường nét của xa lạ trong quán bar Novecento lên mồn trong tâm trí , tất thảy kể cả mùi hương nước hoa của . Ngay khi nhắm mắt lại, lại nhìn thấy bàn tay thon dài đùa nghịch với ly rượu vang, nhớ sắc giọng , ánh mắt , và trong khi chuẩn bị pha cà phê, cảm thấy trống rỗng, hay đúng hơn là trống vắng, và việc cần kíp tối quan trọng là tìm ra người có thể lấp đầy chỗ trống đó.

      Tiếng chuông điện thoại vang lên, Valérie đưa trở lại với thực tại khiến tim quặn thắt. hỏi liệu buổi tối của có đúng với những gì trông đợi hay . kể rằng ăn tối cùng Simon tại nhà hàng rất tuyệt rồi uống ly tại quán bar ở TriBeCa. Chẳng có gì bất thường cả. Trong lúc gác máy, Andrew cảm thấy tội lỗi vì lần đầu tiên dối người phụ nữ mà chuẩn bị cưới làm vợ.

      Thực ra cũng dối đôi chút khi từ Buenos Aires về, từng thề với Valérie rằng mình chỉnh sửa lại bộ lễ phục mà mặc trong đám cưới. Và như để xóa tội dối, ngay tức khắc gọi cho người thợ may rồi đặt hẹn gặp ông ta vào giờ ăn trưa.

      Và đây có thể là lý do của điều may này. Tất thảy mọi thứ đều có ý nghĩa nào đó trong cuộc sống, ở đây nó có nghĩa nhắc nhớ đến việc phải viền chiếc quần âu trong bộ lễ phục của chú rể và thu ngắn ống tay áo vest. Toàn bộ câu chuyện xảy ra với chỉ là để tránh cho nỗi thất vọng đáng tiếc khi trình diện trước mặt người vợ tương lai của mình trong bộ quần áo mà người ta những tưởng mượn của trai.

      - Mi thậm chí còn trai nữa kia, đồ ngốc, Andrew lẩm nhẩm với chính mình, và trong thể loại xuẩn ngốc này, rất khó có thể tìm thấy kẻ tệ hơn mi.

      Vào buổi trưa, rời tòa báo. Trong lúc người thợ may vạch viên phấn trắng đánh dấu phần sửa chữa cần thiết ở cuối ống tay áo vest, nhúm phần lưng áo, cam đoan rằng phải sửa lại chỗ này chỗ kia nếu như muốn trông ra dáng, phàn nàn biết bao nhiêu lần về việc khách hàng của mình thực toàn đợi nước đến chân mới nhảy, Andrew cảm thấy khó chịu vô cùng. Buổi thử đồ kết thúc, cởi bộ quần áo ra, đưa cho người thợ may rồi vội vã mặc lại quần áo. Tất thảy sẵn sàng đâu vào đấy cho ngày thứ Sáu tuần tới, Andrew chỉ việc ghé qua lấy đồ vào cuối buổi sáng hôm đó.

      Khi bật điện thoại lên, thấy rất nhiều tin nhắn của Valérie. rất lo lắng, họ hẹn nhau ăn trưa ở phía bên kia phố 42 và đợi cả tiếng đồng hồ rồi.

      Andrew gọi lại để xin lỗi , viện dẫn lý do có cuộc họp đột xuất trong phòng hội thảo: nếu thư ký của khẳng định rằng ra ngoài, đó chỉ là vì trong tòa báo này, chẳng ai thèm để ý quan tâm đến người khác. Lời dối thứ hai trong ngày.

      Buổi tối, Andrew đến nhà Valérie với bó hoa tay. Kể từ khi ngỏ lời cầu hôn , thường xuyên gửi điện hoa cho , bó hoa hồng có màu tím, loài hoa thích nhất của . thấy căn hộ trống trơn và lời nhắn viết vội để chiếc bàn thấp trong phòng khách.

      “Em phải ngay vì có ca cấp cứu khẩn cấp. Em về muộn. đừng đợi nhé. .”

      xuống ăn tối ở Mary’s Fish. Trong suốt bữa ăn, ngừng nhìn đồng hồ đeo tay và thậm chí còn đòi thanh toán trước khi kết thúc món chính, vừa rời khỏi quán, vội nhảy lên taxi.

      Trở lại TriBeCa, sải bước vỉa hè phía trước quán bar Novecento, nóng lòng muốn vào đây uống ly. Tay gác cổng, có nhiệm vụ đảm bảo an ninh cho quan bar, rút ra điếu thuốc lá rồi hỏi Andrew có bật lửa . Andrew ngừng hút thuốc từ lâu lắc lâu lơ rồi cơ.

      - muốn vào ? Tối nay yên tĩnh lắm.

      Andrew coi lời mời này là dấu hiệu thứ hai.

      Người đẹp quen đêm hôm trước còn ngồi ở quầy bar nữa. Andrew đưa mắt nhìn khắp phòng, tay gác cổng kia ràng dối, và chỉ cần liếc nhanh khắp lượt là có thể nhận thấy trở lại. Cảm thấy lố bịch, uống cạn ly Fernet-Coca rồi cầu tay phục vụ tính tiền.

      - Tối nay chỉ ly thôi sao? Gã kia hỏi.

      - nhớ tôi à?

      - Vâng, tôi thấy ở đây rồi, rốt cuộc tôi cho rằng dù sao chăng nữa chơi cạn năm ly Fernet-Coca vào tối qua hẳn thể quên được.

      Andrew do dự giây lát trước khi cầu tay phục vụ cho thêm ly nữa và trong khi tay này rót rượu, đặt ra cho câu hỏi có phần lạ lùng đối với người đàn ông chuẩn bị lấy vợ tới nơi.

      - Người phụ nữ ngồi cạnh tôi hôm qua, vẫn còn nhớ ấy chứ, ấy có thường xuyên đến đây ?

      Tay phục vụ làm vẻ mặt suy nghĩ lung lắm.

      - Phụ nữ xinh đẹp tôi thấy trong bar này nhiều cả đống. , tôi để ý lắm, quan trọng lắm à?

      - Vâng, à rốt cuộc , Andrew đáp. Giờ tôi phải về rồi, cho tôi biết tôi phải trả bao nhiêu.

      Tay phục vụ quay lại để gõ hóa đơn máy tính tiền.

      - Nếu tình cờ, Andrew vừa vừa để ba tờ bạc hai mươi đô la lên mặt quầy, ấy có quay trở lại đây và hỏi về người đàn ông từng uống Fernet-Coca, đây là danh thiếp của tôi, xin hãy đưa cho ấy giúp tôi.

      - là phóng viên của The New York Times à?

      - Đó là điều ghi tấm danh thiếp này…

      - Nếu ngày nào đó muốn làm bài ngắn về quầy bar của chúng tôi, xin cứ tự nhiên nhé.

      - Tôi quên cân nhắc chuyện đó đâu, Andrew , và cả nữa, cũng đừng quên nhé.

      Tay phục vụ vừa nháy mắt vừa cất tấm danh thiếp vào ngăn kéo két.

      Trong lúc rời Novecento, Andrew kiểm tra xem giờ là mấy giờ, nếu ca cấp cứu của Valérie xong muộn, có thể về trước , nếu trong trường hợp ngược lại, bảo là làm việc ở tòa báo đến khuya. giờ dối như cuội rồi.

      *



      Kể từ tối hôm đó, Andrew còn biết thanh thản là gì nữa. Ngày lại ngày, cảm thấy bình tĩnh rời bỏ mình. thậm chí còn cãi nhau kịch liệt với đồng nghiệp vì bắt quả tang tay này nhúng mũi vào công việc của . Freddy Olson là tay chuyên thóc mách, ta ghen tị với , tay rất nhiễu nhương, nhưng Andrew vốn có thói quen nổi khùng như vậy. Theo lời cáo lỗi, hai tuần cuối tháng Sáu nhiều kiện trọng đại quá. phải kết thúc bài báo cho hai dịp đến Argentina và bài báo này, hy vọng cũng thành công vang dội như đề tài liên quan đến Trung Quốc. Hạn nộp bài mà từng đăng ký trước đây là thứ Hai tuần trước, nhưng Olivia Stern là tổng biên tập cẩn thận tỉ mẩn, nhất là khi đây là cuộc điều tra chiếm trọn trang trong ấn bản ra ngày thứ Ba. muốn dành cả ngày thứ Bảy để đọc lại và thảo ra loạt đề xuất mà gửi qua thư điện tử cho tác giả vào tối cùng ngày. kỳ cục khi đúng vào ngày thứ Bảy ấy Andrew phải tuyên thệ trước Chúa, và kỳ cục hơn nữa là vào ngày Chủ nhật phải xin lỗi Valérie vì hoãn chuyến du lịch trăng mật vì cái công việc chết tiệt này và do cái hồ sơ mà bà sếp ưu ái quan tâm đến vậy.

      Nhưng chẳng gì trong tất thảy những thứ đó xóa được hình ảnh người phụ nữ xa lạ tại quầy bar Novecento trong tâm trí Andrew. Mong muốn gặp lại người phụ nữ đó trở thành nỗi ám ảnh mà tài nào hiểu được nguồn cơn.

      Ngày thứ Sáu, khi đến lấy bộ lễ phục, Andrew cảm thấy tuyệt vọng hơn bao giờ hết. Ông lão thợ may nghe thở dài khi ngắm nhìn mình từ đầu đến chân trong gương.

      - Có chỗ nào cắt may khéo khiến phật ý à? ông lão hỏi với giọng hối lỗi.

      - , ông Zanelli, tác phẩm của ông rất hoàn hảo.

      Ông thợ may quan sát Andrew rồi dựng vai phải của áo vest lên.

      - Nhưng có điều gì đó khiến lo lắng phải ? ông vừa tiếp lời vừa kẹp ghim vào phần cuối ống tay áo.

      - Chuyện còn phức tạp hơn thế nữa cơ.

      - Nhất định là cánh tay dài hơn cánh tay kia, những lần thử trước tôi nhận ra. Cho tôi vài phút, tôi sửa ngay tức .

      - Ông phải mất công thế đâu, đây là loại trang phục mà ta chỉ mặc lần duy nhất trong đời thôi mà, đúng ?

      - Tôi chúc như vậy, nhưng đây cũng là loại ảnh mà ta có thể xem xem lại cả đời, và khi đám con cháu của rằng áo vét của vừa như in, tôi muốn kể với chúng rằng gặp phải tay thợ may tồi. Thế nên hãy để tôi làm việc của mình nào.

      - Chỉ là vì tôi có bài báo rất quan trọng cần kết thúc vào tối nay, ông Zanelli à.

      - Vâng, còn tôi cũng có bộ lễ phục rất quan trọng cần hoàn thiện trong vòng mười lăm phút nữa. về mọi thứ dường như rất phức tạp à?

      - Đúng vậy, Andrew thở dài.

      - Là loại chuyện gì, nếu như quá tò mò?

      - Tôi nghĩ là ông cũng phải giữ bí mật nghề nghiệp đúng , ông Zanelli?

      - Nếu cố phát sai tên tôi, tôi giữ mồm giữ miệng, tôi là Zanetti, chứ phải là Zanelli! Nào, cởi áo vest ra cho tôi rồi ngồi xuống ghế kia , tôi làm việc trong khi chúng ta chuyện.

      Và trong khi ông Zanetti chỉnh sửa ống tay áo cho Andrew, kể cho ông nghe làm thế nào, vào năm trước đây khi vừa rời khỏi quán bar, nối lại với tình thời niên thiếu của mình và làm thế nào, trong quán bar khác, ngay trước đám cưới của mình, gặp phụ nữ luôn ám ảnh kể từ khi ánh mắt họ giao nhau.

      - Có lẽ phải nhịn đến các hộp đêm thời gian, việc đó giúp đơn giản hóa cuộc sống. Tôi phải thừa nhận với rằng chuyện này chẳng hề bình thường chút nào, ông thợ may chêm vào trong lúc tìm cuộn chỉ trong ngăn kéo tủ.

      - Thế mà Simon, bạn thân nhất của tôi, lại ngược lại.

      - bạn Simon của có quan niệm về cuộc sống lạ lùng. Liệu tôi có thể đặt câu hỏi cho ?

      - Mọi câu hỏi mà ông muốn nếu nó có thể giúp tôi thấy sáng tỏ hơn.

      - Nếu được làm lại, Stilman, nếu có thể chọn giữa việc gặp lại người phụ nữ mà sắp lấy làm vợ hoặc là gặp người phụ nữ khiến luôn day dứt kia, thích chọn gì hơn?

      - bên là nửa kia của đời tôi, bên kia là... tôi thậm chí còn chưa biết tên của ấy nữa.

      - Thế nên thấy chuyện chẳng có gì là phức tạp hết.

      - Nhìn từ góc độ này...

      - Dựa vào cách biệt tuổi tác giữa chúng ta, tôi xin mạo muội với như thể người cha, Stilman à, và khi điều này, tôi phải thú nhận với rằng tôi hề có con cái, vì vậy tôi có rất ít kinh nghiệm trong chuyện này...

      - Dù sao chăng nữa ông cứ .

      - Vì cầu tôi nhé! Cuộc sống hề giống như trong những thứ máy móc đại mà ta chỉ cần nhấn nút là có thể phát lại bài hát lựa chọn sẵn. hề có chuyện có thể quay ngược trở lại và số hành động của chúng ta gây ra những hệ quả thể sửa chữa nổi. Như kiểu say đắm bóng hồng xa lạ, dù có quyến rũ đến đâu chăng nữa, ngay trước đám cưới của chính mình. Nếu vẫn nhất quyết cứng đầu chịu nghe, tôi sợ rằng sớm phải lấy làm tiếc, đấy là còn chưa kể đến nỗi đau mà gây ra cho những người sống quanh . với tôi rằng ta thể bảo trái tim phải làm cái này hay cái khác, nhưng cũng có đầu óc chứ, vậy hãy sử dụng nó . Có phụ nữ khiến xao động cũng chẳng có gì là đáng chê trách, với điều kiện là mọi chuyện xa hơn cơn xao động đơn thuần.

      - Ông chưa bao giờ có cảm giác gặp tri kỷ à, ông Zanetti?

      - Tri kỷ ư, ý hay ho! Lúc trạc tuổi đôi mươi, tôi những tưởng gặp nàng mỗi tối thứ Bảy khi khiêu vũ. Hồi trẻ tôi khiêu vũ rất giỏi và là tay Đông Gioăng thực . Tôi thường tự hỏi làm sao ta có thể tin chắc rằng mình gặp được tri kỷ thậm chí trước khi ta cùng nhau xây dựng được điều gì đó.

      - Ông từng kết hôn, đúng ông Zanetti?

      - Chuyện này xảy đến với tôi cả thảy bốn lần, qua đó có thể khẳng định với rằng tôi biết mình gì!

      Lúc từ biệt , ông Zanetti khẳng định với Andrew rằng hai ống tay áo giờ dài đúng chuẩn, gì có thể làm phương hại đến niềm hạnh phúc đợi nữa. Andrew Stilman rời nhà may với lòng quyết tâm ngày mai ngẩng cao đầu mặc bộ lễ phục chú rể.





      Chương 6





      Mẹ Valérie tiến lại gần Andrew ngay trước khi hôn lễ cử hành, và bà phủi phủi vai áo của đầy chân tình, rồi thầm vào tai :

      - Ben thân mến! Con là bằng chứng sống cho việc nếu bền gan kiên trì, cuối cùng rồi người ta cũng đến đích. Ta vẫn còn nhớ khi con mới mười sáu và khi đó con tán tỉnh con ta... ta hề cho con phần nghìn cơ may thành công. Thế nhưng giờ đây, chúng ta lại ở trong nhà thờ cùng nhau!

      Andrew hiểu hơn tại sao người vợ tương lai của mình lại tha thiết muốn rời khỏi ngôi nhà của cha mẹ ngay khi có cơ hội đầu tiên đến vậy.

      Valérie đẹp hơn bao giờ hết. mặc chiếc váy trắng kín đáo và sang trọng. Tóc buộc túm lại dưới chiếc mũ trắng gợi nhớ đến mái tóc của những chiêu đãi viên hãng hàng Pan Am thời trước, dù rằng họ mặc đồng phục xanh lơ. Bố đưa đến tận bàn thờ nơi Andrew đứng đợi. mỉm cười với bằng tất cả tình của mình.

      Linh mục bài thuyết giáo hoàn hảo và Andrew thấy vô cùng xúc động.

      Họ trao lời nguyện ước cùng nhẫn cưới và hôn nhau thắm thiết rồi rời trong tràng vỗ tay nồng nhiệt của bố mẹ dâu, của Colette, Simon, và Andrew thể ngăn mình vừa ngước mắt lên trời cao vừa tưởng tượng bố mẹ mình cũng dõi theo mình.

      Đám rước dọc lối công viên bao quanh nhà thờ St Luke in the Fields. Đám hồng leo oằn xuống vì quá nhiều hoa còn mấy bồn tuy líp rực rỡ sắc màu, ngày mới tuyệt vời, Valérie rạng rỡ còn Andrew hạnh phúc.

      Hạnh phúc cho đến khi tới phố Hudson, nhận thấy gương mặt phụ nữ qua khuôn cửa kính của chiếc xe hai cầu màu đen dừng tại đèn đỏ. phụ nữ mà hề cảm thấy hàm ơn khi gặp lại lần nữa đảm nhận vai trò nhân chứng trong đám cưới của , người phụ nữ trao đổi vài câu vô thưởng vô phạt tại quán bar ở TriBeCa.

      Họng thắt lại và đột nhiên Andrew thèm ly Fernet-Coca trong khi giờ mới là giữa trưa.

      - Mọi chuyện ổn chứ ? Valérie lo lắng. Đột nhiên nhợt nhạt quá.

      - Do xúc động thôi, Andrew đáp lại.

      thể rời mắt khỏi ngã tư đường, dõi theo chiếc xe hai cầu biến mất trong dòng xe cộ. Andrew thấy tim mình thắt lại, gần như chắc chắn rằng người phụ nữ xa lạ gặp ở bar Novecento vừa mới mỉm cười với .

      - làm em đau đấy, Valérie rên lên. siết tay em mạnh quá.

      - Thứ lỗi cho , vừa vừa nới lỏng tay ra.

      - Em rất muốn mấy thứ hội hè này nhanh kết thúc để có thể mình với ở nhà, thở đài.

      - Em là phụ nữ đầy bất ngờ, Valérie Ramsay.

      - Stilman chứ! sửa lại. Thế sao em lại là phụ nữ đầy bất ngờ?

      - chưa từng biết ai khác muốn ngày cưới của mình trôi nhanh như tên lửa như vậy. Khi hỏi em làm vợ, cứ nghĩ là em muốn tổ chức đại tiệc, tưởng tượng quanh ta là hai trăm khách mời mà ta phải chào lần lượt hết người này đến người khác, gặp gỡ chị em họ của em, dì chú bác của em, mỗi người họ lại muốn dông dài về những kỷ niệm mà cảm thấy hoàn toàn xa lạ. sợ ngày này biết bao. Và giờ chúng ta ở đây, chỉ có sáu người chúng ta vỉa hè này.

      - Lẽ ra nên chuyện đó cho em sớm hơn, em trấn an ngay, em vẫn luôn mơ về đám cưới thân mật ấm cúng. Em muốn được làm vợ chứ phải đóng vai nàng Lọ Lem mặc váy dạ hội đâu.

      - Hai thứ đó chẳng ăn nhập gì với nhau cả...

      - có hối tiếc ?

      - , chút nào, vừa Andrew vừa đưa mắt ra xa nhìn về phía phố Hudson. Lời dối thứ tư.

      Họ ăn tối trong nhà hàng Trung Quốc ngon nhất ở New York. Tại nhà hàng Mr Chow, họ phục vụ những món ăn cực kỳ tinh tế, tiên phong cho ẩm thực châu Á. Bữa ăn diễn ra rất vui vẻ, Colette và Simon cực kỳ ăn ý với bố mẹ Valérie. Andrew hầu như rất ít chuyện và vợ nhận thấy lơ đễnh vô cùng.





      Chính là người lên tiếng khước từ lời mời của bố tổ chức liên hoan tiếp ở chỗ khác. Và khi ông phàn nàn rằng mình bị tước đoạt mất quyền được khiêu vũ với con , cáo lỗi với ông, muốn ở mình với chồng đến phát điên lên được.

      Bố Valérie ôm Andrew trong vòng tay rồi siết chặt vào lòng.

      - Con nên làm cho con bé hạnh phúc, ông thầm vào tai , nếu ta tính sổ với con đó, ông đùa cợt thêm vào.

      gần nửa đêm khi chiếc taxi thả đôi tân lang tân nương xuống chân tòa nhà nơi có căn hộ của Valérie. vượt lên trước Andrew trong cầu thang để đợi ở chiếu nghỉ.

      - Sao thế, có chuyện gì vậy? vừa hỏi vừa lục tìm chìa khóa trong túi áo vest.

      - bế em trong tay rồi qua cửa mà làm em cụng đầu, trả lời với nụ cười tinh nghịch.

      - Em thấy là em dù sao vẫn gắn bó với số truyền thống đấy chứ, vừa vừa thực lời vợ cầu.

      cởi xiêm y ngay giữa phòng khách, mở móc cài áo ngực rồi tụt ngay quần lót xuống dọc theo hai chân. tiến lại gần Andrew, khỏa thân hoàn toàn, tháo cà vạt của , lần mở từng cúc áo sơ mi rồi lấy tay xoa lên ngực .

      Người dán chặt vào chồng, luồn tay xuống tận thắt lưng quần dài, tháo khóa thắt lưng rồi mở khóa quần.

      Andrew cầm tay , nhàng vuốt ve má rồi đưa tới tràng kỷ. Rồi quỳ xuống trước mặt , gục đầu xuống đùi và bắt đầu thổn thức.

      - Có chuyện gì với vậy? Valérie hỏi. Hôm nay dường như ở tận đẩu đâu ấy.

      - rất lấy làm tiếc, Andrew vừa ngước mắt lên nhìn vừa .

      - Nếu có chuyện gì đó ổn, nếu gặp vấn đề về tiền bạc hay công việc, nhất định phải với em, có thể với em mọi điều.

      Andrew hít hơi sâu.

      - Em bắt thề được dối em, bao giờ phản bội em, em còn nhớ chứ? Em cũng bắt thề thẳng thắn ra mọi chuyện, nếu ngày nào đó có điều gì đó tan vỡ.

      Hai mắt Valérie ngân ngấn nước, im lặng nhìn Andrew.

      - Em là người bạn thân nhất, là đồng đảng, là người phụ nữ cảm thấy gắn bó nhất...

      - Andrew, chúng ta vừa mới cưới nhau ngày hôm nay, Valérie nấc lên.

      - Tự đáy lòng mong em thứ tha, thứ tha vì làm điều tồi tệ nhất trong mọi điều mà người đàn ông có thể làm đối với phụ nữ.

      - có ai khác à?

      - Đúng nhưng mà cũng đúng, chỉ là bóng hình... nhưng chưa từng cảm thấy chuyện như thế này trước kia.

      - đợi đến tận khi chúng ta kết hôn mới nhận ra rằng ai khác ư?

      - em, biết là em, nhưng giống như tình kia. hèn nhát khi thú nhận điều đó với em, điều đó cho em biết. đủ dũng khí để hủy đám cưới. Bố mẹ em từ Florida đến, bạn thân của em cừ New Orleans đến, cuộc điều tra mà dành nhiều tâm sức trong những tháng qua rốt cuộc chuyển thành nỗi ám ảnh. chỉ còn nghĩ đến điều đó và lầm đường lạc lối. muốn xóa tan những nghi ngờ, rất muốn làm điều đó.

      - im , Valérie thầm.

      cụp mắt xuống và ánh mắt Andrew bị hút vào bàn tay mà xoắn vặn cho đến khi các ngón tay trắng bệch ra.

      - Em xin , đừng bất cứ lời nào nữa. . Về nhà , hoặc đâu tùy , miễn là . khỏi căn hộ này .

      Andrew những muốn tiến về phía nhưng Valérie lùi lại. lùi đến tận phòng ngủ rồi nhàng khép cửa lại phía sau mình.

      *



      Cơn mưa phùn lất phất rơi trong đêm tối ảm đạm. Cổ áo vest chú rể dựng lên che kín gáy, Andrew Stilman xuyên từ Đông sang Tây đảo Manhattan để về căn hộ của mình.

      những muốn gọi điện cho Simon cả chục lần rồi, để thú nhận với bạn rằng mắc phải sai lầm thể cứu vãn nổi dù bản thân hề muốn. Nhưng người cứ tưởng rằng mình chẳng biết sợ cái gì lại sợ bạn thân mình phán xét thế nên gọi cho bạn nữa.

      Cả chục lần muốn thổ lộ tâm tình với bố, muốn đến nhà bố mẹ để kể họ nghe mọi chuyện. Muốn nghe mẹ với mình rằng rồi cuối cùng mọi chuyện cũng đâu vào đấy thôi, rằng tốt nhất nên thừa nhận đám cưới sai lầm còn hơn là dấn thân vào cuộc sống đầy những lời dối trá, dù hành động đó có bất nhân thế nào nữa. Có thể Valérie hận trong vài năm, nhưng rốt cuộc rồi cũng quên thôi. phụ nữ có phẩm hạnh như vậy phải chịu cảnh đơn chiếc lâu đâu. Nếu phải là người phụ nữ của đời chính là bởi có thể nên là người đàn ông của đời . vẫn còn trẻ, và ngay cả khi những thời khắc vừa trải qua, với , dường như là thể vượt qua nổi sau này chúng cũng chỉ còn là những kỷ niệm tồi tệ. Andrew những muốn cảm thấy bàn tay mẹ đặt lên má mình, còn tay cha đặt lên vai mình, muốn nghe giọng họ. Nhưng cha mẹ Andrew còn thế gian này nữa và, vào đêm tân hôn của mình, cảm thấy đơn hơn bao giờ hết.

      *



      “When the shit hits the fan, it spreads all over[1]” là câu cách ngôn thích của Freddy Olson, đồng nghiệp cùng phòng với . Andrew dành cả Chủ nhật để xem xét kỹ đồng thời hiệu chỉnh lại bài báo của mình. Đầu giờ sáng, nhận được thư của tổng biên tập ngớt lời ngợi khen chất lượng cuộc điều tra của . Olivia Stern đảm bảo với rằng đó là trong những bài báo hay nhất mà từng đọc trong suốt thời gian qua và lấy làm mừng rỡ vì giao phó trọng trách này cho . Thế nhưng, cũng gửi lại bài báo kèm cả loạt ghi chú, những đoạn gạch chân để hỏi về tính xác thực của nguồn thông tin, về tính trung thực của các việc bị phát giác. Những cáo buộc mà nêu trong bài phải trầm trọng và còn nghi ngờ gì nữa, cơ quan tư pháp kiểu gì cũng muốn đảm bảo rằng tất cả đều có căn cứ xác đáng.

      [1]: Tiếng trong nguyên bản, đại ý là “họa vô đơn chí” ( Mọi chú thích có lưu ý gì thêm đều là của người dịch).

      Nếu chỉ để dựng chuyện liệu có mạo hiểm đến vậy? Liệu có tiêu phân nửa tiền lương để từ phục vụ ở cái khách sạn tồi tàn nơi ở mà lần ra những nguồn tin vừa đáng tin cậy vừa kín miệng, liệu có suýt bị đánh nhừ tử tại khu ngoại ô Buenos Aires nếu như từ bỏ việc theo dõi những gã mà theo được hai ngày rồi, liệu có mạo hiểm suýt bị bắt vào tù và hy sinh cuộc sống cá nhân vì cuộc điều tra này nếu như tay mơ! bực mình càu nhàu suốt cả ngày trong khi chỉnh trang lại phần chú giải.

      Olivia cũng lặp lại lời khen ngợi của mình ở cuối bức thư và với Andrew rằng muốn ăn trưa cùng ngay ngày mai. Đây là lần đầu tiên. Bình thường ra, lời mời như vậy có lẽ khiến Andrew tin chắc rằng mình sắp được thăng chức, coi như phần thưởng, nhưng tâm trạng bực bội, chẳng dự kiến điều gì tốt đẹp cả.

      Buổi tối đến, có tiếng gõ cửa ầm ầm bên ngoài. Andrew nghĩ có lẽ là bố của Valérie đến đấm vỡ mặt , và mở cửa, gần như thở phào nhõm ; trận đòn thích đáng có lẽ giúp cảm thấy ít tội lỗi hơn.

      Simon đẩy thương tiếc để bước vào căn hộ.

      - cho tớ biết cậu làm cái quái gì vậy? vừa lớn tiếng Simon vừa tiến về phía cửa sổ.

      - ấy gọi cho cậu à?

      - , tớ mới là người gọi. Tớ muốn qua chỗ bọn cậu để gửi quà mừng cưới và tớ sợ làm phiền bọn cậu, sợ rằng mình lại đến đúng lúc bọn cậu say men đương. Ấy vậy mà tớ sai bét nhè.

      - ấy gì với cậu?

      - Thế theo cậu sao? Trái tim ấy tan ra thành trăm mảnh kìa, ấy chẳng hiểu gì hết, ngoại trừ điều là cậu coi khinh ấy và còn ấy nữa. Tại sao lại tổ chức đám cưới, cậu thể từ chối từ trước à? Cậu hành xử như thằng đểu cáng.

      - Nhưng chính bởi vì tất cả mọi người thuyết phục tớ đừng gì hết, đừng làm gì hết và đừng có mở mắt gì hết! Bởi vì tất cả mọi người đều giải thích rằng điều tớ cảm nhận chỉ là kết quả của trí tưởng tượng của tớ mà thôi!

      - Còn ai là “tất cả mọi người” nữa đây? Cậu thổ lộ tâm tình cho ai đó ngoài tớ ư? Cậu lại gặp tiếng sét ái tình với cậu bạn thân mới ư? Rồi cậu cũng rũ bỏ tớ chứ gì?

      - Cậu ngốc quá, Simon. Tớ chỉ chuyện với ông lão thợ may của tớ thôi.

      - Càng ngày càng hay ho gớm… Cậu thể cố nhịn tí, cố gắng thử trong vài tháng, cho bọn cậu ít nhất cơ hội ư? Vậy tối qua xảy ra chuyện gì nghiêm trọng để đến nỗi cậu tung hê tất cả xuống sông xuống biển vậy?

      - Tớ thể làm tình với ấy được và Valérie quá tỉnh để có thể tin rằng đó đơn giản chỉ là chút trục trặc, là do cậu muốn biết tất cả đấy nhé.

      - , chuyện này tớ thà biết còn hơn, Simon vừa vừa buông mình xuống tràng kỷ. Chúng ta đúng là quá lắm rồi!

      - Chúng ta á?

      - Đúng vậy, tớ đủ thân với cậu trong mọi thời khắc khó khăn nên cảm thấy mình cũng có liên quan, và sau tất thảy mọi điều, giờ tớ là phù rể đoản mệnh nhất trần đời này đây.

      - Cậu có muốn được ghi vào kỷ lục Guinness ?

      - Ý tưởng đến xin lỗi ấy, đến với ấy rằng cậu nhầm và rằng tất cả chỉ là chút điên rồ nhất thời dường như là bất khả với cậu ư?

      - Tớ mình ở đâu nữa, ngoại trừ điều, tớ bất hạnh hơn bao giờ hết.

      Simon đứng dậy vào bếp. bạn quay trở lại với hai chai bia rồi đưa chai cho Andrew.

      - Tớ lấy làm tiếc cho cậu, bạn thân mến à, tớ cũng lấy làm tiếc cho ấy và còn tiếc hơn cho cả hai cậu. Nếu cậu muốn, cậu có thể qua nhà tớ tuần tới.

      - Để làm gì?

      - Để tránh cho cậu phải gặm nhấm nỗi buồn mình.

      Andrew cảm ơn Simon, nhưng ngẫm kỹ ra, có lẽ cần ở mình để gặm nhấm nỗi buồn. Đó phải là hình phạt lớn lao gì cho cam nếu đặt cạnh nỗi đau mà bắt Valérie gánh chịu.

      Simon đặt tay lên vai bạn mình.

      - Cậu có biết câu chuyện về người đàn ông bị dẫn ra trước tòa án vì sát hại bố mẹ mình và ta cầu xin được quan tòa khoan hồng bằng cách nhắc cho quan tòa nhớ rằng ông chuẩn bị kết tội kẻ mồ côi…

      Andrew nhìn Simon và cả hai người bạn cùng cười phá lên, tiếng cười chỉ duy tình bạn mới có thể làm nảy sinh giữa những thời điểm tồi tệ nhất.

      *



      Thứ Hai, mặt đối mặt, Andrew ăn trưa với nữ tổng biên tập của mình. chọn nhà hàng cách khá xa tòa báo.

      Olivia Stern chưa bao giờ thể quan tâm tương tự đến trong những bài báo của . Chưa bao giờ hỏi về nguồn tin nhiều đến vậy, về những cuộc gặp gỡ mà thực cũng như cách thức tiến hành điều tra. Và trong suốt bữa ăn, hề động đến đĩa của mình, lắng nghe kể về những chuyến đến Argentina, như đứa trẻ lắng nghe người lớn kể câu chuyện gây chấn động. Và đôi khi trong lúc kể chuyện, Andrew nhận thấy mắt Olivia Stern ngân ngấn nước.

      Vào cuối bữa trưa, nắm lấy tay Andrew rồi cảm ơn vì công việc đặc biệt mà hoàn thành rồi gợi ý ngày nào đó nên viết sách về chủ đề này. Chỉ đến khi rời bàn mới thông báo cho ý định lùi ngày đăng báo tầm tuần, chỉ với mục đích duy nhất là dành cho dòng tít lớn ở trang nhất và hai trang trọn vẹn tờ báo. dòng tít lớn trang nhất của The Nem York Times rồi lại còn cả hai trang trọn vẹn nữa, nếu chẳng phải là giải Pulitzer, cũng đánh dấu trọng vọng mang tới cho tiếng tăm nhất định trong giới. Và khi Olivia hỏi , dù câu hỏi của thể chút nghi ngờ nào dù là nhất, rằng liệu có đủ chất liệu để phát triển bài báo của mình theo mục đích này , Andrew hứa với rằng bắt tay ngay vào việc.

      Đó là điều quyết làm trong suốt tuần. đến văn phòng sớm, ăn vội ăn vàng bữa trưa bằng sandwich ngay tại đó rồi làm việc đến tận đêm khuya, ngoại trừ thi thoảng nếu có thể ăn tối với Simon.

      Andrew tuân thủ chương trình này từng ly từng tí, hoặc là gần như thế. Hôm thứ Tư, khi vừa rời tòa soạn, cảm tưởng “ từng gặp” xót xa. Tại góc phố 40, ngỡ lần thứ hai nhận ra, ở cửa sau chiếc xe hai cầu đậu trước tòa nhà, khuôn mặt của người phụ nữ xa lạ ở bar Novecento. dợm bước chạy về phía . Trong lúc vội vàng, cặp đựng tài liệu của tuột khỏi tay và tài liệu phục vụ cho bài báo rơi tung tóe vỉa hè. Trong lúc cúi xuống thu nhặt rồi đứng dậy, chiếc ô tô biến mất.

      Từ hôm đó, tối nào Andrew cũng đến Novecento, với hy vọng được gặp lại người phụ nữ luôn ám ảnh mình.

      Mỗi tối đều chờ đợi trong vô vọng rồi trở về nhà với tâm trạng bực bội và kiệt sức.

      Ngày thứ Bảy, thấy trong đám thư tín lá thư mà nhận ra ngay nét chữ phong bì. để bức thư bàn làm việc và tự hứa động đến nó chừng nào còn chưa đặt dấu chấm hết cho bài báo mà Olivia Stern đợi từ tối hôm trước.

      Sau khi gửi bài viết cho tổng biên tập, gọi cho Simon và lấy cớ rằng mình vẫn còn việc phải làm để hủy cuộc hẹn tối với bạn.

      Rồi đến ngồi bậu cửa sổ phòng khác, hít thở khí ban đêm căng đầy phổi và cuối cùng là đọc lá thư của Valérie.

      Andrew,

      Chủ nhật này là lần đầu tiên kể từ thời niên thiếu em ôm chặt nỗi đau trống vắng. Em bỏ nhà lúc mười bảy tuổi, còn là khi gần bốn mươi. Làm sao có thể quen được rằng từ giờ còn được biết có khỏe ? Làm sao có thể tiếp tục sống từ sâu thẳm câm lặng của ?

      Em sợ rằng ký ức đưa em quay lại với những ánh mắt niên thiếu của , với thanh giọng đàn ông của khiến em vui mỗi ngày, với nhịp đập con tim khi bàn tay đặt ngực , em lắng nghe ngủ và thấy yên lòng mỗi đêm.

      Khi mất , em mất người tình, tình , người bạn và người trai. Đó là đám tang dài mà em phải chịu.

      Mong rằng cuộc sống của tốt đẹp, dù rằng em những muốn phải chết vì bắt em chịu nhiều đớn đau đến thế.

      Em biết rằng ở đâu đó trong thành phố này, nơi em dạo mình hít thở cùng bầu khí ấy, và điều đó cũng là quá nhiều với em rồi.

      Em ký tên dưới bức thư ngắn này bằng cách viết lần đầu tiên và cũng là sau chót “Vợ ”, hay đúng hơn, người từng là vợ , trong khoảng thời gian ngày buồn bã.





      Chương 7





      ngủ gần như trọn ngày Chủ nhật. Đêm trước ra ngoài, sau khi quyết định dành cả tối để say sưa quên trời đất. Trong suốt nhiều năm, chứng minh chút năng khiếu trong thể loại bài tập này. Giam mình ở nhà bổ sung vào tình trạng lộn xộn này thiếu ý chí thể chịu nổi.

      đẩy cánh cửa bar Novecento muộn hơn thường lệ và uống nhiều Fernet-Coca hơn thường lệ rồi rời bar trong tình trạng còn tệ hơn thường lệ. Tâm trạng rối ren vẫn tiếp diễn bởi suốt cả tối ngồi mình bên quầy bar và chỉ chuyện với mỗi tay phục vụ quầy. Trong lúc lang thang giữa đêm khuya thanh vắng, người sặc sụa mùi rượu, Andrew Stilman bỗng phá lên cười như điên như dại. Tiếng cười điên dại đó nhanh chóng chuyển thành nỗi buồn trong sâu thẳm. Rồi ngồi bệt xuống vỉa hè, hai chân thõng xuống rãnh ven đường và nức nở suốt tiếng đồng hồ.

      còn nghi ngờ gì nữa, là kẻ u mê xuẩn ngốc nhất trần đời, nhưng cũng từng gặp vài kẻ như vậy trong đời rồi.

      Khi tỉnh dậy, cổ khô đầu nhức vì uống quá nhiều, nhắc nhớ mình chẳng còn đôi mươi nữa, Andrew hiểu ra rằng mình nhớ Valérie biết bao. nhớ da diết, cũng mãnh liệt như từng nhớ người phụ nữ gặp trong tối khiến bị mê mẩn vì những lý do rất khó hiểu. Nhưng người là vợ , người là ảo ảnh. Và Andrew nguôi nhớ đến lá thư Valérie viết cho .

      tìm ra cách để xin tha thứ, những lời biện hộ chính đáng, cho cùng đó chẳng phải là nghề của sao.

      Nếu bài báo của , dự kiến lên trang vào ngày mai, hẳn mang lại cho chút vinh quang, chính Valérie là người muốn chia sẻ niềm vinh quang này.

      Sáng thứ Hai, sau khi rời nhà, xuống phố Charles, như mỗi sáng thường lệ, rồi chạy những bước về phía bờ sông để chạy thể dục.

      đợi đèn giao thông chuyển sang màu đỏ rồi băng qua xa lộ West. Khi vừa đặt chân đến dải phân cách giữa đường hình người biểu thị người bộ cột đèn giao thông nhấp nháy, tuy vậy Andrew vẫn bước xuống lòng đường như mỗi sáng vẫn làm. đáp lại tiếng còi xe inh ỏi bằng cách giơ nắm tay, ngón giữa chĩa lên trời. Rồi men theo lối trong công viênRiverPark và tăng tốc.





      Ngay tối nay đến bấm chuông cửa nhà Valérie, để lời xin lỗi và với rằng rất tiếc về cách cư xử của mình. nghi ngờ giây phút nào nữa về tình cảm dành cho , và muốn đập đầu vào tường để tự vấn bản thân điên rồ đến nhường nào khi hành xử như vậy.

      tuần lễ trôi qua kể từ khi họ chia tay, bảy ngày ác mộng mà người phụ nữ của đời phải chịu đựng, bảy ngày ích kỷ đến đê tiện, nhưng chuyện này bao giờ tái diễn nữa, thề với như vậy. Kể từ nay, chỉ ngừng làm hạnh phúc. van xin quên mọi chuyện và ngay cả khi có bắt phải chịu con đường tối tăm nhất trong số các con đường Thập giá[1] trước khi thứ tha cho sẵn sàng quỳ gối lết con đường ấy nếu cần.

      [1] Con đường Chúa Jesus qua, từ Gethsémani nơi Chúa bị bắt đến Golgotha, nơi Chúa bị đóng đinh câu rút.

      Andrew Stilman đến ngang tầm Cầu tàu số 4 chỉ với duy ý nghĩ trong đầu, phải chinh phục lại trái tim vợ mình.

      Đột nhiên cảm thấy vết thương điếng người ở cuối sống lưng, vết rách kinh khủng kéo ngược tới tận bụng dưới. Nếu cơn đau khu trú cao hơn trong lồng ngực những tưởng mình bị nhồi máu. cảm thấy hơi thở mình ngừng lại. Đó phải là cảm giác, hai chân co rút lại và hầu như còn chút sức lực nào để đưa tay về phía trước bảo vệ khuôn mặt mình khi ngã xuống.

      Nằm dưới đất, mặt áp xuống lớp nhựa đường, những muốn có thể quay lại gọi trợ giúp. Andrew Stilman thể nào hiểu được tại sao thanh nào phát ra từ cổ họng mình, cho đến khi cơn ho buộc phải khạc ra thứ chất lỏng sền sệt.

      Nhận thấy dòng chất lỏng đỏ nhạt tràn ngập phía trước, Andrew hiểu rằng đó chính là máu của mình chảy lênh láng lối tại công viênRiverPark. Vì lý do hề hay biết, bị rút sạch máu như con vật trong lò mổ. bức màn đen dần dần che mờ tầm nhìn của .

      đoán là có ai đó bắn mình, dù rằng hề nhớ nghe thấy tiếng súng nổ; cũng có khi bị đâm bằng dao găm. Vận dụng chút minh mẫn cuối cùng, Andrew tự hỏi ai có thể ra tay sát hại mình đây.

      Hít thở giờ đây với gần như thể. Tất thảy sức lực dần rời bỏ sắp đến với kết cục cuối cùng của mình.

      chờ đợi được nhìn thấy thước phim cuộc đời được quay chậm, rình đợi tia sáng tuyệt vời phía cuối hành lang, giọng thánh thiện hướng dẫn về nơi khác. Nhưng chẳng có bất cứ thứ gì trong số đó xảy ra. Những giây phút cuối cùng còn ý thức được của Andrew Stilman chỉ là cuộc lặn chậm rãi và đớn đau về phía hư .

      Vào hồi 7h15 sáng thứ Hai trong tháng Bảy, ánh sáng vụt tắt, và Andrew Stilman hiểu rằng mình dần chết.





      Chương 8





      luồng khí buốt giá tràn vào phổi , dòng chất lỏng cũng lạnh toát như vậy chảy tràn trong huyết mạch . làn ánh sánh chói lóa cùng nỗi sợ ngăn mở mắt. Andrew Stilman tự hỏi liệu mình thức dậy tại nơi chuộc tội hay địa ngục. Nếu tính đến những mưu toan mới đây thiên đường là ngoài tầm với của .

      còn cảm thấy nhịp tim đập nữa, thấy lạnh, lạnh kinh khủng.

      Cái chết thường được xem là kéo dài mãi mãi, hẳn phải ở trong bóng tối toàn bộ thời gian này. huy động hết dũng khí và rốt cuộc cũng mở được mắt ra.

      Ít ra điều dường như lạ thường nhất với chính là nằm dựa lưng vào cột đèn giao thông ở góc giao giữa phố Charles và xa lộ West End.

      Địa ngục hoàn toàn giống như thứ mà người ta từng dạy trong những khóa học giáo lý Cơ Đốc giáo tại trường Công giáo Poughkeepsie, trừ phi ngã tư này đánh dấu lối vào đại ngục. Nhưng xét theo số lần Andrew chạy bộ ngang qua đây, hẳn là phải nhận ra rồi chứ.

      Người run rẩy như tàu lá trước gió, lưng rỉ máu, máy móc nhìn đồng hồ đeo tay. Đồng hồ chỉ bảy giờ đúng, tức là sớm hơn mười lăm phút so với lúc bị sát hại.

      Cái câu vừa mới nhẩm trong đầu dường như chẳng có ý nghĩa gì với . Andrew hề tin vào chuyện hóa kiếp và càng ít tin vào chuyện hồi sinh khiến trở lại mặt đất vào đúng mười lăm phút trước khi chết. nhìn khắp xung quanh mình, khung cảnh dường như chẳng có chút gì khác biệt so với thứ mà thường nhìn thấy mỗi sáng. đám ô tô ào về mạn Bắc, phía bên kia dải phân cách, cả đống ô tô, thanh chống sốc của xe này chạm vào thanh chống sốc của xe kia, cố tiến về con phố tài chính, dọc bờ sông, đám người chạy bộ thể dục chạy hết tốc lực khắp lối của công viên River Park.

      Andrew gắng hết sức tập trung tinh thần. Lợi ích duy nhất mà chưa từng thừa nhận của cái chết chính là nó giúp bạn tránh khỏi mọi đớn đau về mặt thể xác. Nếu như vẫn còn cảm thấy đau đến vậy ở cuối sống lưng, nếu như vẫn còn cả tá sao quay mòng mòng trước mắt đó là bằng chứng sống động nhất chứng tỏ rằng thể xác và linh hồn vẫn luôn là .

      Chưa gì thở hồng hộc, nhưng ràng là hít thở, bởi rằng cũng ho liên hồi. thấy buồn nôn nên cúi người về phía trước để nôn thốc nôn tháo bữa sáng vào rãnh bên lề đường.

      Sáng nay chẳng còn chuyện chạy chiếc gì hết, cũng chẳng còn chuyện uống thêm giọt rượu nào nữa kể từ nay về sau, thậm chí ly Fernet-Coca cũng chẳng thể. Tờ hóa đơn mà cuộc sống vừa chìa ra cho cũng đủ đắt đỏ để ta chẳng bao giờ lặp lại lần nữa làm gì.

      Gom chút sức tàn lực kiệt, Andrew vòng trở lại. Nếu như về được tới nhà mình, tắm vòi hoa sen, thư giãn chút rồi tất thảy lại đâu vào đấy thôi.

      Và trong lúc cuốc bộ, cơn đau dọc sống lưng thoái lui, Andrew tin rằng mình mất ý thức trong vài giây. Trong vài giây đó hoàn toàn mất phương hướng.

      Tuy vậy vẫn dám thề là bấy giờ mình ở ngang tầm Cầu tàu số 4 chứ phải là ở đầu phố Charles như lúc bị đâm. Khi nào khám bác sĩ, và sớm biết rằng mình phải đến bác sĩ để khám, quên nhắc đến trạng thái lú lẫn tâm thần này. Vụ việc vừa qua đủ gây bối rối khiến khỏi lo lắng.

      Nhưng vì thế mà tình cảm dành cho Valérie thay đổi. Trái ngược lại, nỗi sợ chết càng khiến chúng trở nên mãnh liệt hơn.

      Khi nào mọi chuyện đâu vào đấy, gọi đến tòa soạn để báo mình đến muộn rồi bắt taxi, thẳng hướng chuồng ngựa của đội cảnh sát cưỡi ngựa New York nơi văn phòng thú y của vợ đặt trụ sở. chẳng đợi lâu hơn nữa để rằng rất lấy làm tiếc và xin tha thứ.

      Andrew đẩy cửa tòa nhà, trèo lên tận tầng bốn, tra chìa khóa vào ổ rồi bước vào. Chùm chìa khóa rơi khỏi tay khi nhìn thấy Valérie ở trong phòng khách nhà mình. hỏi có nhìn thấy chiếc áo blouse mà mang từ tiệm giặt về ngày hôm trước . Từ lúc chạy đến giờ, cố tìm nó mà thấy.

      Ngừng lục lọi căn hộ lúc, quan sát rồi lên tiếng hỏi sao lại nhìn với vẻ đờ đẫn đến vậy?

      Andrew biết trả lời ra sao.

      - Hãy giúp em thay vì đứng ì chỗ như thế chứ, chắc em bị muộn giờ mất và quả là đúng ngày chút nào, sáng nay chúng em có vụ thanh tra y tế.

      Andrew vẫn đứng im bất động, miệng khô khốc, môi như bị gắn xi niêm phong.

      - Em chuẩn bị cà phê cho , ở trong bếp ấy, nên ăn chút gì đó , trắng bệch như xác ướp kìa. chạy quá nhiều và quá nhanh chứ gì, Valérie vừa vừa tiếp tục tìm kiếm. Nhưng trước tiên, em xin hãy tìm cho em cái áo blouse đó. Đúng là cần phải nhường cho em ít chỗ trong tủ áo của , em chán ngấy cái cảnh tha lôi đống đồ đạc của mình từ căn hộ này đến căn hộ kia rồi, nhìn kết quả xem!

      Andrew tiến bước về phía Valérie rồi níu tay lại để khiến chú ý.

      - biết em chơi trò gì, nhưng việc em ở đây là niềm ngạc nhiên lớn nhất đời . Chắc chắn em tin đâu, sửa soạn đến văn phòng gặp em. nhất định phải chuyện với em.

      - đúng lúc quá, em cũng vậy, chúng ta còn chưa quyết định gì liên quan đến dự định nghỉ tại Connecticut. Thế khi nào quay lại Argentina ấy nhỉ? Hôm qua rồi nhưng em ghét ý nghĩ đó đến mức quên ngay tắp lự.

      - Sao lại phải quay lại Argentina?

      Valérie quay người lại rồi nhìn Andrew chằm chằm. – Sao lại phải quay lại Argentina? Andrew nhắc lại.

      - Bởi tòa soạn giao cho “cuộc điều tra tối quan trọng đẩy nghiệp thăng tiến”? Em chỉ nhắc lại điều giải thích cho em vào cuối tuần vừa rồi trong cơn phấn khích gần như là nực cười của . Bởi vì tổng biên tập của gọi cho vào thứ Sáu vừa rồi để gợi ý quay lại đó, trong khi vừa mới từ đó về xong. Nhưng ấy cứ cố nằn nì mãi và vô cùng coi trọng cuộc điều tra này…

      Andrew còn nhớ rất cuộc trao đổi với Olivia Stern, nhớ cả chi tiết rằng nó diễn ra ngay sau khi trở về từ chuyến công tác đầu tiên ở Buenos Aires, vào hồi đầu tháng Năm, và giờ là đầu tháng Bảy.

      - ấy gọi cho vào thứ Sáu vừa rồi ư? Andrew ấp úng.

      - ăn chút gì , mất trí rồi.

      Andrew đáp lại. vội vã vào phòng ngủ, vớ lấy chiếc điều khiển đặt bàn ngủ đầu giường rồi bật ti vi. Kênh New York 1 phát chương trình thời buổi sáng.

      Sững sờ, Andrew nhận thấy mình biết từng tin tức mà phát thanh viên giới thiệu. Vụ hỏa hoạn thảm kịch hủy hoại hoàn toàn kho hàng của Queens và cướp mạng sống của hai mươi hai người…việc tăng thuế cầu đường ở lối vào thành phố có hiệu lực thực thi vào cùng ngày hôm đó. Nhưng cái ngày được nhắc tới lại từng diễn ra vào đúng hai tháng trước.

      Andrew nhìn dòng thông tin chạy ngừng ở phía dưới màn hình. Ngày mùng 7 tháng Năm hiển thị tại đó và phải ngồi phịch xuống giường để gắng hiểu chuyện gì xảy đến với mình.

      Người dẫn chương trình dự báo thời tiết thông báo cơn bão nhiệt đới đầu tiên của mùa này xuất , cường độ bão giảm bớt trước đổ bộ vào vùng ven biển Florida. Andrew Stilman biết rằng các nhà khí tượng học nhầm, và cơn bão nhân đôi sức mạnh vào cuối ngày, cũng như vậy, nhớ cả số nạn nhân khi cơn bão quét qua.

      Người thợ may từng với vào ngày nọ rằng cuộc sống hề giống như những chiếc máy mà ta chỉ cần bấm vào nút là cơ thể tua lại khoảng thời gian tùy thích, rằng thể quay ngược lại quá khứ. ràng là ông Zanetti lầm to. ai đó, ở nơi nào đó, hẳn bấm vào cái nút kỳ lạ, bởi cuộc sống của Andrew Stilman vừa mới được lùi về sáu mươi hai ngày trước.

      Andrew bước vào bếp, nén thở mở cửa tủ lạnh và tìm thấy thứ mà rất sợ trông thấy ở đó: cái túi ni lông đựng áo blouse mà vợ mình – khi ấy vẫn chưa là vợ – do bất cẩn cất vào từ tối qua cùng đống sữa chua mua tại cửa hàng đồ khô ở góc phố.





      mang áo lại cho , Valérie hỏi sao chiếc áo lại đóng đá thế kia, Andrew giải thích lý do cho nghe và Valérie hứa với rằng bao giờ trách mắng vì tội đãng trí nữa. Đó là lần thứ hai nghe thấy lời hứa này: lần thứ nhất cũng ở trong tình huống giống hệt cách đây hai tháng trước.

      - À, thế sao sáng nay lại đến tận văn phòng tìm em? Vừa hỏi vừa cầm lấy túi xách.

      - Chẳng vì lý do nào cả, chỉ là nhớ em thôi.

      hôn lên trán rồi vội vã rời nhà. Trong lúc nhắc lại lời chúc may mắn, cũng báo trước rằng có thể mình về muộn.

      Andrew cũng biết rằng chuyến thanh tra y tế diễn ra vì viên thanh tra đúng lúc đó bị tai nạn ô tô tại cầu Queensborough.

      Valérie gọi đến văn phòng vào lúc 18h30 để rủ xem phim. Andrew rời tòa báo rất muộn và chính vì lỗi của mà họ bị nhỡ buổi chiếu phim nên để chuộc lỗi, dẫn ăn tối trong thành phố.

      Andrew có trí nhớ siêu phàm. luôn lấy làm hãnh diện vì điều đó, nhưng chưa bao giờ mường tượng ra rằng ngày nào đó, khả năng này nhấn chìm trong trạng thái sợ hãi đến vậy.

      mình trong căn hộ, suy ngẫm về chuyện rất khó tưởng tượng này, Andrew hiểu rằng có sáu mươi hai ngày trước mặt để tìm cho ra kẻ sát hại mình và động cơ của là gì.

      Đúng thế, trước khi kẻ sát nhân đạt được mục đích…


    4. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      Chương 9





      Khi đến tòa soạn, Andrew quyết định thay đổi bất cứ điều gì trong thói quen hằng ngày của mình. cần lùi lại chút để đánh giá tình hình và suy ngẫm kỹ trước khi quyết định bất cứ chuyện gì. Vả lại, khi còn niên thiếu, từng đọc vài cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng có nhắc đến những chuyến du hành về quá khứ và nhớ lại rằng thay đổi tiến trình việc có thể gây ra những hậu quả tai hại.

      dành cả ngày trời chuẩn bị cho chuyến tới Argentina lần thứ hai mà từng thực trong cuộc đời trước đây. dự định dù sao vẫn tự cho mình quyền được thay đổi khách sạn ở Buenos Aires, khách sạn từng lưu trú gây cho những ấn tượng rất tồi tệ.

      trao đổi ngắn gọn vài câu với Freddy Olson, người ngồi ngay cạnh bàn làm việc của . Vì đố kỵ nên tay đồng nghiệp này ngừng tìm cách tống khứ ra khỏi ban biên tập, nếu cũng cố gắng đánh cắp của những chủ đề làm.

      Andrew nhớ rất lý do cuộc cãi vã giữa họ bởi chúng từng xảy ra. Thây kệ trật tự thế giới, Andrew chủ động kết thúc mọi chuyện. đuổi khéo Olson, nhờ đó mà tránh cho tổng biên tập phải rời khỏi lồng kính của mình để bắt chịu nhục khi xin lỗi tên ngu đần đó trước mặt tất thảy các đồng nghiệp.

      Chung quy lại Andrew cũng chính xác từng mi li mét theo mỗi bước chân từng , tự nhủ như vậy khi tiến lại bàn làm việc. Có thể nghiền nát vài con côn trùng từng sống sót sau những buổi chạy bộ buổi sáng thảm cỏ ở công viênRiverPark trong vòng hai tháng trước… hai tháng tới, cải chính thầm trong đầu.

      Ý nghĩ bất chấp tiến trình việc hề khiến phiền lòng. vẫn còn chưa cầu hôn Valérie – chỉ thực việc này ba ngày sau khi nhắc lại chuyến đến Buenos Aires của vẫn chưa làm trái tim tan vỡ, và vì thế vẫn chưa cần gì phải xin tha thứ. Nếu như có khả năng là cuối cùng hết đời trong vũng máu, trong khoảng sáu mươi ngày tới, chuyến ngược trở về quá khứ rốt cuộc chỉ toàn những lợi ích hay ho.

      Khi Valérie gọi cho vào lúc 18h30, phạm lỗi vụng về hứa với ngay lập tức tới gặp tại rạp chiếu phim trước cả khi đề nghị với như vậy.

      - Làm sao biết rằng em rủ xem phim? ngạc nhiên hỏi.

      - biết, ấp úng, tay quắp chặt cây chì viết. Nhưng đó là ý hay đúng ? Trừ phi là em thích ăn tối ở nhà hàng hơn?

      Valérie suy nghĩ trong giây lát rồi quyết định chọn ăn tối.

      - đặt bàn ở Omen nhé.

      - Tối nay có khiếu, em cũng nghĩ đến đúng quán đó.

      Cây chì viết của Andrew gãy tan trong lòng bàn tay .

      - Có nhiều tối như vậy lắm chứ, . Chúng ta gặp lại nhau trong khoảng gần giờ nữa nhé. Rồi hỏi về vụ thanh tra y tế diễn ra như thế nào, dù biết câu trả lời.

      - phải thanh tra nữa, Valérie đáp, viên thanh tra bị tai nạn ô tô đường đến. Em kể cho khi chúng ta ăn nhé.

      Andrew gác máy.

      - Mày phải tỏ ra tinh tế hơn chút nữa trong những tháng tới, nếu như muốn bị nghi ngờ, khẽ giọng tự nhủ.

      - Loại nghi ngờ gì đó? Freddy Olson ngó đầu qua vách ngăn ngăn cách giữa bàn ta và bàn của Andrew.

      - cho tôi biết , Olson, có phải mẹ chưa từng giải thích cho biết rằng nghe lén ngoài cửa chẳng lịch chút nào à?

      - Tôi chẳng nhìn thấy cái cửa nào sất, Stilman, là người có óc quan sát tinh tế đến thế cơ mà, chưa từng nhận ra rằng chúng ta làm việc trong gian mở à? chỉ cần hơn chút nữa thôi. tưởng rằng nghe mấy mẩu trao đổi của khiến tôi thấy thích thú lắm à?

      - Tôi chẳng giây phút nào nghi ngờ chuyện đó cả.

      - Thế , lúc nãy ngài đến loại nghi ngờ nào vậy, ngài phóng viên được thăng cấp?

      - Cái nhận xét nho này của chính xác là có nghĩa gì thế?

      - Ồ, thế đấy Stilman, ở đây ai mà chẳng biết thành tay chân thân cận của Stern. muốn gì nào, chúng tôi chẳng thể chống lại dạng chủ nghĩa nghiệp đoàn kiểu vậy đâu.

      - Tôi biết là tài năng báo chí của khiến chắc mình có thuộc về nghiệp đoàn nghề nghiệp của chúng ta hay và tôi cũng chẳng buộc tội đâu, nếu tôi cũng kém cỏi như . Olson à, tôi chắc cũng nghi ngờ như vậy thôi.

      - nực cười! Nhưng tôi chẳng về chuyện đó, Stilman, đừng ra vẻ ngốc nghếch hơn là mình vốn thế .

      - Thế định về cái gì hả Olson?

      - Stilman, Stern, hình như cũng hơi có chung nguồn gốc phải?

      Andrew chăm chú quan sát Freddy. nhận thấy rằng trong cuộc đời trước đây – và suy nghĩ kiểu này dường như vẫn quá phi lý với đến nỗi khó lắm mới quen nổi – cuộc cãi vã với Olson diễn ra sớm hơn, vào thời điểm Olivia Stern vẫn còn ở văn phòng. Thế nhưng giờ khỏi cách đây tầm hơn nửa tiếng rồi, cũng như phần lớn các đồng nghiệp của , họ ra về vào quãng 18h. Trình tự mọi chuyện, do các hành động của tác động, giờ dần thay đổi và Andrew rút ra kết luận rằng sai lầm nếu tranh thủ tận dụng tượng này. tát cái như trời giáng vào mặt Freddy Olson, ta lùi hẳn lại, miệng há hốc.





      - Cứt , Stilman, tôi kiện , ta vừa xoa xoa má vừa đe dọa. Khắp quanh nơi này có đầy các thể loại camera an ninh.

      - Cứ làm , xin cứ tự nhiên, tôi giải thích lý do tại sao bị ăn tát. Tôi chắc rằng đoạn video đó có thể thành công vang dội internet.

      - chẳng thể thoát tội dễ dàng đến thế đâu!

      - biết mình đoán chuẩn thế nào đâu! Thôi được rồi, giờ tôi có hẹn và làm tôi mất kha khá thời gian rồi đấy.

      Andrew vớ lấy áo vest rồi vừa lao vào thang máy vừa giơ ngón tay thối lên với Freddy, ta vẫn xoa má. Trong buồng thang máy dẫn thẳng xuống tầng trệt, Andrew vẫn còn nổi giận với gã đồng nghiệp đó, nhưng rồi tự nhủ rằng tốt hơn hết mình nên dịu lại trước khi gặp mặt Valérie, hẳn vô cùng khó khăn khi phải giải thích cho điều vừa xảy ra.

      *



      Ngồi ngay ở quầy nhà hàng Nhật thuộc khu SoHo, Andrew khó khăn lắm mới tập trung lắng nghe những điều Valérie . Lý do là vì biết tỏng toàn bộ cuộc trao đổi của họ rồi. Và trong lúc kể về ngày làm việc của mình, nghĩ cách tận dụng tối đa tình huống này sao cho ít phải bối rối nhất.

      vô cùng tiếc vì lúc nào cũng coi thường chuyên mục thời tài chính. Thử nghĩ mà xem, hẳn kiếm đủ để tạo lập gia tài nho nếu như có để tâm đôi chút đến vấn đề này. Nếu nhớ tỷ giá thị trường chứng khoán trong vài tuần tới, vốn từng là quá khứ với , hẳn có thể thu lợi cực lớn bằng cách sử dụng khoản tích lũy của mình. Nhưng chẳng làm gì chán bằng thị trường chứng khoán phố Wall cùng các chỉ số của nó.

      - hề nghe lấy từ em . Em có thể biết nghĩ gì ?

      - Em vừa mới với về Licorice, trong những con ngựa mà em nhất, bị viêm gân rất tồi tệ và em e rằng đây là những ngày cuối cùng nó phục vụ trong lực lượng cảnh sát cưỡi ngựa; em cũng rằng viên sĩ quan… ôi quên béng mất tên ta rồi… tóm lại là, tay kỵ sĩ an tâm nếu như phải loại trừ con nghẽo của mình.

      Valérie sững sờ nhìn Andrew mà năng gì.

      - Cái gì vậy, Andrew lên tiếng hỏi? Đó chẳng phải là những gì em vừa đó sao?

      - , đó phải là những gì em vừa với mà chính xác là những gì em sắp sửa với đấy. Chuyện gì xảy đến với ngày hôm nay vậy, nuốt trọn quả cầu pha lê thay vì bữa sáng à?

      Andrew gượng cười.

      - Có lẽ em hơi đãng trí hơn em nghĩ rồi, chỉ có mỗi việc là nhắc lại lời em mà. Sao em có thể nghĩ là biết tất thảy những điều đó?

      - Đó chính xác là câu mà em muốn hỏi đây!

      - Có lẽ em nghĩ về chuyện đó quá nhiều đến nỗi có thể nghe thấy ngay cả trước khi em cất tiếng, điều đó chứng tỏ rằng chúng ta quả là có thần giao cách cảm, vừa vừa mỉm cười quyến rũ.

      - gọi đến văn phòng em, gặp Sam và tra hỏi ta.

      - hề biết gã Sam nào và thề với em là hề gọi tới văn phòng em.

      - Đó là trợ lý của em.

      - Em thấy đó, chẳng hề có quả cầu pha lê nào, cứ tưởng ta tên là John hay gì gì đó đại loại thế. Chúng ta có thể chuyển chủ đề khác được ? Andrew gợi ý.

      - Thế còn , ngày hôm nay của thế nào?

      Câu hỏi này khiến Andrew chìm sâu vào dòng suy nghĩ.

      chết trong khi chạy bộ tập thể dục buổi sáng, rồi lại thức dậy sau đó chút ở cách nơi bị sát hại khoảng tầm dặm, và rồi còn ngạc nhiên hơn nữa là vào thời điểm cách ngày bị tấn công những hai tháng. Kể từ đó, sống lại ngày hôm nay, gần giống như cái ngày mà trải qua trong quá khứ.

      - Chuyện dài lắm, đáp ngắn gọn, ngày của dài lắm, có thể rằng cảm thấy mình trải qua ngày này lần thứ hai!

      *



      Sáng hôm sau, Andrew chỉ có mình trong thang máy cùng nữ tổng biên tập. đứng ngay sau , nhưng qua ánh phản chiếu từ cửa thang máy có thể nhìn thấy quan sát vẻ rất lạ lùng, nhìn theo kiểu người ta chăm chú quan sát bạn trước khi thông báo cho bạn tin xấu. đợi lúc rồi bắt đầu mỉm cười.

      - À này, như thể mình tiếp tục cuộc trò chuyện dang dở, trước khi mà gã xuẩn ngốc Olson kịp mách lẻo, tôi cho cú bạt tai ngay trước khi tan sở làm vào tối qua.

      - làm gì cơ? Olivia thốt lên.

      - Tôi nghĩ là nghe được chính xác đó. Thành thực mà , tôi nghĩ rằng biết chuyện này rồi.

      - Thế sao lại làm chuyện đó?

      - Chẳng có gì liên quan đến tòa soạn cả, cứ an tâm, và nếu như tay u mê kia có khởi kiện tôi đảm bảo mình chịu toàn bộ trách nhiệm.

      Olivia nhấn nút tạm dừng rồi ấn nút xuống tầng trệt, thang máy dừng khựng lại rồi lao xuống dưới.

      - Chúng ta đâu vậy? Andrew hỏi.

      - uống cà phê.

      - Nếu là cà phê tôi mời , bàn cãi gì cả, Andrew đáp trong lúc cửa thang máy mở ra.

      Họ ngồi vào bàn trong quầy bán cà phê. Andrew lấy hai cốc cà phê mocaccino và tranh thủ mua chiếc bánh sừng bò kẹp giăm bông.

      - Tính mọi khi đâu có thế, Olivia Stern lên tiếng.

      - Đó chỉ là cái tát thôi, có quan trọng gì đâu, đáng đời ta.

      Olivia nhìn rồi đến lượt bắt đầu mỉm cười.

      - Tôi điều gì buồn cười lắm hả? Andrew hỏi.

      - Lẽ ra tôi phải giảng bài đạo đức cho , phải với rằng những hành động như vậy là thể chấp nhận nổi và có thể phải chịu phạt đình chỉ công tác thời gian, nếu muốn là bị đuổi việc, nhưng tôi thể làm như vậy.

      - Vậy điều gì ngăn cản ?

      - Vì tôi cũng muốn cho tên Olson đó cái tát hệt như thế.

      Andrew tránh đưa ra bất cứ lời bình luận nào và Olivia lại tiếp tục liền ngay sau đó.

      - Tôi đọc hết ghi chép của , tốt lắm, nhưng chưa đủ. Để có thể công bố được câu chuyện của , tôi cần thứ gì đó chi tiết cụ thể, những lời chứng thể bác bỏ cũng như các bằng chứng… tôi ngờ là cố tình tiết giảm trong bài viết của mình.

      - Sao tôi lại phải làm thế chứ?

      - Bởi vì vớ được mẻ cực lớn và muốn tiết lộ tất cả cho tôi vào thời điểm này.

      - gán cho tôi cái ý định kỳ cục quá.

      - Tôi học được cách hiểu , Andrew à. Có có lại, tôi chấp thuận đề nghị của , quay lại Argentina, nhưng để tôi xác nhận việc bao trọn chi phí cho phải thỏa mãn trí tò mò của tôi. lần ra dấu vết của người đàn ông đó, đúng nào?

      Andrew nhìn chăm chú sếp mình trong giây lát. Kể từ khi dấn thân vào cái nghề này, học được cách nên tin tưởng bất cứ ai. Nhưng biết rằng nếu mình tiết lộ thứ gì đó, Olivia để quay trở lại Buenos Aires, và như từng tiên đoán, vào hồi đầu tháng Năm, còn lâu mới kết thúc được cuộc điều tra của mình.

      - Tôi nghĩ là mình đúng hướng, vừa đặt tách cà phê xuống bàn vừa nhượng bộ.

      - Và như các ghi chép của ám chỉ, nghi ngờ ta có tham gia hành vi phi pháp này chứ?

      - Rất khó có thể khẳng định bất cứ điều gì. Có rất nhiều người bị liên lụy trong những vụ việc như thế này, và để cho ai đó mở miệng quả chẳng phải là chuyện dễ dàng. Đó vẫn còn là chủ đề nhức nhối đối với phần lớn người dân Argentina. Vì rằng chúng ta tâm nên tôi có thể biết tại sao lại thiết tha cuộc điều tra này đến vậy ?

      Olivia Stern nhìn phóng viên của mình chằm chằm.

      - tìm ra ta đúng nào? tóm được Ortiz đúng ?

      - Cũng có thể là như vậy… nhưng tôi cũng đồng tình với , tôi vẫn còn chưa có đủ cơ sở để có thể cho in câu chuyện này, và chính vì vậy mà tôi cần phải quay trở lại đó. có đồng ý với tôi về việc vẫn chưa trả lời câu hỏi của tôi

      Olivia liền đứng bật dậy rồi ra hiệu rằng có thể kết thúc cái bánh của mình mình.

      - Đó là ưu tiên tuyệt đối của , Andrew à, tôi cầu phải dốc toàn bộ trăm phần trăm sức lực cho vụ này. tháng hơn kém.

      Andrew nhìn tổng biên tập rời khỏi quán cà phê. Hai luồng suy nghĩ ào đến choán ngợp tâm trí . hoàn toàn chẳng quan tâm đến những lời đe dọa của ta vì biết đích xác rằng mình lại quay trở lại Buenos Aires vào cuối tháng và đưa cuộc điều tra đến hồi kết đúng hạn. Trong cuộc trò chuyện vừa rồi, Olivia hề cho thời gian để phản kháng và phải suy nghĩ về điều này hai lần trước khi , đồng thời cũng liên tục tự vấn về điều xem như biết và điều vẫn còn chưa biết tới.

      Và vì những lẽ , hề có chút ý niệm nào về chuyện mình đưa cho tổng biên tập xem những ghi chép của mình, cả trong cuộc đời tại cũng như trong cuộc đời vốn kết thúc lối của công viên River Park. Mặt khác, chắc chắn trước kia mình chưa từng có cuộc trao đổi như thế này với .

      Và trong lúc quay trở lại văn phòng, Andrew tự nhủ rằng có lẽ nên tát Freddy Olson vào tối hôm trước. Từ giờ trở , phải cẩn thận để làm thay đổi trình tự số việc.

      *



      Andrew tranh thủ quãng thời gian nghỉ để bộ dọc đại lộ Madison và dừng lại trước quầy kính của tiệm nữ trang. Tuy cũng có nhiều tiền gì cho cam, nhưng lời cầu hôn của còn mãnh liệt hơn lần đầu tiên bội phần. cảm thấy mình có đôi chút nực cười khi thể tặng món nữ trang nho theo nghi lễ vào lúc quỳ gối xuống cầu hôn ở tiệm của Maurizio.

      bước vào cửa hàng rồi chăm chú ngắm nhìn các tủ kính. phải chịu là đúng trước lẽ hiển nhiên, người ta đâu thể chơi đùa dễ dàng đến thế với trình tự các kiện. Cuộc sống có trật tự nhất định dễ gì đảo lộn. nhận ra chiếc nhẫn mà Valérie chọn lúc họ cùng nhau tới mua trong số khoảng chục chiếc khác. Ấy thế mà Andrew chút nghi ngờ về việc chuyện này hề xảy ra ở tiệm kim hoàn này.

      Nhưng nhớ rất giá của chiếc nhẫn này. Chính vì thế mà khi tay bán nữ trang tìm cách làm cho tin rằng cần phải trả giá gấp đôi, Andrew đáp lại chắc nịch:

      - Viên kim cương này nặng gần 0,95 carat, và dù rằng thoạt nhìn nó cũng khá là sáng đấy, nhưng đó là mẫu chế tác cũ rồi và nó bị lẫn khá nhiều tạp chất nên trị giá của nó vượt quá phân nửa số mà ông vừa đòi tôi đâu.

      Andrew chỉ việc nhắc lại nguyên si lời tay bán nữ trang trước giải thích khi mua chiếc nhẫn này cho Valérie. còn nhớ như in phản ứng của vị hôn thê khiến xúc động sâu sắc. chờ đợi chọn viên đá có chất lượng tốt hơn, nhưng khi lồng chiếc nhẫn vào ngón tay, Valérie với người bán hàng rằng như thế này là quá đủ với .

      - Thế nên tôi chỉ thấy có hai lời giải thích hợp lý mà thôi, Andrew tiếp tục. Hoặc là ông nhầm về thông số tham chiếu khi nhìn giấy ghi giá, tôi chê trách gì ông đâu khi mà mấy cái chữ bé li ti và khó đọc như thế kia, hoặc là ông tìm cách lừa phỉnh tôi. tiếc là chuyện này lại khiến tôi muốn viết bài ngăn ngắn về những trò bịp của các tay chủ tiệm kim hoàn. Tôi với ông rằng tôi là phóng viên của tờ The New York Times chưa nhỉ?

      Người bán hàng liền kiểm tra lại nhãn ghi giá, nhíu mày rồi thẹn thùng thông báo rằng ông ta quả nhầm, chiếc nhẫn này có giá trị đúng như giá mà Andrew trả.

      Vụ mua bán được kết thúc theo đúng trình tự và Andrew trở ra đại lộ Madison với món nữ trang nho xinh xắn ở đáy túi áo veston.

      Vụ mua bán thứ hai trong ngày là chiếc khóa số để khóa ngăn kéo bàn làm việc của mình lại.

      Lần mua bán thứ ba là cuốn sổ giả da có đai chun. mua phải cho những ghi chép liên quan đến bài báo của mình mà là cuộc điều tra khác giờ là ưu tiên số của : tìm ra, nhiều nhất là trong vòng năm mươi chín ngày, danh tính kẻ sát hại và ngăn cho đạt được mục đích.

      Andrew bước vào Starbucks Coffee. mua tạm thứ gì đó bỏ bụng rồi ngồi xuống chiếc ghế bành da và bắt đầu suy nghĩ về tất cả những kẻ những muốn lấy mạng . Những suy nghĩ kiểu này khiến thấy khó chịu kinh khủng. Vậy là bỏ qua những gì trong cuộc sống của mình để tới mức phải tiến hành dạng “kiểm kê” kiểu này.

      ghi lại tên của Freddy Olson. Ta chẳng bao giờ biết đồng nghiệp cùng phòng có thể thực làm những gì, cũng như ghen tỵ có thể dẫn đến đâu. Nhưng rồi Andrew thấy yên tâm ngay tức , Olson thực tay hèn nhát nhu nhược và hơn nữa cả hai chưa bao giờ thượng cẳng chân hạ cẳng tay trong cuộc đời trước kia.

      cũng nhận được những lá thư đe dọa ngay sau khi bài báo phanh phui vụ buôn bán trẻ em ở Trung Quốc được đăng. Bài báo của hẳn làm đảo lộn cuộc sống của rất nhiều gia đình Mỹ có liên quan đến vấn đề này.

      Trẻ con thiêng liêng; tất thảy các bậc cha mẹ thế giới đều với bạn điều này, họ sẵn lòng làm tất cả để bảo vệ con cái mình, thậm chí là giết người.

      Andrew tự hỏi điều chính bản thân mình làm nếu như nhận nuôi đứa trẻ và có tay nhà báo nào đó gán cho tội vô tình tiếp tay cho dạng hoạt động phi pháp này khi khẳng định rằng đứa trẻ mà nhận nuôi có thể bị cướp khỏi tay bố mẹ đẻ của chúng.

      - Mình có lẽ hận đến tận cuối đời kẻ nào mở chiếc hộp Pandora[1] này ra, Andrew lẩm bẩm.

      [1] Trong thần thoại Hy Lạp, chiếc hộp Pandora là chiếc hộp do các vị thần đỉnh núi Olympus tặng cho nàng Pandora – người phụ nữ đầu tiên đến thế giới loài người. Nàng Pandora được các vị thần dặn kỹ rằng được mở chiếc hộp đó ra. Nhưng vì tò mò, Pandora mở chiếc hộp ra và những gì chứa trong chiếc hộp kỳ bí đó khiến cho tất cả những điều bất hạnh tràn ngập khắp thế gian: thiên tai, bệnh tật, chiến tranh…

      phải làm gì khi biết rằng sớm hay muộn đứa trẻ bạn nhận nuôi khám phá ra , khi mà giờ đây được đông đảo công luận biết đến? Cùng lúc làm tan vỡ trái tim của cả nó lẫn bạn khi đưa nó trở lại gia đình hợp pháp của nó ư? Sống trong dối trá và đợi cho đến khi nó bước sang tuổi trưởng thành, nó trách bạn nhắm mắt làm ngơ trước vụ buôn bán bất hợp pháp tồi tệ bậc nhất này ư?

      Khi viết bài báo này, Andrew mới chỉ lường trước được số ít những hệ lụy của những phát như thế này. Có bao nhiêu ông bố bà mẹ người Mỹ mà phải đắm chìm trong tình cảnh đau lòng đến xé ruột này? Nhưng chỉ có việc là đáng kể, nghề của là làm sáng tỏ ; ta chẳng bao giờ có thể phán xét vật hay tượng theo quan điểm của riêng mình cả, như bố vẫn từng .

      liền gạch tên Olson trong sổ rồi đánh dấu phải đọc lại ba lá thư nặc danh đe dọa lấy mạng mình.

      Rồi nghĩ đến cuộc điều tra ở Argentina. Nền độc tài chuyên chế thống trị từ năm 1976 đến 1983 ngần ngại cử những tay sát nhân ra ngoài biên giới để trừ khử những kẻ chống đối chế độ hay những ai có nguy cơ tố cáo các thủ đoạn phạm tội đó. Thời thế giờ thay đổi, nhưng số phương pháp vẫn luôn ăn sâu bám rễ vĩnh viễn trong tâm trí những kẻ gàn dở nhất.

      Vụ điều tra này hẳn gây phiền toái cho chỉ người. Giả thiết rằng tay cựu quân nhân, tay phụ trách ESMA[2], hay kẻ phụ trách trong những trại bí mật nơi nạn nhân của các vụ mất tích cưỡng bức bị đưa đến đó để rồi bị tra tấn và sát hại, là có khả năng xảy ra, nếu phải là khả dĩ.

      [2] Viện Kỹ thuật Hàng hải trong chế độ độc tài cuối cùng che giấu trong những nhà tù bí mật lớn nhất nước. (Chú thích của tác giả.)

      Trong cuốn sổ tay kia, Andrew bắt đầu chép lại tên của tất cả những người mà từng phỏng vấn trong chuyến công tác đầu tiên. Vì những lý do hiển nhiên, các ghi chép trong chuyến thứ hai hiển trong đó. Khi trở lại Buenos Aires, chú ý để nêu cao cảnh giác hơn nữa.

      - Vẫn như mọi khi thôi, mày lúc nào cũng chỉ nghĩ đến công việc và công việc, vừa khẽ giọng tự nhủ vừa lật từng trang trong sổ tay.

      Thế còn tay bạn trai cũ của Valérie sao? chưa từng gì về ta, hai năm chung sống phải là chuyện tầm phào. tay bị đá phắt cái vì kẻ khác có thể trở nên hung hãn lắm chứ.

      Nghĩ về tất cả những kẻ có thể muốn trừ khử mình khiến ăn mất cả ngon. Andrew đẩy đĩa thức ăn ra rồi đứng dậy.

      đường quay về văn phòng, Andrew xoay xoay món nữ trang nho ở đáy túi mình, đồng thời gắng xem xét tới, dù chỉ trong giây lát, giả thiết vừa mới lướt qua tâm trí .

      Valérie đời nào có khả năng thực hành vi kiểu này.

      - Mi thực chắc về điều đó chứ? Lương tâm vừa thổi qua luồng gió độc khiến máu đông cứng lại.

      *



      Thứ Năm của tuần đầu tiên kể từ khi sống lại – cụm từ này luôn làm khiếp sợ mỗi khi nhắc đến – Andrew, chưa bao giờ thấy việc trở lại Buenos Aires lại cấp thiết đến vậy, liền bắt tay ngay vào việc chuẩn bị kỹ lưỡng đến tận những chi tiết cuối cùng cho chuyến hành trình của mình. Cuối cùng cũng hủy ý định thay đổi khách sạn, bởi từng có những cuộc gặp gỡ mang tính chất quyết định với cuộc điều tra của mình ở đây.





      phục vụ quầy bar, Marisa nào đó, tin tưởng đưa cho địa chỉ quán cà phê là nơi tụ tập thường xuyên của các cựu thành viên ERP, Lực lượng vũ trang cách mạng nhân dân, và các Montoneros từng sống sót qua nơi giam giữ nào đó. Họ cũng chẳng đông đảo gì cho cam. cũng liên hệ giúp cuộc gặp gỡ với trong những Bà mẹ của quảng trường tháng Năm, những người phụ nữ có con bị đặc nhiệm quân đội bắt bao giờ xuất trở lại; những người phụ nữ bất chấp chế độ độc tài, sải bước vỉa hè của quảng trường tháng Năm trong nhiều năm ròng với tấm panô dán ảnh những người mất tích.

      Marisa vô cùng khêu gợi và vẻ quyến rũ của thể khiến Andrew dửng dưng. Quả nhiên vẻ đẹp của phụ nữ Argentina hổ danh là huyền thoại.

      *



      Simon gọi cho vào lúc 11h để rủ ăn trưa. Andrew còn nhớ về cuộc gặp gỡ này nữa. Có thể trong lúc ăn nhớ lại cuộc trò chuyện giữa họ.

      *



      Ngay khi Simon thao thao kể với về người phụ nữ gọi cho mình ngày hôm trước – bạn từng gặp ta trong kỳ nghỉ thể thao mùa đông – Andrew liền nhớ ra rằng bữa ăn trưa này chẳng có gì quan trọng cả. biết bao nhiêu lần rồi, Simon luôn say đắm nào đó vì ngoại hình nổi bật chứ hẳn là vì trí tuệ của ta. Còn Andrew chỉ muốn nhanh nhanh chóng chóng quay trở lại với bài báo của mình, liền cắt ngang lời bạn và thẳng thừng tuyên bố rằng Simon đâm đầu vào ngõ cụt.

      - Cậu kể ràng với tớ rằng nàng sống ở Seattle và nàng ghé qua New York bốn ngày, đúng nhỉ?

      - Chính xác, chính tớ là người nàng chọn gọi điện để nhờ đưa nàng thăm phố phường, Simon đáp lại ngay tức , vẻ rạng ngời hạnh phúc hơn bao giờ hết.

      - Tuần tới, chúng ta lại ngồi cùng nhau tại chính chiếc bàn này và cậu lại với tớ về tâm trạng cực kỳ điên tiết mà cậu tự chuốc lấy. Người đẹp tìm kiếm thằng đần như cậu để đưa nàng chơi trong vòng ba ngày, để thanh toán mọi chi phí và cho nàng mái nhà để ngủ. Buổi tối khi trở về nhà cậu, nàng viện cớ là mệt đến chết lên được và diễn với cậu cái vở em muốn lắm nhưng đành lòng rồi ngủ khò ngay tức . Và toàn bộ phần thưởng chỉ là cậu có quyền hôn phớt lên má nàng vào ngày nàng khởi hành.

      Simon há hốc mồm.

      - Em muốn lắm nhưng đành lòng là cái quái gì vậy?

      - Cậu muốn tớ vẽ tranh miêu tả cho cậu chắc?

      - Thế sao cậu lại biết tất cả chuyện đó?

      - Tớ biết tuốt, thế thôi!

      - Cậu ghen ăn tức ở có, đáng thương.

      - Kỳ nghỉ Giáng sinh của cậu kết thúc được năm tháng rồi, vậy trong thời gian đó cậu có tin tức gì của nàng ?

      - , nhưng rốt cuộc, cậu thấy đó, với khoảng cách giữa Seattle-New York…

      - Tin tớ , nàng ta nhòm lại cuốn danh bạ địa chỉ và thả mối hú họa thôi, Simon thân mến của tớ à!

      Andrew thanh toán tiền ăn. Cuộc chuyện trò này đưa về với kỳ nghỉ Giáng sinh và kỷ niệm về việc từng xảy đến với vào ngày hôm sau đêm Giáng sinh, khi đó bị chiếc ô tô rời khỏi đồn cảnh sát phố Charles đâm phải. Tiến hành điều tra nghiệp vụ báo chí vốn là nghề của , nhưng cuộc điều tra tội phạm lại đòi hỏi những khả năng đặc biệt hơn nữa. giúp đỡ của cảnh sát, ngay cả khi người đó còn làm trong ngành, có thể trở nên vô cùng hữu ích với . tìm trong sổ tay số điện thoại mà thanh tra Pilguez nào đó ghi lại cho .





      Chương 10





      Sau khi chia tay Simon, Andrew liền gọi ngay cho thanh tra Pilguez. Trả lời là tiếng hộp thư thoại, Andrew phân vân biết có nên để lại tin nhắn rồi gác máy.

      đường đến tòa soạn, thốt nhiên rùng mình và thấy đau quặn vùng thắt lưng, cơn đau dữ dội đến mức buộc phải dừng lại bám vào tay vịn cầu thang. Andrew chưa bao giờ đau lưng và cơn đau bất thường này quên gợi nhắc cho nhớ rằng thời điểm tai ác kia gần kề. Nếu như cái chết sắp tới buộc phải diễn ra theo cách ấy, nghĩ, có lẽ tốt nhất nên nhanh chóng tự kê cho mình lô thuốc giảm đau hơn.

      Nữ tổng biên tập đường từ chỗ ăn trưa về văn phòng bắt gặp ở chân cầu thang, người co rúm lại vì đau, trong khi vẫn gắng lấy lại hơi.

      - khỏe chứ Andrew?

      - rất thực là trước đây tôi từng cảm thấy khá hơn thế này.

      - Trông xanh rớt rồi kìa, tôi gọi cấp cứu 911 nhé?

      - sao đâu, chỉ là cơn đau vùng thắt lưng ấy mà, nó chóng khỏi thôi.

      - nên nghỉ làm buổi chiều, rồi nghỉ ngơi .

      Andrew cám ơn Olivia. vốc nước lên mặt cho mát rồi tất cả lại đâu vào đấy thôi.

      Khi soi mình trong gương nhà vệ sinh, Andrew có cảm tưởng như thấy cái chết lảng vảng quanh sống lưng mình rồi nghe thấy mình thào:

      - Mi được tặng phần đời, bạn thân mến à, nhưng mi phải thiết tha với việc vận dụng trí óc nếu như muốn phần đời này kéo dài thêm. mi cũng tin rằng kiểu tượng này dành cho tất cả mọi người! Mi viết đủ cáo phó cho người chết để có thể hiểu khi chiếc đồng hồ sinh học của mi ngừng chạy có nghĩa là như thế nào. được để bất cứ thứ gì tuột khỏi tầm tay của mi nữa, bất cứ chi tiết nào, thời gian cứ trôi và nó trôi mỗi lúc nhanh hơn.

      - Ra là còn chuyện mình nữa ư, Stilman? Olson vừa rời khỏi buồng vệ sinh vừa hỏi.

      ta kéo khóa quần lên rồi lại gần Andrew, ngay gần bồn rửa tay.

      - Hôm nay tôi có tâm trạng để đùa đâu, Andrew vừa đáp vừa đưa cả mặt vào dưới vòi nước.

      - Tôi thấy điều đó rồi. Tôi thấy thời gian gần đây kỳ lạ vô cùng, tôi mưu chuyện gì, nhưng hẳn là vụ việc của rất đáng ngờ.

      - Olson, nên lo chuyện của mình , và để cho tôi yên.

      - Tôi tố cáo ! Olson tự hào thông báo, như thể ta khoe khoang chiến tích hùng.

      - Tốt đấy, Freddy, đúng là đàn ông đích thực.

      Olson tiến về phía giá khăn giấy lau tay rồi dùng hết sức kéo cuộn giấy.

      - Cái của khỉ này chẳng bao giờ hoạt động tử tế cả, vừa vừa đập vào nắp khay.

      - nên viết bài, tôi dám chắc là bài báo đó được mến mộ lắm lắm, bài tuyệt cú nhất của trong mùa này, “Lời nguyền của khăn lau tay” do Freddy Olson viết.

      Olson liếc nhìn Andrew đầy tức tối.

      - Thôi được rồi, tôi đùa đấy, đừng để ý nhé.

      - Tôi thích , Stilman, và tôi phải là người duy nhất trong tòa soạn này thể chịu nổi thói cao ngạo của , nhưng chí ít tôi cũng giả vờ. Có rất đông những người như chúng tôi chờ dịp để trả thù . Cuối cùng cũng bị hạ bệ thôi.

      Đến lượt Andrew lại chăm chú quan sát đồng nghiệp của mình.

      - Thế còn những ai tham gia câu lạc bộ đầy nhộn nhịp chống-Stilman vậy?

      - Trước hết hãy tìm những kẻ đánh giá cao , thấy là danh sách cũng chẳng phải là dài gì cho cam.

      Olson đưa ánh mắt coi thường nhìn Andrew rồi rời khỏi toa lét.

      Cố chống lại cơn đau, Andrew theo rồi bắt kịp trước thang máy.

      - Olson! Tôi sai khi đánh . Khi đó tôi hơi cả giận mất khôn, mong thứ lỗi.

      - vậy ư?

      - Giữa đồng nghiệp với nhau, chúng ta cần cư xử ôn hòa mà.

      Freddy nhìn Andrew.

      - OK, Stilman, tôi chấp nhận lời xin lỗi của .

      Olson chìa tay ra và Andrew lấy hết sức bình sinh để siết chặt tay ta. Tay Olson ẩm ướt kinh khủng.

      Cả buổi chiều, Andrew mệt mỏi khật khừ đến nỗi thể viết nổi cái gì. tận dụng khoảng thời gian này để đọc lại những dòng đầu tiên trong bài báo viết về những kiện gây chấn động Argentina dưới chế độ độc tài.

      Andrew Stilman, The New York Times

      Buenos Aires, 24 tháng Ba 1976

      cuộc đảo chính mới lại đưa kẻ độc tài lên nắm chính quyền. Sau khi cấm các đảng phái chính trị cùng các nghiệp đoàn hoạt động, thiết lập hệ thống kiểm duyệt báo chí khắp cả nước, tướng Jorge Rafaël Videla cùng các thành viên của nhóm đảo chính quân tổ chức chiến dịch trấn áp mà quốc gia Argentina chưa từng biết đến trong lịch sử.

      Mục đích của chiến dịch được công bố là nhằm ngăn ngừa các cuộc nổi dậy, loại bỏ mọi phần tử bị nghi ngờ là quân ly khai. Thế là cuộc săn người được tiến hành khắp đất nước. Những ai chống đối chế độ, cùng bạn bè họ, hoặc đơn giản là có mối quan hệ với tất cả những ai thể quan điểm trái ngược với những giá trị bảo thủ của nền văn minh Cơ Đốc giáo bị coi là phần tử khủng bố, bất chấp tuổi tác hay giới tính.

      Nhóm đảo chính lên nắm quyền còn mở ra rất nhiều nhà tù bất hợp pháp, thành lập các bộ phận đặc biệt gồm nhiều đơn vị cảnh sát và các thành viên trực thuộc ba thành phần của quân đội.

      Theo lệnh của nhiều quan chức lãnh đạo vùng, nhiệm vụ của họ là bắt cóc, tra tấn, sát hại mọi phần tử bị nghi ngờ là có thiện cảm với phe đối lập. Trong vòng mười năm, nhóm đảo chính nắm chính quyền biến thành nô lệ và làm mất tích hơn ba mươi nghìn người, bao gồm cả đàn ông lẫn phụ nữ mọi lứa tuổi, nhưng đa phần tuổi đời còn rất trẻ. Hàng trăm đứa trẻ bị giật khỏi tay mẹ đẻ chúng ngay khi mới lọt lòng để trao cho những thành phần ủng hộ chế độ. Nhân thân của những đứa trẻ này bị xóa sổ cách có hệ thống để rồi được tạo ra nhân thân mới hoàn toàn. Luận thuyết của chính quyền đương nhiệm viện đến thứ luân lý Cơ Đốc giáo sắt đá: đánh cắp những tâm hồn trong trắng khỏi tay những ông bố bà mẹ có tư tưởng suy thoái để cứu nguy cho chúng bằng cách trao chúng cho những gia đình đủ tư cách nuôi dạy chúng.

      Những kẻ “mất tích”, người ta thường gọi họ như vậy, bị chôn trong những hố chôn tập thể và rất nhiều người trong số đó, bị gây mê trong những trại giam trước khi đưa lên máy bay bí mật, bị quăng xuống sông Rio Grande hay xuống biển.

      chẳng còn chút dấu vết nào về cuộc tàn sát này có thể buộc tội các nhà cầm quyền…

      Andrew đọc lướt biết bao lần danh sách tập hợp tên tuổi những kẻ tham gia những tội ác dã man kia. Từng vùng , từng khu đô thị , từng trại tập trung . Thời gian trong ngày dần trôi trong quá trình đọc tên những đao phủ đó, cùng lúc tiếp tục xem xét tỉ mỉ bản sao lời khai của các nhân chứng, lời thú tội vào phút cuối trong những phiên tòa vốn chẳng có tác dụng gì. Khi nền dân chủ được tái thiết lập, những kẻ bạo tàn kia gần như hoàn toàn thoát khỏi việc bị trừng phạt sau khi luật ân xá được thông qua.

      Trong khi tiến hành công việc tỉ mẩn này, Andrew tiếp tục tìm kiếm mệt mỏi dấu vết tay Ortiz nào đó mà theo những thông tin do tổng biên tập chia sẻ, hành trình của ta tiêu biểu cho những quân nhân thực thà chất phác trở thành kẻ đồng phạm mặc nhiên của tội ác tàn bạo này.

      Tại sao lại đặc biệt đến vậy? Số phận của thuộc hàng bí hiểm bậc nhất, Olivia Stern từng với . Cho dù ở Argentina hay nơi nào đó, vấn đề vẫn luôn chỉ là : chính quyền đương thời khơi lên nhiệt huyết nào để biến những người đàn ông bình thường này thành kẻ tra tấn dã man, làm sao mà người bố trong gia đình có thể trở về nhà, ôm hôn vợ con mình sau khi trải qua ngày tra tấn và sát hại bao phụ nữ và trẻ con khác?

      Andrew biết mình chỉ thiếu chút nữa là tóm được Ortiz. Phải chăng chính trong những đồng phạm cũ, trong những bạn chiến đấu của theo đến tận lối của công viên River Park?

      Có điều gì đó khập khiễng trong giả thiết này. Andrew bị giết hai ngày trước khi bài báo của được đăng tải, vì thế thể có chuyện trả thù được. Tuy vậy, tự nhủ, khi quay trở lại Buenos Aires, phải cảnh giác hơn lúc ở cuộc đời trước.

      Càng nghĩ, càng thấy ràng là mình cần giúp đỡ. gọi lại cho thanh tra Pilguez.

      Viên cảnh sát về hưu cho rằng cú điện thoại này hề báo trước điều gì tốt đẹp và rằng Andrew rốt cuộc quyết định tiến hành truy tố sau vụ tai nạn mà ông gây ra.

      - Tôi rất đau ở sống lưng, nhưng ông phải chịu trách nhiệm về chuyện đó đâu, Andrew trấn an ông. Cuộc gọi của tôi hề liên quan đến cách ông lái xe khỏi bãi đỗ hơi quá mạnh bạo đâu.

      - Vậy ư? Pilguez thở phào nhõm, vậy tại sao tôi lại có vinh hạnh nhận cuộc gọi này?

      - Tôi cần gặp ông, chuyện rất khẩn cấp.

      - Tôi mời uống cà phê, nhưng tôi sống ở San Francisco, hơi xa chỗ của .

      - Tôi hiểu, Andrew thở dài.

      - về vụ khẩn cấp kiểu nào vậy? Pilguez tiếp sau giây lát do dự.

      - Chuyện sống còn.

      - Nếu là vụ án hình tôi nghỉ hưu rồi. Nhưng tôi có thể giới thiệu với trong các đồng nghiệp người New York của mình. Tôi hoàn toàn tin tưởng thanh tra Lucas ở đồn 6.

      - Tôi biết là ông nghỉ hưu, nhưng tôi chỉ tin mình ông, đấy là theo bản năng mách bảo.

      - Tôi biết…

      - Tôi nghi ngờ chuyện này lắm. Tình huống tôi gặp phải vô cùng éo le.

      - Tôi nghe đây. Tôi có chút quen thuộc với những tình huống éo le rồi, tin tôi , viên thanh tra nài nỉ.

      - Giải thích qua điện thoại rất phức tạp. Ông tin đâu… Mong ông thứ lỗi vì cú điện thoại đúng lúc này. Chúc ông tối tốt lành.

      - Ở San Francisco giờ vẫn còn là giữa chiều.

      - Thế chúc buổi chiều tốt lành, thanh tra.

      Andrew gác máy. lấy tay ôm đầu rồi gắng tập trung tâm trí.

      hẹn gặp Valérie trong tiếng nữa, và làm mọi cách để thay đổi tâm trạng bực bội cáu gắt nếu như muốn làm hỏng buổi tối quan trọng đến vậy. sử dụng hết phần quota ích kỷ trong cuộc sống trước.

      *



      cầu hôn như thể đây là lần đầu tiên. chiêm ngưỡng chiếc nhẫn mà Andrew vừa đeo vào tay mình rồi xúc động khẳng định rằng nếu được chọn có lựa chọn nào khác.





      Bữa tối kết thúc, Andrew gọi cho Simon và liền ngay sau đó đưa máy cho Valérie để thông báo tin vui này cho cậu; rồi lại đến lượt gọi cho Colette.

      Khi đến chân tòa chung cư ở EastVillage, Andrew thấy điện thoại nằm sâu trong túi áo rung lên. tò mò nhấc máy.

      - Tôi suy nghĩ về cuộc trò chuyện ngắn của chúng ta vừa rồi. Vợ tôi rất vui nếu tôi để bà ấy yên trong vài ngày. Hình như cuộc sống của tôi vẫn diễn ra đều đều như vậy kể từ khi về hưu đến giờ… chút giải trí tiêu khiển thể làm tôi hề hấn gì. Tất cả những chuyện này để với rằng tôi đáp máy bay vào sáng mai. Tôi tranh thủ vài ngày tự do này để đến thăm mấy ông bạn già người New York. Chúng ta gặp nhau ăn tối vào khoảng 21h tại đúng chỗ lần trước nhé. Nhớ đến đúng giờ đó, đánh thức trí tò mò của tôi, Stilman à.

      - Hẹn ngày mai, thanh tra, 21h tại nhà hàng Frankie. Andrew thở phào đáp.

      - Ai đó, Valérie hỏi.

      - Chẳng ai cả.

      - Vậy ra tối mai ăn tối với chẳng ai cả ư?

      *



      Phòng ăn chìm trong thứ ánh sáng lờ mờ. Ngồi ở bàn trong cùng, thanh tra Pilguez đợi. Andrew vừa ngồi xuống vừa nhìn đồng hồ.

      - Do tôi đến sớm thôi, viên thanh tra vừa vừa bắt tay Andrew.

      Nhân viên phục vụ đưa họ thực đơn và viên thanh tra nhíu mày.

      - Cái thói dùng đèn đuốc mờ mịt trong nhà hàng này khiến người ta bực mình. Tôi chẳng thể đọc nổi dòng nào trong quyển thực đơn này, vừa ông vừa lôi cặp kính ra khỏi túi.

      Andrew liếc nhanh thực đơn rồi đặt xuống.

      - Ở đây họ luôn có món thịt rất tuyệt, Pilguez vừa dừng đọc thực đơn vừa tiếp.

      - Thế chọn món thịt thôi, Andrew . Chuyến của ông tốt đẹp chứ?

      - Câu hỏi mới hay ho làm sao! Làm cách nào mà lại muốn có chuyến du hành dễ chịu bằng máy bay vào thời buổi này cơ chứ? Nhưng thôi, hãy về điều dẫn chúng ta đến đây , tôi có thể giúp gì cho ?

      - Hãy giúp tôi bắt kẻ định…

      Andrew ngập ngừng trong giây lát trước khi tiếp tục.

      - … kẻ mưu toan sát hại tôi, đáp mà chọn cách mào đầu nào khác.

      Pilguez liền đặt vội chai bia xuống.

      - gửi đơn tố cáo đến sở cảnh sát chưa?

      - Chưa.

      - Nếu có ai đó thực muốn giết có lẽ nên bắt đầu bằng cách đó, phải sao?

      - Chuyện hơi phức tạp hơn thế chút… có thể rằng điều này còn chưa xảy ra.

      - Như thế được ràng cho lắm. Vậy ta mưu toan sát hại hay ta sắp mưu toan sát hại ?

      - Nếu trả lời thành câu hỏi của ông, tôi sợ rằng ông cho tôi là kẻ cuồng tưởng mất.

      - Dù sao cũng cứ thử .

      - Vậy là cả hai, thanh tra ạ.

      - Tôi hiểu, từng là nạn nhân của mưu ám sát và cho rằng thủ phạm sớm ra tay lần nữa, chuyện có phải vậy ?

      - Có thể coi là như vậy cũng được.

      Pilguez ra hiệu cho nhân viên phục vụ đến ghi món. Ngay khi tay nhân viên khỏi, ông liền nhìn chằm chằm vào người đối thoại cùng mình.

      - Tôi vừa trải qua sáu tiếng đồng hồ bị nêm chặt trong cái hộp cá sạc đin ở độ cao ba mươi nghìn bộ, bởi vì gọi tôi đến giúp. Tôi có thiện cảm với và tôi cũng cảm thấy mắc nợ sau khi chớm quệt phải .

      - Ông chỉ mới xô vào tôi thôi, và tôi chẳng bị xây xước chút nào cả.

      - Công bằng mà , trong cái thành phố đầy những kẻ gàn dở sẵn sàng khởi kiện chuyện đâu này, tôi có đủ điều kiện để nhận được khoản bồi thường đáng kể từ công ty bảo hiểm của tôi. Nhưng làm thế, và từ đó tôi suy ra là người chính trực. Tôi cảm thấy lo lắng, thực lo lắng. Với bốn mươi năm trong nghề, trực giác hiếm khi nào đánh lừa tôi, và tin tôi , tôi chứng kiến nhiều vụ việc mà ngờ nổi đâu. Nếu tôi kể cho vài trong số đó, cho là tôi còn cuồng tưởng hơn ấy chứ. Vậy nên hoặc là giải thích cho tôi chính xác xảy ra chuyện gì hoặc là tôi kết thúc món bít tết này rồi nằm luôn. chưa?

      - Chẳng gì ràng hơn thế, Andrew vừa cụp mắt xuống vừa đáp.

      - Tôi nghe đây, tôi rất sợ ăn đồ nguội lạnh, vừa viên thanh tra vừa tấn công đĩa thức ăn của mình.

      - Tôi bị sát hại vào ngày mùng 9 tháng Bảy.

      Viên thanh tra bắt đầu đếm đầu ngón tay mình.

      - Vậy là cách đây mười tháng. cho tôi là trong tình huống nào sau, nhưng trước hết, điều gì khiến nghĩ rằng có người lại lần nữa đe dọa mạng sống của ?

      - Ông vẫn chưa hiểu ý tôi rồi, tôi bị giết vào mùa hè này.

      - giờ là ngày 11 tháng Năm và có vẻ vẫn sống nhăn…

      - Tôi bảo trước với ông rồi mà.

      - gặp vấn đề diễn đạt rất nghiêm trọng đối với nhà báo rồi. Nếu tôi hiểu chính xác điều ngụ ý tin chắc rằng mình bị sát hại vào ngày mùng 9 tháng Bảy. Sao lại là ngày này?

      - Chuyện còn phức tạp hơn thế nữa cơ…

      Và rồi Andrew kể chi tiết chuyện xảy đến với tại lối trong công viênRiverPark vào sáng cái ngày mùng 9 tháng Bảy đó cùng những trải nghiệm khó tin mà từng trải qua kể từ đó đến giờ.

      Khi kể xong chuyện, viên thanh tra liền tu hơi cạn chai bia rồi lại gọi thêm chai nữa.

      - Tôi đúng là có biệt tài thu hút những chuyện lạ đời, hoặc là lời nguyền giáng xuống đầu tôi.

      - Sao ông lại thế?

      - khó mà hiểu được…

      - đến nước này rồi mà.

      - Dịp khác tôi với . Được rồi, giờ chúng ta tóm tắt lại nhé, khẳng định là bị sát hại và, ngay sau khi chết, nhảy lùi về quá khứ hai tháng. Thế chụp cắt lớp để xác định trong màng não của mình mọi thứ đều hoạt động tốt chưa? Viên thanh tra hỏi, giọng giễu cợt.

      - Chưa.

      - Thế ta nên bắt đầu từ bước đó . Có thể bị cục máu đông làm nghẽn đâu đó trong não bộ khiến bị nhầm lẫn lung tung. Tôi có người bạn rất thân làm ở khoa phẫu thuật thần kinh tại Francisco, phụ nữ cừ lắm, chính bà ấy cũng từng kinh qua nhiều chuyện hiếm gặp. Tôi có thể gọi cho bà ấy, chắc chắn bà gửi gắm đến đồng nghiệp New York.

      - Nếu tôi mình có thể kể cho ông nghe mọi chuyện sắp xảy ra từ giờ cho đến tháng Bảy sao?

      - Và hơn nữa, còn minh mẫn vô cùng!

      - , chỉ là tôi có trí nhớ tốt thôi, tôi nhớ được những điều từng trải qua trong vòng hai tháng cuối đời mình.

      - Tuyệt cú mèo, đó chính là thứ loại bỏ căn bệnh Alzheimer phát triển sớm. Nghiêm túc mà , Stilman, tin vào những điều mình chứ?

      Andrew im lặng đáp, Pilguez thân ái vỗ vỗ vào tay .

      - Dĩ nhiên là tin chuyện đó rồi! Mà chính tôi phải gặp phải chuyện đó kia, liệu tôi có thể làm gì để tin vào Chúa lòng lành đây?

      - có gì đâu, Andrew tiếp lời, tôi cũng ngờ là mình có rất ít cơ hội thuyết phục ông tin. Nếu là ông, tôi cũng vậy thôi…

      - thích thể thao ? Pilguez vừa ngắt lời vừa đưa mắt nhìn về phía màn hình ti vi treo phía quầy bar.

      - Có chứ, hệt như mọi người thôi.

      - Đừng có quay lại, đội Yankee đấu với đội Mariner của Seattle, trận đấu sắp đến hồi kết, có thể cho tôi biết kết quả chung cuộc ?

      - Tôi nhớ chính xác lắm, nhưng tôi có thể là trái ngược với mọi mong đợi, đội Mariner khởi đầu mùa giải đặc biệt, và đội Yankee buộc phải gặm cỏ thôi.

      - Ôi dào, Pilguez thở dài, bất cứ cổ động viên nào của Mariner cũng với điều y hệt vậy.

      - Cổ động viên của đội Mariner và là người New York ư… ông đùa chắc! Đội Yankee vượt lên dẫn trước vào phút chót và giành chiến thắng sát nút.

      - Họ còn lâu mới được như vậy nhé, Pilguez thở dài.

      - Ngay sáng mai, ông hãy mua tờ The New York Times. Ở ngay trang nhất, ông đọc thấy tin Hải quân Hoa kỳ bắn tàu của Hải quân Iran vốn phong tỏa eo biển Ormuz.

      - Đủ rồi đó Stilman! là phóng viên của The New York Times, dẫu sao cũng cố lòe tôi bằng cách khiến tôi tin rằng đoán đúng trang nhất của tờ báo nơi làm việc đấy chứ?

      - Vụ việc này là chủ đề của thông cáo của Lầu Năm góc vào quãng 23h30; tờ báo lên trang vào lúc nửa đêm và giờ còn lâu mới đến lúc đó. Nhưng vì ông chẳng hề tin tôi: ngày mai, vào cuối buổi sáng, vòi rồng lục địa quét qua thị trấn Gardner thuộc Florida. Trung tâm thị trấn hầu như bị xóa tên bản đồ.

      - Và nhớ những chuyện này vì tín đồ của bản tin dự báo thời tiết?

      - Tôi nhớ chuyện này vì bố mẹ vợ tương lai của tôi sống ở Arcadia, thành phố cách đó chừng ba mươi dặm thôi. Tôi nhớ như in vợ tương lai của mình lo lắng đến phát bệnh và vì chuyện này xảy ra sau khi tôi cầu hôn ấy có hai ngày nên tôi nhớ ngày tháng.

      - Xin chúc mừng cả hai. Còn chuyện gì khác , thầy bói?

      - Chiều mai, trong những đồng nghiệp của ông thuộc đội cảnh sát cưỡi ngựa bị chiếc xe cứu thương đâm phải. Người đó thoát nạn với chiếc xương đòn bị gãy. Nhưng bất hạnh thay, con vật cưỡi của ta phải chịu chích thuốc cho chết. Vợ tôi là bác sĩ thú y, chính ấy chịu trách nhiệm chăm lo cho đám ngựa của cảnh sát cưỡi ngựa New York. Dồn dập vụ vòi rồng và tổn thất con ngựa, Valérie rơi vào trạng thái stress khiến tôi rất lo lắng. Tôi làm ông mất kha khá thời gian vì tối nay rồi và tôi muốn tiếp tục trò chơi nho này vốn chẳng khiến tôi dễ chịu gì cho cam. Ông là khách mời của tôi, cũng có thể là tôi nợ ông tiền vé máy bay.

      - Tôi để thanh toán bữa ăn này, còn những chi phí lại của tôi, dù sao tôi cũng là nam nhi đại trượng phu, nhưng cũng cảm ơn nhiều.

      Andrew thanh toán hóa đơn rồi đứng dậy.

      - Tôi vừa thoáng nghĩ tới điều này, Stilman, cứ cho là thực có khả năng đoán trước điều xảy ra trong những tháng tới, vậy tại sao thử ngăn chặn chuyện có thể xảy ra đó ?

      - Bởi vì tôi thể thay đổi tiến trình việc được. Những lần hiếm hoi tôi thử làm chuyện đó trong vòng hai ngày qua, rốt cuộc tôi chỉ làm các việc diễn ra chậm lại vài giờ mà thôi.

      - Nếu vậy điều gì khiến nghĩ mình có thể ngăn chặn kẻ giết mình?

      - Hy vọng hay thất vọng, tùy vào tâm trạng từng thời điểm thôi.

      Andrew chào viên thanh tra rồi rời khỏi nhà hàng.

      Còn lại mình Pilguez ngồi bên bàn suy tư. Ông xem hết trận đấu và ở những phút cuối, đội Yankee ghi được cú Home run[1] và giành chiến thắng chung cuộc.

      [1] Khi người cầm chày (batter) quật banh đạt được đích để chạy (run) kế tiếp nhau cả 4 lần như thế, người ta gọi là Home-Run.




    5. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      Chương 11





      Andrew thể đợi được đến khi tới văn phòng để đọc tờ The New York Times. liền mua tờ tại ki ốt bán báo ở góc phố nhà mình và chú ý đến bài báo trang nhất mà Freddy Olson tốc ký ngay sau thông báo của Lầu Năm Góc diễn ra nửa tiếng trước giờ lên trang. tàu tuần tra của Hải quân Hoa Kỳ bắn phát cảnh cáo nhằm thẳng hướng con tàu hộ tống Iran vốn lại quá gần hạm đội số sáu đóng tại cửa eo biển Ormuz. Phát đạn gây bất cứ thiệt hại nào cho con tàu hộ tống và khiến nó ngay lập tức phải quay ngược trở lại, nhưng lại làm căng thẳng giữa hai quốc gia ngày leo thang.

      Andrew hy vọng rằng viên thanh tra cũng đọc được bài báo này. Vào đầu giờ chiều, sau khi xem dải tin nhanh chạy các màn hình trong phòng biên tập, gọi cho Valérie để báo cho , trước khi biết được, rằng vòi rồng lục địa cấp F5 tàn phá thành phố xa nhà bố mẹ là mấy. có lý gì mà phải lo lắng cho họ khi biết tin này, có lý do chính đáng để dối vì ngay lập tức tìm hỏi về tình hình ở Arcadia, tại đó chẳng có chuyện gì xảy ra cả.

      Và, để chuẩn bị cho điều vẫn chưa thể tiết lộ với , gọi cho người bán hoa đặt bó hoa mẫu đơn rồi viết vài lời thương tấm bưu thiếp được gài vào giữa những bông hoa. Tối nay, chăm chút kỹ.

      dành cả buổi chiều để tìm kiếm. Lời nhận xét mà viên thanh tra với vào tối qua khiến suy nghĩ rất lung. Tại sao thử thay đổi tiến trình việc?

      Trong khi muốn tránh cãi vã với Olson lại chỉ lùi vụ cãi cọ của họ lại vài giờ, và vụ cãi nhau này còn ác liệt hơn so với lúc ban đầu.

      Khi mua nhẫn trước màn cầu hôn của mình, và mặc dù tới cửa hàng trang sức khác, nhưng kỳ lạ thay vẫn chọn cùng kiểu nhẫn đó.

      Tuy nhiên, phải chăng cần tự ngăn mình tận dụng những trải nghiệm kinh qua? Có thể trong chuyến công tác tới đây tại Buenos Aires thành công trong việc khơi dậy lòng trắc ở người đàn ông mà từng tài nào khiến ông ta đứng ra làm chứng. Nếu như thành công trong việc khiến thiếu tá Ortiz lên tiếng, tổng biên tập cho đăng lên trang nhất ngay sau lần đầu tiên đọc bài báo của có thể dẫn vợ nghỉ tuần trăng mật ngay sau lễ thành hôn.

      Nếu như được làm lại? Andrew vội nguệch ngoạc lên trang lót của cuốn sổ tay… Ai mà chẳng mong có được cơ may này chứ? Sửa chữa sai lầm, thành công ở nơi mà họ thất bại. Cuộc đời trao cho cơ hội thứ hai…

      Vậy mày lang thang đến quán bar Novecento sao? giọng từ bên trong khẽ thầm với .

      Andrew vội xua ý nghĩ này ra khỏi tâm trí. thu dọn đồ đạc và định về nhà trước khi Valérie về. Điện thoại kêu vang, nhân viên trực tổng đài chuyển máy cho , viên thanh tra cảnh sát muốn chuyện với .

      - đúng là đoán giỏi như thần, Pilguez vào ngay chủ đề mà cần rào đón lịch ; gần như là chệch chút nào.

      - Gần như ư?

      - Đồng nghiệp của tôi bị gãy xương đòn, mà gãy xương đùi, như thế còn rầy rà hơn ấy chứ. Tôi dối làm gì, khi đọc báo sáng nay, tôi nghi là tên lừa đảo hạng siêu. Sau khi vòi rồng quét qua, những hình ảnh truyền hình khủng khiếp, tôi vẫn còn băn khoăn biết có nên xem xét lại nhận định của mình. Tôi vừa gác máy sau cú điện thoại trao đổi cách đây gần tiếng đồng hồ với người đồng nghiệp công tác tại đội cảnh sát quận 6. Ông ấy vừa tiến hành tìm kiếm vài thông tin cho tôi và xác nhận với tôi rằng vụ tai nạn xảy ra vào chiều nay giữa chiếc xe cứu thương và đồng nghiệp của chúng tôi thuộc đội cảnh sát cưỡi ngựa. thể đoán được tất thảy những chuyện đó.

      - Quả .

      - Chúng ta cần phải gặp lại nhau, Stilman.

      - Ngày mai được ?

      - xuống hai tầng gác bằng thang máy chẳng mất nhiều thời gian của đến vậy đâu, tôi ở sảnh tòa soạn của đây, tôi đợi xuống.

      *



      Andrew dẫn Pilguez đến quán bar Marriott. Viên thanh tra gọi ly scotch, Andrew chẳng mảy may nghĩ ngợi liền gọi ngay ly Fernet-Coca.

      - Ai muốn giết nào? Pilguez lên tiếng hỏi. Và sao câu hỏi này lại khiến cười?

      - Tôi bắt đầu thảo ra danh sách, tôi ngờ là nó dài thế.

      - Chúng ta có thể soạn theo thứ tự bảng chữ cái, nếu điều này có thể giúp ích cho , vừa đáp Pilguez vừa lôi cuốn sổ ra.

      - Tôi nghĩ đến Freddy Olson trước tiên, đồng nghiệp cùng phòng với tôi. Chúng tôi chẳng ưa gì nhau. Ngay cả khi ngày hôm qua tôi giảng hòa với , vốn chỉ là biện pháp phòng ngừa mà thôi.

      - Mối thâm thù dai dẳng. có biết tại sao lại hằn thù ?

      - Thói đố kỵ trong nghề ấy mà. Tôi giành kha khá đề tài của trong những tháng vừa qua.

      - Nếu ai cũng sát hại đồng nghiệp mỗi khi họ giẫm lên chân ta hẳn phải có cuộc tàn sát tại phố Wall rồi. Nhưng rốt cuộc chẳng gì là thể. Thế còn gì nữa?

      - Tôi nhận được ba lá thư đe dọa tính mạng.

      - quả là gã kỳ cục, Stilman ạ, với tôi chuyện đó mà cứ như thể đó là mấy tờ rơi quảng cáo bằng…

      - Chuyện này thi thoảng vẫn xảy đến mà.

      Andrew tóm tắt ngắn gọn những kết luận của cuộc điều tra từng thực tại Trung Quốc.

      - còn giữ mấy lá thư đó chứ?

      - Tôi chuyển cho bên an ninh hết rồi.

      - Hãy lấy lại , tôi muốn đọc những lá thư đó vào ngày mai.

      - Toàn là thư nặc danh.

      - Chẳng có gì hoàn toàn nặc danh ở thời đại chúng ta cả. Chúng ta có thể tìm ra vài dấu vân tay.

      - Chắc chắn là vân tay của tôi, và của các nhân viên an ninh.

      - Bên khoa học hình biết cách tách lọc tốt xấu mà. còn giữ phong bì thư chứ?

      - Tôi nghĩ là có, sao thế?

      - Dấu bưu điện có thể cho ta nhiều thông tin đó. Thư kiểu này thường được viết trong lúc tức giận, và tức giận khiến ta khinh suất. Người viết thư có thể bằng lòng với việc gửi những lời đe dọa của mình ở bưu điện xa nhà lắm. Việc này cũng có thể mất nhiều thời gian, nhưng cũng nên tìm những bậc cha mẹ nhận con nuôi từ trại trẻ mồ côi đó và xác minh địa chỉ của họ.

      - Tôi chưa từng nghĩ đến chuyện đó.

      - Theo như tôi biết chẳng phải là cớm. đồng nghiệp cùng phòng, ba lá thư đe dọa, danh sách đó dài dằng dặc, còn ai nữa ?

      - Vào lúc này tôi theo đuổi vụ điều tra cũng vô cùng tế nhị về những thủ đoạn của số quân nhân thuộc chế độ độc tài ở Argentina.

      - có đặc biệt nhắm đến ai đó ?

      - Trọng tâm bài báo của tôi là về cựu thiếu tá quân. Ông ta bị nghi ngờ tham gia vào những chuyến bay chết chóc. Tòa tuyên ông ta trắng án, tôi sử dụng hành trình của ông ta làm sợi chỉ đỏ xuyên suốt bài báo của mình.

      - Thế gặp ông ta chưa?

      - Rồi, nhưng tôi tài nào khiến ông ta mở miệng được, tôi hy vọng có được lời thú tội của ông ta trong chuyến tới đây của mình.

      - Nếu tôi tin vào những lời khẳng định vô lý của có thể rằng từng chuyến tương tự trong quá khứ, đúng thế chứ?

      - Quả đúng là như thế.

      - Tôi những tưởng là thể thay đổi tiến trình việc cơ mà?

      - Chính tôi vẫn còn tự nhủ như vậy vào tối hôm qua, nhưng việc ông ở đây cộng với cuộc chuyện giữa hai ta vốn chưa từng xảy ra, những thứ đó dường như chứng minh cho tôi thấy điều ngược lại.

      Pilguez khuấy những viên đá trong cốc của mình.

      - Chúng ta phải ràng với nhau, Stilman ạ. chứng tỏ mình rất có tài đoán định tương lai, từ đó tới chuyện hoàn toàn tin vào câu chuyện của vẫn còn bước tôi chưa thể vượt qua. Chúng ta hãy thống nhất phiên bản gây ít vấn đề cho tôi nhất.

      - Phiên bản gì?

      - cho rằng có kẻ định sát hại , và ràng là được trời phú cho trực giác nhạy bén khiến người khác phải ngưỡng mộ, tôi chấp nhận giúp tay. Kiểu trợ giúp cho người có khả năng gặp nguy hiểm.

      - Nếu điều đó khiến mọi chuyện dễ dàng hơn với ông… Quay lại với vụ việc của chúng ta, tôi nghĩ rằng tay cựu thiếu tá quân Argentina đó có thể theo tôi tới tận đây.

      - Ông ta có thể cho người theo dõi . Sao lại đặc biệt chọn ông ta làm tâm điểm cho bài báo của mình?

      - Ông ta là nhân vật trung tâm trong đống tài liệu mà tổng biên tập đưa cho tôi. “Lịch sử các dân tộc chỉ khiến độc giả xúc động khi nó đề cập đến những con người bằng xương bằng thịt mà ta có thể định hình. Nếu những câu chuyện dù là chi tiết nhất, thậm chí là kinh khủng nhất, cũng chỉ là loạt liên tiếp các kiện cùng ngày tháng.” Tôi trích dẫn lời ấy từng đó! ấy có lý khi tin rằng hành trình của người đàn ông này là cách hay để kể lại cách thức mà những con người bình thường có thể biến thành những kẻ đểu giả dưới ảnh hưởng của các chính quyền hoặc do nhiệt tâm chủ nghĩa dân túy. Trong bối cảnh nay, đây hẳn chủ đề thú vị, ông thấy thế sao?

      - Thế tổng biên tập của nằm trong diện bị nghi ngờ à?

      - Olivia á? Đương nhiên rồi, ấy có bất cứ lý do gì phải oán giận tôi cả, chúng tôi rất tâm đầu ý hợp.

      - Hợp nhau à, đến mức nào?

      - Ông định bóng gió ám chỉ điều gì vậy?

      - Chẳng phải là sắp kết hôn sao? Theo tôi biết phải chỉ có các đồng nghiệp nam của mới biết ghen.

      - Ông sai đường rồi, hề có bất cứ điều gì nhập nhằng giữa chúng tôi cả.

      - Nhưng với ấy, có thể ấy lại nhìn nhận mọi việc theo hướng khác sao?

      Andrew suy nghĩ về câu hỏi của viên thanh tra.

      - , chân thành mà tôi nghĩ thế.

      - Vì thế ta gạt Olivia của sang bên vậy…

      - Stern, Olivia Stern.

      - Có hay có “e” ở cuối từ?

      - có.

      - Cảm ơn, vừa đáp thanh tra Pilguez vừa ghi cái tên đó vào sổ tay. Thế vợ chưa cưới của sao?

      - Cái gì, vợ chưa cưới của tôi á?

      - Thưa nhà báo, khi đến đoạn cuối của nghiệp dài đằng đẵng, tôi có thể khẳng định với rằng, khi loại bỏ những hành vi do những kẻ loạn trí gây ra chỉ còn hai dạng giết người, rượu chè trụy lạc và vì tình. Tôi có ba câu hỏi cho : có nợ nần gì hoặc có từng là nhân chứng trong tội ác nào ?

      - hề, thế câu hỏi thứ ba của ông là gì?

      - từng lừa dối vợ mình chưa?

      *



      Viên thanh tra gọi ly scotch thứ hai, rồi sau đó Andrew kể cho ông nghe việc có thể có liên quan đến vụ mưu sát mình…

      Bị công việc cuốn , nhiều tháng rồi Andrew chưa có dịp lái chiếc Datsun cổ. Nó hẳn sụt cả xuống dưới lớp bụi dày ở tầng hầm thứ ba của bãi đỗ xe nơi nó đậu, cách quán Mariott tầm hai bước chân. Bình ắc quy của nó có thể hết sạch điện và Andrew nghi rằng lốp xe cũng chẳng còn ngon lành gì.

      có hẹn với thợ chữa máy vào giờ ăn trưa để cho kéo chiếc xe đến tận xưởng cơ khí của Simon.

      Như mỗi lần mang xe trở lại chỗ bạn, Andrew biết rằng Simon quên xạc cho trận vì bỏ bê nó đến vậy. Bạn nhắc nhắc lại chuyện các thợ máy tốn bao nhiêu thời gian và công sức để tân trang chiếc xe và rằng phải khó khăn lắm bạn mới có thể chữa xong để làm vừa lòng, đồng thời bạn cũng kết luận rằng món đồ cổ như thế này xứng thuộc về đồ con lợn. Bạn có thể giữ chiếc xe lâu gấp đôi thời gian cần thiết để sửa chữa như giáo viên tịch thu món đồ chơi để phạt cậu học sinh, nhưng rồi trả lại cho chiếc Datsun bóng lộn như những ngày đầu.





      Andrew rời tòa báo rồi băng qua đại lộ. Ở lối vào bãi đỗ xe, chào người gác cổng vốn mê mải đọc báo nên chẳng hề chú ý tới . Trong lúc xuống dốc, Andrew nhận thấy phía sau lưng có tiếng động dường như trùng với nhịp bước chân , có khả năng là tiếng bước chân vọng lại.

      Chỉ có duy ánh đèn nê ông yếu ớt chiếu sáng tầng ngầm cuối cùng này. Andrew tiến vào lối trung tâm, về phía ô đỗ xe số 37, ô bé nhất, nằm kẹt cứng giữa hai chiếc cột. Thao tác mở cửa xe rồi chui vào trong chiếc xe đòi hỏi phải có kỹ năng rèn luyện nhất định nhưng bù lại được bớt phần tiền thuê cho vị trí này, nơi mà chẳng có mấy tay lái có thể đỗ nổi xe của mình.

      quệt tay lên capo và nhận thấy chiếc Datsun còn bẩn hơn nghĩ. thấy yên lòng khi ấn chân vào lốp trước, chúng dường như đủ căng để có thể được kéo bị thiệt hại gì. Tay thợ sửa xe hẳn sớm đến, Andrew lục tìm chìa khóa trong túi. vòng qua chiếc cột rồi trong lúc cúi xuống ổ khóa cửa xe, cảm thấy có ai đó ở sau lưng mình. Andrew chưa kịp quay lại nhìn cú đánh bằng gậy bóng chày vào vùng hông khiến gập người làm đôi. Phản xạ của là xoay người để đối diện với kẻ tấn công mình, cú thứ hai, ngay vị trí hạ sườn khiến ngừng thở rồi ngã nhào xuống đất.

      Nằm co rúm dưới đất, Andrew khó khăn lắm mới phân biệt được hình dáng của kẻ giờ ấn chiếc gậy bóng chày lên lồng ngực để buộc nằm ngửa ra đất.

      Nếu kẻ đó quan tâm đến chiếc xe cứ việc lấy vì dù sao chăng nữa nó cũng chẳng khởi động nổi. Andrew phe phẩy chùm chìa khóa, nhận ngay cú đá vào tay khiến chùm chìa khóa văng ra xa.

      - Hãy cầm lấy tiền của tôi rồi để tôi yên, vừa van xin Andrew vừa rút ví ra khỏi túi áo vest.

      Với đà đánh chính xác khủng khiếp, chiếc gậy bóng chày đánh bật chiếc ví đến tận cuối gian hầm.

      - Đồ ngu! Kẻ tấn công thét lên.

      Andrew tự nhủ gã đàn ông tấn công mình là kẻ thần kinh bình thường hoặc có thể nhầm mục tiêu và nhầm với người khác, trong trường hợp này, tốt nhất là nên cho biết càng sớm càng tốt.

      Rốt cuộc cũng dựa được lưng vào cửa xe.

      Chiếc gậy bóng chày đập tan cửa kính xe, cú khác rít lên phía đầu Andrew vài phân, đánh bật chiếc gương chiếu hậu.

      - Khoan, dừng lại , Andrew kêu lên, mẹ khỉ, tôi làm gì nào?

      - Giờ mày còn dám lên tiếng hỏi cơ à? Thế tao làm gì mày nào?

      Đúng là kẻ thần kinh bình thường, Andrew sững sờ rút ra kết luận.

      - Giờ là lúc mày phải trả giá, vừa gã đàn ông vừa vung gậy lên.

      - Tôi xin , Andrew rên rỉ, tôi chẳng hiểu cái gì cả, tôi quen biết , tôi cam đoan với nhầm rồi.

      - Tao biết đích xác kẻ mà tao cần giải quyết. kẻ thối nát chỉ nghĩ đến cái nghiệp cỏn con của mình, tên đểu cáng hề quan tâm đến đồng loại, kẻ rác rưởi, gã đàn ông hét lên càng lúc càng đầy đe dọa.

      Andrew kín đáo luồn tay vào túi áo vest và tìm thấy điện thoại di động. Bằng mấy đầu ngón tay, cố gắng rà tìm xác định các phím số cho phép thực cuộc gọi khẩn cấp, nhưng cũng hiểu rằng ở cái tầng ngầm thứ ba này chẳng có bất cứ cơ may nào để chiếc điện thoại của bắt được sóng.

      - Tao đánh gãy tay và vai của mày, tao khiến mày chẳng thể làm hại ai được nữa.

      Andrew cảm thấy tim mình đập thình thịch, cái thằng điên này rốt cuộc định đánh đến chết. phải thử làm gì đó, nhưng lượng adrenalin lan tràn khắp các mạch máu khiến nhịp đập trái tim trở nên dữ dội. Toàn thân run bắn, và chắc hẳn tài nào đứng vững đôi chân mình.

      - Chuyện này chẳng đáng tự hào lắm nhỉ?

      - Cứ đặt mình vào vị trí của tôi mà xem, Andrew vặc lại.

      - Mày dám cả gan những điều như thế quả là lạ đấy! Chính xác là tao những muốn mày ở vào vị trí của tao đấy. Nếu mày làm thế chúng ta cũng chẳng phải đến mức này đâu, gã đàn ông vừa thở dài vừa ấn đầu gậy bóng chày vào trán Andrew.

      Andrew thấy chiếc gậy được vung lên cao quá đầu mình rồi đập xuống nóc chiếc Datsun, phần nóc xe bẹp rúm dưới sức nặng của cú đập.

      - Thế cái đó giúp mày kiếm được thêm bao nhiêu? Hai nghìn, năm nghìn hay mười nghìn đô la?

      - Nhưng đến cái gì mới được chứ?

      - Ra vẻ ngây thơ hả! Mày định với tao rằng đó phải là vấn đề tiền nong, rằng mày cày việc như trâu chỉ để giành vinh quang đúng ? Rằng đúng là mày làm cái nghề hay ho nhất quả đất, có phải ? Gã đàn ông thêm với giọng vẻ kinh tởm.

      Bỗng nhiên có tiếng động cơ, tiếng răng rắc của bộ ly hợp rồi hai chùm đèn sáng trưng chiếu vào bóng tối.

      Kẻ tấn công do dự giây lát; trong cơn tuyệt vọng, Andrew lấy hết sức bình sinh đứng dậy rồi lao vào để tóm lấy cổ . Gã đàn ông thoát ra chút khó khăn, tung cú đấm móc vào hàm Andrew rồi lao về phía đoạn dốc chạy trốn, sượt qua người thợ máy chiếu đèn pha về phía Andrew.

      Người thợ máy xuống xe rồi lại gần Andrew.

      - Có chuyện gì xảy ra thế?

      - Tôi vừa bị đánh, vừa Andrew vừa xoa xoa mặt.

      - Vậy là tôi đến vừa kịp lúc!

      - Nếu sớm hơn mười phút còn tốt hơn nữa, nhưng cũng phải cảm ơn nhiều, tôi nghĩ là vừa giúp tôi thoát khỏi điều tồi tệ nhất.

      - Tôi những muốn có thể như vậy về chiếc xe của , ta hành hạ chiếc xe kinh quá. Rốt cuộc dù sao vẫn còn tốt hơn là bị như thế.

      - Đúng thế, ngay cả khi tôi biết có kẻ chẳng đồng tình với đâu, Andrew vừa nhìn chiếc Datsun vừa thở dài.

      - Này, chính thế đó, tôi đến để rồi lại chẳng làm gì đâu. có chìa khóa chứ? Người thợ máy lên tiếng hỏi.

      - Chúng nằm ở đâu đó dưới đất ấy, vừa đáp Andrew vừa bắt đầu sờ soạng tìm kiếm.

      - có chắc là muốn tôi đưa cấp cứu chứ? Người thợ máy lại hỏi.

      - Cảm ơn , trừ lòng tự ái ra tôi chẳng bị sao cả.

      Dưới ánh đèn pha từ xe của người thợ máy, Andrew tìm thấy chùm chìa khóa gần cây cột và chiếc ví của nằm xa chiếc Cadillac hai chỗ là mấy. giao lại chìa khóa cho người thợ máy rồi bảo với ta rằng giờ thể cùng ta đến tận ga ra được. ngoáy vội địa chỉ xưởng sửa xe của Simon tờ biên lai chi phí rồi đưa cho ta.

      - Vậy tôi phải gì với chủ xưởng đây?

      - cứ là tôi ổn và tôi gọi cho ta vào tối nay.

      - Lên đây , tôi đưa ra khỏi bãi đỗ xe này, ta chẳng bao giờ biết được gã loạn trí kia có còn lảng vảng sau mấy hàng xe kia nữa; nên đến báo cảnh sát .

      - Tôi chẳng thể miêu tả nổi chân dung kẻ tấn công mình, điều duy nhất tôi có thể thấp hơn tôi cả cái đầu, và tôi muốn huênh hoang về điều này.

      Andrew chia tay người thợ máy ở phố 40 rồi quay trở lại văn phòng. Cơn đau ở hông dịu phần nào nhưng cảm giác có lớp xi măng gắn chặt hàm mình lại. có chút ý niệm gì về danh tính kẻ tấn công mình, nhưng nghi ngờ chuyện kẻ đó tấn công nhầm người, và suy nghĩ này khiến thực lo lắng.

      *



      - Vụ tấn công xảy ra khi nào? Pilguez hỏi.

      - Trong dịp nghỉ lễ cuối năm, giữa Giáng sinh và năm mới, khi đó tôi ở lại New York mình.

      - có vẻ dùng gậy rất hoạt đúng ? ông bố trong gia đình, Chủ nhật nào cũng chơi bóng chày với cậu con trai. Tôi chẳng bất ngờ khi tác giả của trong những lá thư nặc danh mà nhận được chỉ dừng lại ở việc dùng ngòi bút để thể thái độ bất mãn của mình. Và thể miêu tả thêm chút gì cho tôi à?

      - Ở bãi đỗ xe đó rất tối, vừa đáp Andrew vừa cụp mắt xuống.

      Pilguez đặt tay lên vai .

      - Tôi với là mình công tác bao nhiêu năm trong ngành cảnh sát trước khi về hưu chưa nhỉ? Ba mươi lăm năm, và còn hơn thế chút, quãng thời gian dài kinh khủng phải ?

      - Vâng, tôi cũng có thể hình dung ra.

      - Thế theo , suốt ba mươi lăm năm trong nghề ấy, tôi hỏi cung bao nhiêu kẻ bị tình nghi rồi?

      - Việc tôi biết hay có quan trọng lắm ?

      - Lật bài ngửa với nhau nhé, chính bản thân tôi cũng chẳng thể đếm nổi số ấy, nhưng bù lại, điều tôi có thể với , đó là ngay cả khi về hưu, tôi vẫn có thể nhận ra người ta giấu tôi điều gì. Khi ai đó phỉnh phờ mình luôn có thứ gì đó khập khiễng khớp nhau.

      - Kiểu thế nào?

      - Ngôn ngữ cơ thể thể dối. cái chau mày, hai má ửng đỏ, đây này, hơi ửng lên như má vào lúc này đây, đôi môi mím lại, hay như ánh mắt lảng tránh. Giày của được đánh xi kỹ chưa đây?

      Andrew ngẩng đầu nhìn lên.

      - Cái ví mà tôi nhặt được trong bãi đỗ xe phải của tôi mà là của kẻ tấn công tôi. ta hẳn đánh rơi nó khi chạy trốn.

      - Sao lại giấu chuyện này?

      - Tôi lấy làm xấu hổ vì bị đánh bởi gã thấp hơn mình cái đầu. Và rồi khi lục lọi đám giấy tờ, Andrew tiếp, tôi phát ra ta là giáo viên.

      - Vậy điều đó thay đổi được gì?

      - Đó thực là chân dung của kẻ thô lậu. Người đàn ông đó phải vô cớ mà tấn công tôi, trong những bài báo của tôi hẳn gây hại cho ta.

      - vẫn giữ chỗ giấy tờ tùy thân đó chứ?

      - Chúng nằm trong ngăn kéo bàn làm việc của tôi.

      - Được rồi, vậy chúng ta làm chuyến đến văn phòng của nhé, chỉ cần sang đường là đến thôi.





      Chương 12





      Pilguez đến tìm Andrew vào lúc 6h30. Nếu họ muốn tóm gọn người có tên là Frank Capetta, giáo sư thần học tại Đại học New York, tốt nhất là nên đợi ta ở dưới nhà trước khi ta làm.

      Chiếc taxi thả cả hai xuống góc giao giữa phố 101 và đại lộ Amsterdam. Những tòa chung cư có giá cho thuê được kiểm soát này do thành phố quản lý. Sừng sững kiêu ngạo với hai mươi tầng lầu, tòa nhà số 826 vươn cao sân bóng rổ cùng công viên có hàng rào sắt bao quanh nơi nhiều trẻ em chơi đùa.

      Pilguez và Andrew ngồi xuống băng ghế đối diện với sảnh vào tòa nhà.

      ta mặc áo khoác bằng vải gabađin, cánh tay ôm chặt cứng chiếc túi đeo và còng lưng bước , như thể sức nặng của toàn nhân loại đè lên vai ta. Andrew ngay lập tức nhận ra Capetta, nhìn bức ảnh giấy phép lái xe của ta hàng nghìn lần, đồng thời tự nhủ mình làm gì mà khiến ta nổi nóng đến vậy.

      Pilguez quay sang nhìn Andrew và liền gật đầu xác nhận rằng đó chính là người đàn ông này.

      Họ cùng đứng dậy rồi rảo bước nhanh và bắt kịp ta trước khi ta đến điểm dừng xe buýt. Vị giáo sư tái mặt khi Andrew đến đứng đối diện với mình.

      - từ chối tách cà phê trước khi làm chứ? Pilguez hỏi với giọng dường như thể tranh cãi.

      - Tôi muộn tiết giảng của mình mất, Capetta xẵng giọng đáp, và tôi chẳng hề muốn dùng cà phê với tên này, ta thêm. Hãy để tôi hoặc tôi kêu toáng lên đấy, sở cảnh sát nằm cách đây chưa đầy trăm mét đâu.

      - Và rồi gì với cảnh sát đây? Pilguez đáp trả. Rằng cách đây vài tháng, đánh nhừ tử người đàn ông này bằng gậy bóng chày và phá tanh bành chiếc xe cổ của ta, trò tiêu khiển trong dịp nghỉ lễ của ư?

      - Còn cả hèn hạ! Capetta vừa thở hắt ra vừa nhìn Andrew vẻ khinh bỉ. Mày còn đến đây với con khỉ đột này để trả thù ư?

      - Cảm ơn lời khen nhé, Pilguez đập lại. Ít nhất cũng chẳng phủ nhận việc. Tôi chẳng phải là vệ sĩ của ta mà chỉ là người bạn hơn kém. Xét cái cách mà cư xử trong cuộc gặp gần đây giữa hai người, chẳng thể trách ta dẫn theo người đến đây đâu.

      - Tôi đến đây để ăn miếng trả miếng với , Capetta, Andrew chen vào.

      - Sao các người lại tìm ra tôi?

      Andrew đưa chiếc ví cho vị giáo sư.

      - Sao lại phải đợi lâu đến vậy? vừa nhận lại giấy tờ Capetta vừa hỏi.

      - Thôi nào, chúng ta dùng chút cà phê được chưa? Pilguez vừa giậm giậm chân vỉa hè vừa nài nỉ.

      Họ cùng vào quán cà phê Roma và chọn bàn ở tận cuối phòng.

      - Các người muốn gì? Capetta lên tiếng hỏi.

      - bữa cà phê lai rai, Pilguez đáp.

      - Muốn hiểu vì sao lại tấn công tôi, Andrew thẳng vào vấn đề.

      Pilguez rút bút cùng tập giấy ghi chép ra khỏi túi rồi đẩy nó trượt bàn đến trước mặt Capetta.

      - Trong khi tôi gọi đồ, tôi rất lấy làm biết ơn nếu viết cho tôi vài dòng như sau: miếng thịt dê quay, hai cân khoai tây, kinh giới ô, hai củ hành tím, lọ kem tươi năm mươi phần trăm, gói mù tạt bột, hai gói pho mát gruye nạo , bó măng tây và đúng rồi, bánh pho mát.

      - Sao tôi lại phải viết những thứ đó? Capetta vặn hỏi.

      - Bởi vì tôi lịch cầu viết thế, vừa trả lời Pilguez vừa đứng dậy.

      - Thế nếu tôi muốn viết sao?

      - Tôi đặc biệt càng muốn đến kể cho trưởng phòng nhân trường Đại học New York về chuyện giáo sư của trường làm gì vào dịp lễ Giáng sinh, nếu hiểu những gì tôi muốn ! Nào, bắt tay vào việc ! Lát nữa tôi quay lại, muốn uống gì, tách trà chẳng hạn?

      Andrew và Capetta ngạc nhiên nhìn nhau. Capetta bắt tay vào viết và trong lúc ta chép lại những từ Pilguez vừa đọc, Andrew bèn hỏi ta câu hỏi chỉ chực buột khỏi miệng .

      - Vậy rốt cuộc là tôi làm gì hả Capetta?

      - giả đò biết hay tên ngốc?

      - Có thể là mỗi loại chút.

      - Lão chó ngao của vừa gói hay lọ mù tạt ấy nhỉ? Tôi chẳng còn nhớ nữa.

      - Tôi nghĩ là gói.

      - phá hỏng toàn bộ cuộc sống của tôi, Capetta vừa thở dài vừa tiếp tục bài chép chính tả của mình, thế đủ cho chưa hay còn muốn chi tiết hơn?

      Capetta ngước lên nhìn Andrew.

      - Dĩ nhiên là muốn tường tận chi tiết rồi! Tôi có hai con, thưa Stilman, cậu con trai bảy tuổi và con bốn tuổi rưỡi. Sam và Léa. Lần sinh Sam gây ra nhiều biến chứng cho sức khỏe vợ tôi. Bác sĩ rằng chúng tôi thể có con được nữa. Chúng tôi luôn ao ước Sam có thêm em trai hay em nữa. Paolina, vợ tôi, là người gốc Uruguay. Lũ trẻ là tất cả cuộc đời ấy. ấy cũng là giáo viên, môn lịch sử, và học sinh của ấy tuổi hơn sinh viên của tôi nhiều. Đến khi chúng tôi rốt cuộc cũng chấp nhận rằng chẳng thể còn hy vọng nào nữa chúng tôi quyết định nhận con nuôi. Tôi chẳng cần phải cũng biết cái việc này tốn thời gian và tẻ ngắt đến mức nào. số gia đình phải kiên nhẫn đợi vài năm trời mới có thể đạt được giấc mơ này. Chúng tôi được biết là Trung Quốc còn biết làm gì với hàng nghìn đứa trẻ bị bỏ rơi. Luật kiểm soát sinh sản của họ cho phép mỗi gia đình chỉ có con. Chính quyền Trung Quốc rất nghiêm khắc. Rất nhiều cặp vợ chồng có điều kiện sử dụng các biện pháp tránh thai. Khi nhỡ có đứa thứ hai, họ đủ tiền nộp phạt theo quy định, nên đôi khi họ buộc phải bỏ con.





      Với nhiều đứa trẻ thuộc diện này, cuộc đời chúng bị gói gọn trong bốn bức tường của trại trẻ mồ côi, hưởng nền giáo dục qua loa đại khái và cuộc sống chẳng có hy vọng lớn lao gì. Tôi là người mộ đạo, và tôi những muốn tin rằng bi kịch mà chúng tôi phải gánh chịu là do đức Chúa trời giáng xuống để chúng tôi mở mắt nhìn thấy nỗi thống khổ của kẻ khác, để chúng tôi trở thành cha mẹ của đứa trẻ mà bố mẹ chúng hề muốn có chúng. Khi đến cơ sở của Trung Quốc, cơ sở hợp pháp nhất thế giới, tôi xin khẳng định với là chúng tôi có nhiều cơ hội đạt được mục đích của mình trong khoảng thời gian rất hợp lý. Và chuyện diễn ra đúng như thế. Chúng tôi tuân thủ các cuộc điều tra của chính quyền Hoa Kỳ và chúng tôi được chấp thuận nhận con nuôi. Với điều kiện trả năm nghìn đô la chi phí hồ sơ cho trại trẻ mồ côi, tôi có thể khẳng định với rằng đây cũng là khoản kha khá đối với chúng tôi, chúng tôi có được hạnh phúc lớn lao vô cùng tận, dĩ nhiên là sau ra đời của Sam. Chúng tôi đến đón Léa tại Trung Quốc vào ngày mùng 2 tháng Năm năm 2010. Theo những giấy tờ mà họ trao cho chúng tôi khi ấy con bé vừa tròn hai tuổi. Hẳn là nên chứng kiến niềm hạnh phúc của Sam khi chúng tôi trở về với em của nó trong vòng tay. Thằng bé sướng phát điên lên. Trong vòng năm, chúng tôi từng là gia đình hạnh phúc nhất trần đời. Dĩ nhiên là ban đầu Léa cũng gặp nhiều khó khăn trong chuyện thích nghi. Con bé khóc rất nhiều, nó sợ hãi tất thảy mọi thứ, nhưng chúng tôi trao cho nó tất cả tình thương trìu mến dịu dàng để rồi vài tháng sau, con bé trao cho chúng tôi món quà tuyệt vời khi bập bẹ gọi chúng tôi là bố là mẹ. Mời ông ngồi, Capetta với Pilguez, cái cảm giác bị ông đứng mãi sau lưng mình chẳng thoải mái gì cho cam.

      - Tôi muốn cắt ngang lời kể.

      - Dù sao ông cũng thành công rồi đó thôi, Capetta đáp lại.

      - Cứ tiếp tục Capetta, Andrew nài tiếp.

      - Vào cuối thu năm ngoái, tôi bắt xe buýt về nhà như vẫn làm mỗi tối. Tôi ngồi ở băng ghế cuối cùng và, như mọi khi, tôi bắt đầu đọc tờ báo buổi sáng.

      Tối hôm đó, tôi chẳng cần nhắc lại ngày tháng phải Stilman, tôi đặc biệt chú ý đến bài báo viết về trại trẻ mồ côi ở tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc. Câu chữ của vô cùng xót xa, Stilman à, khi miêu tả những người mẹ bị người ta lấy mất cả cuộc sống khi cướp sinh linh quý giá nhất đời, đứa con của họ. “Họ chờ đợi thần chết như người ta chờ đợi người bạn”. Đó chính xác là những từ viết ra. Tôi chẳng phải là người mau nước mắt, nhưng tôi khóc khi gập báo lại và tôi tiếp tục khóc lúc thiếp ngủ vào buổi tối sau khi hôn con mình.

      Ngay lập tức tôi cho rằng con mình nằm trong số những đứa trẻ bị đánh cắp kia. Mọi thứ đều trùng khớp với nhau, thời gian, địa điểm, khoản tiền trả cho trại trẻ mồ côi. Từ trong thâm tâm, tôi biết điều đó, nhưng suốt hàng tuần trời, tôi nhắm mắt làm ngơ. Đức tin, khi chân thành, buộc chúng ta phải tôn trọng đồng loại của mình. Ta phải chịu trách nhiệm trước Đấng Tối cao về phần con người mà Người tin tưởng trao ta khi ban tặng cuộc sống cho ta. Chỉ cần giây sống buông lỏng, hèn nhát, tàn ác là đánh mất phẩm cách của mình mãi mãi. Nhiều người mộ đạo rất sợ bóng tối của Địa ngục, tôi giảng dạy về thần học, chuyện này luôn khiến tôi thấy buồn cười. Địa ngục ở ngay sát ta thôi, nó mở cánh cửa đón ta xuống ngay khi ta mất lẽ làm người của mình. Những suy nghĩ này ám ảnh tôi cả ngày lẫn đêm. Làm sao lại để mình trở thành tòng phạm, dù là bị động, của hành động đáng ghê tởm đó cơ chứ? Làm sao có thể tiếp tục nghe Léa gọi chúng tôi là bố, là mẹ trong khi tôi vẫn biết rằng ở đâu đó, trong ngôi nhà khác, bố mẹ đẻ của con bé kêu thầm tên của nó trong nỗi tuyệt vọng vì thiếu vắng con bé. Chúng tôi những muốn trao toàn bộ tình thương của mình cho đứa trẻ bị cha mẹ từ chối thương, chứ phải trở thành những kẻ chứa chấp đứa trẻ bị đánh cắp.

      Bị cảm giác tội lỗi gặm nhấm, rốt cuộc tôi cũng tất cả cho vợ mình. Paolina chẳng muốn nghe bất cứ điều gì nữa. Léa là con của ấy, cũng như việc con bé trở thành con tôi, Léa là con của chúng tôi. Ở đây, con bé có được cuộc sống tốt đẹp hơn, nền giáo dục cùng tương lai tươi sáng. Ở đó, bố mẹ con bé thể đáp ứng được những nhu cầu của nó cũng như việc chăm sóc sức khỏe cho nó. Tôi vẫn nhớ trận cãi vã kinh khủng giữa Paolina và tôi. Tôi chê trách logic của ấy. Theo ấy phải giành lấy tất cả con của những người nghèo mới là chính đáng! Tôi với ấy rằng chủ định của ấy là xấu xa, và rằng ấy có quyền nghĩ như vậy. Tôi khiến ấy bị tổn thương sâu sắc và cuộc tranh luận về Léa khép lại mãi mãi.

      Trong khi Paolina gắng sức duy trì cuộc sống bình thường, hằng ngày tôi tiến hành tìm kiếm thông tin. Vài đồng nghiệp cùng khoa người Trung Quốc cảm phục công việc tôi làm giúp sức cho tôi rất nhiều. Thư thư lại, hết mối quen này đến mối quen khác, các thông tin dần dần đến với tôi. Tôi sớm phải chấp nhận ràng. Léa bị cướp khỏi vòng tay bố mẹ đẻ khi con bé mới được mười lăm tháng tuổi. cũng biết việc như tôi rồi đấy, vào tháng Tám năm 2009, nhóm cảnh sát biến chất tới nhiều ngôi làng hẻo lánh ở tỉnh này rồi bắt cóc những đứa trẻ tuổi. Léa chơi trước cửa nhà khi chúng đến. Đám cảnh sát bắt con bé ngay trước mắt bà mẹ, người bị chúng đánh cho trận nhừ tử khi cố chống lại chúng để bảo vệ con mình.

      Tôi chịu ơn đồng nghiệp thân thiết vốn là trưởng khoa ngôn ngữ phương Đông tại trường, William Hoàng, ấy tận dụng nhiều mối quan hệ quý báu tại quê hương, nơi mà ấy thường xuyên lui về. Tôi đưa tấm ảnh của Léa cho ấy. Chỉ cần chuyến là đủ để ấy mang về cho tôi cái tin khủng khiếp đó. Lực lượng thanh tra cảnh sát được Bắc Kinh triển khai vây bắt những kẻ khốn nạn thực hành vi bất chính này tìm thấy bố mẹ hợp pháp của Léa. Họ sống trong thôn , cách trại trẻ mồ côi tầm trăm năm mươi ki lô mét.

      Đầu tháng Mười hai năm ngoái, Sam cùng mẹ về Uruguay tuần để thăm ông bà ngoại thằng bé. Chúng tôi thống nhất là mình tôi ở lại với Léa. Tôi có quyết định của mình kể từ khi bạn đồng nghiệp của tôi trở về Mỹ, kể từ khi hiển ràng đến như vậy. Khi đó tôi bắt đầu chuẩn bị điều kinh khủng nhất mà tôi từng làm trong đời.

      Ngay sau ngày khởi hành của vợ và con trai tôi, Léa cùng tôi lên máy bay. Do gốc gác của con tôi cùng những ý định của tôi nữa, tôi nhận được thị thực chút khó khăn. hướng dẫn viên đợi chúng tôi ở sân bay Bắc Kinh, ta cùng chúng tôi đáp máy bay đến Trường Sa rồi đưa chúng tôi đến tận thôn kia.

      thể tưởng tượng nổi điều tôi trải qua trong vòng hai mươi lăm tiếng đồng hồ của cuộc hành trình đâu, Stilman. Tôi những muốn quay gót trở lại hàng trăm lần. Khi Léa mỉm cười với tôi, kinh ngạc thán phục khi xem những đoạn phim hoạt hình chiếu màn hình gắn vào hàng ghế trước mặt, khi con bé gọi tôi là bố rồi hỏi tôi là đâu. Khi máy bay hạ cánh, tôi với con bé , gần như toàn bộ . Tôi là hai bố con thăm đất nước nơi con bé được sinh ra, và tôi nhận thấy trong ánh mắt thơ trẻ đó xen lẫn giữa ngạc nhiên và niềm vui thích.

      Thế rồi chúng tôi đến ngôi làng quê hương con bé. Chúng tôi ở rất xa New York, đường đắp bằng đất nện, điện chỉ rải rác thấy trong những ngôi nhà được xây bằng đá tảng. Léa thấy ngạc nhiên trước tất thảy, con bé nắm chặt lấy tay tôi và thốt lên sung sướng. Ở độ tuổi lên bốn, khám phá thế giới là điều tuyệt vời, phải nào?

      Chúng tôi gõ cửa ngôi nhà , có người đàn ông ra mở cửa cho chúng tôi. Khi nhìn thấy Léa, ta thể thốt lên lời nào, ánh mắt chúng tôi giao nhau, ta hiểu ra tại sao chúng tôi lại ở đây. Mắt ta ngân ngấn nước, mắt tôi cũng y hệt. Léa vừa nhìn người đàn ông vừa tự hỏi người đàn ông này là ai mà con bé lại khiến ông khóc. ta quay người lại gọi vợ mình. Ngay khi nhìn thấy người vợ, hy vọng cuối cùng mà tôi hằng nuôi dưỡng bấy lâu bỗng dưng bốc hơi trong giây lát. Hai mẹ con họ giống nhau đến nao lòng. Léa như chân dung của người mẹ của con bé. từng chiêm ngưỡng thiên nhiên khi nó hồi sinh vào mùa xuân chưa Stilman? Khi đó ta ngờ rằng mùa đông chưa bao giờ tồn tại. Gương mặt người phụ nữ đó là hình ảnh gây xáo trộn nhất trong đời tôi. Chị ta quỳ xuống trước mặt Léa, toàn thân run lẩy bẩy, chìa tay cho con bé rồi những sức mạnh bền chặt nhất trong cuộc sống trỗi dậy. Về phần Léa, con bé hề sợ sệt, chút do dự, tiến bước về phía người phụ nữ ấy. Con bé đặt tay lên mặt mẹ, vuốt ve má chị ta như thể nó tìm cách nhận ra đường nét của người sinh thành ra mình, và rồi con bé vòng tay ôm lấy cổ chị ta.

      Người phụ nữ ấy, vô cùng gầy guộc, nhấc bổng con của tôi khỏi mặt đất rồi ôm siết con bé chặt. Chị ta khóc rồi hôn khắp người con bé. Chồng chị ta lại gần rồi đến lượt mình, ta ôm siết cả hai mẹ con trong vòng tay.

      Tôi ở lại bên họ trong vòng bảy ngày, bảy ngày đó Léa có những hai người bố bên mình. Trong quãng thời gian tuần vô cùng ngắn ngủi đó, tôi từ từ dạy con bé rằng nó trở về nhà, rằng cuộc sống của nó là ở đây. Tôi hứa với nó rằng chúng tôi quay lại đây thăm nó, rằng ngày nào đó nó vượt đại dương đến thăm chúng tôi… đó là lời dối trắng trợn, nhưng tôi đủ sức làm khác , tôi chẳng còn chút sức lực nào nữa.

      Người hướng dẫn viên kiêm phiên dịch cho chúng tôi cũng hiểu được những gì tôi trải qua, cả hai chúng tôi chuyện với nhau rất nhiều. Buổi tối ngày thứ sáu, trong lúc tôi khóc trong bóng tối, bố của Léa lại giường tôi rồi mời tôi theo ta. Chúng tôi cùng ra ngoài, trời lạnh buốt, ta khoác cái chăn lên vai tôi rồi chúng tôi tới ngồi ở thềm nhà và ta đưa cho tôi điếu thuốc lá. Tôi hút thuốc, nhưng vào tối đó, tôi nhận điếu thuốc. Tôi những hy vọng vệt thuốc cháy khiến tôi quên được nỗi đau bóp nghẹt lấy mình. Ngày hôm sau, chúng tôi thống nhất với người hướng dẫn viên là khởi hành vào đầu giờ chiều, trong lúc Léa ngủ trưa. lời tạm biệt con bé là điều bất khả với tôi.

      Sau bữa ăn trưa, tôi cho con bé ngủ, lần cuối cùng, tôi với nó những lời thương, rằng tôi du lịch, rằng nó rất hạnh phúc và rằng ngày nào đó hai bố con gặp lại nhau. Con bé thiếp ngủ trong vòng tay tôi, tôi hôn lên trán con bé, hít ngửi lần cuối mùi hương của con bé để nó thấm vào tôi cho đến tận cuối đời mình. Và rồi tôi ra .

      John Capetta rút khăn mùi soa ra khỏi túi áo lau nước mắt, gập khăn lại rồi hít sâu trước khi tiếp tục câu chuyện.

      - Khi rời New York, tôi để lại lá thư rất dài cho Paolina, trong đó tôi giải thích cho ấy công việc tôi tiến hành, điều mà tôi phải tự mình làm vì chúng tôi đủ sức làm cùng nhau. Tôi cũng viết cho ấy rằng qua thời gian, chúng tôi vượt qua được thử thách khủng khiếp này. Tôi xin ấy tha thứ, van xin ấy nghĩ đến tương lai đợi chúng tôi nếu tôi làm như vậy. Liệu chúng tôi có thể nhìn con mình lớn lên trong nỗi e sợ rằng lúc nào đó nó biết ? đứa trẻ được nhận nuôi rốt cuộc luôn có nhu cầu phải làm sáng tỏ nguồn gốc của mình. Những ai thể làm được điều đó phải chịu đau khổ suốt cả cuộc đời. Ta chẳng thể làm gì khác được, điều đó thuộc về bản chất con người rồi. Nhưng khi đó ta gì với con bé? Rằng từ lâu chúng tôi biết bố mẹ đẻ của con bé ở đâu ư? Rằng chúng tôi vô tình là đồng phạm trong vụ bắt cóc con bé ư? Rằng lý do duy nhất của chúng tôi là quá nó ư? Khi ấy hẳn chúng tôi đáng bị nó từ bỏ và hẳn là quá muộn để con bé có thể nối lại liên lạc với gia đình của mình.

      Tôi viết cho vợ mình rằng chúng tôi nhận nuôi đứa trẻ để rồi đến khi trưởng thành, nó lại trở thành trẻ mồ côi.

      Vợ tôi con bé như con đẻ của mình. Tình bắt nguồn từ đồng nhất của hệ gien. Hai mẹ con mới chỉ rời xa nhau lần duy nhất là khi Paolina về Uruguay với Sam.

      hẳn phải nghĩ tôi là con quỷ mới chia lìa hai mẹ con như vậy. Chỉ có chuyện là thế này, Stilman à, khi Léa về nhà chúng tôi, con bé ngừng nhắc nhắc lại từ mà chúng tôi cứ nghĩ là từ mà bọn trẻ con hay linh tinh. Đó là từ ‘Niang’, cả ngày con bé vừa kêu niang, niang, niang vừa nhìn ra cửa. Sau này, khi hỏi bạn đồng nghiệp nghĩa của từ đó, ấy buồn bã trả lời rằng trong tiếng Hoa, niang nghĩa là mẹ. Léa gọi mẹ trong suốt hàng tuần trời mà chúng tôi hề hiểu.

      Chúng tôi sống với con bé hai năm, khi con bé lên bảy hoặc tám, có thể còn chưa tới, hẳn nó xóa chúng tôi khỏi bộ nhớ. Còn tôi, nếu tôi phải sống đến trăm tuổi, tôi vẫn luôn nhìn thấy khuôn mặt con bé. Cho đến tận giây phút cuối cùng, tôi vẫn nghe thấy tiếng cười của con bé, tiếng hét trẻ thơ của con bé, tôi vẫn ngửi thấy mùi thơm từ đôi má tròn xoe của con bé. Ta bao giờ quên con mình dù rằng đó hoàn toàn là con đẻ của ta.

      Khi trở về nhà, tôi thấy căn hộ trống trơn. Paolina chỉ để lại chiếc giường của chúng tôi, cái bàn bếp cùng chiếc ghế. còn bất cứ món đồ chơi nào trong phòng Sam. Và chiếc bàn bếp, nơi tôi đặt bức thư van xin ấy ngày nào đó hãy tha thứ cho tôi, ấy đơn giản chỉ viết bằng mực đỏ ‘ bao giờ’.

      Tôi biết hai mẹ con đâu, biết ấy rời Mỹ chưa, biết liệu ấy có đưa con trai tôi về Uruguay , hoặc đơn giản là chỉ chuyển đến thành phố khác.

      Ba người đàn ông trở nên câm lặng trong giây lát.

      - báo cảnh sát à? Pilguez lên tiếng hỏi.

      - Để làm gì với họ đây? Rằng tôi bắt cóc con của chúng tôi và rằng vợ tôi cũng hành động tương tự khi bỏ trốn cùng con trai chúng tôi ư? Để họ vây bắt ấy ư? Để họ bắt ấy và các tổ chức xã hội giao Sam cho gia đình nhận nuôi trong thời gian tòa án làm sáng tỏ câu chuyện của chúng tôi rồi định đoạt số phận của thằng bé ư? , tôi làm thế, chúng tôi chịu quá nhiều khổ đau rồi. thấy đó, Stilman, nỗi tuyệt vọng đôi khi biến thành cơn giận dữ. Tôi phá hỏng xe của , bản thân , gia đình tôi và cuộc đời tôi.

      - Tôi thực lòng vô cùng lấy làm tiếc, Capetta à.

      - Giờ như vậy, bởi vì đồng cảm với nỗi đau của tôi, nhưng chỉ sáng mai thôi, tự nhủ rằng đó phải lỗi của , rằng chỉ làm nghề của mình mà thôi, và rằng tự hào khi làm việc đó. đem ra ánh sáng, tôi đồng tình với về chuyện đó, nhưng tôi muốn hỏi câu, Stilman à.

      - Bao nhiêu câu cũng được.

      - Trong bài báo của mình, viết rằng năm trăm gia đình Mỹ, thậm chí có thể là nghìn, vô tình dính líu vào vụ buôn bán trẻ em này. có giây phút nào nghĩ đến bi kịch mà kéo những gia đình đó vào trước khi cho in bài báo của mình ?

      Andrew cụp mắt nhìn xuống.

      - Đó cũng đúng là điều tôi từng nghĩ, Capetta thở dài.

      Rồi ta đưa cho Pilguez tờ giấy ghi những chữ mà ông bảo ta viết.

      - Bài chính tả ngớ ngẩn của ông đây.

      Pilguez cầm lấy tờ giấy, lôi từ trong túi ra bản sao ba lá thư mà Andrew nhận từ phòng bảo vệ của tòa soạn rồi đặt tất cả lên bàn.

      - Chẳng dính dáng gì đến nhau hết, Pilguez , cùng nét chữ.

      - Ông về cái gì vậy? Capetta hỏi.

      - Stilman đây nhận được nhiều lá thư đe dọa tính mạng, tôi muốn chắc chắn rằng phải là tác giả của trong những lá thư đó.

      - Vì thế mà các ông đến tận đây ư?

      - Cùng nhiều nguyên do khác nữa, đúng vậy.

      - Khi ở bãi đỗ xe đó, tôi chỉ muốn trả thù, nhưng tôi có khả năng làm điều đó.

      Capetta cầm mấy lá thư rồi đọc lướt lá đầu tiên.

      - Tôi bao giờ có thể giết được ai đó, vừa ta vừa đặt lá thư đầu tiên xuống.

      Mặt ta tái nhợt khi cầm đến lá thư thứ hai.

      - còn giữ phong bao của lá thư này ? ta hỏi giọng run run.

      - Còn, sao thế? Andrew hỏi.

      - Tôi có thể xem được ?

      - Trước tiên hãy trả lời câu hỏi mà Andrew đặt ra cho , Pilguez chen vào.

      - Tôi biết rất nét chữ này, Capetta thầm. Đó là chữ vợ tôi. nhớ xem lá thư đó có dán tem nước ngoài ? con tem Uruguay cũng dễ nhận ra, tôi đoán thế?

      - Mai tôi kiểm tra lại, Andrew đáp.

      - Cảm ơn , Stilman, chuyện này rất quan trọng với tôi.

      Pilguez và Andrew đứng dậy rồi chào vị giáo sư thần học. Khi cả ba tiến ra đến cửa, Capetta gọi Andrew lại.

      - Stilman, vừa nãy tôi có với là tôi đủ khả năng giết người.

      - đổi ý rồi chăng? Pilguez hỏi lại.

      - , nhưng sau chuyện xảy ra, tôi chắc Paolina có vậy . Nếu là , tôi coi thường lời đe dọa của ấy đâu.

      *



      Pilguez và Andrew cùng bước lên toa tàu điện ngầm. Vào giờ này, đây là phương tiện giao thông nhanh nhất để đến tòa soạn.

      - Tôi phải công nhận là rất có khiếu trong việc tạo thiện cảm với mọi người, bạn thân mến à.

      - Sao ông với ta rằng ông là cảnh sát.

      - Đối diện với cảnh sát, ta có quyền giữ im lặng và đòi luật sư của mình có mặt. Tin tôi , tốt nhất ta cứ coi tôi là con khỉ gorila của còn hơn, dù rằng như thế cũng chẳng thích thú gì cho cam.

      - Nhưng ông về hưu rồi mà, phải ?

      - Đúng, chính xác là thế. Thế muốn gì nào, tôi có vẻ giống thế sao?

      - Bài chính tả để so sánh nét chữ ấy, quả tình tôi thể nghĩ ra.

      - Thế nghĩ gì hả Stilman, rằng cái nghề cảnh sát là để ngồi xó bàn ư?

      - Nhưng mà phần câu chữ phải chép vô cùng ngớ ngẩn.

      - Tôi hứa với mấy người bạn cho tôi ở nhờ rằng tôi nấu bữa tối nay. Mấy câu chữ ngớ ngẩn, theo như lời , là danh sách đồ mà tôi cần mua đó. Tôi cứ sợ là quên thứ gì đó. hẳn là ngớ ngẩn như thế chứ, đúng hả nhà báo. Tay Capetta kia khiến người ta phải suy nghĩ quá. Có khi nào nghĩ về những hậu quả do bài báo của mình gây ra với cuộc sống của những người khác ?

      - Ông chưa từng mắc sai lầm nào trong suốt nghiệp thanh tra dài dằng dặc của mình ư? Ông chưa bao giờ phá hỏng cuộc sống của người vô tội để đến cùng những đoan chắc của mình, để bằng mọi giá kết thúc được cuộc điều tra ư?

      - cứ nghĩ là có . Mở hay nhắm mắt, trong cái nghề mà tôi từng làm, là việc phải lựa chọn giữa hai con đường xảy ra hằng ngày. Đưa tên tội phạm vị thành niên ra vành móng ngựa, với tất cả những hệ lụy sau đó, hay lờ , thảo báo cáo buộc tội hay làm ngược lại tùy vào từng tình huống. Mỗi vụ phạm pháp lại là trường hợp cá biệt. Mỗi tên tội phạm lại có câu chuyện của riêng . Đối với số tên ta chỉ muốn cho phát đạn vào đầu, còn với kẻ khác ta những muốn cho họ cơ hội thứ hai; nhưng tôi chỉ là cảnh sát chứ phải quan tòa.

      - Vậy ông có thường xuyên nhắm mắt ?

      - đến nơi rồi, Stilman, cẩn thận nhỡ bến của mình đó.

      Chiếc tàu chạy chậm lại rồi dừng hẳn. Andrew siết chặt tay viên thanh tra rồi bước xuống ke tàu.


    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :