Máu Lạnh - Truman Capote(Trinh thám)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Máu Lạnh
      [​IMG]
      Tên Gốc: In Cold Blood
      Tác Giả: Truman Capote
      Thể Loại: Kinh dị,Tiểu thuyết,Trinh thám,Văn học phương Tây
      Dịch Giả: Trần Đĩnh
      Công ty phát hành: Nhã Nam
      Nhà xuất bản: NXB Hà Nội
      Trọng lượng vận chuyển: 650 grams
      Kích thước: 14 x 20,5 cm
      Số trang: 510
      Ngày xuất bản: 11/2011
      Nguồn: vietmessenger.com

      sách hay nhất kể chuyện về tội ác kiểu Mỹ... Cuốn sách làm lạnh máu và làm căng trí óc."
      The New York Review Of Books
      In cold blood - Máu lạnh
      được giới phê bình đánh giá là cuốn tiểu thuyết phi hư cấu xuất sắc, tác phẩm làm nên “cuộc cách mạng văn chương” của Mỹ. Tiểu thuyết này đưa tên tuổi Truman Capote trở thành trong những tác giả văn chương đương đại lớn nhất xứ sở cờ hoa.
      Năm 1959, nhà văn Mỹ Truman Capote tình cờ đọc được thông tin về vụ thảm sát bốn mạng người ở mặt sau của tờ báo New York Times. Ấn tượng mạnh với câu chuyện rùng rợn, ông quyết định sâu vào tìm hiểu vụ việc. Trong suốt bốn năm, với cộng tác chặt chẽ của nữ nhà văn Harper Lee, Truman Capote tiến hành thu thập các tư liệu, tìm hiểu tâm lý của nạn nhân và động cơ tên giết người. Cuối cùng, năm 1964, ông cho ra đời In cold blood - Máu lạnh, cuốn tiểu thuyết dựa câu chuyện có năm nào.
      Bằng bút lực tài tình, Truman Capote lật ngược thời gian, đưa người đọc trở về giai đoạn trước khi xảy ra vụ án mạng thảm khốc. Capote trực tiếp lên án tội ác mà trái lại đưa ra nhiều dữ kiện, tình tiết để độc giả hiểu hơn về những kẻ tử tội. mặt, ông thể ràng rằng tội ác này thể khoan thứ. Mặt khác, ông cũng cho người đọc thấy được góc khuất của những tên sát nhân, về hoàn cảnh gia đình, lý do gì dẫn chúng đến con đường tội ác. Ông chuyển tiếp các chi tiết và kiện cách linh hoạt, khiến người đọc, dù biết trước thủ phạm ngay từ đầu, vẫn dõi theo mạch truyện đến trang cuối cùng.
      Với In cold blood - Máu lạnh, Truman Capote chỉ thể vai trò của nhà văn, nhà báo, mà còn trở thành điều tra viên xuất sắc. Điểm hấp dẫn của Máu lạnh là tác giả hề hư cấu hay thêm bớt mà tuyệt đối trung thành với . Ông chỉ viết dựa các bản báo cáo của cơ quan điều tra và những lần chính ông trực tiếp phỏng vấn gia đình, bạn bè của các nạn nhân, cũng như hai tên tội phạm.

      In cold blood - Máu lạnh được chuyển thể thành phim điện ảnh cùng tên vào năm 1967. Riêng câu chuyện về hành trình viết tiểu thuyết của Capote được Hollywood dựng thành hai bộ phim, trong đó có Capote, bộ phim giành được giải Oscar năm 2005.
      Tác Giả:
      [​IMG]
      Nhà văn Truman Capote
      Truman Capote, tên Truman Streckfus Persons. Ông sinh tại New Orleans ngày 30/09/1924. Thời thơ ấu của ông êm thắm, cha mẹ ly dị, cha ngồi tù, phải sống xa mẹ thời gian dài và chuyển nơi ở nhiều lần. Ông phát ra thiên tư của mình vào năm 11 tuổi và sớm thành danh vào đầu tuổi đôi mươi với nhiều truyện ngắn đăng tạp chí Harper's Bazaar, trong đó có truyện Miriam(1945) được giới phê bình đánh giá cao.​

      Sau truyện ngắn này, nhà văn trẻ tuổi được ký hợp đồng với nhà xuất bản lừng danh Random House để cho ra tiểu thuyết đầu tay Other Voices, Other Rooms(1948-).
      In Cold Blood (Máu lạnh, 1966) là tiểu thuyết lừng danh nhất của ông, được viết trong suốt bốn năm với cộng tác chặt chẽ của Harper Lee, tác giả của tác phẩm Giết con chim nhại. Kiệt tác này tường thuật kiện có : vụ ám sát tàn bạo cả bốn người trong gia đình trại chủ ở Kansas ngay tại nhà họ. Nhà văn, trong khi bám sát các kiện và con người có , tuyệt đối tôn trọng thực, hư cấu, vẫn dành trọn tâm huyết và trí lực mình để dấn sâu đến tận cùng vào trái tim khối óc các nhân vật liên quan, đặc biệt là hai kẻ tội phạm Richard Eugene Hickock và Perry Edward Smith, đồng thời hết sức dụng công khắc họa khung cảnh, việc, diễn biến tâm trạng và hành động với rất nhiều chi tiết, cách sinh động, bằng thứ ngôn ngữ chính xác, hàm súc, nghiêm khắc, sắc gọn, đầy cảm xúc, đẹp như khối pha lê đẽo thô. Bằng cách "xử lý kiện có bằng những kỹ thuật của văn chương hư cấu", nhà văn muốn tạo ra thể dung hợp mới, thứ nằm giữa "chuyện trăm phần trăm" và tác phẩm nghệ thuật. Tác phẩm tiêu biểu và xuất sắc khó lòng vượt qua của cái gọi là "báo chí kiểu mới" (new journalism), Máu lạnh là thành tựu lớn nhất, đỉnh cao nghiệp của Capote mặc dù phải tác phẩm cuối cùng của ông.
      Tác phẩm khác đáng chú ý của ông gồm có truyện vừa Breakfast at Tiffany's (1958-) và tập truyện ngắn A Tree of Night (1949). Capote hai lần đoạt giải O. Henry Memorial Short Story Prize và là thành viên của Viện Văn chương Nghệ thuật Quốc gia Hoa Kỳ (National Institute of Arts and Letters).
      Ông mất ngày 25/08/1984 sau nhiều năm nghiện rượu và ma túy, ít hôm trước sinh nhật lần thứ sáu mươi.​

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      PHẦN 1

      Những người cuối cùng thấy họ còn sống

      Làng Holcomb nằm những bình nguyên cao trồng lúa mì Tây Kansas, vùng hẻo lánh mà người Kansas ở nơi khác gọi là "ở ngoài đó." Cách ranh giới Colorado chừng bảy chục dặm về phía Đông, với bầu trời xanh gắt gay và khí trời trong veo của sa mạc, đồng quê ở đây nom có vẻ Viễn Tây hơn là Trung Tây. Tiếng địa phương khê nặc giọng mũi người đồng cỏ, giọng mũi của người chăn gia súc, và đàn ông nhiều người mặc quần biên giới chật, đội mũ cao bồi và ủng cao góc nhọn mũi. Đất bằng và thẳng tít cánh cò bay trước mắt; ngựa, những bầy gia súc, cụm trắng những máy chuyển hạt ngũ cốc nổi lên duyên dáng như những ngôi đền Hy Lạp mà lữ khách nhìn thấy mãi từ lâu rồi mới tiến lại được gần.

      Cũng có thể nhìn thấy Holcomb từ rất xa như vậy. Chẳng phải có nhiều thứ để mà nhìn - đơn giản là tập hợp lộn xộn những ngôi nhà bị tuyến chính của đường xe lửa Santa Fe cắt ra ở giữa, chòm xóm rủi thế nào bị bít lại ở phía Nam bởi dải nước màu nâu của sông Arkansas, ở phía Bắc bởi xa lộ, đường số 50, còn ở phía Đông và phía Tây bởi đồng cỏ cùng đồng lúa mì. Sau cơn mưa hay khi tan băng, những đường phố tên gọi, bóng cây, đá lát liền biến từ lầm bụi nhất sang bùn lầy kinh hoàng nhất. Ở đầu thị trấn lù lù tòa nhà trát vữa, cũ kỹ, trần trụi mái đỡ bảng hiệu bằng điện - KHIÊU VŨ - nhưng khiêu vũ ngừng và bảng quảng cáo nhiều năm tối om. Gần đó là tòa nhà khác, với bảng hiệu chẳng ăn nhập, bằng chữ vàng bong kính cửa sổ bẩn thỉu - NGÂN HÀNG HOLCOMB. Ngân hàng đóng cửa năm 1933, và các quầy thu tiền trả tiền trước đây được chuyển thành các căn hộ. Đó là trong hai "nhà căn hộ" của thị trấn, cái thứ hai là tòa nhà xiêu vẹo được gọi là Sở Thầy , vì phần lớn giáo viên của trường học địa phương ngụ tại đó. Nhưng đa số nhà ở Holcomb là nhà doanh nghiệp kiểu tầng gác với cổng phía trước.

      Xuống dưới, gần ga xe lửa, bà chánh bưu điện, người đàn bà gầy oặt mặc áo da thô và quần vải bò, ủng cao bồi, chủ trì nhà bưu điện nằm tách biệt ra. Với nước sơn màu acid sulfuric bong thóc, bản thân nhà ga cũng tẻ buồn như vậy; ông Xếp, Ông Xếp Chánh, ông El Capitan 1 hằng ngày tới đó, nhưng các chuyện tàu tốc hành được trọng vọng chẳng bao giờ dừng lại ở đây. Các tàu khách cũng vậy, chỉ thỉnh thoảng có chuyến tàu hàng. Lên đằng xa lộ, có hai trạm xăng, kiêm luôn cửa hàng tạp hóa cung cấp vài thứ ít ỏi, còn kèm thêm quán cà phê - Quán cà phê Hartman, ở đó, bà Hartman chủ quán có bán bánh kẹp thịt, cà phê, các thức uống và bia 3,2 2. (Giống như các nơi khác ở Kansas, Holcomb "khem rượu").

      , đó là tất cả. Trừ phi bạn tính cả, như người ta cần phải tính. Trường Holcomb, cơ sở đẹp đẽ, nó để lộ ra hoàn cảnh mà bề ngoài của cộng đồng che giấu : rằng các ông bố bà mẹ cho con đến ngôi thường "được củng cố" đại và khéo bố trí nhân này - các lớp có từ vườn trẻ đến trung học phổ thông, và hạm đội xe buýt chuyên chở học sinh, thường là vào khoảng ba trăm sáu chục em, ở cách đó chừng mười sáu dặm - chung, đều là người giàu có. Là chủ trại chăn nuôi, phần lớn họ là dân thích ở ngoài trời thuộc các gốc rễ rất đa dạng - Đức, Ái Nhĩ Lan, Na Uy, Mexico, Nhật. Họ chăn nuôi gia súc, cừu, trồng lúa mì, kê milo, cỏ cảnh và củ cải đường. Làm nông luôn là công việc may rủi, nhưng ở mạn Tây Kansas người làm ruộng lại tự coi mình là "đám cờ bạc bẩm sinh" vì họ phải bằng lòng với lượng mưa cực thấp (mỗi năm bình quân tám centimet) và tưới nước luôn luôn là việc trần ai khoai củ. Tuy nhiên bảy năm vừa qua là những năm được hưởng lợi nhờ hạn hán. Các chủ trại chăn nuôi ở hạt Finney, mà Holcomb trực thuộc, làm ăn tốt; tiền kiếm ra chỉ từ làm trang trại mà còn do khai thác các nguồn khí đốt thiên nhiên dồi dào, và thu hoạch của nơi này được phản ánh ở ngôi trường mới, nội thất thoải mái của các nhà ở trong trang trại, các dây chuyền hạt ngũ cốc căng phồng, dựng đứng.

      Mãi cho tới buổi sáng giữa tháng Mười năm 1959, ít người Mỹ - ra ít cả người Kansas - nghe đến Holcomb. Như nước sông, như những người lái xe xa lộ, và như những đoàn tàu màu vàng di chuyển xuôi đường sắt Santa Fe, thảm kịch, dưới dạng những biến cố khác thường, chưa từng dừng đỗ ở đây bao giờ. Dân làng, đếm đầu được hai trăm bảy chục, mãn nguvện với cái diễn ra như thế, khá bằng lòng sống cuộc sống bình thường - làm lụng, săn bắn, xem ti vi, dự liên hoan nhà trường, hát lễ ở nhà thờ, họp Câu lạc bộ 4-H. Vậy mà rồi, vào giờ phút tinh mơ của cái buổi sáng tháng Mười đó, buổi sáng Chủ nhật, vài tiếng động khác lạ vấy phạm vào những thanh đêm thường lệ của Holcomb - vào cơn phát rồ ai oán khóc của những con chó sói đồng cỏ, vào tiếng sột soạt khô cong của cây cỏ lăn vội vã cuốn theo gió, vào tiếng than vãn ầm ầm lao tới rồi lùi xa của còi đầu máy xe lửa. Lúc bấy giờ chẳng ai say ngủ ở làng Holcomb nghe thấy những tiếng động đó - bốn phát súng nổ, tóm lại kết liễu sáu mạng người. Nhưng sau đó dân thị trấn, vốn xưa nay chả mấy khi sợ sệt lẫn nhau đến phải khóa chặt cổng ngõ, nay thời cứ mường tượng lại hoài hoài thanh ấy, những phát súng nổ thầm vốn kích phát ngọn lửa nghi kỵ, ngọn lửa mà trong ánh lấp lóa của nó nhiều bà con chòm xóm lâu đời giờ đây nhìn nhau kỳ quặc, tựa hồ những kẻ xa lạ.

      ° ° °

      Chủ nhân của Trại Lũng Sông, Herbert William Clutter, bốn mươi tám tuổi. Do kết quả khám sức khỏe mới đây để mua bảo hiểm, ông được biết mình thuộc vào loại nhất. Tuy đeo kính gọng và chỉ cao trung bình, đứng vừa dưới mốt mét bảy lăm, ông Clutter nom vẫn đường đường đấng trượng phu. Vai rộng, tóc giữ nguyên màu sẫm, khuôn mặt tự tin, quai hàm vuông nở để ra sức trẻ hừng hực, răng trắng bóng và chắc, còn đủ hết, có thể cắn vỡ được quả óc chó. Ông nặng bảy lăm ký hai - đúng cái trọng lượng ngày ông tốt nghiệp ở Đại học Bang Kansas, nơi ông học khoa Nông nghiệp. Ông giàu bằng người giàu nhất Holcomb - ông Taylor Jones, ông hàng xóm chủ trại chăn nuôi. Nhưng ông lại là công dân được biết đến nhiều nhất của cộng đồng, nổi bật cả ở đây lẫn ở Garden City, thủ phủ gần bên của hạt, tại đó ông lãnh đạo ủy ban xây dựng cho Nhà thờ Giám lý Thứ nhất mới được hoàn thành, công trình trị giá tám trăm nghìn đô la. Ông là chủ tịch của Hội nghị về Các Tổ chức Nông trại Kansas, tên tuổi ông được thừa nhận và kính trọng trong giới các nhà nông học miền Trung Tây, cũng như ở vài cơ quan tại Washington, nơi ông từng là thành viên của Sở Tín dụng Nông trại Liên bang, thời Eisenhower làm tổng thống.

      Luôn biết chắc mình muốn cái gì của thế gian, ông Clutter có nhiều cách thức để đạt được cái đó. bàn tay trái, cái bàn tay còn lại ngón bị chiếc máy nông trại làm cho sứt sẹo, ông đeo cái lắc bằng vàng ròng, biểu tượng có tuổi đời phần tư thế kỷ của cuộc hôn nhân của ông với người ông muốn cưới - em bạn học thời cao đẳng, nhút nhát, sùng đạo, thanh tú tên gọi Bonnie Fox, trẻ hơn ông ba tuổi. Bà cho ông bốn người con - bộ ba con rồi cậu con nai. lớn Eveanna, có chồng và là mẹ của nhóc trai mười tháng, sống ở Bắc Illinois nhưng đến thăm Holcomb luôn. Quả , bố mẹ mong chờ cả gia đình của bởi hai ông bà định tổ chức cuộc đoàn tụ ra trò của cả họ nhà Clutter nhân dịp lễ Tạ ơn (từ nước Đức ra , người di dân đầu tiên của họ Clutter - hay Klotter, hồi đó cái tên này viết thế - đến đây vào năm 1880); năm chục người họ hàng được mời, nhiều người từ những vùng xa như Palatka, Florida. Beverly, đứa con sát kề với Eveanna còn sống ở Trại Lũng Sông nữa; ở Kansas City, Kansas, học lớp nữ y tá. Beverly đính ước với sinh viên trẻ tuổi khoa Sinh, bố rất ưng này; thiếp mời dự hôn lễ định vào tuần Nôen được in xong xuôi. Người còn lại vẫn sống ở nhà là cậu con trai Kenyon, mới mười lăm tuổi mà cao hơn ông Clutter, và chị lớn hơn cậu tuổi - Nancy, bé cưng của cả thị trấn.

      Về gia đình, ông Clutter chỉ có lý do quan trọng phải bận tâm - sức khỏe của bà vợ. Bà "thần kinh yếu", bà "hơi man mát" - những người gần gũi bà dùng những lời che đậy như vậy. Chẳng phải vì "những nỗi khổ của Bonnie tội nghiệp" là điều bí mật gì; ai cũng biết trong nửa chục năm qua bà là bệnh nhân tâm thần lúc ốm lúc . Nhưng mới gần đây ánh mặt trời cũng lóe lên ngay cả miếng đất tăm tối ấy. Thứ Tư vừa rồi, từ Trung tâm Y tế Wesley ở Wichita, nơi dật quen thuộc, trở về sau hai tuần điều trị, bà Clutter mang về những tin tức khó tin để với chồng; bà vui mừng báo rằng nguồn gốc nỗi khổ của bà, như ý kiến của y sĩ cuối cùng cho hay, nằm ở cột sống của bà chứ phải trong đầu - nó thuộc về cơ thể, là do đốt sống bị chệch. Dĩ nhiên, bà phải qua giải phẫu, nhưng rồi sau đó bà lại là "cái Tôi xưa" của mình. Các thứ căng thẳng, lánh , tiếng nức nở câm lặng vùi vào gối sau cánh cửa khóa chặt - tất cả có thể lại vì mỗi cái xương lưng nó mất trật tự thôi à? Nếu thế khi chuyện với khách khứa trong lễ Tạ ơn, ông Clutter có thể đọc nguyên vẹn bài kinh về lòng biết ơn.

      Theo lệ, buổi sáng của ông Clutter bắt đầu từ sáu rưỡi; đánh thức ông dậy thường thường là tiếng lanh canh của các xô sữa, tiếng thào chuyện trò của đám trẻ đem sữa đến, hai đứa con trai của người làm mướn tên là Vic Irsik. Nhưng hôm nay ông còn nằm nấn ná, để cho bọn trẻ nhà Irsik đến rồi , vì tối qua, thứ Sáu ngày 13, là tối mệt tuy cũng có phần vui vẻ. Bonnie sống lại "cái Tôi xưa" của bà; tựa như để báo trước cho bình thường trở lại, cái sinh lực tràn trề mà chẳng mấy nữa bà có lại, bà bôi son môi, đánh vật với bộ tóc, rồi mặc bộ váy mới cùng với ông tới Trường Holcomb, ở đó ông bà vỗ tay hoan nghênh buổi diễn vở Tom Sawyer của học trò, trong đó Nancy sắm vai Becky Thatcher. Ông vui thích thấy Bonnie ra trước mọi người, căng thẳng nhưng tươi cười, trò chuyện với thiên hạ và cả hai ông bà đều tự hào về Nancy, diễn hay thế, nhớ hết sót câu nào và, như ông khen ở sau cánh gà, trông "Đẹp - đúng là Nam phương Mỹ nữ, con ạ." Nhân đó, Nancy xử đúng như ai; khẽ nhún đầu gối trong bộ váy lồng, hỏi là có thể xe vào Garden City được . Nhà hát Bang tối đặc biệt, "Đêm diễn ma" thứ Sáu ngày 13, vào hồi mười rưỡi, bạn bè của đều cả. Các lần khác ông Clutter đều đồng ý. Luật của ông là luật, và khoản trong đó là: Nancy - và cả Kenyon nữa - ngày thường mười rưỡi tối phải có mặt ở nhà, tối thứ Bảy mười hai giờ. Nhưng bị lay động vì những kiện thiên tài của buổi tối nay, ông bằng lòng. Và Nancy mãi hai giờ sáng mới về nhà. Ông nghe thấy vào nhà bèn gọi , vì tuy phải là người từng cao giọng bao giờ, ông vẫn có đôi điều thẳng thắn cần với , những ý kiến liên quan đến cậu thanh niên lái xe chở về - Bobby Rupp, người hùng bóng rổ của nhà trường - nhiều hơn là đến chuyện về vào giờ đó.

      Ông Clutter thích Bobby và coi cậu, cậu trai mười bảy tuổi là người lịch và đáng dựa vào nhất, thế nhưng trong ba năm được phép "hẹn hò", Nancy ấy, nức tiếng xa gần và xinh đẹp, vẫn chưa ra ngoài hẹn hò với ai khác, và tuy ông Clutter vẫn biết rằng thói quen nay của lứa thiếu niên trong nước là tìm đôi, "hẹn hò lãng mạn" và đeo "nhẫn đính ước", ông vẫn tán thành cậu, đặc biệt vì tình cờ lâu trước đó ông bắt gặp cậu chàng Rupp và con ông hôn nhau. Lúc đó ông gợi ý Nancy đừng nên "gặp Bobby nhiều như thế" nữa, khuyên rằng từ từ rút lui bây giờ ít thương tổn hơn đoạn tuyệt đột ngột sau này - vì, như ông nhắc nhở , cuối cùng thế nào cũng xảy ra cuộc chia tay. Gia đình Rupp theo đạo Cơ đốc La Mã, nhà Clutter lại dòng đạo Giám lý - việc này tự nó cũng đủ chấm dứt bất cứ tơ tưởng hão huyền nào về việc và cậu chàng kia có thể cưới xin trong tương lai. Nancy biết điều - thế nào cũng cãi - còn lúc này , trước lúc chúc ngủ ngon, ông Clutter được làm cho yên tâm với lời hứa bắt đầu gỡ dần ra khỏi Bobby.

      Tuy nhiên việc này làm chệch tệ hại giờ giấc nghỉ ngơi của ông, vốn thường vào mười giờ. Hậu quả là sáng thứ Bảy, ngày 14 tháng Mười năm 1959, mãi hơn bảy giờ ông mới dậy. Vợ ông luôn là dậy càng muộn càng tốt. Tuy thế ông cũng lo bà bị đánh thức khi ông cạo râu, tắm vòi hoa sen, mặc vào người chiếc quần kẻ gân nổi, áo da của người chăn bò và đôi ủng mềm có cựa thúc ngựa; ông bà ngủ chung buồng. Nhiều năm rồi ông ngủ mình trong phòng ngủ chính dưới tầng trệt ngôi nhà - tòa nhà hai lầu, mười bốn phòng bằng gỗ và gạch. Tuy bà Clutter cất quần áo của mình trong các buồng xép của căn phòng này, và giữ ít mỹ phẩm cùng thuốc men linh tinh trong buồng tắm xây gạch men, kính và gạch thường ở kề đó, bà vẫn chiếm phòng ngủ trước kia của Eveanna ở lầu hai, giống như các phòng ngủ của Nancy và Kenyon.

      Ngôi nhà - phần lớn do ông Clutter thiết kế, qua đó ông cho thấy mình là kiến trúc sư hiểu biết và điềm đạm, nếu phải là nổi tiếng có óc trang trí - được xây năm 1948 với chi phí bốn chục nghìn đô la. (Giá trị bán lại bây giờ là sáu chục nghìn). Nằm ở cuối đường , giống đường cho xe chạy vào nhà, có hàng cây du Tàu phủ bóng, ngôi nhà trắng đẹp tọa lạc bãi thênh thang trồng cỏ Bermuda, làm cho Holcomb thích thú; nó là nơi người ta trỏ cho nhau xem. Về nội thất, có những tấm thảm xốp bông màu gan gà triệt hẳn từng khoảnh cái ánh loa lóa của sàn nhà đánh xi luôn dội tiếng vang; văng kiểu đại ở phòng khách mênh mông, bọc trong lần vải lổn nhổn hột có các sợi kim loại màu bạc dệt lẫn vào; buồng xây thụt vào làm nơi ăn điểm tâm kê ghế dài nho phủ lớp nhựa màu lơ và trắng. Ông bà Clutter thích những đồ nội thất này, giống như đa phần các quen biết của ông bà, chung nhà của họ đều trang bị đồ đạc tương tự thế.

      Ngoài người trông nom quét dọn chỉ đến vào những ngày làm việc, nhà Clutter thuê người giúp việc nội trợ, cho nên từ ngày bà Clutter ốm và hai lớn ra , ông Clutter cần phải học nấu nướng; hoặc ông hoặc Nancy nhưng chủ yếu là Nancy nấu ăn cho gia đình. Ông Clutter thích làm việc này, và làm rất giỏi - chẳng có bà nào ở Kansas nướng được bánh mì lên men bằng muối ngon hơn ông, và món kẹo dừa được trọng vọng của ông là khoản đầu sổ ở các cuộc bán bánh ngọt từ thiện - nhưng ông phải là người ăn khỏe, khác với đám bạn bè chủ trại chăn nuôi, ông còn thích các bữa điểm tâm thanh đạm là khác. Sáng ấy, quả táo và mộc cốc sữa là đủ cho ông; vì đụng đến cà phê hay trà, ông quen bắt đầu ngày với cái bụng lép kẹp. là ông phản đối mọi thứ kích thích, kể cả là . Ông hút thuốc, và dĩ nhiên uống rượu; vậy, ông chưa bao giờ nếm rượu mạnh và có xu hướng tránh người uống rượu - tuy nhiên điều này làm thu hẹp vòng quan hệ xã hội của ông nhiều như ông tưởng, vì trung tâm của cái vòng quan hệ này gồm những; thành viên của Nhà thờ Giám lý Thứ nhất của Garden City, hội đoàn tổng cộng nghìn bảy trăm người, phần lớn cũng kiêng cữ như ông Clutter hằng mong ước. Tuy thận trọng tránh làm điều gì có hại đến quan điểm của mình, chấp nhận cách xử thế quá khắt khe mỗi khi bước ra khỏi vương quốc của mình đặng tiếp xúc với bên ngoài, song ông lại ép buộc gia đình cùng với người làm thuê ở Trại Lũng Sông phải chấp nhận quan điểm của mình. " có uống rượu ?" là câu đầu tiên ông hỏi người xin việc, và mặc dù gã kia có cho ra lời đáp phủ định, ông vẫn cứ nhất quyết ký hợp đồng lao động bao hàm khoản rằng hợp đồng lập tức bị hủy bỏ nếu nhân viên nọ bị phát "chứa chấp rượu". người bạn - Lynn Russell, chủ trại chăn nuôi tiên phong lâu đời - có lần bảo ông: "Ông nhân từ chút nào cả. Tôi thề là nếu ông bắt được người làm thuê uống rượu là ta tong. Ông còn chả bận tâm xem gia đình ta có chết đói hay , Herb à." Có lẽ đây là lời phê phán duy nhất đối với ông Clutter với tư cách ông chủ. Nếu người ta chỉ biết đến ông như người luôn khoan hòa điềm đạm, có lòng từ ái, và thực ông trả lương thưởng hậu; người làm cho ông - có khi tới mười tám người - ít có lý do gì để phàn nàn.

      Sau khi uống cốc sữa và đội chiếc mũ lót lông, ông Clutter mang theo quả táo ra ngoài xem xét buổi sáng. Đây là thời tiết lý tưởng để làm ăn; vòm trời trong trẻo rọi xuống những tia nắng rực trắng nhất, ngọn gió Đông xào xạc thổi mà dứt đứt những chiếc lá cuối cùng của những cây du Tàu. Mùa thu ban thưởng cho miền Tây Kansas bù vào những tội nợ mà các mùa kia áp đặt cho nó: gió Colorado dữ dằn của mùa đông, tuyết sâu đến ngang hông, giết chết cừu; những trận tuyết tan hóa thành vữa bùn và những đợt sương mù bò sát mặt đất kỳ lạ của mùa xuân; rồi mùa hè, khi mà cả quạ cũng phải tìm mẩu bóng râm cỏn con, bạt ngàn những cuống rạ lúa mì màu hung hung đỏ bèn dựng lên chong chỏng và bốc cháy. Cuối cùng, sau tháng Chín, thời tiết khác đến, mùa hè muộn đôi khi kéo dài mãi tận tới lễ Giáng sinh. Trong khi ông Clutter ngắm cái tiêu bản cao cấp của mùa thu này con chó lai giống -li của Xcốtlen đến bên và cả hai cùng lững thững đến bãi thả gia súc nằm liền với trong ba kho thóc ở khu đồn điền.

      trong những kho này là túp lều Quonset đồ sộ; hạt mì kê Westland đầy ứ chờm cả ra ngoài lều, còn lều khác chứa cả núi hạt mì milo hăng nồng coi sầm sẫm đáng vô kể là tiền - trăm nghìn đô la. Riêng con số này cũng tiêu biểu cho gần bốn nghìn phần trăm tăng tiến toàn bộ thu nhập của ông Clutter năm 1934 - năm ông cưới Bonnie Fox rồi cùng bà chuyển từ Rozel, thị trấn quê hương ở Kansas, đến Garden City, nơi ông tìm được chân trợ lý phụ trách nông nghiệp hạt Finney. Việc này, cách khá điển hình, giúp ông được đề bạt chỉ sau bảy tháng; tức là đặt ông vào vị trí người đứng đầu. Những năm ông đương nhiệm - từ 1935 đến 1939 - là những tháng ngày lầm than nhất, thất bát nhất mà vùng đất này từng nếm trải từ thời người da trắng định cư ở đây, và chàng trai Herb Clutter, vốn dĩ bộ óc ganh đua thành thạo với những giải pháp nông nghiệp mũi nhọn tân tiến nhất, nên khá là đủ tư cách làm người trung gian giữa chính phủ và những chủ chăn nuôi nay nản chí; những người này có thể sử dụng tốt tính lạc quan và những chỉ dẫn đầy học thức của gã trai đáng xem chừng biết công việc của mình. Tuy thế, ông phải làm cái mà ông vốn dĩ muốn làm; là con trai chủ trại, ngay từ đầu ông nhắm đến việc tạo dựng cơ ngơi của chính mình. Bởi vậy, sau bốn năm, ông thôi làm nhân viên phụ trách nông nghiệp của hạt, và, thên mảnh đất thuê bằng tiền vay nợ, tạo nên phôi thai cho Trại Lũng Sông (cái tên này được diện của con sông Arkansas uốn khúc biện hộ cho, chứ ra chẳng hề có thung lũng nào cả). Đây là nỗ lực mà nhiều tay bảo thủ ở hạt Finney nhìn ngó với vẻ thú vị kiểu để-rồi-xem - đám dân kỳ cựu này từng mong nhử tay nhân viên nông nghiệp trẻ tuổi của hạt vì các khái niệm ở trình độ đại học của chàng: "Việc ấy hay đấy, Herb. Ông luôn biết ở đất đai thiên hạ làm cái gì tốt hơn cả. Trồng cái này . Tôn cao chỗ kia lên. Nhưng nếu chỗ ấy là của ông có thể ông khác tí đấy." Họ lầm; các thử nghiệm khởi đầu thành công - phần vì những năm mở đầu, ông làm lụng mười tám giờ ngày. từng thất bại - hai lần thu hoạch lúa mì hỏng ăn, và mùa đông ông bị mất mấy trăm đầu cừu trong cơn bão tuyết; nhưng sau mười năm cơ nghiệp của ông Clutter là hơn tám trăm mẫu thuộc sở hữu toàn bộ của ông và ba nghìn mẫu nữa trồng trọt cơ sở thuê mượn - và việc này, như các đồng nghiệp của ông thừa nhận, là " cuộc mở mang rất hay". Lúa mì, hạt milo, hạt cỏ có bằng chứng nhận - đó là những vụ thu hoạch mà trang trại ông dựa vào để mà thịnh vượng. Súc vật cũng quan trọng - cừu, và đặc biệt là bò. đàn vài trăm con bò Hereford mang nhãn Clutter, tuy người ta khó mà ngờ được điều này nếu chỉ nhìn vào chuồng trại có phần vắng vẻ, chủ yếu dành cho những con mới thiến ốm đau, ít bò sữa, những con mèo của Nancy, và Babe, con ngựa cưng nhất của gia đình - con ngựa già béo tốt bao giờ phản đối việc thồ tấm lưng to rộng của nó những ba bốn đứa trẻ.

      Lúc này ông Clutter cho Babe ăn lõi quả táo mình ăn, cao giọng chào người cào rác ở trong bãi thả - Alfred Stoecklein, người làm công duy nhất trú tại nhà ông. Vợ chồng ông Stoecklein và ba đứa con sống trong căn nhà cách tòa nhà chính đến trăm mét, trừ họ ra, trong vòng nửa dặm nhà hàng xóm nào. Stoecklein, người mặt dài, răng dài màu nâu, hỏi, "Ông nghĩ ra việc gì đặc biệt để làm hôm nay chưa? Vì nhà tôi có người ốm. Con bé út. Suốt cả đêm tôi với bà xã cứ xoay mòng mòng vì nó. Tôi tính đưa nó bác sĩ." Tỏ ra thông cảm, ông Clutter đằng nào cũng hết buổi sáng, nếu như thấy vợ chồng ông có thể đỡ đần được gì xin cứ bảo. Rồi ông ra đồng về phía Nam, con chó chạy trước, lúc này đồng nổi màu da sư tử, vàng lóa lên với những cọng rạ sau vụ gặt.

      ° ° °

      Con sông nằm ở hướng này; gần bờ sông có khu rừng nho toàn cây ăn quả - đào, lê, đào, táo. Theo trí nhớ của người sở tại, cách đây năm chục năm, người thợ xẻ chỉ cần mười phút là chặt sạch được cây cối vùng Tây Kansas này. Ngay cả bây giờ, cũng chỉ có bạch dương và du Tàu - những cây lưu niên hờ hững với nước giống như xương rồng - là được trồng rộng rãi. Nhưng như ông Clutter thường nhận xét, "mưa thêm chừng hai phân rưỡi nữa thôi là vùng đất này thành thiên đàng - Vườn Địa đàng." Sưu tập nho các thứ cây ăn quả mọc bên sông này là ý đồ của ông, mưa hay mưa cũng mặc, cứ xoay lấy lối vào Thiên đàng, cái Vườn Địa đàng xanh thơm mùi táo, ông hình dung như vậy. lần vợ ông : "Ông chồng tôi trông nom các cây ấy còn hơn cả các con," và ai ở Holcomb thảy đều nhớ hôm chiếc máy bay bị hỏng hóc đâm xuống các cây đào: "Herb đáng bị trói lại! Chứ sao nữa, động cơ chưa kịp tắt, ông ấy đâm đơn kiện viên phi công."

      Xuyên qua vườn cây, ông Clutter dọc con sông, khúc này nông và rải rác những hòn đảo - những doi cát mềm mịn ở giữa dòng mà vào những Chủ nhật dần qua, những lễ Sabbath nóng nực, khi Bonnie đến, giỏ đồ ăn picnic bày ra, cả buổi chiều cả nhà miên man chờ đầu dây câu khẽ giật. Ông Clutter ít gặp kẻ xâm nhập ở vùng đất của ông; cách xa lộ dặm rưỡi và đến đây chỉ có thể bằng những con đường u tối, đó phải là nơi mà người ta tới tình cờ. Nay, thình lình cả đám họ ra, và con chó Teddy liền lao lên khiêu chiến. Nhưng con Teddy này kỳ cục. Tuy nó là quân canh tốt, lanh lẹ, luôn sẵn sàng la lối ầm ĩ nhưng lòng dũng cảm của nó có khiếm khuyết: để nó nhác thấy khẩu súng, như lúc này - vì những kẻ xâm nhập đều có súng - đầu nó liền gục xuống, đuôi quặp lại. ai hiểu tại sao, vì ai biết tiểu sử của nó, ngoài chuyện nó là con chó lang thang được Kenyon đem về nuôi cách đây mấy năm. Hóa ra các vị khách là năm tay săn trĩ từ bang Oklahoma. Mùa săn trĩ ở Kansas, kiện nổi tiếng của tháng Mười dụ dỗ hàng đàn nhà thể thao từ các bang lân cận và trong suốt tuần qua, hàng đoàn người đầu quấn khăn vải Xcốtlen diễu qua các khoảng đất trống trải độ thu hoạch rồi , bằng những loạt đạn ghém, làm rụng và bôi đỏ lòm lòm những đàn chim bát ngát màu đồng điếu béo múp nhờ hạt lúa mì. Theo lệ, nếu phải khách mời những người săn phải trả cho chủ đất khoản phí để được phép theo đuôi con mồi ở đất của ông, nhưng khi đám người Oklahoma ngỏ ý thuê lấy quyền săn bắn, ông Clutter bật cười. "Tôi nghèo như cái mã ngoài của tôi đâu. Cứ bắn , lấy được bao nhiêu cứ lấy tất," ông . Rồi chạm tay vào vành mũ, ông quay về nhà với việc làm hôm đó, biết đó là việc cuối cùng của mình.

      ° ° °

      Cũng như ông Clutter, người trẻ tuổi ăn điểm tâm trong quán cà phê Tiểu Kim hoàn bao giờ uống cà phê. thích bia cồn hơn. Ba viên aspirin, bia cồn ướp lạnh và loạt điếu Pall Mall liền tù tì - đó là quan niệm của về "bữa trôi được" thực thụ. Vừa nhấp bia hút thuốc, vừa nghiên cứu tấm bản đồ trải mặt quầy trước mặt - tấm bản đồ Phillips 66 của Mexico - nhưng khó lòng tập trung xem vì còn chờ người bạn, và người này đến muộn. nhìn ra cửa sổ, ra cái phố thị bé im lặng, con phố chưa hề thấy cho tới tối hôm qua. Vẫn chẳng thấy tăm hơi Dick đâu. Nhưng chắc chắn Dick phải thò mặt ra, muốn gì mục đích của cuộc gặp này là ý của Dick, "vụ trúng quả" của cơ mà. Và khi ngã ngũ - là Mexico. Tấm bản đồ chắp vá, bị sờ mó vào nhiều quá đến nỗi hóa ra mềm như miếng da nai. Quanh cái xó này, trong gian phòng của cái khách sạn trọ, có hàng trăm tấm như thế nữa - những tấm bản đồ rách bươm về mỗi bang của Liên bang Mỹ, về mỗi tỉnh ở Canada, về mỗi nước Nam Mỹ - bởi vì người trẻ tuổi này là kẻ ngừng ngẫm nghĩ tới các chuyến , ít chuyến trong số đó thực tiến hành: đến Alaska, đến Hawaii, đến Nhật Bản, đến Hồng Kông. Nay, nhờ bức thư, lời mời đến với vụ "trúng quả", ở đây cùng với những vật sở hữu đời thường của : va li bằng các tông, cây ghi ta và hai thùng bự đựng sách, bản đồ và bài hát, thơ ca và thư từ cũ, nặng phần tư tấn (mặt Dick thế nào khi nhìn thấy những cái thùng này nhỉ! "Lạy Chúa, Perry. Cậu mang cái của đồng nát này theo khắp nơi đấy à?" Và Perry : "Đồng nát nào? trong những quyển sách này làm tớ chi những ba chục đô đấy ạ.") Đây, ở ngay tại thị trấn Olathe tí tẹo bang Kansas này. Ngộ , nghĩ mà xem; thử tưởng tượng trở về Kansas khi chỉ mới bốn tháng trước thề, trước hết với Tòa án Tạm tha của bang, rồi sau đó với bản thân, rằng bao giờ đặt chân lại vào trong ranh giới bang Kansas nữa. À, mà có phải lâu la gì đâu.

      Chi chít bản đồ là những cái tên được khoanh tròn bằng bút mực. COZUMEL, hòn đảo ngoài bờ biển Yucatán, ở đó, như đọc thấy tờ tạp chí cho đàn ông, bạn có thể "lột hết quần áo ra, phô nụ cười thoải mái ngoác đến mang tai, sống như tiểu vương Ấn Độ, và có tất cả những người đàn bà bạn muốn với 50 đô la tháng!" Cũng từ bài báo đó ghi nhớ những lời tuyên bố hấp dẫn khác: "Cozumel là dinh lũy chống lại sức ép xã hội, kinh tế và chính trị. có viên chức nào cưỡng bách bất cứ ai hòn đảo này," và "Hằng năm, từng đàn vẹt bay từ đất liền ra đây đẻ trứng." ACAPULO gợi ý về câu cá biển sâu, sòng bạc, đám đàn bà giàu có nhấp nhổm; và SIERRA MADRE nghĩa là vàng, nghĩa là Kho vàng Sierra Madre, bộ phim xem tám lần. (Đó là phim hay nhất của Humphrey Bogart, nhưng Walter Huston, cái lão đóng người tìm kho vàng, cái lão làm cho Perry nhớ lại bố , cũng oách. Đúng, và điều với Dick là : biết rành đầu đuôi xuôi ngược việc săn vàng, ấy là do bố , người lùng kho vàng chuyên nghiệp, dạy cho . Thế cho nên tại sao hai đứa lại mua lấy cặp ngựa thô mà thử vận may ở trong dãy Sierra Madre? Nhưng Dick, thằng cha Dick đầu óc thực tế, , "Ôi chao, bồ ơi. Tớ thấy cái tuồng đó rồi, cuối cùng thằng nào cũng rồ dại hết. Vì sốt rét, vì vắt đỉa, các điều kiện khốn nạn tứ bề. Rồi khi có được vàng - cơn gió lớn tới thổi tung hết - còn nhớ ?") Perry gập tấm bản đồ lại. trả tiền bia rồi đứng dậy. Khi ngồi, nom có vẻ người tầm vóc trung bình, khỏe mạnh, với đôi vai, đôi tay và thân mình đầy chắc hơi gò vào trong của lực sĩ cử tạ - mà đúng là mê môn cử tạ . Nhưng vài chỗ người lại cân đối với những chỗ khác. Lồng trong đôi ủng ngắn cổ màu đen có những mắt khóa bằng thép, hai bàn chân bé của có thể xoẳn vừa được đôi giày khiêu vũ của các bà các ; khi đứng lên, cao hơn đứa nhóc mười hai tuổi, và bất thình lình, nom lệnh khệnh với hai cẳng chân còi xem ra bất xứng đến buồn cười với cái khối to đùng mà chúng đỡ ở , trông lại giống tay lái xe tải lực lưỡng mà giống dô kề đua ngựa về hưu tàn tạ mà vai u thịt bắp.

      Bên ngoài cửa hàng, Perry đứng giữa trời nắng. chín giờ kém mười lăm, Dick muộn nửa giờ rồi; nhưng giá như Dick nhắc nhắc lại cho hiểu tầm quan trọng của từng giây phút trong hai mươi tư giờ sắp tới chẳng màng chuyện thời gian của trôi. Thời giờ ít có giá trị với có nhiều cách để giết giờ - trong số đó có cách soi gương. Dick có lần nhận xét: "Mỗi bận soi gương cậu cứ như nhập đồng, y như vậy . Y như cậu nhìn vào cái đít núng nính đấy. Lạy Chúa, tớ muốn là cậu thấy chán bao giờ à?" Còn lâu; mê mệt bộ mặt của chính . Mỗi góc độ của nó lại đưa ra ấn tượng khác. Đó là bộ mặt biến hóa, và những thực nghiệm nhờ gương soi chỉ dẫn dạy rung chuông biến hóa, sao cho trông lúc đáng gờm, lúc tinh quái, lúc có hồn; khẽ nghiêng đầu, mấp máy môi, thế là tên di gan hư đốn liền trở thành kẻ lãng mạn đáng . Mẹ là người da đỏ Cherokee chính cống; chính từ bà mà thừa hưởng cái màu sắc này - nước da nâu đỏ xỉn, cặp mắt tối, ướt, râu tóc đen mà ngừng bôi sáp và đủ sum suê để cho có hai hàng râu quai nón và hàng tóc xòe ngang trán trơn nhờn. Ân huệ của mẹ rệt; ân huệ của bố , người Ái Nhĩ Lan mặt tàn hương tóc hoe đó rệt bằng. Tựa như dòng máu da đỏ triệt hết mọi dấu vết của tông giống Celtic. Dẫu vậy, đôi môi hồng và cái mũi lõ vẫn còn xác nhận có mặt của nó, cũng như chất hiếu động lưu manh, và óc tự tôn Ái Nhĩ Lan cao cao tại thượng vẫn thường kích hoạt bộ mặt nạ Cherokee lên và hoàn toàn kiểm soát khi hát và chơi ghi ta. Hát, và nghĩ đến chuyện hát trước công chúng, là cách tự mê hoặc khác nữa để mà tiêu hao thời giờ. luôn dùng cùng phông cảnh trong đầu - hộp đêm ở Las Vegas mà chả hiểu thế nào lại hóa ra là thị trấn quê hương . Đó là gian phòng sang trọng đầy ắp những nhân vật lẫy lừng háo hức chú tâm vào ngôi sao mới ăn khách trình diễn bài hát nổi tiếng " nhìn em" có viôlông đệm theo của , và lại còn được đòi nghe thêm bài thơ tự biên tự diễn gần đây nhất nữa:

      Cứ tháng Tư từng đàn chim vẹt

      Đỏ và xanh bay ở đầu

      Xanh màu vỏ quýt

      Tôi nhìn chúng bay, tôi nghe chúng hát

      Đàn vẹt hót mang tới tháng Tư, tháng của mùa xuân...

      (Lần đầu tiên nghe bài hát này, Dick bình, "Vẹt làm gì hót. có thể. Choen choét. Nhưng chắc chắn là hót, mẹ kiếp." Dĩ nhiên Dick là gã phàm phu, cực phàm phu ấy - hiểu nhạc, thơ ca gì đâu - nhưng khi cần phải làm tới số cái phàm phu, cái lối tiếp cận thực dụng của Dick đối với mọi vấn đề, lại là lý do đầu tiên lôi kéo Perry, vì nó làm cho Dick so với xem chừng cứng rắn hơn, bất khả bại hơn , "trượng phu toàn diện").

      Nhưng dù thú vị đến thế nào giấc mơ Las Vegas đó cũng bị mờ nhạt ở bên viễn cảnh khác của . Từ thời trẻ con, suốt nửa cuộc đời ba mươi mốt năm, học văn chương hàm thụ ("Kho báu trong việc lặn! Tập luyện tại nhà vào thời gian nhàn rỗi. Kiếm tiền vừa nhiều vừa mau lẹ bằng cách lặn trần truồng bình khí. Sách hướng dẫn mất tiền..."), trả lời quảng cáo ("Kho vàng đắm! Năm mươi tấm bản đồ gốc! Quà tặng kinh ngạc..."), cái nung nấu niềm khao khát thực chuyến mạo hiểm phiêu lưu mà óc tưởng tượng mau mắn của cho ngừng có thể trải qua: giấc mơ ngao du xuống các vùng nước lạ, lặn đến vùng biển đen xanh thẳm, trườn lướt qua những kẻ bảo vệ có vẩy và con mắt man dại của boong tàu ra lù lù trước mặt, con tàu cổ Tây Ban Nha - tàu chở kim cương và ngọc bị đắm, chất đống những hòm vàng.

      Tiếng còi xe. Cuối cùng Dick kia rồi.

      ° ° °

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      "Trời đất Kenyon! Bác nghe cháu đây."

      Như thường lệ, ma quỷ ở trong Kenyon. Tiếng cậu hét cứ leo tiếp lên cầu thang: "Nancy! Có điện thoại!"

      Chân đất, quần áo ngủ, Nancy chạy vụt xuống cầu thang. Trong nhà có hai máy - máy ở gian phòng bố dùng làm bàn giấy, ở bếp. nhấc chiếc máy kéo dài vào bếp: "A lô? Ô, dạ, cháu chào bà Katz ạ."

      Và bà Clarence Katz, vợ ông chủ trại sống ở xa lộ, : "Bác bảo bố cháu đừng đánh thức cháu dậy mà. Bác là Nancy chắc phải mệt nhoài sau buổi diễn tuyệt vời của nó tối hôm qua. Cháu đáng lắm, cưng ạ. Mấy ruy băng trắng ở đầu cháu kia! Rồi cái đoạn cháu ngỡ Tom Sawyer bị chết - cháu chảy nước mắt ra đấy. Hay như ti vi ấy. Nhưng bố cháu đến lúc cháu dậy rồi; ừ, sắp chín giờ còn gì. Bây giờ đến cái chuyện bác muốn đây, cưng ơi, con bé nhà bác, con Jolene ấy, nó phát cuồng lên muốn làm bánh đào, thấy cháu làm bánh đào vô địch như thế nào, luôn luôn được giải, bác mới nghĩ hay là sáng nay đem nó tới đằng nhà cháu để cháu bày cho nó được ?"

      Bình thường Nancy vui lòng dạy Jolene làm hẳn bữa ăn tối với món gà tây; cảm thấy phận mình là sẵn sàng có mặt khi đám con trẻ hơn muốn nhờ giúp đỡ việc nấu nướng, vá may hay nhạc - hoặc hay xảy ra hơn, là cần để trút bầu tâm . lấy giờ ở đâu ra mà vẫn xoay xở để vừa "trông nom ngôi nhà lớn này", vừa là học sinh hạng A cứng, lại là trưởng lớp, người lãnh đạo trong chương trình 4-H và Liên đoàn Thanh niên Giám lý, tay ngựa giỏi, nhạc công xuất sắc (piano, kèn clarinet), người đoạt giải hằng năm ở chợ phiên tỉnh (bánh ngọt, mứt, may thêu, cắm hoa) - thiếu nữ chưa tới mười bảy làm thế nào gánh vác được núi việc như thế và lại có vẻ "ta đây", mà chỉ thấy ánh rờ rỡ mặt, điều này là mà cộng đồng thắc mắc và giải thích bằng cách , " này có cá tính. Có được cái đó từ ông già." Chắc chắn rằng nét mạnh nhất của , cái tài vốn đỡ nâng cho các tài khác là đến từ ông bố : khiếu tổ chức được trui rèn kỹ. Giờ nào việc ấy, biết chính xác lúc nào làm cái gì, mất bao lâu. Và đó mới là chỗ lôi thôi cho ngày hôm nay: lịch kín đặc rồi. nhận giúp con người hàng xóm khác, Roxie Lee Smith, tập bài độc tấu kèn trompet mà Roxie dự định chơi ở buổi hòa nhạc của nhà trường; hứa chạy cho mẹ mấy việc vặt phức tạp và bố trí dự cuộc họp 4-H với bố ở Garden City. Rồi phải nấu bữa trưa, sau bữa trưa, phải xong bộ váy phù dâu cho đám cưới của Beverly mà tự tay vẽ kiểu và khâu lấy. Việc xếp đặt rồi, chẳng còn chỗ nào cho bài học làm bánh đào của Jolene. Trừ phi bỏ việc gì.

      "Bác Katz ơi, bác giữ máy lát được , phiền bác nhé?"

      hết chiều dài ngôi nhà tới bàn giấy của bố. Có lối vào ở bên ngoài dành cho khách bình thường, bàn giấy này được ngăn cách với phòng khách bằng tấm cửa trượt; tuy ông Clutter thỉnh thoảng có chia sẻ bàn giấy với Gerald Van Vleet, người thanh niên giúp ông quản lý trang trại, căn phòng cơ bản vẫn là nơi ông rút lánh vào - thánh địa ngăn nắp, lát gỗ hồ đào, có các phong vũ biểu, biểu lượng mưa, đôi ống nhòm vây quanh, ông ngồi như vị thuyền trưởng trong cabin, nhà hàng hải lái tàu qua những đoạn đôi khi hiểm nghèo của Trại Lũng Sông suốt các mùa.

      " phải lo," ông , trả lời cho thắc mắc của Nancy. "Dẹp vụ 4-H . Bố đưa Kenyon ."

      Vậy là, nhấc máy bàn giấy lên, Nancy bảo bà Katz: "Dạ, tốt lắm, bác đưa Jolene đến đây ngay nhé bác." Nhưng nhăn mặt treo máy lên. "Lạ ," , nhìn quanh căn phòng và thấy bố ở trong đó giúp Kenyon ghi thêm cột con số, và ở bàn làm việc cạnh cửa sổ, ông Van Vleet, người có vẻ ngoài suy nghĩ và lôi cuốn trông hay hay khiến gọi ông là Heathcliff ở sau lưng. "Nhưng tôi vẫn ngửi thấy khói thuốc lá."

      "Ở hơi thở của ông ư?" Kenyon hỏi.

      ", của cậu, thế mới hay." Điều đó làm cậu yên tâm, với Kenyon, vì cậu biết là biết cậu lần hút trộm hơi - nhưng lúc ấy, Nancy cũng thế.

      Ông Clutter vỗ tay. "Thế thôi. Đây là văn phòng."

      Bây giờ, ở gác, thay áo quần, mặc vào chiếc quần bò Levis bạc và chiếc áo ba lỗ màu xanh lá cây, đeo vào cổ tay vật sở hữu có giá trị hàng thứ ba của , chiếc đồng hồ vàng; con mèo bạn thân của , Evinrude, được xếp ở nó, và cả Evinrude là chiếc nhẫn con triện, bằng chứng về tình trạng "hoa có chủ", mà đeo ( cách ít-lộ-liễu-nhất) ở ngón cái, vì ngay cả khi dùng băng dính vòng nhẫn cỡ đàn ông cũng làm sao vừa được với ngón nào khác ngoài ngón ấy. Nancy là xinh đẹp, thanh mảnh, nhanh nhẹn kiểu cậu thiếu niên, và những thứ đẹp nhất ở là mớ tóc màu hạt dẻ ánh mượt hơi gợn chải sóng (chải trăm nhát mỗi buổi sáng và cũng ngần ấy nhát buổi tối) và nước da sạch nhẵn vì xà phòng, vẫn còn nhàn nhạt chút tàn nhang và ánh rám hồng của mặt trời mùa hè. Nhưng chính là đôi mắt , cách xa nhau, long lanh tối, giống như rượu mạch giơ lên trong ánh sáng, nó làm lập tức đáng , nó lập tức cho ta biết là tin người, lòng tốt cũng biết cân nhắc nhưng dễ dàng được khơi gợi lắm.

      "Nancy!" Kenyon gọi, "Susan gọi điện đấy."

      Susan Kidwell, bạn tâm của . lại trả lời trong bếp.

      " ," Susan , bao giờ cũng mở đầu hiệp trò chuyện ở điện thoại bằng mệnh lệnh này. "Mở đầu, hãy kể tại sao cậu lại tán tỉnh Jerry Roth xem nào." Giống Bobby, Jerry Roth là ngôi sao bóng rổ của trường.

      "Tối qua ấy hả? Ôi trời, tớ có tán tỉnh đâu. Cậu thế vì chúng tớ cầm tay nhau chứ gì? Trong khi diễn, cậu ta vào hậu trường và tớ hồi hộp quá. Thế là cậu ta nắm tay tớ. Để cho tớ dũng cảm lên."

      "Ngọt ngào lắm. Rồi sao?"

      "Bobby đưa tớ xem phim ma. Và bọn tớ nắm tay nhau."

      "Có sợ ? phải Bobby. Phim ấy."

      "Bobby nghĩ thế; tên ấy cười toáng lên có. Nhưng cậu biết tớ đấy. Ui! Tớ ngã lăn ra khỏi ghế."

      "Cậu ăn gì đấy?"

      "Chả gì cả."

      "Tớ biết, cậu gặm móng tay," Susan , đoán đúng. Dù cố mãi, Nancy vẫn bỏ được cái thói quen cắn móng tay, cứ hễ lúng túng là lại nhấm cho tới tận phần thịt mềm. "Kể . Xảy ra chuyện gì ?"

      "."

      "Nancy. C'est moi, là tớ đây nhá..." Susan học tiếng Pháp.

      "Được thôi - là bố ấy mà. Ba tuần qua ông già nổi cơn đáng sợ. Đáng sợ. Ít nhất là quanh quẩn chuyện của tớ. Đêm qua khi tớ về nhà, ông già lại bắt đầu chuyện đó."

      "Chuyện đó" cần phải luận ra nhiều; đó là vấn đề hai bạn thảo luận toàn diện với nhau và tán thành. Tóm tắt vấn đề từ quan điểm của Nancy, Susan có lần , "Cậu Bobby lúc này, và cậu cần ta. Nhưng trong thâm tâm Bobby cũng biết việc này rồi chẳng có tương lai gì. Sau này, khi chúng mình rời đây Manhattan, mọi cái lại có vẻ như thế giới mới." Đại học Bang Kansas nằm ở Manhattan, và hai dự định vào học nghệ thuật tại đó, ở chung phòng. "Cậu muốn hay mọi cũng đều thay đổi. Nhưng bây giờ cậu thay đổi được tình hình đâu, nếu cứ sống ở Holcomb này, ngày ngày gặp Bobby, ngồi cùng lớp - mà chẳng có lý do nào để phải thay đổi. Vì cậu với Bobby là chuyện rất vui. Và nó cái gì vui vui để mà nghĩ lại - nếu cậu bị bỏ lại mình. Cậu làm cho ông già hiểu được cái đó à?" , làm được. "Vì," như giải thích với Susan, "cứ lúc nào tớ sắp sửa ông già lại nhìn tớ như kiểu tớ chắc là ông già. Hoặc như kiểu tớ bớt . Thế là thình lình lưỡi tớ cứng cả lại; tớ chỉ còn muốn là con ông già và làm như ông già mong muốn thôi." Susan đối đáp lại được điều này; nó bao gồm những xúc cảm, mối quan hệ vượt ra ngoài trải nghiệm của . sống mình với bà mẹ dạy nhạc ở Trường Holcomb, và nhớ ông bố lắm vì nhiều năm trước đây, ở quê nhà California, hôm ông Kidwell bỏ nhà trở lại nữa.

      "Mà dầu sao mình cũng chắc là tại mình," Nancy tiếp. "Cái đó làm cho ông già thành ra bẳn tính. cái gì đó khác cơ - bố lo cái gì đó ."

      "Mẹ cậu chăng?"

      người bạn nào khác của Nancy dám cho rằng, mình được phép gợi ý điều tương tự. Nhưng Susan là người được biệt đãi. Khi mới xuất lần đầu tiên ở Holcomb, đứa bé buồn rầu, có óc tưởng tượng, mảnh dẻ, xanh xao và đa cảm, lúc đó lên tám, kém Nancy tuổi, nhà Clutter nồng nhiệt đón nhận đến mức bé California cha mau chóng tới chỗ xem mình là thành viên của gia đình. Trong bảy năm ròng, hai bạn thể rời nhau, ai thay được cho ai, do chỗ hiếm khi tìm được người có những xúc cảm tương tự và đồng điệu như vậy. Nhưng rồi tháng Chín vừa qua, Susan được chuyển từ trường địa phương lên trường rộng hơn và nghe bảo là cao cấp hơn ở Garden City. Đây là thủ tục quen thuộc đối với những học sinh ở Holcomb có ý học tiếp cao đẳng, nhưng ông Clutter, vốn là người ủng hộ cộng đồng đến chết, lại coi việc bỏ như vậy là xúc phạm tới tinh thần cộng đồng; Trường Holcomb đủ tốt cho con cái ông và chúng ở lại đây. Vậy nên hai thể lúc nào cũng bên nhau nữa, và Nancy thấu cảm sâu xa vắng mặt của bạn lúc ban ngày, người bạn mà khi ở cạnh bên, cần phải tỏ ra gan dạ hay giữ kẽ.

      "Được. Nhưng cả nhà mình rất mừng về việc mẹ cậu nghe thấy những tin tuyệt vời đấy." Rồi Nancy , "Này," ngập ngừng tựa như lấy tinh thần để đưa ra nhận xét ghê gớm. "Tại sao mình lại ngửi thấy mùi khói thuốc lá chứ nhỉ? tình là mình nghĩ mình lẩm cẩm mất rồi. Mình lên xe hơi, mình vào gian phòng, y như rằng có ai đó vừa mới ở đấy hút thuốc lá. Đó phải mẹ, thể là Kenyon. Kenyon dám đâu..."

      Càng phải ông khách nào đến nhà Clutter, ở đây thẳng thừng bày gạt tàn thuốc lá. Từ từ, Susan nắm được cái ý, nhưng nó hơi lố bịch. Bất kể những mối lo riêng tư của ông Clutter là thế nào, cũng thể tin rằng ông tìm khuây trong thuốc lá. chưa kịp hỏi liệu có phải đó là điều Nancy muốn Nancy dập máy. "Xin lỗi Susie, tớ phải , bà Katz ở đây."

      ° ° °

      Dick lái chiếc xe Chevrolet 1949 mui kín màu đen. Khi lên xe, Perry soát cái ghế đằng sau để xem cây ghi ta của ở đấy nguyên lành , đêm qua, sau khi chơi cho bữa liên hoan của các bạn Dick, quên mất cây đàn và để nó lại trong xe. Đó là chiếc ghi ta Gibson cũ, đánh giấy ráp và quang dầu để cho có màu vàng mật. loại công cụ khác nữa nằm bên cạnh nó - khẩu súng săn hai nòng 12 ly, mới toanh, thép xanh biếc, dọc theo báng súng khắc bằng acid là cảnh nhà thể thao và đàn trĩ bay. cây đèn pin, con dao câu cá, đôi găng da, và chiếc áo vest săn nhét đầy vỏ ốc góp thêm khí vào bức tranh tĩnh vật lạ lùng này.

      "Cậu mặc nó à?" Perry hỏi, chỉ vào cái áo vest.

      Dick cong ngón tay gõ vào kính chắn gió. "Cạch, cạch. Thưa, xin lỗi ngài ạ. Chúng tôi săn bị lạc đường. Chẳng hay chúng tôi có thể dùng điện thoại..."

      "Si, señor. Yo comprendo 3. "

      "Chắc cú luôn," Dick . "Tớ hứa với cậu, bồ à, chúng mình hất tung tóe tóc lên hết mấy bức tường của chúng nó đấy."

      "Mấy bức tường đó," Perry . Vốn là dân ghiền từ điển, tay mê những chữ tối nghĩa, định nâng cấp ngữ pháp của đứa bạn đồng hành và mở rộng vốn từ của nó ngay từ dạo hai đứa nằm cùng xà lim tại Nhà tù Bang Kansas. Chẳng những chút ác cảm với các bài học này, đứa học trò, để cho ông thầy vui lòng, cũng có lần sáng tác ra tập thơ, và tuy những câu thơ đó hết sức tục tĩu, song Perry thấy rất buồn cười và vẫn đưa cho xưởng thủ công trong tù đóng bìa da cho bản thảo tập thơ, còn tên của nó, Những trò đùa bẩn thỉu, được mạ vàng.

      Dick mặc bộ đồ trẻ con màu lam, dòng chữ máy lưng áo quảng cáo cho XƯỞNG SỬA THÂN XE BOB SANDS. và Perry lái dọc theo tuyến đường chính của Olathe cho tới xưởng Bob Sands, gara sửa chữa xe hơi, Dick làm việc ở đấy từ ngày được ra tù vào hồi giữa tháng Tám. Là thợ cơ khí có năng lực, kiếm được sáu chục đô la tuần. đáng ăn lương cho cái việc định làm sáng nay, nhưng ông Sands, vốn để trông coi gara các ngày thứ Bảy, bao giờ ngờ được là ông trả lương cho gã thợ này để tháo rời xe ông ra xem xét. làm việc này, có Perry giúp đỡ. Chúng thay dầu, chỉnh lại khớp côn, nạp lại bình ắc quy, đổi chút ổ lăn nhả ly hợp và lắp lốp mới vào hai bánh sau - mọi thứ cần thiết, vì trong hôm nay và ngày mai chiếc Chevrolet già nua này được trông đợi thực những kỳ công có mùi trừng phạt.

      "Vì lão khọm cứ ở bên," Dick , trả lời Perry muốn biết tại sao lại đến quán Tiểu Kim hoàn trễ giờ. "Tớ muốn lão khọm thấy tớ mang khẩu súng ra khỏi nhà. Trời, giá mà lão ta biết tớ nhỉ."

      " biết mới đúng. Nhưng cậu bảo thế nào? Cuối cùng ấy?"

      "Như chúng mình ấy. Tớ bảo chúng mình cả đêm - chúng mình thăm chị cậu ở Fort Scott. Vì tính đến chuyện chị cậu giữ tiền của cậu. nghìn rưỡi đô la." Perry có người chị, và có lúc có hai, nhưng người chị còn sống ở Fort Scott, thị trấn ở Kansas cách Olathe tám lăm dặm; thực tình cũng chẳng chắc về địa chỉ nay của chị .

      "Ông ấy có ức ?"

      "Sao lại ức?"

      "Vì ông ấy căm tớ," Perry , giọng vừa nhàng vừa nghiêm túc - cái giọng tuy mềm dịu nhưng chế tác chính xác từng từ , làm nó bật ra như vòng tròn khói từ miệng vị thầy tu. "Mẹ cậu cũng ghét tớ. Tớ thấy được cái lối các cụ nhìn tớ, tả được."

      Dick nhún vai. "Chẳng liên can gì tới cậu cả. Vậy thôi. Y như họ thích tớ gặp bất cứ ai ở các Bức Tường." Hai lần lấy vợ, hai lần bỏ vợ, bây giờ hai mươi tám và bố của ba đứa con trai, Dick được phóng thích theo lời hứa tái phạm và với điều kiện về ở với bố mẹ; gia đình có đứa em trai nữa, sống ở cái trại gần Olathe. "Ai cũng mang cây kim huynh đệ," thêm, tay sờ vào nốt màu lam xăm ở dưới mắt trái - huy hiệu, mật hiệu dễ nhìn thấy nhờ đó số bạn tù trước đây có thể nhận ra .

      "Tớ hiểu," Perry . "Tớ có thiện cảm với cái đó. Các cụ là người tử tế. tình bà cụ là người dễ mến, mẹ cậu ấy."

      Dick gật đầu; cũng nghĩ vậy.

      Buổi trưa, chúng buông đồ nghề, và Dick cho nổ máy, nghe tiếng máy ro ro đều chắc, hài lòng vì làm được ra đầu ra đuôi công việc.

      ° ° °

      Nancy và trò , Jolene Katz, cũng hài lòng về công việc sáng hôm đó của mình; ra trò , bé mười ba tuổi gầy, tự hào ra mặt. hồi lâu, nhìn vào người đoạt giải ruy băng lam, vào những quả đào lò nóng lim dim sủi bên dưới lớp cùi bánh khía mắt cáo giòn tan, rồi nhịn được nữa, ôm chầm lấy Nancy hỏi: " đấy nhé, em có tự làm được bánh ?" Nancy cười, ôm lại và bảo cho Jolene yên tâm là làm được - với ít chút đỡ đần.

      Jolene đòi nếm ngay bánh - lẽ để cho nó nguội, thế vô lý quá. "Xin mời, hai chị em mình mỗi người miếng nào. Và cả bác nữa nhé," với bà Clutter vừa vào bếp. Bà Clutter cười - định thế; đầu bà nhức - và cảm ơn cháu, nhưng bà chẳng thiết ăn. Còn Nancy giờ; Roxie Lee Smith và bài độc tấu trompet của Roxie Lee Smith chờ , rồi sau đó mấy việc vặt cho mẹ, trong đó có cái liên quan tới buổi liên hoan mừng đám cưới mà vài ở Garden City tổ chức cho Beverly, và việc nữa là tới gala lễ Tạ ơn.

      "Con , mẹ chơi với Jolene cho tới khi mẹ con bé đến đón," bà Clutter , rồi quay sang đứa trẻ với vẻ nhút nhát che giấu nổi, bà thêm, "Nếu như Jolene thấy ở bên bác sao cả." Thời con , bà được giải về đọc thơ; hình như đến tuổi trưởng thành tiếng của bà rút lại thành ra cái giọng đơn điệu, cái giọng của vai vế, thân phận, và cả con người bà cũng bị rút lại chỉ còn là loạt những cử chỉ bị che mờ do nỗi sợ xúc phạm người khác, làm cho người khác phật lòng. "Bác mong cháu hiểu," bà tiếp sau khi con . "Bác mong cháu đừng nghĩ là Nancy khô khan với cháu."

      "Ồ bác ơi, đâu. Chính cháu chị ấy muốn chết lên đây mà. Vâng, ai cũng chị ấy. Chẳng có ai như chị Nancy đây. Bác có biết bà Stringer sao bác?" Jolene , viện tên giáo dạy gia chánh của mình ra. Có lần bảo với cả lớp, 'Nancy lúc nào cũng bận nhưng lúc nào cũng tìm ra được giờ. bậc phu nhân là thế nào định nghĩa là ở Nancy đấy các em'."

      "Ờ," bà Clutter đáp. "Tất cả các con bác đều được việc cả. Tụi nó cần đến bác."

      Trước đây Jolene chưa từng ở mình với bà mẹ "là lạ" của Nancy bao giờ, nhưng bất chấp những lời bàn tán nghe được, vẫn thấy rất dễ chịu, vì tuy bà Clutter thoải mái với chính mình, bà lại có ưu điểm là làm cho người khác thoải mái, những người hiền lành yếu đuối, bao giờ đe dọa ai vẫn thường như vậy; khuôn mặt trái xoan của bà, khuôn mặt người truyền giáo, cái vẻ siêu thoát mộc mạc thể tự vệ của bà cũng khơi dậy tình thương mến muốn chở che ở ngay chính Jolene, đứa trẻ còn rất con nít. Nhưng nghĩ rằng bà là mẹ của Nancy là khó! có vẻ còn được; chồng đến thăm viếng, hơi kỳ kỳ nhưng tốt.

      ", tụi nó cần bác," bà nhắc lại, tự rót cho mình tách cà phê. Tuy mọi người trong nhà đều tuân lời chồng bà tẩy chay món đồ uống này, bà vẫn mỗi sáng uống hai tách và có khá nhiều ngày bà ăn gì, chỉ uống cà phê trừ bữa. Bà nặng bốn mươi chín cân; những cái nhẫn, lắc cưới và chiếc có mặt xoàn khiêm nhường đến mức nom xoàng xĩnh - khẽ rung rung bàn tay xương xẩu của bà.

      Jolene cắt miếng bánh. "Úi!" rồi nuốt ngay. "Sắp sửa cả tuần bảy ngày ngày nào cháu cũng làm bánh mất thôi."

      "Đúng, cháu có lô em trai, mà bọn con trai ăn được nhiều bánh này lắm đấy. Bác trai và Kenyon chẳng bao giờ chán, bác biết mà. Nhưng nhà bếp - Nancy ấy, chính nó làm ra rồi lại ngoảnh mặt chả thèm. Cái ấy cũng giống như cháu. - kìa, tại sao bác lại cái này nhỉ?" Đeo cặp kính gọng, bà Clutter tháo nó ra, lấy tay day mắt. "Cháu , thứ lỗi cho bác. Bác chắc cháu chẳng bao giờ biết thế nào là mệt đâu. Bác chắc là cháu luôn luôn được hạnh phúc..."

      Jolene im lặng. sắc hoảng loạn trong giọng bà Clutter làm thay đổi cảm xúc; Jolene bối rối, mong mẹ đến ngay bây giờ, mặc dù bà hứa ghé đón về lúc mười giờ.

      Lúc này, bình tĩnh lại, bà Clutter hỏi, "Cháu có thích những thứ xiu xíu ? Những thứ bé tẹo ấy?" rồi mời Jolene vào trong phòng ăn để xem xét những cái ngăn giá đựng các thứ kỷ niệm tí hon nhăng nhít - kéo, đê, lẵng hoa pha lê, tượng, dao, nĩa. "Bác có vài thứ này từ ngày còn Bố và mẹ - cả nhà bác - sống ở California gần hết năm. Bên đại dương. Và có cửa hàng bán các thứ nho quý giá như thế này. Những cái tách này." bộ tách uống trà của nhà búp bê, cột chặt vào cái khay khẽ run rẩy trong lòng bàn tay bà. "Bố bác cho bác đấy; bác có tuổi thơ đẹp."

      Là con duy nhất của người trồng lúa mì giàu có tên là Fox, em dấu của ba người trai, phải được chiều quá thành hư mà là chuyện gì cũng được xí xóa cho qua, bà tới chỗ cho rằng đời là chuỗi những kiện vui vầy - mùa thu ở Kansas, mùa hè ở California, bộ tách xíu xiu quà tặng. Khi bà mười tám, bốc lên vì tiểu sử của Florence Nightingale, bà ghi tên học nữ y tá ở Bệnh viện Thánh Hoa Hồng tại Vòng Quẹo Lớn, Kansas. Bà có ý làm nữ y tá, sau hai năm bà thổ lộ ra: những thực trạng của bệnh viện - quang cảnh, những cái mùi - làm cho bà phát ốm. Nhưng đến nay bà lại tiếc học hết khóa để nhận bằng tốt nghiệp - "chỉ để chứng minh," như bà với người bạn, "rằng lần tôi thành công việc gì." Thay vì thế, bà gặp và lấy Herb, bạn học cùng lớp với người của bà, Glenn; ra, do hai gia đình sống cách nhau hai chục dặm, bà biết mặt ông từ lâu nhưng nhà Clutter, dân làm trại chay, đủ vai vế đặng mà tới lui thăm viếng nhà Fox sung túc và có học. Nhưng Herb đẹp, sùng đạo, có ý chí mạnh, ông muốn bà - và bà phải lòng ông.

      "Bác trai nhiều lắm," bà với Jolene. "Ôi, bác ấy luôn đến đâu đó. Washington rồi Chicago rồi Oklahoma rồi Kansas City - đôi lúc cứ như bao giờ bác ấy ở nhà. Nhưng bất cứ đến đâu, bác trai cũng nhớ là bác chuộng những thứ be bé này." Bà xòe ra chiếc quạt giấy xíu. "Bác trai đem từ San Francisco về cho bác đấy. Giá chỉ có xu. Nhưng có đẹp cháu?"

      Sau đám cưới năm, Eveanna ra đời, rồi ba năm sau, Beverly; sau mỗi lần ở cữ người mẹ trẻ lại trải qua phen chán nản thể giải thích - những cơn sầu khổ đưa bà vất vưởng từ phòng này sang phòng kia trong trạng thái mê mụ khiến ai nhìn cũng phải đau lòng. Giữa hai lần Beverly và Nancy ra đời, hơn ba năm trôi qua, đó là những năm picnic Chủ nhật và du lịch mùa hè tới Colorado, những năm bà cai quản ngôi nhà của mình và là trung tâm hạnh phúc của nó. Nhưng tới Nancy rồi Kenyon, kiểu suy nhược sau khi đẻ tự nó tái phát, và tiếp theo lần đẻ cậu con trai tâm trạng khốn đốn buông trùm xuống bà và hoàn toàn bao giờ nhấc lên nữa; nó vương vất như dải mây có thể tuôn mưa mà cũng có thể . Bà biết đến "những ngày tốt lành" và đôi khi chúng tích lại thành tuần thành tháng, nhưng ngay cả vào lúc khá nhất của những ngày tốt lành, những ngày bà là "cái Tôi xưa" của bà, Bonnie trìu mến đáng được bè bạn cưng chiều, bà cũng sao khơi ra được cái tài quảng giao xã hội mà các hoạt động cứ chất lên chót vót của chồng bà đòi hỏi. Ông là "người nhập cuộc," "thủ lĩnh bẩm sinh." Bà , và thôi cố trở thành người như thế nữa. Và thế là, dọc con đường được viền bằng lòng tương kính như tân, bằng tin cậy tuyệt đối, họ bắt đầu những lối nẻo chia ly nửa vời của họ - ông ngả công cộng, cuộc tiến quân của những chiếm lĩnh mãn nguyện, và ngả của bà, ngả riêng tư rốt cuộc cũng vòng vèo qua các hành lang bệnh viện. Nhưng bà phải có hy vọng. Lòng tin ở Chúa nâng đỡ bà, và thỉnh thoảng những cội nguồn cổ xưa sâu thẳm phụ bổ thêm cho bà lòng tin vào Chúa luôn sẵn sàng thương xót; bà đọc phương thuốc nhiệm màu, bà nghe cách điều trị mới, hoặc như gần đây nhất, bà dứt khoát tin rằng để cho "thần kinh bị giày vò" là chuyện đáng phải trách cứ.

      "Những thứ nho này là của cháu," bà , gập chiếc quạt lại. " cần để lại đâu. Cháu có thể mang chúng trong cái hộp đựng giày."

      "Mang đến đâu ạ?"

      "Còn đâu nữa, đến chỗ nào cháu đến ấy. Đáng lẽ cháu lâu rồi mới phải."

      Trước đây mấy năm, bà Clutter có du lịch đến Wichita để điều trị hai tuần và rồi lưu lại hai tháng ở đó. Theo lời khuyên của bác sĩ, vốn nghĩ rằng thí nghiệm này giúp bà phục hồi "cảm nhận mình phù hợp và hữu ích với mọi người," bà lấy căn hộ và tìm việc làm - thư ký văn thư ở Y.W.C.A. Chồng bà hoàn toàn tán thưởng, khuyến khích cuộc phiêu lưu, nhưng bà lại thích nó, thích quá đến mức bà thấy hình như nó trái với lẽ Cơ đốc và hậu quả là mặc cảm phạm tội lớn dần, cuối cùng nó đè bẹp mất giá trị liệu pháp của cuộc thí nghiệm.

      "Hoặc có thể cháu chẳng bao giờ về nhà. Vậy cái gì luôn ở bên người cháu là điều quan trọng đấy. Những thứ này là của cháu."

      Chuông cửa réo. Đó là mẹ Jolene.

      Bà Clutter , "Chào cháu ," rồi ấn vào tay Jolene chiếc quạt giấy. "Thứ này chỉ đáng có xu thôi. Nhưng mà đẹp."

      Sau đó còn lại mỗi mình bà Clutter ở nhà. Kenyon và ông Clutter lên Garden City; Gerald Van Vleet nghỉ ngày hôm nay; còn người dọn dẹp nhà cửa, bà Helm tốt bụng mà bà có thể tâm mọi điều, đến những ngày thứ Bảy. Bà có thể trở về với cái giường của bà, chẳng sao cả - ít khi bà rời nó, đến nỗi bà Helm tội nghiệp phải quần thảo mới có cơ lấy được vải giường ra thay hai lần tuần.

      Có bốn phòng ngủ ở tầng ba, và phòng ngủ của bà là phòng cuối ở đầu cùng của gian đại sảnh trần trụi, gian này chỉ đặt chiếc giường cũi trẻ con dùng vào dịp các cháu ngoại bà tới thăm. Bà Clutter nghĩ, nếu đưa các cỗ giường vào và gian đại sảnh được dùng làm phòng ngủ chung nhà bà có thể đủ chỗ cho hai chục người trong dịp lễ Tạ ơn; những người khác ở khách sạn mini hay nhà hàng xóm. Trong họ hàng nhà Clutter, họp mặt dịp lễ Tạ ơn là luân phiên hằng năm, năm nay đến lượt Herb nên phải làm, nhưng lại trùng với việc chuẩn bị cho đám cưới Beverly như lúc này, bà Clutter hy vọng sống sót qua cả hai vụ ấy. Cả hai đòi bà cần phải quyết định - việc bà luôn thích, và học được để mà biết sợ, vì mỗi khi chồng bà có công chuyện phải xa - bà vẫn ngừng chờ dịp ông vắng nhà - là bà lại phải đưa ra những phán xét trời ơi đất hỡi liên quan đến công việc trang trại, mà cái đó sao kham nổi, kiểu hành hạ. Nhỡ bà quyết sai sao? Nhỡ Herb thích sao? Tốt hơn là khóa cửa phòng ngủ lại, bảo là nghe thấy, hay như bà đôi khi vẫn , "Tôi thể, tôi biết. Cho xin ."

      Gian phòng mà bà chẳng mấy khi rời nghiêm lạnh; mặc dù giường đệm xếp dọn ngăn nắp, người khách vẫn có thể nghĩ nó thường xuyên để . chiếc giường gỗ sồi, bàn giấy hồ đào, bàn ngủ - khác ngoài những ngọn đèn, cửa sổ mắc rèm và bức tranh Giê-su mặt nước. Tựa hồ giữ cho gian phòng này có bóng dáng người, bằng cách đem mỗi đồ dùng riêng tư của bà vào đó mà để chúng trà trộn với các thứ của chồng, bà làm được xúc phạm là chung phòng với ông. Chiếc ngăn kéo duy nhất được sử dụng của bàn giấy đựng bình xịt nước hoa hiệu Vick, giấy vệ sinh Kleenex, đệm sưởi điện, số váy ngủ trắng và bít tất sợi bông trắng. Bà luôn luôn tất loại này để ngủ vì bà luôn luôn bị lạnh. Và cũng vì lý do đó mà bà quen đóng kín cửa sổ. Mùa hè năm ngoái, vào Chủ nhật tháng Tám, khi bà cấm cung ở đây, cố xảy ra. Hôm đó có liên hoan, bạn bè được mời tới trại để hái dâu tằm, trong số đó có Wilma Kidwell, mẹ của Susan. Giống như phần lớn những người thường được đãi đằng vui vẻ ở nhà Clutter, bà Kidwell chấp nhận mà bình luận gì về vắng mặt của bà chủ, bà cho rằng như lệ thường là bà chủ "mệt" hay " Wichita". Chả hiểu sao, đến lúc vào vườn quả bà Kidwell thoái thác; là dân thành phố, dễ mệt, bà muốn được ở lại trong nhà. Sau đó trong khi chờ đám hái dâu tằm trở về, bà nghe thấy tiếng khóc đau đớn, làm tan nát cả lòng. "Bonnie?" bà gọi và chạy lên gác, chạy hết gian đại sảnh tới phòng Bonnie. Khi bà mở cửa, hơi nóng tụ lại ở trong gian phòng như bàn tay đáng sợ bất chợt bịt lấy miệng bà; bà vội mở cửa sổ. "Đừng," Bonnie kêu. "Tôi nóng. Tôi lạnh. Tôi chết cóng đây. Lạy Chúa! Lạy Chúa! Lạy Chúa!" Bà huơ tay. "Xin Chúa đừng để cho người nào nhìn thấy con trong cảnh này." Bà Kidwell ngồi xuống giường; bà muốn ôm lấy Bonnie, và cuối cùng Bonnie để cho bà ôm. "Wilma," bà . "Tôi vẫn nghe bà đấy chứ, Wilma. Nghe tất cả mọi người. Cười. Vui vẻ. Tôi mất tất cả. Những năm đẹp nhất, con cái - tất cả. Ít lâu nữa, ngay Kenyon cũng trưởng thành - người đàn ông. Nó nhớ đến tôi như thế nào chứ? Như là con ma thôi, Wilma ơi."

      Lúc này, vào cái ngày cuối cùng này của đời bà, bà Clutter đem treo trong tủ tường bộ váy mặc ở nhà bằng vải trúc bâu bà mặc, rồi mặc vào chiếc váy ngủ dài lượt thượt và đôi bít tất sợi bông trắng sạch . Rồi trước khi lui về phòng, bà thay đôi kính thường, lấy đôi kính lão đọc sách. Tuy bà đặt mua nhiều tạp chí định kỳ (Ladies Home Journal, McCall's Readers Digest và Together: Midmonth Magazine for Methodist Families), nhưng có tờ nào bàn cạnh đầu giường - trừ quyển Kinh Thánh. bìa đánh dấu trang nằm giữa sách, miếng lụa cứng có vân sóng đó thêu lời răn bảo: "Con hãy cẩn thận, canh thức và cầu nguyện: bởi vì con biết lúc nào thời vận đến đâu."

      ° ° °

      Hai gã trẻ tuổi ấy ít có chỗ giống nhau nhưng họ nhận thấy vì cùng có chung số nét bên ngoài. Chẳng hạn, cả hai đều vẻ khó chiều, rất chú ý đến vệ sinh và tình hình móng tay mình. Sau buổi sáng làm thợ máy ô tô lấm lem, họ bỏ gần hết giờ chải chuốt đỏm dáng trong buồng vệ sinh của ga ra. Dick lột trần chỉ còn quần sịp hoàn toàn giống như Dick nguyên vẹn áo quần. Mặc quần áo, nom có vẻ thanh niên mảnh dẻ, tóc vàng bẩn, tầm vóc trung bình, có thịt và có lẽ ngực lép; tụt quần ra lại hề như vậy, mà đúng hơn là lực sĩ được ép cân thành hạng bán trung. Hình xăm bộ mặt con mèo màu lam nhoẻn miệng cười che hết bàn tay phải ; bên vai, bông hồng màu lam nở xòe. Nhiều dấu nữa, tự thiết kế và tự tạo, trang điểm cho hai cánh tay và thân người : đầu con rồng với sọ người ở giữa hai hàm răng há to; đàn bà khỏa thân mông to đùng; con quỷ với cây đinh ba; chữ HÒA BÌNH kèm theo chữ thập tóe ra những tia, những tia sáng thiêng liêng dưới dạng những đường thô lậu; và hai món xi rô tình cảm - là bó hoa tặng BỐ-MẸ, là quả tim ca ngợi thiên truyện tình của DICK và CAROL, lấy năm mười chín tuổi và sáu năm sau bỏ để "làm điều phải" nhờ phụ nữ trẻ tuổi khác, mẹ đứa con út của . ("Tôi có ba đứa con mà tôi kiên quyết chăm sóc," viết như vậy khi xin tha với lời hứa tái phạm. "Vợ tôi lấy chồng. Tôi hai lần lấy vợ, có điều là tôi muốn dính dáng gì với người vợ thứ hai của tôi.").

      Nhưng cả hình thù của Dick lẫn bộ sưu tập tranh xăm bằng mực trang điểm cho nó đều gây được ấn tượng đáng kể bằng bộ mặt , nó hình như được chắp lại bằng những bộ phận cân xứng. Đầu tựa hồ bị chẻ đôi ra như quả táo rồi chắp lại nhưng hơi chệch nhau. cái gì đại loại thế xảy ra; những đường nét chuệch choạc hoàn chỉnh là kết quả vụ đâm xe năm 1950 - tai nạn làm cho bộ mặt hẹp có hàm dài ngoẵng của bị nghiêng , phía bên trái hơi thấp xuống hơn bên phải, dẫn tới môi hơi lệch, mũi vẹo, và hai con mắt những cùng đường thẳng mà còn so le về kích chước, mắt trái là mắt rắn với cái liếc đảo màu lam ghê rợn, độc địa, cái này tuy phải cố ý làm ra nhưng hình như cảnh báo cho thấy lớp trầm tích chua cay ở đáy sâu bản chất . Nhưng Perry bảo , "Cái mắt chẳng hề sao cả. Vì cậu có nụ cười tuyệt. Nụ cười ăn tiền đấy." Đứng là tác động co rút của nụ cười dồn đẩy khuôn mặt vào tỷ lệ đúng đắn của nó, để người ta có thể nhìn ra nhân cách bớt gây căng thẳng hơn - "đứa trẻ nhà lành" kiểu Mỹ với bộ tóc húi đầu đinh chóng dài, đủ trí khôn nhưng quá xuất sắc. ( ra, rất thông minh. Kết quả kiểm tra IQ của ở trong tù là 130; mức của người trung bình, dù trong tù hay ở ngoài, là trong khoảng từ 90 đến 110).

      Perry cũng bị tàn tật, các vết thương của do vụ đâm xe máy, còn nặng hơn của Dick; nằm mất nửa năm trong bệnh viện của bang Washington và sáu tháng nữa chống nạng, và tuy tai nạn xảy ra vào năm 1952 nhưng đôi chân ngắn ngủn, chắc mập của bị gãy năm chỗ, sứt sẹo lằng nhằng tội nghiệp vẫn còn làm cho đau dữ đến nỗi trở thành tay ghiền aspirin. Tuy xăm mình ít hơn bạn đồng hành nhưng các hình xăm lại cầu kỳ hơn - phải công trình tự biên của tay nghiệp dư mà là những thiên sử thi nghệ thuật do các bậc thầy ở Honolulu và Yokohama thực . COOKIE, tên y tá từng thân mật với khi nằm viện, được xăm bắp tay phải. Bờm lam, mắt vàng da cam, nanh đỏ, con cọp gầm gừ ở bắp tay trái; con rắn phun phè phè, quấn khúc quanh lưỡi dao găm, bò trườn xuống cánh tay ; và khắp nơi khác là những đầu lâu lập lòe, mộ chí đứng lù lù, bông cúc nở rộ.

      "O.K., người đẹp. Cất cái lược ," Dick , lúc này mặc quần áo và sửa soạn . Cởi bỏ bộ đồ lao động ra, mặc vào bộ kaki xám, áo sơ mi hợp màu và giống như Perry, đôi ủng cao đến mắt cá chân. thể tìm ra cái quần nào hợp với cái thân người nửa dưới bị thu ngắn của bao giờ, Perry mặc quần jeans lam xắn gấu và áo chống gió bằng da nịt thắt ngang lưng. Tắm rửa kỳ cọ, chải chuốt bảnh chọe tinh tươm như hai gã công tử bột lên đường đến cuộc hẹn cặp đôi, chúng ra xe.

      ° ° °

      Khoảng cách giữa Olathe, vùng ngoại ô của Kansas City, và Holcomb, nơi có thể gọi là ngoại ô của Garden City, xấp xỉ bốn trăm dặm.

      thị trấn mười nghìn dân, Garden City bắt đầu tập hợp được những người sáng lập ra nó ngay sau Nội chiến lâu. người săn trâu lưu động, ông C. J (Buffalo) Jones, có liên quan nhiều đến bành trướng tiếp theo của nó từ quần thể túp lều và trạm xe ngựa thành ra trung tâm chăn nuôi trù phú với các quán rượu nhậu nhẹt vui chơi huyên náo, nhà hát, và khách sạn sang trọng nhất ở bất cứ chỗ nào giữa Kansas City và Denver - tóm lại, tiêu bản về tân kỳ của vùng biên giới, có thể so đọ được với nơi định cư nổi tiếng hơn nữa ở cách đó năm chục dặm về phía Đông, Dodge City. Cùng với Buffalo Jones, người rồi cuối cùng mất hết cả tiền lẫn trí não (những năm chót đời ông dành hết vào việc diễn thuyết trước đám đông đường phố kêu gọi chống tiêu diệt bừa bãi những con thú mà chính ông từng tàn sát lấy lời), những ánh huy hoàng ngày xưa chui vào trong mộ. vài kỷ niệm còn tồn tại: dãy nhà buôn màu sắc ôn hòa được người ta gọi là khối Buffalo Block, và khách sạn Windsor rực rỡ thời với quán rượu trần cao vút vẫn còn rực rỡ, với bầu khí những ống nhổ và những cây cọ trồng chậu, vẫn bền bỉ đứng giữa các cửa hàng và siêu thị mọi kiểu mọi vẻ, nó như là mốc địa giới của Phố Chính - khách sạn tương đối được bảo trợ, vì các gian phòng đồ sộ, tối tăm kiểu Windsor và các hành lang dội tiếng của nó dù gợi cảm đến mấy nữa cũng thể cạnh tranh nổi với dễ chịu nhờ điều hòa nhiệt độ ở khách sạn Warren xinh xinh ngăn nắp, hay với các cỗ máy ti vi cá nhân và "Bể bơi nước nóng" của khách sạn mini Wheat Lands.

      Ai từ bờ biển bên này sang bờ biển bên kia xuyên nước Mỹ, bằng xe lửa hay xe hơi, chắc chắn đều qua Garden City, nhưng nếu cho rằng chẳng có mấy người qua đường nhớ được chuyện này cũng chẳng sai gì lắm. Nó chỉ có vẻ như thị trấn kích thước trung bình khác nằm ở giữa - gần như chính giữa - nước Mỹ lục địa. phải người dân ở đây dung thứ cho ý kiến như thế - dù có thể là đúng. Tuy họ có thể ngoa ngoắt ("Nhìn khắp thế giới mà xem, tìm ra nổi ở đâu có người dân thân mật bằng, có khí trong lành bằng, có nước uống ngon ngọt bằng ở đây đâu nhé," và "Đến Denver tôi có thể được lương nhiều gấp ba, nhưng tôi có năm đứa , và tôi tính chẳng đâu nuôi dạy trẻ tốt được hơn ở đây đâu mà. Các trường mở rộng có đủ mọi môn thể thao. Còn có cả trường đại học nữa," rồi "Hồi xưa tôi đến đây là để thực tập luật. Chỉ nhất thời thôi, tôi chưa bao giờ có ý ở lại. Nhưng khi có dịp để tôi lại nghĩ, sao phải ? Để làm cái quỷ gì? Có thể đây là New York nhưng ai cần New York chứ? Hàng xóm láng giềng tử tế, những con người quan tâm ưu ái với nhau, cái đó mới quan trọng. Còn những thứ mà người đứng đắn cần đến đây chúng tôi có đủ. Nhà thờ đẹp đẽ này. Sân gôn này"), nhưng người mới tới Garden City, khi hòa nhập vào bầu im lặng ban đêm sau tám giờ của Phố Chính phát ra nhiều điều để mà ủng hộ cho những lời huênh hoang khoác lác có tính tự vệ của tinh thần công dân: thư viện làm ăn giỏi, tờ nhật báo có uy tín, đây đó những quảng trường trồng cỏ xanh râm mát, những con phố im lìm dành cho nhà - mà trẻ con và thú vật tha hồ chạy rông an toàn, công viên lớn nhiều ngóc ngách được bổ sung bầy thú xiếc ("Hãy xem Gấu Bắc Cực!" "Hãy coi Chú voi Penny!"), và bể bơi chiếm nhiều mẫu đất ("Bể bơi MẤT TIỀN lớn nhất thế giới!") Những phụ khoản như thế, rồi bụi rồi gió, rồi tiếng còi xe lửa ngừng rúc gọi, tất cả thêm thắt hương vị cho "thị trấn quê hương" mà chắc hẳn những người rời nó ra ắt phải nhớ mong bồi hồi, còn với những ai ở lại chúng đem tới ý thức về cội nguồn gốc rễ và mãn nguyện.

      ngoại lệ, người thành phố Garden phủ nhận cái chuyện có thể đem dân thị trấn ra phân cấp về mặt xã hội (" ạ, thưa ngài. Ở đây có gì giống như thế cả đâu. Tất cả bình đẳng, bất kể giàu nghèo, màu da, tín ngưỡng. Mọi cái đều đúng với cung cách phải thế của nền dân chủ; chúng tôi là vậy đó"), nhưng, dĩ nhiên, người ta thấy phân biệt giai cấp, và cũng dễ dàng thấy như - bất cứ bầy người nào khác. Ra khỏi phía Tây trăm dặm, người ta ở ngoài "Vành đai Kinh Thánh" - cái dải lãnh thổ Mỹ bị sách Phúc ám kia - ở đó người, nếu chỉ vì lý do làm ăn, có thể về tôn giáo của mình bằng bộ mặt trơ lì, nhưng ở hạt Finney người ta vẫn ở trong ranh giới của "Vành đai Kinh Thánh," do đó quan hệ với nhà thờ của người là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến địa vị giai cấp của người đó. Khoảng tám chục phần trăm tín đồ của hạt này là hỗn hợp của những người theo dòng Baptist, Giám lý, Cơ đốc Rôma, song ở tầng lớp ưu tú - doanh nhân, chủ ngân hàng, luật sư, bác sĩ và chủ trại chăn nuôi trội hơn chiếm lấy ngăn - dòng Trưởng lão và dòng Tân giáo là nổi nhất. tín đồ Giám lý thảng hoặc cũng có được hoan nghênh, và có lần đảng viên Dân chủ lọt vào thời gian, nhưng về tổng thể Bộ máy bao gồm những đảng viên Cộng hòa cánh hữu thuộc dòng Trưởng lão và Tân giáo.

      Là người có học, thành đạt trong nghề nghiệp, là đảng viên Cộng hòa lỗi lạc và người đứng đầu nhà thờ - dù là nhà thờ Giám lý - ông Clutter có đủ tư cách để đứng vào hàng ngũ những thân hào nhân sĩ địa phương, nhưng chính bởi ông bao giờ gia nhập Câu lạc bộ Garden City Country cho nên ông bao giờ tìm cách liên hiệp với nhóm cầm quyền. Trái hẳn lại, vì những thú vui của họ phải là thú vui của ông; ông được gì trong trò chơi cờ bạc, đánh gôn, tiệc cốc tai hay những bữa nguội buffet khách tự phục vụ lúc mười giờ tối - hay, đúng vậy, trong những thứ giải trí mà ông cảm thấy " làm nên cái gì." Thế cho nên, thay vì có chân trong trận đánh gôn bốn người vào ngày thứ Bảy rực nắng này, ông Clutter lại ngồi ghế chủ tọa cuộc họp của Câu lạc bộ 4-H Hạt Finney (4-H là bốn thứ: Head "trí", Heart "tâm", Hands "đôi tay" và Health "sức khỏe", và tôn chỉ của Câu lạc bộ tuyên bố "Chúng ta học làm bằng cách làm". Đây là tổ chức quốc gia có chi nhánh ở nước ngoài, mục đích giúp những người sống ở nông thôn - đặc biệt là trẻ con - phát triển các năng lực thực tiễn và tính cách tinh thần. Nancy và Kenyon là thành viên tự nguyện từ năm lên sáu). Đến cuối cuộc mít tinh, ông Clutter , "Bây giờ tôi có điều cần liên quan đến trong các thành viên của chúng ta." Mắt ông hướng vào người đàn bà Nhật mũm mĩm có bốn đứa bé Nhật mũm mĩm vây quanh. "Các bạn đều biết Hideo Ashida. Biết gia đình nhà Ashida từ Colorado chuyển về đây như thế nào - họ bắt đâu làm trại ở Holcomb hai năm trước. gia đình tốt đẹp, kiểu người mà Holcomb may mắn có được. Bất cứ ai cũng với bạn như thế. Ai bị ốm là được bà Ashida bộ đến thăm và chẳng thể tính ra được bà bao nhiêu dặm đường để mang đến cho họ món xúp tuyệt vời bà nấu. Hoặc những bông hoa bà trồng ở nơi mà bạn trông chờ nó có thể mọc lên. Và năm ngoái ở chợ phiên hạt bạn nhớ lại bà đóng góp bao nhiêu vào thành công của các triển lãm 4-H. Vậy nên tôi đề nghị chúng ta tôn vinh bà Ashida bằng phần thưởng ở bữa tiệc mừng thành tích của chúng ta vào thứ Ba tới."

      Các con bà dúi, đẩy bà; thằng con lớn nhất kêu to lên. "Hầy, mẹ ơi, họ mẹ đấy!" Nhưng bà Ashida lại ngượng; bà đưa hai bàn tay bụ bẫm như đứa trẻ lên dụi mắt rồi cười. Bà là vợ người chủ trại thuê đất; cái trại đặc biệt lộng gió và lẻ loi, ở vào quãng giữa Garden City và Holcomb. Sau các cuộc họp 4-H, ông Clutter thường lái xe đưa mẹ con bà Ashida về nhà, hôm nay cũng vậy.

      "Trời, tôi bị choáng," bà Ashida khi chiếc xe tải của ông Clutter chở họ lăn bánh đường số 50. "Có vẻ như lúc nào tôi cũng phải cảm ơn ông, Herb ạ. Nhưng xin cảm ơn ông." Bà gặp ông vào ngày thứ hai bà tới hạt Finney, trước lễ Halloween đúng ngày, và ông cùng Kenyon đến thăm mang cho đống bí với bí ngô. Trong suốt năm đầu tiên gay go đó, quà cáp cứ đến, những thứ mà Ashida chưa trồng được - từng rổ măng tây, rau diếp. Và Nancy thường đem con Babe đến cho bọn trẻ con cưỡi. "Ông biết đấy, đây là nơi tốt nhất chúng tôi từng được sống, ở hầu hết mọi mặt. Hideo cũng vậy mà. Chắc chắn chúng tôi khó mà nghĩ tới việc bỏ đây . Lại bắt đầu cả từ con số ."

      "Bỏ ư?" ông Clutter phản đối và cho xe chạy chậm lại.

      "Vâng, Herb ạ. Bỏ cái trại và những người chúng tôi làm lụng cho - Hideo nghĩ chúng tôi có thể làm được tốt hơn nữa. Có thể là ở Nebraska. Nhưng chưa ngã ngũ gì đâu. Mới là chuyện dông dài." Giọng nồng ấm của bà lúc nào cũng như sắp cười, làm cho cái tin buồn thế nào đó mà lại nghe như hớn hở, nhưng thấy ông Clutter buồn, bà lại quay sang chuyện khác. "Herb, hãy cho tôi ý kiến của người đàn ông nào," bà . "Tôi và lũ trẻ dành dụm được chút ít, chúng tôi muốn tặng Hideo cái gì lớn nhân dịp lễ Giáng sinh. Cái ông ấy cần là răng. Bây giờ ví như vợ ông cho ông ba cái răng vàng, liệu đó có phải là tặng vật vô lối khiến ông khó chịu ? Tôi muốn là bắt người qua lễ Giáng sinh ở ghế của ông nha sĩ nghe có được ?"

      "Ông bà làm chúng tôi bối rối đấy. Đừng có thử mà khỏi đây. Chúng tôi trói gô bốn chân tay ông bà lại đấy," ông Clutter . "Vâng, vâng, tất nhiên là răng vàng rồi. Nếu là tôi tôi thích đấy."

      Phản ứng của ông làm bà Ashida thích thú, vì bà biết ông tán thành dự định của bà trừ phi ông muốn thế; ông là người trang nhã lịch . Bà biết ông bao giờ chơi "lên mặt quan cách" hay tranh thủ kiếm lời hay thất hứa. Bà đánh bạo giật lấy lời hứa lúc này. "Xem này Herb, ở bữa tiệc - có diễn văn, hả? phải cho tôi. Ông ấy, ông là khác người lắm. Đấy, cái lối ông đứng lên với cả trăm con người. Nghìn ấy chứ. Mà cứ tự nhiên thế - thuyết phục mọi người bất cứ việc gì. Chả có cái gì làm ông sợ," bà , luận về đức tính ai cũng biết của ông Clutter: lòng tự tin biết sợ, nó khiến ông tách biệt với người đời, và tuy tạo ra lòng kính trọng song nó cũng hạn chế chút nào đấy tình cảm của người khác đối với ông. "Tôi thể tưởng tượng nổi ông sợ đâu đấy nhá. Dù có gì xảy ra, ông cũng chỉ cần thôi là thoát được ngay."

      ° ° °

      Đến giữa chiều, chiếc xe Chevrolet đen tới Emporia, Kansas, thị trấn lớn, gần như thành phố, và nơi an toàn, cho nên những người xe quyết định dừng lại mua sắm chút ít. Họ đỗ xe bên đường rồi quanh quẩn cho tới khi cửa hàng tạp hóa đông vừa phải ra.

      Đầu tiên mua đôi găng cao su cho Perry; giống Dick, quên đem theo đôi cũ của .

      Họ đến quầy có hàng dệt kim cho phụ nữ. Sau mấy câu nước đôi lưỡng lự, Perry , "Tớ chấm cái này."

      Dick lại . "Mắt tớ làm sao ấy? Màu quá sáng che được cái đó đâu."

      " ơi," Perry đánh động bán hàng. " có bít tất dài đen ?" Khi , đề nghị xem cửa hàng khác. "Đen dùng vào việc gì cũng được."

      Nhưng Dick lại nghĩ khác: bít tất màu gì cũng cần, vướng víu, mua uổng tiền mà thôi ("Tớ đầu tư khá tiền vào vụ này đấy"), và dẫu sao, bất cứ ai mà chúng gặp cũng chẳng sống để làm chứng được đâu. " nhân chứng," nhắc nhở Perry thế hình như là triệu lần rồi. Cái cách Dick phun ra ba chữ kia, nó day dứt trong , tựa như chúng giải quyết được mọi vấn đề; thừa nhận rằng có thể chúng bỏ qua nhân chứng nào đó ngu. "Cái điều khó mà xảy ra tình phải có bước ngoặt," . Nhưng, mỉm cười cách hợm hĩnh với vẻ con nít, Dick lại tán thành: "Lấy hết bọt bong bóng trong máu cậu , đừng cẩn thận quá. Chẳng cái gì trục trặc hết." . Vì kế hoạch này là của Dick, và khi thiết kế từ đầu đến cuối thể sơ suất được.

      Rồi chúng chú ý đến dây thừng. Perry nghiên cứu đống dây, thử từng sợi. Từng phục vụ dạo trong ngành tàu buôn, hiểu dây thừng và thạo các kiểu nút. chọn sợi ni lông trắng, chắc như dây thép nhưng dày hơn nhiều lắm. Chúng hỏi nhau cần bao nhiêu mét dây. Câu hỏi làm Dick cáu, bởi nó là phần của chuyện còn khó tính khó xử hơn và mặc dù kế hoạch thảo ra coi như hoàn hảo, vẫn thể trả lời chắc chắn được. Cuối cùng, , "Lạy Chúa, tớ biết thế chó nào được?"

      "Cậu phải cao thủ hơn chứ."

      Dick thử. "Có tay chồng này. Mụ vợ. Thằng con trai và đứa con . Và có thể hai đứa con nữa. Nhưng là thứ Bảy. Họ có thể có khách. Ta cứ tính cho là tám , thậm chí mười hai . Điều chắc chắn duy nhất là dù có mấy mấy cũng đều phải tong."

      "Chúng nó có vẻ đông. Phải biết chắc cái đó."

      "Tớ có hứa với cậu chỗ đó đâu, bồ ơi - nhiều tóc ở đầu chúng nó lắm - những bức tường kia ấy hử?"

      Perry nhún vai. "Thế tốt hơn là ta cứ mua cả cuộn." Nó dài gần trăm mét - khá đủ cho mười hai người.

      ° ° °

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Kenyon tự làm lấy cái hòm: cái hòm đựng quần áo dâu bằng gỗ dái ngựa, gờ bằng gỗ tuyết tùng mà cậu định cho Beverly làm quà cưới. Bây giờ, cậu làm trong cái gọi là sào huyệt ở dưới tầng hầm. Cậu bôi cho nó lớp quang dầu cuối cùng. Đồ đạc trong sào huyệt, buồng nền xi măng chạy hết chiều dài ngôi nhà, gồm gần như là toàn những vật mẫu nghề mộc của cậu (giá, bàn, ghế đẩu, bàn đánh bóng bàn) và đồ thêu thùa may vá của Nancy (những tấm vải sặc sỡ như làm cho cỗ văng ọp ẹp trẻ trung ra, rèm cửa, gối có chữ: HẠNH PHÚC? VÀ BẠN CHẢ CẦN PHẢI ĐIÊN MỚI SỐNG Ở ĐÂY NHƯNG ĐIỀU ẤY GIÚP BẠN ĐẤY). Kenyon và Nancy cùng có toan tính vẩy sơn vào gian phòng này cho nó mất cái vẻ khắc khổ xóa bỏ được, cả hai đều nhận ra chỗ thất bại. Kỳ thực cả hai lại nghĩ sào huyệt của chúng là chiến thắng và hạnh phúc - Nancy nghĩ thế là vì đấy là chỗ có thể tiếp đãi "băng đảng" mà quấy rầy mẹ , còn Kenyon vì cậu có thể ở đây mình, tha hồ gõ nện, cưa và mày mò các "sáng kiến" của mình, cái mới nhất là chiếc chảo điện sâu đáy. Kế bên sào huyệt là phòng để lò sưởi, chứa cái bàn la liệt công cụ chất đống, trong đó có số công trình làm dở dang của cậu - bộ khuếch , máy Victrola lên dây cót cũ rích mà cậu sửa cho chạy lại.

      Về hình thức, Kenyon giống cả bố lẫn mẹ; bộ tóc cắt kiểu đầu đinh của cậu màu gai và cậu cao mét tám, gầy nhẳng, tuy vẫn đủ khỏe để có lần cứu được cặp cừu lớn đẫy bằng cách mang chúng hai dặm trong bão tuyết - mạnh mẽ, kiên cường, nhưng khổ não vì thiếu phối hợp của cơ bắp, giống như ở cậu thiếu niên dài đuỗn. Nhược điểm này càng nặng thêm do chỗ cậu thể làm gì mà có kính, khiến cậu thể chơi ở những vị trí quan trọng trong các môn thể thao có kíp có đội (bóng rổ, bóng chày) vốn là mối bận bịu chính của phần lớn những cậu trai có thể là bạn bè của cậu. Cậu chỉ có người bạn thân - Bob Jones, con ông Taylor Jones, trang trại ông này ở cách nhà Clutter dặm về phía Tây. Ở vùng nông thôn Kansas, con trai bắt đầu lái xe từ rất trẻ; mười tuổi Kenyon được bố cho phép, với tiền cậu kiếm được bằng cách nuôi cừu, mua chiếc xe tải cũ động cơ kiểu A - xe hàng Coyote, cậu và Bob gọi nó như vậy. Cách Trại Lũng Sông xa có dải đồng đất bí tên gọi Đồi Cát; nó như bãi biển mà có biển, đêm đêm những con sói đồng cỏ lủi giữa các cồn cát, tụ tập thành bầy mà hú khóc. Những tối có trăng hai cậu tụt xuống tới gần chúng, xua chúng chạy và cố đua vượt chúng bằng chiếc xe hàng; họ ít khi vượt nổi, vì con sói loài này lẻo khoẻo nhất cũng chạy tới năm chục dặm giờ, trong khi tốc độ cao nhất của chiếc xe hàng là ba mươi lăm, nhưng đó là thứ vui chơi vừa man dại vừa đẹp, cỗ xe hàng trượt cát và bầy sói chạy tán loạn in hằn nền trăng - như Bob , chắc chắn cảnh đó làm tim bạn rộn ràng.

      Cũng say sưa như thế, nhưng thu lợi hơn, là những trận vây bắt thỏ: Kenyon là tay súng tốt nhưng bạn cậu còn giỏi hơn, và đôi khi hai cậu giao nộp đến năm chục con thỏ cho "xưởng thỏ" - nhà máy chế biến ở Garden City trả mười xu đầu thỏ, những con thỏ này được mau chóng làm đông lạnh và đưa xuống tàu chở tới cho những người nuôi chồn lấy lông. Nhưng cái có ý nghĩa nhất với Kenyon - và với cả Bob - là những ngày cuối tuần, săn ròng rã suốt đêm dọc bờ sông: lang thang xuôi ngược, quấn mình trong chăn, mặt trời vừa ló là liền lắng nghe tiếng cánh chim, rón rén đầu ngón chân tiến lại phía tiếng động, thế rồi, khoái hơn tất cả là vênh váo về nhà với tá vịt treo lủng lẳng quanh thắt lưng để làm bữa tối. Nhưng về sau tình giữa hai cậu thay đổi. Họ cãi nhau, có bất hòa lộ liễu, chẳng xảy ra chuyện gì trừ chuyện Bob, bấy giờ mười sáu tuổi, bắt đầu " với ", thế là Kenyon, vốn trẻ hơn tuổi và hãy còn rất thiếu niên đơn chiếc, còn trông chờ vào tình bạn đồng hành của Bob được nữa. Bob bảo cậu, "Khi cậu bằng tuổi tớ, cậu thấy khác. Tớ cũng quen nghĩ như cậu rồi đấy chứ: đàn bà - sao? Nhưng rồi cậu trò chuyện với người đàn bà nào đó thấy, rất hay đấy cậu ạ. Cậu hiểu." Kenyon nghi ngờ điều đó; cậu thể hình dung nổi mình lại muốn đem phí phạm dù chỉ giờ với nào, cái giờ ấy có thể dùng cho súng, ngựa, đồ nghề, máy móc, thậm chí cho quyển sách. Nếu có Bob thà mình, bởi về tính tình cậu chẳng giống bố tí nào mà gần với mẹ hơn, cậu trai đa cảm rụt rè. Đám cùng lứa nghĩ cậu là "kẻ thui thủi" nhưng họ bỏ qua cho cậu, , "À, Kenyon. Chỉ là cậu ta sống trong thế giới của riêng cậu ta ấy mà."

      Để cho lớp véc ni khô, cậu làm việc vặt khác cần phải làm ở ngoài nhà. Cậu muốn sửa sang lại vườn hoa của mẹ, mảnh đất bà rất mực quý, cành lá mọc lòa xòa ở ngay dưới cửa sổ phòng ngủ của bà. Khi tới đó, cậu thấy người làm thuê xới tơi đất bằng thuổng - Paul Helm, chồng của bà quét dọn nhà cửa.

      "Thấy cái xe kia ?" ông Helm hỏi.

      "Có," Kenyon nhìn thấy chiếc xe ở đường rẽ vào nhà - chiếc Buick màu xám, đậu ở bên ngoài lối vào bàn giấy của bố cậu.

      "Tôi nghĩ có thể cậu biết là xe ai."

      ", trừ phi là của ông Johnson. Bố mong ông ấy."

      Ông Helm (ông Helm quá cố; ông chết vì nhồi máu cơ tim tháng Ba sau đó) là người thầm, vào trạc cuối ngũ tuần, cái dáng co ro của ông lại để lộ ra bản tính rất tò mò và soi mói; ông thích biết cái gì diễn ra. "Johnson nào?"

      "Cái ông ở sở bảo hiểm ấy."

      Ông Helm lầm bầm, "Bố cậu chắc phải để dành được đống của. Cái xe này ở đây có khi phải ba tiếng rồi."

      Làn hơi ớn lạnh buổi chiều xuống run rẩy trong gian, và tuy vòm trời còn xanh thăm thẳm, bóng tối dài dần lan ra từ những thân cúc cao trong vườn; con mèo của Nancy len lỏi giữa đám cúc, vướng chân vào những sợi dây mà Kenyon và ông già dùng để buộc cây. Chợt, Nancy chạy thong thả qua cánh đồng lưng con Babe béo tròn - Babe vừa tắm sông về, tắm sông là chế độ đài thọ ngày thứ Bảy dành cho nó. Con chó Teddy cùng, cả ba đều ướt đầm và lóng lánh.

      "Khéo bị cảm đấy," ông Helm .

      Nancy cười to; bao giờ ốm - chưa lần nào. Trượt khỏi lưng Babe, nhoài xuống bãi cỏ rìa vườn tóm lấy con mèo, nâng nó lên đầu, rồi hôn vào mũi và ria mép nó.

      Kenyon thấy ghê. "Hôn vào mồm giống vật."

      "Em vẫn hôn Skeeter đấy thôi," Nancy nhắc em.

      "Skeeter là con ngựa." con ngựa đẹp, con ngựa nòi xích thố cậu nuôi từ bé. Skeeter băng qua được cả hàng rào! "Con ép con ngựa làm quá sức đấy," bố cậu có lần đe cậu. "Có ngày con cưỡi Skeeter đến toi mạng nó mất thôi." Và Skeeter toi mạng ; trong khi chạy xuống con đường với cậu chủ lưng, tim Skeeter vỡ, nó khuỵu xuống. Bây giờ, năm sau khi Skeeter chết, Kenyon vẫn thương tiếc nó, mặc dù bố cậu thấy thương hại hứa cho cậu chọn con khác vào lứa ngựa mùa xuân tới.

      "Kenyon này," Nancy , "Liệu vào dịp lễ Tạ ơn Tracy được chưa?" Tracy chưa đầy tuổi tôi, là cháu gọi. Nancy bằng , con trai của Eveanna, người chị mà cảm thấy đặc biệt thân thiết. (Beverly là người chị thân nhất của Kenyon). "Khi nghe nó 'Dì Nancy' chắc chị sướng rợn cả người đây. Hay 'Cậu Kenyon.' Em có thích nghe nó gọi như vậy ? Chị muốn là em có mê đóng vai người cậu ? Kenyon? Quỷ sứ, sao em chẳng bao giờ trả lời chị thế hả?"

      "Vì chị rồ," Kenyon , ném cho chị bông hoa, bông thược dược trắng, Nancy liền cài lên tóc.

      Ông Helm nhặt thuổng lên. Quạ kêu, mặt trời sắp lặn, mà nhà ông xa; lái có rặng du Tàu biến thành đường hầm màu xanh thẫm, và ông ở đầu cùng đằng kia, cách nửa dặm. "Chào," ông và bắt đầu lên đường về nhà. Nhưng có lúc ông quay lại. "Và đó là lần cuối cùng tôi thấy hai cháu," ông để làm chứng ngày hôm sau. "Nancy dắt con Babe già về nhà kho. Như tôi đấy, chẳng có gì khác thường cả."

      ° ° °

      Chiếc Chevrolet đen lại đỗ, lần này trước bệnh viện Cơ đốc ở ngoại vi Emporia. Sau những câu kháy liên tục ("Tại mày chứ tại ai. Mày cứ nghĩ chỉ có đường duy nhất đúng - đường của Dick"), Dick đầu hàng. Trong khi Perry ngồi chờ trong xe, vào bệnh viện thử mua đôi bít tất dài màu đen của tu sĩ. Phương pháp dùng bít tất khá phi chính thống này là cơn hứng của Perry; lập luận, nữ tu chắc chắn có cái đó. Điều này cho thay bất lợi: các tu sĩ và dĩ nhiên bất cứ cái gì liên quan đến các đều là đen đủi, mà Perry lại trọng nhất mê tín dị đoan. ( vài thứ khác là con số 15, tóc đỏ, hoa trắng, thầy tu qua đường, mơ thấy rắn.) Song vẫn dừng được. Cái con người mê tín như bị bắt buộc cũng rất thường khi là tay tin vào số mệnh tợn; đó là trường hợp Perry. ở đây, dấn chân vào cuộc lênh phênh giờ phải vì mong như thế mà là vì số mệnh an bài; có thể chứng minh điều đó - tuy có - làm thế, ít nhất là trong tầm tai của Dick, vì bằng chứng dính dấp đến chuyện thổ lộ động cơ đích thực và thầm kín đằng sau việc trở lại Kansas, vi phạm lời hứa tái phạm mà quyết định cứ làm, vì lý do liên quan gì tới chuyện "trúng quả" của Dick hay thư Dick gọi . Lý do là nhiều tuần trước biết được rằng vào ngày thứ Năm, 12 tháng Mười , bạn tù khác chung xà lim với trước kia được phóng thích khỏi Nhà tù Bang Kansas ở Lansing, và "hơn bất cứ thư gì đời này," mong gặp con người này, "người bạn chính cống và duy nhất" của , gã Willie-Jay "cao thủ".

      Trong năm đầu của ba năm tù, Perry quan sát Willie-Jay từ xa, thích thú nhưng e dè; nếu ta mong được coi là tay cứng rắn dữ dằn thân mật với Willie-Jay có vẻ như khôn ngoan. là người giúp việc của cha xứ, người Ái Nhĩ Lan thanh mảnh với mái tóc sớm bạc và hai con mắt xám buồn. Giọng nam cao của là niềm vinh dự của dàn đồng ca tù. Ngay cả Perry, tuy ác cảm với bất cứ biểu sùng đạo nào, cũng cảm thấy "nao nao" khi nghe Willie-Jay hát Kinh Nguyện Cha; lời nhạc trầm vang của bài ca dâng Chúa được hát lên với tinh thần tin đến như thế làm xúc động mà tự hỏi chút liệu khinh khi của mình có chính đáng . Cuối cùng, bị khích động bởi lòng tò mò tôn giáo hơi được khêu gợi, đến gần Willie-Jay, và người giúp việc cha xứ lập tức đáp ứng, nghĩ rằng mình linh cảm thấy ở trong con người lực sĩ nhưng chân tàn tật, với cái nhìn mờ tối, giọng thoảng và nghiêm túc này có " nhà thơ, cái gì hiếm hoi và có thể cứu vớt được". Tham vọng "đưa chàng thanh niên này đến với Chúa" tràn ngập trong . Hy vọng thành công của tăng nhanh khi hôm nọ Perry vẽ bức tranh bằng phấn màu - bức chân dung Giê-su lớn, chút nào ngô nghê về thủ pháp. Cha xứ Tân giáo Lansing, Đức Cha James Post, đánh giá bức tranh cao đến mức treo nó trong phòng làm việc của mình, và nay vẫn còn treo: Đấng Cứu thế trơn tru xinh đẹp với đôi môi mọng và con mắt đau đáu của Willie-Jay. Bức tranh là đỉnh cao của cuộc kiếm tìm tâm linh chưa bao giờ gắt gao đến thế ở Perry, nhưng, nực cười thay, đó cũng lại là chấm dứt; gán cho Giê-su của " xíu đạo đức giả", mưu toan "lừa phỉnh và bội phản" Willie-Jay, vì vẫn cứ tin Chúa cũng như xưa nay chẳng hề tin Chúa. Nhưng có nên chấp nhận điều đó và chấp nhận nguy cơ bỏ mất người bạn " hiểu " ? (Hod, Joe, Jesse, những kẻ lữ hành thất tán trong thế giới mà ở đó những cái tên cuối ít được trao đổi với nhau, họ là "cánh hẩu" của - chưa từng có ai giống như Willie-Jay, đứa mà theo ý kiến của Perry "về tri thức vượt hẳn mức trung bình, có óc cảm nhận như nhà tâm lý học được rèn luyện tốt". Sao người được nhiều thiên bẩm đến thế lại chui rúc tới Lansing nhỉ? Điều đó làm Perry ngạc nhiên. Câu trả lời, biết nhưng bác bỏ vì coi nó như là "nhằm trốn tránh câu hỏi sâu hơn, câu hỏi về con người," như ban ngày với cả những đầu óc đơn giản hơn: người giúp việc của cha xứ, lúc đó ba tám tuổi, là thằng ăn cắp, tên trấn lột cỡ trong vòng hai chục năm từng nằm tù ở năm bang.) Perry quyết định ra: tiếc tiếc, nhưng mấy cái kia - thiên đường, địa ngục, thánh thần, lòng thương Chúa - phải để cho , và nếu như tình cảm của Willie-Jay được xây dựng cái viễn cảnh là ngày nào đó Perry đến gặp dưới chân thánh giá bị lừa, tình bạn của hai đứa là giả, trò nhái, như bức chân dung kia mà thôi. Willie-Jay hiểu ngay, như thường lệ; nản lòng nhưng vỡ mộng, kiên trì tán tỉnh nhằm bắt lấy linh hồn Perry cho đến hôm Perry được tha vì hứa tái phạm rồi rời nhà tù, đêm trước đó viết cho Perry bức thư vĩnh biệt, đoạn kết như sau: "Cậu là người cực kỳ đam mê, người đói khát biết mình đói khát cái gì, người thất vọng sâu sắc vật lộn để phóng chiếu cá nhân mình lên cái nền rập khuôn cứng nhắc. Cậu tồn tại trong nửa-thế-giới lơ lửng giữa hai thượng tầng kiến trúc, là tự thể là tự hủy hoại. Cậu mạnh, nhưng có chỗ yếu trong cái mạnh của cậu, và trừ phi cậu biết cách khống chế nó, bằng cái yếu đó tỏ ra mạnh hơn cái mạnh của cậu và đánh bại cậu. Chỗ yếu nào ư? Phản ứng cảm tính bùng nổ vượt ra khỏi mọi tỷ lệ hễ khi nào có dịp. Tại sao? Tại sao lại giận dữ vô lý khi thấy kẻ khác hạnh phúc hay hài lòng, lại càng ngày càng ác cảm đối với người khác và ham muốn xúc phạm họ? Đúng, cậu nghĩ họ là điên rồ cả, cậu khinh họ vì tinh thần của họ, hạnh phúc của họ là nguồn gốc nỗi thất vọng và phẫn uất của cậu. Nhưng đó là những kẻ thù đáng sợ cậu mang ngay ở trong cậu - đến lúc chúng phá toang như những viên đạn. May sao, viên đạn giết chết nạn nhân của nó. Cái vi khuẩn khác này, được phép sống bền lâu, lại giết người mà để lại đằng sau nó cái đống thù lù của kiếp sống rách tơi vẹo vọ; vẫn còn ngọn lửa trong nhưng ngọn lửa đó được nuôi giữ bằng cách chất vào những nòm củi của miệt thị và căm thù. có thể tích lũy thành công tiền tài, nhưng tích lũy được thành đạt, vì là kẻ thù của chính bị kìm giữ nên thể thực được hưởng thụ thành tựu của mình."

      Phởn chí vì được là đối tượng của lời giáo huấn này, Perry đưa nó cho Dick đọc, kẻ vẫn thường nhìn Willie-Jay bằng cái nhìn chê bai dè bỉu. Dick gọi bức thư đó " gì khác hơn là nhảm nhí," rồi thêm, "Những nòm củi của miệt thị! Chính mới là thứ củi nòm." Dĩ nhiên Perry chờ đợi phản ứng này, và trong thâm tâm hoan nghênh phản ứng đó, bởi vì tình bạn với Dick, người mà chỉ biết sơ sơ cho tới mấy tháng cuối cùng ít ỏi ở Lansing, là sản phẩm tự nhiên và là đối trọng cho việc ngưỡng mộ mãnh liệt gã giúp việc cha xứ. Có thể Dick đúng là "nông cạn" hay thậm chí, như Willie-Jay , " kẻ huênh hoang xấu xa". Song dẫu gì Dick cũng hết sức ngộ nghĩnh, và sắc bén, tay thực tế, Dick luôn "sấn thẳng vào mọi thứ", đầu óc Dick mập mờ hoặc vướng víu cái gì. Hơn thế, giống Willie-Jay, phê phán những khát vọng quái lạ của Perry; Dick sẵn sàng nghe, bắt lửa, chia sẻ với Perry các viễn cảnh về "kho vàng có bảo đảm" náu dưới đáy biển Mexico, trong các dải rừng già Brazil.

      Sau khi Perry được tha theo lời hứa tái phạm, bốn tháng trôi qua, bốn tháng long lên xồng xộc chiếc xe Ford năm đời chủ giá trăm đô la, từ Reno tới Las Vegas, từ Bellingham, Washington tới Buhl, Idaho, và chính ở Buhl, nơi tạm thời làm tài xế xe tải thư của Dick tới: "Bạn P., ra hồi tháng Tám, sau khi cậu , gặp người, cậu biết đâu, nhưng cho tớ Cái mà cánh ta có thể lấy ra được cái Đẹp. cái chắc nịch, trúng quả Hoàn Hảo nhá..." Cho tới lúc đó Perry vẫn hề nghĩ gặp lại Dick. Hoặc Willie-Jay. Nhưng cả hai đều luôn luôn ở trong tâm trí , đặc biệt là Willie-Jay, kẻ mà trong ký ức cao vọt thành những ba mét, kẻ khôn ngoan đầu bạc ám ảnh các hành lang tâm trí . "Cậu theo đuổi cái phủ định," Willie-Jay trong phen dạy dỗ bảo như vậy. "Cậu muốn coi ai ra cái chó gì, cậu muốn tồn tại vô trách nhiệm, có lòng tin hoặc bạn bè hoặc đầm ấm."

      Trong các cuộc lang thang mới đây của , đơn độc, thiếu thốn tiện nghi, Perry ngừng suy xét lại lời buộc tội này và quả quyết rằng nó đúng. chẳng coi ai ra cái chó gì - nhưng có ai coi ra cái chó gì chưa? Bố ? Có, đến lúc nào đấy. hay hai - nhưng đó là "chuyện dài dài". có ai khác ngoài chính Willie-Jay. Và chỉ có Willie-Jay mới nhận chân được giá trị của , tiềm năng của , mới thừa nhận chỉ là kẻ nhiều cơ bắp, thiếu não và thiếu cỡ, và dẫu cho bao nhiêu lên lớp bảo ban, vẫn nhìn như nhìn bản thân mình - là "lệ ngoại", "hiếm thấy", "nghệ sĩ". Tính phù phiếm của tìm thấy nâng đỡ ở Willie-Jay, tính đa cảm của tìm thấy nơi náu, và chuyến lưu đày bốn tháng phải rời xa đánh giá cao tột này khiến nó lại càng hấp dẫn hơn bất cứ giấc mơ nào về kho vàng bị chôn vùi. Cho nên khi nhận được lời mời của Dick, và nhận thấy ngày giờ Dick đề nghị đến Kansas ít nhiều trùng với ngày giờ Willie-Jay ra tù, biết phải làm gì. tới Las Vegas, bán cái xe đồng nát, gói ghém bộ sưu tập những bản đồ, thư từ cũ, bản thảo và sách rồi mua xe buýt của Công ty Greyhound. Kết quả chuyến là mặc cho số phận; nếu thể " thành với Willie-Jay" có thể "xét tới đề nghị của Dick". Cuối cùng, hóa ra là chọn giữa Dick và chẳng gì hết, vì khi xe buýt của Perry tới Kansas City, tối ngày 12 tháng Mười , Willie-Jay, do biết tới, rời thị trấn rồi - thực ra là trước đó năm giờ đồng hồ, tại chính cái trạm cuối mà tuyến xe Perry đến. biết được vậy là nhờ gọi dây cho Cha Post, Cha làm nản vì từ chối cho biết nơi Willie-Jay đến. Cha chỉ : " ấy về miền Đông. Đến với những cơ hội tốt đẹp. việc làm tử tế, căn nhà với vài người tốt bụng sẵn sàng giúp đỡ ấy." Móc lại ống nghe, Perry cảm thấy "choáng váng vì giận và thất vọng".

      Nhưng ra mong đợi cái gì ở việc gặp lại Willie-Jay kia chứ? nghĩ khi cơn giận tiêu tan. Tự do chia cách họ; là những người tự do, họ chẳng có gì chung, là đối lập, chẳng bao giờ có thể thành "đội" được - và chắc chắn phải là cái đội có thể dấn vào những cuộc mạo hiểm nhào sâu xuống tít tận biên giới phía Nam mà và Dick mưu làm. Dù vậy, giá lỡ mất Willie-Jay, giá hai người có thể ở với nhau dù chỉ giờ Perry hoàn toàn tin - đúng ra là "biết" - rằng bây giờ phải lờn vờn ở bên ngoài bệnh viện chờ Dick thò ra với đôi bít tất dài đen.

      Dick trở ra tay . " ăn thua," báo tin, với vẻ lờ phờ thoáng qua, khiến Perry nghi ngờ.

      "Cậu có chắc ? Chắc là cậu hỏi chứ?"

      "Chắc."

      "Tớ tin cậu. Tớ nghĩ cậu vào đó, loanh quanh vài phút rồi ra."

      "O.K., được, bồ ơi, muốn gì cũng được mà," Dick mở máy xe. Sau lát trong im lặng. Dick đập vào đầu gối Perry, "Ê, này," . "Cái ý ấy thối lắm. Họ nghĩ cái chó gì kia chứ? Tớ mà lại cho chân vào đó cứ như đấy là cửa hàng tạp hóa vậy..."

      Perry , "Có thể đúng. Bọn nữ tu sĩ là lũ xúi quẩy."

      ° ° °

      Người đại diện của sở Bảo hiểm Nhân thọ New York tại Garden City mỉm cười khi nhìn ông Clutter mở nắp cây bút Parker và giở tập ngân phiếu. Ông nhớ tới câu đùa ở địa phương này: "Biết họ gì về ông , Herb? Họ 'Vì giá cắt tóc tăng lên đô rưỡi, Herb bèn viết séc cho ông thợ cắt tóc'."

      "Đúng thế đấy," ông Clutter đáp. Về các khoản thù lao, ông nổi tiếng là người bao giờ trả tiền mặt. "Đó là cách tôi làm ăn. Khi các vị sở Thuế đến mà hạch hỏi những tấm séc trả là người bạn tốt nhất của ông đấy."

      Cầm những tấm séc viết nhưng chưa ký, ông ngả người vào ghế bàn giấy và hình như suy nghĩ. Nhân viên bảo hiểm, người ngũ đoản, có phần nào hói, tác phong khá thoải mái, tên gọi là Bob Johnson, hy vọng người khách của mình phải phân vân nghi ngờ vào phút chót. Herb ương bướng, người chậm chạp trong việc đưa ra quyết định; Johnson cày cục hơn năm để cố giải quyết cho xong vụ mua bán này. Nhưng , thân chủ của ông trải qua cái mà ông gọi là Thời điểm Trọng thể - tượng quen thuộc với dân đại lý bảo hiểm. Tâm lý người cho bảo hiểm tính mạng mình giống với tâm lý người ký chúc thư; chắc hẳn là họ phải nảy ra ý nghĩ về cái chết.

      "Vâng, vâng," ông Clutter , tựa như với chính mình. "Tôi chịu ơn nhiều cái lắm, những điều tuyệt đẹp trong đời tôi." Các tài liệu đóng khung đánh dấu những mốc quan trọng trong nghiệp của ông loang loáng nền các bức tường bằng gỗ hồ đào trong phòng làm việc: bằng tốt nghiệp cao đẳng, bản đồ Trại Lũng Sông, những phần thưởng nông nghiệp, bằng chứng nhận có trang hoàng mang chữ ký của Dwight D. Eisenhower và John Foster Dulles 4 tuyên dương những đóng góp của ông cho Sở Tín dụng Nông trại Liên bang. "Rồi lũ trẻ con. Chúng tôi được may mắn ở đây. Tuy chẳng nên ra nhưng phải là tôi tự hào về chúng. Như Kenyon chẳng hạn. Ngay từ bây giờ nó thiên về làm kỹ sư hay nhà khoa học, nhưng mà ông ơi, ông thể bảo tôi rằng con tôi phải là chủ trại bẩm sinh đâu nhé. Chúa muốn là ngày nào đó nó cai quản chỗ này. Ông chưa gặp chồng Eveanna bao giờ nhỉ? Don Jarchow ấy? Bác sĩ thú y. Tôi thể cho ông biết tôi nghĩ tới cái cậu này nhiều như thế nào. Vere cũng thế. Vere English - cái cậu mà Beverly, con tôi khôn ngoan chọn dựa vào ấy. Nếu có gì xảy ra với tôi, tôi tin chắc là chúng gánh vác được trách nhiệm; mình Bonnie - Bonnie có khả năng làm công việc như thế này..."

      tay lỗi đời, Johnson biết đến lúc phải xen vào. "Sao cơ chứ, Herb," ông . "Ông còn trẻ. Bốn mươi tám mà. Xem thần sắc diện mạo ông, coi kết quả kiểm tra sức khỏe có vẻ ông còn khoảng hai tuần gì đó nữa cơ mà."

      Ông Clutter ngồi thẳng dậy, với lấy cây bút: " thà mà , tôi cảm thấy rất khỏe. Và rất lạc quan. Tôi nghĩ là người trong vòng vài năm tới có thể làm ra tiền ở đây." Trong khi phác ra những dự định cho việc cải thiện tài chính mai đây, ông ký vào tấm séc rồi đẩy nó sang bên kia bàn.

      Lúc đó sáu giờ mười, viên đại lý bảo hiểm bồn chồn muốn ; có thể là vợ ông chờ ông về ăn tối. "Rất vui được gặp ông, Herb."

      "Tôi cũng vậy, ông bạn."

      Họ bắt tay nhau. Rồi với cảm giác chiến thắng xứng đáng, Johnson nhặt tấm ngân phiếu của ông Clutter lên cất vào trong ví. Đó là khoản nộp đầu tiên cho món bảo hiểm bốn chục nghìn đô la mà trong trường hợp tử vong bởi tai nạn, cố, thân chủ được bồi thường gấp đôi.

      ° ° °

      "Và chàng bước bên tôi, chàng chuyện với tôi,

      Chàng bảo tôi là của chàng,

      Và niềm vui mà chúng tôi chia sẻ với nhau trong khi lần lữa ở đây,

      Chẳng ai khác từng được hưởng..."

      Với cây ghi ta, Perry hát đưa mình vào tâm trạng vui hơn. thuộc lời khoảng hai trăm bài tụng ca và ballad - các bài từ "Cây Thánh giá xù xì" đến Cole Porter - và ngoài ghi ta còn chơi được harmonica, phong cầm, đàn banjo và kèn xylophone. Trong tiết mục sân khẩu quái dị ưa chuộng của , lấy tên diễn xuất là Perry O'Parsons, ngôi sao tự phong là "Dàn Giao hưởng Người."

      Dick : " chầu cốc tai có sao ?"

      Riêng , Perry quan tâm tới chuyện uống gì, vì phải là dân sành nhậu lắm. Dick trái lại rất kén chọn, trong các quán bar thường chọn Mùa Cam Rộ - Orange Blossom. Perry lấy ở trong túi cửa xe ra chai nửa lít đựng thứ pha sẵn rượu vodka và rượu mùi vị cam. Họ uống bằng cách chuyền tay chai rượu. Tuy hoàng hôn xuống, nhưng Dick vẫn phóng tới sáu chục dặm giờ mà bật đèn. Được cái lúc này đường thẳng và đồng quê phẳng như mặt hồ, các xe khác hiếm hoi mới trông thấy. Đây là chốn "đồng mông quạnh" hay cũng gần như vậy.

      "Lạy Chúa!" Perry , ngắm nhìn phong cảnh phẳng lì và vô tận dưới màu xanh lạnh rơi rớt của vòm trời - trống quạnh trừ những ánh sáng nhấp nháy của các trại rải rác phía xa xa. ghét cảnh này, như ghét những đồng bằng bang Texas, sa mạc Nevada; những khoảng nằm ngang và dân cư thưa thớt luôn luôn gây ra cho cơn suy sụp thần kinh kèm theo cảm giác sợ đám đông. Cảng biển là niềm vui tưng bừng của - những thành phố sực mùi cống rãnh, san sát tàu bè, rộn rã lanh lảnh, đông nghịt, như Yokohama, nơi qua mùa hè khi là tên lính bét của quân đội Mỹ trong cuộc chiến tranh Triều Tiên. "Lạy Chúa! Thế mà chúng lại bảo tôi được bén mảng đến Kansas đấy! bao giờ đặt lại bàn chân xinh đẹp của tôi đến đây nữa. Cứ như chúng cấm cửa cho tôi vào thiên đường ấy. hãy cứ nhìn xem . Đúng là bữa tiệc mắt."

      Dick đưa cho chai rượu còn có nửa. "Để dành chỗ này đấy," Dick , "Chúng ta có thể cần đến."

      "Nhớ , Dick? Về việc lấy con tàu ấy? Tớ nghĩ. Ta có thể mua ở Mexico. cái rẻ nhưng cứng cáp. Và ta có thể tới Nhật Bản. Dong thẳng tuốt qua Thái Bình Dương. Việc ấy có người làm - hàng nghìn người làm rồi. Tớ trêu chọc cậu đâu, Dick - cậu nên Nhật. Tuyệt vời, con người đáng , cung cách điệu bộ cứ như hoa. ý tứ. Rồi đàn bà. Cậu chưa bao giờ gặp được người đàn bà ..."

      "Có, gặp rồi," Dick , tuyên bố vẫn còn mê người vợ đầu tiên tóc vàng mật ong tuy ả lấy chồng khác.

      "Những nhà tắm nữa chứ. chỗ tên là Biển Mơ. Cậu nằm thẳng cẳng ra, và đẹp, cái kiểu đẹp đánh-gục-liền ấy, đến kỳ cọ cho cậu từ đầu đến ngón chân."

      "Cậu kể rồi," giọng Dick cộc lốc.

      " sao? Tớ được lại cho tớ nghe hay sao?"

      "Để sau. Ta chuyện đó sau. Chó , bạn, đầu tớ bề bộn trăm thứ đầy."

      Dick mở máy thu thanh; Perry tắt nó . màng tới việc Dick cự nự, gảy cây ghi ta:

      " đến khu vườn mình, trong khi sương còn những bông hồng,

      Và tiếng nghe, rơi vào tai ,

      Là Con của Thượng đế vén mở ra cho..."

      Ở đầu chân trời, vầng trăng đầy đặn thành hình.

      ° ° °

      Thứ Hai tiếp theo, trong lúc đưa ra bằng chứng trước khi qua cuộc kiểm tra phát dối, cậu Bobby Rupp trẻ tuổi tả lại lần cuối cùng đến thăm nhà Clutter: " giữa tuần trăng tròn, tôi nghĩ, nếu như Nancy muốn, chúng tôi có thể lái xe chơi - ra hồ McKinney. Hoặc xem xi nê ở Garden City. Nhưng khi tôi gọi Nancy - chắc vào khoảng bảy giờ mười - Nancy phải hỏi bố . Rồi ấy quay lại cho biết bố bằng lòng - vì đêm trước chúng tôi chơi quá khuya. Nhưng ấy bảo tôi sao lại vào mà xem ti vi. Tôi xem ti vi ở nhà Clutter hồi lâu. Các ông thấy đó, Nancy là duy nhất tôi từng hẹn hò. Tôi quen biết ấy cả đời rồi; chúng tôi học cùng nhau từ lớp . Theo như tôi nhớ Nancy xinh đẹp và được nhiều người mến - nhân vật, ngay cả khi còn rất bé. Ý tôi muốn là chính Nancy làm cho mọi người đều cảm thấy tốt đẹp khi nghĩ về chính bản thân mình. Lần đầu tiên tôi hẹn Nancy chơi là khi chúng tôi học lớp Tám. Phần đông đám con trai ở lớp tôi đều muốn đưa Nancy dự buổi khiêu vũ nhân lễ tốt nghiệp lớp Tám, và tôi ngạc nhiên - tôi hết sức tự hào - khi Nancy với tôi. Cả hai chúng tôi hồi đó mười hai tuổi. Bố tôi cho mượn xe và tôi lái xe đưa Nancy khiêu vũ. Càng gặp tôi càng mến Nancy; mến cả gia đình nữa - có gia đình nào khác giống gia đình ấy đâu, quanh đây , mà mọi gia đình tôi biết cũng . Ông Clutter có thể nghiêm khắc về số việc - tôn giáo chẳng hạn - nhưng ông ấy bao giờ cố ý làm cho người khác cảm thấy mình sai còn ông ấy đúng.

      Chúng tôi sống cách nhà Clutter ba dặm về phía Tây. Tôi quen bộ tới lui đó, nhưng hè nào tôi cũng làm việc nên năm ngoái dành được đủ tiền mua chiếc xe riêng, chiếc Ford đời 1955. Cho nên tôi lái xe tới đó, sau bảy giờ chút. Tôi thấy ai đường hoặc lối dẫn vào nhà, ở bên ngoài cũng . Chỉ gặp con Teddy già nua thôi. Nó sủa tôi. Tầng dưới có ánh đèn - cả ở phòng khách và phòng làm việc của ông Clutter nữa. Tầng ba tối om, tôi nghĩ chắc bà Clutter ngủ - nếu như bà có nhà. Các ông bao giờ biết được bà ấy có nhà hay , mà tôi cũng bao giờ hỏi. Nhưng tôi nhận ra mình đoán đúng, bởi vì lúc chiều tối Kenyon muốn tập kèn, cậu ấy chơi kèn baritone trong ban nhạc ở trường, nhưng Nancy bảo cậu ấy đừng tập vì e làm bà Clutter thức giấc. Dẫu sao, khi tôi đến nhà ấy ăn tối xong. Nancy dọn bàn, để bát đĩa vào máy rửa, còn ba người - hai người con và ông Clutter - ở trong phòng khách. Thế là chúng tôi ngồi với nhau như mọi tối khác - Nancy và tôi văng, ông Clutter chỗ của ông, chiếc xích đu có đệm. Ông xem ti vi nhiều lắm - ông đọc sách Chàng hướng đạo sinh, quyển sách của Kenyon. Có lúc ông vào bếp rồi ra với hai quả táo; ông cho tôi quả nhưng tôi muốn ăn nên ông lại ăn cả hai. Răng ông ấy rất trắng; ông ấy bảo vì ăn táo. Nancy mang bít tất ngắn với giày mềm trong nhà, mặc quần jeans màu lam, áo chắc là chiếc áo ba lỗ màu xanh lá cây; ấy đeo chiếc đồng hồ vàng và cái lắc tôi tặng dạo tháng Giêng vừa rồi nhân kỷ niệm sinh nhật lần thứ mười sáu của ấy - lắc mặt có tên ấy, còn mặt kia là tên tôi - ấy đeo chiếc nhẫn, chiếc nhẫn bạc be bé mua dạo hè năm ngoái, khi ấy Colorado với nhà Kidwell. Đó phải là cái nhẫn của tôi - mà là nhẫn của chúng tôi. Hai tuần trước Nancy giận tôi, ấy bảo là tháo cái nhẫn ra ít lâu. Khi bạn của mình làm thế có nghĩa là mình bị thử thách. Tôi muốn , chúng tôi đúng là có xích mích - đôi nào cũng từng thế cả. Chuyện là tôi đến ăn cưới ở nhà người bạn và uống bia, chai bia, và Nancy nghe được. cậu hớt lẻo nào đó bảo Nancy rằng tôi say rượu. Thế là ấy lạnh như tiền ngay, chào hỏi suốt cả tuần lễ. Nhưng sau đó chúng tôi lại vui vẻ với nhau như cũ, và tôi tin rằng Nancy sắp sửa lại đeo chiếc nhẫn của chúng tôi.

      O.K. Chương trình đầu tiên gọi là 'Con người và Thử thách'. Kênh 11. Về số người ở Bắc Cực. Rồi chúng tôi xem phim Viễn Tây, và sau đó phim về gián điệp - Năm ngón. Mike Hammer lúc chín rưỡi. Rồi đến tin tức. Nhưng Kenyon chẳng thiết cái gì, chủ yếu vì chúng tôi để cậu ấy chọn chương trình. Cậu ấy chê tất còn Nancy cứ bảo cậu ấy im . Họ hay quạc nhau nhưng họ thân nhau, thân hơn phần lớn chị em người ta. Tôi nghĩ là vì có phần nào họ bị đơn độc cùng nhau, bà Clutter ở xa còn ông Clutter Washington hay nơi nào đó. Tôi biết Nancy đặc biệt rất cậu em trai nhưng tôi nghĩ ngay cả ấy hay bất kỳ ai cũng hiểu cậu ấy. Cậu ấy hình như lơ tơ mơ ở đâu ấy. Ông bao giờ biết cậu ấy nghĩ gì, thậm chí bao giờ biết liệu cậu ấy có nhìn ông - do là cậu ấy hơi có tí gàn gàn. vài người cậu ấy là thiên tài, và có lẽ đúng thế . Chắc chắn là cậu ấy đọc nhiều. Nhưng như tôi , cậu ấy yên vị, cậu ấy thích xem ti vi, mà muốn tập kèn, và khi Nancy cho tập tôi nhớ ông Clutter bảo cậu ấy sao xuống tầng hầm, phòng giải trí, ở đấy chẳng còn ai nghe thấy cậu ấy được. Nhưng cậu ấy cũng thích xuống.

      Điện thoại réo lần. Hay hai nhỉ? Quỷ , tôi nhớ được. Trừ cái lần nó réo và ông Clutter trả lời trong phòng làm việc. Cửa mở - cái cửa lùa ở giữa phòng khách và phòng làm việc - và nghe ông ấy 'Van', thế là tôi biết ông ấy với người thư ký, ông Van Vleet, tôi nghe ông ấy bị nhức đầu nhưng nay khá hơn rồi. Rồi bảo gặp ông Van Vleet vào thứ Hai. Khi ông Clutter trở lại - vâng, vừa lúc hết Mike Hammer. Năm phút tin tức. Rồi dự báo thời tiết. Tin dự báo thời tiết bắt đầu là ông Clutter lúc nào cũng hồ hởi hẳn lên. Đó là tất cả những gì ông ấy chờ. Giống như cái duy nhất tôi thích là thể thao - món đến tiếp theo sau. Hết thể thao mười giờ rưỡi, tôi đứng dậy. Nancy tiễn tôi ra ngoài. Chúng tôi chuyện lúc rồi hẹn gặp nhau xem xi nê tối Chủ nhật - bộ phim tất cả đám con đều ngóng chờ, Vải bò màu lam. Rồi Nancy chạy về nhà, còn tôi lái xe . Trời sáng như ban ngày - trăng vằng vặc - rét và có gió, nhiều lá bạch dương bay tứ tung. Nhưng đó là tất cả những gì tôi thấy. Chỉ bây giờ khi nghĩ lại, tôi mới đoán chắc là có ai nấp ở đó. Có thể là ở bên dưới, giữa đám cây cối. ai đó chỉ chờ tôi rời ."

      ° ° °

      Hai người đỗ lại ăn tối ở khách sạn tại Vòng Quẹo Lớn. Còn xoẳn năm chục đô la cuối cùng, Perry bằng lòng với bia và bánh kẹp thịt, nhưng Dick bảo , chúng cần "trận nhồi" đẫy bụng và thây kệ giá cả, chi. Họ gọi hai miếng bít tết cỡ vừa, tái, khoai tây nướng, thịt rán kiểu Pháp, hành rán, ngô đậu, hai đĩa mì macaroni và cháo ngô, xa lát trộn dầu dấm Thousand Island, bánh quế, bánh táo và kem ly rồi cà phê. Để kết thúc bữa ăn, họ vào hiệu thuốc chọn mấy điếu xì gà; cũng tại đó, họ mua hai cuộn băng dính dày cộp.

      Khi chiếc Chevrolet đen trở lại xa lộ và lao gấp qua vùng đồng quê lên cao dần đến nơi khí hậu lạnh hơn, khô nẻ hơn của bình nguyên lúa mì, Perry nhắm mắt chập chờn trôi vào giấc nửa thức nửa ngủ, mụ mị vì quá no nê, bừng tỉnh khi nghe thấy tiếng bản tin mười giờ. hạ kính cửa xe xuống, giằm mặt vào trong luồng khí lạnh ngắt. Dick bảo là chúng ở hạt Finney. "Ta quá ranh giới hạt mười dặm rồi," . Xe phóng rất nhanh. Những bảng hiệu, thông điệp của chúng sáng lên trong ánh đèn xe, lóa rực, bay vút qua: "Hãy xem Gấu Bắc Cực", "Xe hơi Burris", "Bể bơi MẤT TIỀN lớn nhất thế giới", "Khách sạn mini Wheat Lands" và cuối cùng, lát trước khi bắt đầu có đèn đường phố, "Kìa, vị khách lạ! Hoan nghênh đến Garden City. nơi hữu hảo!"

      Họ vòng rìa phía Bắc thị trấn. ai ở bên ngoài vào cái giờ gần nửa đêm này, và chẳng đâu mở cửa trừ chuỗi trạm xăng sáng trưng kỳ lạ. Dick quẹo vào trạm ở Hurd's Phillips 66. thanh niên ra hỏi, "Đổ đầy?" Dick gật đầu, còn Perry ra khỏi xe, vào trong trạm, vào phòng vệ sinh đàn ông khóa trái cửa lại. Chân đau như thường vẫn thế; đau tưởng chừng tai nạn cũ chỉ vừa mới xảy ra trước đó năm phút. lắc ba viên aspirin ra khỏi cái lọ, nhai thong thả (vì ưa vị thuốc) rồi uống nước ở vòi bồn rửa tay. ngồi xuống bệ xí, duỗi hai chân ra, xoa bóp, nắn hai cái đầu gối gần như thể co lại đươc Dick chúng gần đến nơi rồi - "hơn bảy dặm nữa thôi." kéo khóa mở túi chiếc áo gió lôi ra túi giấy; trong đó có đôi găng cao su vừa mua. Chúng được phủ cồn dán, dính và mỏng, khi xỏ tay vào cái bị rách - rách nguy hiểm, chỉ là vết bung ở giữa các ngón, nhưng với , xem chừng đó lại là điềm gở.

      Núm cửa xoay, kêu lạch cạch, Dick , "Có muốn kẹo ? Có cái máy bán kẹo ngoài kia đấy."

      "."

      "Cậu OK chứ?"

      "Tốt."

      "Đừng có ở suốt đêm đấy."

      Dick bỏ đồng tiền vào cái máy bán hàng, kéo cần gạt và nhặt lên gói kẹo dẻo tròn như hạt đậu; vừa nhằn kẹo vừa nhẩn nha trở lại xe, đứng uể oải nhìn người thanh niên trạm xăng có lau cho tấm kính chắn gió sạch hết bụi bặm Kansas và xác những con côn trùng bị đập nát. Người thanh niên tên là James Spor, cảm thấy thoải mái. Hai con mắt, vẻ mặt sưng sỉa của Dick cùng việc Perry nán lại trong phòng vệ sinh lâu cách khác thường làm cho yên. (Hôm sau bảo ông chủ, "Đêm qua ở đây ta có mấy tay khách dữ dằn," nhưng lúc ấy, mà cả mãi về sau, nghĩ đến chuyện gắn nó với tấn thảm kịch ở Holcomb).

      Dick , "Quanh đây tà tà nhỉ."

      "Chắc rồi," James Spor . "Ông là người duy nhất dừng lại ở đây hai tiếng vừa qua. Ông đâu đến?"

      "Kansas City."

      "Săn ở đây à?"

      "Ghé qua thôi. đường Arizona. Chúng tôi có việc chờ ở đó. Công việc xây dựng. Có biết từ đây tới Tucumcari, New Mexico bao xa ?"

      " thể là tôi biết. Ba đô sáu xu." nhận tiền của Dick, trả lại tiền lẻ và , "Ông thứ lỗi cho tôi chứ? Tôi dở việc. Lắp cái giảm xóc lên xe tải."

      Dick chờ, ăn vài cái kẹo dẻo hạt đậu, sốt ruột rồ máy, bấm còi. Có thể đánh giá sai tính cách Perry chăng? Cái thằng Perry, trong cả lũ, lên cơn "sôi máu" thình lình chăng? năm trước, khi gặp nhau lần đầu tiên, nghĩ Perry là " tên tử tế" - nếu có lúc hơi "phét lác về mình", "đa sầu đa cảm" và "quá ư mơ mộng". mến nhưng coi Perry là cái gì đáng vun đắp đặc biệt, cho đến hôm Perry tả lại vụ giết người, kể lại đơn giản rằng "chẳng vì cái khỉ gì" mà giết người da màu như thế nào ở Las Vegas - đánh cho đến chết bằng cái xích xe đạp. Câu chuyện nâng cái nhìn của về Perry Bé Bỏng lên; bắt đầu nhìn thấy nhiều cái hơn ở Perry, và, giống như Willie-Jay, tuy vì những lý do khác nhau, dần dần quả quyết rằng Perry có những phẩm chất khác thường và đắt giá. Nhiều kẻ sát nhân, hoặc những kẻ khoe từng giết người hoặc có ý muốn giết người vào Lansing; nhưng Dick bắt đầu đinh ninh rằng Perry chính là của hiếm kia, " tên sát nhân thiên bẩm" - tuyệt đối lành mạnh, nhưng vô ý thức, có khả năng làm nên những án mạng lì lợm nhất, chút ghê tay, có hoặc có động cơ gì hết. Lý thuyết của Dick là năng khiếu như thế có thể được khai thác có lợi, dưới xét duyệt của . tới kết luận này, giở trò tán Perry, phỉnh - chẳng hạn rằng mình tin tất cả mấy cái chuyện kho tàng chôn giấu, chia sẻ khát vọng sục tìm bờ biển và niềm thích thú cảng biển, những cái chẳng hề hấp dẫn Dick, Dick mong muốn " cuộc sống chỉn chu có công ăn việc làm, ngôi nhà, con ngựa để cưỡi, chiếc xe hơi mới và "nhiều nhiều bồ nhí tóc vàng". Nhưng quan trọng là Perry nghi ngờ điều đó - nghi ngờ cho đến khi sau này, với năng khiếu của mình, Perry giúp tham vọng của Dick thành . Nhưng có lẽ chính Dick tính sai, bị lừa; nếu thế - nếu rốt cuộc Perry chỉ là " tên du côn tầm thường" - "cuộc kết bè" chấm dứt, những tháng bày mưu tính kế coi như mất toi, chẳng còn gì để làm ngoài việc quay gót chuồn. Cái đó chắc xảy ra; Dick quay lại trạm xăng.

      Cửa nhà vệ sinh đàn ông vẫn cài chặt. đập mạnh: "Nhân danh Chúa, Perry ơi!"

      " phút nữa."

      "Sao vậy? Cậu ốm à?"

      Perry bám lấy gờ chậu rửa kéo mình đứng lên. Chân run rẩy; chỗ đầu gối đau làm toát cả mồ hôi. lau mặt bằng giấy vệ sinh. mở chốt cửa rồi , "O.K. Nào, !"

      ° ° °

      Phòng ngủ của Nancy là phòng bé nhất, có sắc thái nhất trong nhà - có dáng vẻ con , bay như váy ngắn vũ nữ ba lê. Tường, trần và mọi thứ khác, trừ bàn giấy và bàn viết, đều màu hồng, lam hoặc trắng. Cái giường trắng và hồng, xếp những gối lam, bị con gấu bông lớn màu hồng và trắng chế ngự - giải thưởng mà Bobby giật được ở chợ phiên hạt trong trò chơi bắn súng. bảng tin bằng gỗ bần, sơn hồng, treo bàn phấn viền trắng; những bông hoa dành dành khô, thứ sót lại của vài nhành hoa gài ngực áo, được buộc vào đó, rồi những thiệp cũ, mẩu báo cắt, các ảnh chụp thằng cháu bé và Susan Kidwell, Bobby Rupp, Bobby chụp khi làm hàng chục hành động - vung gậy bóng chày, rê bóng rổ, lái máy kéo, lội sông, mặc quần tắm ở đầu hồ McKinney (ra xa hết mức cậu ta dám, vì cậu ta biết bơi). Có cả ảnh và Bobby chụp chung. Trong đó, thích nhất bức chụp hai người ngồi trong ánh sáng loang lổ bóng lá cây giữa những thứ còn lại của bữa picnic và nhìn nhau với cái vẻ như đùa cợt đầy thú vị, tuy cười. Các ảnh khác chụp những con ngựa con mèo nay chết nhưng bị lãng quên - như "Boobs tội nghiệp", chết mới đây và cách bí nhất ( ngờ là bị đánh bả), để ngập bàn làm việc của .

      Nancy bao giờ cũng là người cuối cùng trong nhà nghỉ; như có lần với người bạn và là giáo dạy nữ công, bà Polly Stringer, những giờ nửa đêm là " giờ dành cho mình em và vô dụng". Lúc đó mới cho hết cái lệ bộ giữ gìn sắc đẹp, nghi thức tẩy da, thoa kem, vào tối thứ Bảy còn thêm cả gội đầu, Đêm nay, sấy khô và chải mượt tóc, buộc tóc vào băng vải ga mỏng xong, lấy ra quần áo định mặc nhà thờ sáng hôm sau: tất ni lông, giày đen, chiếc váy bằng vải nhung đỏ - cái váy thích nhất vì chính may lấy. Đó là cái váy mặc lúc đem chôn.

      Trước khi đọc kinh, luôn ghi vào nhật ký ít việc xảy ra ("Mùa hè đây rồi. Mãi mãi, tôi hy vọng. Susan đến và chúng tôi cưỡi con Babe xuống sông. Susan thổi sáo, Đom đóm") và bộc phát hãn hữu ("Tôi ấy, "). Đó là quyển nhật ký ghi suốt năm năm trời; trong bốn năm của cuộc đời nó ngày nào quên ghi, tuy mức huy hoàng của vài kiện (đám cưới Eveanna, ngày sinh đứa cháu trai) và nỗi sầu muộn của những kiện khác ("Cuộc cãi cọ đầu tiên của với Bobby"- trang đúng là hoen ố nước mắt) khiến chiếm đoạt mất chỗ vốn dành cho tương lai. loại màu mực khác chỉ mỗi năm: 1956 màu lục còn 1957 là dải băng đỏ, năm sau được thay bằng màu oải hương nhạt, còn giờ, 1959, quyết định cho nó màu lam trang trọng. Nhưng giống như trong mọi dịp biểu thị, vẫn tiếp tục vụng về nắn nót chữ viết, cho nó ngả sang phải hoặc sang trái, cho nó tròn hay nhọn, lòng thòng dính nhau hay có râu móc - tựa như : "Đây là Nancy ư? Hay cái này? Hay cái kia? Cái nào là tôi?" ( lần bà Riggs, giáo tiếng trả lại bài văn của với lời bình bằng chữ tháu: "Tốt. Nhưng tại sao lại viết thành ba kiểu chữ thế này?" Nancy trả lời: "Vì em chưa đủ trưởng thành để thành người có kiểu chữ viết riêng.) Tuy nhiên, trong mấy tháng gần đây tiến bộ lên dần, viết những dòng sau đây với nét chữ bắt đầu cho thấy dần có chững chạc trưởng thành, "Jolene K. đến và tôi bảo em làm bánh đào như thế nào. Tập nhạc với Roxie. Bobby ở đây và chúng tôi xem ti vi. Về lúc mười giờ."

      ° ° °

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      "Đây rồi, đây rồi, phải là nó đây rồi, nhà trường này, gara xe hơi này, bây giờ rẽ xuống phía Nam nào." Với Perry tựa như Dick lẩm nhẩm những câu thần chú líu ríu. Chúng rời xa lộ, phóng nhanh qua Holcomb vắng ngắt, băng qua đường xe lửa Santa Fe. "Ngân hàng, chắc phải là ngân hàng, bây giờ ta rẽ về phía Tây - thấy mấy cái cây ? Đây, chắc là đây." Đèn pha xe mở lối giữa những cây du Tàu ở hai bên; những đùm lá ké bị gió thổi rụng hấp tấp lăn ngang qua. Dick tắt đèn xe, chậm lại, và dừng cho tới khi mắt quen với bóng đêm có trăng chiếu sáng. Lúc này, chiếc xe bò lên phía trước.

      ° ° °

      Holcomb ở cách mười hai dặm về phía Đông của ranh giới múi giờ miền núi, hoàn cảnh gây ra đôi điều khó chịu rầy rà bởi như thế có nghĩa là vào bảy giờ buổi sáng, còn mùa đông vào tám giờ hay muộn hơn, trời vẫn còn tối và sao, nếu có, vẫn còn lấp lánh - như chúng lấp lánh lúc này khi hai đứa con trai nhà Vic Irsik đến làm tạp dịch sáng Chủ nhật. Nhưng chín giờ, lúc hai đứa làm xong việc - khi làm chúng nhận thấy có gì khác thường - mặt trời mọc, đem lại ngày khác nữa của mùa săn trĩ kỳ hoàn hảo.

      Khi hai đứa rời đò mà chạy con đường vào nhà, chúng vẫy chiếc xe hơi tới, và vẫy trả lại. là bạn học cùng lớp của Nancy Clutter, tên cũng là Nancy - Nancy Ewalt. là con của người lái chiếc xe, ông Clarence Ewalt, chủ trại tuổi trung tuần trồng củ cải đường. Ông Ewalt, bản thân phải là người mộ đạo, vợ ông cũng vậy, nhưng mỗi Chủ nhật ông lại thả con xuống Trại Lũng Sông để cùng với nhà Clutter đến lễ ở nhà thờ Giám lý tại Garden City. Cách thu xếp này tránh cho ông phải "làm hai chuyến về thị trấn". Ông có thói quen chờ cho tới khi con được nhận vào nhà an toàn. Là sành ăn mặc với dáng vẻ của ngôi sao màn bạc, vẻ mặt như người đeo kính cận, nghiêm trang, và kiểu lê rón rén ngón chân, Nancy băng qua bãi cỏ và bấm chuông cửa trước. Ngôi nhà có bốn cửa vào, thấy gọi mãi ai thưa, sang cửa cạnh đó - cửa vào phòng làm việc của ông Clutter. Ở đây cửa hé mở phần; mở rộng thêm ít - đủ để biết chắc là phòng làm việc chỉ đầy bóng tối và bóng tối - nhưng nghĩ nhà Clutter thích lối "nhào thẳng vào" của mình. đập, bấm chuông rồi cuối cùng vòng ra đằng sau nhà. Gara ở đây, để ý thấy cả hai chiếc xe đều ở trong: hai chiếc Chevrolet kiểu du lịch. Điều đó có nghĩa là họ phải ở nhà. Tuy vậy, sau khi bấm chuông cánh cửa thứ ba, cửa dẫn vào "phòng dụng cụ", và cửa thứ tư, cửa nhà bếp mà vẫn ăn thua, liền quay lại với bố. Bố , "Có lẽ còn ngủ cả."

      "Nhưng thể thế được. Bố có hình dung được là bác Clutter mà bỏ lễ nhà thờ ? Chỉ cốt để ngủ thôi ư?"

      "Thế . Chúng ta xuống Sở Thầy . Susan chắc phải biết có chuyện gì."

      Sở Thầy , đối diện với ngôi trường đại, là tòa nhà quá thời, buồn tẻ đến nhói lòng. Hai chục phòng có lẻ của nó được ngăn ra thành những căn hộ chiếu cố dành cho các giáo viên tìm ra được hay được cấp chỗ ở khác. Nhưng Susan Kidwell và bà mẹ xoay xở để biến xấu thành đẹp, tạo nên được khí đàng hoàng trong căn hộ của mình - ba buồng nơi tầng trệt. thể ngờ được gian phòng khách bé như vậy lại chứa được - ngoài những thứ để ngồi - đàn organ, piano, cả vườn những chậu nở đầy hoa, và thường còn có con chó con lao vọt ra cùng con mèo to lơ mơ ngủ. Vào buổi sáng Chủ nhật, Susan đứng ở cửa sổ gian phòng này nhìn xuống đường phố. thiếu nữ cao, lờ lững, với khuôn mặt trái xoan xanh xao và đôi mắt đẹp màu xám pha lam nhạt; hai bàn tay khác người - ngón dài, mềm mại, sang quý cách bồn chồn. ăn mặc để lễ nhà thờ, và lúc này chờ chiếc Chevrolet của nhà Clutter, vì cũng thế, luôn luôn lễ với trông nom của nhà Clutter. Thế nhưng chỉ có bố con nhà Ewalts đến kể cho nghe câu chuyện kỳ quặc họ vừa gặp.

      Nhưng Susan thể giải thích, cả mẹ cũng thế, bà , "Nếu có thay đổi gì, tôi tin chắc là đằng ấy gọi điện. Susan, sao con gọi lại ? Họ có thể ngủ - mẹ cho là như vậy."

      "Vậy nên tôi gọi," Susan , trong lời khai vào ngày sau này. "Tôi gọi đến nhà và để cho chuông réo - ít ra là tôi có cảm tưởng chuông réo - ô, có đến phút hay hơn. ai trả lời, cho nên ông Ewalt gợi ý là chúng tôi đến nhà ấy thử 'đánh thức họ dậy xem'. Nhưng khi tôi tới đó tôi lại muốn gọi. Vào trong nhà. Tôi sờ sợ, hiểu tại sao, vì chuyện sợ kiểu này xảy ra với tôi bao giờ cả - vâng, cái gì như sợ nhưng chưa từng xảy ra. Nhưng mặt trời rực rỡ lắm, mọi vật nom đều tươi sáng và yên tĩnh. Thế rồi tôi nhìn thấy hai chiếc xe ở đó, cả chiếc xe hàng Coyote cũ kỹ của Kenyon. Ông Ewalt mặc quần áo lao động; ủng ông có bùn; ông cảm thấy mình ăn mặc nghiêm chỉnh để gọi nhà Clutter. Nhất là vì ông chưa từng. Chưa từng vào nhà, ý tôi như thế. Cuối cùng, Nancy cùng tôi vào. Chúng tôi vòng ra cửa bếp, và dĩ nhiên là nó khóa; người duy nhất quanh đây khóa cửa là bà Helm, gia đình đây . Chúng tôi vào và tôi thấy ngay là nhà Clutter ăn điểm tâm; có đĩa, chẳng có gì lò. Rồi tôi để ý thấy cái lạ: ví tiền của Nancy. Nó nằm sàn nhà, mở thế này. Chúng tôi ngang qua phòng ăn và dừng lại ở chân cầu thang. Buồng của Nancy ở ngay đầu. Tôi gọi tên Nancy và bắt đầu lên gác, Nancy Ewalt theo sau. Tiếng chân chúng tôi làm tôi sợ hơn bất cứ thứ gì, chúng quá to mà mọi cái khác lại đều quá im lặng. Cửa buồng Nancy mở. Rèm cửa kéo, buồng đầy ánh nắng. Tôi nhớ mình hét lên. Nancy Ewalt là tôi hét - hét, hét mãi hét mãi. Tôi chỉ nhớ con gấu bông Teddy của Nancy cứ trừng trừng nhìn tôi. Và Nancy. Và chạy..."

      Trong lúc đó, ông Ewalt quyết định có lẽ nên để hai con vào trong nhà mình. Ông ra khỏi xe tìm hai nghe thấy tiếng hét, nhưng ông chưa kịp tới ngôi nhà, hai chạy đến với ông. Con ông kêu to lên, "Nancy chết rồi!" và nhào vào tay ông. "Bố ơi, mà! Nancy chết rồi!"

      Susan quay sang Nancy Ewalt. ", chết. Đừng thế. Đừng liều. Chỉ chảy máu cam thôi. Bạn ấy luôn bị chảy máu cam, chảy ghê lắm, và chỉ thế thôi."

      "Có nhiều máu quá. Có máu ở tường. Cậu chưa nhìn thấy hết đâu."

      "Tôi hiểu đầu đuôi ra sao," ông Ewalt sau đó làm chứng. "Tôi nghĩ có lẽ bé bị thương. Tôi thấy hình như việc phải làm trước tiên là gọi xe cứu thương. Kidwell - là Susan ấy - bảo tôi là có cái điện thoại ở trong bếp. Tôi tìm nó, đúng ở chỗ ấy . Nhưng ống tuột khỏi máy và khi tôi nhặt nó lên tôi thấy dây điện bị cắt mất rồi."

      ° ° °

      Larry Hendricks, thầy giáo dạy tiếng , hai mươi bảy tuổi, sống ở tầng thượng của Sở Thầy . Ông muốn viết, nhưng căn hộ của ông phải là sào huyệt lý tưởng cho người muốn thành tác giả. Nó hơn căn hộ nhà Kidwell, và, hơn thế, ông chia sẻ nó với người vợ, ba đứa con cùng cái ti vi hoạt động thường trực ngày đêm. ("Đó là cách duy nhất để giữ cho bọn trẻ yên.") Tuy chưa được in, Hendricks trẻ tuổi, cựu thủy thủ dáng đàn ông quê Oklahoma hút tẩu để ria và có lọn tóc đen bất trị, ít nhất nom cũng có vẻ văn vẻ - thực tế, trông rất giống những bức ảnh thời trẻ của nhà văn ông ngưỡng mộ nhất, Ernest Hemingway. Để phụ thêm vào đồng lương thầy giáo, ông lái xe buýt của nhà trường.

      "Đôi khi tôi chạy xe tới sáu chục dặm ngày," ông với chỗ quen biết. "Thành ra chẳng còn được mấy giờ để viết. Trừ Chủ nhật. Hôm ấy, hôm Chủ nhật đó, 15 tháng Mười , tôi ngồi ở này, trong căn hộ, lục xem giấy tờ. Phần lớn ý tưởng cho các truyện tôi viết là tôi lấy ra ở báo - ông biết ? Đúng. Ti vi mở và đám trẻ nhộn nhịp, nhưng ngay cả như thế nữa tôi vẫn nghe được những tiếng . Ở bên dưới. Dưới nhà bà Kidwell. Nhưng tôi nghĩ rằng nó lại dính dáng đến tôi, vì tôi mới về đây - tôi chỉ vừa đến Holcomb lúc khai trường. Nhưng khi Shirley vợ tôi - phơi quần áo bên ngoài - chạy bổ vào , 'Cưng ơi, tốt hơn là xuống nhà . Họ lên cơn kích động la hét kia kìa.' Hai , chà, họ kích động . Susan bao giờ thôi hét. bao giờ, lại còn hỏi tôi à. Và bà Kidwell tội nghiệp. Sức khỏe bà ấy tốt, bà ấy vốn dĩ thần kinh dễ căng thẳng mà. Bà ấy cứ lại - nhưng mãi sau tôi mới hiểu bà ấy muốn gì - bà cứ lại, 'Ôi, Bonnie, Bonnie, xảy ra chuyện gì thế? Bà vui như thế, bà bảo tôi là khỏi hết rồi, bà bà chẳng còn ốm lại bao giờ nữa!' như thế đấy. Ngay ông Ewalt cũng đâm kinh hoảng chưa từng thấy ở người như ông ấy. Ông gọi điện tới văn phòng cảnh sát trưởng - cảnh sát trưởng của Garden City - bảo với họ rằng 'có trục trặc rất ư cơ bản ở nhà Clutter đằng kia'. Cảnh sát trưởng hứa đến tức , và ông Ewalt bảo tốt, ông ấy gặp cảnh sát trưởng xa lộ. Shirley xuống nhà ngồi với các bà các , cố làm cho họ bình tĩnh lại - làm như ai cũng có thể làm được vậy. Và tôi với ông Ewalt - xe với ông ấy ra xa lộ chờ cảnh sát trưởng Robinson. đường , ông ấy kể cho tôi nghe việc xảy ra. Khi kể tới chỗ dây điện bị cắt, tôi liền nghĩ ngay, à à, và quyết định là tốt nhất phải giữ cho con mắt mở to. Ghi nhớ mọi chi tiết. Phòng trường hợp tôi được gọi ra làm chứng ở tòa.

      Ông cảnh sát trưởng đến; lúc đó chín giờ ba mươi lăm - tôi xem đồng hồ mà. Ông Ewalt vẫy ông ấy theo xe chúng tôi, và chúng tôi lái ra đến nhà Clutter. Trước đấy tôi chưa đến đó bao giờ, chỉ nhìn từ xa. Dĩ nhiên tôi quen gia đình họ. Kenyon học ở lớp tiếng năm thứ hai của tôi và tôi đạo diễn cho Nancy diễn trong vở Tom Sawyer. Nhưng đó là những đứa trẻ ngoại lệ, khiêm tốn, ông thể biết là chúng con nhà giàu và sống ở trong ngôi nhà lớn như vậy đâu - cây cối, bãi cỏ, mọi thứ đều được trông nom, chăm sóc là thế. Sau khi chúng tôi tới đó và ông cảnh sát trưởng nghe chuyện ông Ewalt kể, ông liền gọi bộ đàm cho văn phòng bảo đưa thêm lực lượng tăng cường cùng xe cứu thương đến. 'Có tai họa nào đó.' Rồi chúng tôi vào nhà, cả ba chúng tôi. Qua nhà bếp thấy cái ví nữ nằm sàn, và điện thoại ở chỗ dây bị cắt Ông cảnh sát trưởng đeo súng lục ở hông, và khi chúng tôi bắt đầu lên gác, đến phòng Nancy, tôi để ý thấy ông đặt tay vào khẩu súng, sẵn sàng rút ra.

      Đúng, hết sức tồi tệ. tuyệt vời đó - nhưng ông chẳng bao giờ còn biết ấy thế nào đâu. ấy bị bắn vào sau đầu bằng súng có lẽ chỉ cách có năm phân. ấy nằm nghiêng, quay mặt vào tường và tường vấy máu. Chăn được kéo lên ngang vai ấy. Cảnh sát trưởng Robinson kéo nó xuống và chúng tôi thấy ấy mặc áo choàng tắm, bộ pijama, bít tất và dép lê - giống như là, bất kể chuyện kia xảy ra lúc nào, ấy hãy còn chưa lên giường. Tay ấy bị trói quặt sau lưng, chân cũng bị cột lại với nhau bằng loại dây thường thấy ở các cửa chớp kéo lên xuống ấy. Ông cảnh sát trưởng , 'Đây là Nancy Clutter?' - ông chưa bao giờ thấy ấy. Và tôi , 'Vâng, vâng, là Nancy đấy.'

      Chúng tôi lui vào trong gian sảnh, nhìn quanh. Tất cả các cửa khác đều đóng. Chúng tôi mở cửa, ra đó là phòng tắm. Chỗ này có cái gì là lạ. Tôi cho là vì chiếc ghế dựa - loại ghế phòng ăn, nom như bị lạc chỗ trong phòng tắm. Mở cửa tiếp, chúng tôi đều nghĩ chắc là buồng của Kenyon. lô đồ đạc con trai vứt rải rác xung quanh. Và tôi nhận ra đôi kính của Kenyon - nhìn thấy nó giá sách cạnh giường. Nhưng giường trống , tuy nom vẻ có người ngủ ở đó rồi. Thế là chúng tôi ra tận đầu gian sảnh, cái cửa cuối cùng, và tại đó chúng tôi thấy bà Clutter. Bà bị trói. Nhưng khác là tay lại ở đằng trước, thành ra nom bà như cầu nguyện, và bà cầm trong bàn tay, nắm, chiếc khăn tay. Hay miếng giấy vệ sinh? Sợi thừng ở cổ tay bà chạy xuống cổ chân, cổ chân cũng bị trói vào nhau, rồi chạy tiếp đến gầm giường và buộc vào cái ván kê chân - ngón làm có nghệ thuật, rất rắc rối. Cứ nghĩ xem phải mất bao lâu để làm như thế! Mà bà nằm đấy, khiếp còn hồn vía. Đúng, bà có đeo vài đồ kim hoàn, hai chiếc nhẫn - cái này là lý do khiến tại sao tôi lại tính ăn trộm là động cơ - và váy dài, váy ngủ màu trắng cùng bít tất trắng. Miệng bà ấy bị dán băng dính nhưng bà ấy bị súng dí sát vào bên đầu mà bắn, và phát súng - cái va đập - làm cho miếng băng dính bong ra. Mắt bà ấy mở. Mở to. Tựa như bà ấy vẫn nhìn vào tên giết người. Vì bà chắc là phải nhìn nó làm chuyện kia - nhắm bắn. Chẳng ai gì. Chúng tôi đều bàng hoàng. Tôi nhớ ông cảnh sát trưởng cứ nhìn quanh để xem có thể tìm ra được cái vỏ đạn . Nhưng kẻ làm cái việc này lạnh lùng và thạo như thế chắc chắn để lại dấu tích gì.

      Dĩ nhiên, chúng tôi thầm hỏi ông Clutter đâu? Và Kenyon? Cảnh sát trưởng , 'Chúng ta thử xuống dưới nhà xem.' Chỗ đầu tiên chúng tôi thử tìm là phòng ngủ - chính là phòng ông Clutter vẫn ngủ. Ga trải giường bị giật tanh bành, phía chân giường có cái túi con với mớ danh thiếp lộn xộn thòi ra ngoài, giống như có ai lục lọi để tìm cái gì đặc biệt - cái thư, văn tự nợ, ai biết chứ? Trong ví có tiền có nghĩa là vốn dĩ có tiền hay tiền bị lấy. Đây là túi của ông Clutter, mà ông ấy bao giờ mang tiền mặt. Ngay tôi đây mới về Holcomb có hai tháng cũng còn biết chuyện ấy nữa là. Tôi còn biết là cả ông Clutter lẫn Kenyon đều chẳng thấy cái quỷ gì nếu đeo kính. Mà kính của ông ấy lại ở bàn giấy. Cho nên tôi nghĩ, dù nó ở đâu cũng phải tự nó muốn đến đó. Chúng tôi nhìn khắp, trật tự đâu vẫn vào đấy như thường - dấu vết vật lộn, bừa bộn. Trừ văn phòng, điện thoại bị đặt ra ngoài đế và dây bị cắt như trong bếp. Cảnh sát trưởng Robinson tìm ra mấy khẩu súng trong tủ tường, ngửi xem có phải vừa mới bắn . Ông ta bảo là , và - tôi chưa thấy ai bối rối hơn ông ta lúc đó - rồi ông ta , 'Herb có thể ở chỗ quỷ nào chứ nhỉ?' Vừa lúc đó nghe có tiếng chân. Từ dưới tầng hầm lên. 'Ai đó?' ông cảnh sát trưởng , có vẻ như sẵn sàng bắn. người , 'Tôi đây, Wendle.' Té ra là Wendle Meier, phó cảnh sát trưởng. Vẻ như ông đến mà thấy chúng tôi nên xuống xem xét ở dưới tầng hầm. Cảnh sát trưởng bảo ông - và giọng thấy xót xa: 'Wendle - tôi chả hiểu thế nào cả. Có hai cái xác ở kia.' 'Được,' ông Wendle , ' cái nữa dưới kia.' Thế là chúng tôi theo ông ấy xuống tầng hầm. Hoặc phòng giải trí, tôi đoán là nó được gọi như thế. tối - có những cửa sổ để ánh sáng tha hồ lọt vào. Kenyon ở đầu đằng kia, nằm văng. Cậu bị bịt miệng bằng băng dính, bị trói tay trói chân, như bà mẹ - cũng cái quy trình tinh vi đó, dây từ tay xuống chân, cuối cùng buộc vào chỗ kê tay của cái văng. Chả hiểu sao cậu ấy ám ảnh tôi nhất, Kenyon ấy. Tôi nghĩ ấy là bởi cậu là người dễ nhận ra nhất, người giống bản thân mình nhất mặc dù cậu bị bắn thẳng vào mặt, kê sát đầu bắn. Cậu mặc áo dệt kim và quần jean màu lam, chân trần - tựa như mặc vội, vớ được cái gì xỏ cái ấy. Đầu kê hai cái gối, làm như chúng đệm vào cho dễ bắn hơn.

      Rồi cảnh sát trưởng , 'Chỗ kia đâu?' Ý đến cửa nữa của tầng hầm. Ông dẫn đường, nhưng bên trong tối quá nhìn thấy cả bàn tay mình cho đến khi ông Ewalt tìm ra chỗ bấm đèn. Đây là gian lò sưởi, rất ấm. Quanh vùng, người ta đặt lò chạy bằng ga và bơm ga từ dưới đất lên. mất bao tiền nên vì thế nhà nào cũng cực ấm. Tôi nhìn vào ông Clutter, và tài nào dám nhìn lại. Tôi biết là bắn gần sát sạt làm cho máu chảy nhiều. Và tôi lầm. Ông bị bắn y như Kenyon - khẩu súng chĩa thẳng vào mặt. Nhưng chắc trước khi bị bắn ông chết. Hay, thế nào cũng là chết. Vì cổ họng ông bị cắt. Ông mặc bộ pijama kẻ sọc - độc có thế. Miệng ông bị dán băng dính; băng dính quấn vòng quanh hết đầu ông. Hai cổ chân ông bị trói lại với nhau, nhưng hai tay - hay đúng hơn, ông xoay xở được, có trời biết làm sao, có thể trong cơn thịnh nộ hay đau đớn, ông rứt đứt thừng trói tay ông. Ông nằm sõng soài ở trước lò sưởi. cái thùng các tông to vẻ như được cố ý đặt ở đấy. cái thùng nệm. Cảnh sát trưởng , 'Xem kìa, Wendle.' Cái mà ông trỏ vào là vết chân máu. cái thùng nệm. nửa vết chân đằng gót với những vòng tròn - hai lỗ hổng ở giữa như hai con mắt. Rồi người trong chúng tôi - ông Ewalt? Tôi nhớ - chỉ vào cái khác. thứ tôi thể đưa ra khỏi tâm trí tôi được. Ở đầu có đường ống dẫn ga và cột vào đó, lủng lẳng ở đó, là sợi thừng - loại thừng tên giết người dùng. ràng là có lúc ông Clutter bị trói ở đây, tay bị treo lên rồi lại cắt xuống. Nhưng tại sao? Để tra tấn ông? Tôi nghĩ chúng ta có lúc nào biết được. Biết ai làm, hay tại sao, hay điều gì xảy ra ở nhà này cái đêm hôm ấy.

      lúc sau ngôi nhà bắt đầu đầy người. Xe cứu thương tới, rồi người điều tra án mạng và cha Giám lý, nhiếp ảnh viên của cảnh sát, lính cảnh vệ của bang, người ở đài phát thanh và báo chí. Ôi, rất đông. Họ phần lớn bị gọi trong khi lễ ở nhà thờ, ứng xử tuồng như vẫn ở đấy. Rất im lặng. Thầm . Tựa như ai tin được chuyện này. cảnh vệ của bang hỏi tôi có công việc gì ở đây , nếu tốt hơn là tôi . Bên ngoài, thảm cỏ, tôi thấy ông phó cảnh sát trưởng chuyện với người đàn ông - Alfred Stoecklein, người làm mướn. Hình như ông này ở cách nhà Clutter tới trăm mét, có gì ngăn giữa ông ta với những người của gia đình Clutter, trừ nhà kho. Nhưng ông ta đến chỗ ông ta nghe thấy tiếng động nào, ông ta , 'Cho tới năm phút vừa rồi, khi đứa con tôi chạy vào bảo là ông cảnh sát trưởng ở đây tôi mới biết có chuyện, trước chả biết tí gì. Bà ấy và tôi đêm qua đên hai giờ mới ngủ, cứ ngồi lên nằm xuống suốt, vì chúng tôi có cháu bé bị ốm. Nhưng cái duy nhất chúng tôi nghe thấy, quãng mười rưỡi hay mười giờ kém mười lăm, tôi nghe thấy chiếc xe hơi lái , liền nhận xét với bà nhà tôi: 'Bob Rupp đấy.' Tôi bắt đầu bộ về nhà, và đường, khoảng lưng chừng rặng cây du Tàu, tôi trông thấy con chó già Collie của Kenyon, nom sợ hãi. Đứng đấy, đuôi quặp giữa hai chân, chẳng sủa cũng chẳng cựa quậy. Nhìn thấy con chó - hiểu sao lại làm cho tôi lại cảm thấy. Tôi quá choáng váng, quá tê dại, thể cảm nhận nổi đầy đủ ghê tởm của chuyện đó. đau đớn. kinh hoàng. Họ chết. Toàn gia. Những người tử tế, tốt bụng, những người tôi biết - mà bị giết. Ông phải tin là thế, vì nó đúng như thế."

      ° ° °

      Cứ hai tư giờ lần có tám đoàn xe lửa chở khách đỗ chạy vù qua Holcomb. Trong đó, hai chuyến đưa thư đến và lấy thư - việc mà, như người trông coi nhiệt thành giải thích, có cái khía cạnh tài tình của nó. "Vâng thưa ngài, ngài phải cảnh giác. Các tàu đó qua đây, đôi khi chơi tới trăm dặm giờ. Chỉ gió của nó thôi cũng đủ cho các ngài hạ đài. Và các bao thư ấy mà bay ra hãy lo cho cái mạng mình ! Khác nào đóng vai cản đối phương trong bóng bầu dục vậy chứ: Ình! Ình! ÌNH! Nhớ lấy là phải tôi than vãn. Đây là công việc trung thực, công việc của chính phủ, và nó giữ cho tôi trẻ mãi." Bưu tá viên của Holcomb, bà Sadie Truitt - hay Mẹ Truitt, như người thị trấn đây gọi - trông đúng là trẻ hơn tuổi vốn tới bảy lăm. góa phụ thấp đậm, phong sương, giày múa ba lê, đeo băng đô và ủng cao bồi ("Những của dễ chịu nhất mà bạn có thể quàng vào chân, mềm như cái lông chim ấy"), Mẹ Truitt là người bản địa Holcomb cao tuổi nhất. "Thời của họ, chúng tôi gọi chỗ này là Sherlock. Rồi cái người lạ mặt kia đến. Bằng cái tên Holcomb. thằng cha trồng lấy gỗ, cái tay vừa ấy. Kiếm được tiền, thế là quyết định chỗ này phải mang tên của chả. Rồi mau chóng chả làm gì nào? Bán . Chuyển đến California. phải là chúng tôi. Tôi sinh ra ở đây, các con tôi sinh ra ở đây. Chúng! Tôi! Ở! Đây!" người con của Mẹ là bà Myrtle Clare, bà này lại chính là bà chánh bưu điện sở tại. "Có điều, đừng có mà nghĩ đó là cách tôi kiếm lấy địa vị này từ chính phủ. Con Myrtle còn chẳng muốn tôi có địa vị nữa cơ. Nhưng ấy là nghề mình phải chạy lấy. Nó đến với bất kỳ ai đặt giá thấp nhất. Và tôi luôn đặt thế - thấp đến nỗi ngay cả xe ủi cũng nhòm trộm qua được. Ha ha! Cái này chắc là làm bọn trẻ cáu đây. Nhiều cậu muốn làm người trông coi thư tín, vâng, thưa ngài. Nhưng tôi biết khi mà tuyết cao bằng ông già Primo Carnera và gió thổi tím tái hết cả người lên rồi mấy cái bao thư kia nó vút bay đến - Ú! Uỳnh! - chúng thích đến đâu."

      Trong nghề của Mẹ Truitt, Chủ nhật là ngày làm việc như bất kỳ ngày nào khác. Ngày 15 tháng Mười , chờ chuyến mười giờ ba mươi hai chạy về phía Tây bà ngạc nhiên thấy hai xe cứu thương băng qua đường - rồi quay về hướng nhà Clutter. Chuyện này khiến bà làm việc trước kia chưa từng làm - bỏ nhiệm vụ. Các bao thư rơi xuống đâu cứ để đấy, đấy là cái tin mà chắc Myrt phải nghe thấy tức .

      Dân Holcomb gọi bưu điện của họ là "Tòa nhà Liên bang," cái tên có vẻ như khá là quá thực chất để được giao cho cái nhà tầng bụi bặm đáng bỏ . Trần dột, ván nhà phồng lên, các thùng thư bao giờ đóng, bóng đèn bị vỡ, đồng hồ chết. "Vâng, đáng xấu hổ," người phụ nữ chủ trì ở đây, người rất chi oai vệ, có phần độc đáo, cay cảy, tán thành như vậy. "Nhưng tem thư vẫn ổn, đúng ? Dẫu sao tôi quan tâm cái gì đây? Phần của tôi, ở cái chỗ này, rất thoải mái dễ chịu mà. Tôi có ghế xích đu, có lò sưởi đẹp đốt củi, có bình pha cà phê và có nhiều cái để đọc."

      Bà Clare là gương mặt nổi tiếng nhất ở hạt Finney. Tiếng tăm của bà phải mới nảy ra từ công việc nay của bà mà là từ công việc trước kia - chủ nhà hàng khiêu vũ, thân đôi với cái vẻ ngoài của bà. Bà là phụ nữ dữ tướng, hay mặc quần, áo sơ mi len, ủng cao bồi, tóc đỏ, tính tình hơn hớn, tuổi tác của bà bao giờ được tiết lộ ("Với tôi cái này là để biết, còn với ông là để đoán") nhưng ý kiến của bà nhanh chóng được tiết lộ, phần lớn được công bố với cái giọng có độ cao và sắc gọt như giọng gà trống. Cho đến năm 1955, bà và ông chồng quá cố mở Nhà hàng Khiêu vũ Holcomb, doanh vụ mà nhờ tính độc nhất của nó ở khu này lôi cuốn lượng khách uống cừ nhảy đẹp từ trăm dặm quanh vùng đến, những vị khách mà lối ứng xử thi thoảng lôi cuốn quan tâm của cảnh sát trưởng. "Chúng tôi có những giờ phút căng thẳng đấy, đúng," bà Clare hồi tưởng lại. " số cậu con trai chân vòng kiềng ở hạt này, chỉ cần bà cho chúng uống các thứ cháy họng là chúng liền giống da đỏ ngay - thấy cái gì là muốn lột da đầu cái đó. Dĩ nhiên, chúng tôi chỉ bán những thứ hợp pháp, bao giờ bán của cấm. Mà dù có hợp pháp cũng bán đâu. Chồng tôi, ông Homer Clare, chịu được trò đó; tôi cũng vậy. hôm, Homer Clare - ông qua đời trước đây bảy tháng mười hai ngày, sau ca mổ năm giờ đồng hồ ở Oregon - ông bảo tôi, 'Myrt ơi, cả đời chúng ta sống trong địa ngục nay chúng ta chết thiên đường.' Hôm sau chúng tôi đóng cửa nhà nhảy. Tôi chẳng bao giờ tiếc vì làm thế. Ô, lúc đầu tôi có nhớ lúc mình còn là con cú đêm ấy - những điệu nhạc, vui vầy hội hè. Nhưng nay Homer rồi, tôi đúng là vui khi được làm việc ở đây, tại Tòa nhà Liên bang. Ngồi lúc. Nhâm nhi ly cà phê."

      Đúng ra, sáng Chủ nhật ấy, bà Clare vừa rót ở bình cà phê mới pha ra ly cho mình Mẹ Truitt quay lại.

      "Myrt!" bà , nhưng tiếp được nữa vì còn phải thở. "Myrt, có hai xe cứu thương đến nhà Clutter." Con , "Chuyến mười giờ ba hai phút ở đâu?"

      "Xe cứu thương chứ. Đến nhà Clutter."

      "Kìa, sao? Chỉ là chuyện Bonnie thôi. Lại lên cơn. Chuyến mười giờ ba hai phút ở đâu?"

      Mẹ Truitt ngồi phịch xuống; biết câu trả lời như thường lệ, Myrt thưởng thức đoạn cuối. Rồi Mẹ bật ra ý. "Nhưng mà Myrt, nếu là Bonnie sao lại những hai xe cứu thương?"

      câu hỏi sắc nhạy, bà Clare, vốn là người hâm mộ logic, tuy hay dẫn giải logic theo kiểu hơi kỳ cục, buộc phải thừa nhận vậy. Bà điện thoại cho bà Helm. "Mabel biết," bà .

      con chuyện với bà Helm lâu tới vài phút, làm cho Mẹ Truitt hết sức bồn chồn, bởi Mẹ nghe được gì ngoài các câu trả lời tiếng khó hiểu của con . Tệ hơn, khi đặt máy, con buồn làm nguôi cơn tò mò của bà lão; thay vì vậy nó lại lầm lì uống hết cà phê, ra bàn làm việc, đóng dấu chồng thư.

      "Myrt," Mẹ Truitt . "Vì Chúa, Mabel gì vậy hả?"

      "Con đâu có ngạc nhiên," bà Clare . "Khi mẹ nghĩ Herb Clutter bỏ cả đời ra cập rập hấp tấp như thế nào, lao vào đấy lấy thư từ mà chẳng bao giờ chào-và-cảm-ơn-mày-chó-nhé được cho tiếng, lao nháo nhào như con gà nhép cứ nhô đầu ra - đến câu lạc bộ, trông coi mọi , nhận những việc này việc nọ mà có lẽ người khác ước ao. nay xem kia - ông ta lãnh đủ rồi. Thôi, từ nay còn phải cập rập hấp tấp nữa."

      "Sao hả, Myrt? Ông ấy sao lại còn phải gì gì nữa?"

      Bà Clare cao giọng lên. "VÌ RẰNG ÔNG ẤY CHẾT MẤT RỒI. Cả Bonnie nữa. Cả Nancy. Cả cậu con trai. Ai đấy bắn họ."

      "Myrt, đừng những điều như thế . Ai bắn họ?"

      Vẫn ngừng đóng dấu tem thư, bà Clare đáp, "Cái người đàn ông máy bay. Cái người mà Herb kiện là đâm máy bay xuống cây ăn quả của ông ấy. Nếu phải ta có lẽ là mẹ đấy. Hay ai đó qua phố. Hàng xóm tất cả đều là rắn đuôi chuông hết. Tụi đầu gấu tìm cơ hội để đập cửa vào mặt mẹ. Cả thế giới này đều thế cả. Mẹ biết như thế mà."

      "Mẹ biết," Mẹ Truitt , đưa tay lên tai. "Mẹ biết chuyện gì như thế."

      "Bọn đầu gấu."

      "Myrt, mẹ sợ."

      "Sợ cái gì? Khi giờ của cụ đến nó đến thôi. Nước mắt cũng cứu được cụ đâu." Bà quan sát thấy mẹ mình bắt đầu vài giọt nước mắt. "Khi Homer chết, tôi khóc cạn hết nước mắt trong người và cạn cả đau buồn nữa. Nếu có đứa nào xổng ra ở quanh đây mà muốn cắt cổ tôi tôi chúc nó may mắn. Cái đó hỏi có khác gì cơ chứ? Trong vĩnh hằng như nhau hết mà. Xin hãy nhớ: nếu con chim đem cát, từng hạt từng hạt qua đại dương, đến lúc nó mang hết được cát sang bờ bên kia mới chỉ là bắt đầu của vĩnh hằng. Vậy cụ hãy xì mũi nào."

      ° ° °

      Cái tin ghê gớm, được tuyên cáo từ băng ghế nhà thờ, được truyền đường dây điện thoại, lan khắp nơi bằng trạm phát thanh của Garden City. KIUL (" thảm kịch, thể tin nổi và gây sốc vượt mọi lời , giáng vào bốn thành viên của gia đình Herb Clutter khuya đêm thứ Bảy hay sớm hôm nay. Cái chết tàn khốc và có động cơ ràng..."), làm cho ở người nhận tin trung bình phản ứng gần với phản ứng của Mẹ Truitt hơn là của bà Clare: sửng sốt, ngả sang rụng rời; cảm giác kinh hoàng cạn cợt bị những dòng chảy lạnh lẽo của nỗi sợ cá nhân mau chóng làm cho sâu hoắm.

      Quán cà phê Hartman, có bốn bàn đóng thô và quầy ăn trưa, có thể thỏa mãn chỉ phần các lời đồn đại đầy khiếp đảm, phần lớn của đám đàn ông, những người mong muốn tụ bạ ở đây. Chủ quán, bà Bess Hartman, người da thịt ít ỏi, phụ nữ đến nỗi rồ với mái tóc màu vàng lẫn muối tiêu ốp bồng, cặp mắt sáng xanh đầy quyền thế, là chị em họ của bà chánh bưu điện Clare, người mà bà Hartman có thể sánh bằng ở phong cách hồn nhiên vô tư, có lẽ còn vượt hơn. " vài người tôi là con chim già dày dạn, nhưng chắc chắn chuyện của nhà Clutter có làm cho tôi chao đảo," về sau bà với người bạn thế. "Tưởng tượng mà xem, có ai giở trò láu cá như thế chứ! Cái lúc tôi nghe chuyện, khi mọi người đổ vào đây đủ các thứ chuyện kỳ quặc ấy, tôi liền nghĩ ngay đến Bonnie. Dĩ nhiên thế là dớ dẩn, nhưng chúng ta biết tình, và nhiều người nghĩ rằng có thể - nếu tính đến các cơn cớ của bà ấy. Bây giờ chúng ta biết nghĩ gì đây. Chắc đây là giết vì thù hằn. Do kẻ biết cả trong lẫn ngoài của nhà này. Nhưng ai thù ghét nhà Clutter? Tôi chưa nghe thấy lời nào chống lại họ bao giờ; gia đình nào cũng nên được lòng người như nhà ấy, và nếu đôi khi chuyện như thế này xảy ra cả với họ còn ai an toàn nữa đây, tôi hỏi bà? ông già ngồi đây sáng Chủ nhật ấy, ông ấy vạch đúng ra vấn đề, cái lý do khiến ai ngủ được; ông ấy , 'Tất cả những người chúng ta có ở tận chốn này đều là bạn bè chúng ta. có gì khác.' Ở mặt nào đó, đây là chỗ tồi tệ nhất của vụ án. Đáng sợ dường nào khi hàng xóm thể nhìn nhau mà có chút ngạc nhiên! Vâng, sống với nhau mà như thế là gay; nhưng nếu như có bao giờ họ tìm ra kẻ làm chuyện này tôi dám chắc lúc đó kẻ ngạc nhiên hơn cả bản thân bọn giết người lại chính là chúng ta đấy."

      Bà Bob Johnson, vợ của đại lý Bảo hiểm Nhân thọ New York, là tay bếp xuất sắc, nhưng bữa tối Chủ nhật bà chuẩn bị mà được ăn - ít nhất là được ăn lúc nó còn nóng - vì đúng lúc chồng bà cắm nĩa vào con trĩ rán ông nhận được điện thoại của người bạn. "Và đó," ông nhớ lại, khá rầu rĩ, "là lần đầu tiên tôi nghe tới vụ ở Holcomb. Tôi tin nổi. Tôi thể cho phép mình tin. Trời, tôi cá ngân phiếu của Clutter ở ngay trong túi tôi đây. mẩu giấy đáng giá tám chục nghìn đô la. Nếu cái điều tôi nghe là đúng. Nhưng tôi nghĩ, thể đúng được, chắc có sai lầm gì đây, những chuyện như thế chưa từng xảy ra, ông thể vừa lúc nãy bán món bảo hiểm lớn cho người mà lúc sau người ấy chết. Bị giết. Nghĩa là bồi thường kép. Tôi biết làm thế nào. Tôi gọi người quản lý của văn phòng chúng tôi ở Wichita. Bảo ông ta là tôi có tấm ngân phiếu nhưng chưa kịp làm đủ thủ tục, vậy xin cho ý kiến. Đúng, đây là tình huống tế nhị. là về pháp lý chúng tôi buộc phải trả. Nhưng về luân lý lại là chuyện khác. Dĩ nhiên chúng tôi quyết định làm theo luân lý."

      Hai người được hưởng nhờ thái độ cao quý này - Eveanna Jarchow và em Beverly, hai người kế thừa duy nhất bất động sản của bố họ - chỉ trong vài giờ sau phát đáng sợ kia đường tới Garden City, Beverly từ Winfield, Kansas, thăm chồng chưa cưới của ở đấy, còn Eveanna từ nhà ở Núi Carroll, Illinois. Dần dần, theo thời gian, những người khác trong họ hàng được báo tin, trong đó có bố ông Clutter, hai trai ông, Arthur và Clarence và em , bà Harry Nelson, đều ở Larned, Kansas, và người em thứ hai, bà Elaine Selsor, ở Palatka, Florida. Còn cả bố mẹ của Bonnie Clutter, ông bà Arthur B. Fox, sống ở Pasadena, California, cùng ba em trai của bà - Harold ở Visalia, California, Howard ở Oregon, Illinois, và Glenn ở Kansas City, Kansas. Quả tình, phần lớn những người có trong danh sách khách dự lễ Tạ ơn của nhà Clutter đều được hoặc gọi điện thoại hoặc gửi điện tín và đa số lên đường ngay để có cuộc gặp mặt gia đình phải quanh tấm ván rên rỉ mà là ở bên mộ đám tang hàng loạt.

      Ở Sở Thầy , Wilma Kidwell buộc phải dằn mình để kiềm chế đứa con , vì Susan, mắt húp híp, khốn khổ bởi những cơn quằn mình nôn ọe, cứ cãi, chịu nghe can gián mà cứ nài rằng con phải - phải chạy - ba dặm đến trại nhà Rupp. "Mẹ thấy ư, mẹ?" em . "Nếu Bobby nghe thấy chuyện đó sao? Cậu ấy Nancy. Con với cậu ấy cả hai đều . Con phải là người báo cho cậu ấy."

      Nhưng Bobby biết. đường về nhà, ông Ewalt dừng lại ở trang trại nhà Rupp mà chuyện trò với Johnny Rupp bạn ông, bố của tám đứa con trong đó Bobby là thứ ba. Hai ông cùng vào nhà ngủ - tòa nhà tách ra khỏi nhà chính của trại vốn quá bé đủ chỗ cho tất cả con cái ông Rupp cùng ở. Bọn con trai sống ở nhà ngủ, đám con ở "nhà ". Hai ông thấy Bobby chuẩn bị giường ngủ. Cậu nghe ông Ewalt, hỏi han gì, rồi cảm ơn ông tới. Sau đó cậu ra đứng ở ngoài, dưới nắng. Cơ ngơi nhà Rupp ở quả đồi nhô lên cao, chỗ đất bằng bày ra trống trải, ở đó cậu có thể nhìn thấy đất thu hoạch loa lóa sáng của Trại Lũng Sông. Khung cảnh làm cho cậu mải mê có lẽ đến tiếng đồng hồ. Những người toan giúp cậu khuây khỏa đều uổng công. Chuông báo bữa tối reo, mẹ cậu gọi cậu vào - gọi đến nỗi cuối cùng bố cậu , "Thôi. Cứ để con nó ở mình."

      Larry, chú em, cũng từ chối nghe theo tiếng chuông triệu hồi. Cậu lượn quanh Bobby, thể giúp đỡ nhưng muốn giúp đỡ, dù cho ông bảo " ". Sau đó, khi cậu thôi đứng mà bắt đầu xuống con đường và tắt ngang cánh đồng đến Holcomb Larry theo . "Hê, Bobby. Nghe này. Nếu chúng ta đến đâu đó sao lại bằng xe?" cậu trả lời. Cậu có mục đích, ra là chạy, nhưng Larry bám theo khó. Tuy mới mười bốn, cậu cao hơn , ngực nở hơn, chân cẳng dài hơn. Dù có đủ loại bằng khen về thể thao, Bobby đúng hơn vẫn ở dưới tầm cỡ trung bình - rắn chắc nhưng mảnh khảnh, chàng trai thanh tú với khuôn mặt dẹp, cởi mở ân cần. "Hê, Bobby. Nghe đây. Họ cho gặp chị ấy đâu. được cái gì đâu." Bobby quay lại cậu em, , " về, về nhà." Cậu em rớt lại sau, rồi theo cách quãng. Tuy là nhiệt độ của mùa bầu bí, ngày vẫn chói lọi, cả hai cậu đều mồ hôi mồ kê khi đến gần rào chắn do lính cảnh vệ bang dựng lên ở lối vào Trại Lũng Sông. Nhiều bạn bè của gia đình Clutter, cả người lạ ở khắp hạt Finney tụ tập ở chỗ này, song ai được phép qua rào chắn, nhưng ngay sau khi hai em Bobby đến đó nó được nhấc vụt lên để cho xe cứu thương ra, bốn xe, số xe cuối cùng được cầu đến để mang các nạn nhân , và xe của văn phòng cảnh sát trưởng chở đầy người - những người mà chính lúc đó vẫn nhắc tới cái tên Bobby Rupp. Vì Bobby, như sau này cậu được biết, là nghi phạm chính của họ.

      Ở cửa sổ phòng khách của mình, Susan Kidwell nhìn đám người màu trắng lướt qua, dõi theo mãi cho tới khi nó rẽ ở góc phố và bụi của con phố lát đá dễ dàng tung bay lên rơi xuống lại. vẫn còn ngắm cảnh này Bobby, bị chú em cao to che mất, trở thành phần của cảnh kia, run rẩy lại phía . ra cổng nhà gặp cậu. , "Mình rất muốn báo cho cậu." Bobby bắt đầu khóc. Larry vẩn vơ ở trong sân Sở Thầy , tựa vào cái cây. Cậu nhớ được mình từng thấy Bobby khóc bao giờ chưa, và cậu muốn thấy, nên cúi đầu xuống.

      ° ° °

      Xa tít tận thị trấn Olathe, trong phòng khách sạn có những tấm mành cửa sổ làm ánh nắng giữa trưa tối lại, Perry ngủ, chiếc rađiô xách tay rì rầm bên cạnh . chỉ tụt ủng ra, còn quần áo chẳng buồn cởi. nằm úp sấp ngang giường, tuồng như giấc ngủ là vũ khí quật ngã . Đôi ủng, màu đen, khóa bạc, ngâm trong chậu rửa đầy nước ấm giờ nhờ nhờ hồng.

      Về phía Bắc ít dặm, trong gian bếp vui mắt của trang trại khiêm nhường, Dick ngon bữa tối Chủ nhật. Những người khác - mẹ, bố, em trai - đều nhận thấy điều gì khác thường trong cung cách . Buổi trưa về đến nhà, hôn mẹ, sẵn sàng trả lời những câu hỏi bố đặt ra liên quan tới chuyến là hết đêm để đến Fort Scott, rồi ngồi xuống ăn, vẻ hoàn toàn vẫn là cái Tôi thường ngày của . Khi xong bữa, ba người đàn ông vào phòng khách để xem trận bóng rổ ti vi. Buổi phát hình vừa bắt đầu, ông bố ngạc nhiên thấy Dick ngáy; lúc đó ông nhận xét với đứa em Dick rằng ông bao giờ nghĩ mình sống đến ngày thấy Dick ngủ mà xem bóng rổ. Dĩ nhiên, ông hiểu là Dick mệt đến nhường nào, hiểu là, trong nhiều việc làm khác của nó, thằng con ngủ chập chờn kia của ông lái xe hơn tám trăm dặm trong vòng hai mươi tư giờ vừa qua.

      --------------------------------

      1 Ông xếp chỉ huy, tiếng Tây Ban Nha.

      2 Tổng lượng cồn trong loại bia đó là 3,2%.

      3 Tiếng Tây Ban Nha. Nghĩa là "Được. Tôi hiểu."

      4 Tổng thống và Ngoại trưởng Mỹ thời kỳ 1953 - 1963.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :