Mật Mã Phù Thủy tập 1 - Deborah Harkness (Huyền Ảo) 43 Chương

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      ebook: Mật Mã Phù Thủy (full prc, pdf, epub)
      Tên tiếng : A Discovery of Witches
      Tác giả: Deborah Harkness
      Bộ sách: Mật mã Phù thủy - All Souls (tập 1)
      Thể loại: Best seller, Kỳ ảo, Lãng mạn, Tiểu thuyết, Văn học phương Tây

      Công ty phát hành: Alphabooks
      Nhà xuất bản: NXB Thời Đại
      Người dịch: Diệu Hằng
      Ngày xuất bản: 11/2011
      Số trang: 868
      Kích thước: 14 x 20.5 cm
      Giá bìa: 169.000đ
      Hình thức: Bìa mềm
      Chủ dự án & Chụp pic: Phạm Huỳnh Uyên Khôi
      Type: Phong Tuyên Võ, Annabelle Tran, Lien Nguyen, Dung Le, Eclaine Nguyen,: Khôi Phan, Thanh Nguyen,: minhminhvan, Do Tam, Le Giang, Dung Nguyen
      Beta & Tạo prc: Annabelle Tran
      Nguồn: Hội ebook free - fb/groups/chamchilamebookfree


      Ebook: Đào Tiểu Vũ's eBook - http://www.dtv-ebook.com
      [​IMG]

      huyền bí bắt đầu được hé lộ, tôi bắt đầu lật trang sách nhanh hơn, như thể chúng tự động lật giở vậy. Đến lúc thiên truyện kết thúc hoàn toàn gây thỏa mãn, Harkness biến tôi thành tín đồ...”
      Mật mã phù thủy là cuốn tiểu thuyết đầu tay của Deborah nhưng gây tiếng vang rộng rãi và gây kinh ngạc cho các nhà phê bình. Đây là trong những cuốn sách được bàn tán và chờ đợi nhiều nhất tại Hội chợ sách Frankfurt 2009, bản quyền của nó được bán cho 36 quốc gia, và trong tuần phát hành đầu tiên đạt số lượng bán kỉ lục: hơn 300.000 bản...”

      [​IMG]
      Nhà văn Deborah Harkness




      Mật mã phù thủy là cuốn tiểu thuyết đầu tay của Deborah và là cuốn đầu tiên trong bộ ba All Souls. Đây là trong các cuốn sách được bàn tán và chờ đợi nhiều nhất tại Hội chợ sách Frankfurt 2009, bản quyền được bán cho 32 quốc gia ngay từ khi sách chưa được xuất bản. thiên tiểu thuyết vô cùng mê hoặc, Mật mã phù thủy cân bằng hài hòa giữa lịch sử và phép màu huyền bí, giữa lãng mạn và ly kỳ…​

      Mật mã phù thủy được bình chọn là trong những cuốn sách hay nhất của tháng 2 năm 2011 trang www.amazon.com


      11/ 2/ 2011, số bản in của cuốn sách lên tới 210.000 bản, và còn 100.000 bản được đặt hàng. Cuốn sách xếp thứ 6 trong danh mục best seller của tờ Sunday Times ở .

      18/2/2011, cuốn sách vươn lên xếp thứ 2 trong danh mục bestseller của New York Times.
      Nội dung:

      buổi chiều muộn tháng 9, Diana Bishop, nữ sử gia đồng thời là học giả hóa học trẻ tuổi và tài năng miệt mài nghiên cứu giữa đống cổ thư trong thư viện Bodleian, trường Oxford. Diana vô tình cầm bản thảo cổ xưa về thuật giả kim, cuốn sách Ashmole 782, lên xem. Ngay lập tức, nhận ra nó có sức mạnh bí vô cùng lôi cuốn và huyền bí. Thực tế, Diana còn là hậu duệ của dòng dõi phù thủy lâu đời và xuất chúng, song muốn thừa nhận và sử dụng năng lực siêu nhiên của mình – và bao nhiêu năm qua, cố gắng sống như bao bình thường khác. Chính vì thế, sau thoáng lướt qua cuốn Ashmole 782, Diana trả nó lại cho thư viện và lờ những linh tính phù thủy của mình

      Tuy nhiên, Diana phải nhân vật duy nhất nhận ra trở lại của cuốn sách huyền bí, và những khám phá của sau đó ngay lập tức khuấy đảo cả thế giới ngầm. Ashmole 782 là kho báu vô giá thất lạc hàng thế kỷ và Diana là sinh vật đầu tiên cũng như duy nhất biết được thần chú mở ấn. Ngay lập tức, nhận ra mình cùng lúc bị ba loài sinh vật thần bí trái đất bao vây – tinh, phù thủy, và ma cà rồng – những kẻ ùn ùn kéo về Oxford hòng tìm kiếm cuốn cổ thư. Trong số đó, cảm nhận được mối liên hệ mạnh mẽ với Mathew Clairmont, nhà di truyền học điển trai, mạnh mẽ và cũng là ma cà rồng. Mathew là nhân vật có những thành tựu học thuật xuất chúng sau hàng trăm năm miệt mài nghiên cứu. Hai nhân vật thuộc về hai giống loài vốn cố mối thâm thù, nhưng sau những bữa tối bên ánh nến lung linh, những lớp học yoga với các bài tập siêu nhiên thần bí, và sau chuyến về ngôi nhà cổ kính của Matthew (mà thực ra là lâu đài) ở miền Nam nước Pháp, họ dần xích lại gần nhau…

      Khi những thử thách hai người phải đối đầu ngày nghiêm trọng, năng lực của Diana cũng ngày càng mạnh lên, cùng với Matthew phải sát cánh bên nhau để chiến đấu chống lại những thế lực thèm khát giải mã cuốn cổ thư với những trang sách hứa hẹn hé mở những bí mật động trời trong quá khứ cũng như tiết lộ những tiên đoán về tương lai đầy bí .

      Mời các bạn đón đọc tập 1 Mật Mã Phù Thủy của tác giả Deborah Harkness.​

    2. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Mật mã phù thuỷ

      Tập 1

      A Discovery of Witches

      - Deborah Harkness –

      Công ty phát hành: Alphabooks

      Nhà xuất bản: NXB Thời Đại

      Người dịch: Diệu Hằng

      Ngày xuất bản: 11/2011

      Số trang: 868

      Kích thước: 14 x 20.5 cm

      Giá bìa: 169.000đ

      Hình thức: Bìa mềm

      Chủ dự án & Chụp pic: Phạm Huỳnh Uyên Khôi

      Type:

      Chương MĐ-01-02-03: Phong Tuyên Võ

      Chương 04-05-06-07-08-09: Annabelle Tran

      Chương 10-11-12: Lien Nguyen

      Chương 13-14: Dung Le

      Chương 15-16-17: Eclaine Nguyen

      Chương 18-19-20: Khôi Phan

      Chương 21-22-23: Phong Tuyên Võ

      Chương 24-25-26: Thanh Nguyen

      Chương 27-28-29: Eclaine Nguyen

      Chương 30-31-32: minhminhvan

      Chương 33-34-35: Do Tam

      Chương 36: Thanh Nguyen

      Chương 37-38-39: Le Giang

      Chương 40-41-42-43: Dung Nguyen
      Beta & Tạo prc: Annabelle Tran
      ~~~~~~~~~~~~~~

      Deborah Harkness là Giáo sư khoa Lịch sử tại trường Đại học Nam California. Bà từng nhận học bổng của Fulbright, Guggenheim và Trung tâm Nhân loại Quốc gia. Công trình nghiên cứu gần đây nhất của bà là Ngôi nhà đá quý: London thời Elizabeth và cuộc Cách mạng khoa học.
      “Harkness viết với thích thú đến nghẹt thở về thế giới phép thuật. Dù bà miêu tả những lớp tập yoga cho phù thủy, tinh và ma cà rồng, hay những đoạn Dianna đến thăm lâu đài của Matthew, tất cả đều hồi hộp và tinh tế đến khó tin... Khi những điều huyền bí bắt đầu được hé lộ, tôi bắt đầu lật trang sách nhanh hơn, như thể chúng tự động lật giở vậy. Đến lúc thiên truyện kết thúc hoàn toàn gây thỏa mãn, Harkness biến tôi thành tín đồ...”
      “Mật mã phù thủy là cuốn tiểu thuyết đầu tay của Deborah nhưng gây tiếng vang rộng rãi và gây kinh ngạc cho các nhà phê bình. Đây là trong những cuốn sách được bàn tán và chờ đợi nhiều nhất tại Hội chợ sách Frankfurt 2009, bản quyền của nó được bán cho 36 quốc gia, và trong tuần phát hành đầu tiên đạt số lượng bán kỉ lục: hơn 300.000 bản...”
      ~~~~~~~~~~~

      Mật mã phù thủy là cuốn tiểu thuyết đầu tay của Deborah và là cuốn đầu tiên trong bộ ba All Souls. Đây là trong các cuốn sách được bàn tán và chờ đợi nhiều nhất tại Hội chợ sách Frankfurt 2009, bản quyền được bán cho 32 quốc gia ngay từ khi sách chưa được xuất bản. thiên tiểu thuyết vô cùng mê hoặc, Mật mã phù thủy là cân bằng hài hòa giữa lịch sử và phép màu huyền bí, giữa lãng mạn và ly kỳ…

      Mật mã phù thủy được bình chọn là trong những cuốn sách hay nhất của tháng 2 năm 2011 trang www.amazon.com

      11/ 2/ 2011, số bản in của cuốn sách lên tới 210.000 bản, và còn 100.000 bản được đặt hàng. Cuốn sách xếp thứ 6 trong danh mục best seller của tờ Sunday Times ở .

      18/2/2011, cuốn sách vươn lên xếp thứ 2 trong danh mục bestseller của New York Times.

      ~~~~~~~~~~~~

      buổi chiều muộn tháng 9, Diana Bishop, nữ sử gia đồng thời là học giả hóa học trẻ tuổi và tài năng miệt mài nghiên cứu giữa đống cổ thư trong thư viện Bodleian, trường Oxford. Diana vô tình cầm bản thảo cổ xưa về thuật giả kim, cuốn sách Ashmole 782, lên xem. Ngay lập tức, nhận ra nó có sức mạnh bí vô cùng lôi cuốn và huyền bí. Thực tế, Diana còn là hậu duệ của dòng dõi phù thủy lâu đời và xuất chúng, song muốn thừa nhận và sử dụng năng lực siêu nhiên của mình – và bao nhiêu năm qua, cố gắng sống như bao bình thường khác. Chính vì thế, sau thoáng lướt qua cuốn Ashmole 782, Diana trả nó lại cho thư viện và lờ những linh tính phù thủy của mình
      Tuy nhiên, Diana phải nhân vật duy nhất nhận ra trở lại của cuốn sách huyền bí, và những khám phá của sau đó ngay lập tức khuấy đảo cả thế giới ngầm. Ashmole 782 là kho báu vô giá thất lạc hàng thế kỷ và Diana là sinh vật đầu tiên cũng như duy nhất biết được thần chú mở ấn. Ngay lập tức, nhận ra mình cùng lúc bị ba loài sinh vật thần bí trái đất bao vây – tinh, phù thủy, và ma cà rồng – những kẻ ùn ùn kéo về Oxford hòng tìm kiếm cuốn cổ thư. Trong số đó, cảm nhận được mối liên hệ mạnh mẽ với Mathew Clairmont, nhà di truyền học điển trai, mạnh mẽ và cũng là ma cà rồng. Mathew là nhân vật có những thành tựu học thuật xuất chúng sau hàng trăm năm miệt mài nghiên cứu. Hai nhân vật thuộc về hai giống loài vốn cố mối thâm thù, nhưng sau những bữa tối bên ánh nến lung linh, những lớp học yoga với các bài tập siêu nhiên thần bí, và sau chuyến về ngôi nhà cổ kính của Matthew (mà thực ra là lâu đài) ở miền Nam nước Pháp, họ dần xích lại gần nhau…
      Khi những thử thách hai người phải đối đầu ngày nghiêm trọng, năng lực của Diana cũng ngày càng mạnh lên, cùng với Matthew phải sát cánh bên nhau để chiến đấu chống lại những thế lực thèm khát giải mã cuốn cổ thư với những trang sách hứa hẹn hé mở những bí mật động trời trong quá khứ cũng như tiết lộ những tiên đoán về tương lai đầy bí .
      ~~~~~~~~~~~~~~~

      ...“Tôi có mùi hương như thế nào?” Tôi hỏi, nghịch ngợm chân ly rượu của mình. Trong lúc, có vẻ như chàng trả lời. im lặng kéo dài mỏng manh trước khi ta hướng đôi mắt đăm chiêu sang nhìn tôi. Mi mắt hạ xuống, ta hít thở sâu. “ có mùi nhựa liễu. Và mùi hoa chamolie, những bông hoa bị đổ rạp xuống.” ta lại hít ngửi và hơi mỉm cười, nụ cười buồn bã.

      “Có cả mùi kim ngân và lá sồi rụng nữa,” ta khẽ rồi thở ra, “cùng với hương gỗ phỉ mê hoặc nở rộ và mùi hoa thủy tiên đầu xuân. Và những thứ cổ xưa – bạc hà đắng, hương trầm, áo khoác của tiểu thư. Những mùi hương mà tôi nghĩ rằng mình lãng quên.”

      Mắt Matthew từ từ mở ra, và tôi nhìn vào vùng xám sâu thẳm ấy, sợ hơi thở phá vỡ bùa mê mà những lời vừa tạo nên...​

    3. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Tất cả bắt đầu từ thiếu vắngnỗi thèm khát.
      Tất cả bắt đầu từ máu nỗi sợ.
      Tất cả bắt đầu từ khám phá về loài phù thủy.

      Chương 1





      Cuốn cổ thư dày cộp bọc trong lớp bìa da đó chẳng có gì đặc biệt cả. Đối với sử gia trông nó cũng như trăm cuốn cổ thư khác tại thư viện Bodleian của trường Oxford. Cổ xưa và nhàu nát. Nhưng ngay từ lúc tìm được nó, tôi biết nó có điều gì đó khác thường.

      Phòng đọc sách công tước Humfrey trống trải vào buổi chiều cuối tháng Chín như hôm nay, và các cầu về thư liệu giờ đây đều nhanh chóng được đáp ứng, khi mà đợt viếng thăm ồ ạt của các học giả trong dịp hè kết thúc và điên cuồng của học kì mùa thu chưa bắt đầu. Dù vậy, tôi vẫn ngạc nhiên khi Sean chặn tôi lại ở bàn đọc sách.

      “Tiến sĩ Bishop, chồng tài liệu của cậu cao quá đấy,” ta thầm, giọng thoáng vẻ tinh quái. Mặt trước chiếc áo len có họa tiết hình quả trám của chàng in hằn những vệt sọc của dây buộc sách bằng da cũ, và ta còn cố tình chà xát thêm vào ngực áo. lọn tóc hung hung xòa xuống trán ta.

      “Cảm ơn,” tôi , tặng ta nụ cười biết ơn. Tôi trắng trợn phớt lờ các quy định về số lượng sách mà học giả được phép cầu trong ngày. Sean – bạn thường uống cùng tôi trong cái quán rượu trát ve màu hồng bên kia đường vào những ngày chúng tôi là sinh viên mới tốt nghiệp – vẫn đáp ứng các cầu của tôi mà hề phàn nàn gì suốt hơn tuần lễ qua. “Mà đừng có gọi tớ là tiến sĩ Bishop nữa. Tớ cứ nghĩ là cậu chuyện với người nào khác cơ đấy.”

      chàng nhoẻn miệng cười và lia những cuốn cổ thư ngang qua mặt bàn gỗ sồi sờn nhẵn. Tất cả chúng đều chứa những mẫu minh họa về thuật giả kim quý báu, và mỗi cuốn lại được nhét trong hộp bìa các tông gỗ màu xám. “Ôi, còn kia nữa kìa.” Sean biến vào trong lát và trở lại với tập cổ thư dày, khổ lớn bọc trong bìa da dê lốm đốm. ta đặt nó lên cùng chồng sách và khom lưng xuống để kiểm tra. Vành kính mỏng màu vàng kim của ta lấp lánh trong ánh sáng lờ mờ từ chiếc đèn đọc sách cũ kĩ bằng đồng được dính chặt cái giá. “Cuốn này được cầu lâu rồi. Sau khi cậu trả lại, tớ ghi chú nó cần được đóng hộp.”

      “Cậu có muốn tớ nhắc cậu nhớ ?”

      . Nó được ghi chú vào đây rồi.” Sean gõ mấy ngón tay lên đầu.

      “Bộ não cậu chắc chắn là được tổ chức tốt hơn tớ nhỉ.” Tôi cười xòa.

      Sean cười ngượng ngùng nhìn tôi và giật tờ phiếu đăng kí sách, nhưng vẫn cứ trơ ì ra kẹp giữa bìa sách và mấy trang đầu. “Cái thứ này chẳng chịu nhúc nhích,” chàng bình luận.

      Thình lình, có tiếng nào đó bị bóp nghẹn liến thoắng vang lên trong tai tôi, phá tan yên tĩnh quen thuộc của căn phòng.

      “Cậu có nghe thấy gì ?” Tôi nhìn quanh, bối rối trước những thanh kì lạ.

      “Gì cơ?” Sean hỏi, rời mắt khỏi cuốn cổ thư ngẩng lên nhìn.

      Mấy vệt sáng như mạ vàng lóe lên dọc theo mép cuốn cổ thư đập vào mắt tôi. Nhưng ánh vàng lờ mờ ấy ngay lập tức bị át bởi ánh sáng ngũ sắc lấp lánh dường như thoát ra từ các trang giấy. Tôi chớp mắt.

      có gì.” Tôi hấp tấp kéo cuốn cổ thư về phía mình, làn da tôi chợt râm ran tê như kiến bò khi chạm tấm da bìa. Mấy ngón tay của Sean vẫn cầm vào mảnh phiếu đăng kí sách, bây giờ nó lại dễ dàng trượt ra khỏi chỗ bị kẹp. Tôi vừa vòng tay nâng bổng cả chồng cổ thư và kẹp chúng dưới cằm luồng khí kỳ lạ xộc tới cuốn phăng mùi bào bút chì và sáp cọ sàn quen thuộc trong thư viện.

      “Diana? Cậu ổn chứ?” Sean hỏi, nhíu mày lo lắng.

      “Ổn mà. Tớ chỉ hơi mệt chút thôi,” Tôi đáp, hạ thấp mấy cuốn sách xuống cách xa mũi mình.

      Tôi nhanh chóng rảo bước xuyên qua khu vực cổ nhất của thư viện có từ thế kỉ mười lăm, ngang qua dãy bàn đọc có từ thời Elizabeth với ba kệ sách xếp từ thấp đến cao cùng những mặt bàn bị viết vẽ sứt sẹo. Giữa các dãy bàn, những khung cửa sổ Gothic hướng chú ý của người đọc lên những vòm trần được sơn vẽ và mạ vàng sáng loáng, làm nổi bật các họa tiết chiếc huy hiệu ba vương miện của trường đại học và cuốn sách để mở với câu giáo điều được tuyên đọc lặp lặp lại từ vòm trần cao: “Chúa khai sáng đời con.”

      học giả người Mỹ khác, Gillian Chamberlain, là người bầu bạn duy nhất của tôi trong thư viện tối nay. Là nhà cổ điển dạy học ở Bryn Mawr, Gillian dành thời gian miệt mài nghiền ngẫm các mảnh giấy papyrus được kẹp giữa những tấm kính. Tôi tăng tốc ngang qua ta, cố tránh chạm mắt, nhưng tiếng cọt kẹt của sàn nhà phản lại tôi.

      Như thưởng lệ, làn da tôi lại râm ran ngứa khi phù thủy khác nhìn tôi.

      “Diana à?” ta cất tiếng gọi từ trong ánh sáng lờ mờ. Tôi nén tiếng thở dài và dừng lại.

      “Chào Gillian.” Muốn giữ riêng số cổ thư quý giá, nên tôi duy trì khoảng cách đủ xa với phù thủy này và cố đừng nghiêng mình hết sức có thể để các cuốn sách nằm ngoài tầm nhìn của ta.

      làm gì trong lễ Mabon?” Gillian vẫn thường dừng lại ở bàn của tôi để đề nghị tôi dành thời gian cho “những người chị em” của mình khi ở trong thị trấn. Nhân lễ hội của giáo phái Wiccan vào dịp Thu phân trong vài ngày tới, ta nỗ lực gấp đôi để cố đưa tôi vào hội các phù thủy Oxford.

      “Làm việc,” tôi gọn lỏn.

      “Có số phù thủy rất tốt bụng ở đây, biết đấy,” Gillian với vẻ rất bằng lòng. “ nên tham gia với chúng tôi vào thứ Hai này.”

      “Cảm ơn. Tôi suy nghĩ về điều đó,” tôi vừa vừa sang khu Selden End, khu vực thoáng đãng được xây thêm từ thế kỉ mười bảy chạy cắt vuông góc với khu Công tước Humfrey cổ kính. “Dù sao tôi cũng chuẩn bị tài liệu hội thảo, vậy nên chưa chắc tôi tham dự được đâu.” Dì Sarah vẫn thường nhắc tôi phù thủy thể dối phù thủy khác, nhưng điều đó cũng chẳng ngăn tôi cố thử.

      Gillian buộc ra tiếng tỏ vẻ cảm thông, nhưng mắt vẫn dõi theo tôi.

      Trở lại chỗ ngồi quen thuộc nhìn ra những ô cửa sổ hình vòm lợp chì, tôi chỉ muốn vứt phịch cả chồng cổ thư lên bàn và lau sạch hai bàn tay. Nhưng ý thức ràng về tuổi thọ của chúng, tôi thận trọng hạ thấp chồng sách xuống.

      Cuốn cổ thư có kẹp tờ phiếu cầu nằm ở cùng chồng sách. Xi gắn mạ vàng ở gáy sách là huy hiệu thuộc về Elias Ashmole, nhà sưu tầm sách thế kỉ mười bảy và là nhà giả kim, chủ nhân của những cuốn sách và các bản thảo được chuyển từ viện bảo tàng Ashmolean đến thư viện Bodleian vào thế kỉ mười chín, với số hiệu 782. Tôi với tay chạm vào tấm bìa da nâu.

      cơn chấn động khiến tôi rụt vội các ngón tay lại, nhưng vẫn dủ nhanh. Cảm giác râm ran tê buốt chạy ngược lên hai cánh tay, khiến tôi nổi cả da gà, rồi nó lan qua hai bờ vai, làm các cơ ở lưng và cổ tôi căng cứng lại. Cảm giác này nhanh chóng dịu , nhưng chúng để lại trống trải của niềm khao khát chưa được thỏa mãn. Rùng mình trước phản ứng của bản thân, tôi vội lùi xa khỏi cái bàn.

      Ngay cả khi khoảng cách an toàn, cuốn cổ thư này vẫn khiêu khích tôi – đe dọa những bức tường mà tôi dựng lên để ngăn cách giữa nghiệp học giả của mình với vai trò là hậu duệ cuối cùng của dòng họ phù thủy Bishop. Ở đây, với thu nhập cứng của học vị tiến sĩ, được bổ nhiệm giảng dạy và cơ hội thẳng tiến trong tầm tay, nghiệp của tôi bắt đầu thăng hoa, tôi từ chối thừa kế gia tộc và tự tạo ra cuộc sống bằng những năng lực hợp lý và học vấn của mình, chứ phải bằng những linh cảm và các câu thần chú kì bí. Tôi ở Oxford để hoàn tất đề tài nghiên cứu. Tùy thuộc vào kết luận sau cùng, các kết quả tôi thu thập được xuất bản, được minh chứng bằng các phân tích khái quát và chú thích chân trang, để giới thiệu tới các đồng loài người, còn chỗ cho và những thứ chỉ có thể nhận biết bằng giác quan thứ sáu của phù thủy.

      Nhưng mặc dù chủ tâm, tôi cầu cuốn cổ thư về thuật giả kim để phục vụ cho nghiên cứu của mình. Dẫu vậy, dường như nó cũng sở hữu sức mạnh khác thường thể làm ngơ. Các ngón tay của tôi khao khát muốn mở cuốn sách ra và khám phá nó. Nhưng thôi thúc mãnh liệt hơn ngăn cản tôi lại: tò mò của tôi có liên quan tới trí tuệ học thuật ? Hay nó liên quan tới mối dây ràng buộc của gia tộc tôi với phép thuật phù thủy?

      Tôi hít bầu khí quen thuộc của thư viện vào đầy hai lá phổi rồi nhắm mắt lại, hy vọng nó giúp tôi tỉnh táo hơn. Bodleian luôn luôn là chốn thiêng liêng đối với tôi, nơi liên quan gì với nhà Bishop. Run rẩy thu mình lại, tôi nhìn chằm chằm vào cuốn Ashmole 782 trong ánh chiều nhập nhoạng ngày tối dần và băn khoăn biết phải làm gì.

      Mẹ tôi, theo bản năng, biết được câu trả lời, nếu bà ở vào vị trí của tôi. Hầu hết các thành viên trong gia tộc Bishop đều là những phù thủy tài năng, nhưng mẹ Rebecca của tôi là nhân vật đặc biệt. Mọi người đều thế. Năng lực siêu nhiên của bà sớm bộc lộ. Từ thời còn ngồi ghế nhà trường, bà có thể thi triển phép thuật xuất chúng hơn hẳn so với hầu hết các phù thủy cao niên trong hội đồng phù thủy địa phương nhờ khả năng trực cảm những câu thần chú, khả năng tiên tri đáng kinh ngạc và sở trường kỳ lạ trong việc đoán định nội hàm của vật, việc và con người. Em của mẹ – dì Sarah – cũng là phù thủy lão luyện, nhưng tài năng của dì có định hướng hơn: dì có bàn tay pha chế độc dược tài ba và khả năng làm chủ hoàn hảo những tri thức truyền thống của xưa của giới phù thủy với bùa mê và thần chú.

      Các sử gia là đồng của tôi dĩ nhiên đều biết gì về gia tộc tôi, nhưng mọi người ở Madison – thị trấn xa xôi hẻo lánh phía bang New York nơi tôi sinh sống với dì Sarah từ năm lên bảy tuối – đều biết về nhà Bishop. Tổ tiên của tôi từ bang Massachusetts chuyển đến đây sau cuộc cách mạng giành độc lập. Lúc đó cũng hơn thế kỉ trôi qua kể từ khi cụ tổ Bridget Bishop[1] bị xử tử ở Salem. Dù vậy, những lời đồn đại và chuyện ngồi lê đôi mách vẫn đeo bám theo tổ tiên tôi khi họ tới nơi ở mới này. Sau khi thu vén và tái định cư ở Madison, gia tộc Bishop làm việc chăm chỉ để chứng tỏ cho cư dân ở đây thấy hữu ích đến mức nào khi có được những người hàng xóm là phù thủy giúp họ chữa lành bệnh tật khi ốm đau và dự báo về thời tiết. Gia đình tôi kịp thời ổn định và cắm rễ sâu trong cộng đồng dân cư ở đây đủ để chống chọi được trước những cuộc nổi loạn thể tránh khỏi do thói mê tín và nỗi sợ hãi của con người.

      [1. Năm 1692, nhóm phụ nữ ở làng Salem, bang Massachusetts lâm vào những cơn đau đớn kỳ lạ sau khi nghe những câu chuyện do người nô lệ da đỏ miền Tây kể lại. Họ kết tội những người phụ nữ ấy là phù thủy. Dân thị trấn thấy khiếp sợ nhưng hề kinh ngạc bởi niềm tin vào phép thuật phù thủy lan rộng ở cả Mỹ và châu Âu suốt thế kỉ XVII. Giới chức thị trấn triệu tập phiên tòa để phân xử những lời cáo buộc về phép thuật. Bridget Bishop là người phụ nữ đầu tiên bị kết tội và bị xử tử. Trong vòng tháng, năm phụ nữ nữa cũng bị treo cổ với cùng tội danh.]

      Nhưng mẹ tôi lại tò mò về thế giới, điều đó dẫn dắt bà rời xa khỏi an toàn của Madison. Đầu tiên bà tới Havard, và ở đó bà gặp pháp sư trẻ tên là Stephen Proctor. Ông cũng xuất thân từ môt dòng dõi pháp thuật lâu đời và khao khát trải nghiệm cuộc sống bên ngoài phạm vi lịch sử và ảnh hưởng của gia tộc. Rebecca Bishop và Stephen Proctor là cặp đôi đầy quyến rũ, bản tính ngay thẳng bộc trực kiểu Mỹ của mẹ tôi là đối trọng với lối sống khuôn phép, cổ điển của bố tôi. Họ trở thành những nhà nhân loại học, đắm mình vào các tín ngưỡng và những nền văn hóa nước ngoài, chia sẻ với nhau niềm say mê mang tính trí tuệ cùng lòng nhiệt huyết sâu sắc. Sau khi có những vị trí vững vàng tại các trường trong vùng - mẹ tôi ở trường của bà, còn bố tôi ở Wellesley - họ tiến hành những chuyến nghiên cứu ra nước ngoài và có mái ấm gia đình mới ở Cambridge.

      Tôi có rất ít những ký ức về thời thơ ấu, nhưng mỗi hồi ức lại rực rỡ màu sắc và trong sáng đến ngạc nhiên. Cảm giác mềm mại như nhung khuỷu tay bố, mùi nước hoa lan chuông mà mẹ thường xức, tiếng lanh canh của những ly rượu vang vào các tối thứ Sáu khi bố mẹ đưa tôi lên giường ngủ và cùng nhau thưởng thức rượu bên ánh nến lung linh. Mẹ kể cho tôi nghe các câu chuyện trước khi ngủ, và tiếng vang khi bố thả chiếc cặp đựng tài liệu màu nâu xuống cạnh cửa nhà. Những kỷ niệm này có lẽ đánh trúng vào các cung cảm xúc thân thương đối với hầu hết mỗi người.

      Nhưng những hồi ức khác về bố mẹ tôi như thế. Mẹ tôi dường như chẳng bao giờ làm công việc giặt là, nhưng quần áo của tôi luôn luôn sạch và được gấp gọn gàng. Tờ giấy cho phép tham gia chuyến dã ngoại tới công viên bị bỏ quên đột nhiên xuất bàn học của tôi khi thầy giáo đến thu lại. Và phòng làm việc của bố khi tôi hôn chúc ông ngủ ngon lúc nào cũng trong tình trạng như vừa có vụ nổ xảy ra ở đấy, sáng hôm sau nó luôn ngăn nắp, gọn gàng cách hoàn hảo. Ở nhà trẻ, tôi hỏi bạn bè là tại sao mẹ Amanda cứ than phiền về việc rửa bát đĩa bằng xà phòng và nước, trong khi chỉ cần tống chúng vào bồn rửa, búng ngón tay rồi thầm vài lời là xong. Schmidt bật cười trước ý tưởng kỳ lạ đó của tôi, nhưng đồng thời mắt ấy tối sầm lại vẻ bối rối.

      Tối hôm đó, bố mẹ bảo với tôi rằng chúng tôi phải cẩn thận trong việc về phép thuật và với ai chúng tôi được bàn luận về phép thuật. Con người đông hơn chúng tôi và họ sợ quyền năng của chúng tôi, mẹ giải thích như thế, và nỗi sợ hãi là thế lực mạnh nhất trái đất. Vào lúc đó tôi dám thú nhận rằng phép thuật - đặc biệt là phép thuật của mẹ - cũng khiến tôi sợ hãi.

      Ban ngày, mẹ tôi trông cũng giống như mọi bà mẹ khác ở Cambridge: hơi luộm thuộm, hơi lôi thôi, và thường xuyên bị áp lực gia đình cùng công việc quấy rầy. Mái tóc vàng chải rối hợp thời trang mặc dù quần áo bà mặc vẫn như ở năm 1977 – những chiếc váy dài nhiều li, quần dài và áo sơ mi ngoại cỡ, rồi các bộ vest nam và áo cộc tay đồng phục mà bà kiếm về từ mấy cửa hiệu đồ hạ giá khắp cả chiều dài và chiều rộng của Boston ăn theo phim Annie Hall[2]. Chẳng có gì ở mẹ tôi có thể khiến bạn muốn ngoái nhìn lại nếu bạn ngang qua bà đường phố hay đứng xếp hàng sau bà trong siêu thị.

      [2. Annie Hall: Là bộ phim hài nổi tiếng của đạo diễn người Mỹ Woody Allen, sản xuất năm 1977. Phim từng giành được bốn giải thưởng Oscar, trong đó có phim dành cho phim xuất sắc nhất.]

      Nhưng ở nhà tôi, khi những tấm rèn được kéo kín và cửa ra vào được khóa chặt, mẹ tôi vụt trở thành con người khác hẳn. Mỗi chuyển động của bà toát lên vẻ tự tin và chắc chắn, vội vã, mệt mỏi. Thỉnh thoảng bà thậm chí còn trông như trôi bồng bềnh trong trung. Khi quanh nhà, mẹ tôi vừa hát vừa nhấc bổng mấy con thú nhồi bông và các cuốn sách lên, nét mặt bà từ từ chuyển sang vẻ gì đó thoát tục và lộng lẫy. Khi mẹ tôi say sưa với các phép màu bạn thể nào rời mắt khỏi bà được.

      “Mẹ con có quả pháo hạng sang trong mình đấy,” bố tôi thường thế với nụ cười rạng rỡ khoan dung. Nhưng những quả pháo sáng đó, theo tôi hiểu, đơn giản chỉ phát sáng và sống động. Chúng khó lường và có thể làm bạn giật mình sợ hãi.

      Vào buổi tối, bố tôi có bài giảng ở trường, hôm đó mẹ quyết định lau chùi đồ dùng bằng bạc và bà bị thôi miên bên bát nước đặt bàn phòng khách. Khi mẹ tôi nhìn chăm chăm vào mặt nước trong như gương, nó bắt đầu bao phủ lớp sương, rồi màn sương đó xoắn lại với nhau thành những hình thù ma quái tí xíu. Tôi há hốc miệng ngạc nhiên khi chúng lớn dần, những thực tế to lớn dị thường ấy dần lấp đầy căn phòng. Chẳng mấy chốc chúng trườn lên cả những tấm rèn và bám chặt vào trần nhà. Tôi khóc thét lên cầu cứu mẹ, nhưng bà vẫn chăm chú tập trung vào bát nước. Sức tập trung của mẹ hề dao động cho tới khi thứ nửa người, nửa thú trườn đến gần tôi rồi cặp chặt lấy cánh tay tôi đau đớn. Đến lúc đó mẹ tôi mới thoát khỏi cơn mơ màng, bà làm bùng nổ ra cơn mưa ánh sáng đỏ rực giận dữ đánh lùi những bóng ma và để lại mùi khét lẹt như da cháy bay khắp nhà. Bố tôi nhận ra mùi hương lạ đó ngay khi về đến nhà, ông hốt hoảng tìm quanh và thấy hai mẹ con co cụm với nhau ở giường. Trước ánh nhìn của bố, mẹ tôi bật khóc đầy hối lỗi. Tôi bao giờ còn cảm thấy được an toàn khi ở trong phòng khách nữa.

      Và bất cứ cảm giác an toàn nào còn sót lại đều bốc hơi hết sau khi tôi lên bảy tuổi, bố mẹ tôi tới châu Phi và còn sống sót trở về.

      Tôi rùng mình, tập trung trở lại vấn đề tiến thoái lưỡng nan mà mình phải đối diện. Cuốn cổ thư đặt mặt bàn thư viện trong vùng ánh sáng của ngọn đèn. Ma lực của nó lôi kéo điều gì đó đen tối và gai góc trong tôi. Các ngón tay của tôi quay lại với lớp bìa da mềm mại. Lần này cảm giác tê tê như kiến bò trở nên quen thuộc hơn. Tôi ngờ ngợ nhớ trước đây mình có lần trải qua cảm giác y như thế này, khi tôi nhìn lướt thấy vài trang giấy giống như vậy bàn trong phòng làm việc của bố.

      Kiên quyết tránh xa khỏi cuốn cổ thư bọc da, tôi làm cho mình bận bịu với mấy việc có tính lý trí hơn: tra cứu danh sách các bản văn về thuật giả kim mà tôi lập ra trước khi rời New Haven. Nó nằm bàn, bị lấp dưới cả đống giấy tờ, phiếu mượn sách, biên lai, bút chì, bút mực và bản đồ thư viện, nó được xếp gọn gàng thành tập và được thủ thư sắp theo các số ấn định cho mỗi văn bản khi vào tới Bodlien. Vì mới đến đây vài tuần, tôi vẫn kiểm tra cái danh sách đó theo thứ tự. Phần miêu tả nội dung dành cho Ashmole 782 có ghi: “Nhân loại học hay luận thuyết bao hàm mô tả ngắn về Con người ở hai phần: Giải phẫu và Tâm lý.” Cũng như hầu hết các cuốn cổ thư mà tôi nghiên cứu, chẳng có gì ở tiêu đề cho biết nội dung bên trong cả.

      Các ngón tay có thể cho tôi biết về cuốn sách mà thậm chí cần hé mở bìa sách ra. Dì Sarah luôn dùng ngón tay để tìm xem có gì trong thư trước khi mở nó, phòng khi trong phong bì có cái hóa đơn mà dì muốn thanh toán. Với cách đó dì có thể bào chữa cho vô tội của mình, khi chuyện vỡ lở ra là dì còn nợ tiền công ty cung cấp điện.

      Những con số mạ vàng gáy cuốn cổ thư nhấp nháy.

      Tôi ngồi xuống và cân nhắc các lựa chọn.

      Phớt lờ ma lực đó, mở cuốn cổ thư ra và cố gắng đọc nó như học giả con người?

      Hay là gạt cuốn sách phù thủy đó sang bên và bỏ ?

      Dì Sarah cười như nắc nẻ nếu biết được tình huống khốn khổ này của tôi. Dì vẫn luôn khăng khăng cho rằng các nỗ lực để kiềm giữ pháp thuật của tôi là chuyện vô ích. Nhưng tôi làm như thế từ đám tang của bố mẹ. Những phù thủy có mặt trong số quan khách nhìn tôi chằm chằm dò xét mong tìm ra các dấu hiệu cho thấy dòng máu Bishop và Proctor chảy trong huyết quản của tôi. Tất cả bọn họ đều thế, vừa vỗ về tôi động viên vừa xét đoán rằng mọi việc chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi tôi thay thế vị trí của mẹ trong hội đồng phù thủy địa phương. vài phù thủy lại thầm về nỗi hoài nghi của họ trước sáng suốt của bố mẹ tôi khi đến hôn nhân.

      “Quá nhiều sức mạnh,” họ thầm khi nghĩ rằng tôi nghe thấy. “Họ chắc chắn là quá thu hút chú ý – cho dù họ có nghiên cứu về thứ tín ngưỡng thiêng liêng cổ xưa đó nữa.”

      Chuyện này là quá đủ để khiến tôi đổ lỗi cho năng lực siêu nhiên gây nên cái chết của bố mẹ, thứ năng lực mà họ vận dụng và nghiên cứu để tìm kiếm lối sống mới. Quay lưng lại với mọi thứ liên quan tới pháp thuật, tôi vùi mình vào cuộc sống tuổi trẻ như những con người khác – ngựa, bạn trai và tiểu thuyết lãng mạn – tôi cố gắng hòa mình với những cư dân bình thường của thị trấn này. Ở tuổi dậy tôi cũng gặp rắc rối với những nỗi phiền muộn và lo lắng. Nhưng rồi tất cả đều rất bình thường – ông bác sĩ loài người tốt bụng cam đoan với dì tôi như thế.

      Dì Sarah kể cho ông ấy biết về những giọng , về thói quen nhấc điện thoại vừa khít trước khi chuông reo, hay dì phải yểm bùa lên cửa ra vào và cửa sổ khi trăng tròn để ngăn cho tôi mộng du vào rừng. Dì cũng đả động đến chuyện khi tôi nổi giận tất cả các ghế trong nhà tự sắp xếp lại thành cái kim tử tháp chông chênh trước lúc đổ sập xuống sàn lúc tâm trạng tôi nguôi ngoai.

      Khi tôi bước sang tuổi mười ba, dì quyết định đến lúc hướng sức mạnh của tôi vào việc học các phép phù thủy cơ bản. Thắp nến bằng vài lời thẩm hay giấu mấy nốt mụn bằng thứ nước phép có công thức trước – đó là các bước dạo đầu bình thường của phù thủy thiếu niên. Nhưng tôi lại thể nắm bắt được dù là câu thần chú đơn giản nhất, tôi làm cháy mọi loại nước phép mà dì dạy, và bướng bỉnh chịu làm các bài kiểm tra của dì nhằm xác định xem tôi có thừa kế được nhãn quang thứ hai chuẩn xác lạ thường như mẹ tôi .

      Những giọng , những ngọn lửa và những cơn bùng nổ bất chợt giảm bớt khi các hormon của tôi lắng xuống, nhưng thiếu thiện ý trong việc học hỏi truyền thống gia đình vẫn còn. Chuyện đó khiến dì Sarah vô cùng lo lắng khi trong nhà có phù thủy được rèn giũa. Và rồi dì chỉ được nhõm đôi chút khi gửi tôi tới trường đại học ở Maine. Ngoại trừ chuyện phép thuật ra, đó là câu chuyện điển hình ở độ tuổi ấy.

      Thứ khiến tôi rời xa Madison chính là trí tuệ của mình. Nó luôn luôn bộc lộ sớm khiến tôi biết và biết đọc trước những đứa trẻ cùng tuổi khác. Trí nhớ sao chụp phi thường khiến cho việc nhớ bài trong sách giáo khoa đối với tôi dễ dàng, và tôi chỉ việc trình bày các thông tin được cầu lên bài kiểm tra là xong. Việc học hành dựa những năng lực phép thuật thừa hưởng từ gia tộc khiến tôi cảm thấy thích đáng. Tôi bỏ qua các năm cuối trung học và bắt đầu học đại học ở tuổi mười sáu.

      Ở đó, nỗ lực đầu tiên của tôi là cố tạo dựng vị trí trong chuyên ngành kịch ở trường. Óc tưởng tượng của tôi vẽ nên các phông nền sân khấu và phục trang diễn viên, còn tâm trí tôi say sưa với việc làm sao để những ngôn từ của tác giả có thể gợi lên được khung cảnh ở nhiều nơi và nhiều thời đại khác nhau. Vài lần trình diễn đầu tiên của tôi được các giáo sư tuyên bố như là những ví dụ phi thường cho lối diễn xuất tuyệt vời có thể biến sinh viên đại học bình thường trở thành con người khác. Dấu hiệu đầu tiên của những biến đổi thể chất này (mà có lẽ nó chẳng phải là kết quả của tài năng diễn xuất) xuất từ khi tôi đóng vai Ophelia trong vở Hamlet. Ngay khi tôi nhận được vai diễn, tóc tôi bắt đầu dài ra với tốc độ bình thường, rồi đổ dài từ vai xuống tận eo lưng. Tôi ngồi hàng giờ đồng hồ bên hồ nước trong trường với mái tóc xõa ra quanh mình, bị cuốn hút như thôi miên trước vẻ óng ả của nó. Chàng trai đóng vai Hamlet bắt đầu bị lôi cuốn vào ảo giác đó và chúng tôi cuộc tình say đắm chớp nhoáng mạo hiểm. Từ từ tôi hóa thân vào cơn điên loạn của Ophelia và sống trọn phần còn lại của vai diễn.

      Có lẽ tôi có những màn trình diễn đầy mê hoặc, nhưng mỗi vai diễn mới lại mang tới những thử thách mới mẻ khác. Vào năm thứ hai, tình trạng đó trở thành chuyện thể ngừng được khi tôi được phân vai Annabella trong vở ‘Tis Pity She‘s a Whore[3] của John Ford. Giống như nhân vật này, tôi hấp dẫn cả đoàn người cầu hôn nhiệt tình sốt sắng – phải tất cả đều là con người – họ bám theo tôi khắp trường. Khi họ vẫn chịu để cho tôi yên sau khi vở kịch hạ màn ràng cho dù thứ bộc phát ra là gì nữa đều vượt ngoài tầm kiểm soát. Tôi biết chắc phép thuật lọt vào phần diễn xuất của tôi như thế nào, và tôi cũng muốn tìm hiểu chuyện đó. Tôi cắt tóc ngắn. Thôi mặc váy hoa và giày cao gót nữa, tôi chuyển sang áo cổ lọ màu đen, quần vải kaki, giày lười mà những sinh viên hướng nghiệp khoa luật đầy tham vọng và đáng tin cậy hay mặc. Phần năng lượng thừa mứa tôi chuyển vào các môn điền kinh.

      [3. Tạm dịch: tiếc ta là điếm – vở bi kịch được trình diễn lần đầu vào khoảng năm 1629 - 1633.]

      Sau khi rời khỏi khoa kịch, tôi nỗ lực thử sức thêm vài chuyên ngành nữa, tìm kiếm lĩnh vực lý tính để bao giờ còn centimet vuông trống nào dành cho phép thuật cả. Tôi thiếu tính tỉ mỉ chính xác và nhẫn nại đối với toán học, và các nỗ lực của tôi ở chuyên ngành sinh vật học là thảm họa với các bài kiểm tra thất bại và những cuộc thí nghiệm thể hoàn thành.

      Cuối năm thứ hai, cán bộ phòng đào tạo cầu tôi phải lựa chọn chuyên ngành, nếu tôi phải đối mặt với việc học thêm năm thứ năm đại học. Chương trình nghiên cứu mùa hè ở miền Nam vương quốc cho tôi cơ hội tránh xa được tất cả những thứ liên quan đến nhà Bishop. Tôi phải lòng Oxford, phải lòng ánh sáng rực rỡ thanh bình của đường phố nơi đây mỗi bình minh. Các khóa học lịch sử của tôi phủ đầy những kì tích của các ông chúa bà hoàng, và giọng duy nhất trong đầu tôi là những tiếng thầm của các cuốn sách được viết từ thế kỉ mười sáu và mười bảy. Điều này hoàn toàn có thể quy cho nguyên do đó là các kiệt tác văn học. Nhưng hay hơn cả là có ai ở thành phố của những trường đại học này biết về tôi, và nếu có các phù thủy trong thành phố vào mùa hè đó họ đều giữ khoảng cách rất tuyệt vời với tôi. Tôi trở về nhà, tuyên bố chuyên ngành là lịch học, hoàn thành tất cả các khóa học theo cầu trong thời gian kỷ lục, và tốt nghiệp bằng danh dự trước khi bước sang tuổi hai mươi.

      Khi tôi quyết định theo đuổi học vị tiến sĩ, Oxford là lựa chọn đầu tiên của tôi trong số các chương trình có thể làm luận án. Chuyên ngành của tôi là lịch sử khoa học, các nghiên cứu tập trung vào giai đoạn khi khoa học thay thế cho phép thuật – thời đại mà thuật chiêm tinh và các vụ săn phù thủy chịu đầu hàng trước Newton cùng các quy luật vũ trụ bao la. Nghiên cứu về trật tự lý tính trong tự nhiên còn hơn là thứ mang tính siêu nhiên, nó phản ánh những nỗ lực của tôi nhằm tránh xa những thứ diễn ra trong đầu mình và những thứ tôi mang trong dòng máu của mình trở nên ràng dứt khoát hơn.

      Dì Sarah của tôi khịt mũi tỏ vẻ coi thường khi nghe đến quyết định của tôi chuyên sâu vào hóa học thế kỉ mười bảy. Mái tóc đỏ rực của dì là dấu hiệu cho biết tính tình nóng nảy và miệng lưỡi chua cay của chủ nhân nó. Dì là phù thủy ăn bộc trực, thẳng thắn, kiểu người điều khiển cả căn phòng ngay khi mới bước chân vào. Là trụ cột của cộng đồng dân cư ở Madison, dì Sarah thường hay được gọi đến để giải quyết mọi thứ khi có khủng hoảng, dù lớn hay , trong thị trấn. Bây giờ chúng tôi có mối quan hệ giao thiệp tốt hơn nên tôi còn phải chịu đựng liều lượng đều đều mỗi ngày những cuộc chuyện chua cay của dì về mong manh yếu đuối và thói tiền hậu bất nhất của loài người.

      Mặc dù chúng tôi cách xa nhau hàng trăm dặm, nhưng dì Sarah vẫn nghĩ những cố gắng gần đây nhất của tôi để tránh né phép thuật là trò nực cười. “Chúng ta từng gọi đó là thuật giả kim,” dì . “Có rất nhiều phép thuật ở trong đó đấy!”

      , có,” tôi nóng nảy phản đối. Toàn bộ mục đích công trình nghiên cứu của tôi là nhằm chỉ ra rằng việc theo đuổi này thực mang tính khoa học như thế nào. “Thuật giả kim cho chúng ta biết về phát triển của hình thức thí nghiệm, chứ phải việc kiếm tìm đá tạo vàng, ma thuật biến chì thành vàng và khiến người ta trở nên bất tử!”

      “Nếu cháu vậy,” dì Sarah đáp đầy hoài nghi. “Nhưng đó là chủ đề khá lạ lẫm để lựa chọn nếu cháu cố gắng tỏ ra giống loài người.”

      Sau khi kiếm được tấm bằng học vị, tôi chiến đấu ác liệt để dành vị trí giảng dạy trong khoa của Đại học Yale, nơi duy nhất có tính chất còn hơn cả nước . Các đồng nghiệp cảnh báo rằng tôi có ít cơ hội để giành được vị trí đó. Tôi cho ra đời hai cuốn sách, giành được ôm giải thưởng, và thu được vài thành công trong nghiên cứu. Thế rồi tôi nhận được vị trí bổ nhiệm ấy và chứng minh cho mọi người thấy là họ sai.

      Quan trọng hơn, cuộc sống của tôi giờ là của riêng tôi. có ai trong khoa tỏ vẻ nghi ngờ, thậm chí ngay cả các sử gia về thời kì đầu của nước Mỹ cũng chỉ thấy họ của tôi giống với họ của người phụ nữ đầu tiên ở Salem bị xử tử vì tội dùng tà thuật vào năm 1692. Để bảo vệ cho quyền tự chủ khó khăn lắm mới giảng được của mình, tôi tiếp tục giữ cho mọi dấu vết của phép thuật hay tà thuật tránh xa khỏi cuộc đời mình. Dĩ nhiên cũng có những ngoại lệ, giống như lần tôi dùng trong những bùa chú của dì Sarah khi cái máy giặt ngừng đổ đầy nước de dọa làm ngập lụt cả căn hộ của tôi ở quảng trường Wooster. Có ai đời là hoàn hảo đâu!

      Lúc này tôi nhận thấy dấu hiệu của sai lầm diện, tôi nín thở, cầm lấy cuốn cổ thư bằng cả hai tay và đặt nó vào trong những cái giá đỡ hình chữ V mà thư viện cung cấp để bảo vệ những cuốn sách quý hiếm. Tôi quyết định hành xử như học giả nghiêm túc và đối xử với cuốn Ashmole 782 này giống như cuốn cổ thư bình thường. Tôi phớt lờ những đầu ngón tay nóng bỏng, thứ mùi kì lạ tỏa ra từ cuốn sách, và phần miêu tả sơ sài trong phần mục lục của nó. Sau đó tôi quyết định – với suy xét hoàn toàn độc lập mang tính chuyên nghiệp – xem liệu nó có đủ hứa hẹn kì vọng để xem xét lâu hơn . Tuy thế, các ngón tay tôi vẫn run run khi tháo bỏ những cái móc cài bằng đồng thau.

      Cuốn cổ thư bật ra tiếng thở dài nhè .

      Tôi liếc nhanh qua vai để đảm bảo rằng căn phòng vẫn vắng người. thanh duy nhất nữa vang lên là tiếng tích tắc ồn ào của chiếc đồng hồ trong phòng đọc sách.

      Quyết định ghi là “Sách thở dài”, tôi quay sang chiếc máy xách tay mở ra file văn bản mới. Công việc quen thuộc này – việc tôi làm cả trăm nếu phải là cả ngàn lần trước đây – cũng dễ chịu như những cái tích đánh dấu gọn gàng tờ danh sách kia thôi. Tôi đánh tên cuốn cổ thư, số và sao chép lại tiêu đề từ phần mô tả của catalog. Tôi nhìn kích thước và bìa gáy của nó, ghi lại chi tiết cả hai thông tin này.

      Việc duy nhất còn lại là mở cuốn cổ thư ra.

      Cái bìa sách khó nâng lên, dù các móc cài được tháo ra, như là nó bị kẹt dính vào các trang sách bên dưới vậy. Tôi thầm nguyền rủa và áp bàn tay lên tấm bìa da lúc, hy vọng rằng cuốn Ashmole 782 chỉ đơn thuần cần cơ hội để hiểu tôi thôi. Việc đặt bàn tay lên cuốn sách phải phép thuật. Lòng bàn tay tôi tê tê, cũng như những lần làn da tôi râm ran tê khi bị phù thủy nhìn, và căng thẳng đọng lại cuốn cổ thư. Và rồi, tôi lật giở trang bìa ra dễ dàng.

      Trang đầu tiên là giấy thô. trang thứ hai, bản viết giấy da, là những lời sau: “Nhân loại học hay luận thuyết bao hàm mô tả ngắn về Con người,” bằng chữ viết tay của Ashmole. Những đường lượn tròn gần như quen thuộc đối với tôi như kiểu chữ viết thảo của chính tôi vậy. Đoạn tiếp theo của lời tựa “ở hai phần: Giải phẫu và Tâm lý” cũng được viết tay, nhưng bằng bút chì. Nó trông cũng quen quen nhưng tôi thể nhớ gặp ở đâu. Chạm vào dòng chữ viết tay ấy có thể cho tôi vài manh mối, nhưng điều đó là ngược lại các quy định của thư viện và chẳng thể chứng minh bằng tài liệu về các thông tin mà tôi thu thập được bằng các ngón tay mình. Thay vào đó tôi viết ghi chú vào file máy tính về cách sử dụng bút mực và bút chì để viết, hai bút tích khác nhau, và ngày tháng có thể của lời đề tặng này.

      Khi tôi lật sang trang thứ nhất, bản giấy da có cảm giác nặng nề cách khác thường và hé lộ bản thân nó chính là nguồn gốc của cái mùi kỳ lạ của cuốn sách. Nó đơn thuần chỉ là cổ xưa: nó là thứ gì đó còn hơn thế nữa – kết hợp của cái cần phải xem và mùi xạ hương tên. Và tôi lập tức nhận ra ba trang giấy trắng bị cắt rời ra khỏi gáy sách cách gọn ghẽ.

      Đây rồi, cuối cùng cũng có thứ gì đó dễ miêu tả. Các ngón tay tôi lướt những phím chữ: “Ít nhất có ba trang giấy bị lấy bằng thước kẻ hoặc dao lam.” Tôi nhìn vào rãnh gáy cuốn sách nhưng thể được liệu có còn trang nào bị mất nữa . Bản giấy da càng để gần mũi tôi sức mạnh của cuốn cổ thư càng ràng hơn và mùi hương kỳ lạ làm tôi mất cả lý trí.

      Tôi chuyển chú ý sang bức hình minh họa đối diện với khoảng trống chỗ các trang sách bị mất. Nó là hình ảnh xíu bồng bềnh trong cái bình thủy tinh trong suốt. bàn tay đứa bé cầm bông hồng bằng bạc, tay kia cầm bông hồng bằng vàng. hai bàn chân của nó có những đôi cánh xíu, và những giọt chất lỏng màu đỏ tươi chảy xuống từ mái tóc dài đen nhánh của nó. Dưới bức hình là dòng chú thích được viết bằng mực đen đặc giải thích sơ lược rằng đó là thuật miêu tả về đứa trẻ của triết học – lối trình bày dụ về bước then chốt trong việc tạo ra viên đá tạo vàng, loại vật chất hóa học hứa hẹn mang đến cho chủ nhân của nó sức khỏe, giàu có và trí tuệ thông thái.

      Màu sắc sáng lấp lánh vá bắt mắt được bảo quản rất tốt. Các họa sĩ từng trộn lẫn bột đá và bột ngọc vào màu vẽ của họ để tạo ra những sắc màu mạnh mẽ đến thế. Và bản thân hình ảnh này được ai đó vẽ bằng tài năng hội họa . Tôi phải ngồi lên cả hai bàn tay để cho chúng khám phá thêm điều gì bằng cách chạm vào chỗ này hay chỗ khác bức hình.

      Nhưng người vẽ hình minh họa này, dù ta ràng là rất tài năng, lại vẽ các chi tiết đều sai hết. Cái bình thủy tinh đáng ra phải quay lên lại lộn xuống dưới. Đứa bé lẽ ra phải được vẽ nửa đen, nửa trắng để thể nó là người lưỡng tính, và đáng lẽ nó phải có cả bộ phận sinh dục của nam và bầu nược của nữ - hoặc tối thiểu có cả hai đầu.

      Hình tượng của thuật giả kim là lối dụ, và có tiếng là hay đánh lừa. Đó là lý do vì sao tôi nghiên cứu nó, tìm kiếm những mô hình hé lộ ra cách tiếp cận có tính hệ thống và hợp lý dẫn tới biến đổi các chất hóa học ngày nay trước khi bảng tuần hoàn các nguyên tố của Mendeleev ra đời. Ví dụ như, các hình ảnh về mặt trăng hầu như thường thể cho bạc, trong khi hình ảnh mặt trời quy cho vàng. Khi cả hai thứ được kết hợp với nhau về phương diện hóa học quá trình này được miêu tả như lễ cưới. Nhưng rồi, cuối cùng, các bức tranh được thay thế bằng ngôn từ. Những từ ngữ đó, ngược lại, trở thành văn phạm hóa học.

      Nhưng cuốn cổ thư này đặt niềm tin của tôi về tính logic trong thuật giả kim vào thử thách. Mỗi bức hình minh họa lại có ít nhất thiếu sót rất căn bản, và hề có văn bản kèm để giúp hiểu được ý nghĩa của nó.

      Tôi tìm kiếm vài thứ - bất cứ điều gì – ăn khớp được với kiến thức về giả kim thuật của tôi. Trong ánh đèn dìu dịu, những dấu vết mờ mờ của chữ viết tay ra trang giấy. Tôi vội hướng về phía cái đèn bàn để soi sáng hơn nữa.

      Chẳng có gì ở đó cả.

      Tôi chầm chậm giở trang sách như thể nó là chiếc lá mong manh.

      Các từ lại phát sáng lờ mờ và di chuyển ngang qua bề mặt trang giấy – hàng trăm từ - chúng đều vô hình trừ phi ánh sáng chiếu nghiêng và hướng nhìn của người xem là ở bên phải.

      Tôi nén tiếng reo ngạc nhiên.

      Ashmole 782 văn bản viết giấy da cừu - văn bản nằm trong văn bản. Khi giấy da trở nên hiếm có khó tìm, những người chuyên chép thuê cẩn thận giặt sạch mực những quyển sách cũ rồi viết văn bản mới lên những tấm da trống ấy. Qua thời gian, những chữ viết trước đó thường lại phía dưới như bóng ma nguyên bản. Nếu có trợ giúp của ánh sáng tia cực tím, ta nhìn thấy được những vết mực mờ bên dưới và làm văn bản mờ ảo đó sống lại.

      Mặc dù có ánh sáng cực tím đủ mạnh để làm lộ hết những vết tích văn bản này, nhưng đây cũng phải là văn bản viết giấy da cừu thông thường. Các chữ viết hề bị giặt – nó bị che giấu bằng loại bùa chú nào đó. Nhưng tại sao có ai lại làm rắc rối vấn đề bằng cách yểm bùa bản viết này trong môt cuốn sách về thuật giả kim chứ? Thậm chí đến các chuyên gia cũng biết đâu mà lần với thứ ngôn ngữ cổ quái và những hình ảnh kì cục này.

      Kéo tâm trí thoát ra khỏi những con chữ mờ nhạt chuyển động quá nhanh thể đọc nổi, tôi tập trung viết bản tóm tắt về nội dung cuốn sách: “Rối rắm,” tôi gõ. “Đoạn chú thích nguyên bản từ thế kỉ mười lăm đến mười bảy, hình tượng chủ yếu của thế kỉ mười lăm. Nguồn gốc của hình tượng có thể cổ xưa hơn? Hỗn hợp của giấy và da mịn. Được tô màu và viết mực đen, ở văn bản trước đó có chất lượng cao khác thường. Các hình minh họa được thể rất tốt, nhưng nhiều chi tiết sai, thiếu. Miêu tả tạo thành của đá tạo vàng, sáng tạo/ra đời của thuật giả kim, cái chết, hồi sinh và biến đổi. bản in lộn xộn của cuốn sách thời kì đầu ư? cuốn sách kì lạ, đầy những điều dị thường.”

      Các ngón tay của tôi ngập ngừng phím chữ.

      Các học giả thường làm trong hai điều sau khi họ phát ra những thông tin ăn khớp với những gì họ biết. Hoặc họ gạt bỏ nó sang bên bởi nó đem các giả thuyết được ấp ủ từ lâu của họ tới vấn đề cần bàn luận, hoặc họ tập trung vào nó với cường độ như quét laser và cố tới tận cùng của . Nếu cuốn sách này bị yểm bùa, tôi có thể nỗ lực làm đến cùng. Nhưng nó bị yểm, nên tôi làm theo phương thức thứ nhất.

      Và khi có nghi vấn, các học giả thường trì hoãn việc quyết định.

      Tôi đánh dòng kết luận nước đôi: “Có thể cần thêm thời gian? Có thể cầu cuốn sách này sau?”

      Nín thở, tôi nhàng đóng chặt bìa sách lại. Dòng chảy của phép thuật vẫn còn vụt xuyên qua cuốn cổ thư, đặc biệt dữ dội chỗ những chiếc móc cài.

      nhõm khi cuốn sách được đóng lại, tôi nhìn chăm chú vào Ashmole 782 lúc lâu. Các ngón tay của tôi lãng vãng trở lại chạm vào tấm bìa da màu nâu. Nhưng lần này tôi kiên quyết kháng cự, cũng như khi tôi kìm nén chạm vào dòng đề tặng và các bức hình minh họa để biết thêm nhiều hơn sử gia bình thường.

      Dì Sarah luôn bảo tôi rằng phép thuật là món quà trời ban. Nếu đúng là thế, bện chặt, gắn kết tôi với tất cả các phù thủy tiền bối nhà Bishop. Có cái giá phải trả cho việc sử dụng phép thuật được kế thừa này cũng như cho việc dùng bùa chú hay bùa mê, đó là tạo nên cảnh giới đề phòng của các phù thủy. Bằng việc mở cuốn Ashmole 782, tôi xuyên thủng bức tường chia cách phép thuật với học thuật của tôi. Nhưng khi giờ đây nó trở về đúng vị trí, tôi càng thêm quyết tâm hơn bao giờ hết để giữ nguyên vị trí đó.

      Tôi thu dọn máy tính và giấy ghi chép của mình rồi nhấc chồng cổ thư lên, thận trọng đặt cuốn Ashmole 782 ở dưới cùng. Ơn trời, Gillian có mặt ở chỗ bàn của ta, mặc dù giấy tờ ta vẫn còn rải đầy quanh đó. ta chắc có kế hoạch làm việc muộn và ra ngoài để lấy tách cà phê.

      “Xong rồi à?” Sean hỏi khi tôi tới chỗ bàn mượn sách.

      hẳn. Tớ muốn giữ ba cuốn ở để dành cho ngày thứ Hai.”

      “Còn cuốn thứ tư?”

      “Tớ xong xuôi với nó rồi,” tôi buột miệng, đẩy mấy cuốn sách về phía chàng. “Cậu có thể gửi trả nó lại kho sách.”

      Sean dặt cuốn sách lên chồng trả lại mà chàng vừa mới gom vào. chàng cùng tôi xa tới tận chỗ cầu thang, chào tạm biệt và biến mất đằng sau cánh cửa lật. Cái băng tải đưa cuốn Ashmole 782 trở lại lòng thư viện bắt đầu hoạt động kêu lanh canh.

      Tôi gần như quay sang và ngăn bạn lại nhưng lại thôi.

      Tay tôi đưa lên đẩy cánh cửa mở ra khí xung quanh bất thình lình thu lại, như thể thư viện ép chặt lấy tôi. Bầu khí tỏa sáng lờ mờ trong phần giây, như khi các trang sách của cuốn cổ thư lờ mờ phát sáng bàn của Sean, và nó khiến tôi bất giác rùng mình, nổi cả da gà.

      Có điều gì đó vừa mới xảy ra. Điều gì đó đầy ma thuật.

      Tôi quay lại nhìn về phía phòng đọc Công tước Humfrey, đôi bàn chân cũng muốn làm theo.

      Điều đó chẳng có ý nghĩa gì cả, tôi thầm nghĩ, kiên quyết bước ra khỏi thư viện.

      Mi có chắc ? giọng thầm vu vơ.

    4. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Chương 2

      Chuông Oxford ngân nga bảy tiếng. Đêm tối chầm chậm tiếp nối trời chiều chạng vạng như vẫn thế suốt mấy tháng nay, và tượng đó vẫn còn có thể kéo dài. Các thủ thư bật hết đèn đọc từ ba mươi phút trước, những vòng sáng màu hoàng kim nổi lên giữa gian xám mờ.

      Hôm này là ngày hai mươi mốt tháng Chín. khắp thế giới, các phù thủy cùng nhau dùng bữa nhân tiết Thu phân để mừng lễ Mabon và chào đón những đêm đông sắp tới. Nhưng các phù thủy của Oxford tiến hành nghi lễ truyền thống này mà có tôi. Tôi được đề cử diễn thuyết trong hội thảo quan trọng vào tháng sau. Đến giờ tôi vẫn chẳng có được ý tưởng gì, và điều đó khiến tôi bắt đầu thấy sốt ruột. Trước ý nghĩ các nàng phù thủy đồng đạo của mình ăn tối ở nơi nào đó tại Oxford này, cái dạ dày tôi bắt đầu réo lên ùng ục. Tôi ở lì trong thư viện suốt từ chín rưỡi sáng mà chỉ mới ăn vào buổi trưa.

      Sean xin nghỉ hôm nay, và người thủ thư làm việc ở bàn tiếp tân là người mới. ta gây cho tôi chút rắc rối khi tôi cầu mượn văn bản bị nát vụn, và cố gắng thuyết phục tôi sử dụng video thay thế. Cán bộ quản lý phòng đọc, ông Johnson, tình cờ nghe được và phải ra khỏi văn phòng để can thiệp.

      “Tôi xin lỗi, tiến sĩ Bishop,” ông hớt hải , đẩy cái gọng kính đen tuyền nặng trịch sống mũi. “Nếu cần tham khảo bản thảo này cho việc nghiên cứu chúng tôi rất vui lòng được hỗ trợ.” Ông ta biến mất để tìm thứ bảo mật quý giá đó và giao nó cho tôi mà quên kèm thêm những lời xin lỗi về bất tiện vừa rồi, và rằng nhân viên mới Gratified gây ra nhầm lẫn tai hại. Tôi trải qua buổi chiều đọc sách vui vẻ.

      Tôi kéo thanh cuộn từ hai góc cuốn cổ văn rồi đóng lại cẩn thận, hài lòng với lượng công việc mình hoàn thành. Sau khi đối mặt với cuốn sách phù thủy hôm thứ Sáu, tôi thà dồn hết tâm trí vào kì nghỉ cuối tuần để thực các công việc thường lệ còn hơn là nghiên cứu thuật giả kim. Tôi điền vào các mẫu bồi hoàn tài chính, thanh toán các hóa đơn, viết thư giới thiệu, và thậm chí hoàn thành xong cả bài bình luận sách. Các việc nhà lặt vặt theo trình tự bình thường như giặt là, uống trà quá trời là uống, và thử mấy công thức nấu nướng của chương trình dạy nấu ăn kênh BBC.

      Sau khởi đầu sớm của sáng nay, tôi dành cả ngày để chú tâm vào công việc trước mắt chứ để tâm trí lang thang hồi tưởng lại những bức minh họa kì lạ của Ashmole 782 và bản viết da dê bí đó. Tôi ngó qua danh sách ngắn liệt kê mấy điều rối rắm cần làm trong ngày. Trong bốn vấn đề tôi liệt kê ra trong danh sách đó cái thứ ba là dễ giải quyết nhất. Câu trả lời nằm trong cuốn tạp chí thường kỳ, Những chú giải và thắc mắc, nằm giá của trong những tủ sách trải dài từ dưới đất lên tận trần nhà cao tít. Tôi đẩy ghế đứng dậy, quyết định gạch mục trong tờ danh sách trước khi rời khỏi thư viện.

      Người ta chỉ có thể tới với những giá sách phía cùng của phòng đọc Công tước Humfrey bằng cái thang ván cũ mèm, và từ đó ta có thể nhìn thấy toàn cảnh các dãy bàn nơi đây. Tôi leo lên những bậc thang xoắn để tới chỗ mấy cuốn sách bìa vải thôi hồ cứng nằm trong hàng sách được sắp xếp gọn gàng theo thứ tự thời gian. Chẳng có ai ngoài tôi và giảng viên dạy môn văn học cổ đại đến từ trường cao đẳng Magdalen dùng tới chúng cả. Tôi định vị được chỗ cuốn sách và rồi lại rủa thầm. Nó nằm ở cùng của cái giá, quá tầm với.

      tiếng cười khẩy làm tôi giật mình. Tôi quay đầu lại xem có ai ngồi ở cái bàn đọc tận cuối căn phòng dài , nhưng chẳng thấy ai ở đó cả. Tôi lại nghe thấy nó lần nữa. Oxford vẫn là thị trấn ma, và bất cứ ai còn ở trong trường đại học lúc này đều xuống thưởng thức ly rượu nâu miễn phí ở phòng sinh hoạt chung của khóa cuối từ giờ trước rồi. Hôm nay là lễ Wiccan nữa, nên ngay cả Gillian cũng rời khỏi thư viện từ cuối giờ chiều, sau khi nỗ lực đưa ra lời mời cuối cùng và liếc nhìn vào đống tài liệu của tôi bằng ánh mắt khó chịu.

      Tôi tìm cái bục kê của phòng sách nhưng nó biến đằng nào. Bodleian vẫn có tiếng là thiếu thốn những thứ lặt vặt như thế, phải mất ít nhất mười lăm phút để tìm cái bục kê trong thư viện và lôi được nó lên tầng để lấy được cuốn sách đó. Tôi đắn đo. Hôm thứ Sáu vừa rồi đúng là tôi cầm vào cuốn sách phù thủy đấy, nhưng tôi cũng cưỡng lại được những cám dỗ khủng khiếp để tiến xa hơn với mấy trò phép thuật. Với lại, ở đây lúc này có ai trông thấy tôi đâu!

      Bất chấp những lý giải để hợp lý hóa vấn đề của mình, da tôi cứ gai gai cảm giác râm ran bồn chồn. Tôi thường xuyên phá vỡ các nguyên tắc của mình, và tôi cũng giữ cho tinh thần vững vàng trước các tình huống thúc bách cần đến trợ giúp của phép thuật. Đây là lần thứ mười lăm trong năm nay, bao gồm cả câu bùa chú lên cái máy giặt gặp trục trặc và việc chạm vào Ashomle 782 lần trước. quá tệ cho ngày cuối tháng Chín, nhưng về phương diện cá nhân cũng chẳng phải là tốt nhất.

      Hít sâu, tôi đưa tay lên và tưởng tượng cuốn sách nằm ở đó.

      Tập 19 của Những chú giải và thắc mắc trượt lui lại chừng mười centimet, tạo thành góc nghiêng như thể có bàn tay vô hình kéo nó xuống và rơi phịch vào lòng bản tay tôi. Khi yên vị tay tôi, nó tự lật ra đúng ngay trang sách tôi cần.

      Vỏn vẹn chỉ mất có ba giây. Tôi thở mạnh, trút ra chút cảm giác tội lỗi. Đột nhiên, như thể có hai mảnh băng lạnh lẽo vỡ òa ra giữa hai xương bả vai của tôi.

      Có người nhìn tôi, và đó phải là quan sát viên bình thường.

      Khi phù thủy săm soi phù thủy khác, cái nhìn đó mang đến cảm giác râm ran, ngứa ngáy. Nhưng các phù thủy phải là những sinh vật khác lạ duy nhất cùng chia sẻ thế giới này với loài người. Còn có cả tinh – giống loài đầy tính sáng tạo và nghệ thuật, chúng ở giữa cái ranh giới mong manh của điên loạn và thiên tài. “Những ngôi sao nhạc rock và những kẻ giết người hàng loạt” – đó là cách dì tôi miêu tả về những sinh vật kì lạ và khó hiểu này. Rồi có cả loài ma cà rồng, cổ xưa và đẹp đẽ, chúng uống máu và quyến rũ bạn hoàn toàn nếu giết bạn luôn từ trước.

      Khi tinh nhìn, tôi cảm thấy như có nụ hôn lướt qua.

      Nhưng khi ma cà rồng nhìn chằm chằm, đó là cảm giác lạnh giá, tập trung và nguy hiểm.

      Tôi nhẩm lướt qua lượt các độc giả trong khu Công tước Humfrey. Có ma cà rồng và vị tu sĩ hiền hậu miệt mài những cuốn kinh và sách nguyện thời Trung cổ y như kẻ si tình. Nhưng ma cà rồng thường hay xuất trong các phòng sách hiếm hoi này. Thỉnh thoảng ma cà rồng chịu thua trước thói tự cao tự đại và hoài cổ mới tìm đến đây để hồi tưởng lại quá khứ, nhưng chuyện ấy phải thường xuyên.

      Phù thủy và tinh thuộc tuýp có mặt trong các thư viện. Nhưng Gilllian Chamberlain đến đây hôm nay, nghiên cứu mấy cuộn giấy papyrus của nàng ta bằng cái kính lúp. Và đúng là còn có hai tinh ở trong thư viện nhạc. Họ ngẩng lên nhìn, vẻ mộng mị lơ đãng khi tôi ngang qua đường tới Blackwell để dùng trà. trong số đó còn bảo tôi mang về cho ta cốc latte, hẳn là ta ngập chìm trong cái thứ thu hút chú ý của ta lúc ấy.

      , bây giờ kẻ quan sát tôi là ma cà rồng.

      Tôi tình cờ chạm mặt vài ma cà rồng. Tôi làm việc trong lĩnh vực giúp tôi có gắn kết chặt chẽ với các nhà khoa học, mà có vô số ma cà rồng trong các phòng thí nghiệm khắp thế giới này. Khoa học ban thưởng cho những ai biết nghiên cứu bền bĩ và kiên nhẫn. Và tạ ơn cái thói quen làm việc đơn độc mình của họ, những nhà khoa học ấy thích được bất cứ ai công nhận ngoại trừ những người cộng thân cận nhất. Nó tạo nên cuộc sống nối dài qua hàng thế kỉ chứ phải vài thập kỉ và càng dễ dàng để thương lượng hơn.

      Ngày nay, ma cà rồng bị thu hút về những cái máy gia tốc phân tử, những công trình nghiên cứu giải mã bản đồ gen, và sinh học phân tử. Xưa kia, có thời họ tập trung quanh thuật giả kim, giải phẫu học và điện lực. Nếu có vụ phát nổ lớn hay dính dáng đến máu, hay hứa hẹn hé lộ những bí mật của vũ trụ, chắc chắn là con ma cà rồng ở đó.

      Tôi giữ chặt cuốn Những chú giải và thắc mắc lấy được bằng cách chính đáng rồi quay sang đối diện với kẻ chứng kiến toàn bộ việc. ở trong bóng tối phía bên kia căn phòng, trước mặt những cuốn sách tra cứu về cổ tự học, uể oải dựa vào trong những cây cột trụ duyên dáng làm bằng gỗ chống đỡ cho gian phòng. Cuốn sách Hướng dẫn sử dụng các bản thảo viết tay bằng tiếng cho tới năm 1500 để dở ra thăng bằng hai bàn tay .

      Tôi chưa từng thấy gã ma cà rồng này trước đây – nhưng tôi đoan chắc là cần lời khuyên bảo nào để giải mã văn phong cổ cả.

      Bất cứ ai từng đọc các tác phẩm ăn khách hay thậm chí là chăm xem truyền hình đều biết rằng ma cà rồng rất hấp dẫn, nhưng có gì có thể so sánh với việc bạn thực được nhìn thấy ma cà rồng. Cấu trúc xương của họ được mài dũa quá tuyệt vời đến mức như được nhà điêu khắc chạm trổ nên. Thế rồi họ di chuyển, hay chuyện, và trí óc bạn thể tin được vào những gì chứng kiến. Mỗi cử động duyên dáng, mỗi ngôn từ đều thánh thót, du dương. Và ánh mắt họ hoàn toàn lôi cuốn, đó là cách họ bắt giữ con mồi của mình. ánh nhìn dài, vài lời thầm khe khẽ, dụng chạm – khi bạn mắc vào cái bẫy của ma cà rồng bạn còn cơ hội chống cự nữa.

      Chăm chú nhìn xuống gã ma cà rồng này, tôi nhận ra với cảm giác hụt hẫng rằng kiến thức của mình ở lĩnh vực này, than ôi, toàn là lý thuyết suông. chút ít trong mớ lý thuyết đó dường như còn hữu ích vào lúc này đó là tôi đối mặt với ma cà rồng trong thư viện Bodleian.

      Ma cà rồng mà tôi quen biết sơ sơ làm công việc nghiên cứu máy gia tốc nguyên tử hạt nhân ở Thụy Sĩ. Jeremy có dáng người dong dỏng, mảnh mai và bóng bẩy, mái tóc vàng rực rỡ, đôi mắt xanh và điệu cười lôi cuốn. ta ngủ với hầu hết phụ nữ trong bang Geneva và bây giờ làm việc ở thành phố Lausanne. ta làm gì sau khi quyến rũ họ, tôi chẳng bao giờ muốn tìm hiểu quá sâu, và tôi từ chối những lời mời dai dẳng chơi uống nước cùng ta. Tôi luôn nhận thấy Jeremy là kẻ có dòng dõi. Nhưng so với gã ma cà rồng đứng trước mặt tôi lúc này ta dường như gầy trơ xương, lóng ngóng, và còn rất, rất trẻ.

      Ma cà rồng này dáng người cao lớn hơn – khoảng hơn mét tám ngay cả khi tôi nhìn xuống từ khoảng cách thế này. Và dứt khoát là hề mảnh mai rồi. Đôi vai rộng hẹp dần về phía hông, tiếp nối đôi chân thuôn và săn chắc. Đôi bàn tay dài nổi bật, nhanh nhẹn, điểm nhấn tao nhã mang tính sinh lý khiến cho đôi mắt bạn bị cuốn theo chúng trước khi nhận ra là đôi bàn tay ấy thuộc về người đàn ông to lớn dường nào.

      Trong khi mắt tôi quét qua khắp lượt, ánh mắt gắn chặt vào tôi. Nhìn từ phía này căn phòng, đôi mắt ấy dường như đen thăm thẳm, chăm chăm nhìn lên từ dưới cặp lông mày rộng và đen kém, môt bên nhướng lên thành đường cong như dấu hỏi. Khuôn mặt quả là ấn tượng – tất cả đường nét đều rệt, đôi lưỡng quyền nhô cao kết hợp với cặp lông mày che chắn bảo vệ cho đôi mắt. Phía chiếc cằm là trong vài điểm ít ỏi còn chừa chỗ cho nét dịu dàng – khuôn miệng rộng của , cũng giống như đôi bàn tay dài – nhưng dường như điều đó chẳng có nghĩa lý gì.

      Tuy nhiên thứ gây cảm giác bất an nhất ở phải là hoàn hảo của hình thể. Nó là vẻ hoang dã kết hợp với sức mạnh, nhanh nhạy và trí thông minh sắc bén như có thể sờ nắn được từ phía đầu kia của căn phòng. Trong chiếc quần âu màu đen và chiếc áo len màu xám nhạt, cùng với mái tóc đen bù xù xoã ngang trán và được hớt sát sau gáy, trông giống con báo có thể phóng tới bất cứ lúc nào. Nhưng vội vàng thực điều đó.

      Gã ma cà rồng mỉm cười. nụ cười lịch , dè dặt nên để lộ ra những chiếc răng. Dẫu sao tôi cũng ý thức cách mãnh liệt về chúng - được sắp thành hàng thẳng tắp sắc bén và hoàn hảo phía sau đôi môi tái nhợt của .

      Ý nghĩa về những chiếc răng gửi đợt adrenaline đầy tính bản năng xuyên qua khắp cơ thể tôi, khiến những ngón tay tôi run rẩy. Đột nhiên tất cả điều tôi có thể nghĩ là: Ra khỏi gian phòng này NGAY LẬP TỨC.

      Cái thang dường như xa hơn so với con số bốn bậc của nó. Tôi guồng chân leo xuống sàn nhà bên dưới, rồi bị vấp ở bậc cuối cùng, và chúi người thẳng vào đôi cánh tay đợi sẵn của ma cà rồng đó.

      Vậy là tóm được tôi ở cuối cầu thang.

      Những ngón tay mát lạnh, và đôi cánh tay cho cảm giác giống như thép chứ phải là thịt và xương. Mùi cây đinh hương, quế và thứ gì đó gợi tôi nhớ tới mùi trầm hương đốt lúc hành lễ ngập tràn trong khí. đặt tôi đứng vững lại, nhặt cuốn Những chú giải và thắc mắc từ dưới sàn lên, và đưa nó cho tôi kèm theo cái gật đầu khẽ khàng. “Tiến sĩ Bishop, đúng ạ?”

      Run bần bật từ đầu tới chân, tôi gật đầu.

      Những ngón tay dài và nhợt nhạt của bàn tay phải thọc vào túi áo và lôi ra tấm danh thiếp màu xanh trắng. chìa nó ra. “Matthew Clairmont.”

      Tôi cầm vào rìa tấm danh thiếp, thận trọng chạm vào ngón tay . Logo quen thuộc của đại học Oxford, ba cái vương miện và cuốn sách để mở, ở ngay bên cái tên của Clairmont, tiếp theo đó là chuỗi những thông tin ban đầu cho thấy thành viên của câu lạc bộ Tầng lớp Hoàng tộc.

      tệ đối với những người có vẻ ngoài gần tứ tuần, mặc dù tôi hình dung rằng tuổi thực của ít nhất cũng gấp mười lần như thế.

      Và vì chuyên môn nghiên cứu của , chẳng có gì ngạc nhiên khi ma cà rồng này là giáo sư khóa Hóa sinh và có quan hệ với khoa Thần kinh học của Oxford tại bệnh viện John Radcliffe. Máu và giải phẫu học – hai thứ mà ma cà rồng thích. Tấm danh thiếp còn có số điện thoại của ba phòng thí nghiệm khác bổ sung cho số điện thoại văn phòng và địa chỉ e-mail. Có thể tôi trông thấy trước đây, nhưng hiển nhiên thuộc tầng lớp tôi với tới được.

      “Giáo sư Clairmont.” Tôi lạc cả giọng khi ngôn từ bị ứ lại trong họng, và tôi cố nín lặng trước thôi thúc mạnh mẽ muốn vừa gào thét vừa chạy ra lối cửa.

      “Chúng ta chưa gặp nhau,” tiếp tục bằng chất giọng nhấn trọng kì quặc. Nó gần như là của vùng Oxbridge nhưng có sắc êm ái mà tôi thể đoán định được. Đôi mắt hề rời khỏi gương mặt tôi, và tôi phát ra thực tế là chúng hoàn toàn tối sẫm: đôi đồng tử giãn to được viền quanh bằng đôi tròng mắt có màu bạc xanh xám. lôi cuốn của chúng mãnh liệt và tôi nhận ra là mình thể nào rời mắt .

      Khuôn miệng của ma cà rồng này lại cử động. “Tôi là người rất ngưỡng mộ các tác phẩm của .”

      Mắt tôi mở lớn. thể nào có Giáo sư khoa Hóa sinh lại thích thú với thuật giả kim của thế kỉ mười bảy, nhưng cũng chắc. Tôi nâng cổ áo sơ mi trắng của mình lên và quét mắt khắp căn phòng. Chúng tôi là hai người duy nhất ở đây. có ai ở chỗ chiếc bàn sồi cũ kĩ hay ở gần dãy bàn máy vi tính cả. Bất cứ ai có mặt ở bàn quyên góp sách đều quá xa để có thể đến giúp đỡ tôi.

      “Tôi nhận thấy bài báo cáo của về những sắc thái tượng trưng của chuyển hóa trong thuật giả kim lôi cuốn, và công trình của về cách tiếp cận của Robert Boyle với các vấn đề về co giãn là khá thuyết phục,” Clairmont tiếp tục cách trôi chảy, như thể quen với việc là người tham gia tích cực duy nhất trong cuộc đàm luận. “Tôi vẫn chưa đọc xong cuốn sách mới nhất của về việc đào tạo và học nghề của thuật giả kim, nhưng tôi thưởng thức nó – tác phẩm lớn đấy.”

      “Cảm ơn,” tôi thầm đáp. Ánh nhìn chòng chọc của rời khỏi mắt tôi rồi lướt xuống cổ họng tôi.

      Tôi chạm vào mấy cái nút áo quanh cổ nữa.

      Đôi mắt kì dị của lướt trở lại mắt tôi. “ có cách khơi gợi lại quá khứ cho các độc giả tuyệt diệu.” Tôi coi đó như lời khen ngợi, vì ma cà rồng biết điều đó đúng hay sai. Clairmont ngừng lại giây lát. “Tôi có thể mời bữa tối được ?”

      Miệng tôi há hốc. Bữa tối ư? Tôi thể thoát khỏi trong cái thư viện này, nhưng chẳng có lý do gì để nấn ná qua bữa ăn cả - đặc biệt là bữa ăn mà chẳng thể chia sẻ và tận hưởng theo các sở thích ăn uống riêng của mình.

      “Tôi có kế hoạch mất rồi,” tôi cao giọng đáp mà thể nghĩ ra được lý do khả dĩ cho cái kế hoạch mình vừa . Matthew Clairmont hẳn phải biết tôi là phù thủy, và ràng là tôi mừng lễ Mabon vào lúc này.

      “Chán quá,” lẩm bẩm, nụ cười lướt qua môi. “Có lẽ để dịp khác chăng. Năm nay vẫn còn ở Oxford phải ?”

      Xung quanh ma cà rồng luôn có cái cảm giác bất an, bấn loạn, và mùi đinh hương của Clairmont gợi nhắc tới hương vị kì lạ của Ashmole 782. Chẳng kịp nghĩ ngợi ràng, tôi đành gật đầu. Thế an toàn hơn.

      “Tôi cũng nghĩ vậy,” Clairmont . “Tôi chắc là chúng ta lại có cơ hội gặp nhau lần nữa. Oxford là thị trấn mà.”

      “Rất ,” tôi đồng tình, thầm ước gì mình đến London thay vì ở đây.

      “Vậy cho đến dịp đó, Tiến sĩ Bishop, rất hân hạnh được gặp lại .” Clairmont chìa tay ra. Ngoại trừ cuộc du ngoạn ngắn ngủi tới chỗ cổ áo của tôi, còn đôi mắt tuyệt nhiên rời khỏi mắt tôi lần nào. Tôi nghĩ là có chớp mắt lần nào cả. Tôi chỉ biết cứng đơ người và thể rời mắt được.

      Bàn tay tôi đưa ra phía trước, do dự giây lát trước khi bắt tay . Có áp lực thoáng lướt qua trước khi rụt tay lại. bước giật lùi, mìm cười và biến mất vào trong bóng tối của khu vực cổ xưa nhất thư viện.

      Tôi vẫn còn đứng đó cho tới khi hai bàn tay lạnh giá có thể cử động trở lại, sau đó tôi quay lại bàn đọc của mình và tắt máy tính. Trong khi thu gom các giấy tờ, cuốn Những chú giải và thắc mắc hỏi tôi vẻ cáo buộc rằng tại sao tôi lại đến quấy rầy nó khi tôi thậm chí còn nhìn tới nó. Danh sách các việc làm của tôi cũng đầy lời chỉ trích. Tôi xé toạc phần của tập giấy, vò nhàu và ném nó vào cái giỏ liễu gai ở dưới gầm bàn.

      “Thế là đủ cho ngày quái quỷ này rồi,” tôi khẽ lẩm bẩm.

      Viên quản lý phòng đọc buổi tối liếc xuống đồng hồ đeo tay khi tôi trả lại những tập cổ thư. “Về sớm thế, tiến sĩ Bishop?”

      Tôi gật đầu, môi tôi mím chặt cố nén hỏi ông ta rằng liệu ông ta có biết con ma cà rồng có mặt trong khu vực sách tham khảo môn cổ tự học hay .

      Ông ta nhặt chồng hộp các tông màu xám lên và cầm lấy những cuốn sách. “Ngày mai có cần chúng ?”

      “Có,” tôi thào. “Ngày mai.”

      Sau khi quan sát lần cuối lối ra, tôi được tự do. Tiếng bước chân của tôi gõ lên tấm vải sơn lót sàn vang dội khắp các bức tường đá khi tôi tăng tốc xuyên qua cánh cổng mắt cáo của phòng đọc sách, ngang qua chỗ những cuốn sách được che chắn bằng dây chão mềm như nhung để ngăn chúng khỏi những ngón tay tò mò, rồi xuống cầu thang bằng gỗ mòn, và vào khu vực sân trong ở tầng trệt. Tôi tựa người vào mấy thanh sắt bao quanh khu tượng đài bằng đồng của William Herbert, hít đầy bầu khí lạnh giá vào hai lá phổi, và đánh vật để đẩy lùi dấu tích của mùi đinh hương và quế ra khỏi lỗ mũi mình.

      Luôn có những thứ bất ngờ xảy đến vào buổi đêm ở Oxford, tôi tự nhủ các cứng rắn. Vậy là có thêm ma cà rồng nữa trong thị trấn này.

      Cho dù tôi nhủ lòng ra sao lúc ở trong sân thư viện, chuyến bộ về nhà của tôi cũng nhanh hơn thường lệ. Vẻ u ám của hẻm New College như lời tuyên bố ma quái vào đúng thời điểm này. Tôi quét tấm thẻ của mình vào máy đọc thẻ ở cổng sau của New College và cảm thấy vơi chút căng thẳng khi cánh cổng kêu lách cách sập lại phía sau lưng, như thể mỗi cánh cửa và mỗi bức tường ngăn giữa tôi với cái thư viện kia có thể giữ an toàn cho tôi thêm chút vậy. Tôi men theo bờ tường bên dưới những cánh cửa sổ của nhà thờ rồi xuyên qua lối bộ hẹp dẫn vào sân trong. Nơi đó trông ra khu vườn thời Trung cổ duy nhất còn sót lại của Oxford, khu vườn được hoàn thiện thêm nhờ ngọn đồi thấp kiểu truyền thống, tạo thành khung cảnh tươi xanh dành cho sinh viên tới thưởng ngoạn kì diệu của tạo hóa và Chúa Trời. Tối nay, những ngọn tháp hình chóp và những ô cửa tò vò của ngôi trường dường như mang đậm nét Gothic, và tôi hăm hở vào trong.

      Khi cánh cửa khép lại sau lưng, tôi thở phào nhõm. Tôi sống tầng cao nhất của tòa nhà dành cho khoa Lịch sử, trong khu phòng trọ dành riêng cho các cựu thành viên về thăm trường. Các gian trong căn hộ của tôi, gồm phòng ngủ, phòng khách với chiếc bàn tròn để ăn tối và căn bếp khá tươm tất, được bài trí bằng những tấm ảnh cổ in từ phim bản và ván ốp tường. Tất cả đồ gia dụng trông như được chọn lọc từ các đồ vật trước đây ở phòng sinh hoạt chung của năm cuối và của chủ nhà, với phong cách thiết kế nổi bật cuối thế kỉ mười chín.

      Tôi đặt hai miếng bánh mì vào lò nướng và rót cho mình cốc nước lạnh. Tu hết hơi cốc nước, tôi mở cửa sổ để khí mát ùa vào mấy căn phòng ngột ngạt.

      Mang theo gói snack trở lại phòng khách, tôi đá văng đôi giày và bật dàn stereo lên. Những nốt nhạc trong trẻo của Mozart tràn ngập gian. Khi ngồi chiếc sofa màu hạt dẻ, tôi dự định nghỉ ngơi lát, rồi tắm và lướt qua những ghi chú trong ngày.

      Ba giờ rưỡi sáng, tôi tỉnh giấc, tim đập dồn, cổ cứng ngắc, và vị đinh hương rệt còn đọng lại trong miệng tôi.

      Tôi uống ly nước mát rồi đóng cửa sổ phòng bếp lại. lạnh lẽo, tôi rùng mình khi bầu khí ẩm ướt chạm vào người.

      Sau khi liếc qua đồng hồ và nhẩm tính nhanh, tôi quyết định gọi về nhà. Ở đó mới là mười rưỡi, dì Sarah và Em thích hoạt động về đêm giống như loài dơi vậy. Lững thững quanh các phòng, tôi tắt tất cả các đèn, chỉ để lại ngọn đèn trong phòng ngủ và nhấc máy di động lên. Tôi trút bỏ bộ quần áo lấm bụi – làm sao mà trong thư viện bạn lại có thể bị bắt bụi đến thế nhỉ - rồi mặc vào người chiếc quần bó cũ tập yoga và cái áo len màu đen cổ trễ. Bộ đồ đó thoải mái hơn rất nhiều so với bất cứ bộ đồ ngủ nào.

      Chiếc giường chào mời và êm ái vững chải dưới lưng tôi, nó làm tôi thấy dễ chịu tới mức hầu như thuyết phục được bản thân rằng chỉ nên gọi về nhà khi cần thiết. Nhưng nước vẫn chưa thể tẩy bỏ được hết hương vị đinh hương trong miệng, và tôi quay số.

      “Chúng ta đợi cuộc gọi của con đây,” đó là những lời đầu tiên tôi nghe thấy.

      Đúng là phù thủy.

      Tôi thở dài. “Dì Sarah, con khỏe mà.”

      “Tất cả các dấu hiệu đều cho thấy điều ngược lại.” Như thường lệ, em của mẹ tôi lại chịu lùi bước. “Tabitha lồng lộn lên suốt cả buổi tối, Em bức tranh vô cùng nét về việc con bị lạc trong rừng ban đêm, và dì thể ăn được thứ gì suốt từ sáng tới giờ!”

      Rắc rối thực chính là con mèo chết tiệt đó. Tabitha là bé cưng của dì Sarah, và nó bắt sóng được bất cứ tình trạng căng thẳng nào của các thành viên trong gia đình với độ chính xác phi thường. “Con khỏe mà. Con chỉ có cuộc chạm trán mong đợi ở thư viện tối nay thôi, tất cả chỉ có thế.”

      tiếng “cạnh” cho tôi biết là Em nhấc máy điện thoại phụ lên. “Tại sao con tham dự lễ Mabon?” hỏi.

      Emily Mather diện cố định trong cuộc đời tôi từ bao lâu tôi cũng nhớ nữa. và mẹ Rebecca của tôi gặp nhau từ hồi là những học sinh trung học làm việc ở khu bảo tàng Plimoth Plantation vào mùa hè, ở đó họ đào những cái hố và đẩy cái xe cút kít cho các nhà khảo cổ. Họ trở thành đôi bạn thân, rồi cứ thư từ tâm tình qua lại suốt khi Emily tới Vassar còn mẹ tôi vào Havard. Sau đó hai người nối lại liên lạc lạc ở Cambridge khi Em trở thành thủ thư ở thư viện cho trẻ em. Sau cái chết của bố mẹ tôi, những kì nghỉ cuối tuần dày đặc của Em ở Mandison nhanh chóng đưa đến công việc mới ở trường cấp hai địa phương. và dì Sarah trở thành những đối tác thể chia rẽ được, mặc dù Em vẫn duy trì căn hộ riêng của trong thị trấn và cả hai lập giao kèo đặc biệt là bao giờ để bị bắt gặp vào buồng ngủ cùng nhau trong khi tôi tuổi lớn. Chuyện này lừa được tôi, hàng xóm, hay bất kỳ ai khác sống trong thị trấn này. Mọi người đối xử với họ giống như họ là cặp, quan tâm xem họ ngủ ở đâu. Khi tôi chuyển ra khỏi nhà Bishop, Em chuyển vào và ở đó từ hồi ấy. Giống như mẹ tôi và dì, Em có xuất thân từ dòng họ phù thủy lâu đời.

      “Con được mời tới bữa tiệc của hội phù thủy, nhưng con làm việc chứ dự.”

      “Phù thủy ở Bryn Marw mời con à?” Em có hứng thú với giới cổ điển học, chủ yếu là vì từng hẹn họ với mẹ của Gillian (hóa ra là cuộc tình do rượu vang trong đêm hè). “Đó là hồi những năm 1960,” Em chỉ thế.

      “Vâng.” Tôi tỏ vẻ thích. Cả hai người bọn họ đều tin rằng tôi ngộ ra chân lý và bắt đầu nắm bắt phép thuật cách nghiêm túc, rằng tôi chắc chắn được bổ nhiệm. gì phủ bóng nghi ngờ lên cái điềm báo đầy mơ ước này của họ, và họ luôn run lên sung sướng khi thấy tôi có bất cứ mối liên hệ nào với bất cứ phù thủy nào. “Nhưng thay vào đó, con dành cả buổi tối ở bên Elias Ashmole”

      ta là ai thế?” Em thào hỏi dì Sarah.

      “Mình biết. Cái gã đó hồi còn sống từng sưu tập những cuốn sách về giả kim thuật đấy,” tiếng dì Sarah có vẻ bị bịt lại.

      “Cả hai vẫn còn đó chứ?” tôi gọi to vào máy điện thoại.

      “Vậy ai là người làm con hoảng sợ?” dì Sarah hỏi.

      Cả hai đều là phù thủy nên chẳng có cách nào che giấu được bất cứ điều gì. “Con gặp ma cà rồng ở trong thư viện. Con chưa gặp ta trước đó lần nào cả, tên là Matthew Clairmont.”

      Đầu dây của Em im lặng khi lật giở qua những file danh thiếp được lưu giữ trong đầu về các sinh vật lẫy lừng. Dì Sarah cũng im lặng trong giây lát, cân nhắc có nên làm to chuyện hay .

      “Ta mong là dễ dứt hơn lũ tinh con có thói quen thu hút về,” dì đột ngột .

      “Lũ tinh còn làm phiền con kể từ khi con thôi đóng kịch.”

      “Chẳng phải còn có tên tinh theo con vào thư viện Beinecke hồi con mới làm việc ở Yale còn gì,” Em chỉnh tôi. “ cứ tha thẩn dưới đường và mò tới tận chỗ con đấy thôi!”

      “Tinh thần ổn định mà.” Tôi chống chế. Như khi dùng phép phù thủy với cái máy giặt, hiểu thế nào mà tôi thu hút chú ý của tinh độc thân, hiếu kì – đáng lẽ nên đánh giá việc đó là lợi thế dành cho tôi mới phải chứ!

      “Con thu hút những sinh vật đó như hoa thu hút ong vậy, Diana ạ. Nhưng tinh nguy hiểm bằng nửa ma cà rồng đâu. Hãy tránh xa ta ra,” dì Sarah nghiêm khắc .

      “Con chẳng có lý do gì để tìm đến ta cả.” Tay tôi lại đưa lên cổ lần nữa. “Chúng con chẳng liên quan gì cả.”

      “Vấn đề phải ở chỗ đó,” dì Sarah sẵng giọng. “Phù thủy, ma cà rồng, tinh thể giao du lẫn lộn được. Con biết điều đó mà. Con người có khả năng nhận ra chúng ta nhiều hơn khi chúng ta làm thế. tinh hay ma cà rồng nào đáng để ta mạo hiểm như vậy.” Sinh vật duy nhất thế giới này khiến dì Sarah coi trọng là thù thủy. Con người gây cho dì ấn tượng là những sinh vật bé bất hạnh đui mù trước thế giới xung quanh. Ma cà rồng ở vị trí thấp hơn cả loài mèo và ít nhất còn kém loải người ngu si bậc trong nấc thang tiến hóa của riêng dì.

      “Con nghe dì về các luật lệ này rồi, dì Sarah.”

      phải ai cũng tuân theo các nguyên tắc đó cưng à,” Em nhận xét. “ ta muốn gì?”

      ta ta rất thích các công trình của con. Nhưng ta là nhà khoa học, nên điều đó khó mà tin được.” Các ngón tay tôi vơ vẩn nghịch tấm chăn lông vịt giường. “ ta mời con ăn tối.”

      Ăn tối á?” dì Sarah kêu lên sửng sốt.

      Em chỉ phá lên cười. “Trong thực đơn nhà hàng có mấy món hấp dẫn được ma cà rồng đâu.”

      “Con chắc chắn gặp lại ta nữa đâu. Con thấy danh thiếp ta điều hành ba phòng thí nghiệm, và ta nắm giữ hai vị trí trong khoa.”

      “Khá đấy,” dì Sarah lầm bầm. “Thế con có nhiều thời gian như thế để làm gì? Và hãy thôi giật tấm chăn – con làm nó bị thủng đấy.” Dì bật cái radar phù thủy của mình lên ở mức tối đa và bây giờ dì quan sát đồng thời nghe tôi .

      “Có vẻ phải ta lấy trộm tiền từ quý bà già khom và phung phí tài sản của người khác sàn chứng khoán đâu,” tôi chống chế thêm. Những ma cà rồng được cho là giàu có cách thái quá luôn làm dì Sarah khó chịu. “ ta là nhà hóa sinh học và là bác sĩ trong vài lĩnh vực liên quan tới bộ não.”

      “Dì chắc chắn là điều đó lôi cuốn, Diana ạ, nhưng ta muốn gì chứ?” dì Sarah kết hợp tính cáu bẳn của tôi với thiếu kiên nhẫn – đặc tính có hai của tất cả phụ nữ nhà Bishop.

      phải bữa tối!” Em với vẻ chắc chắn.

      Dì Sarah khịt mũi tỏ vẻ sốt ruột. “ ta muốn thứ gì đó. Ma cà rồng và phù thủy hẹn hò. Trừ phi ta có kế hoạch dùng bữa tối chính con, tất nhiên là thế. có gì khiến chúng thích hơn là được nếm mùi vị máu phù thủy.”

      “Có thể ta chỉ tò mò thôi. Hay ta quả có thích tác phẩm của con ?!” Em câu đó cứ nghĩ là tôi phải phá lên cười.

      “Chúng ta phải trò chuyện thế này nếu con có đôi chút đề phòng sơ đẳng nhất,” dì Sarah chua chát . “ câu bùa chú phòng vệ, sử dụng các năng lực của con như thuật tiên tri chẳng hạn, và...”

      “Con dùng phép thuật hay thuật phù thủy để tìm hiểu vì sao ma cà rồng mời con ăn tối đâu,” tôi kiên quyết . “ thể thương lượng được đâu, dì Sarah.”

      “Thế đừng có gọi cho chúng ta để tìm câu trả lời khi mà con muốn nghe,” dì Sarah , cái tính khí nóng nảy có tiếng của dì bừng bừng lên. Dì gác máy trước khi tôi có thể nghĩ ra câu đáp lại.

      “Sarah lo lắng cho cháu, cháu biết mà,” Em tỏ vẻ xin lỗi. “Và ấy hiểu tại sao cháu lại sử dụng món quà trời ban này, ngay cả khi để bảo vệ chính bản thân mình.”

      Bởi vì món quà đó kèm theo nỗi đau khổ, tôi giải thích hàng trăm lần như thế. Tôi đành cố gắng lần nữa.

      “Nó là con dao hai lưỡi, Em ạ. Con tự bảo vệ mình khỏi ma cà rồng trong thư viện hôm nay, và ngày mai con bảo vệ mình trước những câu hỏi hóc búa trong buổi diễn thuyết. Nhanh thôi, con chọn đề tài nghiên cứu dựa hiểu biết về cách loài người chọn lựa và công nhận, con chắc chắn mình chiến thắng. Việc tự mình tạo dựng danh tiếng rất quan trọng đối với con. Nếu con dùng đến phép thuật, chẳng có gì thực là của con cả. Con muốn là phù thủy Bishop kế tiếp đâu.” Tôi toan kể với Em về Ashmole 782, nhưng có điều gì đó khiến tôi ngậm miệng lần nữa.

      “Ta biết, ta biết, bé cưng ạ.” Giọng Em dịu dàng. “Ta hiểu chứ. Nhưng Sarah thể dừng được việc lo lắng cho an toàn của con. Bây giờ con chính là toàn bộ gia đình của ấy đấy.”

      Những ngón tay tôi luồn qua tóc và dừng lại nơi thái dương. Những cuộc chuyện kiểu này lại quay về bố và mẹ tôi. Tôi đắn đo miễn cưỡng đề cập tới vấn đề tôi quan tâm nhất.

      “Sao thế con?” Em hỏi, giác quan thứ sáu của nắm bắt được nỗi lo lắng của tôi.

      ta biết tên con. Con chưa bao giờ gặp ta trước đây, nhưng ta biết con là ai.”

      Em cân nhắc các khả năng. “Tấm hình của con in bìa sau cuốn sách, đúng ?”

      Hơi thở của tôi vô thức giữ trong lòng ngực, bật ra cách nhõm. “Đúng rồi. Chắc hẳn là thế. Con đúng là ngớ ngẩn . có thể hôn dì Sarah hộ con ạ?”

      “Được chứ. Và Diana à! Hãy cẩn thận. Ma cà rồng có lẽ cư xử lịch thiệp với phù thủy như ma cà rồng Mỹ đâu.”

      Tôi mỉm cười nghĩ tới cái cúi đầu trang trọng của Matthew Clairmont. “Con cẩn thận ạ. Nhưng đừng lo, chắc con gặp lại ta đâu.”

      Em im lặng.

      Em?” tôi nhắc.

      “Thời gian trả lời.”

      Em giỏi tiên tri như mẹ tôi, nhưng có điều gì đó khó dò ở . Thuyết phục phù thủy chia sẻ điềm báo mơ hồ là điều gần như thể. ấy cho tôi biết điều ấy lo lắng về Matthew Clairmont. Vẫn chưa.

    5. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Chương 3


      Gã ma cà rồng náu mình dưới bóng cây cầu cong cong bắc ngang hẻm New College nối liền hai khu nhà của trường Hertford, tựa lưng vào phiến đá mòn nhẵn của tòa nhà mới xây dựng, hai bàn tay đặt mái cầu.

      Nàng phù thủy xuất , di chuyển nhanh đến ngạc nhiên ngang qua lối bộ lát đá gồ ghề bên ngoài Bodleian. ngang qua ngay bên dưới chỗ ngồi, guồng chân mỗi lúc nhanh hơn. Vẻ bồn chồn khiến trông trẻ hơn tuổi và càng làm nổi bật thêm yếu đuối nơi .

      Vậy đó là sử gia “chính hiệu” đấy, mỉa mai nghĩ, tâm trí điểm lướt qua tiểu sử đời . Thậm chí ngay cả khi nhìn thấy tấm hình của rồi, Matthew vẫn đinh ninh Diana phải già hơn cơ, căn cứ vào những thành công trong chuyên ngành mà đạt được.

      Lưng Diana Bishop thẳng, hai bờ vai ngay ngắn bất chấp diện mạo hoang mang bối rối lúc này. Có lẽ dễ hăm dọa như tưởng. Thái độ của trong thư viện cho thấy khá nhiều điều. đón nhận ánh mắt có lấy dấu hiệu sợ hãi nào, nỗi sợ mà Matthew quen nhận được từ những kẻ phải là ma cà rồng, cũng như nhiều kẻ là ma cà rồng khác.

      Khi Diana ngoặt ở góc quanh, Matthew trườn người dọc theo đường mái cho tới khi đến bức tường của New College. lặng lẽ trượt xuống mép tường. Gã ma cà rồng này biết cách bố trí của ngôi trường và đoán trước được nơi đến. vừa kịp chui vào ô cửa sổ đối diện với cầu thang dẫn lên phòng Diana bắt đầu trèo lên.

      Ánh mắt Matthew bám riết lấy Diana khi vòng quanh căn hộ của mình từ phòng này sang phòng khác, bật tất cả đèn lên. mở cửa sổ bếp, để ngỏ đó rồi bỏ .

      Thế càng đỡ cho mình khỏi phải đập vỡ kính cửa sổ hoặc phá khóa, nghĩ.

      Matthew phóng người qua khoảng giữa hai khu và bám vào tòa nhà Diana ở, bàn chân và hai tay tìm được chỗ bám chắc chắn trong lớp vữa trát tường cũ kỹ, được trợ giúp thêm bởi máng thoát nước bằng đồng và vài cây leo thân chắc khỏe. Từ cao điểm quan sát mới đầy ưu thế này, có thể bắt được mùi hương đặc biệt của phù thủy và tiếng sột soạt lật giở các trang sách. rướn cổ nhòm vào cửa sổ.

      Bishop đọc sách. Trong vẻ thư thái, khuôn mặt trông khác hẳn, thầm nghĩ. Trông như thể làn da của vừa in với phần xương nằm ngay bên dưới nó. Mái đầu khẽ đung dưa chầm chậm và rồi trượt người ngả sâu vào đống nệm ghế cùng với tiếng thở dài mệt lả. Chẳng mấy chốc tiếng thở đều đặn báo cho Matthew biết ngủ rồi.

      đu người từ tường, đá chân lên và vào qua cửa sổ bếp. rất lâu rồi kể từ lần cuối cùng gã ma cà rồng này trèo vào phòng của phụ nữ. Mặc dù những dịp như thế là rất hiếm và thường là có dính líu đến những thời điểm chìm đắm trong cơn đê mê cuồng dại nào đó. Lần này là lý do hoàn toàn khác. Dù sao nữa, nếu có ai bắt gặp có trời mới biết phải giải thích như thế nào.

      Matthew phải biết liệu Ashmole 782 có còn nằm trong tay Bishop hay . thể tới gần bàn của trong thư viện, nhưng chỉ nhìn lướt qua là biết nó nằm trong đống bản thảo mượn hôm nay. Mặc dù vậy, bao giờ có chuyện phù thủy – người nhà Bishop – lại để cuốn cổ thư ấy lọt khỏi tay mình. Chân bước êm ru, vòng qua các căn phòng bé . Cuốn cổ thư có trong phòng tắm hay trong phòng ngủ của nàng phù thủy. rón rén qua chiếc tràng kỉ nơi nằm.

      Mí mắt nàng phù thủy hấp háy như thể xem bộ phim mà chỉ có mình nhìn thấy được trong mơ. bàn tay co lại thành nắm đấm, và mỗi lúc hai chân lại xoay chuyển co duỗi. Dù vậy, nét mặt Bishop thanh thản, và hề bị xáo trộn bởi bất cứ điều gì diễn ra phần còn lại của cơ thể.

      Có điều gì đó ổn. linh cảm thấy nó ngay từ khoảnh khắc đầu tiên trông thấy Diana trong thư viện. Matthew khoanh tay và ngắm nhìn , nhưng vẫn thể đoán ra được đó là gì. phù thủy này có những mùi hương thường thấy như kỳ nham, lưu huỳnh và ngải đắng. nàng che dấu điều gì đó, gã ma cà rồng nghĩ thầm, điều gì đó còn hơn cả cuốn cổ thư bị mất kia.

      Matthew quay người , lục tìm chiếc bàn dài mà dùng như là bàn làm việc. dễ dàng nhận ra vì nó bị bày bừa toàn sách và giấy tờ bên . Đó là chỗ khả dĩ nhất cho nàng để cuốn cổ thư “lậu” kia. Khi bắt đầu bước về chiếc bàn, bỗng ngửi thấy mùi điện quang và cảm giác ớn lạnh.

      Ánh sáng đó phát ra từ người Diana Bishop – xung quanh hình hài người con đó, ánh sáng như thoát ra qua các lỗ chân lông. Đó là quầng ánh sáng màu xanh nhạt, gần như là trắng mờ, ban đầu nó giống như tấm vải liệm bằng mây bao quanh người tới mấy giây liền. Trong thoáng chốc, Diana như tỏa sáng lung linh. Matthew lắc đầu mạnh tin vào những gì thấy. thể nào. hàng thế kỉ nay còn trông thấy ánh dạ quang tỏa ra từ người phù thủy nữa.

      Nhưng dù sao vẫn có những vấn đề cấp bách hơn vẫy gọi . Matthew trở lại với việc săn lùng cuốn cổ thư, khẩn trương rà soát khắp đống đồ bàn làm việc của . luồn tay vuốt tóc trong tâm trạng chán chường thất vọng. Mùi hương của nàng phù thủy ở khắp mọi nơi, khiến bị phân tâm. Matthew lại đưa mắt nhìn về phía chiếc trường kỉ. Diana cựa mình và xoay người lần nữa, hai đầu gối từ từ co sát vào lồng ngực. lần nữa, ánh dạ quang xao động khắp bề mặt cơ thể , tỏa ánh lung linh trong chốc lát rồi lịm dần.

      Matthew cau mày, bối rối hiểu trái ngược giữa những gì nghe lỏm được vào đêm trước và điều được tận mắt chứng kiến lúc này. Hai phù thủy bàn tán về cuốn Ashmole 782 phù thủy cầu mượn nó. người rằng nữ sử gia người Mỹ này hề sử dụng năng lực pháp thuật. Nhưng Matthew trông thấy năng lực ấy được dùng trong thư viện Bodleian – và giờ đây lại chứng kiến nó thấm đẫm, chảy tràn qua người ta với cường độ mãnh liệt thể chối cãi. ngờ rằng cũng dùng phép thuật trong nghiên cứu học thuật. Nhiều nhân vật ta từng viết sách từng là bạn của – Cornelius Drebble, Andreas Libavius, Issac Newton. nắm bắt được hoàn hảo các thói quen và những nỗi ám ảnh của chính họ. dùng pháp thuật làm sao người phụ nữ đại có thể hiểu được những người đàn ông sống từ thời đại rất xa xưa như thế? Bất giác, Matthew tự hỏi liệu nàng Bishop có thể hiểu với cùng chính xác phi thường như vậy .

      Đồng hồ điểm ba giờ làm giật mình. Cổ họng khát khô. nhận ra mình đứng nguyên ở đó mấy tiếng đồng hồ, bất động quan sát phù thủy say giấc trong khi sức mạnh của ta dâng trào lên như những đợt sóng. Trong giây lát nghĩ đến việc dập tắt cơn khát của mình bằng máu nữ phù thủy này. Mùi vị của máu có thể tiết lộ cho biết vị trí của cuốn cổ thư mất tích kia và chỉ ra những bí mật mà nàng phù thủy này cất giữ. Nhưng tự kiềm chế. Chỉ vì mong muốn tìm ra cuốn Ashmole 782 mới khiến nấn ná lại với nàng Diana Bishop bí này thôi.

      Nếu cuốn cổ thư có trong nhà nữ phù thủy này, vậy nó vẫn còn trong thư viện.

      lộn trở vào phòng bếp, luồn qua cửa sổ và tan biến vào bóng đêm.





      Chương 4





      Bốn tiếng đồng hồ sau tôi thức dậy tấm chăn lông vịt, tay nắm chặt máy điện thoại. hiểu bằng cách nào mà tôi đá văng chiếc dép lê bên phải, để bàn chân buông thõng vắt qua thành giường. Tôi nhìn đồng hồ và rên rỉ. còn thời gian cho chuyến dạo chơi ra bờ sông như thường lệ, hay thậm chí là chuyến chạy bộ nữa.

      Cắt bớt thủ tục vệ sinh buổi sáng, tôi tắm nhanh và uống tách cà phê nóng bỏng trong khi sấy vội mái tóc. Bất chấp trợ giúp của chiếc lược, nó vẫn cứ là mái tóc vàng hoe như rơm và xù tung lên. Như hầu hết các phù thủy, tôi cũng gặp rắc rối với việc làm cho những sợi tóc dài ngang vai giữ nguyên theo nếp. Dì Sarah đổ lỗi đó là tại tôi kiềm hãm sức mạnh phép thuật, và dì hứa hẹn rằng nếu tôi thường xuyên sử dụng sức mạnh của mình có thể ngăn chặn tượng tĩnh điện làm tóc bị dựng lên và khiến mái tóc tôi biết vâng lời hơn.

      Sau khi đánh răng, tôi xỏ vào cái quần jean, áo dài tay trắng tinh và áo vest màu đen. lộ trình sinh hoạt quen thuộc và đây là thói quen ăn vận của tôi, nhưng tất cả đều chứng tỏ hôm nay là ngày dễ chịu. Bộ đồ của tôi có vẻ tù túng và tôi cảm thấy mấy tự tin khi mặc chúng. Tôi xốc lại cái áo vest để xem nó có vừa vặn hơn chút nào , nhưng đó có vẻ là kỳ vọng thái quá đối với bộ đồ may vụng.

      Khi nhìn vào trong gương, khuôn mặt mẹ tôi chăm chú nhìn đáp lại. Tôi còn nhớ từ khi nào giống nhau mạnh mẽ giữa tôi và mẹ phát triển đến mức này. Có lẽ là từ thời đại học chăng? ai bình luận về điều đó cho tới khi tôi trở về nhà vào dịp lễ Tạ ơn trong năm thứ nhất đại học. Từ lúc đó trở nó trở thành điều đầu tiên tôi nghe thấy mỗi khi gặp những ai quen biết mẹ Rebecca Bishop.

      Việc ngắm nghía mình trong gương hôm nay còn làm lộ ra làn da tai tái của tôi do thiếu ngủ. Nó khiến cho những nốt tàn nhang được thừa hưởng từ bố tôi nổi lên cách đáng báo động, và hai quầng thâm dưới mắt khiến đôi mắt tôi có vẻ nhạt màu hơn. mệt mỏi cũng làm cho mũi tôi như dài thêm ra và khiến chiếc cằm nhô ra thấy .

      Tôi nghĩ đến giáo sư Clairmont đẹp chút tỳ vết và tự hỏi biết ngài ấy trông ra sao vào buổi sáng sớm nhỉ. Có lẽ cũng là cái vẻ nguyên sơ như tối hôm qua thôi; tôi nghĩ vậy - quái thú. Tôi nhăn nhó trước hình ảnh mình phản chiếu trong gương.

      đường ra cửa, tôi dừng lại và nhìn bao quát quanh phòng. Có cái gì đó khiến tôi thấy bứt rứt - cuộc hẹn bị quên, hay thời hạn nào chăng. Có thứ gì đó quan trọng mà tôi quên khuấy mất. Cảm giác khó chịu thôi thúc trong lòng, rồi qua . Sau khi kiểm tra lại cuốn sổ tay và đống thư từ bàn làm việc; tôi ghi chép vào sổ trong khi cảm thấy đói meo, rồi xuống lầu. Các quý bà tốt bụng trong phòng bếp mời tôi lát bánh mỳ nướng khi tôi ngang qua. Họ vẫn nhớ tôi là sinh viên tốt nghiệp và luôn cố nài ép mời tôi món trứng sữa cùng lát táo mỗi khi trông tôi có vẻ căng thẳng mệt mỏi thế này

      Vừa nhóp nhép nhai lát bánh mỳ nướng vừa rảo bước qua con đường rải sỏi của hẻm New College cũng đủ thuyết phục tôi tin rằng đêm qua chỉ là giấc mơ. Mái tóc đung đưa cổ áo, hơi thở của tôi tắm trong bầu khí khô lạnh. Oxford vẫn tinh khôi như thế vào buổi sớm, với những chiếc xe tải giao hàng đỗ kín trước khu bếp của trường, mùi cà phê bị cháy và mùi hè đường ẩm ướt, những tia nắng mặt trời buổi sớm xuyên qua màn sương mù. Đây dường như thể là nơi náu dành cho những con ma cà rồng.

      Người nhân viên trong chiếc áo vest màu xanh dương của Bodleian tiến hành thủ tục thường lệ soi xét kỹ càng tấm thẻ đọc của tôi như thể ông ta chưa bao giờ gặp tôi trước đây, và nghi ngờ tôi có thể là tay trộm sách lão luyện. Cuối cùng ông ta cũng vẫy tay cho tôi qua. Tôi đặt túi xách vào ngăn để đồ cạnh cửa sau khi lấy ra ví tiền, máy vi tính, mấy tờ giấy ghi chép và rồi hướng tới những bậc cầu thang xoắn dẫn lên tầng ba.

      Mùi thư viện luôn luôn làm tôi khỏe khoắn trở lại - đó là kết hợp đặc trưng của mùi đá cũ, mùi bụi, mùi mọt khoét gỗ và giấy vụn. Mặt trời chiếu xuyên qua những ô cửa sổ lên các bậc cầu thang, rọi sáng những hạt bụi bay trong khí và chiếu sáng các khe chấn song thu ánh sáng những bức tường cổ kính, ở đó ánh mặt trời chiếu vào làm nổi bật lên những tờ thông báo quăn queo về hàng loạt các bài giảng của học kỳ vừa qua. Những bản báo cáo mới vẫn chưa được dán lên, nhưng đó chỉ là vấn đề thời gian, khi chỉ còn vài ngày nữa là hàng loạt các cánh cổng trường mở ra và cơn sóng sinh viên sắp tốt nghiệp ào ạt đổ tới phá vỡ yên bình của thành phố này.

      Ậm ừ khe khẽ, tôi gật đầu với mấy bức tượng bán thân của Thomas Bodley và Vua Charles đệ nhất đặt bên hông lối vào hình vòm dẫn tới khu Công tước Humfrey và đẩy cánh cửa đung đưa cạnh bàn gọi sách.

      “Chúng ta phải sắp xếp cho ông ấy ở trong khu Selden End ngày hôm nay,” viên quản lý với vẻ cáu giận.

      Thư viện mở cửa được vài phút, nhưng ông Johnson và các nhân viên vẫn còn xôn xao. Tôi từng gặp thái độ này rồi, nhưng chỉ khi nào hầu hết các tác phẩm của những học giả hàng đầu đều bị cầu mượn thôi.

      “Ông ấy vừa mới đưa ra các cầu và chờ ở dưới kia.” nữ nhân viên lạ hoắc quắc mắt với tôi và đổi tay chồng sách ôm trước ngực. “Đây cũng của ông ấy nữa. Ông ấy nhờ họ gửi lên từ dưới phòng đọc sách mới của Bodleian.”

      Đó là nơi họ cất giữ các cuốn sách của vùng Đông Á. Nó phải lĩnh vực của tôi và tôi nhanh chóng mất hứng thú.

      “Mang chúng đến cho ông ấy bây giờ , và bảo với ông ấy là chúng ta mang các tập cổ thư xuống trong vòng giờ nữa.” Viên quản lý kêu ca luôn mồm trong khi trở lại văn phòng của mình.

      Sean đảo mắt ngao ngán khi tôi tiến đến chỗ bàn thu gom sách. “Chào Diana. Cậu có muốn lấy mấy tập cổ thư mà cậu gửi đặt trước ?”

      “Có, cảm ơn cậu,” tôi thầm, nghĩ đến chồng sách đợi mình với niềm say mề thích thú. “ ngày hoành tráng hả?”

      “Có vẻ là thế,” bạn đáp cộc lốc, trước khi biến vào trong chỗ buồng khóa giữ các tập cổ thư qua đêm. ta quay lại với chồng báu vật. “Của cậu đây. Số chỗ ngồi?”

      “A4.” Đó là chỗ tôi thường ngồi, trong góc xa phía đông nam của khu Selden End, nơi ánh sáng tự nhiên nhiều nhất.

      Ông Johnson hối hả bước về phía tôi. “A, tiến sĩ Bishop, chúng tôi xếp cho giáo sư Clairmont vào chỗ A3. có lẽ thích ngồi A1 hoặc A6 hơn đấy.” Ông ta đảo hết chân này tới chân kia vẻ bồn chồn và đẩy cặp kính lên, chớp mắt nhìn tôi qua cái mắt kính dày cộp.

      Tôi nhìn ông ta chằm chằm. “Giáo sư Clairmont á?”

      “Vâng. Ông ấy làm việc với tập bản thảo của Needham và cầu có đủ ánh sáng với gian để rải rộng các giấy tờ ra.”

      “Joseph Needham, sử gia về khoa học Trung Hoa ư?” Đâu đó chỗ các dây thần kinh vùng bụng, máu trong người tôi bắt đầu sôi lên.

      “Phải. Ông ấy cũng là nhà hóa sinh, dĩ nhiên là thế, vì vậy mà giáo sư Clairmont rất quan tâm,” ông Johnson giải thích, lúc này trông ông ta còn bối rối hơn. “ vui lòng ngồi ở A1 nhé?”

      “Tôi dùng khu A6.” Ý nghĩ ngồi bên cạnh con ma cà rồng, cho dù là có chỗ ngồi trống ngăn cách ở giữa nữa, cũng vẫn vô cùng đáng ngại. Tuy nhiên, ngồi ở chỗ đối diện trong khu A4 thể tưởng tượng được. Làm sao tôi có thể tập trung được khi cứ phải lo lắng biết những ánh mắt lạ quan sát cái gì? Còn có những bàn đọc ở phía cánh thư viện được xây từ thời Trung cổ, chỗ đó dễ chịu hơn nhiều, thay vì chỗ ngồi cũ, tôi có thể an vị dưới trong những miệng máng hình đầu thú theo kiểu Gothic dùng để canh giữ các ô cửa sổ hẹp và bất chấp phản đối cứng nhắc của Gillian Chamberlain.

      “Ôi, thế tốt quá. Cảm ơn thông cảm.” Ông Johnson thở phào nhõm.

      Khi bước vào vùng ánh sáng của Selden End, hai mắt tôi phải nheo lại. Clairmont trông chê vào đâu được và có vẻ thư thái, làn da tai tái của ta trái ngược đến ngạc nhiên với với mái tóc màu đen sẫm. Lần này chiếc áo len dài tay hở cổ màu xám của có chấm màu xanh lá cây, và cổ áo hơi bẻ dựng về phía sau. Liếc trộm xuống dưới gầm bàn, tôi thấy lộ ra chiếc quần âu màu chì, tiệp màu với tất và đôi giày màu đen mà chắc hẳn là còn đắt hơn cả tủ quần áo của viện sĩ bình thường.

      Cảm giác bất an quay trở lại. Clairmont làm gì trong thư viện này? Sao ở trong phòng nghiên cứu của mình?

      Chẳng thèm cố gắng giảm bớt tiếng bước chân, tôi sải bước về phía gã ma cà rồng. Clairmont ngồi chếch về phía đầu kia góc trong cùng của khu bàn và dường như hay biết tôi đến gần, vẫn tiếp tục đọc. Tôi ném phịch cái cặp nhựa và tập cổ thư lên khoảng trống đánh số A5, đánh dấu ranh giới để khoanh vùng cho lãnh thổ của mình.

      ngước nhìn lên, cặp lông mày nhướng cong thành vòng cung rệt ra vẻ ngạc nhiên. “Tiến sĩ Bishop. Chúc buổi sáng tốt lành.”

      “Giáo sư Clairmont.” Hiển nhiên tôi biết ta nghe lỏm toàn bộ cuộc trò chuyện về ở chỗ lối vào phòng đọc, có thính giác của con dơi mà. Tôi tránh ánh nhìn của và bắt đầu lôi ra các vật dụng cá nhân của mình, dựng lên cái công chiếc bàn đọc ngăn giữa tôi và . Clairmont quan sát cho tới khi tôi lôi hết các thiết bị máy móc ra, rồi hạ thấp cặp lông mày xuống vẻ tập trung và trở lại với việc đọc sách của mình.

      Tôi lấy ra dây sạc máy tính và biến mất xuống dưới gầm bàn để cắm nó vào ổ điện. Khi tôi ngồi ngay ngắn lại, vẫn đọc nhưng đồng thời cũng cố nén nụ cười.

      “Nếu ngồi ở tít dãy phía bắc kia thấy thoải mái hơn đấy,” tôi khẽ lầm bầm, ngó quanh tìm danh sách các tập cổ thư.

      Clairmont ngẩng lên nhìn, đôi đồng tử giãn ra khiến cho mắt bỗng tối sẫm lại. “Tôi làm phiền ư, tiến sĩ Bishop?”

      “Dĩ nhiên là rồi,” tôi vội vàng đáp, cổ họng đột nhiên se lại, mùi đinh hương rệt kèm với những lời , “nhưng tôi ngạc nhiên là thấy thoải mái khi phơi mình ở chỗ hướng nam ấy.”

      tin vào mọi điều đọc được chứ, phải ?” trong hai chân mày rậm, đen nhánh của lại rướn lên thành hình dấu hỏi.

      “Nếu hỏi là liệu tôi có nghĩ sắp sửa bốc cháy ngay khi ánh mặt trời chạm vào hay , câu trả lời là .” Ma cà rồng bị bốc cháy khi gặp ánh mặt trời, cũng như họ chẳng hề có răng nanh. Đó là các câu chuyện thần thoại của loài người. “Nhưng tôi cũng chưa từng gặp... ai đó giống thích thích phơi nắng dưới sức nóng như thế.”

      Clairmont vẫn ngồi nguyên như thế, nhưng tôi có thể thề là cố kìm nén trận cười. “ có được bao nhiêu kinh nghiệm, hả tiến sĩ Bishop, về ‘ai đó giống tôi’ ấy?”

      Làm sao mà biết được tôi có nhiều kinh nghiệm với ma cà rồng? Ma cà rồng có những giác quan và năng lực vượt trội khác thường, nhưng phải là dị thường kiểu như đọc ý nghĩ hay nhìn thấy trước tương lai. Những năng lực đó là của giới phù thủy, và trong những trường hợp hiếm hoi, đôi khi cũng có thể bất ngờ xuất trong giới tinh nữa. Đây là cầu của tự nhiên thôi, và Sarah cũng giải thích như thế khi tôi còn , đêm nào cũng trằn trọc vì sợ con ma cà rồng đến ăn cắp các ý nghĩ của mình rồi mang chúng bay mất qua cửa sổ.

      Tôi quan sát cách tỉ mỉ. “Cách nào đấy, giáo sư Clairmont ạ, tôi nghĩ những kinh nghiệm có thể cho tôi về điều tôi cần biết ngay lúc này.”

      “Tôi rất vui được trả lời câu hỏi của , nếu tôi có thể,” đáp, gấp quyển sách của mình lại và đặt nó lên bàn. chờ đợi với kiên nhẫn của thầy giáo lắng nghe học sinh hiếu thắng và mấy sáng dạ.

      " muốn gì?”

      Clairmont ngả lưng ghế, khoanh tay lại. “Tôi muốn khảo cứu bản thảo của tiến sĩ Needham và nghiên cứu hệ tư tưởng của ông ấy về tiến hóa hình dạng.”

      tiến hóa hình dạng?”

      “Những biến đổi trong thời kỳ đầu của phát triển tế bào dẫn đến kết quả là khác biệt hóa.”

      “Tôi biết tiến hóa hình dạng là gì, thưa giáo sư Clairmont. Đó phải là điều tôi hỏi!”

      Miệng giần giật. Tôi khoanh tay thủ thế trước ngực.

      "Tôi hiểu." đan các ngón tay dài với nhau, đặt hai khuỷu tay lên thành ghế. "Tôi vào thư viện của Bodley tối qua để mượn vài tập bản thảo cổ. Lúc vào thư viện rồi, tôi quyết định liếc qua vòng - tôi thích tìm hiểu về môi trường sống của mình, hiểu tôi chứ, và tôi thường xuyên dành thời gian vào đây. Lúc đó, ở trong phòng sách. Và dĩ nhiên điều tôi được chứng kiến sau đó khá là bất ngờ.” Môi lại giật giật lần nữa.

      Tôi bị xáo động trước ký ức mình sử dụng phép thuật chỉ để lấy cuốn sách. Và tôi cố gắng bị khuất phục trước cái cách dùng tên gọi cổ “thư viện của Bodley” nhưng vẫn mấy thành công.

      Cẩn thận, Diana, tôi cảnh giác. cố gắng quyến rũ mày đấy.

      “Vậy theo câu chuyện của đây chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên kỳ lạ, đỉnh điểm của nó là việc ma cà rồng và phù thủy ngồi đối diện nhau và nghiên cứu về các bản thảo cổ giống như hai độc giả bình thường ư?”

      “Tôi nghĩ có bất cứ người nào dành thời gian thẩm vấn tôi cách cẩn thận thế này mà lại nghĩ tôi là người bình thường đâu, phải thế ?” Giọng trầm trầm của Clairmont lắng xuống thành tiếng thầm chế nhạo, và nghiêng người về phía trước. Làn da tái nhợt bắt sáng dường như sáng bừng lên. “Nhưng mặt khác đúng vậy. Đó chỉ là chuỗi những tình cờ, được giải thích dễ dàng.”

      “Tôi tưởng các nhà khoa học còn tin vào tình cờ ngẫu nhiên nữa chứ.”

      khẽ cười. " vài nhà khoa học phải tin thôi.”

      Clairmont vẫn tiếp tục nhìn tôi chăm chú, làm tôi mất nhuệ khí đến tột cùng. nhân viên vần chiếc xe đẩy cổ xưa bằng gỗ của phòng đọc tới bên gã ma cà rồng, những hộp đựng sách cổ được sắp hàng gọn ghẽ các tầng giá của chiếc xe.

      Gã ma cà rồng từ tốn rời mắt khỏi khuôn mặt tôi. “Cảm ơn Valerie. Tôí đánh gíá cao trợ giúp của .”

      “Dĩ nhiên rồi, thưa giáo sư Clairmont,” Valerie đáp, nhìn ngây ngất mê mẩn và mặt ửng hồng. Gã ma cà rồng quyến rũ được ta chỉ bằng câu cảm ơn. Tôi khịt mũi khinh thường, “Nếu ông cần thêm bất cứ gì khác, xin cứ cho chúng tôi biết ạ!” ta rồi quay trở lại nơi náu của mình bén lối ra vào.

      Clairmont nhặt cáí hộp đầu tiên lên, tháo dây buộc bằng những ngón tay dài, rồi liếc nhanh sang phía tôi. “Tôi muốn cản trở công việc của nữa đâu.”

      Matthew Clairmont chiếm thế thượng phong rồi. Tôi có đủ kinh nghiệm làm việc với các đồng nghiệp cao niên để nhận ra các dấu hiệu đó và biết rằng bất cứ phản ứng nào đáp lại cũng chỉ làm cho tình huống tệ hơn mà thôi. Tôi mở máy tính của mình, nhấn mạnh vào nút khởi động với sức lực nhiều hơn mức cần thiết, và cầm lên cuốn cổ thư đầu tiên. Mở được cái hộp đựng ra, tôi đặt cuốn sách bọc da ấy lên cái giá đọc trước mặt mình.

      Hơn tiếng rưỡi đồng hồ sau, tôi đọc mấy trang đầu tiên ít nhất là ba mươi lần. Tôi cứ nhìn chằm chằm vào phần mở đầu cuốn sách và đọc mấy dòng giống như thơ đúng kiểu George Ripley hứa hẹn hé mở những bí mật về hòn đá phép của triết gia này. Những ngạc nhiên tiếp nối nhau trong cả buổi sáng đó, bài thơ này miêu tả cách tạo ra Sư tử Xanh, tạo ra Rồng Đen, và cách pha chế ra thứ máu kỳ diệu từ các nguyên liệu hóa học còn khó hiểu hơn mức bình thường.

      Ngược lại, Clairmont hoàn thành khối lượng công việc phi thường, bao quát các trang sách mềm mại bằng những nét gạch mau lẹ của chiếc bút chì máy hiệu Montblanc Meisterstuck. Hết lần này tới lần khác, mỗi khi lật giở trang giấy đánh xoạch cái là tôi lại thấy bực mình.

      Thỉnh thoảng ông Johnson lại lượn qua phòng để chắc chắn là ai làm hỏng, làm mờ các cuốn sách cổ. Gã ma cà rồng vẫn tiếp tục viết. Tôi trừng mắt nhìn cả hai người bọn họ.

      10:45, cảm giác ngứa râm ran quen thuộc lại xuất khi Gillian Chamberlain hối hả bước vào Selden End. ta nhìn chằm chằm vào tôi - kiểu gì ta cũng kể cho tôi về bữa tối lễ Mabon tuyệt vời mà ta dự. Thế rồi, ta trông thấy gã ma cà rồng và đánh rơi cả cái cặp nhựa đựng đầy bút chì và giấy tờ. ngước lên nhìn chớp mắt cho tới khi ta chạy vội trở lại cánh thư viện xây từ thời Trung eổ.

      Lúc 11:10, tôi cảm thấy sức ép của nụ hôn cổ mình. Đó là gã tính lộn xộn, nghiện cà phê trong thư viện nhạc. cứ quay tít cái headphone màu trắng quanh mấy ngón tay, rồi lại thả tuột nó quày mòng mòng trong trung. Gã tinh nhìn tôi, gật đầu với Matthew rồi ngồi xuống trước cái máy vi tính ở giữa phòng. biển báo được treo ngay trước màn hình máy: BỊ HỎNG. BÁO NHÂN VIÊN KỸ THUẬT. cứ ngồi đó đến mấy tiếng đồng hồ, ngó nghiêng qua vai rồi lúc lại nhìn lên trần nhà như thể cố nghĩ xem ở đâu và làm cách nào đến được chỗ đó.

      Tôi trở lại chú tâm vào George Ripley, ánh mắt Clairmont nhìn lạnh lẽo vào điểm đỉnh đầu tôi.

      11:40, cảm giác những mảnh băng lạnh lại vỡ òa ở vùng giữa hai xương bả vai tôi.

      Vậy là đủ bộ. Dì Sarah thường rằng cứ mười người chỉ có sinh vật kỳ lạ, nhưng trong khu Công tước Humfrey buổi sáng ngày hôm nay, các sinh vật kỳ lạ đó vượt quá cả số lượng loài người với tỷ lệ năm ăn . Tất cả bọn họ ở đâu ra thế nhỉ?

      Tôi đột ngột đứng phắt dậy và xoay ngoắt người lại, kinh hoàng trước ma cà rồng đầu trọc, có ánh mắt hiền hậu, tay ôm đầy những cuốn sách kinh từ thời Trung cổ, vừa đúng lúc ông ta hạ người xuống chiếc ghế trông quá so với thân hình mình. Bỗng ông ta thốt lên tiếng kêu đột ngột ngoài ý muốn. Trước cái nhìn của Clairmont, ông ta biến sắc hoàn toàn hơn cả mức tôi nghĩ, dù đó cũng là ma cà rồng. Vội vã cúi chào biểu lộ xin lỗi, ông ta lập tức chạy tới chỗ hốc tường đặt hệ thống điều chỉnh đèn.

      Qua buổi chiều, vài người và thêm ba sinh vật khác bước vào khu Selden End.

      Hai nữ ma cà rồng lạ mặt có vẻ là chị em lướt ngang qua chỗ Clairmont và dừng lại quanh mấy giá sách lịch sử địa phương dưới cửa sổ, oang oang về định cư thời đầu ở Bedfordshire và Dorset, rồi hí hoáy ghi chép ra cả mặt trước lẫn mặt sau độc tờ giấy. trong hai nàng thầm điều gì đó, và đầu Clairmont quay phắt sang nhanh đến nỗi nếu là cổ của sinh vật kém hơn hẳn gãy đánh rắc cái rồi. khẽ rít lên tiếng làm tôi dựng cả tóc gáy. Hai nàng trao đổi những cái nhìn và rời lặng lẽ như lúc xuất .

      Sinh vật thứ ba là người đàn ông luống tuổi đứng dưới ánh nắng chói chang và nhìn chằm chằm mê mẩn những khung cửa sổ lợp chì trước khi quay sang nhìn tôi. Ông ta ăn vận giống viện sĩ - áo vest bằng vải tuýp màu nâu với hai miếng da ở khuỷu tay, quần nhung kẻ tông màu xanh lá hơi thiếu hài hòa, và chiếc áo sơ mi cotton có hàng khuy cổ và những vết mực dây túi áo. Tôi sắp sửa bỏ qua ông ta làn da ngứa ran báo với tôi rằng ông ta là phù thủy. Dù gì ông ta vẫn là người lạ và tôi lại quay về chú tâm vào tập cổ thư của mình.

      Tuy nhiên, cảm giác có sức ép nhè lên phần sau đầu khiến tôi thể nào đọc tiếp được. Áp lực đó di chuyển lên hai bên tai, phát triển thành cường độ dữ dội như chiếc vòng kim ép quanh trán, bụng dạ tôi thắt lại trong trạng thái hoang mang. Việc này còn là lời chào hỏi thầm lặng nữa mà trở thành đe dọa. Tại sao phù thủy khác lại đe dọa tôi?

      Pháp sư đó thủng thẳng bước về phía bàn tôi với vẻ tự nhiên. Khi ông ta tiến tới, giọng thầm vang lên trong cái đầu nhoi nhói đau của tôi. Nó quá mờ nhạt để có thể nhận biết từng lời. Tôi dám chắc đó là do nam phù thủy kia, nhưng ông ta là quái nhân nào vậy?

      Hơi thở của tôi trở nên gấp gáp. Quỷ quái, hãy cút ra khỏi đâu tôi !!! Tôi kêu lên dữ dội trong câm lặng, đưa tay ôm lấy trán.

      Clairmont di chuyển quá nhanh. Tôi nhìn thấy ta vòng qua mấy cái bàn, nhưng trong tích tắc đứng đó bàn tay đặt lên lưng ghế của tôi còn tay kia đặt mặt bàn trước mặt tôi. Đôi vai rộng khom xuống bao quanh tôi giống như đôi cánh của con chim ưng che chở cho con mồi của nó.

      ổn cả chứ?” ta hỏi.

      “Tôi khỏe,” tôi đáp bằng giọng run run, bối rối cực độ hiểu tại sao ma cà rồng lại cần phải bảo vệ tôi trước phù thủy khác.

      Trong lô gác phía đầu chúng tôi, độc giả nghển cổ ra ngó xem tất cả om sòm này là gì. Bà ta đứng dậy, trán nhăn lại. Hai phù thủy và ma cà rồng thể khiến cho con người chú ý.

      “Cứ để mặc tôi. Loài người để ý chúng ta rồi đấy,” tôi qua hai hàm răng nghiến chặt.

      Clairmont đứng thẳng người lên nhưng vẫn quay về phía phù thủy kia, và thân hình của ta đứng nghiêng chắn giữa hai chúng tôi giống như thiên thần báo oán.

      “A, là lỗi của tôi,” nam phù thủy kia lầm bầm từ phía sau Clairmont. “Tôi nghĩ chỗ này còn trống. Xin thứ lỗi.” Những bước chân nhàng rút lui xa dần, và áp lực đầu tôi từ từ giảm .

      làn gió thoảng qua khi bàn tay lạnh toát của gã ma cà rồng đưa về phía vai tôi, nhưng chợt khựng lại rồi quay trở về sau lưng ghế. Clairmont cúi xuống. “ trông hơi xanh xao,” bằng giọng nhàng, trầm trầm. “ có muốn tôi đưa về nhà ?”

      .” Tôi lắc đầu, hy vọng về chỗ ngồi và để tôi lấy lại bình tĩnh. Trong lô gác bên , người phụ nữ tiếp tục nhìn chúng tôi bằng cặp mắt thận trọng.

      “Tiến sĩ Bishop, tôi cho rằng nên để tôi đưa về nhà.”

      !” Tôi xẵng giọng ngoài ý muốn, rồi hạ xuống thành tiếng thầm. “Tôi ra khỏi thư viện này - với , hay với bất cứ ai.”

      Khuôn mặt Clairmont vẫn gần sát, nhưng có phần bối rối. từ từ hít vào hơi, và lần nữa mùi đinh hương và quế lại thoảng qua. Có điều gì đấy trong mắt tôi thuyết phục tin là tôi nghiêm túc, và rút lui. Môi mím chặt thành đường thẳng gay gắt, quay lại chỗ ngồi của mình.

      Chúng tôi trải qua thời gian còn lại của buổi chiều trong tình trạng yên ắng. Tôi cố gắng đọc nhiều hơn đến trang thứ hai tập cổ thư của mình; còn Clairmont đọc lướt qua những mẩu giấy và những tập vở được ghi chép cách tỉ mỉ với chú tâm cao độ của vị quan toà dang quyết định bản án quan trọng.

      Đến ba giờ, trạng thái tinh thần bị kích động của tôi căng thẳng đến mức thể tập trung hơn được nữa. Thế là mất ngày.

      Tôi thu gom đồ dùng vương vãi của mình và trả tập bản thảo trở về hộp đựng.

      Clairmont ngẩng lên nhìn. “ về nhà hả, tiến sĩ Bishop?” Tông giọng hòa nhã, nhưng đôi mắt ánh lên tia lấp lánh.

      “Vâng,” tôi lúng búng đáp lại.

      Gương mặt gã ma cà rồng thận trọng biểu lộ điều gì.

      Mọi sinh vật phải con người có mặt trong thư viện đều nhìn theo bóng tôi ra - vị pháp sư đáng sợ nọ, Gillian, ông thầy tu ma cà rồng, và thậm chí cả gã tinh nữa. Nhân viên thư viện làm ca chiều ngồi ở bàn thu nhận sách là người lạ hoắc đối với tôi, bởi tôi chưa bao giờ rời khỏi đây vào giờ này trong ngày. Ông Johnson đẩy chiếc ghế ngồi ra đằng sau, nhìn thấy tôi, và liếc vào chiếc đồng hồ đeo tay của mình vẻ ngạc nhiên.

      Ra tới sân trong của thư viện, tôi mở cửa kính bước ra ngoài và đắm mình vào gian tươi mát. Mặc dù vậy, tôi cần nhiều thứ hơn là bầu khí trong lành này để có thể xoay chuyển ngày thế này.

      Mười lăm phút sau tôi mặc xong bộ đồ tập – quần bó dài co giãn, áo ba lỗ của câu lạc bộ đua thuyền New College, và chiếc áo len chui cổ lông cừu. Sau khi thắt dây đôi giày chơi tennis, tôi khởi động chạy bộ ra bờ sông.

      Khi tới nơi, những căng thẳng của tôi dịu ít nhiều. trong các bác sĩ gọi tượng dâng trào cảm giác lo lắng từng gây nhiều rắc rối cho tôi từ thời ấu thơ là “nhiễm độc adrenaline.” Các bác sĩ giải thích rằng vì số lý do nào đó mà họ thể lý giải được, cơ thể tôi dường như nghĩ là nó ở trong tình trạng nguy hiểm. trong các chuyên gia mà dì tôi đến gặp để xin tư vấn giải thích đó là tượng hóa sinh còn rơi rớt lại từ thời kỳ săn bắt hái lượm của loài người. thời gian dài tôi thấy ổn hơn khi tống táng dòng máu vận chuyển chất adrenaline bằng cách chạy bộ; giống như chú dê hoảng sợ chạy trốn khỏi con sư tử vậy.

      Nhưng may, tôi tới Serengeti với bố mẹ từ khi còn và tận mắt chứng kiến cảnh bị săn đuổi như thế. Chú dê biến mất. Và ký ức ấy mãi mãi in sâu trong tôi.

      Từ đó tôi thử dùng các loại thuốc và ngồi tĩnh tâm, nhưng có phương pháp nào kiềm giữ chứng hoảng sợ lo lắng tốt hơn là hoạt động thể chất. Ở Oxford người ta chèo thuyền vào mỗi buổi sáng trước khi những đội đua thuyền của trường đại học rẽ qua con sông hẹp để vào đường phố lớn. Nhưng giờ vẫn chưa vào năm học, và chiều nay dòng sông trong xanh.

      Bàn chân tôi dẫm lạo xạo con đường rải sỏi dẫn tới nhà thuyền. Tôi vẫy Pete, người cho thuê thuyền thơ thẩn xung quanh với cái cờ lê và bình dầu mỡ, cố gắng sửa chữa những chỗ mà các sinh viên chưa tốt nghiệp làm hỏng sau khóa huấn luyện. Tôi dừng lại ở chỗ nhà thuyền thứ bảy và khom người để làm dịu bớt cơn đau xóc bên hông trước khi tìm chiếc chìa khóa đỉnh chiếc đèn bên ngoài cửa ra vào.

      Những dãy thuyền màu trắng và vàng chào đón tôi phía bên trong. Ở đó có những chiếc thuyền lớn tám chỗ ngồi dành cho đội đua thuyền nam đầu tiên, những chiếc có độ dốc ít hơn dành cho nữ, và các thuyền khác có kích thước và chất lượng giảm dần. tấm biển treo mũi chiếc thuyền mới bóng loáng vẫn chưa được lắp ráp xong, chỉ dẫn khách tham quan rằng KHỒNG AI CÓ THỂ ĐƯA NỮ ĐẠI ÚY HẢI QUÂN PHÁP RA KHỎI NGÔI NHÀ NÀY MÀ CHO PHẾP CỦA CHỦ TỊCH HẢI QUÂN LIÊN MINH. Tên của chiếc thuyền được tô vẽ theo khuôn chữ khỏe khoắn tươi sáng ở bên hông theo nét chữ thời Victoria, với tôn kính dành cho những sinh viên tốt nghiệp của New College, những người sáng tạo ra loại ký tự này.

      Phía sau nhà thuyền, có tiếng nước dập dềnh táp vào mạn con thuyền rộng chưa tới ba mươi centimet và dài gần tám mét được neo nghỉ ở vị trí sẵn sàng. Chúa phù hộ cho Pete, tôi thầm nghĩ, ông ấy để sẵn chiếc thuyền đua sàn nhà thuyền. mẩu giấy nhớ đính chỗ ngồi của con thuyền ghi: "Kỳ luyện tập của trường vào thứ Hai tuần tới. Thuyền được trả về chỗ neo đậu.”

      Tôi đá văng đôi giày tennis, cầm lấy hai cái mái chèo cong từ chỗ cất giữ cạnh cửa ra vào và mang chúng xuống bên thuyền.

      Tôi nhàng thả chiếc thuyền đua xuống nước rồi đặt bàn chân lên chỗ ngồi để giữ cho nó khỏi chòng chành trong khi luồn hai mái chèo cong vào lỗ móc giữ chúng. tay cầm cả hai mái chèo như giữ đôi đũa quá khổ, tôi cẩn thận bước xuống thuyền còn tay kia đẩy vào cầu tàu. Con thuyền đua dập dềnh hướng ra dòng sông.

      Chèo thuyền là tín ngưỡng đối với tôi, bao gồm trình tự và vận động lặp lặp lại cho tới khi trở nên hoàn toàn tĩnh tâm. Các nghi thức đó bắt đầu ngay từ lúc tôi chạm tay vào con thuyền, nhưng ma thuật thực của nó lại đến từ kết hợp của độ chính xác, nhịp điệu đều đặn và sức mạnh mà việc chèo thuyền đòi hỏi phải có. Kể từ hồi còn là sinh viên, chèo thuyền làm thấm nhuần cảm giác thanh bình trong tôi giống với bất cứ điều gì khác.

      Hai mái chèo nhấn xuống và lướt lên là là mặt nước. Tôi tăng nhịp độ; dồn sức qua mỗi sải nhịp cùng với hai chân và cảm thấy dòng nước trong trẻo lướt qua mỗi khi mái chèo của tôi khỏa nước ra sau. Cơn gió sắc lạnh cắt xuyên qua quần áo tôi mặc theo mỗi nhịp chèo.

      Khi những cử động hòa tan vào nhịp điệu uyển chuyển liền mạch, tôi có cảm giác như mình bay lượn. Suốt những khoảnh khắc hạnh phúc này, tôi được lơ lửng giữa thời gian và gian, như cơ thể trọng lượng dòng sông chuyển động. Con thuyền của tôi mau lẹ phóng nhanh , và tôi đung đưa mình trong hợp hoàn hảo cùng với con thuyền và hai mái chèo của nó. Tôi nhắm mắt và mỉm cười, những kiện của ngày hôm này mờ nhạt dần .

      Bầu trời tối đen phía sau hai mi mắt nhắm nghiền của tôi, và thanh ồn ã của xe cộ phía kia cho tôi biết mình ngang qua dưới cây cầu Donnington. Xuyên qua phía bên kia cầu vào vùng ánh sáng mặt trời; tôi mở mắt - và cảm thấy va chạm lạnh ngắt xương ức mình đến từ cái nhìn chăm chú của ma cà rồng.

      dáng người đứng cây cầu, chiếc áo choàng ngoài của phần phật bay quanh hai đầu gối. Mặc dù thể nhìn mặt, nhưng chiều cao và vóc dáng to lớn của ma cà rồng đó cho thấy đấy chính là Matthew Clairmont. Lại là .

      Tôi chửi thề và suýt đánh rơi mái chèo. Cầu tàu trung tâm Oxford ở ngay gần bên cạnh. Ý nghĩ lôi kéo cả đội quân bất hợp pháp qua sông để tôi có thể đập cú thẳng vào phần đỉnh đầu đẹp đẽ của bằng bất cứ bộ phận nào của chiếc thuyền nằm trong tầm tay mình vô cùng cám dỗ. Trong khi còn toan tính kế hoạch của mình, tôi thoáng trông thấy phụ nữ dáng mảnh mai đứng cầu tàu mặc áo khoác bị dây toàn sơn màu. ta vừa hút thuốc vừa chuyện bằng điện thoại di động.

      Đây phải là hình ảnh hiếm thấy ở nhà thuyền Thành Phố của Oxford.

      ta ngẩng lên nhìn, cái nhìn của ta thúc vào da tôi. con tinh. Miệng ả xoắn lại thành nụ cười hung hiểm như sói và điều gì đấy vào máy điện thoại.

      Chuyện này quá kỳ lạ. Đầu tiên là Clairmont và giờ là đám các sinh vật khác người xuất bất cứ khi nào có mặt ư? Bỏ mặc kế hoạch của mình, tôi dồn hết khó chịu vào việc chèo thuyền.

      Tôi tìm cách xuôi xuống con sông, nhưng quang cảnh trời yên bể lặng bên ngoài bốc hơi đâu hết. Rẽ thuyền vào trước quán rượu Isis, tôi thoáng thấy Clairmont đứng cạnh chiếc bàn trong quán. Làm thế nào mà có thể từ cầu Donnington đến đó - bộ - còn nhanh hơn cả tôi chèo chiếc thuyền đua?

      Kéo mạnh cả hai mái chèo, tôi nâng chúng lên mặt nước khoảng sáu mươi phân như đôi cánh của con chim khổng lồ và lướt thẳng vào cái cầu tàu bằng gỗ ọp ẹp của quán rượu. Ngay lúc tôi vừa trèo ra khỏi thuyền, Clairmont băng qua bãi cỏ rộng chừng sáu mét nằm giữa hai chúng tôi. đẩy cái bục di động xuống nước cách nhàng, và con thuyền lắc lư vào đúng chỗ.

      nghĩ mình dang làm cái quái gì ở đây thế?” Tôi hỏi, bước dứt khoát lên và ngang qua những tấm ván lát sàn gồ ghề tới chỗ gã ma cà rồng đứng lúc này. Hơi thở của tôi rời rạc vì dụng sức nhiều, hai má đỏ phừng phừng. “Có phải và đám bạn của lén săn đuổi tôi ?”

      Clairmont cau mày. “Bọn chúng phải bạn của tôi, tiến sĩ Bishop ạ.”

      ư? Tôi chưa từng nhìn thấy có nhiều ma cà rồng, phù thủy và tinh tụ tập chỗ như thế kể từ hồi dì tôi dẫn tôi tới lễ hội mùa hè của dân ngoại đạo lúc tôi mười ba tuổi. Nếu bọn họ phải là bạn của , tại sao họ lại luôn luôn lảng vảng quanh hả?” Tôi quệt mu bàn tay qua trán vén đám tóc ướt ra khỏi mặt.

      “Chúa nhân từ,” gã ma cà rồng thầm vẻ tin. “Những lời đồn đại là .”

      “Lời đồn nào?” tôi hỏi xẵng mất hết kiên nhẫn.

      nghĩ những... cái thứ này muốn dành thời gian quấn quanh bên tôi ư?” Giọng Clairmont thấm đẫm vẻ khinh miệt và có điều gì đó nghe giống như ngạc nhiên. “ thể tin được!”

      Tôi vắt chiếc áo len lông cừu lên vai rồi kéo mạnh nó xuống. Ánh mắt Clairmont thoáng lướt qua chỗ xương quai xanh và hai cánh tay trần của tôi, rồi di chuyển xuống tới mấy ngón tay tôi. Tôi cảm thấy mình như trần trụi trong chính bộ đồ chèo thuyền quen thuộc của mình.

      “Phải,” tôi cáu kỉnh đáp. "Tôi sống ở Oxford này. Tôi trở lại đây hàng năm. Điều duy nhất khác biệt trong lần trở lại này chính là . Kể từ khi xuất vào tối qua, tôi bị đánh bật khỏi chỗ của mình trong thư viện, bị những ma cà rồng và tinh xa lạ nhìn chòng chọc, và bị những phù thủy quen biết đe dọa.”

      Hai cánh tay Clairmont từ từ đưa lên, như thể sắp sửa túm lấy hai vai tôi mà lắc mạnh. Mặc dù tôi lùn chút nào với chiều cao dưới mét bảy mươi, nhưng quá cao lớn đến nỗi cổ tôi phải ngửa hẳn ra để có thể nhìn vào mắt . Ý thức về sức mạnh và tầm vóc của có quan hệ tới mình ra sao, tôi lùi lại bước và khoanh tay trước ngực, thu hết can đảm để bọc thép cho các dây thần kinh của mình.

      "Bọn chúng quan tâm đến tôi; tiến sĩ Bishop ạ. Chúng quan tâm tới đấy.”

      “Tại sao? Họ có thể muốn gì ở tôi kia chứ?”

      biết tại sao mọi tinh, phù thủy và ma cà rồng ở vùng phía nam trung du nước bám theo ư?” Có dấu hiệu hoài nghi trong giọng của , và biểu cảm của gã ma cà rồng như thể nhìn thấy tôi lần đầu tiên.

      ,” tôi đáp, để mắt tới hai ngườỉ đàn ông thưởng thức panh[4] bia chiều của họ ở bàn gần đó. Tạ ơn trời, họ bị cuốn hút vào cuộc chuyện riêng của họ. “Tôi chẳng làm gì ở Oxford ngoài việc đọc những văn bản cổ, chèo thuyền sông, chuẩn bị cho buổi hội thảo và giữ mình cả. Chỉ có thế thôi, chẳng có lý do gì để bất kỳ ai trong bọn họ phải chú ý đến tôi kiểu như vậy cả.

      [4: Panh: đơn vị đo lường ở , bằng 0,58 lít.]

      “Hãy suy nghĩ , Diana.” Giọng Clairmont căng thẳng, cảm giác gì đó giống nỗi sợ hãi thoáng gợn qua làn da tôi khi gọi tên thân mật của tôi. “ đọc cái gì?”

      Mí mắt hạ thấp xuống đôi mắt lạ lùng của , ngay sau khi tôi nhìn thấy ở đó biểu của thèm khát.

      Các dì cảnh cáo tôi rằng Matthew Clairmont muốn điều gì đó. Họ đúng.

      lần nữa gắn chặt đôi mắt kỳ lạ màu xám viền đen vào mắt tôi. “Chúng bám theo bởi vì chúng tin tìm thấy thứ gì đó bị thất lạc từ nhiều năm trước,” vẻ bất đắc dĩ. “Chúng mong muốn thứ đó trở lại, và chúng nghĩ có thể lấy được nó cho chúng.”

      Tôi nghĩ về các cuốn cổ thư tham khảo trong suốt mấy ngày qua. Tim tôi chùng xuống. Chỉ có duy nhất cuốn có thể là ứng viên cho tất cả chú ý này.

      “Nếu họ phải là bạn của , vậy làm sao biết được họ muốn gì?”

      “Tôi nghe được những chuyện đó, tiến sĩ Bishop ạ. Tôi có thính giác rất tốt,” trả lời cách kiên nhẫn, trở lại với vẻ trang trọng cố hữu. “Tôi cũng khá là tinh mắt nữa. Trong buổi hòa nhạc tối Chủ nhật; hai phù thủy chuyện về người Mỹ - phù thủy đồng đạo - là người tìm thấy cuốn sách trong Thư viện của Bodley, cuốn sách đó từng bị lãng quên vì thất lạc. Kể từ đấy tôi để ý thấy có nhiều gương mặt mới xuất ở Oxford, và chúng khiến tôi thoải mái.”

      “Đó là lễ Mabon. Thế nên các phù thủy mới có mặt ở Oxford.” Tôi cố thử kết hợp với tông giọng nhẫn nại của ta, mặc dù trả lời câu hỏi cuối cùng của tôi.

      Clairmont lắc đầu cười vẻ nhạo báng. “, phải vì tiết thu phân. Mà là vì cuốn cổ thư.”

      biết gì về Ashmoie 782 chứ?” Tôi khẽ hỏi.

      “Ít hơn là biết,” Clairmont , hai mắt nheo lại thành hai khe hở. Nó khiến trông càng giống con quái thú to lớn có thể gây chết người hơn. “Tôi chưa từng nhìn thấy nó. có nó trong tay rồi. Giờ nó ở đâu hả tiến sĩ Bishop? chắc ngốc nghếch đến nỗi bỏ nó lại trong phòng mình chứ hả?”

      Tôi thất kinh. “ nghĩ là tôi ăn cắp nó sao? Từ Bodleian? Sao dám nghĩ như thế chứ!”

      giữ nó vào tối thứ Hai vừa rồi,” . "Và cũng bàn làm việc của ngày hôm nay.”

      " dò xét tôi!” Tôi đanh giọng . “Nếu có thể thấy tất cả từ chỗ ngồi của mình, hẳn cũng biết tôi trả lại nó hôm thứ Sáu.” Dần dần tôi hiểu ra rằng có thể lục soảt mọi thứ bàn làm việc của tôi. “Cuốn cổ thư ấy có gì đặc biệt đến nỗi phải xía mũi vào công việc của đồng nghiệp vậy hả?”

      hơi nhăn mặt, nhưng thắng lợi của tôi trước việc bắt lọn được làm điều gì đó chính đáng bị ăn mòn bởi cảm giác lo sợ nhức nhối rằng gã ma cà rồng này ràng bám theo tôi sát gót.

      “Đơn giản là tò mò thôi,” đáp, nhe răng cười. Dì Sarah lừa tôi - ma cà rồng có răng nanh .

      “Hy vọng mong tôi tin điều đó chứ.”

      “Tôi quan tâm tin vào cái gì, tiến sĩ Bishop ạ. Nhưng nên đề cao cảnh giác. Những sinh vật này nghiêm túc đấy. Và đến khi nào chúng biết phù thủy vô cùng khác thường nhỉ?” Clairmont lắc lắc đầu.

      “Ý là gì?” Tất cả máu rút sạch khỏi đầu khiến tôi choáng váng.

      “Những ngày này quả là bất thường đối với phù thủy có quá nhiều... tiềm năng.” Giọng Clairmont hạ thấp thành tiếng rừ rừ rung lên trong cuống họng. “ phải ai cũng có thể thấy nó - cho đến lúc này - nhưng tôi có thể. tỏa sáng lờ mờ khi tập trung. Khi tức giận nữa. Chắc chắn bọn tinh trong thư viện cảm thấy điều đó sớm thôi, nếu chúng chưa thấy.”

      “Tôi đánh giá cao cảnh báo này. Nhưng tôi cần giúp đỡ của .” Tôi chuẩn bị hiên ngang bỏ , nhưng bàn tay vọt ra nắm chặt lấy cánh tay tôi.

      “Đừng có chắc chắn quá thế. Hãy cẩn thận. Làm ơn.” Clairmont do dự, gương mặt giũ sạch những nét hoàn hảo vốn có trong cuộc vật lộn đấu tranh với điều gì đó. “Đặc biệt nếu gặp nam phù thủy ấy lần nữa.”

      Tôi cứng người nhìn chằm chằm vào bàn tay cánh tay mình. Clairmont thả tôi ra. Hai mí mắt hạ xuống, đóng khuôn lấy đôi mắt.

      Chuyến dạo bằng thuyền của tôi để quay lại nhà thuyền chậm rãi và bình ổn, nhưng những nhịp chèo thể xua nỗi lo lắng và bối rối còn vương lại trong tôi. Thỉnh thoảng, lại có vật mờ mờ màu xám con đường chạy dọc theo dòng sông, nhưng chẳng có gì khác thu hút chú ý của tôi ngoài những người đạp xe từ chỗ làm về nhà và con người rất bình thường dạo cùng chú chó của ta.

      Sau khi trả lại chiếc thuyền và khóa cửa nhà thuyền, tôi bắt đầu rảo bước xuống lối dọc bờ sông.

      Matthew Clairmont đứng phía bên kia sông trước nhà thuyền trường đại học.

      Tôi bắt đầu chạy, và khi tôi quay đầu nhìn lại, ta biến mất.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :