Mật mã Phù thủy 2B - Deborah Harkness [Kỳ ảo]

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Mật mã Phù thủy 2B [Kỳ ảo]
      [​IMG]

      Tên tiếng : A Discovery of Witches
      Tác giả: Deborah Harkness

      Bộ sách: Mật mã Phù thủy - All Souls (tập 28-)
      Thể loại: Best seller, Kỳ ảo, Lãng mạn, Tiểu thuyết, Văn học phương Tây

      Công ty phát hành: Alphabooks
      Nhà xuất bản: NXB Thời Đại
      Người dịch: Diệu Hằng
      Ngày xuất bản: 2/2014
      Số trang: 511
      Kích thước: 14 x 20.5 cm
      Giá bìa: 119.000đ
      Hình thức: Bìa mềm
      Nguồn eBook: Đào Tiểu Vũ's

      Giới thiệu:

      Deborah Harkness là Giáo sư khoa Lịch sử tại trường Đại học Nam California. Bà từng nhận học bổng của Fulbright, Guggenheim và Trung tâm Nhân loại Quốc gia. Công trình nghiên cứu gần đây nhất của bà là Ngôi nhà đá quý: London thời Elizabeth và cuộc Cách mạng khoa học.​

      “Harkness viết với thích thú đến nghẹt thở về thế giới phép thuật. Dù bà miêu tả những lớp tập yoga cho phù thủy, tinh và ma cà rồng, hay những đoạn Dianna đến thăm lâu đài của Matthew, tất cả đều hồi hộp và tinh tế đến khó tin... Khi những điều huyền bí bắt đầu được hé lộ, tôi bắt đầu lật trang sách nhanh hơn, như thể chúng tự động lật giở vậy. Đến lúc thiên truyện kết thúc hoàn toàn gây thỏa mãn, Harkness biến tôi thành tín đồ...”

      Mật mã phù thủy là cuốn tiểu thuyết đầu tay của Deborah nhưng gây tiếng vang rộng rãi và gây kinh ngạc cho các nhà phê bình. Đây là trong những cuốn sách được bàn tán và chờ đợi nhiều nhất tại Hội chợ sách Frankfurt 2009, bản quyền của nó được bán cho 36 quốc gia, và trong tuần phát hành đầu tiên đạt số lượng bán kỉ lục: hơn 300.000 bản...”

      [​IMG]
      Mật mã phù thủy là cuốn tiểu thuyết đầu tay của Deborah và là cuốn đầu tiên trong bộ ba All Souls. Đây là trong các cuốn sách được bàn tán và chờ đợi nhiều nhất tại Hội chợ sách Frankfurt 2009, bản quyền được bán cho 32 quốc gia ngay từ khi sách chưa được xuất bản. thiên tiểu thuyết vô cùng mê hoặc, Mật mã phù thủy cân bằng hài hòa giữa lịch sử và phép màu huyền bí, giữa lãng mạn và ly kỳ…​

      Mật mã phù thủy được bình chọn là trong những cuốn sách hay nhất của tháng 2 năm 2011 trang www.amazon.com


      11/ 2/ 2011, số bản in của cuốn sách lên tới 210.000 bản, và còn 100.000 bản được đặt hàng. Cuốn sách xếp thứ 6 trong danh mục best seller của tờ Sunday Times ở .

      18/2/2011, cuốn sách vươn lên xếp thứ 2 trong danh mục bestseller của New York Times.

      buổi chiều muộn tháng 9, Diana Bishop, nữ sử gia đồng thời là học giả hóa học trẻ tuổi và tài năng miệt mài nghiên cứu giữa đống cổ thư trong thư viện Bodleian, trường Oxford. Diana vô tình cầm bản thảo cổ xưa về thuật giả kim, cuốn sách Ashmole 782, lên xem. Ngay lập tức, nhận ra nó có sức mạnh bí vô cùng lôi cuốn và huyền bí. Thực tế, Diana còn là hậu duệ của dòng dõi phù thủy lâu đời và xuất chúng, song muốn thừa nhận và sử dụng năng lực siêu nhiên của mình – và bao nhiêu năm qua, cố gắng sống như bao bình thường khác. Chính vì thế, sau thoáng lướt qua cuốn Ashmole 782, Diana trả nó lại cho thư viện và lờ những linh tính phù thủy của mình.

      Tuy nhiên, Diana phải nhân vật duy nhất nhận ra trở lại của cuốn sách huyền bí, và những khám phá của sau đó ngay lập tức khuấy đảo cả thế giới ngầm. Ashmole 782 là kho báu vô giá thất lạc hàng thế kỷ và Diana là sinh vật đầu tiên cũng như duy nhất biết được thần chú mở ấn. Ngay lập tức, nhận ra mình cùng lúc bị ba loài sinh vật thần bí trái đất bao vây – tinh, phù thủy, và ma cà rồng – những kẻ ùn ùn kéo về Oxford hòng tìm kiếm cuốn cổ thư. Trong số đó, cảm nhận được mối liên hệ mạnh mẽ với Mathew Clairmont, nhà di truyền học điển trai, mạnh mẽ và cũng là ma cà rồng. Mathew là nhân vật có những thành tựu học thuật xuất chúng sau hàng trăm năm miệt mài nghiên cứu. Hai nhân vật thuộc về hai giống loài vốn cố mối thâm thù, nhưng sau những bữa tối bên ánh nến lung linh, những lớp học yoga với các bài tập siêu nhiên thần bí, và sau chuyến về ngôi nhà cổ kính của Matthew (mà thực ra là lâu đài) ở miền Nam nước Pháp, họ dần xích lại gần nhau…

      Khi những thử thách hai người phải đối đầu ngày nghiêm trọng, năng lực của Diana cũng ngày càng mạnh lên, cùng với Matthew phải sát cánh bên nhau để chiến đấu chống lại những thế lực thèm khát giải mã cuốn cổ thư với những trang sách hứa hẹn hé mở những bí mật động trời trong quá khứ cũng như tiết lộ những tiên đoán về tương lai đầy bí .​

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      22.

      Tập hợp được hai mươi sáu phù thủy mạnh nhất ở London hề đơn giản. Việc gặp hội đồng Rede diễn ra như tôi tưởng tượng – kiểu như trong phòng xử án, tôi đứng trước mặt dàn phù thủy hàng ngũ chỉnh tề. Thay vào đó, nó diễn ra suốt mấy ngày liền ở các cửa hiệu, quán rượu và phòng khách khắp thành phố. có những lời giới thiệu trang trọng, và có thời gian để lãng phí vào những tình tiết xã giao khác. Tôi gặp nhiều phù thủy xa lạ đến mức hình ảnh tất cả bọn họ nhanh chóng trở nên nhập nhèm lẫn lộn với nhau.

      Tuy thế, trải nghiệm lần này cũng ấn tượng. Lần đầu tiên tôi cảm nhận được sức mạnh khôn cùng của lửa phù thủy. Goody Alsop hề lừa tôi – cái nhìn chăm chú, mãnh liệt, cháy bỏng, hay đụng chạm của phù thủy có bộ tóc đỏ rực đem lại thứ cảm giác thể nhẫm lần được. Mặc dù lửa trong máu tôi bùng lên nhảy nhót khi ta ở gần, nhưng tôi ràng phải phù thủy lửa. Điều này được khẳng định khi tôi gặp thêm hai phù thủy lửa nữa trong căn phòng riêng ở Mitre, quán rượu tại khu Bishopgate.

      ấy thách thức đấy,” người nhận xét sau khi đọc xong tin tức từ làn da tôi.

      thợ dệt se sợi thời gian cùng với rất nhiều nước và lửa ở trong ấy,” người kia đồng ý. “ kết hợp mà tôi nghĩ mình gặp được trong cuộc đời này.”

      Các phù thủy của hội đồng Rede tụ họp tại nhà của Goody Alsop, nơi có gian rộng rãi hơn dáng vẻ khiêm nhường bên ngoài của nó. Hai hồn ma lảng vảng qua các phòng, giống như vong hồn của Goody Alsop làm. Bọn họ đón khách ở cửa và lướt lặng lẽ để đảm bảo mọi người đều được thoải mái.

      Các phù thủy gió bạo dạn hơn nhiều so với các phù thủy lửa. tiếp xúc của bọn họ nhàng và khô ráo cũng như khi họ lặng lẽ đánh giá sức mạnh và nhược điểm của tôi.

      cơn bão phù thủy đấy,” vị phù thủy có mái tóc bạch kim tầm năm mươi tuổi lẩm bẩm. Bà ta nhắn, yểu điệu và di chuyển bằng tốc độ chóng mặt, giống như với đám người còn lại.

      “Kiểm soát quá chặt,” người kia , mày cau lại. “ ấy cần để mọi vấn đề xảy ra tự nhiên, nếu , mỗi luồng khí ấy tạo nên có thể trở thành cơn bão bùng nổ dữ dội.”

      Goody Alsop đón nhận mọi lời bình phẩm của họ bằng những lời cảm ơn, nhưng khi tất cả bọn họ rời , bà lão dường như thấy nhõm hơn.

      “Giờ ta nghỉ ngơi, bé con,” bà lão yếu ớt , đứng lên rồi bước vào nhà trong. Vong hồn của bà bám theo sau như cái bóng.

      có người đàn ông nào trong hội đồng Rede ư, Goody Alsop?” Tôi hỏi, đỡ lấy khuỷu tay bà.

      “Chỉ còn lại có nhúm người đấy thôi. Tất cả các pháp sư trẻ đều đến trường đại học để nghiên cứu triết học tự nhiên rồi,” bà thở dài . “Đây là thời đại kỳ lạ, Diana ạ. Mọi người trong thời đại này đổ xô vào những thứ mới mẻ, và các phù thủy nghĩ sách vở dạy bọn họ tốt hơn kinh nghiệm. Ta phải để rời bây giờ. Hai tai ta ong lên rồi.”

      phù thủy nước đơn độc đến Hươu Đực và Vương Miện vào sáng thứ Năm. Tôi nằm nghỉ, kiệt sức vì cuộc dạo bộ khắp thành phố ngày hôm trước. Dáng người cao lớn và lả lướt, vị phù thủy nước này phải bước mà như chảy vào trong nhà vậy. Tuy nhiên, ta gặp phải trở ngại cứng rắn tại bức tường ma cà rồng ngay ngoài tiền sảnh.

      “Được rồi mà, Matthew,” tôi lên tiếng từ cửa phòng ngủ, vẫy tay ra hiệu cho ta tiến tới.

      Khi chỉ còn lại chúng tôi, phù thủy nước kiểm tra tôi lượt từ đầu đến chân. Ánh mắt ta râm ran như nước muối dính da, sống động như giọt nước giữa lòng đại dương vào ngày hè oi ả.

      “Goody Alsop đúng,” ta bằng chất giọng trầm thấp đầy nhạc tính. “Có quá nhiều nước trong máu của . Thế nên thể gặp cả nhóm chúng tôi vì gây nên trận đại hồng thủy mất. phải gặp chúng tôi vào từng thời điểm riêng. Tôi e là mất cả ngày đấy.”

      Bởi vậy, thay vì tôi tới gặp các phù thủy nước, họ chủ động đến gặp tôi. Họ giọt ra nhà khiến Matthew và Françoise muốn phát điên. Nhưng gì phủ nhận được mối quan hệ của tôi với họ, hay làn sóng ngầm mà tôi cảm thấy trước có mặt của phù thủy nước.

      “Nước dối,” phù thủy nước lẩm bẩm sau khi lướt đầu ngón tay qua trán và vai tôi. ta lật ngửa hai bàn tay tôi để quan sát lòng bàn tay. ta lớn tuổi hơn tôi, có sắc diện rất gây chú ý: da trắng, tóc đen và mắt màu biển Caribbean.

      “Nước gì cơ?” Tôi hỏi khi ta lần theo các nhánh phụ dẫn ra xa khỏi huyết mạch chính của tôi.

      “Mỗi phù thủy nước ở London thu thập nước mưa từ giữa mùa hè cho tới lễ hội Mabon, sau đó trút nước vào cái bát lớn dùng để bói cầu của hội đồng Rede. Nó tiết lộ về người thợ dệt được mong đợi từ lâu, có nước trong huyết mạch của ấy.” Phù thủy nước buông tiếng thở dài nhõm và thả hai tay tôi ra. “Chúng tôi cần những câu thần chú mới sau khi giúp hạm đội của Tây Ban Nha quay trở về. Goody Alsop có thể cung ứng thêm thần chú cho các phù thủy nước, nhưng thợ dệt người Scotland được ban sức mạnh của đất thể giúp chúng tôi được – cho dù bà ấy có muốn nữa. là đứa con đích thực của mặt trăng, nên giúp được chúng tôi.”

      ***

      Sáng thứ Sáu, người đưa tin mang đến nhà tôi địa chỉ phố Bread và những chỉ dẫn để tôi tới đó vào lúc mười giờ, để gặp mặt các thành viên còn lại của hội đồng Rede: hai phù thủy đất. Hầu hết các phù thủy đều có vài phần phép thuật đất trong họ. Đó là tiền đề thiết lập nên hội nhóm, và trong thời đại, các hội đồng phù thủy đất cũng đặc biệt xuất chúng. Tôi tò mò xem liệu các phù thủy đất thời đại Elizabeth có gì khác biệt .

      Matthew và Annie cùng tôi, trong khi Pierre chạy việc vặt cho Matthew còn Françoise ra ngoài mua bán. Chúng tôi dọn sạch sân nhà thờ Thánh Paul Matthew quay sang thằng nhóc lang thang có khuôn mặt nhem nhuốc và hai cẳng chân gày gò đầy vết thương. Trong chớp nhoáng, lưỡi dao của Matthew kề sát tai đứa bé.

      “Bỏ ngón tay ra khỏi đó ngay, thằng nhãi, ta xin cái tai của mi đấy,” khẽ .

      Tôi ngạc nhiên nhìn xuống, thấy mấy ngón tay thằng bé cọ vào chiếc túi tôi đeo bên eo.

      Ở Matthew luôn có dấu hiệu bạo lực, ngay cả trong thời đại của tôi, nhưng ở London thời Elizabeth, điều đó càng dễ bộc lộ ra ngoài hơn. Dù vậy, đâu cần phải chĩa nanh độc của mình vào đứa như thế chứ.

      “Matthew,” tôi cảnh cáo, để ý thấy vẻ kinh hãi gương mặt đứa trẻ, “dừng lại .”

      “Người khác lấy tai mi hoặc kéo lê mi đến ngay trước mặt quan tòa đấy.” Mắt Matthew nheo lại, và mặt đứa bé càng trắng bệch thêm.

      “Đủ rồi,” tôi gắt lên, rồi chạm vào vai đứa , nhưng thằng bé chùn người lại. Trong chớp nhoáng, con mắt phù thủy của tôi nhìn thấy bàn tay đàn ông nặng nề đánh thằng bé và quăng nó vào tường. Dưới các ngón tay tôi, thân thể thằng bé được che đậy bằng chiếc áo sơ mi vải thô. Đó là tất cả những gì giữ cho nó khỏi cái rét lạnh giá, máu rỉ ra từ vết bầm tím ghê người da nó. “Tên cháu là gì?”

      “Jack, thưa phu nhân,” thằng bé thào. Con dao của Matthew vẫn ấn vào tai nó, và chúng tôi bắt đầu thu hút chú ý.

      “Bỏ con dao găm , Matthew. Đứa bé này gây nguy hiểm cho ai trong chúng ta cả.” Matthew rút lại con dao kèm theo tiếng rít khó chịu.

      “Cha mẹ cháu đâu?”

      Jack nhún vai. “ có, thưa phu nhân.”

      “Đưa thằng bé về nhà, Annie, và bảo Françoise kiếm cho nó ít đồ ăn cùng quần áo. Cho thằng bé ít nước ấm nữa, nếu cháu có thể, và đưa nó vào giường của Pierre ấy. Thằng bé trông mệt mỏi rồi.”

      “Em thể nhận nuôi mọi đứa trẻ lang thang ở London này, Diana.” Matthew tra con dao găm vào vỏ mạnh.

      “Françoise có thể cần người chạy việc vặt cho ấy.” Tôi vuốt ngược mái tóc thằng bé từ trán ra sau đầu. “Cháu làm việc cho ta chứ, Jack?”

      “Vâng, thưa bà chủ.” Bụng Jack phát ra tiếng ùng ục nghe thấy , và đôi mắt cảnh giác của thằng bé lóe lên tia hy vọng. Con mắt phù thủy thứ ba của tôi mở to hơn, nhìn vào tận khoang dạ dày và đôi chân khẳng khiu run rẩy của thằng bé. Tôi rút ra vài đồng trong ví tiền.

      “Mua cho thằng bé lát bánh ở chỗ ông Prior đường về nhé Annie. Thằng bé sắp quỵ vì đói rồi, nhưng cái bánh giúp nó trụ được đến lúc Françoise có thể làm bữa ăn đàng hoàng cho nó.”

      “Vâng, thưa bà,” Annie . bé nắm chặt cánh tay Jack và kéo nó về hướng Blackfriars.

      Matthew nhíu mày nhìn bọn họ rời rồi quay ra cau có với tôi. “Điều em làm cho thằng bé đó phải là giúp đỡ. Thằng nhóc Jack này – nếu đó là tên của nó, điều này nghi ngờ đấy – sống nổi qua năm nay nếu nó tiếp tục ăn cắp.”

      “Đứa bé này sống nổi qua tuần này trừ phi có người lớn đứng ra chịu trách nhiệm với nó. gì nhỉ? Tình thương, người trưởng thành chăm sóc chúng, và nơi êm ái để ngả lưng đúng ?”

      “Đừng có dùng những lời để chống lại , Diana. Đó là về con chúng ta, phải là đứa trẻ bơ vơ nhà nào đó.” Matthew, kẻ trong vài ngày qua gặp gỡ nhiều phù thủy hơn hầu hết các ma cà rồng từng gặp trong đời, sôi sục chiến đấu.

      “Em cũng từng là trẻ bơ vơ nhà đấy.”

      Chồng tôi giật lùi lại như thể tôi vừa tát cái.

      “Giờ dễ dàng gạt thằng bé phải ?” Tôi đợi đáp lời. “Nếu Jack đến với chúng ta, chúng ta có thể đưa nó thẳng tới chỗ Andrew Hubbard. Ở đó thằng bé được cho vừa cái quan tài hoặc bị dùng làm bữa tối. Nó cũng chẳng được chăm sóc tốt hơn so với việc bị bỏ mặc đường phố này.”

      “Chúng ta có đủ người hầu rồi,” Matthew lạnh nhạt .

      “Em có thừa tiền mà. Nếu thể, em trả tiền công cho thằng bé bằng quỹ riêng của em.”

      “Thế em nên sáng tạo ra câu chuyện cổ tích để tống thằng nhóc đó vào giường ngủ.” Matthew nắm chặt khuỷu tay tôi. “Em nghĩ thằng bé nhận ra nó sống với ba wearh và hai phù thủy à? Trẻ con loài người luôn nhìn thấy thế giới của các sinh vật khác người ràng hơn so với người lớn đấy.”

      nghĩ Jack quan tâm chúng ta là cái gì nếu nó có được mái nhà che đầu, thức ăn trong bụng và cái giường để yên lành ngủ mỗi đêm ư?” phụ nữ nhìn chằm chằm vào chúng tôi vẻ bối rối từ bên kia đường. Ma cà rồng và phù thủy nên tranh cãi nóng nảy như thế ở nơi công cộng. Tôi kéo mũ trùm sụp xuống quanh mặt.

      “Chúng ta càng để nhiều sinh vật khác người bước vào cuộc sống của mình ở nơi này, càng đòi hỏi phải khéo léo hơn,” Matthew . phát thấy người phụ nữ vẫn quan sát chúng tôi liền thả cánh tay tôi ra. “Và càng phải khéo léo gấp đôi đối với loài người.”

      Sau khi viếng thăm hai vị phù thủy đất trang nghiêm, cứng nhắc, Matthew và tôi rút về hai phía của Hươu Đực và Vương Miện, cho tới khi tâm trạng của chúng tôi dịu lại. Matthew xem đám thư từ của , gầm lên với Pierre và buông ra hàng tràng nguyền rủa chống lại chính phủ của Nữ hoàng bệ hạ, những ý thích nhất thời của cha , và hành động dại dột của Vua James nước Scotland. Tôi dành thời gian chuyện với Jack về các bổn phận của nó. Thằng bé có những tuyệt chiêu khi nẫng đồng hồ, ví tiền, và mấy gã thộn nhà quê có thể bị nó lừa tất cả tài sản trong những ván bài bí mật, nhưng nó lại biết đọc, viết, nấu ăn, khâu vá hay làm bất cứ việc gì khác khả dĩ có thể trợ giúp Françoise và Annie. Tuy nhiên, Pierre lại có hứng thú nghiêm túc với thằng bé, đặc biệt sau khi chàng tìm lại được cái bùa may mắn từ túi trong chiếc áo chẽn cũ của thằng bé.

      với ta nào, Jack,” Pierre , giữ cửa mở và hất đầu về phía cầu thang. ta chuẩn bị ra ngoài thu thập thư tín đợt cuối từ chỗ những người cung cấp tin của Matthew. ràng ta có kế hoạch tận dụng ưu điểm am hiểu về thế giới ngầm London từ cậu nhóc trẻ tuổi của chúng tôi.

      “Vâng, thưa ngài,” Jack đáp, giọng háo hức. Thằng bé trông khỏe hơn ngay sau bữa ăn.

      được có gì nguy hiểm đâu đấy,” tôi cảnh cáo Pierre.

      “Dĩ nhiên là , madame,” chàng ma cà rồng hồn nhiên .

      “Ý tôi là thế đấy,” tôi vặn lại. “Và đưa thằng bé về trước khi trời tối nhé.”

      Tôi sắp xếp giấy tờ bàn làm việc của mình Matthew ra khỏi phòng làm việc. Françoise và Annie tới Smithfield để gặp người đồ tể lấy thịt và máu, thế nên cả ngôi nhà chỉ có chúng tôi.

      xin lỗi, mon Coeur,” Matthew , vòng tay qua eo tôi từ phía sau. đặt nụ hôn lên cổ tôi. “Qua lại giữa hội đồng Rede và nữ hoàng, tuần dài.”

      “Em cũng xin lỗi. Em hiểu tại sao muốn Jack ở đây, Matthew, nhưng em thể phớt lờ nó. Thằng bé bị thương và bị bỏ đói.”

      biết,” Matthew , kéo tôi vào và ôm chặt đến mức lưng tôi vừa vặn áp sát vào ngực .

      có phản ứng khác nếu chúng mình tìm thấy thằng bé ở Oxford thời đại đúng ?” Tôi hỏi, nhìn đăm đăm vào ngọn lửa chứ nhìn vào mắt .

      Kể từ cố với Jack, tôi bị ám ảnh bởi câu hỏi, liệu thái độ cư xử của Matthew bắt nguồn từ hệ gen của ma cà rồng hay do đạo đức sống của thời đại Elizabeth.

      “Có lẽ . Ma cà rồng sống giữa loài máu nóng phải chuyện dễ dàng gì, Diana ạ. Nếu có sợi dây liên kết về cảm xúc, loài máu nóng chẳng là gì hơn nguồn cung cấp chất dinh dưỡng. ma cà rồng nào, kể cả văn minh và tử tế đến đâu, có thể duy trì khoảng cách tương đối gần với sinh vật máu nóng mà cảm thấy thôi thúc muốn ăn thịt họ.” Hơi thở của mát lạnh phả vào cổ tôi, chọc ngưa ngứa đúng cái vị trí nhạy cảm mà Miriam dùng máu của mình để chữa lành vết thương do Matthew tạo nên.

      có vẻ gì là muốn ăn em cả.” Chẳng có dấu hiệu nào cho thấy Matthew phải vật lộn với thôi thúc như thế, mà còn thẳng thừng từ chối những lần cha gợi ý rằng có thể uống máu tôi.

      có thể làm chủ được những khao khát của mình tốt hơn rất nhiều so với hồi đầu chúng mình gặp nhau. Giờ nỗi thèm khát của với máu của em nghiêng nhiều về vấn đề dinh dưỡng nữa để mà phải kiểm soát. Việc ăn em bây giờ căn bản là xác nhận địa vị thống trị rằng chúng mình kết đôi.”

      “Và chúng ta có tình dục dành cho chuyện đó,” tôi thản nhiên như . Matthew là bạn tình nồng nhiệt và sáng tạo, nhưng ràng coi phòng ngủ là lãnh thổ của mình.

      “Làm ơn nhắc lại xem nào?” , đôi lông mày nhíu lại cau có.

      “Tình dục và thống trị. Đó là cái mà loài người đại nghĩ về mối quan hệ của ma cà rồng,” tôi . “Các câu chuyện của họ đầy rẫy cảnh ma cà rồng nam giới thống lĩnh điên cuồng, ném phụ nữ lên vai trước khi kéo bọn họ tới bàn ăn tối và hẹn hò.”

      “Bữa tối và hẹn hò ư?” Matthew thở hắt ra. “Ý em là…?”

      “Ừm. nên xem những cái mà bạn bè của dì Sarah ở hội đồng phù thủy Madison đọc. Ma cà rồng gặp và cắn, choáng váng phát ra có ma cà rồng. Tình dục, máu, và thái độ bao bọc thái quá, tất cả nhanh chóng đến tiếp sau đó. số trong đó khá dứt khoát.” Tôi ngừng lại. “ có thời gian để tìm hiểu, điều đó là chắc chắn. Em nhớ nhiều lắm thơ ca cũng như mấy điệu nhảy.”

      Matthew thốt lên. “Thảo nào dì của em muốn biết liệu có đói .”

      nên đọc thứ này, chỉ để biết loài người nghĩ gì thôi. Đó là cơn ác mộng được lưu truyền rộng rãi. Còn tồi tệ hơn những gì phù thủy phải vượt qua.” Tôi quay lại đối diện với . “ chắc ngạc nhiên khi biết nhiều phụ nữ dường như muốn có bạn trai là ma cà rồng đến mức nào.”

      “Chuyện gì xảy ra nếu đám bạn trai ma cà rồng của bọn họ cư xử như những gã khốn nhẫn tâm phố và đe dọa những đứa trẻ mồ côi chết đói hả?”

      “Hầu hết ma cà rồng được hư cấu đều có trái tim bằng vàng, trừ việc thỉnh thoảng giận dữ ghen tuông và vì thế có thể chặt người ta ra thành trăm mảnh.” Tôi vuốt tóc và tránh ánh mắt .

      thể tin chúng mình lại có cuộc chuyện này,” Matthew .

      “Tại sao? Ma cà rồng đọc sách về phù thủy. Thực tế là cuốn Doctor Faustus của Kit hoang đường, ngây thơ cũng ngăn tận hưởng câu chuyện huyên thuyên, hay ho và dị thường mà.”

      “Đúng, nhưng tất cả chuyện đó là vác và rồi làm tình…” Matthew lắc đầu.

      vác em mà, lúc ấy quyến rũ. Em nhớ dường như mình được nhấc bổng lên trong vòng tay ở Sept-Tours hơn lần cơ,” tôi chỉ ra.

      “Chỉ khi em bị thương thôi!” Matthew phẫn nộ . “Hay mệt mỏi.”

      “Hay khi muốn em ở nơi còn em lại ở nơi khác. Hay khi con ngựa quá cao, hay chiếc giường quá cao, hay biển quá động. Thành nào, Matthew. trí nhớ rất chọn lọc khi nó phù hợp với nhé. Còn về phần làm tình, phải lúc nào cũng là hành động âu yếm, dịu dàng như miêu tả. như trong những cuốn sách mà em thấy. Đôi khi nó chỉ hay ho, cứng…”

      Trước khi tôi kịp hết câu, chàng ma cà rồng điển trai, cao lớn quẳng tôi lên vai ta.

      “Chúng ta tiếp tục cuộc chuyện này trong phòng riêng.”

      “Cứu với! Tôi nghĩ chồng tôi là ma cà rồng!” Tôi cười sặc sụa và dụi mặt vào sau lưng .

      “Yên nào,” gầm lên. “ em khiến bà Hawley phải tham chiến đấy.”

      “Nếu em mà là phụ nữ loài người chứ phải phù thủy, thanh gầm thét mà vừa phát ra đó làm em bất tỉnh rồi. Em là của từ đầu đến chân, và có thể làm gì tùy ý.” Tôi cười như nắc nẻ.

      “Em là tất cả của rồi,” Matthew nhắc tôi và đặt tôi lên giường. “Tiện đây, thay đổi cái kịch bản nực cười này. Vì tình dành cho khả năng sáng tạo – kể đến những chi tiết có vẻ – chúng mình bỏ qua bữa tối và chuyển thẳng sang hẹn hò.”

      “Độc giả thích chàng ma cà rồng thế đấy!” Tôi .

      Matthew dường như chẳng quan tâm đến những đóng góp dưới góc độ biên tập của tôi. quá bận rộn với việc nâng mấy lớp váy của tôi lên. Chúng tôi sắp sửa làm tình mà mặc nguyên quần áo. Thời đại Elizabeth mới tuyệt vời làm sao!

      “Đợi phút! Ít nhất cũng để em cởi cái vòng độn mông ra .” Annie báo cho tôi biết rằng, đây là cái tên chính xác dành cho cái thứ hình bánh rán vòng, giữ cho váy tôi đầy đặn và đường bệ hơn.

      Nhưng Matthew chẳng có vẻ gì định đợi cả.

      “Độn mông quái quỷ, xuống địa ngục .” tháo dây buộc phía trước chiếc quần chẽn, tóm lấy hai tay tôi, ghim chặt phía đầu tôi. Bằng cú thúc mạnh, ở bên trong tôi.

      “Em biết là chuyện về tác phẩm hư cấu được thích có hiệu ứng như thế này với ,” tôi ra hơi trong khi bắt đầu chuyển động. “Nhớ nhắc em thảo luận nó với thường xuyên

      hơn đấy.”

      ***

      Chúng tôi vừa ngồi xuống ăn tối tôi được gọi đến nhà Goody Alsop.

      Hội đồng Rede nắm quyền chỉ đạo.

      Khi Annie và tôi đến cùng với hai ma cà rồng tháp tùng, Jack lẽo đẽo phía sau, chúng tôi thấy bà lão đứng trước phòng khách cùng với Susanna và ba phù thủy lạ mặt. Goody Alsop đuổi đám đàn ông tới quán Con Ngỗng Vàng và hướng tôi đến cùng nhóm người bên lò sưởi.

      “Đến đây nào, Diana, và gặp các giáo viên của .” Cái bóng hồn của Goody Alsop chỉ cho tôi chiếc ghế trống. Họ trông giống đám mệnh phụ thành thị sung túc, với những chiếc váy dài bằng len dày, trong sắc màu mùa đông đen tối. Chỉ có những cái liếc nhìn nhoi nhói râm ran tiết lộ họ là phù thủy.

      “Vậy hội đồng Rede tán thành với kế hoạch ban đầu của bà,” tôi chậm rãi , cố gắng đón ánh mắt họ. Để cho giáo viên thấy nỗi sợ hãi bao giờ là chuyện tốt cả.

      “Họ đồng ý,” Susanna đáp với vẻ mặt xác nhận. “Bà bỏ quá cho tôi, bà Roydon. Tôi có hai đứa con trai cần phải lo, và ông chồng quá ốm yếu để có thể chu cấp cho chúng tôi. Lòng tốt của người láng giềng có thể biến mất chỉ qua đêm.”

      “Hãy để ta giới thiệu với những người khác,” Goody Alsop , nhàng quay sang người phụ nữ bên phải bà. Bà ta khoảng tầm sáu mươi, vóc người thấp lùn, khuôn mặt tròn xoe và nếu nụ cười của bà ta có bất cứ biểu nào, đó là tinh thần phóng khoáng. “Đây là Marjorie Cooper.”

      “Diana,” Marjorie đáp kèm theo cái gật làm cho chiếc cổ áo xếp nếp của bà phát ra tiếng sột soạt. “Chào mừng đến cuộc tụ hội của chúng tôi.”

      Khi gặp hội đồng Rede, tôi biết rằng, các phù thủy thời Elizabeth dùng từ “tụ hội” cũng như các phù thủy đại dùng cụm từ “hội phù thủy” để chỉ cộng đồng các phù thủy. Giống mọi thứ khác ở London, các cuộc tụ hội của thành phố này đồng thời cũng trùng khớp với ranh giới của xứ đạo. Mặc dù lạ lùng khi nghĩ đến việc, các hội phù thủy và nhà thờ Thiên Chúa giáo ở sát bên nhau như thế, nghe rất có tổ chức và an toàn, vì nó giữ cho các vụ của phù thủy chỉ xảy ra trong vùng các khu vực xóm giềng gần kề nhau.

      Vì thế nên có hơn trăm các nhóm tụ hội ở London và hơn hai tá nữa ở khu vực ngoại thành. Giống như các xứ đạo, các nhóm phù thủy được tổ chức theo các khu vực lớn, như các phân khu. Mỗi phân khu lại cử ra tiền bối bề để đến hội đồng Rede, là tổ chức trông nom tất cả các vụ của phù thủy trong thành phố.

      Hội đồng Rede lo rằng, với những cơn hoảng loạn và cuộc săn lùng phù thủy vốn bùng phát, hệ thống cai quản cũ rạn vỡ. London bùng nổ những sinh vật khác người. Họ đổ về đây mỗi ngày nhiều thêm. Tôi nghe thấy những lời bàn tán về quy mô của nhóm hội Aldgate – bao gồm hơn sáu mươi phù thủy thay vì mười ba đến hai mươi phù thủy như bình thường. Những nhóm hội lớn ở Cripplegate và Southwalk cũng thế. Để tránh bị loài người phát , vài nhóm hội bắt đầu “chia tổ” và xé lẻ thành nhiều đội khác nhau. Nhưng các nhóm hội mới với những người lãnh đạo ít kinh nghiệm hơn còn mơ hồ về cách giải quyết ở thời điểm khó khăn này. Các phù thủy trong hội đồng Rede là những người được ban cho thị giác thứ hai, tiên đoán được những rắc rối phía trước.

      “Marjorie được ban cho phép thuật đất, giống như Susanna. Biệt tài của bà ấy là ghi nhớ,” Goody Alsop giải thích.

      “Tôi cần các cuốn bí kíp hay lịch mới mà tất cả các chủ hiệu sách rao bán,” Marjorie tự hào .

      “Marjorie ghi nhớ cách hoàn hảo mọi câu thần chú mà bà ấy nắm bắt được và có thể nhớ hình thể chính xác của các ngôi sao trong từng năm bà ấy sống – và cả khoảng thời gian bà ấy còn chưa được sinh ra.”

      “Goody Alsop sợ thể viết ra hết tất cả những gì học được ở đây và mang nó . chỉ giúp tìm được đúng từ ngữ để các phù thủy khác có thể sử dụng những câu thần chú đặt ra, tôi còn dạy cách làm thế nào để ai có thể lấy những từ ngữ đó ra khỏi được.” Hai mắt Marjorie long lanh, giọng hạ thấp cách bí . “Và chồng tôi là người bán rượu vang. Ông ấy có thể cung cấp cho rượu vang ngon hơn nhiều thứ uống bây giờ. Tôi hiểu rượu vang rất quan trọng đối với wearh.”

      Tôi cười thành tiếng trước câu này và các phù thủy khác cũng hùa theo. “Cảm ơn bà Cooper. Tôi chuyển lời chào hàng của bà tới chồng tôi.”

      “Marjorie, ở đây chúng ta là chị em.” Lần này tôi co rúm lại khi được gọi là chị em của phù thủy khác.

      “Tôi là Elizabeth Jackson,” người phụ nữ lớn tuổi ở phía bên kia Goody Alsop lên tiếng. Bà ta ở tầm tuổi giữa Marjorie và Goody Alsop.

      “Bà là phù thủy nước.” Tôi cảm thấy mối tương tác ngay khi bà ấy .

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      “Đúng vậy.” Elizabeth có mái tóc và đôi mắt màu xám như ánh thép, cao lớn và thẳng đuỗn, còn Marjorie lùn và tròn quay. Trong khi nhiều phù thủy nước ở hội đồng Rede quanh co, lả lướt và như chảy , Elizabeth lại có ràng, nhanh nhẹn của dòng suối núi. Tôi cảm thấy bà luôn với tôi, thậm chí khi tôi muốn nghe chăng nữa.

      “Elizabeth được ban cho tài tiên tri. Bà ấy dạy nghệ thuật bói cầu thủy tinh.”

      “Mẹ tôi cũng nổi tiếng về thị giác thứ hai,” tôi ngập ngừng . “Tôi vui sướng được tiếp bước bà.”

      “Nhưng bà ấy có lửa,” Elizabeth quả quyết , bắt đầu việc lên ngay lập tức. “ có thể tiếp bước được theo mẹ trong mọi chuyện đâu, Diana ạ. Lửa và nước là pha trộn đầy uy lực, miễn là chúng triệt tiêu lẫn nhau.”

      “Chúng ta canh chừng để chuyện đó xảy ra,” phù thủy cuối cùng hứa hẹn, quay sang nhìn tôi. Cho tới lúc đó, bà ấy vẫn chủ ý tránh cái nhìn chăm chú của tôi. Giờ tôi có thể thấy lý do tại sao: có những ánh sáng vàng lấp lánh trong đôi mắt nâu của bà và con mắt thứ ba của tôi bật mở trong trạng thái khẩn cấp. Với tầm nhìn rộng thêm đó, tôi có thể thấy quầng sáng bao quanh bà ta. Đây chắc hẳn là Catherine Streeter.

      “Bà thậm chí… thậm chí còn mạnh hơn các phù thủy lửa trong hội đồng Rede,” tôi lắp bắp.

      “Catherine là phù thủy đặc biệt,” Goody Alsop công nhận, “ phù thủy lửa được sinh ta từ hai phù thủy lửa. Nó hiếm khi xảy ra, mặc dù ngay bản thân bà ấy cũng biết rằng ánh sáng như thế thể nào che giấu được.”

      Khi con mắt thứ ba của tôi nhắm lại, bị lóa khi nhìn vào vị phù thủy lửa được ban phước gấp ba lần ấy, Catherine dường như mờ nhạt dần. Mái tóc nâu của bà xỉn , đôi mắt mờ tối lại và gương mặt đẹp đẽ nhưng gây ấn tượng đáng nhớ. Phép thuật của bà ta nhảy trở lại cuộc sống, tuy nhiên, ngay lúc đó bà ta lên tiếng.

      có nhiều lửa hơn tôi kỳ vọng đấy,” bà ta trầm ngâm .

      đáng tiếc là ấy ở đây khi Armada đến,” Elizabeth .

      “Vậy đó là ư? ‘Ngọn gió ’ nổi tiếng thổi những con thuyền của Tây Ban Nha ra khỏi bờ biển nước là do các phù thủy gọi đến ư?” Tôi hỏi. Đó là phần tri thức của phù thủy, nhưng tôi luôn bác bỏ và coi nó là chuyện thần thoại.

      “Goody Alsop rất đắc lực với Nữ hoàng bệ hạ,” Elizabeth tự hào . “Nếu có ở đây, tôi nghĩ chúng ta có thể tạo ra nước lửa – hoặc ít nhất là cơn mưa lửa ấy chứ.”

      “Chúng ta hãy chú tâm vào việc trước mắt ,” Goody Alsop , giơ tay lên. “Diana chưa tạo ra được thần chú đệm của thợ dệt đâu.”

      “Thần chú đệm ư?” tôi hỏi. Giống như nhóm tụ hội và hội đồng Rede, đây là cụm từ tôi biết đến.

      “Thần chú đệm tiết lộ hình dáng, năng lực của thợ dệt. Chúng ta cùng tạo hình cho vòng ban phép. Từ đó, chúng tôi tạm thời chuyển sức mạnh của được nới lỏng để tìm đường cho chúng, bị ngăn trở bởi ngôn từ và những mong muốn,” Goody Alsop đáp. “Nó cho chúng tôi biết nhiều điều về năng lực của và những gì chúng tôi phải làm để huấn luyện chúng, cũng như tiết lộ những người thân cận của .”

      “Phù thủy có người thân cận.” Đây là nét tính cách tự kiêu tự đại khác của loài người, giống việc thờ phụng ác quỷ vậy.

      “Các thợ dệt có,” Goody Alsop ôn tồn , làm cử động hướng về phía bóng hồn của bà. “Đây là của ta. Giống như tất cả những người thân cận, ta là phần sức mạnh thêm ra của ta.”

      “Tôi chắc việc có người thân cận là ý tưởng hay ho trong trường hợp của tôi,” tôi , nghĩ về những quả mộc qua bị đen quắt lại, đôi giày của Mary và chú gà con. “Tôi có đủ lo lắng rồi.”

      “Đó chính là lý do ném ra thần chú đệm đấy – để đối mặt với những nỗi sợ sâu thẳm trong lòng nên có thể làm phép cách tự do. Nhưng nó có thể là trải nghiệm đau đớn đấy. Có những phù thủy bước vào vòng tròn này với màu tóc đen nhánh như cánh quạ và rời với mái tóc trắng phau như tuyết,” Goody Alsop thừa nhận.

      “Nhưng nó cũng tan nát trái tim như cái đêm wearh bỏ lại Diana và nước dâng ngập ấy,” Elizabeth khẽ .

      “Hay độc như cái đêm ấy bị nhốt trong lòng đất,” Susanna kèm theo cái rùng mình. Marjorie gật gật đầu đầy cảm thông.

      “Hay hãi hùng như thời điểm mụ phù thủy lửa kia cố gắng mở banh ra,” Catherine cam đoan với tôi, những ngón tay bà chuyển thành màu cam với cơn giận dữ.

      “Trăng tròn vào thứ Sáu. Lễ rước nến còn cách vài tuần nữa. Và chúng ta bước vào giai đoạn thuận lợi cho các câu thần chú dành cho bọn trẻ hiếu học,” Marjorie nhấn mạnh, gương mặt nhăn lại với vẻ tập trung khi bà hồi tưởng lại các thông tin liên quan từ bộ nhớ đáng kinh ngạc của bà.

      “Tôi nghĩ đây là tuần lễ dành cho bùa rắn cắn chứ?” Susanna , tay lôi ra cuốn lịch từ trong túi.

      Trong khi Marjorie và Susanna thảo luận về những thời gian biểu phép thuật rắc rối, phức tạp Goody Alsop, Elizabeth và Catherine nhìn chằm chằm vào tôi.

      “Ta tự hỏi…” Goody Alsop nhìn tôi với vẻ công khai suy xét, ngón tay vỗ lên môi bà.

      “Chắc chắn ,” Elizabeth , giọng nén lại khẽ.

      “Chúng ta chặt đầu của chính mình, nhớ ?” Catherine . “Nữ thần ban đủ phước cho chúng ta rồi.” Khi điều đó, cặp mắt nâu của bà ánh lên liền tù tì chuỗi những tia sáng xanh lục, vàng kim, đỏ và đen trong chớp nhoáng. “Nhưng có lẽ…”

      “Cuốn lịch của Susanna sai toét cả. Nhưng chúng tôi quyết định thuận lợi hơn nếu Diana dệt thần chú đệm của ấy vào thứ Năm tới, dưới ánh trăng lưỡi liềm,” Marjorie , vỗ tay vẻ vui thích.

      “Ôi trời,” Goody Alsop thốt lên, thọc ngón tay vào lỗ tai để cản bớt tiếng nhiễu ồn trong khí. “Khẽ thôi, Marjorie, khe khẽ thôi.”

      ***

      Cùng với những bổn phận mới tôi phải làm với nhóm hội khu St.James Garlickhythe, rồi lại tiếp tục niềm hứng thú dành cho các thí nghiệm về thuật giả kim của Mary, tôi nhận ra bản thân ở bên ngoài nhiều thời hơn, trong khi Hươu Đực và Vương Miện tiếp tục là trung tâm tụ tập của Bè lũ Bóng đêm và trụ sở làm việc của Matthew. Những người đưa tin đến rồi với những báo cáo và thư từ. George thường ghé qua ăn chực bữa, kể cho chúng tôi nghe về những nỗ lực vô ích mới nhất của chàng để tìm Ashmole 782. Hancock và Gallowglass bỏ đồ cần giặt của họ ở tầng dưới, giết thời gian hàng giờ bên lò sưởi của tôi, ăn mặc hở hang, cho tới khi đồ giặt được trả về cho bọn họ. Kit và Matthew đạt được thỏa thuận ngừng bắn mấy thoải mái, sau vụ việc với Hubbard và John Chandler. Điều này có nghĩa là tôi thường tìm thấy nhà viết kịch ngồi ngoài phòng khách, nhìn đăm đắm vào khoảng xa xăm rồi viết cách điên cuồng. ta tự cho phép bản thân dùng nguồn cung cấp giấy của tôi – thực tế này bổ sung thêm phiền phức và khó chịu.

      Rồi còn chuyện Annie và Jack nữa. Việc phối hợp cho hai đứa trẻ vào làm gia nhân là công việc chiếm toàn thời gian. Jack, đứa mà tôi cho là khoảng tầm bảy hoặc tám tuổi (thằng bé biết tuổi thực của nó), thích làm các trò quái quỷ, trêu chọc mới lớn kia. Cậu nhóc bám theo Annie khắp nơi và nhại theo lời bé. Những lúc như thế, Annie òa khóc và chạy ào lên lầu, quăng mình vào giường nức nở. Khi tôi trừng phạt Jack về hành vi của nó, thằng bé liền hờn dỗi. Tuyệt vọng muốn có vài giờ đồng hồ yên tĩnh, tôi tìm ông thầy sẵn sàng dạy chúng đọc, viết và làm tính, nhưng cả hai đứa nhanh chóng khiến chàng cử nhân mới tốt nghiệp Cambridge chạy xa, vì chúng cứ thẫn thờ trống rỗng và học hành lơ đãng. Cả hai đều thích mua bán với Françoise, chạy quanh London với Pierre, hơn là ngồi im và làm phép tính cộng trừ nhân chia.

      “Nếu con chúng mình cư xử như thế này, em dìm chết thằng bé mất,” tôi bảo với Matthew, trong khoảnh khắc nghỉ ngơi tại phòng làm việc của .

      “Con bé cư xử giống như thế, em có thể chắc chắc điều đó. Và em dìm chết con bé đâu,” Matthew , đặt cây bút mực xuống. Chúng tôi vẫn thống nhất được về giới tính của đứa bé.

      “Em cố thử mọi cách. Em lý luận, thuyết phục, lấy lòng – ôi quỷ tha ma bắt, em thậm chí còn mua chuộc chúng nữa.” Những chiếc bánh sữa của ông Prior chỉ càng làm tăng thêm năng lượng nghịch ngợm của Jack mà thôi.

      “Mọi bậc cha mẹ đều mắc những lỗi như thế,” cười . “Em cố gắng làm bạn của chúng. Hãy đối xử với Jack và Annie như những chú cún con. Thỉnh thoảng véo mũi cái, em thiết lập uy quyền tốt hơn là cái bánh thịt bằm mang lại đấy.”

      “Có phải bày cho em các mẹo làm cha mẹ lấy từ vương quốc loài vật ?” Tôi nghĩ đến các nghiên cứu của trước đây về loài sói.

      “Như thực tế của chính đây. Nếu chúng tiếp tục lối sống phóng đãng này, buộc phải nhúng tay vào, và véo đâu, mà cắn đấy.” Matthew gầm gừ với cánh cửa khi tiếng đổ vỡ loảng xoảng ầm ĩ vang lên xuyên qua các phòng, tiếp theo là tiếng khốn khổ “xin lỗi bà chủ.”

      “Cảm ơn , nhưng em chưa đủ tuyệt vọng để phải viện đến phương thức huấn luyện gọi dạ bảo vâng ấy đâu. Chưa đâu.” Tôi và quay ra khỏi phòng.

      Trong hai ngày, tôi dùng lời để dạy dỗ và quản lý thời gian của bọn trẻ, cho chúng thấm nhuần tính trật tự, nhưng bọn trẻ cần vận động nhiều để kiềm chế hiếu động của chúng. Tôi đành bỏ lại sách vở, giấy tờ để dẫn chúng dạo những con đường dài, xuôi xuống Cheapside và vào vùng ngoại ô phía tây. Chúng tôi đến chợ cùng với Françoise và ngắm những con thuyền dỡ hàng hóa tại Vintry. Ở đó, chúng tôi tưởng tượng về những miền đất – nơi xuất xứ các chuyến hàng này và suy đoán về nguồn gốc của thủy thủ đoàn.

      Đôi chỗ dọc đường , tôi cảm thấy mình giống du khách nữa mà bắt đầu thấy London thời đại Elizabeth chính là quê hương của mình.

      Sáng thứ Bảy, chúng tôi mua sắm ở chợ Leadenhall, khu buôn bán hàng tạp phẩm tốt hàng đầu của London, trông thấy người ăn xin què chân. Tôi moi đồng xu ra khỏi túi cho ông ta trong lúc bọn trẻ biến mất vào cửa hàng bán mũ – nơi chúng có thể tiến hành công cuộc tàn phá – tàn phá đắt đỏ.

      “Annie! Jack!” Tôi gọi, thả đồng xu vào lòng bàn tay người đàn ông. “Ông hãy giữ lấy cho mình!”

      “Bà ở xa nhà quá đấy, bà Roydon,” giọng trầm trầm cất lên. Tôi dựng tóc gáy, quay lại và thấy Andrew Hubbard.

      “Cha Hubbard,” tôi thốt lên. Người ăn xin cách tôi có mấy phân.

      Hubbard nhìn quanh. “Người phụ nữ của bà đâu rồi?”

      “Nếu cha nhắc đến Françoise ấy ở trong chợ,” tôi chua chát . “Annie cũng cùng với tôi. Tôi có cơ hội để cảm ơn Cha gửi bé đến cho chúng tôi. bé giúp ích rất nhiều.”

      “Ta hiểu là bà gặp Goody Alsop.”

      Tôi đáp lại thăm dò mang tính câu kéo rành rành thế này.

      “Kể từ khi người Tây Ban Nha đến, bà ta nhúc nhích ra khỏi nhà trừ phi có lý do hay ho.”

      Tôi vẫn im lặng trong khi Hubbard cười.

      “Tôi phải kẻ địch của bà, thưa bà.”

      “Tôi Cha như thế, Cha Hubbard. Nhưng tôi gặp ai và lý do tại sao phải chuyện Cha cần quan tâm.”

      “Đúng thế. Cha chồng bà – hay bà nghĩ về ông ta như là cha mình nhỉ? – thể điều đó khá ràng trong lá thư của ông ấy. Dĩ nhiên Philippe cảm ơn ta hỗ trợ bà. Nhưng với người đứng đầu gia đình de Clermont, những lời cảm ơn thường trước những lời đe dọa. Đấy là thay đổi mới mẻ trong phong cách cư xử thường lệ của cha bà.”

      Mắt tôi nheo lại cảnh giác. “Đó là điều Cha muốn ư, Cha Hubbard?”

      “Ta chịu đựng diện của những tên de Clermont bởi vì ta phải làm vậy. Nhưng ta buộc phải tiếp tục làm thế nếu có những rắc rối.” Hubbard nghiêng tới sát tôi, hơi thở lạnh giá. “Và bà gây ra rắc rối. Ta có thể ngửi thấy nó, nếm thấy nó. Kể từ khi bà đến, lũ phù thủy rất… khó khăn.”

      “Đó là trùng hợp ngẫu nhiên may thôi,” tôi , “nhưng tôi định đổ lỗi đâu. Tôi được rèn luyện về nghệ thuật phù phép dở đến mức thậm chí thể đập quả trứng vào bát.” Françoise ra khỏi chợ. Tôi nhún gối chào Hubbard và bước qua . Bàn tay vọt ra tóm lấy cổ tay tôi. Tôi nhìn xuống những ngón tay lạnh lẽo của .

      chỉ các sinh vật khác người mới phát ra mùi hương, bà Roydon ạ. Bà có biết bí mật cũng có hương thơm riêng của chúng ?”

      ,” tôi đáp, kéo cổ tay ra khỏi cái nắm siết của .

      “Phù thủy có thể biết được khi ai đó dối. Wearh có thể ngửi được mùi bí mật giống như con chó săn đánh hơi được mùi con nai. Ta theo đuổi bí mật của bà tới tận cùng, bà Roydon ạ, cho dù bà có cố che giấu nó thế nào nữa.”

      “Bà sẵn sàng chưa, madame?” Françoise hỏi, cau mày khi khoảng cách gần hơn. Annie và Jack ở bên ấy, và khi bé phát ra Hubbard, mặt nó trắng bệch ra.

      “Rồi, Françoise,” tôi đáp, cuối cùng cũng rời mắt khỏi cặp mắt vằn sọc dị thường của Hubbard. “Cảm ơn Cha về lời khuyên bảo và cả thông tin kia nữa.”

      “Nếu thằng bé là quá sức đối với các vị, ta vui mừng được chăm sóc cho nó,” Hubbard lầm bầm khi tôi qua. Tôi quay người và sải bước trở lại chỗ .

      “Đừng động đến những gì là của tôi.” Mắt chúng tôi khóa chặt vào nhau, lần này chính Hubbard phải quay trước. Tôi trở lại với nhóm đồng hành lộn xộn của mình: ma cà rồng, phù thủy và loài người. Jack trông có vẻ lo lắng và lúc này nhấp nhỏm đổi hết chân này tới chân kia, như thể nó cân nhắc đến việc chạy trốn. “Chúng ta về nhà và thưởng thức món bánh mỳ gừng nào,” tôi , nắm lấy tay thằng bé.

      “Ông ta là ai thế ạ?” Thằng bé thào hỏi.

      “Đó là Cha Hubbard.” Annie thầm khẽ đáp lại.

      “Là người trong các bài hát ấy ạ?” Jack hỏi, ngoái nhìn qua vai. Annie gật đầu.

      “Đúng thế, và khi ông ấy…”

      “Đủ rồi, Annie. Các cháu xem được gì trong cửa hàng mũ đó vậy?” Tôi hỏi, siết lấy Jack chặt hơn. Tôi chìa tay về phía chiếc giỏ đầy hàng tạp phẩm. “Để tôi cầm cái đó cho, Françoise.”

      “Chẳng ích gì đâu, madame,” Françoise , mặc dù vậy ấy vẫn đưa tôi cái giỏ. “Milord biết bà ở cùng gã ma quỷ đó. Thậm chí cả mùi bắp cải cũng che giấu được nó.” Jack xoay đầu sang có vẻ hứng thú với mẩu thông tin này. Tôi bèn tặng cho Françoise cái lừ mắt cảnh cáo.

      “Chúng ta đừng có rước thêm rắc rối,” tôi trong khi về nhà.

      Trở lại Hươu Đực và Vương Miện, tôi tự giải thoát khỏi cái giỏ xách, áo choàng, găng tay và bọn trẻ, rồi mang cốc rượu vang vào phòng Matthew. ngồi ở bàn làm việc, cúi người tập giấy. Tim tôi nhõm trước hình ảnh giờ trở nên thân quen ấy.

      vẫn ở đó à?” Tôi hỏi, với qua vai Matthew để đặt cốc vang trước mặt . Tôi nhíu mày. Tờ giấy của phủ đầy những biểu đồ X’s và O’s, trông giống như các công thức khoa học đại. Tôi nghi ngờ nó có liên quan đến hoạt động tình báo hoặc Đại Hội đồng, trừ phi phát minh ra loại mật mã mới. “ làm gì thế?”

      “Chỉ thử khám phá vài thứ thôi mà,” Matthew , trượt tờ giấy ra xa.

      “Thứ gì đó về di truyền học ư?” X’s và O’s gợi cho tôi nhớ đến môn sinh vật và những quả đậu Hà Lan của Gregor Mendel. Tôi kéo tờ giấy lại. Ở đó chỉ có X’s và O’s trang giấy. Tôi nhận ra những chữ cái đầu tên các thành viên trong gia đình Matthew: YC, PC, MC, MW. Những chữ khác thuộc về gia đình tôi: DB, RB, SB, SP. Matthew vẽ những mũi tên nối giữa các cá nhân và những đường thẳng chằng chéo nối từ thế hệ này sang thế hệ khác.

      “Chẳng có gì nghiêm trọng cả đâu,” Matthew , ngắt ngang suy xét của tôi. Đó là câu “ lời đáp” kinh điển của Matthew.

      “Em cho rằng cần thiết bị cho cái đó.” Ở dưới cùng trang giấy, vòng tròn khoanh hai chữ cái: B và C – Bishop và Clairmont – con của chúng tôi. Điều này có liên quan tới đứa bé.

      “Để rút ra bất kỳ kết luận nào tất nhiên là cần các thiết bị rồi.” Matthew nhấc cốc rượu và đưa nó lên môi.

      “Vậy giả thuyết của là gì?” Tôi hỏi. “Nếu nó liên quan đến con, em muốn biết đó là gì.”

      Matthew bỗng cứng người lại, hai cánh mũi phập phồng. cẩn thận đặt cốc rượu lên bàn và cầm lấy tay tôi, đặt môi lên cổ tay tôi trong cử chỉ có vẻ như của tình thương đắm đuối. Mắt đen thẫm lại.

      “Em gặp Hubbard,” vẻ kết tội.

      , bởi vì em tìm thấy .” Tôi kéo người ra. Đó là sai lầm.

      “Đừng thế chứ,” Matthew rít giọng, các ngón tay siết chặt lại. hít vào hơi run run. “Hubbard chạm vào em ở chỗ cổ tay. Chỉ cổ tay này thôi. Em có biết tại sao ?”

      “Bởi vì cố lôi kéo chú ý của em,” tôi .

      . ta cố giành lấy thứ là của . Mạch của em ở đây,” Matthew , ngón tay cái lướt lên mạch máu. Tôi run rẩy. “Dòng máu này ở gần bề mặt da đến mức có thể nhìn thấy cũng như ngửi thấy mùi của nó. Nhiệt lượng của nó khuếch đại bất cứ mùi hương xa lạ nào đặt ở đó.” Các ngón tay khoanh tròn quanh cổ tay tôi giống chiếc vòng tay. “Françoise ở đâu?”

      “Trong chợ Leadenhall. Em có Jack và Annie cùng. Có người ăn xin ở đó, và…” Tôi cảm thấy thoáng đau nhói rất nhanh. Khi tôi nhìn xuống, cổ tay tôi bị xé rách và máu phun ra từ loạt những vết khía nông cong cong. Dấu răng.

      “Đó là cách mà Hubbard có thể nhanh chóng lấy máu của em và biết được mọi điều về em.” Ngón tay cái của Matthew ấn mạnh vào vết thương.

      “Nhưng em thấy chuyển động,” tôi điếng người thốt ra.

      Đôi mắt đen thẫm của lóe lên. “Em cũng nhìn thấy Hubbard, nếu ta muốn tấn công.”

      Có lẽ Matthew cần phải quá mức bảo vệ tôi như thế.

      “Đừng để cho đến gần đủ để chạm vào em lần nữa. Chúng ta ràng chưa?”

      Tôi gật đầu, và Matthew bắt đầu từ từ kiểm soát cơn giận dữ của . Chỉ khi kiểm soát được nó rồi mới trả lời câu hỏi ban đầu của tôi.

      cố gắng xác định khả năng di truyền chứng cuồng máu của sang cho con chúng mình,” , thoáng cay đắng lộ ra trong giọng . “Benjamin có tai họa khốn khổ đó. Marcus . ghét cái thực tế là có thể nguyền rủa đứa trẻ vô tội bằng chứng bệnh ấy.”

      có biết tại sao Marcus và em trai Louis của có sức đề kháng đó, trong khi , Louisa và Benjamin ?” Tôi thận trọng tránh ám chỉ rằng chuyện này xảy đến với tất cả các con của . Matthew kể với tôi thêm khi – nếu – có thể.

      Hai vai mất đường nét sắc cạnh của chúng. “Louisa chết từ lâu trước khi có thể tiến hành các xét nghiệm thích đáng. có đủ dữ liệu để rút ra bất cứ kết luận đáng tin cậy nào.”

      “Dù vậy, giả thuyết,” tôi , nghĩ đến các biểu đồ của .

      luôn nghĩ chứng cuồng máu như bệnh truyền nhiễm và tin rằng Marcus và Louis có khả năng đề kháng tự nhiên với nó. Nhưng khi Goody Alsop cho chúng mình biết chỉ thợ dệt mới có thể mang thai đứa con của wearh, điều đó khiến băn khoăn, liệu có phải nhìn vấn đề này cách sai lầm . Có lẽ phải thứ gì đó trong Marcus kháng cự lại, mà chính là thứ gì đó trong tiếp thụ nó, giống như thợ dệt tiếp thụ hạt giống của wearh, giống bất kỳ phụ nữ loài máu nóng nào khác.”

      “Di truyền bẩm sinh ư?” Tôi hỏi, cố gắng bám lấy lý lẽ của .

      “Có lẽ thế. Thứ gì đó mang gen lặn hiếm bộc lộ ra khi cả bố và mẹ đều mang gen ấy. vẫn nghĩ mãi về người bạn Catherine Streeter của em và miêu tả của em về bà ta như là kẻ được ‘ban phước gấp ba lần’, như thể hệ gen của bà ta bằng cách nào đó lớn hơn tổng cộng các phần của nó hợp lại.” Matthew mau chóng chìm đắm vào câu đố trí tuệ phức tạp của chính mình. “Rồi sau đó bắt đầu tự hỏi, liệu việc em là thợ dệt có tình cờ lý giải cho năng lực thụ thai của em . Chuyện gì xảy ra nếu nó là kết hợp của những đặc điểm gen lặn – chỉ của em mà còn cả của nữa?” Tôi nhận thấy lùa hai bàn tay vào mái tóc trong dáng vẻ bối rối, mất phương hướng, dấu hiệu cho thấy cơn cuồng máu cuối cùng qua , tôi lặng lẽ thở dài nhõm.

      “Khi chúng mình quay trở về phòng thí nghiệm của , có thể kiểm tra giả thuyết này.” Tôi hạ giọng. “Và khi dì Sarah cùng Em nghe tin họ sắp trở thành bà dì, gặp khó khăn gì khi nhờ họ cho mẫu máu – hoặc nhờ trông em bé hộ đâu. Cả hai bọn họ đều ở trong tình trạng ham muốn làm bà đến khốn khổ và vẫn luôn mượn bọn trẻ hàng xóm từ nhiều năm nay để thỏa mãn cơn thèm.”

      Cuối cùng chuyện đó cũng gợi lên được nụ cười.

      “Ham muốn làm bà ư? biểu lộ thô lỗ.” Matthew lại gần tôi. “Ysabeau có khả năng cũng phát triển ham muốn kinh khủng đó từ hàng thế kỷ rồi ấy chứ.”

      “Chả dám nghĩ đến nữa cơ,” tôi nhún vai châm chọc đáp.

      Vào những lúc như thế này – khi chúng tôi chuyện về phản ứng của người khác trước tin tức mang thai của mình hơn là phân tích chính những phản ứng của chúng tôi với chuyện đó – tôi cảm thấy mình có thai. Cơ thể này vừa mới ghi nhận việc mang mầm sống mới. Ngày nối ngày liên tiếp bận rộn ở Hươu Đực và Vương Miện khiến chúng tôi dễ dàng quên mất rằng chẳng mấy chốc chúng tôi được làm cha mẹ. Tôi có thể lại khắp nơi nhiều ngày mà nghĩ gì về tình trạng cơ thể mình cả và chỉ nhớ đến khi trong đêm tối, Matthew đặt hai bàn tay lên bụng tôi lặng lẽ lắng nghe những dấu hiệu của sống mới này.

      thể chịu nổi khi nghĩ đến em trong hoàn cảnh nguy hiểm.” Matthew kéo tôi vào vòng tay . “Hãy cẩn thận, ma lionne,” thầm tóc tôi.

      “Em cẩn thận. Em hứa đấy.”

      “Em nhận ra nguy hiểm nếu nó đến với em cùng lời mời thân thiện.” kéo người ra xa để có thể nhìn sâu vào mắt tôi. “Chỉ cần nhớ: Ma cà rồng giống loài máu nóng. Đừng đánh giá thấp cách bọn có thể gây chết người như thế nào.”

      ***

      Lời cảnh cáo của Matthew vang vọng và kéo dài lâu sau khi thốt ra. Tôi nhận ra mình quan sát các ma cà rồng khác trong nhà để tìm những dấu hiệu cho thấy họ nghĩ đến chuyện di chuyển, hay họ đói hoặc mệt mỏi, bồn chồn hoặc chán nản. Các dấu hiệu khó thấy và rất dễ bỏ lỡ. Khi Annie ngang qua Gallowglass, hai mí mắt chàng hạ xuống, che lấp biểu lộ thèm thuồng, nhưng nó kết thúc nhanh đến nỗi, tôi nghĩ mình tưởng tượng ra nó, cũng như có thể tôi tưởng tượng ra cánh mũi phập phồng của Hancock khi nhóm sinh vật máu nóng qua dưới phố.

      Tuy nhiên, tôi tưởng tượng ra những khoản chi phí giặt là cho việc làm sạch máu quần áo của họ. Gallowglass và Hancock săn bắt và kiếm ăn trong thành phố, mặc dù Matthew tham gia cùng họ. tự giới hạn bản thân trong những thứ Françoise có thể kiếm về được từ chỗ những người bán thịt.

      Chiều thứ hai, khi Annie và tôi tới chỗ Mary theo thông lệ, tôi cảnh giác với mọi chuyện xung quanh hơn hẳn hồi mới đến đây. Lần này, tôi còn thưởng thức miệt mài những chi tiết của cuộc sống ở thời Elizabeth nữa, mà phán đoán chắc chắn xem chúng tôi có bị theo dõi hay đeo bám . Tôi giữ Annie an toàn trong tầm tay, còn Pierre giữ chặt Jack. Chúng tôi rút ra được bài học khó khăn đó, rằng đây là hy vọng duy nhất để có thể giữ thằng bé khỏi “tắt mắt”, như cách Hancock gọi. Bất chấp những nỗ lực của chúng tôi, Jack vẫn xoay sở để phạm vào cơ số những hành động trộm cắp vặt. Matthew lập ra gia quy mới nhằm cố gắng áp chế nó. Jack phải dốc sạch túi quần áo mỗi tối và thú nhận làm cách nào nó tình cờ có được những món đồ sáng bóng khác thường đó. Thế nhưng việc ấy chẳng làm chùn bước các hoạt động của thằng .

      Cứ nhìn vào những ngón tay bẫng của thằng bé Jack quả là đáng tin khi ở trong ngôi nhà đầy đủ tiện nghi của Nữ Bá tước Pembroke. Annie và tôi đành tách khỏi Pierre và Jack, vẻ mặt bé sáng rỡ lên trước viễn cảnh được tán chuyện dài dài với hầu của Mary - Joan cùng vài giờ tự do thoát khỏi đeo bám mong muốn của Jack.

      “Diana!” Mary hét lên khi tôi bước qua ngưỡng cửa phòng thí nghiệm của . Bất kể tôi bước vào đó bao nhiêu lần, nơi này chưa bao giờ thôi khiến tôi kinh ngạc tới nghẹt thở cả, với những bức tranh rực rỡ tường, minh họa cách làm đá tạo vàng. “Đến đây nào, tôi có thứ này cho xem.”

      “Cái này là ngạc nhiên của ư?” Mary cho rằng, ấy làm tôi vui sướng với màn trình diễn thành thạo về thuật giả kim.

      “Đúng thế,” Mary đáp và kéo cuốn sổ ghi chép bàn. “Nhìn này, giờ là ngày 18 tháng , và tôi bắt đầu công việc vào ngày 9 tháng Mười Hai. Nó mất đúng bốn mươi ngày – y như các nhà hiền triết hứa hẹn.”

      Bốn mươi là con số quan trọng trong thuật giả kim và Mary hẳn thực rất nhiều lần thí nghiệm này. Tôi nhìn lướt qua các ghi chép thí nghiệm của và cố gắng tìm hiểu xem ấy làm gì. Hai tuần qua, tôi học lỏm được cách viết tốc ký cùng các biểu tượng mà ấy dùng cho vô số các kim loại và vật chất. Nếu tôi hiểu đúng ấy bắt đầu quá trình này với ounce bạc hòa tan trong cường thủy – thứ “nước mạnh” của các nhà giả kim thuật, được biết đến trong thời đại của tôi dưới cái tên axit nitric. Mary cho thêm nước cất vào thứ này.

      “Có phải đây là cách đánh dấu thủy ngân ?” Tôi hỏi, chỉ vào nét khắc lạ.

      “Đúng thế – nhưng chỉ thủy ngân tôi lấy được từ nguồn tốt nhất ở Đức thôi.” Mary chi tiền tiếc tay khi nó liên quan đến phòng thí nghiệm của ấy, các chất hóa học hoặc dụng cụ thí nghiệm. ấy kéo tôi tới trước ví dụ khác mà ấy cầu chất lượng với bất cứ giá nào: chiếc bình cổ hẹp lớn bằng thủy tinh. Nó trong như pha lê và điểm nào hoàn hảo. Điều đó có nghĩa là nó đến từ Venice. Thủy tinh làm ở vùng Sussex của nước thường bị hỏng bởi những bọt tăm và các vết đen mờ. Nữ bá tước Pembroke thích đồ của Venice hơn – và bà có thể trang trải cho nó.

      Khi nhìn thấy thứ ở bên trong, tôi có cảm giác rùng mình kinh ngạc.

      cái cây bạc phát triển từ hạt giống dưới đáy chiếc bình. Các nhánh mọc ra từ thân cây, đâm chĩa ra tứ phía lấp đầy phần bình bằng những sợi bạc lấp lánh. Các hạt li ti ở đầu các nhánh cây khiến ta liên tưởng tới quả của nó, như thể cái cây này kết trái chín và sẵn sàng cho vụ thu hoạch.

      “Cây Dianæ,” Mary tự hào . “Dường như Chúa tạo cảm hứng cho tôi làm ra nó để chào mừng . Tôi cố thử trồng cái cây này trước đây, nhưng nó chưa bao giờ bén rễ cả. ai nhìn thấy thứ như thế này mà lại có thể nghi ngờ về tính chân và sức mạnh của thuật giả kim.”

      Cây của Diana là vật có thể nhìn thấy được. Nó tỏa ánh lấp lánh và lớn lên ngay trước mắt tôi, trổ ra những chồi non mới lấp đầy khoảng gian còn lại trong chiếc bình. Nó chẳng là gì hơn hỗn hợp bạc kết tinh hình cây, mớ kim loại chuyển thành thứ trông giống quá trình phát triển thực vật. Điều đó làm giảm đôi chút băn khoăn của tôi.

      Ở bức tường đối diện có hình con rồng ngồi cái bình – tương tự với cái bình mà Mary dùng để làm nhà cho cây Dianæ. Con rồng ngậm cái đuôi và những giọt máu của nó rơi vào thứ chất lỏng màu bạc bên dưới. Tôi nhìn hình ảnh kế tiếp trong loạt tranh này: chú chim của thần Hermes - nó bay về phía hôn lễ hóa học. Chú chim gợi tôi nhớ tới hình ảnh minh họa của đám cưới trong cuốn Ashmole 782.

      “Tôi nghĩ có thể phát minh ra phương pháp mới, nhanh chóng hơn, để đạt được cùng kết quả như thế,” Mary , kéo lại chú ý của tôi. ấy rút cây bút lông từ búi tóc, để lại vết bẩn ở vành tai. “ nghĩ hình ảnh gì ra, nếu chúng ta làm đầy bạc trước khi hòa tan nó vào cường thủy?”

      Chúng tôi dành buổi chiều để bàn luận thoải mái về các phương pháp mới tạo ra cây Dianæ, nhưng nó trôi qua quá nhanh.

      “Tôi gặp vào thứ Năm nhé?” Mary hỏi.

      “Tôi e là cái hẹn khác rồi,” tôi . Goody Alsop mong tôi có mặt ở chỗ bà ấy trước khi mặt trời lặn.

      Gương mặt Mary xịu xuống. “Vậy thứ Sáu?”

      “Thứ Sáu nhé,” Tôi đồng ý.

      “Diana à,” Mary ngập ngừng gọi, “ khỏe chứ?”

      “Khỏe mà,” tôi ngạc nhiên đáp. “Tôi có vẻ ốm à?”

      “Trông xanh xao và mệt mỏi đấy,” Mary thừa nhận. “Giống như hầu hết các bà mẹ, tôi thiên về… Ôi.” Mary đột ngột ngừng lại và khuôn mặt chuyển sang ửng hồng rạng rỡ. Ánh mắt hạ xuống bụng tôi, rồi lại bay trở lại khuôn mặt tôi. “ có em bé.”

      “Tôi có rất nhiều câu hỏi dành cho vào vài tuần tới đấy,” tôi , cầm lấy tay Mary và siết chặt lấy.

      có bao lâu rồi?” Mary hỏi.

      “Chưa lâu lắm,” tôi đáp, thận trọng giữ cho câu trả lời của mình mập mờ chút.

      “Nhưng đứa bé thể là của Matthew. Wearh thể làm cha đứa trẻ.” Mary và đưa tay lên chống bên má vẻ băn khoăn. “Matthew chào đón đứa bé này, cho dù nó phải của ấy chứ?”

      Mặc dù Matthew cảnh báo trước cho tôi rằng, mọi người mặc định đứa bé thuộc về người đàn ông khác, nhưng chúng tôi vẫn chưa bàn cách trả lời như thế nào. Tôi đành phải vụng chèo khéo chống thôi.

      ấy coi nó như máu mủ của chính mình,” tôi cách chắc chắn. Câu trả lời của tôi dường như chỉ làm tăng thêm mối bận tâm của ấy.

      may mắn vì Matthew quá vị tha mỗi khi chuyện liên quan đến việc bảo vệ những người cần được che chở. Và có thể thương đứa bé dù nó đến trái ngược với mong muốn của ?”

      Mary nghĩ tôi bị cưỡng bức – và có lẽ Matthew cưới tôi chỉ để che chở cho tôi khỏi nỗi sỉ nhục, khi mang thai mà còn độc thân.

      “Đứa bé vô tội. Tôi thể từ chối thương nó.” Tôi cẩn thận vừa phủ nhận cũng khẳng định những nghi ngờ của Mary. May mắn thay, ấy thỏa mãn với câu trả lời của tôi và theo đúng tính cách, thăm dò xa hơn nữa. “Như có thể hình dung đấy,” tôi thêm, “chúng tôi thiết tha muốn giữ kín tin này càng lâu càng tốt.”

      “Dĩ nhiên rồi,” Mary đồng ý. “Tôi bảo Joan làm cho chiếc bánh trứng mềm, nó tốt cho máu nhưng cũng rất êm ái đối với dạ dày, nếu ăn vào ban đêm trước khi ngủ. Nó giúp tôi rất nhiều trong lần mang thai cuối và dường như làm giảm những cơn ốm nghén của tôi vào buổi sáng.”

      “Tôi may phước vì chưa bị thế,” tôi trong lúc đeo găng tay. “Matthew báo trước với tôi là tình trạng ấy xuất bất cứ khi nào.”

      “Hừm,” Mary trầm ngâm. Mặt thoáng tối lại. Tôi cau mày tự hỏi, giờ điều gì làm ấy lo lắng. Nhưng ấy thấy vẻ mặt tôi và mỉm cười rạng rỡ. “ nên tránh mệt mỏi. Khi đến đây vào thứ Sáu, được phép đứng quá lâu mà hãy ngồi thoải mái chiếc ghế đẩu, trong khi chúng ta làm việc.” Mary săm soi chiếc áo choàng tay của tôi. “Hãy tránh khí ẩm lạnh. Và bảo Françoise đắp thuốc cho hai bàn chân nếu chúng bắt đầu phù lên. Tôi gửi công thức làm món bánh trứng và cho người lái thuyền đưa về Hẻm Water nhé?”

      “Chỉ mất có năm phút bộ thôi mà!” Tôi bật cười phản đối. Cuối cùng Mary cũng để tôi bộ về, nhưng chỉ sau khi tôi cam đoan với ấy là tránh chỉ khí ẩm ướt lạnh lẽo, mà còn cả nước lạnh và những tiếng ồn lớn nữa.

      Tối đó, tôi mơ thấy mình ngủ dưới thân cái cây mọc lên từ tử cung của tôi. Những cành cây che chắn cho tôi khỏi ánh trăng, trong khi tít cao con rồng bay xuyên qua màn đêm. Khi tới mặt trăng, đuôi con rồng cuộn tròn, cuốn quanh vầng trăng và thiên thể bàng bạc ấy biến thành màu đỏ.

      Tôi tỉnh giấc chiếc giường trống trải và tấm chăn đẫm máu.

      “Françoise!” Tôi hét lên, cảm thấy cơn co thắt đột ngột.

      Matthew lao đến thay vì Françoise. Khi đến bên cạnh tôi, cái nhìn kinh hoàng và mất mát gương mặt càng khẳng định nỗi sợ hãi trong lòng tôi.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      23.

      “Tất cả chúng ta đều mất những đứa bé mà, Diana,” Goody Alsop buồn bã . “Đó là nỗi đau mà hầu hết phụ nữ đều phải trải qua.”

      “Tất cả ư?” Tôi nhìn quanh căn phòng sinh hoạt chung của Goody Alsop, trong cuộc tụ họp của các phù thủy khu Garlickhythe.

      Những câu chuyện ồn ào bắt đầu vang lên, về những đứa bé mất trong khi sinh và những đứa khác chết khi được sáu tháng hoặc sáu năm. Tôi biết bất cứ người đàn bà nào sảy thai. Tôi cũng nghĩ mình phải chịu điều đó. Có phải trong những người bạn của tôi chịu đựng nỗi mất mát này mà tôi hề biết gì ?

      còn trẻ và khỏe mạnh,” Susanna . “ có lý do gì để cho rằng thể thụ thai đứa con khác.”

      có lý do nào cả, ngoại trừ thực tế là chồng tôi chạm vào tôi lần nữa, cho tới khi nào chúng tôi quay trở về vùng đất có thể kiểm soát sinh nở và theo dõi việc thụ thai.

      “Có lẽ thế,” tôi kèm theo cái nhún vai vô thưởng vô phạt.

      “Ông Roydon đâu rồi?” Goody Alsop lặng lẽ . Bóng hồn của bà lão lượn quanh phòng khách. Hình như nó nghĩ, có thể tìm thấy ấy ngồi bên bệ cửa sổ hay nóc tủ ly vậy.

      “Ra ngoài làm việc rồi ạ,” tôi , kéo chiếc khăn quàng mượn chặt hơn vào người. Chiếc khăn của Susanna, nó có mùi giống đường cháy và hoa chamomile, giống y như con người bà ấy.

      “Tôi nghe ta ở sảnh Middle Temple cùng với Christopher Marlowe tối qua, họ theo trò chơi và đổ hết tiền vào đó.” Catherine đưa hộp mứt quả mà bà mang đến cho Goody Alsop.

      “Đàn ông bình thường có thể tiều tụy và héo mòn khủng khiếp vì mất đứa con. Tôi ngạc nhiên khi wearh thấy chuyện đó khó khăn. Rốt cuộc bọn họ đều rất có tính chiếm hữu mà.” Goody Alsop với lấy thứ gì đó màu đỏ dạng sền sệt từ trong hộp mứt. “Cảm ơn bà, Catherine.”

      Mấy phụ nữ chờ đợi trong yên lặng. Họ hy vọng tôi đón lời mời mọc thận trọng của Goody Alsop và Catherine để kể cho họ nghe rằng Matthew và tôi ở trong tình trạng thế nào.

      ấy tốt thôi,” tôi nhanh.

      ta nên ở đây,” Elizabeth lạnh lùng . “Tôi thấy có lý do nào để mất mát của ta đau đớn hơn so với !”

      “Bởi vì Matthew chịu đựng trái tim tan vỡ cả nghìn năm rồi, còn tôi chỉ mới ba mươi ba năm,” tôi , giọng tôi cũng lạnh lùng kém. “ ấy là wearh, Elizabeth ạ. Tôi có ước ấy ở đây hơn ở ngoài kia với Kit ? Dĩ nhiên là có. Tôi van xin ấy ở lại Hươu Đực và Vương Miện vì lợi ích của tôi ư? Tuyệt đối .” Giọng tôi cao dần lên cùng với nỗi đau và tuyệt vọng dâng tràn. Matthew vẫn luôn ngọt ngào và dịu dàng với tôi. an ủi khi tôi đối mặt với hàng trăm giấc mơ mong manh về tương lai bị hủy diệt khi đánh mất đứa con của chúng tôi.

      ấy dành thời gian ở nơi nào khác mới là điều tôi quan tâm.

      “Lý trí mách bảo tôi rằng, Matthew phải có cơ hội được đau khổ theo cách riêng của ấy,” tôi . “Trái tim lại bảo, ấy tôi cho dù lúc này ấy thích được ở bên bạn bè hơn. Tôi chỉ ước sao ấy có thể chạm vào tôi mà hối hận.” Tôi có thể cảm thấy hối hận ấy mỗi khi ấy nhìn tôi, ôm tôi rồi nắm tay tôi. Điều đó thể chịu đựng nổi.

      “Tôi xin lỗi, Diana à,” Elizabeth với gương mặt đầy vẻ hối lỗi.

      “Ổn cả mà,” tôi cam đoan với bà.

      Nhưng nó hề ổn tẹo nào. Có cảm giác cả thế giới này bất đồng và sai trái, những màu sắc quá chói sáng, những thanh quá lớn khiến tôi nhảy dựng lên. Toàn thân trống rỗng, cho dù tôi có cố gắng đọc bao nhiêu nữa, từ ngữ cũng chẳng thể nào giữ cho tôi tập trung được.

      “Chúng tôi gặp vào ngày mai, như định,” Goody Alsop nhanh khi các phù thủy rời .

      “Ngày mai ư?” Tôi cau mày. “Tôi có tâm trạng nào để làm phép đâu, Goody Alsop.”

      “Tôi thể nhắm mắt xuôi tay nếu trông thấy dệt nên câu thần chú đầu tiên. Vậy nên tôi đợi khi tiếng chuông điểm sáu giờ.”

      ***

      Đêm hôm đó, tôi cứ nhìn đăm đăm vào ánh lửa trong lò sưởi, khi chuông điểm sáu tiếng, bảy, tám, chín, rồi mười tiếng. Khi chuông điểm ba tiếng, tôi nghe thấy thanh vang lên các bậc thang. Nghĩ rằng đó là Matthew, tôi ra cửa. Cầu thang vắng tanh, nhưng có bó đồ được đặt bậc thang: chiếc quần soóc dành cho trẻ còn ẵm ngửa, nhánh cây nhựa ruồi và tờ giấy vặn xoắn lại ghi tên người đàn ông đó. Tôi ngồi xuống bậc thang mòn trơ ra, gom tất cả chúng vào lòng và siết chặt chiếc khăn quàng quanh mình.

      Tôi vẫn còn cố đoán xem những món đồ tặng này có ý nghĩa gì và làm sao chúng tới được đây Matthew lao vọt lên các bậc cầu thang tiếng động. dừng khựng lại.

      “Diana.” đưa mu bàn tay lên quệt ngang miệng, mắt xanh lục và trong vắt như mặt hồ gợn sóng.

      “Ít nhất ăn khi ở bên cạnh Kit,” tôi trong lúc đứng lên. “ tốt khi biết rằng, tình bạn của còn có nhiều thứ hơn là thơ ca và cờ quạt.”

      Matthew nhấc bàn chân bốt lên bậc thang tôi đứng. dùng đầu gối ép tôi vào sát tường, chặn giữ tôi hoàn toàn. Hơi thở của ngọt lịm và thoảng mùi tanh kim loại.

      căm ghét bản thân mình vào buổi sáng đấy,” tôi bình tĩnh , quay đầu tránh . Tôi biết tốt hơn hết là làm thế, thay vì chạy khi vị máu vẫn còn môi . “Đáng lẽ Kit phải giữ lại bên cạnh cho tới khi liều thuốc hết tác dụng. phải tất cả máu ở London này đều có thuốc phiện trong đó chứ?” Đây là đêm thứ hai liên tiếp Matthew ra ngoài với Kit và về nhà trong trạng thái phê thuốc thế này.

      phải tất cả,” Matthew rên khẽ, “nhưng đó là cách dễ dàng nhất để trải qua chuyện này.”

      “Những thứ này là cái gì?” Tôi giơ chiếc quần soóc, nhành nhựa ruồi và cuộn giấy lên.

      “Chúng là dành cho em,” Matthew . “Có nhiều món hơn thế đến hàng đêm. Pierre và thu thập chúng trước khi em thức dậy.”

      “Chuyện này bắt đầu từ khi nào?” Tôi còn tự tin để gì thêm nữa.

      “Từ tuần trước – tuần em gặp hội đồng Rede ấy. Hầu hết là những lời thỉnh cầu giúp đỡ. Vì em – từ thứ Hai có những món quà dành cho em rồi.” Matthew chìa bàn tay ra. “ lo vụ này.”

      Tôi đặt tay mình lên tim. “Chỗ còn lại đâu rồi?”

      Miệng Matthew mím chặt lại, nhưng vẫn chỉ cho tôi chỗ cất giấu chúng – trong chiếc hộp ở gác mái, được nhét dưới gầm cái ghế băng. Tôi xem lướt các thứ đựng bên trong. Mấy thứ này hiểu sao khá giống những món Jack lôi từ trong túi ra mỗi tối: khuy áo, những mẩu ruy băng, mảnh bát đĩa bằng sành, cũng có cả những mớ tóc và hàng tá mẩu giấy viết những cái tên nguệch ngoạc. Mặc dù chúng hầu như vô hình trước mắt người thường, nhưng tôi có thể trông thấy những sợi dây tua tủa, treo lủng lẳng ở mỗi món báu vật này. Tất cả đều đợi được buộc lại, liên kết với nhau, hoặc cũng vá víu lại.

      “Đây là những cầu làm phép.” Tôi ngước lên nhìn Matthew. “ nên giấu em chuyện này.”

      muốn em trình diễn làm phép cho mọi sinh vật trong thành phố London này,” Matthew , mắt tối thẫm lại.

      “Thế à, em cũng chẳng muốn ra ngoài ăn mỗi tối trước khi uống rượu với bạn bè! Nhưng là ma cà rồng, vậy nên đó là điều thỉnh thoảng cần phải làm,” tôi vặn lại. “Em là phù thủy, Matthew ạ. Những cầu giống thế này phải được xử lý cẩn thận. an toàn của em phụ thuộc vào những mối quan hệ với láng giềng của chúng ta. Em thể ăn trộm thuyền giống như Gallowglass hay gầm gừ với mọi người được.”

      “Milord.” Pierre đứng ở đầu kia gác mái, nơi cái thang hẹp vặn xoắn dẫn xuống lối ra phía sau những cái máng giặt khổng lồ của các bà thợ giặt.

      “Gì cơ?” Matthew mất kiên nhẫn quát lên.

      “Agnes Sampson chết.” Pierre trông có vẻ sợ hãi. “Họ đưa bà ta tới Castlehill ở Edingburgh vào Chủ Nhật, thắt cổ bà ta sau đó hỏa thiêu.”

      “Chúa ơi.” Matthew tái nhợt .

      “Hancock bà ta chết hoàn toàn trước khi củi được châm lửa. Bà ta cảm thấy gì cả,” Pierre tiếp. Đó là đặc ân nho phải lúc nào phù thủy bị kết án cũng được ban cho. “Họ từ chối đọc thư của ngài, milord. Hancock được bảo rằng, hãy để mặc chuyện chính trị của người Scot cho vua Scot, nếu , họ đóng đinh ta khi ta ló mặt ở Edingburgh lần sau.”

      “Tại sao ta thể sửa chữa chuyện này chứ?” Matthew bùng nổ giận dữ.

      “Vậy hóa ra chỉ chuyện mất đứa bé khiến hướng tới tối tăm ở Kit. cũng trốn tránh các kiện xảy ra ở Scotland.”

      “Cho dù cố gắng để làm điều đúng đắn đến mức nào dường như cũng thể phá vỡ cục diện đáng nguyền rủa này,” Matthew . “Trước đây, với tư cách là đặc vụ của nữ hoàng, hài lòng trước những vấn đề rắc rối ở Scotland. Với tư cách là thành viên Đại Hội đồng, coi cái chết của Sampson là cái giá chấp nhận được để trả cho việc duy trì tình trạng cân bằng này. Nhưng giờ…”

      “Giờ cưới phù thủy,” tôi . “Và mọi thứ có vẻ đều khác trước.”

      “Đúng thế. bị kẹt giữa những điều từng tin tưởng và những gì giờ đây tha thiết muốn nắm giữ nhất, những điều có thời từng tự hào bảo vệ như tín điều và tầm trọng đại của những gì còn biết nữa.”

      “Tôi trở vào thành phố,” Pierre và quay ra cửa. “Có thể còn khám phá thêm nhiều chuyện khác nữa.”

      Tôi ngắm nhìn gương mặt mệt mỏi của Matthew. “ thể mong đợi hiểu được tất cả các tấn bi kịch cuộc đời, Matthew ạ. Em cũng ước gì chúng mình vẫn còn có đứa con. Và em biết ngay lúc này đây, điều đó dường như là vô vọng, nhưng có nghĩa là chẳng còn tương lai để chúng ta hướng tới – tương lai mà nơi đó con cái và gia đình chúng ta được an toàn.”

      lần sảy thai sớm trong quá trình mang thai gần như luôn là dấu hiệu cho thấy có dị tật di truyền làm cho bào thai thể sống sót được. Nếu chuyện đó xảy ra lần…” Tiếng lịm dần .

      “Có những dị tật di truyền làm tổn hại đến đứa bé,” tôi chỉ ra. “Lấy em làm ví dụ đây này.” Tôi chính là quái vật dị thường, với các cặp DNA tương xứng.

      thể chịu đựng được việc mất đứa con nào nữa, Diana ạ. chỉ… thể.”

      “Em biết mà.” Tôi mệt lử đến tận xương cốt và chỉ muốn có giấc ngủ lãng quên như thôi. Tôi bao giờ biết mặt đứa con của mình như biết Lucas và nỗi đau này vẫn thể nào chịu nổi. “Em phải có mặt ở nhà Goody Alsop vào sáu giờ tối nay.” Tôi ngước lên nhìn . “ lại ra ngoài với Kit à?”

      ,” Matthew khẽ . hôn lướt lên môi tôi đầy vẻ hối tiếc. “ cùng em.”

      ***

      Matthew quả thực làm đúng như lời , tháp tùng tôi tới chỗ Goody Alsop rồi tới quán Con Ngỗng Vàng với Pierre. Bằng phương thức lịch thiệp nhất có thể, các phù thủy giải thích rằng wearh được chào đón. Việc đưa thợ dệt trải qua bước thần chú đệm an toàn cầu huy động nguồn năng lượng phép thuật siêu nhiên rất lớn. Wearh chỉ làm cản trở mà thôi.

      Dì Sarah của tôi chắc hết sức chú ý vào cách Susanna và Marjorie tạo vòng tròn thiêng. số vật chất và dụng cụ khác họ dùng là quen thuộc – như muối họ rắc ván sàn để thanh tẩy gian – nhưng những thứ khác . Đồ nghề phù thủy của dì Sarah gồm hai con dao ( có tay cầm màu đen còn con kia màu trắng), cuốn bí kíp của nhà Bishop cùng vô số các loại thảo dược và cây cỏ. Các phù thủy thời Elizabeth cần nhiều đồ vật phong phú và đa dạng hơn để thực hành phép thuật, bao gồm cả những cây chổi nữa. Tôi chưa bao giờ trông thấy phù thủy cùng với cây chổi, ngoại trừ trong lễ Halloween, khi bọn họ làm lễ de rigueur, cùng những chiếc mũ chóp nhọn.

      Mỗi phù thủy của nhóm Garlickhythe mang theo cây chổi đặc biệt của riêng mình tới nhà Goody Alsop. Cây chổi của Marjorie rất thời trang, làm từ các nhánh cây đào. đỉnh cán chổi, còn được chạm khắc hình trang trí và biểu tượng. Thay vì các sợi rễ như bình thường, Marjorie buộc những cây thảo dược khô và những cành non vào thân chính thân cây chĩa ba thành những cành khẳng khiu. Bà bảo tôi rằng, các cây thảo dược này rất quan trọng đối với phép thuật của bà – cỏ long nha để phá bùa yểm, hoa cúc với những bông màu trắng và vàng dùng làm thuốc để kèm với năng lực bảo hộ, vẻ vững chắc của những chiếc lá hương thảo màu lục xám dùng để thanh tẩy và làm sạch. Chiếc chổi của Susanna được làm từ cây du, vốn là biểu tượng của các giai đoạn trong cuộc đời, từ khi sinh ra cho tới lúc chết và liên quan tới chuyên môn của bà, với tư cách là bà đỡ. Vì thế, chiếc chổi cũng vậy, nó có bó thực vật được buộc ở phía đầu, những chiếc lá lưỡi rắn xanh non mơn mởn dành để chữa lành vết thương, những bông cúc trắng thiên về năng lực bảo vệ, những chiếc lá có bông của cây cúc bạc giúp cho sức khỏe tốt.

      Marjorie và Susanna cẩn thận quét muối theo chiều kim đồng hồ cho tới khi những hạt muối trải đều khắp từng centimet khắp sàn. Marjorie giải thích muối chỉ tẩy sạch gian mà còn làm nền cho sức mạnh của tôi bị tràn ra thế giới khi nó được cởi trói hoàn toàn.

      Goody Alsop phong kín cửa sổ, cửa ra vào – thậm chí cả ống khói. Những hồn ma trong ngôi nhà được cho lựa chọn, tránh ở giữa các thanh rầm mái nhà hoặc tìm chỗ trú tạm thời nơi gia đình sống ở nhà dưới. Các hồn ma muốn bị lỡ mất bất cứ điều gì, và có hơi ghen tỵ với các bóng hồn, kẻ chẳng có lựa chọn nào khác ngoài việc ở bên cạnh các bà chủ, nhàng di chuyển quanh các thanh xà, bàn tán xem liệu có cư dân nào ở phố Newgate có được khắc yên bình vào lúc này, khi bóng ma ám ảnh của nữ hoàng Isabella thời Phục Hưng cùng kẻ giết người mang tên Phu nhân Agnes Hungerford quay lại cãi vã ầm ĩ.

      Elizabeth và Catherine trấn an tâm trạng bồn chồn lo lắng của tôi – và tránh các chi tiết khủng khiếp về những hành động khủng khiếp cùng cái chết của phu nhân Agnes – bằng cách chia sẻ về các cuộc phiêu lưu phép thuật xưa kia của họ rồi tìm hiểu những chuyến phiêu lưu của chính tôi. Elizabeth bị ấn tượng bởi cách tôi dẫn dòng nước chảy bên dưới vườn trái cây của dì Sarah, hút nó lên lòng bàn tay mình tạo thành từng giọt nối tiếp nhau. Còn Catherine sướng mê khi nghe tôi kể về cây cung và mũi tên nặng trịch như thế nào trong hai bàn tay tôi ngay trước lúc lửa phù thủy phóng ra.

      “Trăng lên rồi,” Marjorie , khuôn mặt tròn vành vạnh của bà ửng hồng lên cùng với vẻ dè chừng. Các cánh cửa chớp được đóng lại, nhưng ai trong các phù thủy hỏi han gì bà.

      “Đến giờ rồi đấy,” Elizabeth thúc giục mạnh mẽ.

      Mỗi phù thủy từ góc này tới góc kia căn phòng, bẻ nhành non từ cây chổi của mình xuống và đặt nó vào đó. Nhưng chất thành những đống lộn xộn, họ sắp xếp các nhành cây non chồng lên nhau và tạo thành ký hiệu, ngôi sao năm cánh của phù thủy.

      Goody Alsop và tôi tiến tới vị trí của mình ở chính giữa vòng tròn. Mặc dù nhìn thấy được ranh giới của nó, nhưng điều đó thay đổi khi các phù thủy khác chiếm lấy vị trí đặt trước của họ. Khi họ vào đúng chỗ, Catherine lẩm nhẩm đọc câu thần chú và đường lửa vòng cung di chuyển từ phù thủy này sang phù thủy kia, bao kín vòng tròn.

      Sức mạnh dâng lên giữa tâm vòng tròn. Goody Alsop báo cho tôi biết rằng, những gì chúng tôi làm tối nay là cầu khấn những phép thuật cổ xưa. Rất nhanh, làn sóng năng lượng bùng lên ấy bị thế chỗ bởi cảm giác râm ran, bứt rứt, vỗ , giống như hàng nghìn cái liếc nhìn của phù thủy.

      “Hãy nhìn quanh bằng con mắt của phù thủy ,” Goody Alsop , “và cho ta biết thấy gì.”

      Khi con mắt thứ ba của tôi mở ra, tôi hơi mong đợi trông thấy chính khí kia cũng chuyển hóa thành sống, mọi phân tử đều tràn đầy năng lực. Thay vào đó, căn phòng lại tràn đầy những sợi tơ phép thuật.

      “Những sợi chỉ tơ,” tôi , “như thể thế giới này chẳng hơn gì tấm thảm thêu.”

      Goody Alsop gật đầu. “ thợ dệt bị ràng buộc với thế giới xung quanh và thấy nó trong hình dáng những sợi tơ cùng sắc màu. Trong khi có vài nút thắt kiềm chế sức mạnh phép thuật của , cũng có những thứ khác hướng sức mạnh trong máu tới bốn nguyên tố tự nhiên và những bí vĩ đại nằm dưới chúng.”

      “Nhưng tôi biết làm cách nào để bảo chúng tách ra.” Hàng trăm sợi tơ cọ xát vào váy áo người tôi.

      nhanh chóng kiểm nghiệm được chúng thôi, giống như chim non thử bay bằng đôi cánh của nó, để khám phá những điều bí mật chúng dành cho . Giờ chúng ta chỉ đơn giản là cắt chúng thôi, để cho chúng có thể quay lại cởi trói cho . Khi tôi cắt các sợi tơ, phải kháng cự lại cảm giác thôi thúc muốn nắm lấy sức mạnh quanh mình. Bởi vì là thợ dệt, muốn hàn gắn lại những gì bị phá vỡ. Hãy mặc các ý nghĩ được tự do và để đầu óc trống rỗng. Hãy để cho sức mạnh đó tự hành động.”

      Goody Alsop thả cánh tay tôi ra và bắt đầu dệt câu thần chú của bà với những thanh nghe giống như ra nhưng lại quen thuộc đến lạ kỳ. Mỗi lời thốt ra, tôi lại trông thấy những sợi chỉ bé sà xuống quanh người và xoáy tròn. tiếng gầm thét bên tai tôi. Như mệnh lệnh, hai cánh tay tôi tuân theo thanh kia, nâng lên và duỗi thẳng ra, cho tới khi tôi đứng đúng ở tư thế hình chữ T mà Matthew đặt tôi đứng trong nhà Bishop khi tôi rút nước từ dưới mặt đất ở vườn ăn trái cũ của dì Sarah.

      Các sợi tơ phép thuật – tất cả đều là những sợi chỉ đầy sức mạnh mà tôi có thể mượn nhưng thể nắm giữ – chúng trườn trở về phía tôi như thể được làm từ vụn sắt, còn tôi chính là thỏi nam châm. Khi chúng đến nằm trong hai bàn tay, tôi phải vật lộn chống lại thôi thúc muốn nắm tay lại. Khao khát muốn làm điều đó quá mạnh mẽ, đúng như Goody Alsop dự đoán trước, nhưng tôi để cho chúng trượt da mình như những sợi ruy băng bằng sa tanh trong câu chuyện mẹ tôi kể ngày bé.

      Mọi chuyện diễn ra như Goody Alsop . Nhưng ai tiên đoán được những gì có thể xảy ra khi sức mạnh của tôi thành hình, và các phù thủy đứng xung quanh vòng tròn cố gắng chống trụ bản thân khi gặp phải điều biết . Goody Alsop cảnh báo tôi rằng, phải mọi thợ dệt đều tạo được hình bóng hồn thân thuộc tùy thân trong câu thần chú đệm, vậy nên tôi trông mong nó xuất . Nhưng cuộc đời tôi trong mấy tháng qua dạy tôi rằng, những gì mong đợi lại thường có khả năng hay xảy ra khi có mặt tôi.

      Tiếng gầm thét dữ dội hơn và bầu khí bị khuấy động. quả cầu năng lượng xoáy tròn, treo lơ lửng thẳng hướng đầu tôi. Nó rút sức mạnh từ căn phòng, nuốt hết vào trung tâm giống như cái lỗ đen. Con mắt phù thủy của tôi đóng chặt lại trước cảnh tượng mờ mịt như mặt nước bị khuấy đục ấy.

      Có thứ gì đó nở ra rồi co lại theo nhịp giữa cơn bão. Nó kéo giãn ra rồi tiếp tục hình thành cái bóng tối mờ. Ngay lúc đó, Goody Alsop đột ngột nín lặng. Bà nhìn tôi lần cuối cùng, lâu, trước khi để mặc tôi mình ở trung tâm vòng tròn.

      Rồi xuất đôi cánh đập đập, cái đuôi có ngạnh ve vẩy và hơi thở ướt át, nóng bỏng liếm qua má tôi. Sinh vật trong suốt có cái đầu rồng bay lơ lửng , đôi cánh sáng rực đập vào xà nhà và xua những bóng ma chạy tứ tán tìm chỗ nấp. Nó chỉ có hai chân cùng vài móng vuốt cong cong trông đầy chết chóc, y như mấy cái ngạnh nhọn hoắt chiếc đuôi dài của nó.

      “Nó có bao nhiêu cái chân thế?” Marjorie hỏi với vào vì từ vị trí của bà ấy nhìn thấy . “Chỉ là con rồng thôi phải ?”

      Chỉ là con rồng ư?

      “Nó là con rồng lửa,” Catherine băn khoăn . Bà nâng hai cánh tay lên sẵn sàng ném ra câu thần chú bảo vệ, nếu con vật kia định tấn công. Hai cánh tay Elizabeth Jackson cũng di chuyển theo.

      “Đợi !” Goody Alsop hét lên, ngắt ngang quá trình làm phép của họ. “Diana vẫn chưa hoàn thành việc dệt thần chú. Có lẽ ấy tìm ra cách thuần hóa nàng ta.”

      Thuần hóa nàng ta ư? Tôi ngờ vực nhìn Goody Alsop. Thậm chí, tôi còn chắc chắn liệu sinh vật trước mặt tôi là dạng vật chất hay thực thể có linh hồn. nàng có vẻ là , nhưng tôi lại có thể nhìn xuyên qua nó.

      “Cháu biết phải làm gì nữa,” tôi , bắt đầu cảm thấy hốt hoảng. Mỗi cái đập cánh của sinh vật này lại mang đến màn trình diễn những tia lửa. Tàn lửa rơi xuống khắp phòng.

      vài câu thần chú khởi đầu bằng ý tưởng, những cái khác lại là nghi vấn. Có rất nhiều cách để nghĩ về những gì xảy đến tiếp theo: thắt cái nút, xoắn sợi dây thừng, thậm chí là rèn sợi xích giống như cái tạo ra để nối giữa và wearh của ấy,” Goody Alsop với giọng điệu hạ xuống êm ái hơn. “Hãy để sức mạnh di chuyển qua người .”

      Con rồng lửa gầm lên mất kiên nhẫn, mấy bàn chân của nó vươn về phía tôi. nàng muốn gì chứ? Cơ hội nhấc tôi lên và mang tôi ra khỏi ngôi nhà ư? chỗ dễ chịu để nó đậu xuống cho đôi cánh nghỉ ngơi ư?

      Sàn nhà phía dưới tôi nứt ra.

      “Tránh ra nào!” Marjorie la lên.

      Tôi di chuyển vừa kịp lúc. Thoáng chốc, cái mầm nảy lên từ đúng chỗ tôi vừa đứng. Thân cây vươn cao, chia thành hai nhánh cứng cáp và đâm cành ra xa. Chồi non nảy nở thành những chiếc lá xanh, rồi thành những nụ hoa trắng và cuối cùng là những trái chín mọng đỏ. Chỉ trong vài giây, tôi đứng dưới cái cây hoàn toàn trưởng thành, cùng lúc nở hoa kết trái.

      Hai bàn chân con rồng lửa quặp lấy vài cành cây cao nhất. Thoáng cái có vẻ như nàng nghỉ ngơi ở đó rồi. cành cây phát ra tiếng răng rắc. Con rồng lửa lại nâng mình lên , mẩu cành cây lởm chởm vướng vào đuôi nó. Cái lưỡi của nàng rồng lửa thè ra phóng lửa, cái cây bùng cháy. Có quá nhiều đồ dễ bắt lửa trong phòng – sàn nhà và đồ đạc bằng gỗ, vải vóc quần áo các phù thủy mặc. Tất cả những gì tôi có thể nghĩ là phải chặn lại ngọn lửa lan ra. Tôi cần nước – rất nhiều nước.

      Cảm giác bàn tay phải nặng trĩu. Tôi nhìn xuống, hy vọng thấy cái xô. Nhưng thay vào đó, tôi lại nắm cây cung. Lửa phù thủy. Nhưng có thêm lửa có gì tốt cơ chứ?

      , Diana! Đừng cố định hình câu thần chú đấy!” Goody Alsop cảnh cáo.

      Tôi cố gắng rũ bỏ các ý nghĩ liên quan đến mưa và sông hồ. Ngay khi tôi làm thế, bản năng lại lấn át và hai cánh tay tôi nâng tới trước, bàn tay phải kéo ra sau. Ngay khi các ngón tay nhả ra, mũi tên bay vào đúng tâm cái cây. Ngọn lửa phóng vọt lên cao và rất nhanh, làm tôi lóa mắt. Hơi nóng dịu xuống khi tầm nhìn của tôi trở lại, tôi thấy mình đỉnh ngọn núi dưới bầu trời sao mênh mông. vầng trăng lưỡi liềm lớn treo lưng chừng nơi chân trời.

      “Ta đợi con đây.” Giọng của nữ thần thoảng qua như làn gió . Bà mặc chiếc áo choàng mềm mại, mái tóc đổ xuống như dòng thác sau lưng bà. thấy bóng dáng những món vũ khí thường thấy, nhưng con chó to lớn bước êm như ru tới bên cạnh bà. Nó lớn và đen đến mức có thể là con sói đúng hơn.

      “Người.” cảm giác khiếp sợ vây xoắn lấy tim tôi. Tôi vẫn chờ đợi gặp nữ thần kể từ lúc mất đứa bé. “Có phải người mang đứa con của con để đổi lấy việc cứu sống Matthew ?” Câu hỏi bật thốt ra vừa giận dữ lại vừa có phần tuyệt vọng.

      . Món nợ đó được định đoạt. Ta lấy thứ khác rồi. đứa trẻ chết ích gì với ta cả.” Đôi mắt của nữ thợ săn xanh ngắt như những chồi non đầu tiên của cây liễu khi vào xuân.

      Máu toàn thân tôi lạnh ngắt. “Người lấy mạng sống của ai?”

      “Con.”

      “Của con ư?” Tôi điếng người thốt lên. “Con … chết rồi ư?”

      “Dĩ nhiên là chưa. Người chết thuộc về kẻ khác. Người sống mới là thứ ta kiếm tìm.” Giọng của nữ thợ săn lúc này xuyên thấu và tỏa sáng rạng ngời như ánh trăng. “Con hứa hẹn ta có thể lấy bất cứ người nào – bất cứ thứ gì – để đổi lại mạng sống của người con . Ta chọn con. Và ta còn chưa xong việc với con đâu.”

      Nữ thần lùi lại. “Con tặng cuộc đời con cho ta, Diana Bishop. Giờ đến lúc dùng đến nó rồi.”

      tiếng gào phía đầu báo động cho tôi về diện của con rồng lửa. Tôi ngước nhìn lên, cố phân biệt hình dáng nữ thần với mặt trăng. Khi tôi chớp mắt, hình dáng bà hoàn toàn biến mất trước trần nhà của Goody Alsop. Tôi trở lại ngôi nhà của phù thủy, còn ở đỉnh đồi cằn cỗi cùng với nữ thần nữa. Cái cây biến mất và chỉ còn là đống tro tàn. Tôi lại chớp mắt.

      Rồng lửa chớp mắt đáp trả tôi. Đôi mắt nàng buồn bã và quen thuộc – đen láy, với hai tròng mắt màu bạc chứ phải màu trắng. Lại tiếng gào chói tai khác, nó nhả móng vuốt ra. cành cây giống như thân mũi tên rơi xuống cánh tay tôi. Cảm giác nó nặng hơn kích thước thực tế. Rồng lửa khẽ lắc lư đầu, những làn khói từ hai lỗ mũi nó phun ra. Tôi bị cám dỗ muốn với lên chạm vào nó, băn khoăn biết da nó có ấm áp và mềm mại như da rắn, nhưng điều gì đó với tôi rằng nàng chào đón hành động ấy. Tôi muốn làm nó giật mình. Nó có thể giật lùi và thọc đầu qua mái nhà. Tôi lo lắng về trạng ngôi nhà của Goody Alsop sau vụ cái cây và đám lửa.

      “Cảm ơn nhé,” tôi thầm.

      Rồng lửa đáp lại bằng tiếng rên rỉ khe khẽ. Đôi mắt màu đen-bạc của nàng trông cổ xưa và khôn ngoan khi chăm chú quan sát tôi, cái đuôi quật ngang quật dọc vẻ trầm ngâm. Nó sải cánh dang rộng hết mức trước khi thu chúng lại quanh thân mình và mờ dần .

      Tất cả những gì còn lại của rồng lửa là cảm giác râm ran nhoi nhói trong lồng ngực. Chúng với tôi rằng, bằng cách nào đó nàng ở trong tôi và chờ đợi cho tới khi tôi cần nó. Với sức nặng trĩu do có con vật này trong người, tôi khuỵu xuống hai đầu gối. Cành cây rơi cạch xuống sàn nhà, các phù thủy đổ xô tới.

      Goody Alsop tới với tôi đầu tiên, bà vòng hai cánh tay gầy guộc ôm tôi sát vào người. “Con làm tốt lắm, con của ta, làm tốt lắm,” bà thầm. Elizabeth khum bàn tay và thầm vài lời, biến nó thành cái muôi nông bằng bạc đầy nước. Tôi uống tới khi cạn nước, nó quay trở lại thành bàn tay.

      ngày trọng đại, Goody Alsop,” Catherine với gương mặt rạng rỡ nụ cười.

      “Đúng thế, và là ngày vất vả đối với phù thủy trẻ,” Goody Alsop . “Ở con chẳng có gì là nửa vời cả, Diana Roydon. Đầu tiên con phải là phù thủy bình thường mà là thợ dệt. Và rồi con dệt câu thần chú đệm gọi ra cây thanh hương trà đơn giản chỉ để thuần phục rồng lửa. Nếu ta có tiên tri thấy trước chuyện này, ta cũng tin nổi.”

      “Cháu gặp nữ thần,” tôi giải thích khi họ giúp tôi đứng lên, “và con rồng.”

      “Đó phải rồng,” Elizabeth .

      “Nó có hai chân,” Marjorie giải thích. “Điều đó khiến cho nó chỉ là sinh vật của lửa mà còn là của nước nữa và nó có khả năng chuyển đổi qua lại giữa các nguyên tố tự nhiên này. Con rồng lửa này là hợp nhất của các mặt đối lập.”

      “Con rồng lửa là cây thanh hương trà cũng là ,” Goody Alsop với nụ cười tự hào. “ phải ngày nào cây thanh hương trà cũng đâm chồi nảy lộc trong thế giới này trong khi rời gốc rễ của nó khỏi thế giới khác.”

      Bất chấp những tiếng bàn tán trò chuyện vui vẻ của các bà quanh mình, tôi nhận ra mình nghĩ đến Matthew. ấy đợi ở quán Con Ngỗng Vàng để chờ tin tức. Con mắt thứ ba của tôi mở ra, tìm thấy sợi chỉ bện màu đen và đỏ dẫn từ trái tim tôi, ngang qua căn phòng, xuyên qua ổ khóa, vào trong bóng đêm xa xa. Tôi giật mạnh nó, và chuỗi xích bên trong tôi hồi đáp lại bằng tiếng ngân nga đồng cảm.

      “Nếu ta nhầm ông Roydon xuất ở đây nhanh thôi để đón vợ mình,” Goody Alsop vẻ lạnh lùng. “Để chúng ta giúp đứng lên nào, thôi ông ta lại nghĩ chúng ta đáng tin tưởng để chăm lo .”

      “Matthew có lẽ hơi bảo bọc quá,” tôi ngượng ngùng . “Thậm chí còn hơn vậy nữa kể từ khi…”

      “Ta chưa bao giờ biết có wearh nào như thế. Đó là bản chất của bọn họ rồi,” Goody Alsop trong lúc giúp tôi đứng lên. Bầu khí lại lưu thông, nhàng mơn man da khi tôi di chuyển.

      “Ông Roydon cần phải lo sợ trong trường hợp này,” Elizabeth . “Chúng ta đảm bảo con có thể tìm thấy đường trở về từ trong bóng tối, cũng giống như con rồng của con đấy.”

      “Bóng tối nào cơ ạ?”

      Các phù thủy im lặng.

      “Bóng tối nào cơ?” Tôi lặp lại, gạt cơn mệt mỏi qua bên.

      Goody Alsop thở dài. “Có những phù thủy – rất ít thôi – họ có thể di chuyển từ thế giới này sang thế giới kia.”

      “Những người se sợi thời gian,” tôi gật đầu . “Vâng, con biết. Con cũng là trong số đó.”

      phải giữa thời đại này tới thời đại khác, Diana ạ, mà là giữa thế giới này với thế giới khác cơ.” Marjorie ra hiệu về cái nhánh cây dưới chân tôi. “ sống và cái chết. Con có thể cùng lúc ở trong hai thế giới này. Đó là lý do tại sao cây thanh hương trà chọn con, chứ phải cây tống quán sủi hay cây bu lô.”

      “Chúng ta băn khoăn liệu có phải vì chuyện này . Rốt cuộc, con có thể thụ thai đứa con của wearh.” Goody Alsop nhìn tôi đầy ý. Mặt tôi trắng bệch. “Chuyện gì thế, Diana?”

      “Quả mộc qua và những bông hoa.” Hai đầu gối tôi lại nhũn ra nhưng tôi vẫn cố đứng vững. “Chiếc giày của Mary Sidney và cây sồi ở Madison.”

      “Và wearh đó,” Goody Alsop khẽ , hiểu những gì tôi với bà. “Quá nhiều dấu hiệu chỉ ra rằng đó là .”

      tiếng đập thình thình nhưng cố nén lại vang lên từ ngoài cửa.

      ấy được phép biết,” tôi nài nỉ và tóm lấy tay Goody Alsop. “ phải bây giờ. Còn quá sớm sau chuyện đứa bé và Matthew muốn cháu can thiệp vào các vấn đề sống chết.”

      “Chuyện đó hơi muộn mất rồi,” bà lão buồn bã .

      “Diana!” Nắm tay Matthew nện lên cánh cửa.

      “Chàng wearh này bửa tấm gỗ ra làm hai mất,” Marjorie nhận xét. “Ông Roydon thể phá vỡ bùa chú được liên kết và tiến vào, nhưng cánh cửa hẳn là bị bửa ra đáng sợ khi bùa chú được gỡ bỏ . Hãy nghĩ đến hàng xóm láng giềng của bà nữa, Goody Alsop.”

      Goody Alsop phất tay qua. Bầu khí như dày lên rồi thả lỏng ra.

      Matthew đứng sát sàn sạt trước mặt tôi tới mức tôi có thể nghe thấy được cả nhịp tim . Đôi mắt màu xám của quét khắp người tôi. “Chuyện gì xảy ra ở đây thế?”

      “Nếu Diana muốn ông biết, con bé kể với ông,” Goody Alsop và quay sang tôi. “Với những gì diễn ra tối nay, ta nghĩ ngày mai, con nên dành thời gian cho Catherine và Elizabeth.”

      “Cảm ơn bà Goody,” tôi thầm với lòng biết ơn bà tiết lộ những bí mật của tôi.

      “Đợi nào.” Catherine tới chỗ cành cây thanh hương trà và bẻ nhành non khẳng khiu. “Cầm lấy cái này. Lúc nào con cũng nên mang theo người mẩu để làm bùa may mắn.” Catherine thả mẩu gỗ vào lòng bàn tay tôi.

      chỉ Pierre mà ngay cả Gallowglass và Hancock cũng đợi chúng tôi dưới đường. Họ đẩy tôi lên con thuyền đợi sẵn ở cuối Đồi Garlic. Sau khi trở về Hẻm Water, Matthew đuổi mọi người bỏ lại chúng tôi trong tĩnh lặng hạnh phúc nơi phòng ngủ riêng.

      cần biết chuyện gì xảy ra,” Matthew cộc cằn , đóng cửa phòng lại sau lưng. “ chỉ cần biết rằng em ổn cả thôi.”

      “Em khỏe mà.” Tôi quay lưng về phía để có thể nới dây buộc thân váy của tôi.

      có thể ngửi thấy em lo sợ điều gì đó.” Matthew xoay người tôi lại đối diện với .

      “Em sợ những gì em có thể khám phá về chính bản thân mình.” Tôi nhìn thẳng vào mắt .

      “Em tìm thấy về mình.” Giọng nghe chắc chắn và quá mức dửng dưng. Nhưng biết về con rồng và cây hương thanh trà cũng như ý nghĩa của chúng đối với thợ dệt. Matthew biết rằng, cuộc sống của tôi thuộc về nữ thần, cũng biết nó chính là cái giá mà tôi phải trả để cứu .

      ra sao nếu em trở thành người khác và thích con người đó?”

      có khả năng đó đâu,” cam đoan và kéo tôi lại gần.

      “Thậm chí nếu chúng ta phát ra quyền năng nắm giữ sống và cái chết nằm trong máu em ư?”

      Matthew xích người ra.

      “Việc cứu ở Madison phải là may mắn đâu Matthew. Em cũng thổi sống vào đôi giày của Mary – cũng như hút sống ra khỏi cây sồi ở nhà dì Sarah và những trái mộc qua ở đây.”

      sống và cái chết là những trách nhiệm lớn lao.” Đôi mắt màu xanh xám của Matthew thẫm lại. “Nhưng vẫn em bất kể điều gì. Em quên, cũng có quyền năng chi phối sống và cái chết. Em với điều gì vào cái đêm tiếp tục săn ở Oxford nhỉ? Em chúng mình chẳng có gì khác nhau cả. ‘Có lúc em ăn thịt gà gô. Có lúc uống máu hươu nai.’

      “Chúng mình càng tương đồng, em và , hơn cả chúng mình tưởng tượng,” Matthew tiếp tục. “Nhưng nếu em có thể tin tưởng vào điều tốt đẹp trong , vậy em phải cho phép cũng tin tưởng em như thế.”

      Đột nhiên tôi muốn chia sẻ những bí mật của mình. “Có con rồng lửa và cái cây…”

      “Và điều quan trọng duy nhất là em về nhà an toàn,” và khiến tôi yên lặng bằng nụ hôn.

      Matthew ôm tôi lâu và chặt đến nỗi trong những khoảnh khắc hạnh phúc ấy, tôi – hầu như – tin .

      ***

      Ngày hôm sau, tôi đến nhà Goody Alsop để gặp Elizabeth Jackson và Catherine Streeter như hứa. Annie tháp tùng tôi nhưng con bé bị xua tới nhà Susanna để chờ cho tới lúc giờ học của tôi kết thúc.

      Cành cây thanh hương trà được dựng đứng trong góc phòng. Mặt khác căn phòng trông hoàn toàn bình thường, hề có dấu vết giống nơi các phù thủy vẽ vòng tròn thiêng hay triệu gọi rồng lửa. Nhưng tôi mong đợi thấy thêm những dấu hiệu ràng cho thấy sắp tiến hành làm phép – có lẽ là cái vạc hay những cây nến nhiều màu sắc để biểu thị cho các nguyên tố tự nhiên.

      Goody Alsop ra hiệu về phía cái bàn, nơi có bốn chiếc ghế bành được sắp đặt sẵn.

      “Đến đây và ngồi xuống , Diana. Chúng ta nghĩ có thể bắt đầu từ điểm khởi đầu. Hãy kể cho chúng ta về gia đình của con. Nhiều chuyện được hé mở dựa vào việc lần theo dòng dõi của phù thủy đấy.”

      “Nhưng cháu nghĩ các vị dạy cháu cách dệt thần chú bằng lửa và nước.”

      “Máu là gì, nếu phải là lửa và nước?” Elizabeth .

      Ba tiếng đồng hồ sau, tôi được chuyện về thời thơ ấu và moi móc trí nhớ của mình tới kiệt sức – cảm giác bị theo dõi, chuyện viếng thăm nhà Peter Knox, cái chết của bố mẹ. Nhưng ba bà phù thủy dừng lại ở đó. Tôi cũng phải hồi tưởng lại từng thời khắc ở trường trung học và đại học: các tinh đeo bám theo, vài câu thần chú tôi có thể thực gây quá nhiều rắc rối, những việc lạ lùng chỉ bắt đầu sau khi tôi gặp Matthew. Nếu có bất cứ manh mối nào từ đó, tôi cũng chả nhìn ra nổi, nhưng Goody Alsop khi tiễn tôi cam đoan rằng họ lên kế hoạch nhanh chóng.

      Tôi lê bước tới lâu đài Baynard. Mary nhét tôi vào chiếc ghế bành và từ chối trợ giúp của tôi, khăng khăng là tôi phải nghỉ ngơi trong khi ấy tìm ra điểm sai ở mẻ prima materia của chúng tôi. Toàn bộ hợp chất biến thành màu đen xì như bùn nhão, với lớp màng nhớp nháp như phin mỏng, hơi xanh xanh ở cùng.

      Tôi lơ đãng suy nghĩ trong khi Mary làm việc. Hôm nay trời nắng, tia nắng xuyên qua bầu khí mù sương, rơi bức bích họa miêu tả con rồng giả kim thuật. Tôi nhoài người ghế.

      ,” tôi thốt lên. “ thể là nó.”

      Nhưng đúng là nó. Con rồng phải là rồng vì nó chỉ có hai chân. Nó là con rồng lửa và ngậm cái đuôi lởm chởm ngạnh nhọn trong miệng, giống như con mãng xà cờ của nhà de Clermont. Đầu rồng lửa nghiêng lên bầu trời và ngậm vầng trăng lưỡi liềm. ngôi sao nhiều cánh mọc phía . Biểu trưng của Matthew. Sao tôi lại nhận ra từ trước nhỉ?

      “Chuyện gì thế, Diana?” Mary nhíu mày hỏi.

      có thể làm việc cho tôi được , Mary, cho dù cầu này có hơi kỳ quái?” Tôi tháo sợi dây lụa ở cổ tay áo trong khi mong đợi câu trả lời của Mary.

      “Dĩ nhiên là được rồi. cần gì vậy?”

      Con rồng lửa những giọt máu chảy ngoằn ngoèo vào tấm khăn voan giả kim thuật bên dưới đôi cánh của nó. Ở đó, máu hòa vào biển thủy ngân và bạc.

      “Tôi muốn lấy máu của tôi cho vào hỗn hợp của cường thủy, bạc và thủy ngân,” tôi . Mary liếc nhìn từ tôi sang con rồng lửa rồi quay trở lại. “Vì máu là gì nếu phải là lửa và nước, là kết hợp của các mặt đối lập, và là hôn lễ hóa học?”

      “Được thôi, Diana,” Mary đồng ý, nghe . Nhưng ấy hỏi gì thêm.

      Tôi búng lên vết sẹo cánh tay mình. Lần này tôi cần dao. Làn da tách ra y như tôi biết, máu trào ra bởi vì tôi cần nó. Joan lao tới với cái tô để hứng thứ chất lỏng đỏ tươi ấy. bức tường, những đôi mắt màu đen bạc của rồng lửa dõi theo những giọt máu khi chúng xuống.

      “Tất cả bắt đầu từ thiếu vắng và nỗi thèm khát, tất cả bắt đầu từ máu và nỗi sợ hãi,” tôi thầm.

      “Tất cả bắt đầu với khám phá về loài phù thủy,” thời gian đáp lời trong tiếng vang vọng nguyên sơ, làm sáng bừng lên những sợi tơ màu lục và hổ phách lấp lánh các bức tường đá của căn phòng.

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      24.
      “Nó cứ thế mãi à?” Tôi đứng chống nạnh, cau mày lại và nhìn chằm chằm lên trần nhà Susanna.
      ta chứ, Diana. Rồng lửa của con là giống cái đấy,” Catherine . Bà cũng nhìn lên trần nhà với vẻ mặt thích thú.
      ta. Nó. Cái đó.” Tôi chỉ lên. Tôi vẫn cố gắng dệt câu thần chú con rồng của tôi thoát ra khỏi nơi giam giữ là lồng ngực tôi. Lại lần nữa. Giờ nàng dán chặt lên trần nhà, thở ra những cụm khói và đánh đàn răng trong trạng thái lo âu, bối rối. “Cháu để nó – nàng – bay vòng vòng quanh phòng mỗi khi cảm thấy thích đâu.” nghiêm trọng hết sức nếu nàng bỗng nhiên xổng ra giữa đám sinh viên ở Yale.
      “Việc rồng lửa của cháu thoát ra tự do là triệu chứng của vấn đề rắc rối còn nghiêm trọng hơn nhiều đấy.” Goody Alsop giơ ra bó tơ mềm như lụa, màu sắc rực rỡ và được buộc thắt nút lại với nhau ở đầu. Phần dưới của các sợi tơ như những sợi ruy băng cây nêu ngày lễ tháng Năm và được đánh số đến chín, với nhiều sắc màu khác nhau: đỏ, trắng, đen, bạc, vàng kim, xanh lá, nâu, xanh lam và vàng tươi. “Cháu là thợ dệt và cần phải học cách điều khiển sức mạnh của mình.”
      “Cháu ý thức điều đó Goody Alsop à, nhưng cháu vẫn biết mấy sợi chỉ thêu này giúp ích thế nào,” tôi bướng bỉnh . Con rồng kêu lên tán đồng, trở nên hữu nét hơn và sau đó nhợt nhạt , trở về với hình dáng mong manh sương khói đặc trưng của nó.
      “Cháu biết gì về chuyện là thợ dệt hả?” Goody Alsop lạnh lùng hỏi.
      nhiều lắm ạ,” tôi thú nhận.
      “Diana nên nhấp ngụm thứ này trước .” Susanna đến cạnh tôi với cái tách nghi ngút khói. Mùi hương chamoli và bạc hà nồng đậm trong khí. Con rồng của tôi nghiêng nghiêng cái đầu vẻ hứng thú. “Nó giúp an tĩnh và có thể xoa dịu con thú của ấy.”
      “Tôi mấy lo ngại về con rồng lửa này,” Catherine tùy tiện .
      “Bắt con rồng vâng lời luôn luôn khó khăn – giống như cố gắng kiềm chế tinh có ý định bày trò tinh quái vậy.” Tôi nghĩ bụng, bà dễ hơn làm. Bà đâu có phải thuyết phục con quái thú kia chui trở vào trong người mình đâu.
      “Thứ nước thuốc này làm từ những loài cây nào thế?” Tôi hỏi trong khi nhấp ngụm nước của Susanna. Sau món trà của Marthe, tôi bắt đầu nghi ngờ các thứ đồ uống pha chế từ thảo dược. Ngay khi câu hỏi thốt ra khỏi miệng tôi, cốc nước bắt đầu bừng nở những nhành non bạc hà, những bông hoa đủ sắc hương: chamoli, chùm hoa bạch phỉ li ti, mấy chiếc lá bóng loáng và cứng cáp mà tôi thể nhận diện nổi. Tôi xin thề là .
      “Thấy chưa!” Catherine kêu lên và chỉ vào tách nước. “Tôi bảo mà. Khi Diana hỏi câu là nữ thần trả lời ngay.”
      Susanna hoảng hồn nhìn vào cốc vại của mình khi nó bị nứt, dưới sức ép của những cái rễ phình ra. “Tôi nghĩ bà đúng đấy, Catherine. Nhưng nếu ấy định dệt thần chú thay vì phá hỏng mọi thứ, ấy cần phải hỏi những câu hay ho hơn thế.”
      Goody Alsop và Catherine khám phá ra sức mạnh bí mật của tôi. Nó khơi gợi trí tò mò của tôi đến khó chịu. Bây giờ, số kiện nhất định trở nên có ý nghĩa: chiếc bàn trắng và những mảnh ghép nhiều màu sắc của nó trở thành cứu cánh của tôi mỗi khi phải đối mặt với vấn đề rắc rối, lọ bơ bay ra khỏi tủ lạnh của dì Sarah ở Madison khi tôi thắc mắc biết có còn bơ . Thậm chí cả xuất lạ lùng của Ashmole 782 ở thư viện Bodleian có thể được lý giải là: Khi tôi điền kín hết tấm thẻ mượn sách, tôi băn khoăn có thứ gì để điền thêm vào . Sớm ngày hôm nay thôi, tôi mới chỉ mơ màng nghĩ đến người viết nên câu thần chú trong cuốn bí kíp của Susanna khiến cho mực tứa ra từ trang giấy và định hình lại mặt bàn bên cạnh hình ảnh chính xác y như người bà quá cố của Susanna.
      Tôi hứa với Susanna thu lại các từ ngữ vào cuốn bí kíp ngay khi tôi tìm ra cách làm. Vậy nên tôi phát ra rằng, thực hành phép thuật giống như thực hành lịch sử. Các mánh dùng cho cả hai lĩnh vực này đều tìm ra được những đáp án đúng nhưng lại làm thành công thức cho những câu hỏi hay ho hơn.
      “Hãy kể cho chúng ta nghe lần nữa về việc gọi ra nước phù thủy Diana, và cả cây cung cùng mũi tên xuất khi có ai đó thương gặp nguy hiểm ấy,” Susanna gợi ý. “Có lẽ nó cung cấp được phương pháp để chúng ta lần theo.”
      Tôi thuật lại các kiện của cái đêm Matthew để tôi lại Sept-Tours, khi nước cứ trào ra khỏi người tôi thành lũ lụt và buổi sáng ở vườn trái cây của dì Sarah, khi tôi trông thấy các mạch nước dưới lòng đất. Và tôi cẩn thận miêu tả mỗi lần cây cung xuất – thậm chí cả khi có mũi tên hay lúc có nhưng tôi bắn . Khi tôi kết thúc câu chuyện, Catherine trút tiếng thở dài thỏa mãn.
      “Giờ tôi thấy vấn đề rồi. Diana có đầy đủ năng lực, trừ phi ấy cần bảo vệ ai đó hoặc khi buộc phải đối mặt với nỗi sợ hãi,” Catherine nhận định. “ ấy luôn vướng mắc với quá khứ hoặc băn khoăn về tương lai. phù thủy phải sống hoàn toàn thực mới làm phép được.” Rồng lửa của tôi đập đập cánh tán thành, khuấy động những luồng khí nóng ấm bay khắp phòng.
      “Matthew luôn nghĩ có kết nối giữa các cảm xúc, nhu cầu với phép thuật của cháu,” tôi với họ.
      “Đôi khi ta băn khoăn biết wearth đó có phần phù thủy nữa,” Catherine . Những người khác cười giễu trước cái ý niệm nực cười là con trai của Ysabeau de Clermont lại mang giọt máu phù thủy.
      “Tôi nghĩ, lúc này cứ để mặc con rồng tự lo liệu lấy cũng an toàn thôi, và chúng ta quay trở lại với vấn đề thần chú che lấp của Diana,” Goody Alsop , nhắc tới nhu cầu cần phải che giấu nguồn năng lượng thừa thãi mà mỗi khi tôi dùng phép nó mới bộc lộ ra. “Cháu có thực theo quy trình nào ?”
      “Cháu cảm thấy những làn khói hình thành quanh mình,” tôi ngập ngừng .
      “Cháu cần tập trung vào các nút thắt của mình,” Goody Alsop , chú mục vào những sợi dây thừng đùi tôi. Mỗi màu đều có trong các sợi tơ và kết nối với nhiều thế giới, khéo léo điều khiển các sợi thừng này – vặn xoắn vào và buộc chúng lại – làm nên phép màu đầy cảm thông. Nhưng điều đầu tiên tôi cần biết là phải dùng đến những sợi tơ nào. Tôi cầm lấy đầu thắt nút của tất cả các sợi thừng đầy màu sắc. Goody Alsop dạy tôi cách nhàng thổi lên các sợi tơ trong khi tập trung các ý định trong đầu mình. Việc đó giúp nới lỏng các sợi thừng, thích hợp với bất cứ câu thần chú nào mà tôi cố dệt nên.
      Tôi thổi vào các sợi tơ làm chúng sáng lên lờ mờ và nhảy nhót. Các sợi màu vàng và nâu tự nới lỏng rồi rớt vào lòng tôi, theo sau là đỏ, xanh lam, bạc và trắng. Tôi lướt ngón tay xuôi theo chiều dài gần ba mươi phân của những sợi dây lụa xoắn lại. Sáu sợi tơ có nghĩa là sáu nút thắt khác nhau, mỗi nút thắt sau lại phức tạp hơn nút thắt trước.
      Kỹ thuật tạo nút thắt của tôi vẫn còn vụng về, nhưng tôi thấy phần việc này trong quá trình dệt trôi chảy cách kỳ lạ. Khi tôi thực hành những chỗ vặn xoắn và bắt chéo tỉ mỉ, công phu bằng sợi dây bình thường, kết quả có được là thứ gợi ta nhớ đến món đồ tua ren theo phong cách Celtic cổ xưa. Có trật tự phân cấp đối với các nút thắt. Hai cái đầu tiên là nút thắt đơn và nút thắt đôi. Dì Sarah thỉnh thoảng có dùng chúng, khi dì làm bùa hoặc thứ gì đó dùng để ràng buộc. Nhưng chỉ có các thợ dệt mới có thể tạo ra những nút thắt phức tạp liên quan đến chín đường bắt chéo đặc biệt và kết thúc với hai đầu thừng thần kỳ hợp nhất để tạo thành mạng dệt thể phá vỡ.
      Tôi hít hơi sâu và tập trung trở lại với các ý định của mình. ngụy trang là dạng bảo vệ và có màu đỏ tía. Nhưng có thừng màu đỏ tía. chậm trễ, các sợi thừng màu xanh lam và đỏ nổi lên, xoắn chặt vào nhau để cuối cùng, trông nó giống y những cây nến lốm đốm màu đỏ tía, mà mẹ tôi từng đặt bên cửa sổ hằng đêm khi mặt trăng bị che lấp.
      “Với nút thắt này, câu thần chú bắt đầu,” tôi thầm, thắt thòng lọng sợi thừng đỏ tía thành nút rút đơn giản. Rồng lửa ngâm nga bắt chước theo những lời tôi .
      Tôi ngước lên nhìn nàng và bị choáng váng lần nữa bởi cái vẻ ngoài có thể biến đổi của nó. Khi thở ra, nó nhòe thành cái bóng mờ mờ. Khi hít vào, các đường nét thân thể nó lại sắc nét lên. nàng là cân bằng hoàn hảo giữa tính vật chất và linh hồn, nghiêng hẳn về bên nào cả. Chẳng lẽ tôi chưa từng cảm thấy liên kết chặt chẽ đó ư?
      “Với nút thắt thứ hai, câu thần chú thành thực.” Tôi làm cái nút đôi cũng sợi thừng đỏ tía đó. Lòng tự hỏi, liệu có cách nào để mình có thể mờ nhạt thành màu xám tối tăm mỗi khi mình muốn , như rồng lửa ấy. Tôi lướt mấy ngón tay sợi thừng vàng tươi. Nút thắt thứ ba chính là nút thắt đầu tiên của thợ dệt mà tôi phải làm. Mặc dù nó chỉ có ba đường bắt chéo, nhưng vẫn là thử thách.
      “Với nút thắt thứ ba, câu thần chú được giải phóng.” Tôi thắt thòng lọng và vặn xoắn sợi thừng thành hình cỏ ba lá, rồi kéo hai đầu lại với nhau. Chúng hợp nhất để tạo thành nút thắt thể phá vỡ của người thợ dệt.
      Thở phào nhõm, tôi thả nó vào lòng. làn hơi sương màu xám đẹp hơn cả màu khói thoát ra từ miệng tôi. Nó lơ lửng xung quanh tôi giống tấm vải liệm. Tôi thở hắt ra kinh ngạc, lại càng nhả ra nhiều sương mù kỳ quái, trong suốt. Tôi nhìn lên. Rồng lửa biến đâu mất rồi? Sợi thừng màu nâu nhảy vào tay tôi.
      “Với nút thắt thứ tư, sức mạnh được bảo lưu.” Tôi thích hình dạng giống bánh quy xoắn của nút thắt thứ tư, cùng với những đường uốn cong ngoằn ngoèo xoắn xít của nó.
      “Rất tốt, Diana,” Goody Alsop . Đây là thời khắc các câu thần chú của tôi có xu hướng dễ sai sót. “Giờ, duy trì thời khắc này và mời con rồng ở yên với cháu . Nếu bé sẵn lòng, nó che đậy cho cháu khỏi những ánh mắt hiếu kỳ.”
      hợp tác của rồng lửa dường như là hy vọng quá xa vời, nhưng dù sao, tôi vẫn làm nút thắt có hình biểu tượng, sử dụng sợi thừng màu trắng. “Với nút thắt thứ năm này, câu thần chú cường đại, lớn mạnh.”
      Rồng lửa sà xuống và khép hai cánh áp vào lồng ngực tôi.
      Ngươi ở với ta chứ? Tôi lặng lẽ hỏi nó.
      nàng bao lấy tôi trong cái kén màu xám đẹp đẽ. Nó làm mờ màu đen của áo váy tôi mặc, khiến chúng chuyển thành màu chì than sẫm. Chiếc nhẫn của Ysabeau ít lấp lánh hơn, ngọn lửa trong tâm viên kim cương tối mờ . Thậm chí, sợi thừng bạc đùi tôi trông cũng xỉn . Tôi mỉm cười trước câu trả lời câm lặng của rồng lửa.
      “Với nút thắt thứ sáu, câu thần chú này tôi ấn định,” tôi . Nút thắt cuối cùng cân xứng với những gì đáng ra nó nên có, nhưng dù sao nó cũng thành hình.
      “Cháu quả thợ dệt đấy, bé con ạ.” Goody Alsop thở phào.
      ***
      Tôi thầm cảm thấy tuyệt diệu đường bộ về nhà, vì được bọc trong chiếc khăn choàng rồng lửa của mình, tôi như được sống lại lần nữa khi bước chân qua bậu cửa Hươu Đực và Vương Miện. Kit đợi tôi ở đó cùng với bưu kiện. Matthew vẫn dành quá nhiều thời gian cho gã tinh đồng bóng này. Marlowe và tôi chào hỏi lạnh nhạt. Lúc tôi bắt đầu mở các lớp bên ngoài gói hàng Matthew rống lên to.
      “Chúa nhân từ!” Và rồi Matthew xuất ở vị trí mà khắc trước còn là khoảng trống trơn, mắt nhìn chằm chằm vào mảnh giấy với vẻ tin nổi.
      “Giờ Cáo Già muốn gì đây?” Kit hỏi vẻ chua chát, tay ấn cây bút vào lọ mực.
      vừa nhận được cái hóa đơn từ Nicholas Vallin, ông thợ kim hoàn ở đầu hẻm,” Matthew nổi quạu . Tôi nhìn vẻ vô tội. “Ông ta tính phí mười lăm bảng cho cái bẫy chuột.” Giờ tôi hiểu khá về giá trị của đồng bảng trong mua bán – hầu Joan của Mary cũng chỉ kiếm được có năm bảng năm – nên tôi có thể hiểu vì sao Matthew lại bị sốc như thế.
      “Ồ, cái đó.” Tôi quay trở lại tập trung vào gói bưu kiện. “Em cầu ông ta làm nó.”
      nhờ trong những thợ kim hoàn giỏi nhất London làm bẫy chuột cho ư?” Kit chế giễu. “Nếu thừa tiền, phu nhân Roydon, tôi hy vọng cho phép tôi đảm nhiệm cuộc thí nghiệm giả kim thuật hộ . Tôi chuyển hóa bạc và vàng thành rượu vang ở Cardinal’Hat!”
      “Nó là bẫy loài gặm nhấm, phải bẫy chuột,” tôi lẩm bẩm.
      có thể xem cái bẫy cho loài gặm nhấm này ?” Giọng điệu Matthew trơn tru báo hiệu điềm xấu.
      Tôi cởi bỏ lớp bọc cuối cùng và lấy ra thứ là chủ đề nghi vấn.
      “Mạ bạc và được trạm trổ nữa,” Matthew rồi cầm lấy lật ngược nó lên. Sau khi nhìn ngắm kỹ càng, chửi thề. “‘Ars longa, vita brevis.’ Nghệ thuật là bền lâu, còn cuộc đời ngắn ngủi. Quả là thế.”
      “Chắc là rất hiệu quả đấy.” Mẫu thiết kế tinh vi của Monsieur Vallin tương tự như con mèo cảnh giác, với đôi tai thính nhạy hoạt động khớp bản lề, đôi mắt mở to được khắc vào thanh chống ngang. Các đường viền ngoài của chiếc bẫy tương tự như cái miệng, được hoàn thiện thêm với những chiếc răng nhọn nguy hiểm. Nó gợi cho tôi nhớ đến con mèo của dì Sarah, Tabitha. Vallin thêm vào đôi chút kỳ quái bằng cách đặt con chuột bạc mũi con mèo. Sinh vật xíu đó trông chẳng có gì giống với mấy con quái vật răng sắc nhọn vẫn lảng vảng gác mái cả. Cứ nghĩ đến chúng nhai tóp tép những giấy tờ của Matthew khi chúng tôi ngủ là tôi rùng mình.
      “Nhìn này, ông ta còn trạm trổ cả phía dưới nữa này,” Kit , lần theo con chuột đồ chơi quanh bệ cái bẫy. “Nó là phần còn lại của câu cách ngôn Hippocrates – và bằng tiếng La tinh, hẳn hoi. ‘Occasio præceps, experimentum periculosum, iudicium difficile.’”
      “Nó có lẽ là câu miêu tả ủy mị quá mức, căn cứ vào mục đích sử dụng của công cụ này,” tôi nhận xét.
      “Ủy mị ư?” Lông mày Matthew nhướng lên. “Nhìn từ quan điểm của lũ gặm nhấm, nó nghe có vẻ khá thực tế đấy: Thời cơ là chớp nhoáng, thử nghiệm là nguy hiểm, và phán xét khó khăn.” Môi cong lên.
      “Vallin tranh thủ lợi dụng rồi, phu nhân Roydon,” Kit tuyên bố. “ nên từ chối thanh toán, Matt ạ, và gửi trả lại cái bẫy này.”
      !” tôi phản đối. “ phải lỗi của ông ấy. Chúng tôi trò chuyện về đồng hồ và Monsieur Vallin chỉ cho tôi xem vài mẫu rất đẹp. Tôi cũng chia sẻ với ông ta cuốn sách mua ở cửa hàng của John Chandler Cripplegate – chính là cuốn hướng dẫn cách bắt động vật gây hại – và kể với Monsieur Vallin về vấn đề chuột gặm nhấm ở chỗ chúng ta. Chuyện này dẫn tới chuyện kia.” Tôi nhìn xuống cái bẫy. Nó thành quả khéo léo phi thường, với những bánh răng và lò xo xíu.
      “Cả London có vấn nạn với lũ chuột,” Matthew , cố gắng kiểm soát mình. “Nhưng biết ai lại cầu món đồ chơi mạ bạc để giải quyết nó cả. Vài con mèo có khả năng bắt chuột là đủ rồi.”
      “Em trả tiền cho ông ấy, Matthew.” Làm vậy cũng có nghĩa là tôi phải vét sạch ví tiền của mình và tôi buộc phải cầu Walter đưa thêm tiền, nhưng có cách nào khác. Kinh nghiệm luôn có giá của nó. Đôi khi nó cũng tốn tiền mà. Tôi chìa tay ra lấy cái bẫy.
      “Có phải Vallin thiết kế nó để báo giờ ? Nếu thế, nó là chiếc đồng hồ duy nhất thế giới kết hợp việc báo giờ và dụng cụ kiểm soát loài vật gây hại đấy. Có lẽ cái giá này cũng công bằng thôi.” Matthew cố gắng tỏ ra cau có, nhưng khuôn mặt lại cứ toe toét. Thay vì đưa cho tôi cái bẫy, cầm lấy tay tôi, đưa nó lên môi hôn. “ thanh toán hóa đơn này, mon coeur, chỉ để có quyền trêu ghẹo em trong vòng sáu mươi năm tới.”
      Đúng lúc đó, George hối hả vào tiền sảnh. luồng khí lạnh giá ùa vào cùng chàng.
      “Tôi có tin tức đây!” chàng ném áo choàng sang bên, làm dáng bộ tự hào.
      Kit rên lên và đưa hai tay ôm đầu. “Đừng với tôi, cái gã Ponsonby ngu ngốc đó hài lòng với bản dịch Homer của và muốn xuất bản mà cần chỉnh sửa thêm.”
      phải ngay cả cậu cũng cố làm lu mờ niềm vui sướng của tôi trong những thành công ngày hôm nay chứ, Kit.” George nhìn quanh mong đợi. “Thế nào? ai trong các vị hiếu kỳ tẹo nào à?”
      “Tin tức của là gì hả George?” Matthew lơ đãng vừa hỏi, vừa tung hứng cái bẫy.
      “Tôi tìm được cuốn cổ thư của bà Roydon rồi.”
      Nắm tay Matthew cái bẫy chuột siết chặt. Bộ phận lò xo bật mở. Khi thả lỏng tay, nó rơi xuống bàn đánh cạch tiếng và đóng sập lại như cũ. “Ở đâu?”
      George bước giật lùi ra sau theo bản năng. Tôi vẫn ngẩn ra với câu hỏi cuối cùng của chồng mình và trong lòng hiểu cảm giác bất an là thế nào, khi đón nhận đầy đủ luồng chú ý của ma cà rồng.
      “Tôi biết chính là người tìm ra nó,” tôi nồng nhiệt với George và đặt tay lên cổ tay áo Matthew để nhắc chậm lại. George được xoa dịu như dự đoán, chàng quay trở về bên cạnh bàn, kéo ghế ra và ngồi xuống.
      giãi bày của có ý nghĩa rất lớn đối với tôi, bà Roydon ạ,” George rồi tháo găng tay. chàng khịt mũi. “ phải ai cũng chia sẻ điều đó đâu.”
      “Nó. Ở. Đâu?” Matthew chậm rãi hỏi, quai hàm nghiến chặt lại.
      “Nó ở chỗ hiển nhiên nhất ai cũng có thể tưởng tượng ra, xa tận chân trời nhưng gần ngay trước mặt. Tôi cũng khá kinh ngạc khi chúng ta nghĩ ngay ra.” chàng ngừng lại lần nữa để chắc chắn mọi người đều hoàn toàn chú ý. Matthew phát ra tiếng gầm gừ thất vọng thấy .
      “George,” Kit nhắc nhở. “Matthew nổi tiếng là biết cắn đấy nhá.”
      “Tiến sĩ Dee giữ nó,” George buột thốt ra khi Matthew nhích người tới.
      “Nhà chiêm tinh của nữ hoàng,” tôi . George đúng: Chúng tôi đáng lẽ nên nghĩ đến người đàn ông này từ lâu mới phải. Dee cũng là nhà giả kim – và có thư viện lớn nhất ở . “Nhưng ông ta ở châu Âu.”
      “Tiến sĩ Dee trở về từ năm trước rồi. Ông ta sống bên ngoài London.”
      “Làm ơn với em ông ta phải phù thủy, tinh, hay ma cà rồng ,” tôi khẩn cầu.
      ta chỉ là con người thôi – và là kẻ cực kỳ gian trá,” Marlowe . “Tôi tin tưởng những điều ta đâu Matt. từng lợi dụng Edward tội nghiệp cách đáng ghê tởm, buộc ta nhìn chăm chú vào các viên đá phá lê và chuyện với thiên thần về thuật giả kim cả ngày lẫn đêm. Sau đó Dee lấy được tất cả tín nhiệm!”
      “Edward tội nghiệp ư?” Walter chế giễu, mở cửa bước vào mà cần được mời hay khách sáo gì cả. Henry Percy cùng với ta. thành viên nào của Bè lũ Bóng Đêm ở cách Hươu Đực và Vương Miện trong vòng dặm lại cưỡng nổi sức hấp dẫn của chiếc lò sưởi nhà chúng tôi. “Người bạn tinh dắt mũi ông ta nhiều năm trời. Tiến sĩ Dee đá đít rất hay, nếu các vị có hỏi ý kiến tôi.” Walter nhặt cái bẫy chuột lên. “Cái gì đây?”
      “Nữ thần săn bắn chuyển hướng chú ý sang những con mồi hơn,” Kit kèm theo điệu cười tự mãn ngớ ngẩn.
      “Tại sao, đó là cái bẫy chuột. Nhưng chẳng ai lại ngu ngốc đến nỗi làm cái bẫy chuột mạ bạc cả,” Henry , ngó qua vai Walter. “Nó trông giống tác phẩm của Nicholas Vallin. Ông ta làm cho Essex cái đồng hồ rất đẹp khi ta trở thành Hiệp sĩ Garter. Đây có phải kiểu đồ chơi trẻ con ?”
      Nắm đấm của chàng ma cà rồng nện lên chiếc bàn của tôi, làm nứt cả gỗ.
      “George,” Matthew gầm lên, “kể cho chúng tôi nghe về tiến sĩ Dee.”
      “À. Đúng rồi. Tất nhiên rồi. Cũng có gì nhiều để kể. Tôi làm như những gì cầu,” George lắp bắp. “Tôi ghé vào các quầy bán sách, nhưng có thông tin nào. Trò chuyện về tập thơ Hy Lạp được bán nghe có vẻ nhiều hứa hẹn đối với bản dịch của tôi – nhưng tôi lại lạc đề rồi.” George ngừng lại và nuốt nước miếng. “Bà góa Jugge gợi ý tôi nên chuyện với John Hester, nhà pha chế dược ở bến tàu Paul. Hester chỉ tôi đến chỗ Hugh Plat – các vị biết đấy, người bán rượu vang sống ở St. James Garlickhythe ấy.” Tôi bám sát theo chuyến hành hương trí tuệ phức tạp này, hy vọng có thể tái dựng hành trình của George khi lần tới tôi đến thăm Susanna. Có thể bà ấy và Plat là hàng xóm của nhau.
      “Plat cũng tệ như Will,” Walter lẩm bẩm , “mãi mãi viết ra những thứ mà chẳng cái nào ta quan tâm. Gã đó hỏi phương pháp làm bánh nướng của mẹ tôi.”
      “Ông Plat rằng, tiến sĩ Dee có cuốn sách từ thư viện của hoàng đế. người nào có thể đọc được nó và trong đó cũng có những bức hình kỳ lạ nữa,” George giải thích. “Plat thấy nó khi đến nhà tiến sĩ Dee để xin hướng dẫn trong lĩnh vực giả kim thuật.” Matthew và tôi nhìn nhau.
      “Có thể lắm, Matthew,” tôi hạ thấp giọng. “Elias Ashmole lần theo những gì còn lại từ thư viện của Dee sau khi ông ta chết và ông ta đặc biệt hứng thú với các cuốn sách về giả kim thuật.”
      “Dee chết. Và làm thế nào tiến sĩ tài giỏi đối mặt với kết cục của mình được, bà Roydon?” Marlowe khẽ khàng hỏi, đôi mắt nâu nhìn thẳng vào tôi. Henry, người vốn chẳng nghe thấy câu hỏi của Kit, ngay trước khi tôi kịp trả lời.
      “Tôi xin được xem nó,” Henry , gật đầu dáng vẻ quả quyết. “Cũng dễ dàng sắp xếp đường tôi trở về Richmond và chỗ nữ hoàng.”
      có lẽ thể nhận ra nó đâu, Hal,” Matthew , cũng phớt lờ Kit, mặc dù nghe thấy ta . “Tôi cùng .”
      cũng chưa nhìn thấy nó mà.” Tôi lắc đầu, hy vọng thả lỏng được ánh mắt chằm chằm như thúc vào người của Marlowe. “Bên cạnh đó, nếu có chuyến viếng thăm tới chỗ John Dee, em .”
      “Em cần phải tặng cái nhìn dữ tợn đó, ma lionne. biết gì thuyết phục được em để mặc chuyện này cho xử lý. Nhất là khi có liên quan đến những cuốn sách và nhà giả kim thuật.” Matthew giơ ngón tay lên vẻ răn dạy. “Nhưng được có câu hỏi. Hiểu chứ?” ấy thấy tình trạng lộn xộn do phép thuật có thể dẫn đến kết quả như thế nào.
      Tôi gật đầu, nhưng các ngón tay bắt chéo nhau giấu dưới nếp váy, đó là loại chú cổ xưa để né tránh hậu quả ma quái do việc làm đảo lộn .
      có câu hỏi nào đến từ bà Roydon ư?” Walter lẩm bẩm. “Tôi ước gì gặp may mắn với vụ đó, Matt ạ.”
      ***
      Mortlake là thôn xóm sông Thames tọa lạc giữa London và cung điện của nữ hoàng ở Richmond. Chúng tôi làm chuyến chiếc xuồng của Bá tước xứ Northumberland, chiếc thuyền lớn lộng lẫy với tám tay chèo, chỗ ngồi có đệm, và những chiếc rèm che để tránh khí ẩm ướt. Nó là hành trình khá dễ chịu – kể đến cảm giác an tĩnh – so với cảm giác tôi quen khi Gallowglass cầm mái chèo.
      Chúng tôi gửi lá thư trước báo cho Dee biết dự định viếng thăm của chúng tôi. Bà Dee, như Henry giải thích với dáng vẻ thanh nhã hết sức, đánh giá cao những vị khách đổ bộ đến mà thông báo. Mặc dù tôi có thể thông cảm, nhưng chuyện này cũng khác thường giữa thời đại mà việc mở rộng cửa đón khách chính là luật lệ.
      “Gia chủ này có phần… theo đúng lễ tục bởi tiến sĩ Dee bị đeo đuổi nhiều quá,” Henry giải thích, mặt hơi ửng hồng. “Và bọn họ khá đông con. Thường khá là… hỗn loạn.”
      “Quá đông cho nên người hầu nhà này nổi tiếng là toàn tự lao đầu xuống giếng,” Matthew mỉa mai nhận xét.
      “Đúng thế. Cái đó may. Tôi nghi ngờ việc như thế cũng xảy ra trong chuyến viếng thăm của chúng ta,” Henry lầu bầu.
      Tôi quan tâm đến tình trạng gia đình này. Chúng ở bên ranh giới có thể giải đáp rất nhiều nghi vấn: Tại sao cuốn sách này lại được săn tìm đến thế, liệu nó có thể cho chúng tôi biết nhiều hơn về vấn đề làm thế nào các sinh vật chúng ta lại xuất đời này. Và dĩ nhiên Matthew tin rằng nó có thể đưa ra ánh sáng lý do vì sao chúng tôi – những sinh vật ở thế giới khác – lại sắp sửa tuyệt chủng trong thời đại.
      biết có phải vì ưu ái hay để tránh lũ con vô tổ chức của mình mà tiến sĩ Dee thong thả tản bộ trong khu vườn có tường gạch vây quanh của ông như thể giữa mùa hè chứ phải mới cuối tháng . Ông ta mặc chiếc áo choàng đen của học giả, đội cái mũ trùm vừa khít đầu và kéo chùng xuống cổ, bên ngoài là chiếc mũ bê rê. bộ râu dài trắng tinh thò ra từ dưới cằm, hai cánh tay chắp sau lưng khi ông chậm rãi quanh khu vườn cằn cỗi.
      “Tiến sĩ Dee ư?” Henry gọi với qua bờ tường.
      “Đức ngài Northumberland! Tôi tin là ngài rất khỏe mạnh?” Giọng Dee khẽ khàng và có vẻ dễ cáu, mặc dù ông ta chú ý (gần như là thế) để sửa lại cho nó nhàng hơn vì địa vị của Henry. Ông ta bỏ chiếc mũ bê rê ra và quét đường cúi chào.
      “Khá tốt đối với thời điểm này trong năm, tiến sĩ Dee. Dù vậy, chúng tôi có mặt ở đây phải vì sức khỏe của tôi đâu. Tôi có những người bạn cùng , như tôi giải thích trong thư. Để tôi giới thiệu với ông.”
      “Tiến sĩ Dee và tôi có quen biết rồi.” Matthew tặng cho Dee nụ cười như hung hiểm và hơi cúi đầu. biết mọi sinh vật kỳ lạ khác ở thời này. Vậy tại sao lại biết Dee cơ chứ?
      “Ông Roydon,” Dee vẻ cảnh giác.
      “Đây là vợ tôi, Diana,” Matthew , nghiêng đầu về phía tôi. “ ấy là bạn của Nữ bá tước Pembroke và tham gia cùng lệnh bà trong các cuộc theo đuổi thuật giả kim.”
      “Nữ bá tước Pembroke và tôi có thư từ qua lại trao đổi về các vấn đề liên quan đến giả kim thuật.” Dee hoàn toàn quên bẵng tôi và tập trung vào mối liên hệ gần gũi của ông ta với bậc công khanh của vương quốc. “Lời nhắn của ngài đề cập ngài muốn xem trong các cuốn sách của tôi, Đức ngài Northumberland. Có phải ngài đến đây thay mặt cho lệnh bà Pembroke ?”
      Trước khi Henry kịp đáp lời, phụ nữ gương mặt lạnh lùng, hông đẫy đà ra khỏi nhà trong bộ áo dài màu nâu sẫm viền lông thú được thấy khá nhiều trong những ngày này. Bà ta trông có vẻ khó chịu, bực bội, rồi phát thấy Bá tước Northumberland bèn dán lên mặt vẻ nồng nhiệt chào đón.
      “Và đây là bà vợ quý của tôi,” Dee vẻ bồn chồn. “Bá tước Northumberland và ông Roydon đến đây rồi, Jane,” ông ta to.
      “Sao ông mời họ vào trong nhà?” Jane cau có, vặn xoắn hai bàn tay vẻ khổ sở. “Họ nghĩ chúng ta sẵn lòng đón khách, điều mà dĩ nhiên chúng ta lúc nào cũng sẵn sàng. Có nhiều người đến hỏi ý kiến của chồng tôi, thưa đức ngài.”
      “Vâng. Cũng chính lý do đó mang chúng tôi tới đây. Tôi thấy là bà rất khỏe, bà Dee. Và tôi được biết từ ông Roydon rằng nữ hoàng gần đây ban vinh dự cho ngôi nhà của các vị bằng chuyến viếng thăm.”
      Jane hài lòng. “Quả là thế. John gặp bệ hạ ba lần kể từ tháng Mười . Hai lần cuối người bất ngờ đến cổng nhà chúng tôi khi đường đến Richmond.”
      “Bệ hạ hào phóng với chúng tôi vào dịp Giáng Sinh vừa qua,” Dee . Ông ta vặn xoắn cái mũ bê rê trong hai bàn tay. Jane nhìn ông ta thái độ cáu kỉnh. “Chúng tôi nghĩ… nhưng chuyện quan trọng.”
      “Thú vị, thú vị,” Henry nhanh, giải cứu cho Dee khỏi bất cứ nguy cơ khó xử nào. “Nhưng chuyện vậy đủ rồi. Chúng tôi còn mong muốn được xem cuốn sách đặc biệt…”
      “Thư viện của chồng tôi còn được quý trọng hơn cả ông ấy nữa!” Jane sưng sỉa .
      “Chi phí của chúng tôi trong chuyến viếng thăm hoàng đế đến mức tột cùng, mà chúng tôi còn có bao nhiêu là miệng ăn. Nữ hoàng giúp đỡ chúng tôi. Người quả ban tặng chúng tôi phần thưởng nhưng còn hứa hẹn nhiều hơn.”
      nghi ngờ gì nữ hoàng bị xao nhãng bởi nhiều vấn đề quan tâm cấp bách hơn.” Matthew cầm cái bao , nặng trĩu tay. “Tôi có khoản ngang bằng với món quà của người ở đây. Và tôi đánh giá cao chồng bà, bà Dee ạ, chỉ là những cuốn sách của ông ấy thôi đâu. Tôi bổ sung thêm phần bệ hạ dành cho những nỗi khó nhọc của ông ấy vì lợi ích của chúng ta.”
      “Tôi… tôi cảm ơn ông, ông Roydon,” Dee lắp bắp, liếc mắt trao đổi với vợ. “Ông tử tế lo lắng đến công việc của nữ hoàng. Dĩ nhiên là các vấn đề cấp thiết luôn cần được ưu tiên trước khó khăn của chúng tôi.”
      “Nữ hoàng bệ hạ quên những bày tôi tận tụy của người,” Matthew . Chuyện đó rành rành là có thực, như mọi người đứng trong khu vườn đầy tuyết này đều biết thế, nhưng đấy phải vấn đề.
      “Các vị phải vào nhà thư giãn bên bếp lửa ấm ,” Jane , lòng nhiệt tình hiếu khách của bà ta tăng lên nhanh chóng. “Tôi mang tới rượu vang và lưu tâm để các vị bị làm phiền.” Bà ta nhún gối chào với Henry, và thậm chí còn cúi thấp hơn nữa trước Matthew, sau đó giật lùi về phía cửa ra vào. “Thôi nào, John. Họ đông thành đá mất nếu ông giữ họ ngoài này lâu hơn nữa đấy.”
      Hai mươi phút ở trong ngôi nhà của Dee chứng minh rằng chủ nhân và bà chủ của nó là đại diện cho nòi giống kỳ dị của những người kết hôn nhưng cãi vã liên miên chứ phải những kẻ thiển cận và tính tình độc ác, trong khi vẫn luôn cống hiến. Họ trao đổi những lời bình phẩm có gai trong khi chúng tôi tỏ lòng ngưỡng mộ những tấm thảm mới ( món quà từ phu nhân Walsingham), bình đựng rượu mới ( món quà từ ngài Christopher Hatton), và lọ đựng muối bằng bạc mới ( món quà từ Nữ Hầu tước Northampton). Những món quà phô trương và lời lẽ công kích dữ dội chi phối cả cuộc gặp, chúng tôi – mãi đến cuối cùng – mới được dẫn vào thư viện.
      rất vất vả mới có thể mang em ra khỏi đây mất,” Matthew thầm, nhoẻn miệng cười trước vẻ mặt thắc mắc của tôi.
      Thư viện của John Dee giống tẹo nào với những gì tôi tưởng. Tôi hình dung nó trông giống cái thư viện riêng thuộc về quý ông giàu có thế kỷ mười chín – thế nhưng lúc này nó làm tôi chấn động như hoàn toàn phòng bị gì. Nơi này gian quý phái để hút tẩu và đọc sách bên lò sưởi. Chỉ có những cây nến soi sáng, căn phòng tối đến kinh ngạc vào ngày mùa đông này. Vài chiếc ghế bành và cái bàn dày để sẵn dành cho người đọc cạnh khung cửa sổ lồi quay về hướng nam. Các bức tường trong phòng treo những tấm bản đồ, biểu đồ thiên tinh, sơ đồ giải phẫu, và những tờ niên lịch có thể thấy ở mỗi cửa hiệu pha chế dược hay hiệu sách trong London với giá vài xu. Hàng thập kỷ được bày ra, đoán chừng chúng được duy trì y nguyên như bộ sưu tập nhắc nhở đến thời điểm Dee vẽ lá số tử vi dự đoán hay làm những tính toán khác liên quan đến thiên văn học.
      Dee sở hữu nhiều sách hơn cả trường đại học Oxford hay Cambridge, và ông ta cầu thư viện hoạt động hiệu quả – chứ phải chỉ để trưng bày. ngạc nhiên, những gì có giá trị nhất đều ở giá sách. Để tận dụng tối đa những gì có sẵn, các giá sách của Dee đứng độc lập và đặt vuông góc với các bức tường. Giá sách bằng gỗ sồi giản dị có hai mặt, chiều cao phong phú để giữ các cuốn sách có kích thước khác nhau thời Elizabeth.
      “Lạy Chúa tôi!” Tôi thào. Dee khiếp đảm quay lại trước câu thề nguyện gọi tên Chúa của tôi.
      “Vợ tôi bị choáng ngợp, ông Dee ạ,” Matthew giải thích. “ ấy chưa bao giờ ở trong thư viện vĩ đại đến thế này.”
      “Có rất nhiều thư viện rộng lớn và giá trị hơn thư viện của tôi, bà Roydon ạ.”
      Jane Dee đến vừa đúng lúc làm chệch hướng cuộc trò chuyện sang những món đồ sứ trong ngôi nhà.
      “Thư viện của hoàng đế Rudolf rất đẹp,” Jane , chuyển qua mời chúng tôi khay rượu và đồ ăn ngọt. “Cho dù thế, ngài ấy cũng nên trộm của John mấy cuốn sách hay nhất. Hoàng đế lợi dụng rộng lượng của chồng tôi, và chúng tôi mong có chút tiền bồi thường.”
      “Jane,” John quở trách, “hoàng đế bệ hạ trả lại cuốn sách cho chúng ta rồi.”
      “Cuốn sách gì thế?” Matthew cẩn thận hỏi.
      văn bản hiếm có,” Dee vẻ vui, quan sát dáng vẻ rút lui của vợ mình khi bà ta hướng về phía chiếc bàn.
      “Chẳng có gì ngoài những câu sai ngữ pháp cả!” Jane vặn lại.
      Ashmole 782. Nhất định phải là nó.
      “Ông Plat kể với chúng tôi về cuốn sách như thế. Đó là lý do chúng tôi có mặt ở đây. Có lẽ chúng tôi có thể tận hưởng lòng hiếu khách của bà nhà trước sau đó xem cuốn sách của hoàng đế được ?” Matthew gợi ý, xoa dịu như vuốt râu mèo. đưa cánh tay ra, tôi nắm lấy siết chặt.
      Trong khi Jane cuống quýt rót rượu, giải thích về giá của quả hạch vào mùa lễ hội và cửa hàng thực phẩm đẩy bà ta đến bờ vực phá sản như thế nào Dee bắt đầu tìm cuốn Ashmole 782. Ông ta rà tìm các giá tủ sách và lôi ra cuốn.
      phải nó,” tôi thào với Matthew. Nó quá .
      Dee ném phịch cuốn sách lên bàn trước mặt Matthew và nâng cái bìa da mềm oặt lên.
      “Thấy . Trong đây toàn thứ vô dụng, từ ngữ vô nghĩa và những bức hình phụ nữ tắm dâm tục.” Jane đằng hắng từ ngoài phòng, cằn nhằn và lắc đầu.
      Đây phải là Ashomole 782, dù sao nó cũng phải là cuốn sách mà tôi biết: cuốn cổ thư Voynich, còn được biết đến là cuốn Beinecke MS 408 của đại học Yale. Nội dung trong cuốn sách là điều bí . Chưa có nhà giải mã hay nhà ngôn ngữ học nào khám phá ra văn bản này gì, còn các nhà thực vật học thể nhận dạng được các loài cây trong này. Có rất nhiều giả thuyết để giải thích cho các bí của nó, bao gồm ý kiến cho rằng nó được người ngoài hành tinh viết ra. Tôi buông tiếng kêu thất vọng.
      ư?” Matthew hỏi. Tôi lắc đầu và cắn môi vẻ chán nản. Dee hiểu thầm vẻ mặt của tôi là khó chịu với Jane, ông ta vội ồn ào giải thích.
      “Xin thứ lỗi cho vợ tôi. Jane thấy cuốn sách này đáng lo ngại nhất, vì nó được bà ấy tìm thấy trong đống hộp khi chúng tôi từ vùng đất của hoàng đế trở về. Tôi mang cuốn sách khác theo trong chuyến này – cuốn sách giá trị về giả kim thuật từng thuộc về pháp sư vĩ đại người Roger Bacon. Nó lớn hơn cuốn sách này, và chứa nhiều điều kỳ diệu trong đó.” Tôi nhổm người tới trước ghế ngồi.
      “Người phụ tá của tôi, Edward, có thể hiểu được văn bản đó với trợ giúp của thần linh mặc dù tôi thể,” Dee tiếp tục. “Trước khi chúng tôi rời Praha, hoàng đế Rudolf bày tỏ quan tâm đối với tác phẩm này. Edward kể cho người vài bí mật chứa trong đó – về nguồn gốc kim loại và phương pháp bí mật để có được bất tử.”
      Vậy rốt cuộc Dee từng sở hữu Ashmole 782. Và người phụ tá tinh của ông ta, Edward Kelley, có thể đọc được văn bản đó. Hai bàn tay tôi run lẩy bẩy vì kích động, tôi giấu chúng dưới các nếp váy.
      “Edward giúp Jane đóng gói cuốn sách của tôi khi chúng tôi được lệnh về nhà. Jane tin rằng Edward ăn cắp cuốn sách và thay thế nó bằng thứ này lấy từ bộ sưu tập của đức bệ hạ.” Dee ngập ngừng, trông buồn rầu. “Tôi muốn nghĩ xấu về Edward, vì ta là đồng tin cậy của tôi và chúng tôi trải qua thời gian dài cùng nhau. ta và Jane chưa bao giờ hòa hợp, và lúc đầu tôi bác bỏ giả thuyết của bà ấy.”
      “Nhưng giờ ông nghĩ nó có khả năng,” Matthew nhận xét.
      “Tôi điểm lại các kiện những ngày gần đây của chúng tôi, ông Roydon ạ, cố gắng nhớ lại chi tiết có thể miễn tội cho người bạn của mình. Nhưng mọi điều tôi nhớ ra đều càng thêm quả quyết tội lỗi hướng về phía ta.” Dee thở dài.
      “Nhưng, văn bản này có lẽ chưa chứng minh được là nó chứa các bí mật đáng giá.”
      Matthew lật qua các trang. “Có những con quái vật đuôi rắn, mình dê, đầu sư tử,” , vừa quan sát kỹ các bức hình vẽ cây cối. “Lá cây, thân cây và hoa như bị ghép từ các loài cây khác nhau.”
      “Những thứ này sao?” Tôi hỏi, chuyển tới các mô hình chiêm tinh hình tròn tiếp sau đó. Tôi nhìn kỹ những chữ viết tay ở chính giữa. buồn cười. Tôi xem cuốn cổ thư này nhiều lần trước đây mà chưa bao giờ chú ý tẹo nào tới các ghi chú cả.
      “Các mô tả này được viết bằng tiếng Occitania cổ,” Matthew lặng lẽ . “Tôi từng biết người có chữ viết tay giống thế này. Ông có tình cờ gặp quý ông đến từ Aurillac trong khi ông triều kiến hoàng đế ?”
      Có phải ấy ám chỉ Gerbert? kích động của tôi chuyển thành lo lắng bất an. Có phải Gerbert nhầm lẫn cuốn cổ thư Voynich với cuốn sách bí về nguồn gốc các loài ? Câu hỏi của tôi vừa nảy ra, bản viết tay ở trung tâm sơ đồ thiên văn học bắt đầu run rẩy. Tôi chộp lấy cuốn sách đóng sập vào để ngăn nó nhảy xuống khỏi trang sách.
      có, ông Roydon,” Dee nhíu mày đáp. “Nếu có, tôi hỏi ông ta về vị pháp sư lừng danh đến từ nơi đó và rồi trở thành đức giáo hoàng. Có nhiều bị che giấu trong những câu chuyện cổ được kể quanh bếp lửa.”
      “Đúng thế,” Matthew đồng ý, “miễn là chúng ta đủ khôn ngoan để nhận ra chúng.”
      “Đó là lý do vì sao tôi vô cùng hối hận khi để mất cuốn sách của mình. Nó từng thuộc sở hữu của Roger Bacon, và tôi nghe người phụ nữ bán cuốn sách đó kể lại rằng ông ta treo giải thưởng cho nó để nắm giữ các thần thánh. Bacon gọi nó là Verum Secretum Secretorum.” Dee đăm chiêu nhìn cuốn cổ thư Voynich. “Ước mơ tha thiết nhất của tôi là có lại nó.”
      “Có lẽ tôi có thể giúp được gì đó,” Matthew .
      “Ông ư, Roydon?”
      “Nếu ông cho phép tôi mang cuốn sách này , tôi có thể thử trả nó về nơi cũ và để cuốn sách của ông trở về với chính chủ.” Matthew kéo cuốn sách về phía .
      “Tôi mãi mãi chịu ơn ngài, thưa ngài,” Dee , đồng ý với thỏa thuận này mà thương lượng gì thêm.
      ***
      Ngay phút chúng tôi ra khỏi khu vực công cộng đổ bộ vào Mortlake, tôi bắt đầu tấn công Matthew hàng tràng câu hỏi.
      nghĩ gì vậy, Matthew? thể chỉ đóng gói cuốn cổ thư Voynich này và gửi nó tới cho Rudolf kèm lời nhắn buộc tội ông ta chơi trò nước đôi. phải tìm người đủ điên rồ mạo hiểm mạng sống để đột nhập vào thư viện của Rudolf và đánh cắp Ashmole 782.”
      “Nếu Rudolf có Ashmole 782 nó cũng ở trong thư viện của ông ta. Nó ở trong ngăn kéo đựng những món đồ hiếm lạ,” Matthew lơ đãng , mắt nhìn đăm đăm vào làn nước.
      “Vậy cuốn Voynich này… phải là cuốn sách hai người tìm kiếm à?” Henry vẫn theo dõi cuộc trao đổi của chúng tôi với vẻ quan tâm lịch . “George rất thất vọng khi giải quyết được bí của hai người.”
      “George có lẽ giải quyết được, Hal, nhưng cậu ta làm sáng tỏ thêm nhiều rồi,” Matthew . “Kết hợp người của cha tôi và của tôi, chúng ta tìm được cuốn sách bị mất của Dee.”
      Chúng tôi đón thủy triều trở lại thành phố, nhờ vậy mà chuyến trở về được tăng tốc nhanh hơn. Đuốc được thắp sáng Hẻm Water ở nơi cập bờ đón chúng tôi về, nhưng bỗng có hai người đàn ông trong bộ chế phục của nữ bá tước Pembroke vẫy chúng tôi.
      “Lâu đài Baynard, xin làm ơn, ông Roydon!” người gọi vọng qua sông.
      “Chắc có chuyện ổn rồi,” Matthew , đứng ở mũi thuyền. Henry chỉ thị cho các tay chèo tăng tốc xuôi dòng sông hướng tới bến đáp thuyền của nữ bá tước, cũng được thắp sáng trưng bằng đèn hiệu và đèn lồng.
      “Có chuyện với cậu bé nào rồi ư?” Tôi hỏi Mary khi ấy chạy hối hả xuôi hành lang để gặp chúng tôi.
      . Chúng đều khỏe. Hãy đến phòng thí nghiệm . Ngay lập tức.” Mary ngoái đầu gọi với lại, xoay người quay trở về phía ngọn tháp.
      Quang cảnh đón chào chúng tôi ở đó đủ để khiến cả Matthew và tôi thở hắt ra kinh ngạc.
      cây Dianæ hoàn toàn ngoài mong đợi,” Mary vừa vừa cúi xuống để tầm mắt ngang bằng với cái khoang hình củ hành ở đáy vạc, giữ bộ rễ của cái cây màu đen. giống cây Dianæ đầu tiên hoàn toàn bằng bạc và có cấu trúc tinh tế hơn nhiều. Cây này chắc khỏe mập mạp, vỏ cây màu tối sẫm, cành to trần trụi gợi tôi nhớ tới cây sồi ở Madison che chắn cho chúng tôi sau cuộc tấn công của Juliette. Tôi rút sức sống ra khỏi cái cây đó để cứu Matthew.
      “Tại sao nó phải là bạc?” Matthew hỏi, dùng hai tay bao lấy cái vạc thủy tinh mỏng manh của nữ bá tước.
      “Tôi dùng máu của Diana,” Mary trả lời. Matthew nhìn thẳng vào tôi với ánh mắt nghi ngờ.
      “Hãy nhìn bức tường kia xem,” tôi , chỉ vào con rồng lửa chảy máu.
      “Nó là rồng xanh – biểu tượng cho cường thủy,” sau khi liếc nhanh qua nó.
      đâu, Matthew. Hãy nhìn nó . Hãy quên những miêu tả về nó trước đây và cố nhìn như lần đầu tiên được trông thấy.”
      “Dieu.” Matthew kêu lên choáng váng. “Có phải đó là huy hiệu của ?”
      “Đúng thế đấy. có nhận ra con rồng ngậm lấy đuôi nó trong miệng ? Và nó phải là con rồng nữa đúng ? Rồng có bốn chân. Đó là con rồng lửa.”
      con rồng lửa. Giống như…” Matthew lại chửi thề.
      “Có hàng tá giả thuyết khác nhau về vật chất thông thường và thành phần cốt yếu đầu tiên để làm đá tạo vàng. Roger Bacon – người sở hữu cuốn cổ thư mất tích của tiến sĩ Dee – tin nó chính là máu.” Tôi tin chắc mẩu thông tin này khiến Matthew chú ý. Tôi khom người nhìn cái cây.
      “Em nhìn bức tranh tường và làm theo bản năng của mình.” Sau thoáng ngừng lời, Matthew lướt ngón cái dọc theo dấu xi niêm phong của cái bình và phá vỡ dấu xi. Mary thở hắt ra kinh hoàng khi phá hủy thí nghiệm của ấy.
      làm gì thế?” Tôi hỏi, choáng váng.
      “Làm theo linh cảm của , bổ sung thêm thứ vào cái vạc này.” Matthew nâng cổ tay đưa lên miệng cắn rồi giơ nó ra phía khe mở hẹp kia. Dòng máu đen đậm của vào dung dịch, chìm xuống đáy bình. Chúng tôi nhìn chằm chằm.
      Ngay khi tôi nghĩ chẳng có gì xảy ra những vệt màu đỏ bắt đầu hoạt động lan ngược lên thân cây. Sau đó những chiếc lá bằng vàng nảy chồi từ cành cây.
      “Nhìn kìa,” tôi kêu lên kinh ngạc.
      Matthew mỉm cười với tôi. Đấy là nụ cười vẫn thoáng vẻ nuối tiếc, nhưng cũng mang cả hy vọng.
      Những trái cây đỏ tươi xuất giữa đám lá, lấp lánh như những viên ruby xíu. Mary bắt đầu lầm bầm cầu nguyện, hai mắt mở lớn.
      “Máu của em tạo khung xương, còn máu của khiến cây kết trái,” tôi thầm . Bàn tay bất giác sờ vào bụng dưới rỗng .
      “Đúng thế. Nhưng tại sao?” Matthew đáp.
      Nếu có thứ gì có thể cho chúng tôi biết biến đổi kỳ diệu xảy ra khi phù thủy và wearh kết hợp máu với nhau nó chính là những bức hình kỳ lạ và phần văn tự bí của Ashmole 782.
      mất bao lâu để lấy cuốn sách của Dee về?” Tôi hỏi Matthew.
      “Ồ, nghĩ là quá lâu đâu,” thầm. “ khi đặt hết tâm trí mình vào đó.”
      “Càng sớm càng tốt,” tôi nhàng , đan ngón tay chúng tôi vào nhau khi quan sát phép màu tiếp tục xảy ra, vậy là máu chúng tôi có hiệu quả.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :