Mật mã Phù thủy 2A - Deborah Harkness [Kỳ Bí]

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Mật mã Phù thủy 2A - Deborah Harkness [Kỳ Bí]
      [​IMG]
      Tên tiếng : A Discovery of Witches
      Tác giả: Deborah Harkness
      Bộ sách: Mật mã Phù thủy - All Souls (tập 2A)
      Thể loại: Best seller, Kỳ ảo, Lãng mạn, Tiểu thuyết, Văn học phương Tây

      Công ty phát hành: Alphabooks
      Nhà xuất bản: NXB Thời Đại
      Người dịch: Diệu Hằng
      Ngày xuất bản: 11/2011
      Số trang: 868
      Kích thước: 14 x 20.5 cm
      Giá bìa: 169.000đ
      Hình thức: Bìa mềm



      Giới thiệu:

      Deborah Harkness là Giáo sư khoa Lịch sử tại trường Đại học Nam California. Bà từng nhận học bổng của Fulbright, Guggenheim và Trung tâm Nhân loại Quốc gia. Công trình nghiên cứu gần đây nhất của bà là Ngôi nhà đá quý: London thời Elizabeth và cuộc Cách mạng khoa học.​

      “Harkness viết với thích thú đến nghẹt thở về thế giới phép thuật. Dù bà miêu tả những lớp tập yoga cho phù thủy, tinh và ma cà rồng, hay những đoạn Dianna đến thăm lâu đài của Matthew, tất cả đều hồi hộp và tinh tế đến khó tin... Khi những điều huyền bí bắt đầu được hé lộ, tôi bắt đầu lật trang sách nhanh hơn, như thể chúng tự động lật giở vậy. Đến lúc thiên truyện kết thúc hoàn toàn gây thỏa mãn, Harkness biến tôi thành tín đồ...”

      Mật mã phù thủy là cuốn tiểu thuyết đầu tay của Deborah nhưng gây tiếng vang rộng rãi và gây kinh ngạc cho các nhà phê bình. Đây là trong những cuốn sách được bàn tán và chờ đợi nhiều nhất tại Hội chợ sách Frankfurt 2009, bản quyền của nó được bán cho 36 quốc gia, và trong tuần phát hành đầu tiên đạt số lượng bán kỉ lục: hơn 300.000 bản...”

      [​IMG]
      Mật mã phù thủy
      là cuốn tiểu thuyết đầu tay của Deborah và là cuốn đầu tiên trong bộ ba All Souls. Đây là trong các cuốn sách được bàn tán và chờ đợi nhiều nhất tại Hội chợ sách Frankfurt 2009, bản quyền được bán cho 32 quốc gia ngay từ khi sách chưa được xuất bản. thiên tiểu thuyết vô cùng mê hoặc, Mật mã phù thủy cân bằng hài hòa giữa lịch sử và phép màu huyền bí, giữa lãng mạn và ly kỳ…​

      Mật mã phù thủy được bình chọn là trong những cuốn sách hay nhất của tháng 2 năm 2011 trang www.amazon.com


      11/ 2/ 2011, số bản in của cuốn sách lên tới 210.000 bản, và còn 100.000 bản được đặt hàng. Cuốn sách xếp thứ 6 trong danh mục best seller của tờ Sunday Times ở .

      18/2/2011, cuốn sách vươn lên xếp thứ 2 trong danh mục bestseller của New York Times.
      Nội dung:

      buổi chiều muộn tháng 9, Diana Bishop, nữ sử gia đồng thời là học giả hóa học trẻ tuổi và tài năng miệt mài nghiên cứu giữa đống cổ thư trong thư viện Bodleian, trường Oxford. Diana vô tình cầm bản thảo cổ xưa về thuật giả kim, cuốn sách Ashmole 782, lên xem. Ngay lập tức, nhận ra nó có sức mạnh bí vô cùng lôi cuốn và huyền bí. Thực tế, Diana còn là hậu duệ của dòng dõi phù thủy lâu đời và xuất chúng, song muốn thừa nhận và sử dụng năng lực siêu nhiên của mình – và bao nhiêu năm qua, cố gắng sống như bao bình thường khác. Chính vì thế, sau thoáng lướt qua cuốn Ashmole 782, Diana trả nó lại cho thư viện và lờ những linh tính phù thủy của mình

      Tuy nhiên, Diana phải nhân vật duy nhất nhận ra trở lại của cuốn sách huyền bí, và những khám phá của sau đó ngay lập tức khuấy đảo cả thế giới ngầm. Ashmole 782 là kho báu vô giá thất lạc hàng thế kỷ và Diana là sinh vật đầu tiên cũng như duy nhất biết được thần chú mở ấn. Ngay lập tức, nhận ra mình cùng lúc bị ba loài sinh vật thần bí trái đất bao vây – tinh, phù thủy, và ma cà rồng – những kẻ ùn ùn kéo về Oxford hòng tìm kiếm cuốn cổ thư. Trong số đó, cảm nhận được mối liên hệ mạnh mẽ với Mathew Clairmont, nhà di truyền học điển trai, mạnh mẽ và cũng là ma cà rồng. Mathew là nhân vật có những thành tựu học thuật xuất chúng sau hàng trăm năm miệt mài nghiên cứu. Hai nhân vật thuộc về hai giống loài vốn cố mối thâm thù, nhưng sau những bữa tối bên ánh nến lung linh, những lớp học yoga với các bài tập siêu nhiên thần bí, và sau chuyến về ngôi nhà cổ kính của Matthew (mà thực ra là lâu đài) ở miền Nam nước Pháp, họ dần xích lại gần nhau…

      Khi những thử thách hai người phải đối đầu ngày nghiêm trọng, năng lực của Diana cũng ngày càng mạnh lên, cùng với Matthew phải sát cánh bên nhau để chiến đấu chống lại những thế lực thèm khát giải mã cuốn cổ thư với những trang sách hứa hẹn hé mở những bí mật động trời trong quá khứ cũng như tiết lộ những tiên đoán về tương lai đầy bí .​

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Phần I. Woodstock: Chòi Gác Cổ
      1.
      Chúng tôi đến nơi trong tư thế chồng đống chồng khê phù thủy và ma cà rồng chẳng đàng hoàng tẹo nào. Matthew nằm bên dưới người tôi, vị trí đặt đôi chân và hai cánh tay thon dài của trông vụng về lúng túng khác thường. cuốn sách lớn bị chèn giữa cả hai, và cú tiếp đất này khiến bức tượng bằng bạc mà tôi nắm chặt trong tay bị văng qua bên kia sàn nhà.
      “Chúng mình đến đúng chỗ chưa?” Mắt tôi vẫn nhắm tịt lại, sợ rằng cả hai vẫn trong kho chứa cây hoa bia của dì Sarah tại New York thế kỷ hai mươi mốt, chứ phải ở Oxfordshire của thế kỷ mười sáu. Dù vậy, những mùi hương xa lạ cho biết tôi còn ở trong gian và thời gian của mình nữa. Phảng phất trong đó có mùi hương cỏ ngòn ngọt, kèm với mùi sáp gợi tôi nhớ về mùa hè. Còn cả mùi khói gỗ và tiếng lửa cháy lách tách.
      “Mở mắt ra, Diana, em hãy nhìn xem.” bờ môi mát lạnh lướt qua má tôi, tiếp theo là tiếng cười khe khẽ. Đôi mắt màu biển dậy sóng gương mặt trắng nhợt chỉ có thể thuộc về ma cà rồng nhìn sâu vào mắt tôi. Đôi tay Matthew lướt từ má xuống hai vai tôi. “Em ổn cả chứ?”
      Sau chuyến hành trình dài vào quá khứ của Matthew, thân thể tôi rã rời đến nỗi chỉ luồng gió thổi cũng có thể bung ra từng mảnh bay tung tóe. Cảm giác giống như sau hàng loạt chuyến du hành thời gian ngắn ngủi lúc còn ở nhà các dì.
      “Em khỏe. Còn ?” Tôi giữ ánh mắt tập trung dán chặt vào Matthew chứ dám nhìn quanh quất.
      nhõm khi được về nhà.” Đầu Matthew ngả ra cái sàn gỗ đánh thịch tiếng khẽ khàng, làm tản ra nhiều hơn hương vị mùa hè từ chất cọ sàn và mùi hoa oải hương ở đó. Ngay cả vào năm 1590, Chòi Gác Cổ vẫn thân thuộc với ấy.
      Hai mắt tôi dần quen với ánh sáng lờ mờ. chiếc giường lớn vượt quá sức tưởng tượng, cái bàn , những chiếc ghế băng hẹp và chiếc ghế bành đơn xuất trong tầm nhìn. Qua lớp màn trướng giăng quanh giường, tôi thấy khung cửa nối liền căn phòng này với phòng khác. Ánh sáng từ đó đổ lên tấm ga trải giường và sàn nhà tạo thành khung hình chữ nhật vàng méo mó. Tường phòng cũng được ốp ván, trang trí bằng vải lanh xếp nếp, đẹp y như tôi còn nhớ từ những lần đến thăm nhà Matthew ở Woodstock thời đại. Ngửa đầu ra sau, tôi trông thấy trần nhà được trát thạch cao dày thành những ô vuông, với bông hồng của nhà Tudor màu đỏ trắng nổi bật nạm vào mỗi khoảng nối giữa chúng.
      “Những bông hồng ấy bắt buộc phải có khi xây dựng ngôi nhà này,” Matthew bình phẩm cách khô khan. “ chịu nổi chúng. Mình sơn tất cả chúng thành màu trắng ngay khi có thể nhé.”
      Những ngọn lửa vàng xanh giá nến sáng rực trong góc phòng, nơi đặt bức thảm trang trí sặc sỡ có các đường may óng ánh sẫm màu viền bên ngoài họa tiết những chiếc lá và trái cây tấm ga trải giường màu xanh nhạt. Vải dệt đại có được vẻ đẹp lộng lẫy như thế.
      Tôi bất chợt phấn khích tủm tỉm cười. “Em làm được. Em làm lộn xộn hay đưa chúng mình đến nơi khác, như Monticello hay…”
      ,” với nụ cười khẳng định chắc chắn, “em làm rất tuyệt. Chào mừng tới nước của nữ hoàng Elizabeth.”
      Lần đầu tiên trong đời, tôi hoàn toàn hài lòng khi là phù thủy. Là sử gia, tôi nghiên cứu quá khứ. Nhưng nhờ thân phận phù thủy, tôi có thể thực viếng thăm quá khứ. Chúng tôi tới năm 1590 để tôi trau dồi những pháp thuật thất truyền, nhưng ở nơi đây tôi có thể học được nhiều điều hơn thế. Tôi cúi đầu để tặng nụ hôn ghi nhớ dịp này, nhưng tiếng mở cửa ngăn tôi lại.
      Matthew đặt ngón tay lên môi tôi. Đầu hơi xoay qua, hai cánh mũi phập phồng. Vẻ căng thẳng biến mất khi nhận ra ai ở căn phòng bên cạnh, tôi có thể nghe thấy tiếng sột soạt phát ra khe khẽ từ đó. Matthew nhàng nâng cả tôi và cuốn sách lên. cầm tay tôi và dẫn tới cánh cửa.
      Trong căn phòng bên cạnh, người đàn ông với mái tóc nâu rối bù đứng cạnh chiếc bàn rải đầy thư từ. ta có vóc dáng trung bình, bộ quần áo được cắt may gọn ghẽ ôm sát người, trông khá đắt tiền. Giai điệu ta ngâm nga rất lạ, đôi lúc có những từ quá trầm khiến tôi nghe .
      cơn choáng váng ngạc nhiên thoáng mặt Matthew trước khi môi cong lên thành nụ cười trìu mến.
      ở đâu thế, Matt quý của tôi?” Người đàn ông cầm trang giấy giơ lên trước ánh sáng, hai mắt Matthew nheo lại, vẻ khó chịu thay thế trìu mến độ lượng.
      tìm thứ gì đó, Kit?” Trước những lời của Matthew, người đàn ông trẻ thả tờ giấy rơi thẳng xuống bàn, nét vui sướng thắp sáng cả gương mặt ta. Tôi từng thấy khuôn mặt này, bản in cuốn The Jew of Malta của Christopher Marlowe.
      “Matt! Pierre ở Chester và có thể về nhà. Nhưng tôi biết để lỡ buổi tụ hội thường niên của chúng ta đâu mà.” Những từ ngữ này vừa quen thuộc nhưng lại được khoác lên ngữ điệu kỳ lạ khiến tôi chú ý vào cách ta thay vì hiểu chúng. Tiếng dưới thời Elizabeth giống thời đại, nhưng cũng dễ hiểu như tôi hy vọng, dựa hiểu biết của tôi với những tác phẩm kịch của Shakespeare.
      “Râu của đâu cả rồi? bị ốm à?” Đôi mắt Marlowe long lanh hơn khi chiếu tướng vào tôi, nó gây ra áp lực căng thẳng cho thấy điều thể nhầm lẫn: ta là tinh.
      Tôi nén thôi thúc muốn lao về phía trong những nhà viết kịch vĩ đại nhất nước và bắt tay ta trước khi dồn dập hỏi tràng. Chút thông tin ít ỏi tôi từng biết về người này bốc hơi khỏi đầu ngay khi ta đứng trước mặt tôi. Có vở kịch nào của Marlowe được trình diễn vào năm 1590 nhỉ? ta bao nhiêu tuổi? Trẻ hơn Matthew và tôi, dĩ nhiên rồi. Marlowe thể hơn ba mươi được. Tôi mỉm cười ấm áp với ta.
      tìm thấy cái đó ở đâu thế hả?” Marlowe hỏi, giọng nhuốm đầy khinh miệt. Tôi ngoảnh lại, nhìn qua vai mình, mong chờ được thấy tác phẩm nghệ thuật gớm ghiếc nào đó. Chẳng có gì ngoài khoảng .
      Hóa ra ta ám chỉ tôi. Nụ cười của tôi lập tức cứng đờ.
      “Lịch nào, Kit,” Matthew quắc mắt đầy giận dữ.
      Marlowe nhún vai rũ bỏ lời khiển trách đó. “ vấn đề gì. Hãy lấy mọi thứ cần ở ả trước khi những người khác tới, nếu phải làm thế. George ở đây được lúc rồi, dĩ nhiên, ăn đồ ăn của và đọc sách của . Gã này vẫn có người bảo trợ và tên tuổi của chẳng đáng xu.”
      “George thoải mái dùng bất cứ thứ gì tôi có, Kit.” Matthew vẫn rời mắt khỏi người đàn ông trẻ, gương mặt vô cảm khi kéo những ngón tay bện chặt với nhau của chúng tôi đưa lên môi. “Diana, đây là bạn thân của , Christopher Marlowe.”
      Lời giới thiệu của Matthew càng khiến Marlowe dò xét công khai hơn. Ánh mắt của ta trườn từ ngón chân lên tới đỉnh đầu tôi. khinh thường của người đàn ông này thể cách rệt, ghen tỵ được che giấu tốt hơn. Marlowe quả chồng tôi. Tôi nghi ngờ ngay lúc còn ở Madison khi lướt ngón tay lời đề tặng của ta trong cuốn sách Doctor Faustus của Matthew.
      “Tôi biết ở Woodstock có nhà thổ chuyên chứa những ả đàn bà quá khổ đấy. Hầu hết những ả điếm của đều mong manh và quyến rũ cơ mà, Matthew. Đây trông như chiến binh Amazon ấy nhỉ” Kit khịt mũi tỏ vẻ khinh thường, ngoái nhìn qua vai về phía những giấy tờ lộn xộn rải rác bàn. “Theo như thông tin mới nhất của ông lão Fox chính công việc chứ phải thói trăng hoa kéo tới miền Bắc. Thời gian đâu để ả phục vụ hả?”
      “Lần này là ngoại lệ đấy nhé, Kit, bạn mới dễ dàng phung phí cảm tình làm sao,” Matthew lè nhè , trong ngữ điệu có nốt cảnh cáo. Marlowe, dường như định đáp lại, chàng nhận ra cảnh cáo đó nên lại cười tự mãn. Các ngón tay Matthew siết chặt lấy tay tôi.
      “Diana có phải là tên của ta , hay nó được đặt để làm tăng thêm sức cám dỗ đối với đám khách hàng? Có lẽ bên ngực phải để trần, hoặc cây cung và mũi tên chẳng hạn,” Marlowe gợi ý, vừa vừa nhặt trang giấy. “Còn nhớ khi Blackfriars Bess cầu chúng ta gọi ta là Aphrodite trước khi ta để chúng ta…”
      “Diana là vợ tôi.” Matthew biến mất khỏi vị trí bên cạnh tôi, bàn tay còn bao bọc tay tôi nữa mà siết lấy cổ áo của Marlowe.
      .” Gương mặt Kit vẻ bàng hoàng.
      “Đúng thế đấy. Điều đó có nghĩa ấy là bà chủ của ngôi nhà này, mang họ của tôi và ở dưới bảo vệ của tôi. Vì lẽ đó – và vì tình bạn lâu dài của chúng ta – trong tương lai, đừng để lời bình phẩm hay xì xào nào chống lại đức hạnh của ấy được thốt ra từ miệng bạn nữa.”
      Tôi ngọ nguậy mấy ngón tay để khôi phục lại cảm giác của chúng. Cơn giận dữ đè nén từ cái nắm siết của Matthew làm cho chiếc nhẫn ngón tay thứ ba bên bàn tay trái của tôi hằn vào da thịt, để lại vết đỏ mờ mờ. Dù thiếu những mặt đá, nhưng viên kim cương ở trung tâm vẫn bắt được hơi nóng của ánh lửa. Chiếc nhẫn là món quà bất ngờ từ mẹ Matthew, Ysabeau. Vài giờ trước – vài thế kỷ trước? Vài thế kỷ sắp tới? – Matthew lặp lại những lời thề trong nghi lễ kết hôn cổ xưa và luồn chiếc nhẫn kim cương này vào ngón tay tôi.
      Với tiếng chén đĩa lách cách, hai ma cà rồng khác xuất trong phòng. người đàn ông mảnh khảnh với gương mặt gợi cảm, làn da phong trần có màu quả phỉ, mái tóc và đôi mắt màu đen. ta bưng bình rượu vang cùng chiếc ly có chân đế hình cá voi, chiếc bát cân bằng đuôi nó. Người còn lại là phụ nữ gầy giơ xương mang theo đĩa lớn đựng bánh mỳ và bơ.
      “Ngài về, milord,” người đàn ông bộc lộ lúng túng. kỳ quặc, trọng Pháp càng khiến giọng ta dễ hiểu hơn. “Người đưa tin hôm thứ Năm … ”
      “Kế hoạch của ta thay đổi, Pierre.” Matthew quay sang người phụ nữ. “Tư trang của vợ ta bị mất trong chuyến , Françoise, và quần áo ấy vẫn mặc quá bẩn nên ta đốt chúng rồi.” dối cùng vẻ tự tin đầy lộ liễu. ai trong hai ma cà rồng lẫn Kit có vẻ bị thuyết phục bởi lời giải thích đó.
      “Vợ của ngài?” Françoise nhắc lại, trọng Pháp trong giọng cũng giống y như Pierre. “Nhưng ta là ph…”
      “Sinh vật máu nóng,” Matthew nốt câu, nhấc cái ly từ khay. “Báo với Charles là thêm suất nữa. Diana được khỏe nên phải có thịt tươi và cá theo lời khuyên của bác sĩ. Ai đó phải chợ, Pierre.”
      Pierre chớp mắt. “Vâng, milord.”
      “Và bà ấy cần thứ gì đó để mặc,” Françoise nhận xét, mắt nhìn tôi dò xét. Khi Matthew gật đầu, ta liền biến mất, Pierre sực tỉnh và theo.
      “Chuyện gì xảy ra với tóc của em thế?” Matthew giơ lên lọn tóc vàng quăn màu dâu tây.
      “Ôi, ,” tôi lầm bầm và giơ hai bàn tay lên. Thay vì mái tóc màu vàng hoe dài chấm vai bình thường, giờ đây chúng biến thành những lọn xoăn tít màu vàng kim ánh đỏ vươn tới eo. Lần cuối cùng mái tóc tôi tự thay đổi là khi tôi ở trường đại học, đóng vai Ophelia trong vở kịch Hamlet. Thỉnh thoảng phát triển thần tốc và đổi màu khác thường của nó phải là dấu hiệu tốt. phù thủy trong tôi thức tỉnh từ cuộc du hành quay về quá khứ này. thể biết được liệu còn pháp thuật nào khác được giải phóng ra nữa đây.
      Các ma cà rồng có lẽ ngửi thấy mùi adrenaline cùng nỗi lo lắng bất chợt lên đến đỉnh điểm liền với phát này, hoặc nghe thấy tiếng nhạc ngân nga trong máu tôi. Nhưng tinh như Kit có thể cảm thấy năng lượng phù thủy dâng lên.
      “Lạy Chúa trong mộ.” Nụ cười của Marlowe đầy vẻ hiểm ác. “ mang về nhà phù thủy. ta làm cái quỷ gì thế?”
      “Đây phải việc của .” Giọng Matthew như ra lệnh, nhưng các ngón tay vẫn dịu dàng tóc tôi. “Đừng lo lắng, mon coeur. chắc chắn có chuyện gì ngoài việc em bị kiệt sức.”
      Giác quan thứ sáu của tôi ngay lập tức tán thành lời an ủi đó. Lần biến đổi mới nhất này thể chỉ giải thích bằng tình trạng mệt mỏi đơn thuần. Là người có dòng dõi phù thủy, tôi vẫn chắc chắn về toàn bộ sức mạnh được thừa hưởng của mình. Ngay cả dì Sarah của tôi và người bạn đời của dì, Emily Mather – cả hai đều là phù thủy – cũng thể được chúng là gì hay cách tốt nhất để điều khiển chúng. Các thí nghiệm khoa học của Matthew tiết lộ những điểm di truyền về khả năng tiềm pháp thuật trong máu tôi, nhưng có gì đảm bảo khi nào hay liệu những khả năng đó có bao giờ thể ra.
      Trước khi tôi có thể rầu rĩ lo lắng hơn, Françoise trở lại với vài thứ trông như kim khâu, miệng ta ngậm mấy chiếc đinh ghim chĩa ra tua tủa. ngọn núi di động nào nhung, len và vải lanh bên cạnh. Đôi chân dài thon thả màu nâu lộ ra từ dưới đống đồ ấy cho thấy Pierre bị chôn vùi ở đâu đó bên trong.
      “Chúng để làm gì thế?” Tôi nghi ngờ hỏi, chỉ vào chỗ ghim cài.
      “Dĩ nhiên là để làm madame vừa với thứ này rồi.” Françoise lôi ra món đồ may màu nâu xỉn trông giống cái bao bố đựng bột mỳ từ đỉnh đống quần áo. Nó ràng phải lựa chọn ưng ý, nhưng với chút kiến thức ít ỏi về thời trang thời Elizabeth tôi đành phó mặc cho ta.
      xuống lầu, về chỗ của , Kit,” Matthew với bạn mình. “Chúng tôi xuống nhập hội với các ngay thôi. Và giữ mồm giữ miệng đấy. Đây là chuyện của tôi, tôi tự kể, phải chuyện của đâu.”
      “Như muốn, Matthew.” Marlowe kéo đường viền chiếc áo chẽn màu dâu chín, cử chỉ hững hờ trễ nải của ta hoàn toàn trái ngược với đôi bàn tay run rẩy và cái khẽ cúi đầu chào nhạo báng. Hành động thỏa hiệp đó vừa thể việc nhận thức mệnh lệnh của Matthew lại vừa ngầm chống đối nó.
      Khi Marlowe rồi, Françoise trải cái bao bố lên chiếc ghế băng bên cạnh và vòng quanh, nghiên cứu dáng người tôi để quyết định kiểu dáng trang phục thích hợp nhất. Rồi với tiếng thở dài nặng nề, nàng ma cà rồng bắt đầu mặc đồ cho tôi. Matthew tiến tới bên chiếc bàn và chú ý đến đống giấy tờ chất ngất đó. mở cái gói hình chữ nhật được gói và niêm phong gọn gàng bằng giọt xi hồng, phóng mắt qua tờ giấy viết tay bé xíu.
      “Dieu. Ta quên mất chuyện đó. Pierre!”
      “Milord?” tiếng nghèn nghẹt cất lên từ dưới đống vải vóc.
      “Đặt cái đó xuống rồi kể cho ta về lời phàn nàn mới nhất của quý bà Cromwell nào.” Matthew đối xử với Pierre và Françoise bằng pha trộn giữa thân mật và uy nghiêm. Nếu đây là cách người ta đối đãi với đầy tớ tôi phải mất chút thời gian để có thể nắm bắt được nghệ thuật này.
      Cả hai thầm trao đổi cạnh lò sưởi trong khi tôi bị ghim và bó chặt vào trong thứ trông có vẻ coi được. Françoise làu bàu về chiếc khuyên tai duy nhất của tôi, sợi vàng xoắn bện treo những viên đá quý vốn thuộc về Ysabeau. Giống như bản in cuốn Doctor Faustus của Matthew và bức tượng nữ thần Diana bằng bạc, chiếc khuyên tai này là trong ba món đồ giúp chúng tôi quay về thời điểm quá khứ cụ thể này. Françoise lục lọi trong chiếc tủ búp phê cạnh đó và dễ dàng tìm thấy thứ phù hợp với nó. Đồ trang sức của tôi được phân loại, ta luồn đôi tất dày lên quá đầu gối tôi và buộc chúng lại bằng những dải ruy băng màu đỏ tươi.
      “Em nghĩ mình sẵn sàng,” tôi , háo hức được xuống lầu để bắt đầu chuyến viếng thăm thế kỷ mười sáu. Việc đọc các cuốn sách về thời điểm này giống với việc trải nghiệm nó, ví như gặp gỡ ngắn ngủi này giữa tôi và Françoise hay cách tôi nhào vào diện thứ trang phục của thời kỳ phục hưng.
      Matthew ngắm tôi lượt. “Giờ có vẻ được rồi đấy.”
      “Còn hơn cả được ấy chứ, vì bà trông thời thượng và ấn tượng,” Françoise , “ phù thủy nên thế trong ngôi nhà này.”
      Matthew phớt lờ lời tuyên bố của Françoise, và quay sang tôi. “Trước khi chúng ta xuống, Diana, hãy nhớ cẩn thận trong lời ăn tiếng . Kit là tinh, còn George biết là ma cà rồng, nhưng cho dù có đầu óc phóng khoáng nhất trong các sinh vật khác người nữa họ cũng cảnh giác với kẻ lạ và khác biệt.”
      xuống đại sảnh, tôi ước gì George, người bạn xu dính túi cũng như được bảo trợ của Matthew, là người trọng lễ nghi và tôi hy vọng buổi tối tốt lành theo phong cách thời Elizabeth đúng nghĩa.
      “Người phụ nữ đó tiếng ư?” George thở hắt ra, tay giơ cặp mục kỉnh có hai mắt kính tròn xoe lên làm khuếch đại đôi mắt ếch màu xanh lơ của ta. Tay kia chống nạnh trong tư thế hệt như bức tiểu họa tôi trông thấy ở bảo tàng Victoria và Albert.
      ấy sống ở Chester,” Matthew vội . George tỏ vẻ hoài nghi. Xét qua thậm chí cả những vùng hoang vu phía bắc Quốc cũng thể giải thích cho cách kỳ quặc của tôi. Trọng mà Matthew ngày càng êm ái phù hợp hơn với ngữ điệu và sắc của thời đại này, nhưng giọng của tôi vẫn mang điệu đại đầy chất Mỹ.
      ấy là phù thủy,” Kit đính chính, rồi nhấp ngụm rượu vang.
      sao?” George săm soi tôi cùng niềm hứng thú mới mẻ. có cú thúc nào cho thấy người đàn ông này là tinh, cũng có những cơn râm ran của phù thủy, hay tiếp xúc lạnh buốt từ cái nhìn của ma cà rồng. George chỉ là con người máu nóng bình thường, có vẻ ngoài tầm trung tuổi, mệt mỏi như thể cuộc đời gặm mòn ta. “Nhưng so với Kit, cũng chẳng thích phù thủy hơn là bao, Matthew. vẫn luôn can ngăn tôi đề cập đến chủ đề này mà. Khi tôi định viết bài thơ về Hecate, bảo tôi…”
      “Tôi thích phù thủy này. Nhiều đến mức tôi cưới ấy,” Matthew cắt ngang, đặt nụ hôn kiên quyết lên môi tôi như để thuyết phục ta.
      “Cưới ta!” Mắt George liếc xéo sang Kit. ta húng hắng giọng. “Vậy là có hai niềm vui bất ngờ để ăn mừng: bị công việc làm trì hoãn như Pierre nghĩ, và trở về với chúng tôi cùng người vợ. Xin hãy nhận lời chúc mừng của tôi.” Giọng điệu trang trọng phô trương của ta gợi cho tôi nhớ đến buổi lễ phát bằng tốt nghiệp đại học, tôi cố nhịn cười. George cười toe toét với tôi để đáp lại và cúi đầu chào. “Tôi là George Chapman, thưa bà Roydon.”
      Tên ta nghe rất quen. Tôi lướt qua kho kiến thức lộn xộn trong bộ não sử gia của mình. Chapman phải là nhà giả kim thuật, đó là chuyên ngành nghiên cứu của tôi và tôi cũng tìm thấy tên của ta trong khoảng dành cho danh mục nghề nghiệp bí truyền. chàng là nhà văn khác, như Marlowe, nhưng tôi thể nhớ ra được bất cứ danh xưng nào.
      Khi chúng tôi bỏ qua thủ tục giới thiệu, Matthew đồng ý ngồi trước lò sưởi lát với mấy người khách của . Cánh đàn ông về chính trị và George cố gắng kéo tôi vào cuộc trò chuyện bằng cách hỏi về tình trạng đường xá hay thời tiết. Tôi trả lời ít nhất có thể rồi cố gắng quan sát đôi chút cung cách chuyện cũng như lối lựa chọn từ ngữ, điều đó giúp tôi ra dáng thần dân dưới thời nữ hoàng Elizabeth. George hài lòng với tập trung chú ý của tôi và tưởng thưởng nó bằng bài diễn văn dài về những nỗ lực sáng tác văn chương mới nhất của ta. Còn Kit, người mấy thích thú khi bị gạt ra ngoài lề làm vai phụ, khiến bài thuyết giảng của George phải dừng hẳn lại bằng cách đề nghị đọc to cuốn Doctor Faustus.
      “Chỉ thích hợp với chúng ta thôi,” chàng tinh , ánh mắt lấp lánh, “vào buổi trình diễn thực nào đó sau này nhé.”
      phải bây giờ, Kit. quá nửa đêm rồi, và Diana cũng thấm mệt sau chuyến ,” Matthew , rồi kéo tôi đứng dậy.
      Ánh mắt Kit vẫn rời khỏi cả hai cho tới khi tôi cùng Matthew ra khỏi phòng. ta biết chúng tôi che giấu điều gì đó. ta bắt lấy từng cách dùng thành ngữ lạ khi tôi tham gia vào cuộc chuyện và trở nên đăm chiêu khi Matthew thể nhớ cây đàn luýt của mình được cất giữ ở đâu.
      Matthew cảnh báo trước khi chúng tôi rời Madison rằng Kit mẫn cảm cách khác thường, cho dù là với tinh nữa. Tôi băn khoăn mất bao lâu trước khi Marlowe đoán ra điều gì được che giấu. Câu trả lời cho thắc mắc của tôi đến chỉ trong vòng vài giờ đồng hồ.
      Sáng hôm sau, chúng tôi vẫn nằm chiếc giường ấm áp trong khi cả ngôi nhà xôn xao huyên náo.
      Ban đầu, Matthew sẵn sàng trả lời các câu hỏi của tôi về Kit (hóa ra ta là con trai thợ đóng giày) và George (người chẳng già hơn Marlowe là mấy, điều đó khiến tôi ngạc nhiên.) Tuy nhiên, khi tôi quay sang các vấn đề thực hành quản lý ngôi nhà và phong thái cử chỉ của phái nữ nhanh chóng chán ngấy.
      “Thế còn quần áo của em sao?” Tôi hỏi, cố kéo tập trung vào những lo lắng tức thời của tôi.
      nghĩ phụ nữ kết hôn lại ngủ với mấy thứ đó,” Matthew , tay kéo cái áo ngủ đẹp đẽ bằng vải lanh của tôi. tháo nút buộc đường diềm cổ áo xếp nếp và chuẩn bị đặt nụ hôn bên dưới tai tôi để thuyết phục tôi theo quan điểm của có ai đó vén mấy tấm rèm quanh giường ra. Tôi nheo mắt lại bởi ánh sáng mặt trời.
      “Á à?” Marlowe lên tiếng.
      tinh thứ hai, đen nhẻm nhòm vào qua vai Marlowe. ta ăn khớp với hình ảnh tinh nghịch ngợm, quỷ quái cùng thân hình mảnh khảnh và cái cằm nhọn, được nhấn thêm bằng bộ râu màu vàng nâu sắc cạnh kém. Tóc ta hẳn là được chải hàng tuần lễ rồi. Tôi túm vội lấy phần trước của cái áo ngủ, hoàn toàn ý thức được độ trong suốt của nó cũng như tình trạng thiếu đồ lót người mình.
      bạn trông thấy mấy bức vẽ của ông White đến từ Roanoke rồi mà, Kit. phù thủy này trông chẳng có gì giống với thổ dân vùng Virginia cả,” tinh lạ mặt đáp lại vẻ thất vọng. Sau đó, ta để ý thấy Matthew, chàng ma cà rồng trừng mắt nhìn gã bạn. “Ồ. Buổi sáng tốt lành, Matthew. cho phép tôi mượn mô hình máy bay của chứ? Tôi hứa lần này mang nó ra sông nữa.”
      Matthew hạ trán xuống vai tôi và nhắm mắt lại kèm tiếng rên rỉ.
      ta chắc chắn phải đến từ Tân Thế Giới hoặc châu Phi,” Marlowe khăng khăng, từ chối nhắc đến tên tôi. “ ta phải đến từ Chester, cũng phải từ Scotland, Ireland, Wales, Pháp, hay Đế chế. Tôi tin ta là người Hà Lan hay Tây Ban Nha.”
      “Chào buổi sáng, Tom. Liệu có lý do nào để và Kit phải thảo luận về nơi sinh của Diana ngay lúc này và ở trong phòng ngủ của tôi ?” Matthew buộc lại diềm cổ áo ngủ cho tôi.
      sung sướng khi nằm ườn giường, thậm chí nếu bạn có mất trí vì sốt rét. Kit bạn chắc hẳn cưới phù thủy này giữa cơn sốt tồi tệ. Nếu chẳng có cách nào lý giải được cho khinh suất này cả.” Tom huyên thuyên theo phong cách đích thực của tinh, chẳng buồn trả lời câu hỏi của Matthew. “Đường xá khô ráo, và chúng tôi đến được mấy tiếng trước rồi.”
      “Rượu vang cũng hết,” Marlowe than phiền.
      “Chúng tôi?” Còn nhiều người như họ nữa ư? Chòi Gác Cổ có cảm giác như bị lèn chặt đến mức nổ tung rồi.
      “Ra ngoài! Madame phải tắm rửa trước khi chào hỏi các quý ngài.” Françoise bước vào phòng với cái chậu nghi ngút hơi nước tay. Pierre, như thường lệ, bám theo phía sau.
      “Có chuyện gì quan trọng xảy ra thế?” George cất tiếng hỏi từ phía sau mấy tấm rèm. ta vào phòng mà thông báo trước, càng làm tăng thêm nỗ lực của Françoise nhằm dồn lũ đàn ông kia ra khỏi phòng. “Đức ngài Northumberland bị bỏ lại mình trong đại sảnh. Nếu ông ấy là nhà bảo trợ của tôi, tôi đối xử với ông ấy như thế!”
      “Hal đọc luận thuyết về cấu trúc cân bằng được nhà toán học ở Pisa gửi đến cho tôi. Ông ấy khá hài lòng,” Tom cáu kỉnh đáp lại, ngồi ghé lên mép giường.
      ta chắc hẳn về Galileo, tôi nhận ra với cảm giác phấn khích. Vào năm 1590, Galileo đạt được cấp bậc giáo sư ở trường đại học tại Pisa. Công trình của ông về cân bằng được xuất bản – vẫn chưa.
      Tom. Đức ngài Northumberland. ai đó có thư từ qua lại với Galileo.
      Miệng tôi há hốc ra vì kinh ngạc. Chàng tinh vắt vẻo tấm mền bông phủ giường kia chắc hẳn là Thomas Harriot.
      “Ra ngoài. Tất cả các người,” Matthew quát lên, nghe như nhắm vào Tom.
      “Thế chúng tôi nên gì với Hal?” Kit hỏi, đánh mắt liếc về phía tôi đầy ý.
      “Rằng tôi xuống ngay đây,” Matthew đáp. lật người và kéo tôi sát lại gần.
      Tôi đợi cho tới khi bạn bè của Matthew rút ra khỏi phòng mới đấm thùm thụp vào ngực .
      “Cái đó là vì chuyện gì hả?” nhăn nhó giả vờ đau đớn, nhưng chỗ bị thâm tím lại là nắm tay của tôi.
      “Vì cho em biết bạn bè của là ai!” Tôi nhỏm người dậy chống khuỷu tay và chằm chằm nhìn xuống . “Kịch gia vĩ đại Christopher Marlowe. George Chapman, nhà thơ và học giả. Nhà toán học và thiên văn học Thomas Harriot, nếu em nhầm. Và ngài Bá Tước Pháp Sư đợi ở dưới lầu!”
      thể nhớ Henry kiếm được cái biệt danh ấy từ bao giờ, nhưng chẳng ai gọi ta như thế cả.” Matthew trông có vẻ thích thú, điều này chỉ càng khiến tôi thêm tức giận.
      “Tất cả những gì chúng ta cần là ngài Walter Raleigh và chúng ta có toàn bộ Bè lũ Bóng đêm trong ngôi nhà này.” Matthew nhìn ra cửa sổ lúc tôi nhắc tới cái nhóm người huyền thoại toàn những nhân vật cấp tiến, triết gia, và những kẻ có tư duy tự do. Thomas Harriot. Christopher Marlowe. George Chapman. Walter Raleigh. Và…
      “Vậy là ai, Matthew?” Tôi nghĩ ra phải hỏi trước khi chúng tôi tới đây.
      “Matthew Roydon,” đáp, hơi nghiêng đầu lịch thiệp, như thể đến bây giờ chúng tôi mới được giới thiệu với nhau. “Bạn của những nhà thơ.”
      “Các sử gia hầu như biết gì về cả,” tôi ngạc nhiên . Matthew Roydon là nhân vật bí nhất kết nối Bè lũ Bóng đêm kỳ bí này.
      “Em bất ngờ, đúng , giờ em biết Matthew Roydon là ai rồi phải ?” Hàng lông mày đen láy của nhướng lên.
      “Ồ, em ngạc nhiên đủ cho cả phần đời còn lại rồi. đáng lẽ có thể báo cho em biết trước khi lôi em vào giữa tất cả chuyện này.”
      “Biết rồi em làm gì nào? Chúng ta chỉ có vừa đủ thời gian để thay quần áo trước khi rời , đừng bận tâm sắp đặt dự án nghiên cứu.” ngồi dậy và thả cặp chân dài đứng xuống sàn. Khoảng thời gian riêng tư của chúng tôi ngắn ngủi đến thảm thương. “ có lý do gì để em lo lắng cả. Họ chỉ là những người đàn ông bình thường thôi, Diana.”
      Dù Matthew có nữa cũng chẳng có gì bình thường ở họ cả. Bè lũ Bóng đêm nắm giữ những quan điểm dị giáo, nhạo báng triều đình tham nhũng ăn hối lộ của Nữ hoàng Elizabeth, và chế giễu những kẻ được kỳ vọng là thông thái của nhà thờ cũng như trường đại học. “Điên rồ, xấu xa và nguy hiểm” là những từ ngữ miêu tả hoàn hảo về nhóm người này. Chúng tôi tham dự cuộc sum họp đầm ấm của những người bạn vào đêm Halloween. Chúng tôi rơi vào cái tổ tò vò của hội ngầm dưới thời đại Elizabeth.
      “Gạt qua bên chuyện các bạn có thể liều lĩnh tới mức nào, thể trông mong vẻ thờ ơ khi giới thiệu em với những người mà em dành cả cuộc đời trưởng thành của mình để nghiên cứu về họ,” tôi . “Thomas Harriot là trong những nhà thiên văn học lỗi lạc nhất thời đại này. Người bạn Henry Percy của nhà giả kim thuật.” Pierre, quen với các dấu hiệu của phụ nữ kích động, vội vàng đẩy cái quần chẽn cho chồng tôi để chàng phải ở truồng khi cơn giận dữ của tôi phun trào.
      “Vậy là Walter và Tom.” Matthew phớt lờ bộ quần áo được đưa cho và gãi gãi cằm. “Kit học đòi nữa, dù chẳng có thành công nào cả. Cố gắng đừng dừng lại ở những gì em biết về họ. Nhân tiện, nó có thể sai đấy. Và em cũng nên cẩn thận với mấy cuốn sách lịch sử thời đại của em,” tiếp tục, cuối cùng cũng túm lấy cái quần chẽn rồi xỏ chân vào. “Will bịa ra chuyện về Bè lũ Bóng đêm như nhát đâm bị thóc chọc bị gạo đối với Kit, nhưng chưa phải trong vài năm tới.”
      “Em quan tâm William Shakespeare , làm gì trong tương lai – miễn là ông ta có mặt ngay bây giờ trong tiền sảnh cùng với Bá tước vùng Northumberland!” Tôi vặn người, trượt xuống khỏi chiếc giường cao.
      “Dĩ nhiên Will có ở dưới đó.” Matthew phẩy tay vẻ tùy tiện. “Walter chấp nhận tư cách của ta, còn Kit nghĩ ta là tay viết văn thuê và tên kẻ cắp.”
      “À, vậy may quá rồi. định về em với họ như thế nào? Marlowe biết chúng mình giấu giếm chuyện gì đó.”
      Đôi mắt màu xanh xám của Matthew bắt gặp mắt tôi. “ , cho là thế.” Pierre đưa cho chiếc áo chẽn – màu đen, với lớp lót may cầu kỳ – và nhìn chằm chằm vào điểm cố định phía vai tôi, hình mẫu chuẩn mực của người hầu tốt. “Rằng em là người du hành vượt thời gian và là phù thủy đến từ Tân Thế Giới.”
      ,” tôi lặp lại đều đều. Pierre có thể nghe thấy mọi lời nhưng vẫn chẳng biểu lộ phản ứng nào, còn Matthew phớt lờ như thể ta hoàn toàn vô hình. Tôi băn khoăn biết liệu mình có ở đây đủ lâu để quen với việc lãng quên diện của ma cà rồng này .
      “Tại sao ? Tom ghi lại mọi điều em và so sánh nó với những ghi chú của ta về ngôn ngữ Algoquian. Nếu chẳng có ai để ý lắm đâu.” Matthew dường như quan tâm đến quần áo hơn là phản ứng của bạn bè .
      Françoise quay trở lại với hai phụ nữ trẻ máu nóng mang theo những bộ quần áo sạch. ta ra dấu về phía đồ ngủ của tôi, và tôi thụp xuống sau cột giường để cởi áo. lấy làm biết ơn khoảng thời gian ở phòng đặt tủ để đồ, tôi ép ra hết thói e ngại khi phải thay đồ trước mặt người lạ, tôi kéo chiếc váy lanh lên hông và luồn qua vai.
      “Kit làm thế. ta vẫn tìm kiếm lý do để ghét em, và chuyện này mang đến cho ta vài lý do đấy.”
      bạn đó phải là vấn đề,” Matthew tự tin .
      “Marlowe là bạn hay là con rối của ?” Tôi vẫn đánh vật để thoát khỏi mớ vải vóc kia, đúng lúc có tiếng thở gấp kinh hãi và giọng nghẹn ngào “Mon Dieu.”
      Tôi đông cứng người. Françoise nhìn thấy lưng tôi và vết sẹo hình trăng lưỡi liềm trải dài từ bên này sang bên kia lồng ngực, dọc theo đó là ngôi sao nằm giữa hai xương bả vai của tôi.
      “Tôi mặc đồ cho madame,” Françoise lạnh lùng với hai hầu . “Để váy áo đó và quay lại với công việc của các người .”
      Mấy hầu im lặng rời , sau khi nhún gối chào cùng ánh mắt tò mò. Họ trông thấy các dấu vết kia. Khi bọn họ khỏi, tất cả chúng tôi lập tức lại bắt đầu . Tiếng Françoise thất kinh. “Kẻ nào làm điều này?” Tiếng Matthew cất lên “ ai được biết cả” và giọng của tôi hơi có vẻ bào chữa “chỉ là vết sẹo thôi mà.”
      “Kẻ nào đó đánh dấu bà bằng gia huy của nhà de Clermont,” Françoise khăng khăng lắc đầu, “cái đó chỉ có milord sử dụng.”
      “Chúng tôi phá vỡ thỏa ước.” Tôi đấu tranh với cảm giác buồn nôn quặn thắt lấy ruột gan mỗi khi nghĩ về cái đêm tôi bị phù thủy khác đánh dấu như kẻ phản bội. “Đây là trừng phạt của Đại Hội Đồng.”
      “Vậy đó là lý do hai người ở đây.” Françoise khịt mũi. “Cái thỏa ước đó ngay từ khi bắt đầu ý tưởng ngu xuẩn. Philippe de Clermont đáng lẽ bao giờ nên theo nó.”
      “Nó giúp chúng ta được an toàn trước loài người.” Tôi thích thú gì cái thỏa ước đó hay chín thành viên của Đại Hội Đồng thúc ép nó, nhưng thể chối bỏ những thành công trong việc che giấu các sinh vật khác người suốt thời kỳ dài khỏi bị chú ý. Những lời hứa cổ xưa giữa tinh, ma cà rồng và phù thủy ngăn cấm việc can thiệp vào chính trị hay tôn giáo của loài người cũng như ngăn cấm các mối liên kết cá nhân giữa ba loài này. Phù thủy chỉ giữ quan hệ với nhau, cũng như ma cà rồng và tinh. Họ được phép và kết hôn giữa hai loài.
      “An toàn ư? Bà đừng nghĩ là được an toàn ở đây, madame. ai trong chúng ta cả. Người là những kẻ mê tín, họ tin vào việc nhìn thấy hồn ma trong mỗi nghĩa địa, nhà thờ và phù thủy ở bên chiếc vạc. Đại Hội Đồng là tất cả những gì chắn giữa chúng ta và tuyệt chủng hoàn toàn. Bà khôn ngoan khi trú ở đây. Tới đây nào, bà phải thay đồ rồi tham gia với những người kia.” Françoise giúp tôi cởi chiếc váy ngủ, đưa cho tôi chiếc khăn tắm ướt, đĩa có thứ sền sệt mùi lá hương thảo và cam. Tôi thấy kỳ quặc khi được đối xử như đứa trẻ nhưng cũng biết rằng chuyện đó là hoàn toàn bình thường đối với những người ở đẳng cấp của Matthew, được tắm, được mặc đồ và được cho ăn như búp bê. Pierre đưa cho Matthew tách đựng thứ gì đó rất đen thể là rượu vang được.
      “Bà ấy chỉ là phù thủy mà còn là fileuse de temps nữa à?” Françoise lặng lẽ hỏi Matthew. Cụm từ fileuse de temps xa lạ − “người se sợi thời gian”− gợi lên hình ảnh về rất nhiều sợi chỉ màu sắc khác nhau mà chúng tôi lần theo để tới được thời điểm quá khứ cụ thể này.
      “Đúng vậy.” Matthew gật đầu, tập trung chú ý của dồn cả vào tôi trong khi nhấp ngụm trong tách.
      “Nhưng nếu bà ấy đến từ thời đại khác, điều đó có nghĩa…” Françoise bắt đầu , đôi mắt mở lớn. Sau đó, nét mặt ta trở nên trầm ngâm. Matthew chắc hẳn năng và cư xử khác lạ.
      ta nghi ngờ rằng đây phải là Matthew trước đây, tôi nhận ra và cảnh giác.
      “Biết bà ấy được milord bảo vệ đối với chúng ta thế là đủ,” Pierre cộc cằn , cảnh cáo ràng trong giọng điệu. ta trao cho Matthew con dao găm. “Nó có nghĩa gì cũng quan trọng.”
      “Nó có nghĩa là ta ấy, và ấy cũng ta.” Matthew nhìn người hầu của mình vẻ quyết liệt. “Cho dù ta có gì với những người khác nữa, đó là . hiểu chưa?”
      “Vâng,” Pierre đáp, dù ngữ điệu có đôi chút miễn cưỡng.
      Matthew gườm mắt nhìn Françoise, ta bặm chặt môi và gật đầu cách miễn cưỡng.
      ta dồn chú tâm trở lại việc sửa soạn, và bọc tôi vào chiếc khăn tắm dày bằng vải lanh. Françoise hẳn thấy các dấu vết khác cơ thể, những thứ tôi nhận được trong ngày ròng rã tưởng chừng vô tận bởi phù thủy Satu, cũng như các vết sẹo khác sau đó. Tuy nhiên, Françoise hỏi gì thêm, cho tới khi tôi ngồi chiếc ghế bành cạnh lò sưởi trong lúc chải tóc cho tôi.
      “Và lăng mạ này xảy ra sau khi ngài tuyên bố tình dành cho phù thủy đây ư, milord?” Françoise hỏi.
      “Phải.” Matthew cài con dao găm vào bên thắt lưng.
      “Vậy kẻ đánh dấu lên bà ấy phải là manjasang,” Pierre lẩm bẩm. ta dùng ngôn ngữ Occitan cổ xưa để chỉ ma cà rồng – “kẻ ăn máu.” “ kẻ nào liều lĩnh chọc giận gia tộc de Clermont cả.”
      , đó là phù thủy khác.” Mặc dù được che chắn khỏi gian lạnh giá, lời thú nhận này vẫn khiến tôi rùng mình.
      “Dù thế, có hai manjasang đứng cạnh và để chuyện đó xảy ra,” Matthew với vẻ gì lay chuyển nổi. “Và chúng phải trả giá vì điều đó.”
      “Chuyện gì xảy ra xảy ra rồi.” Tôi mong muốn bắt đầu mối thù hận giữa các ma cà rồng. Chúng tôi có đủ khó khăn thách thức phải đối mặt.
      “Nếu milord chấp nhận bà với tư cách là vợ của ngài ấy khi phù thủy kia mang bà , chuyện đó coi như xong.” Những ngón tay thoăn thoắt của Françoise bện tóc tôi thành những bím chặt. ta cuốn chúng quanh đầu tôi và ghim lại chỗ. “Tên của bà có thể là Roydon đất nước tiêu điều này, nơi mà lòng trung thành được nhắc đến, nhưng chúng tôi quên bà là người nhà de Clermont.”
      Mẹ Matthew cảnh báo rằng những người nhà de Clermont là bầy đàn gắn kết. Trong thế kỷ hai mươi mốt, tôi phải chật vật với những bổn phận và giới hạn, nó kèm tư cách như thành viên của gia tộc này. Tuy nhiên vào năm 1590, phép thuật của tôi để tiên đoán được, hiểu biết của tôi về pháp thuật phù thủy gần như có, vị tổ tiên sớm nhất mà tôi biết còn chưa ra đời. Ở đây, tôi chẳng có gì để dựa dẫm ngoài trí tuệ của mình và Matthew.
      “Những tình ý của chúng mình đối với nhau lúc đó quá ràng. Nhưng giờ em muốn có bất kỳ rắc rối nào.” Tôi nhìn xuống chiếc nhẫn của Ysabeau và cảm nhận cái vòng kim loại đó ngón tay cái của mình. Hy vọng của tôi là cả hai có thể hòa nhập hết mức với quá khứ này, nhưng giờ đây điều đó dường như thể xảy ra. Tôi nhìn xung quanh. “Và chuyện này…”
      “Chúng ta ở đây vì hai lý do, Diana. Đó là tìm cho em thầy giáo và xác định vị trí cuốn sách giả kim thuật đó nếu có thể.” Chính cuốn cổ thư bí có tên gọi Ashmole 782 ban đầu mang chúng tôi đến với nhau. Ở thế kỷ hai mươi mốt, nó được vùi lấp an toàn giữa hàng triệu cuốn sách trong thư viện Bodleian của Oxford. Khi điền vào phiếu cầu, tôi hề biết hành động đơn giản đó mở khóa bùa chú hết sức phức tạp giới hạn cuốn cổ thư đó giá sách, hoặc bùa chú đó cũng phục hồi hoạt động trở lại vào thời khắc tôi trả lại nó. Tôi hoàn toàn ngờ nghệch chẳng biết gì về những bí mật liên quan đến phù thủy, ma cà rồng và tinh mà các trang sách đó tiết lộ, theo lời đồn đại. Matthew nghĩ việc xác định vị trí Ashmole 782 trong quá khứ khôn ngoan hơn là cố gắng hóa giải bùa chú kia lần thứ hai ở thế giới đại.
      “Cho tới khi chúng ta quay về, đây là nhà của em,” tiếp tục, cố gắng làm tôi an lòng.
      Những món đồ gỗ chắc chắn trong căn phòng này quen thuộc với viện bảo tàng hay các cuốn catalog đấu giá, nhưng Chòi Gác Cổ bao giờ mang lại cảm giác giống mái ấm cả. Tôi lướt ngón tay lên chiếc khăn tắm bằng vải lanh dày – quá khác so với cái khăn bông bạc màu của dì Sarah và Em, tất cả đều cũ mòn mỏng do giặt quá nhiều lần. Những giọng trong căn phòng khác du dương và trùng xuống trong nhịp điệu mà người đại và sử gia nào có thể biết được. Nhưng quá khứ này là lựa chọn duy nhất của chúng tôi. Những ma cà rồng kia chỉ ra điều đó trong suốt những ngày cuối cùng chúng tôi ở Madison, khi bọn chúng săn đuổi chúng tôi và gần như giết chết Matthew. Nếu phần còn lại trong kế hoạch vẫn tiến triển trải nghiệm với tư cách phụ nữ chuẩn mực dưới thời nữ hoàng Elizabeth hẳn phải là ưu tiên hàng đầu của tôi.
      “Hỡi thế giới mới dũng cảm.” phá rối lịch sử trắng trợn khi trích dẫn tác phẩm Tempest của Shakespeare hẳn hai thập kỷ trước khi nó được viết ra, nhưng đây quả thực là buổi sáng khó khăn.
      “Nó mới mẻ đối với ngươi,” Matthew đáp lời. “Vậy em sẵn sàng gặp gỡ rắc rối của mình chưa?”
      “Tất nhiên rồi. Hãy để em mặc đồ .” Tôi bạnh vai ra và đứng dậy. “Làm thế nào để xin chào với vị bá tước?”

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      2.

      Lo lắng của tôi về nghi thức xã giao đúng mực là cần thiết. Tước hiệu và danh xưng quan trọng khi vị bá tước được đến là người khổng lồ lịch lãm tên Henry Percy.

      Françoise, người coi trọng những chuẩn mực, luôn nhặng xị lên trong khi hoàn thành nốt việc mặc đồ cho tôi bằng mớ y phục bới móc kiếm về được: những chiếc váy lót dài của ai đó, cái coóc-xê khâu tay để hãm bớt khổ người vận động viên của tôi thành dáng vẻ yểu điệu truyền thống hơn; chiếc áo lót thêu hoa sực nức mùi oải hương và cây tuyết tùng; với cổ áo cao xếp nếp; chiếc váy dáng phồng bằng vải nhung; và chiếc áo khoác tốt nhất của Pierre, thứ đồ may mặc duy nhất còn xa mới là kích thước của tôi. Mặc dù cố gắng, Françoise vẫn thể nào cài được hàng khuy ngực áo. Tôi nín thở, thót bụng và hy vọng điều kỳ diệu khi Françoise kéo những dải coóc-xê chặt hơn, nhưng chẳng có can thiệp kỳ diệu nào có thể cho tôi vóc dáng mảnh mai duyên dáng.

      Tôi hỏi Françoise hàng tá câu hỏi trong suốt quá trình phức tạp đó. Những bức chân dung của thời kỳ này khiến tôi trông chờ cái lồng chim cồng kềnh gọi là váy phồng để giữ cho chiếc váy mặc căng ra phần hông, nhưng Françoise giải thích rằng những thứ đấy chỉ dành cho các dịp trang trọng hơn. Thay vào đó, ta buộc miếng vải xếp nếp có hình dạng giống chiếc bánh rán vòng quanh eo tôi, bên dưới lớp váy ngoài. Điều lạc quan duy nhất để về thứ đó là nó giúp cho các lớp váy áo bị quệt vào hai chân, nhờ vậy tôi có thể lại mà quá khó khăn – miễn là có nhiều đồ đạc lối và tôi có thể tới được đích đến nếu di chuyển theo đường thẳng tắp. Nhưng tôi cũng phải biết nhún chào. Françoise nhanh chóng dạy tôi cách nhún gối chào trong khi giải thích các tước hiệu phong phú của Henry Percy phải dùng ra sao – ông ta là “Đức ngài Northumberland” mặc dù mang họ Percy và là bá tước.

      Nhưng tôi có cơ hội được dùng đến bất cứ thứ gì trong mớ kiến thức mới thu lượm được này. Ngay khi Matthew cùng tôi bước vào đại sảnh, người đàn ông trẻ tuổi gầy gò và cao lêu nghêu mặc bộ quần áo đường bằng da màu nâu nhạt bị bùn bắn tung tóe tiến tới chào hỏi cả hai. Gương mặt cởi mở càng thêm tươi sáng bởi cái nhìn tò mò khiến đôi lông mày rậm màu tro của ta nhướng lên thành cái vòm nhọn rệt. “Hal.” Matthew mỉm cười với dáng vẻ thân thiết khoan dung của người trai. Nhưng vị bá tước phớt lờ người bạn cũ, thay vào đó tiến về phía tôi.

      “Ừm, bà Roydon.” Giọng trầm ấm của vị bá tước điệu, rất ít dấu vết luyến láy hay trọng . Trước khi xuống nhà, Matthew giải thích rằng Henry hơi điếc và lắp từ khi còn . Tuy nhiên, ta rất thạo việc đọc môi người. Đây là người tôi có thể trò chuyện mà cảm thấy e dè.

      “Lại bị Kit hớt lẻo trước rồi,” Matthew với nụ cười thiểu não. “Tôi hy vọng được tự mình với .”

      “Ai là người chia sẻ tin vui này có gì khác đâu?” Đức ngài Northumberland cúi đầu chào. “Tôi cảm ơn bà vì lòng hiếu khách, thưa bà, và xin thứ lỗi vì chào hỏi trong bộ dạng này. Bà tử tế khi sớm chịu đựng những người bạn của chồng thế này. Chúng tôi lẽ ra phải rời ngay lập tức lúc biết bà trở về nhà. Quán trọ là nơi thích hợp hơn cả.”

      “Ngài vô cùng được chào đón ở đây, thưa đức ngài.” Đây là lúc thích hợp để nhún gối chào, nhưng cái váy nặng nề màu đen của tôi dễ xoay sở và chiếc áo coóc-xê thít quá chặt khiến tôi thể cúi người được. Tôi cố xếp hai chân vào tư thế thích hợp để tỏ vẻ tôn kính nhưng lại lảo đảo khi khuỵu gối chào. bàn tay to lớn ngại ngần giữ tôi đứng vững.

      “Chỉ Henry thôi, thưa bà. Mọi người khác gọi tôi là Hal, nên tên thánh của tôi được coi là khá trang trọng.” Giống nhiều người bị khiếm thính, ngài bá tước cố ý giữ cho giọng của mình êm . Ông thả tôi ra và quay sang Matthew. “Tại sao lại cạo râu thế, Matt? bị ốm à?”

      cơn sốt rét thoáng qua thôi, chẳng có gì đâu. Việc kết hôn chữa lành cho tôi rồi. Những người còn lại đâu rồi?” Matthew liếc nhìn quanh tìm Kit, George và Tom.

      Tiền sảnh Chòi Gác Cổ trông rất khác dưới ánh sáng ban ngày. Tôi mới chỉ trông thấy nó vào ban đêm, nhưng sáng hôm nay các ô ván nặng nề hóa ra lại là những cánh cửa chớp, tất cả chúng đều được mở ra. Điều đó mang gian thoáng đãng đến cho căn nhà, bất chấp chiếc lò sưởi khổng lồ ở bức tường phía xa. Nó được trang trí bằng những phần xây bằng đá theo phong cách thời Trung cổ, hẳn được Matthew cứu thoát từ đống gạch vụn của cái tu viện thời từng tọa lạc nơi đây – gương mặt thường thấy của vị thánh, huy hiệu của tu viện, hình trang trí lá bốn thùy theo phong cách Gothic.

      “Diana?” Giọng vui vẻ của Matthew cắt ngang việc quan sát căn phòng và nội thất bên trong của tôi. “Hal những người kia ở phòng khách, đọc sách và chơi bài. ấy cảm thấy thích hợp đến tham gia cùng bọn họ chừng nào còn chưa được bà chủ nhà có lời mời ở lại.”

      “Ngài bá tước phải ở lại, dĩ nhiên là thế, và chúng ta có thể đến tham gia với bạn bè ngay lập tức.” Bụng tôi sôi ùng ục.

      “Hoặc chúng ta có thể kiếm cho em thứ gì đó để ăn,” vừa gợi ý, vừa nháy mắt. Giờ tôi gặp Henry Percy mà có rủi ro nào, nên Matthew bắt đầu thả lỏng. “ có ai mời ăn chưa, Hal?”

      “Pierre và Françoise chú ý đến chuyện đó rồi,” ta đảm bảo với chúng tôi. “Dĩ nhiên, nếu bà Roydon cùng tôi…” Giọng ngài bá tước trượt dài và dạ dày ta cũng réo lên. chàng này cao như hươu cao cổ, nên chắc phải cần tới lượng thức ăn lớn.

      “Tôi cũng rất thích bữa sáng thịnh soạn, thưa đức ngài,” tôi cười .

      “Henry,” ngài bá tước dịu dàng chỉnh lại, nụ cười tươi rói của ta làm lộ ra lúm hõm xuống ở dưới cằm.

      “Vậy ngài phải gọi tôi là Diana. Tôi thể gọi bá tước của Northumberland bằng tên riêng nếu ngài ấy cứ tiếp tục nhắc đến tôi như là ‘Bà Roydon.’” Françoise khăng khăng việc cần thiết phải tôn trọng địa vị cao quý của ngài bá tước.

      “Rất hay, Diana,” Henry rồi đưa cánh tay ra.

      ta dẫn tôi băng qua hành lang lạnh lẽo để tiến vào căn phòng có trần thấp ấm cúng. Nó ấm áp và thoải mái, với dãy cửa sổ quay về hướng nam. Dù với kích thước nhưng vẫn có ba chiếc bàn được kê trong phòng, dọc theo đó là nhiều ghế đẩu và băng ghế dài. Tiếng rì rầm trầm thấp của các hoạt động bị ngắt quãng bởi tiếng lách cách của ấm tách cùng xoong chảo, cho biết chúng tôi ở gần khu bếp. Ai đó đính trang của cuốn niên lịch lên tường và cái bản đồ nằm bàn trung tâm, chiếc bàn ở góc đặt giá nến, bên bàn còn lại đặt đĩa thiếc nông đựng đầy hoa quả. sắp đặt này trông giống bức tranh tĩnh vật của Hà Lan, cùng những chi tiết giản dị kiểu cách. Tôi dừng khựng lại chút, choáng váng vì mùi hương này.

      “Quả mộc qua.” Những ngón tay tôi với tới chạm vào chúng. Chúng trông giống y như tôi thấy trong tâm tưởng khi ở Madison lúc Matthew miêu tả về Chòi Gác Cổ.

      Henry dường như bị bối rối trước phản ứng của tôi đối với đĩa trái cây bình thường nhưng do được giáo dục cẩn thận nên ta bình luận gì. Chúng tôi an vị bên chiếc bàn đó, người hầu mang thêm bánh mỳ mới cùng với đĩa nho và bát táo cho bức tranh tĩnh vật trước mặt chúng tôi. dễ chịu khi được thấy những đồ ăn quen thuộc như thế. Henry tự lấy thức ăn cho mình, còn tôi nhìn ta làm mẫu, cẩn thận để ý những đồ ăn nào ta chọn và ăn mỗi thứ bao nhiêu. Luôn có đôi chút khác biệt giữa những người lạ, và tôi muốn ra vẻ bình thường nhất có thể. Trong khi chúng tôi lấy đầy đĩa của mình, Matthew tự rót cho ly rượu vang.

      Trong suốt bữa ăn, Henry cư xử với lịch thiệp chê vào đâu được. ta bao giờ hỏi tôi điều gì mang tính cá nhân, cũng tọc mạch chuyện tình cảm của Matthew. Thay vào đó, ta khiến chúng tôi cười hết lần này tới lần khác với các mẩu chuyện về những chú chó, những khu đất của ta và bà mẹ có tính cách vô cùng chặt chẽ kỷ luật, trong khi đó ta luôn tay cung cấp đều đặn bánh mỳ nướng từ lò sưởi. Henry bắt đầu kể về việc chuyển nhà đến London có tiếng ồn dâng lên từ sân trong của ngôi nhà. Ngài bá tước quay lưng về phía cửa nên nhận thấy.

      “Bà ta thể nào! Tất cả các người cảnh cáo tôi, nhưng tôi tin có ai lại vô ơn đến thế. Sau tất cả giàu có mà tôi đổ vào trong cái két tiền của bà ta, ít nhất bà ta cũng phải làm − Ồ.” Vị khách mới của chúng tôi có bờ vai rộng choán cả khung cửa, chiếc áo choàng tay màu đen phủ kín bên vai, tiệp màu cùng mái tóc loăn xoăn ló ra quanh chiếc mũ rộng vành cài lông vũ tuyệt đẹp của ta. “Matthew. ốm à?”

      Henry quay lại vẻ ngạc nhiên. “ ngày tốt lành, Walter. Sao ở trong triều?”

      Tôi cố nuốt miếng bánh mỳ nướng. Vị khách mới đến của chúng tôi tất nhiên chính là thành viên còn thiếu trong Bè lũ Bóng đêm của Matthew, ngài Walter Raleigh.

      “Đánh đổi cả thiên đường vì mong muốn chức vị, Hal. Và ai đây thế này?” ta chiếu đôi mắt xanh lơ sang tôi, hàm răng trắng bóng lấp lánh dưới hàng râu đen nhánh. “Henry Percy, tên tiểu quỷ ranh ma. Kit với tôi là có ý định lên giường với Arabella tóc vàng đấy. Tôi mà biết khẩu vị của là thứ gì đó sung mãn trưởng thành hơn mười lăm tôi kết đôi cho với góa phụ đầy sức sống từ lâu rồi.”

      Sung mãn ư? Góa phụ ư? Tôi chỉ mới vừa bước sang tuổi ba mươi ba mà.

      quyến rũ của ấy khiến bạn ở nhà mà đến nhà thờ vào Chủ Nhật. Chúng tôi phải cảm ơn tiểu thư đây vì lôi bạn xuống khỏi con ngựa, nơi vốn thuộc về ta,” Raleigh tiếp tục, trọng nặng như tiếng vùng Devonshire.

      Bá tước của Northumberland đặt chiếc xiên bánh mỳ lên bệ lò sưởi và quan sát người bạn của mình. lắc đầu rồi quay trở lại với công việc. “Ra ngoài , rồi quay lại hỏi Matt về tin vui của ấy. Và hãy tỏ ra ăn năn hối lỗi khi bạn làm thế nhé.”

      .” Walter chăm chăm nhìn Matthew, mồm há hốc. “ ấy là của ?”

      “Với chiếc nhẫn kia để chứng minh điều đó.” Matthew đá cái ghế đẩu từ dưới bàn bằng cẳng chân dài ủng của mình. “Ngồi xuống, Walter, và uống thứ gì .”

      bạn thề bao giờ cưới vợ,” Waler , lộ bối rối.

      “Chuyện đó cần chút thuyết phục.”

      “Tôi mong là thế.” Cái liếc mắt đánh giá của Walter Raleigh lần nữa lại đặt lên tôi. “ đáng tiếc ấy lại lãng phí với sinh vật máu lạnh. Tôi trì hoãn khắc nào.”

      “Diana biết bản chất của tôi và bận tâm đến ‘lạnh lùng’ của tôi cũng như bạn vậy. Bên cạnh đó, chính ấy là người cần được thuyết phục. Tôi ấy ngay từ ánh nhìn đầu tiên,” Matthew .

      Walter khịt mũi đáp lại.

      “Đừng có nhạo báng quá thế, bạn già. Thần Cupid có thể bắt được đấy.” Đôi mắt xám của Matthew lóe lên tinh quái từ những điều chắc chắn biết được về tương lai của Raleigh.

      “Thần Cupid còn phải đợi dài để xuyên được mấy mũi tên lên người tôi. giờ tôi phải dùng hết sức né tránh những lời tán dương chẳng mấy thân thiện của nữ hoàng và ngài đô đốc đây này.” Walter ném cái mũ lên chiếc bàn bên cạnh, nó trượt bề mặt sáng bóng của bàn cờ thỏ cáo, phá hỏng ván chơi dở. ta rên rỉ ngồi xuống cạnh Henry. “Dường như mọi người đều muốn xâu xé tôi hay sao ấy, nhưng chẳng ai cho tôi phát biểu về chuyện đề bạt trong khi công việc này ở thuộc địa treo đầu tôi. Ý tưởng cho lễ kỷ niệm thường niên năm nay là của tôi, nhưng người đàn bà đó lại để Cumberland chịu trách nhiệm buổi lễ.” Tâm trạng tức giận của chàng lại nổi lên.

      “Vẫn có tin tức gì từ Roanoke à?” Henry nhàng hỏi, đưa cho Walter tách đầy thứ bia màu nâu sậm. Dạ dày tôi chao đảo khi nghe nhắc đến dự án kinh doanh bi đát của Raleigh ở Tân Thế Giới. Đây là lần đầu tiên có người lớn tiếng băn khoăn về kết quả của kiện trong tương lai, nhưng đó phải là lần cuối cùng.

      “White quay về Plymouth tuần trước, xe về nhà trong thời tiết bẩn thỉu. Ông ta phải từ bỏ việc tìm kiếm con và cháu mình.” Walter uống ngụm bia lớn và nhìn đăm đăm vào khoảng . “Chúa mới biết được chuyện gì xảy ra với tất cả bọn họ.”

      “Mùa xuân đến, quay lại tìm họ.” Henry lớn tiếng kêu lên chắc chắn, nhưng Matthew và tôi biết rằng những người khai hoang thuộc địa ở Roanoke bị mất tích bao giờ được tìm thấy và Raleigh bao giờ đặt chân lên Bắc Carolina nữa.

      “Tôi mong là đúng, Hal. Nhưng tôi có đủ rắc rối rồi. Bà đến từ vùng nào, bà Roydon?”

      “Cambridge,” tôi khẽ , giữ cho câu trả lời ngắn gọn và chân hết mức có thể. Thị trấn đó ở Massachusetts, phải ở , nhưng nếu bây giờ tôi bắt đầu đảo lộn mọi thứ, tôi thể giữ cho các câu chuyện của mình mạch lạc.

      “Vậy bà là con của học giả. Hay cha bà là nhà thần học? Matt thích thú khi có người để trò chuyện các vấn đề về đức tin. Ngoại trừ Hal, bạn bè của ấy đều vô vọng khi đến học thuyết.” Walter nhấp ngụm bia và chờ đợi.

      “Cha của Diana qua đời khi ấy còn .” Matthew nắm lấy tay tôi.

      “Tôi lấy làm tiếc cho , Diana. Mất người ch…cha quả là cú sốc khủng khiếp,” Henry thầm.

      “Và người chồng đầu của bà, ông ta có để lại cho bà những đứa con để an ủi chăng?” Walter hỏi, dấu hiệu cảm thông len lỏi vào giọng của .

      Ở thời này, phụ nữ ở tuổi tôi đều kết hôn trước và có vài ba đứa con. Tôi lắc đầu. “.”

      Walter cau mày, nhưng trước khi ta kịp truy vấn xa hơn, Kit đến cùng với George và Tom.

      “Đây rồi. Hãy cho ta tỉnh ra , Walter. Matthew thể tiếp tục chơi trò Odysseus với nàng Circe của ta được.” Kit tóm lấy chiếc ly trước mặt Henry. “ ngày tốt lành, Hal.”

      cho ai tỉnh ra cơ?” Walter gay gắt hỏi.

      “Matt, dĩ nhiên rồi. Người phụ nữ đó là phù thủy. Và có điều gì đó khác lạ ở ta.” Mắt Kit nheo lại. “ ta che giấu điều gì đó.”

      phù thủy,” Walter thận trọng nhắc lại.

      người hầu mang ôm củi bị đông cứng lại ở lối cửa ra vào.

      “Như tôi ,” Kit xác nhận bằng cái gật đầu. “Tom và tôi nhận ra những dấu hiệu đó ngay lập tức.”

      hầu ném phịch củi vào chiếc giỏ để sẵn và biến mất.

      “Là người viết kịch, Kit, bạn có cảm quan thảm hại về thời gian và địa điểm đấy.” Đôi mắt xanh lơ của Walter nhìn sang Matthew. “Chúng ta đến nơi nào khác để thảo luận vấn đề này, hay đây chỉ là trong những trò tưởng tượng rỗi hơi của Kit? Nếu nó là cái sau tôi muốn ở lại nơi ấm áp này để thưởng thức nốt cốc bia của mình.” Hai người đàn ông cùng thăm dò lẫn nhau. Khi nét mặt Matthew chẳng hề thay đổi, Walter lầm bầm chửi thề. Pierre xuất như thể nhận được tín hiệu.

      “Lò sưởi sẵn sàng trong phòng khách riêng, milord,” ma cà rồng này với Matthew, “rượu và đồ ăn được dọn cho khách của ngài. Các ngài bị làm phiền đâu.”

      Phòng khách này ấm cúng như căn phòng chúng tôi dùng bữa sáng, cũng gây ấn tượng mạnh như đại sảnh. Có đủ kiểu ghế bành được chạm khắc, rất nhiều thảm treo cùng những bức tranh được đóng khung trang hoàng gợi cho người ta biết mục đích ban đầu của nó dùng để giải trí cho những vị khách quan trọng nhất trong ngôi nhà. Tuyệt tác tráng lệ của St. Jerome và tranh sư tử của Holbein treo cạnh lò sưởi. Nó hoàn toàn lạ lẫm với tôi, như bức chân dung của Holbein bên cạnh, vẽ Henry VIII mắt lồi cầm tay cuốn sách cùng cặp kính trầm ngâm nhìn xuống người xem, chiếc bàn phía trước la liệt những món đồ quý giá. Con của Henry, nữ hoàng Elizabeth đệ nhất đương nhiệm, nhìn chằm chằm vào ông ta từ phía bên kia căn phòng. xa cách căng thẳng của họ chẳng làm tâm trạng khi chúng tôi ngồi vào chỗ. Matthew đứng dựa vào cạnh lò sưởi, hai cánh tay khoanh trước ngực, nhìn dữ dội y hệt những người nhà Tudor tường.

      vẫn kể cho họ ư?” Tôi thầm với .

      “Đó là phương thức đơn giản hơn cả, thưa bà,” Raleigh giọng sắc lạnh, “chưa kể là giữa những người bạn với nhau.”

      quên mất bản thân mình rồi, Walter,” Matthew cảnh cáo, cơn giận bùng lên.

      “Quên mất bản thân tôi! Đây là lời từ kẻ dính líu với phù thủy à?” Walter thèm nể mặt Matthew khi bực tức. Và hề có tia sợ hãi nào trong giọng ta.

      ấy là vợ tôi,” Matthew bẻ lại. đưa tay lên vuốt tóc. “Còn về phần ấy là phù thủy, tất cả chúng ta có mặt trong căn phòng này đều bị phỉ báng vì điều gì đó, dù là có thực hay tưởng tượng.”

      “Nhưng cưới ta – nghĩ gì thế hả?” Walter lặng người hỏi.

      “Tôi ấy,” Matthew trả lời. Kit đảo mắt và rót cốc rượu mới từ chiếc bình bạc. Giấc mơ của tôi được ngồi cùng ta bên cạnh lò sưởi ấm cúng bàn luận về pháp thuật và văn học dần tan biến trong ánh sáng khó chịu của buổi sáng tháng Mười này. Tôi mới đến năm 1590 chưa đầy hai mươi tư tiếng đồng hồ, nhưng hoàn toàn phát ngán Christopher Marlowe.

      Trước câu trả lời của Matthew, cả căn phòng rơi vào im lặng trong khi và Walter chằm chằm dò xét nhau. Với Kit, Matthew khoan dung và hơi cáu giận. George và Tom lấy kiên nhẫn của , còn với Henry là mến. Nhưng Raleigh ngang cơ với Matthew – về trí tuệ, sức mạnh, thậm chí có lẽ cả nhẫn tâm – điều đó có nghĩa chỉ duy nhất ý kiến của Walter là có giá trị. Họ có tôn trọng dè chừng dành cho nhau, giống như hai con sói quyết định xem kẻ nào có sức mạnh để dẫn dắt cả đàn.

      “Vậy chuyện là thế sao,” Walter chậm rãi , chấp nhận uy quyền của Matthew.

      “Đúng thế.” Matthew vẫn đứng bất động trước lò sưởi.

      có quá nhiều bí mật và kẻ thù để có thể lấy người vợ. Nhưng dù sao cũng làm rồi.” Walter tỏ vẻ ngạc nhiên. “Những người đàn ông khác kết tội cậy vào xảo quyệt của mình, nhưng tôi chưa bao giờ đồng ý với bọn họ cho tới lúc này. Rất tốt, Matthew. Nếu quá gian xảo như vậy, hãy cho chúng tôi biết điều cần khi các câu hỏi được đưa ra.”

      Kit đặt mạnh chiếc cốc lên bàn, rượu vang đỏ sánh ra tay ta. “ thể mong chúng tôi…”

      “Im lặng.” Walter lia ánh mắt giận dữ vào Marlowe. “Dựa vào những lời dối trá mà chúng tôi phải nhân danh , tôi ngạc nhiên là còn dám phản đối cơ đấy. Tiếp , Matthew.”

      “Cảm ơn, Walter. Các vị là năm người đàn ông duy nhất trong vương quốc này có thể lắng nghe câu chuyện của tôi mà nghĩ rằng tôi bị điên.” Matthew luồn hai bàn tay qua tóc. “Mọi người còn nhớ khi chúng ta chuyện lần cuối về các ý tưởng của Giordano Bruno liên quan tới số lượng vô hạn của các thế giới, bị giới hạn bởi thời gian và gian chứ?”

      Họ trao đổi những cái liếc mắt.

      “Tôi chắc,” Henry thận trọng lên tiếng, “là chúng tôi hiểu ý của .”

      “Diana đến từ Tân Thế Giới.” Matthew ngừng lại, cho Marlowe có cơ hội nhìn cả phòng với dáng vẻ đắc thắng. “Đến từ Tân Thế Giới trong tương lai.”

      Trong yên lặng tiếp theo, mọi con mắt đều đổ dồn về phía tôi.

      ấy ấy đến từ Cambridge mà,” Walter ngây ra .

      phải Cambridge đó. Cambridge của tôi là ở Massachusetts cơ.” Giọng tôi khàn vì căng thẳng và lâu cất tiếng. Tôi hắng giọng. “Thuộc địa tồn tại ở Bắc Roanoke trong vòng bốn mươi năm nữa.”

      tiếng trầm trồ cảm thán dâng lên, và các câu hỏi tới tấp hướng về phía tôi. Harriot nhích tới và ngập ngừng chạm vào vai tôi. Ngón tay của ta gặp cơ bắp rắn chắc của tôi vội rụt lại với vẻ thắc mắc.

      “Tôi được nghe về những sinh vật khác người có thể uốn thời gian theo ý họ. Đây ngày kỳ diệu, đúng , Kit? bao giờ nghĩ là biết người se sợi thời gian chưa? Chúng ta phải cẩn thận khi ở cạnh ấy, dĩ nhiên rồi, nếu chúng ta có thể bị vướng vào mạng của ấy và lạc đường mất.” Gương mặt Harriot đầy vẻ ao ước, làm như ta có thể tận hưởng việc bị bắt tới thế giới khác vậy.

      “Và điều gì đưa tới đây, bà Roydon?” Giọng trầm trầm của Walter cắt ngang tiếng ồn ào bàn tán.

      “Cha của Diana là học giả,” Matthew trả lời thay tôi. Tiếng thầm hứng thú lại bị dập tắt bằng cái phất tay của Walter. “Mẹ ấy cũng vậy. Cả hai đều là phù thủy và chết trong tình huống bí .”

      “Đó là điều mà chúng ta cùng chia sẻ, D-D-Diana ạ,” Henry với cái rùng mình. Trước khi tôi kịp hỏi vị bá tước xem ý ta là gì, Walter vẫy tay ra hiệu cho Matthew.

      “Hậu quả là giáo dục dành cho ấy với tư cách là phù thủy … bị bỏ qua,” Matthew tiếp tục.

      dễ dàng làm hại phù thủy như thế.” Tom nhăn mặt. “Tại sao ở Tân Thế Giới trong tương lai lại thiếu quan tâm đến sinh vật khác người như thế?”

      “Phép thuật và lịch sử gia đình lâu đời của tôi có ý nghĩa gì với tôi cả. phải hiểu điều đó, giống như muốn vượt khỏi hạn chế xuất thân của vậy.” Tôi nhìn Kit, con trai thợ đóng giày, hy vọng tìm thấy tán đồng nếu phải là cảm thông, nhưng ta quay mặt .

      “Dốt nát là tội lỗi thể tha thứ.” Kit lúng túng với mẩu lụa đỏ lòi ra khỏi trong hàng tá những vết rách chiếc áo chẽn đen của ta.

      “Vậy là trung thành,” Walter . “Tiếp tục , Matthew.”

      “Diana có lẽ được dạy dỗ những ngón nghề phù thủy, nhưng ấy hề dốt nát. ấy cũng là học giả,” Matthew với vẻ tự hào, “với niềm đam mê dành cho thuật giả kim.”

      “Những nhà giả kim tiểu thư chẳng là gì hơn ngoài những triết gia xó bếp,” Kit cười khẩy, “hứng thú với việc cải thiện sắc da của họ hơn là hiểu biết các bí mật của tự nhiên.”

      “Tôi nghiên cứu thuật giả kim trong thư viện – phải trong bếp,” tôi vặc lại, quên cả điều chỉnh ngữ điệu hay trọng của mình. Mắt Kit mở lớn. “Sau đó tôi giảng dạy cho sinh viên về đề tài này ở trường đại học.”

      “Họ để phụ nữ dạy ở trường đại học ư?” George lên tiếng, tỏ vẻ vừa thích thú vừa khó chịu.

      “Còn được nhận vào đại học nữa,” Matthew đáp, đưa tay vuốt sống mũi vẻ áy náy. “Diana học ở Oxford.”

      “Điều đó hẳn làm tăng số người tham dự các bài giảng,” Walter lạnh lùng bình luận. “Phụ nữ mà được phép có mặt ở Oriel tôi có lẽ lấy thêm được cái bằng khác nữa. Và có phải các nữ học giả bị tấn công trong thuộc địa tương lai ở đâu đó tại Bắc Roanoke ?” Đó là kết luận hợp lý được rút ra từ câu chuyện của Matthew.

      phải tất cả bọn họ. Nhưng Diana tìm thấy cuốn sách bị thất lạc ở trường đại học.” Các thành viên của Bè lũ Bóng đêm cùng nhổm dậy. Với nhóm người này, những cuốn sách thất lạc còn được quan tâm hơn cả những phù thủy dốt nát và các nữ học giả. “Nó chứa thông tin bí mật về thế giới của các sinh vật khác người.”

      “Cuốn sách của những Điều Huyền Bí, được cho rằng hé lộ cho chúng ta biết về nguồn gốc của chúng ta ư?” Kit trông kinh ngạc. “Trước đây bạn bao giờ hứng thú với những truyền thuyết đó mà, Matthew. Thực ra còn bác bỏ, coi chúng là trò mê tín.”

      “Giờ tôi tin chúng, Kit. Khám phá của Diana mang kẻ thù tới cửa nhà ấy.”

      “Và ở cùng ấy. Vì thế kẻ thù của ấy cậy chốt cửa và vào nhà.” Walter lắc đầu.

      “Tại sao nỗ lực quan tâm của Matthew lại có hậu quả thảm khốc như thế?” George hỏi. Các ngón tay ta lần tìm cái băng lụa sọc màu đen giữ cặp kính mắt để buộc chặt chiếc áo chẽn. Chiếc áo chẽn được xếp diềm hợp thời trang phía bụng ta và chất liệu đó kêu sột soạt như cái túi đựng bột yến mạch mỗi khi ta cử động. George nâng gọng kính tròn mặt và săm soi tôi như thể tôi là vật nghiên cứu mới đầy thú vị.

      “Bởi vì phù thủy và wearh bị cấm được phép hết hôn,” Kit nhanh nhảu . Tôi chưa bao giờ nghe thấy từ wearh trước đây, với gió w ở đầu và trong họng ở cuối.

      tinh và wearh cũng thế.” Walter siết mạnh vai Kit cảnh cáo.

      sao?” George chớp mắt nhìn Matthew, rồi lại nhìn tôi. “Nữ hoàng cấm cuộc hôn phối như thế ư?”

      “Đó là thỏa ước cổ xưa giữa các sinh vật khác người, kẻ nào dám làm trái.” Tom lộ vẻ sợ hãi. “Những kẻ vi phạm bị Đại Hội Đồng triệu tập và bị trừng phạt.”

      Chỉ những ma cà rồng nhiều tuổi như Matthew mới có thể nhớ được thời kỳ trước khi thỏa ước được thiết lập các sinh vật khác người hành xử ra sao với nhau và ảnh hưởng tương tác tới loài người xung quanh chúng tôi như thế nào. “ kết thân giữa các sinh vật khác loài” là luật lệ quan trọng nhất, và Đại Hội Đồng khống chế kiểm soát phân cách đó. Tài năng của chúng tôi – sáng tạo, sức mạnh, năng lực siêu nhiên – thể nào nổi bật khi ở trong nhóm lẫn lộn các loài. Điều đó cũng như sức mạnh của phù thủy làm nổi bật năng lượng sáng tạo của bất cứ tinh nào ở gần, và thiên tài ở tinh khiến vẻ đẹp của ma cà rồng thêm ấn tượng. Về phần các mối quan hệ của chúng tôi với loài người, chúng tôi phải giữ kín thân phận ở mức tối đa và tránh xa lĩnh vực chính trị, tôn giáo.

      Ngay sáng nay, Matthew khăng khăng có quá nhiều vấn đề khác đối diện với Đại Hội Đồng ở thế kỷ mười sáu này – chiến tranh tôn giáo, thiêu sống người dị giáo, nạn đói lan tràn, thứ vật liệu xa lạ và kỳ quái mới đây từ công nghệ in ấn – khiến cho các thành viên trong hội đồng này chẳng hơi sức đâu mà phiền lòng với chuyện quá tầm thường như phù thủy và ma cà rồng nhau. Cứ theo như các kiện nguy hiểm khiến người ta phải hoang mang xảy ra kể từ khi tôi gặp Matthew vào cuối tháng Chín, tôi thấy chuyện này khó mà tin nổi.

      “Đại Hội Đồng nào thế?” George thích thú hỏi. “Đây có phải là giáo phái mới nào đó ?”

      Walter phớt lờ câu hỏi của bạn mình và trao cho Matthew cái nhìn xuyên thấu. Sau đó, ta quay sang tôi. “ vẫn có cuốn sách này chứ?”

      ai có nó cả. Nó quay vào trong thư viện rồi. Các phù thủy trông đợi tôi gọi nó ra cho bọn họ.”

      “Vậy bị săn đuổi vì hai lý do. số kẻ muốn tránh xa wearh, những kẻ khác xem như phương tiện cần thiết để đạt được cái kết như ý.” Walter vuốt sống mũi và nhìn Matthew vẻ mệt mỏi. “Cậu đúng là thỏi nam châm chuyên thu hút rắc rối, bạn tôi ơi. Và chuyện này thể xảy ra vào thời điểm nào thích hợp hơn lúc này. Lễ kỷ niệm thường niên của nữ hoàng diễn ra trong chưa đầy ba tuần nữa. bạn được trông đợi có mặt tại triều đình đấy.”

      “Đừng bận tâm tới lễ kỷ niệm của nữ hoàng! Chúng ta cũng chẳng được an toàn với người se sợi thời gian ở đây đâu. ta có thể thấy số mệnh của mỗi người chúng ta. phù thủy này có thể sửa lại tương lai của chúng ta, nếu may mắn – thậm chí chết sớm hơn đấy.” Kit bật dậy từ chiếc ghế bành ngồi đến đứng trước Matthew. “Thế quái nào có thể làm chuyện này chứ?”

      “Dường như cái thuyết vô thần được tán dương thái quá của cậu làm hỏng cậu mất rồi, Kit ạ,” Matthew thản nhiên . “Tôi e là rốt cuộc bạn có thể phải trả lời cho những tội lỗi của mình chứ nhỉ?”

      “Tôi có thể tin vào việc làm phúc và sức mạnh thần thánh như , Matthew, nhưng thế giới này còn có nhiều hơn những gì miêu tả trong những cuốn sách triết học của . Và người phụ nữ này − ả phù thủy này – được phép xen vào công việc của chúng ta. có thể là nô lệ của ta, nhưng tôi định đặt tương lai của tôi vào tay ta!” Kit bật lại.

      “Đợi chút.” Ánh mắt trở nên kinh ngạc lướt qua gương mặt George. “Có phải từ Chester đến với chúng tôi , Matthew, hay là… ”

      . được trả lời, Matt,” Tom đột ngột với vẻ sáng suốt.” Janus đến với chúng ta là có mục đích nào đó, và chúng ta được phép can thiệp.”

      chuyện cho lý trí vào, Tom – nếu có thể,” Kit giọng nham hiểm.

      mặt, Matthew và Diana nhìn về quá khứ. Mặt khác, họ xem xét cả tương lai,” Tom , thèm để tâm đến cắt ngang của Kit.

      “Nhưng nếu Matt phải…” George lên tiếng rồi rơi vào im lặng.

      “Tom đúng,” Walter cộc cằn . “Matthew là bạn của chúng ta và đề nghị giúp đỡ của chúng ta. Theo như tôi nhớ đây là lần đầu tiên ấy làm vậy. Đó là tất cả những gì chúng ta cần biết.”

      ta đòi hỏi quá nhiều,” Kit bẻ lại.

      “Quá nhiều ư? Nó ít ỏi và muộn màng, theo như tôi thấy. Matthew trả tiền cho trong những con tàu của tôi, cứu điền trang của Henry, giữ George và Tom được ở trong sách vở và mơ mộng thời gian dài. Còn về phần bạn – Walter nhìn Marlowe từ đầu đến chân – mọi thứ người – từ các ý tưởng của cho tới ly rượu cuối cùng và cái mũ đầu kia – đều phải cảm ơn trọng đãi tử tế của Matthew Roydon đấy. Dành bến đỗ an toàn cho vợ ấy trong cơn giông bão nay là điều ít ỏi chẳng đáng gì khi đem ra so sánh.”

      “Cảm ơn, Walter.” Matthew trông nhõm hẳn, nhưng nụ cười chuyển sang tôi lại có vẻ ngập ngừng. Chiến thắng trước những người bạn của – cụ thể là Walter – diễn ra khó khăn hơn dự tính.

      “Chúng ta cần dựng lên câu chuyện để giải thích làm thế nào vợ tới đây,” Walter trầm ngâm , “thứ gì đó làm phân tán chú ý khỏi vẻ lạ lùng của ấy.”

      “Diana cũng cần thầy giáo nữa,” Matthew thêm.

      ấy phải được dạy dỗ chút ít cung cách, tất nhiên là thế,” Kit cằn nhằn.

      , giáo viên của ấy phải là phù thủy khác,” Matthew chữa lại lời ta.

      Walter thốt ra tiếng trầm trầm hài hước. “Tôi nghi ngờ có phù thủy nào trong vòng bán kính hai mươi dặm ở Woodstock này. , khi mà sống ở đây.”

      “Còn cuốn sách này sao, bà Roydon?” George rút từ cái túi trong chiếc quần chẽn ngắn dáng phồng ra cây viết nhọn màu xám bọc trong sợi vải. ta liếm đầu cây bút chì và giơ nó lên vẻ chờ đợi. “Bà có thể cho tôi biết kích thước và nội dung của nó ? Tôi tìm nó ở Oxford.”

      “Cuốn sách có thể đợi,” tôi . “Đầu tiên tôi cần quần áo thích hợp. Tôi thể ra khỏi nhà với áo khoác của Pierre và chiếc váy mà chị Matthew mặc để đến dự đám tang của Jane Seymour được.”

      “Ra khỏi nhà ư?” Kit cười nhạo. “Ý nghĩ cực kỳ điên rồ.”

      “Kit đúng đấy,” George vẻ lấy làm tiếc. ta viết ghi chú vào trong cuốn sách của mình. “Cách chuyện của bà khiến bà có vẻ kỳ lạ ở xứ này. Tôi lấy làm vui sướng được chỉ dẫn bà vài bài diễn thuyết trước đám đông, bà Roydon.” Ý tưởng George Chapman đóng vai Henry Higgins với Eliza Doolittle của tôi đủ khiến tôi thiết tha mong chờ rồi.

      nên cho phép ấy gì cả, Matt. phải giữ cho ấy im lặng,” Kit khăng khăng.

      “Cái chúng ta cần là phụ nữ, ai đó để khuyên bảo Diana. Tại sao lại con , vợ hay tình nhân nào đó của năm người các nhỉ?” Matthew cầu. im lặng bao trùm tất cả.

      “Walter?” Kit tinh quái hỏi, khiến cánh đàn ông còn lại cười rộ lên và làm dịu bầu khí nặng nề như cơn bão mùa hè thổi qua căn phòng. Ngay cả Matthew cũng hòa theo.

      Pierre bước vào khi tiếng cười lắng xuống, đá tung lên những cành hương thảo và oải hương vương vãi giữa lối vào được đặt ở đó để ngăn hơi ẩm ướt khỏi lan ra khắp ngôi nhà. Cùng lúc ấy, những chiếc chuông bắt đầu ngân điểm mười hai giờ. Giống như lúc vừa nhìn thấy những quả mộc qua, kết hợp của thanh và mùi hương mang tôi quay về Madison.

      Quá khứ, tại và tương lai hội ngộ. Còn hơn cả việc tháo cuộn chỉ lỏng, khắc yên tĩnh như thể thời gian ngừng trôi. Tôi hít hơi mạnh.

      “Diana?” Matthew gọi, đỡ lấy khuỷu tay tôi.

      Thứ gì đó màu xanh lam và hổ phách, làn sóng ánh sáng và màu sắc thu hút chú ý của tôi. Nó dồn chặt vào góc phòng, nơi có gì khác xen vừa ngoài mạng nhện và bụi bặm. Như bị thôi miên, tôi cố di chuyển về phía nó.

      “Có phải ấy sắp ngất ?” Henry hỏi, gương mặt ta xuất trong tầm nhìn của tôi, bên bờ vai của Matthew.

      Tiếng chuông ngân nga dừng lại, và mùi hoa oải hương nhạt dần. Sắc xanh lam và hổ phách lấp loáng chuyển thành xám và trắng trước khi biến mất.

      “Em xin lỗi. Em nghĩ là mình thấy thứ gì đó ở góc phòng kia. Hẳn là ánh sáng đánh lừa mắt em,” tôi vừa vừa áp bàn tay lên má.

      “Có lẽ em chịu sức ép của khoảng cách thời gian, mon coeur,” Matthew thào. “ hứa với em chuyến dạo trong khuôn viên. Em ra ngoài cùng để cho thoáng đãng đầu óc chứ?”

      Có lẽ đó là di chứng do chuyến du hành vượt thời gian, khí trong lành có thể giúp ích. Nhưng chúng tôi vừa mới đến, và Matthew gặp những người bạn này hơn bốn thế kỷ rồi.

      nên ở cùng các bạn,” tôi chắc nịch, dù ánh mắt lại lơ đãng hướng ra cửa sổ.

      “Bọn họ ở đây uống rượu khi chúng ta quay lại,” Matthew mỉm cười , rồi quay sang Walter. “Tôi đưa Diana xem ngôi nhà của ấy và để đảm bảo ấy biết đường lối lại trong các khu vườn.”

      “Chúng ta cần phải chuyện thêm nữa,” Walter nhắc nhở. “Còn có công việc phải thảo luận.”

      Matthew gật đầu và vòng tay quanh eo tôi. “Có thể đợi mà.”

      Chúng tôi rời Bè lũ Bóng đêm trong căn phòng khách ấm áp và hướng về phía cửa ra vào. Tom mất hứng với mấy rắc rối của ma cà rồng và phù thủy, lại mải mê đọc sách. George cũng tương tự, chìm đắm trong những suy nghĩ và bận rộn viết lách ghi chép vào cuốn sổ tay. Ánh mắt Kit đầy vẻ dò xét, Walter dè chừng, còn ánh mắt Henry đầy cảm thông. Ba người đàn ông đó trông giống như những con quạ ác với bộ cánh đen và nét mặt đăm chiêu. Nó gợi cho tôi nhớ đến điều Shakespeare chẳng bao lâu nữa về nhóm người khác thường này.

      “Nó bắt đầu như thế nào nhỉ?” Tôi khẽ lẩm bẩm. “Màu đen là huy hiệu của địa ngục ư?”

      Matthew đăm chiêu. “Màu đen là huy hiệu của địa ngục/ Màu của ngục tù và trường học của bóng đêm.”

      “Màu của tình bạn chính xác hơn đấy,” tôi . Tôi từng thấy Matthew điều khiển những kẻ đến đọc sách trong thư viện Bodleian, nhưng ảnh hưởng của lên những người như Walter Raleigh và Kit Marlowe vẫn bất ngờ. “Liệu có điều gì họ làm vì , Matthew?”

      “Cầu Chúa cho chúng ta bao giờ biết được,” đầy vẻ u ám.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      2.

      Lo lắng của tôi về nghi thức xã giao đúng mực là cần thiết. Tước hiệu và danh xưng quan trọng khi vị bá tước được đến là người khổng lồ lịch lãm tên Henry Percy.

      Françoise, người coi trọng những chuẩn mực, luôn nhặng xị lên trong khi hoàn thành nốt việc mặc đồ cho tôi bằng mớ y phục bới móc kiếm về được: những chiếc váy lót dài của ai đó, cái coóc-xê khâu tay để hãm bớt khổ người vận động viên của tôi thành dáng vẻ yểu điệu truyền thống hơn; chiếc áo lót thêu hoa sực nức mùi oải hương và cây tuyết tùng; với cổ áo cao xếp nếp; chiếc váy dáng phồng bằng vải nhung; và chiếc áo khoác tốt nhất của Pierre, thứ đồ may mặc duy nhất còn xa mới là kích thước của tôi. Mặc dù cố gắng, Françoise vẫn thể nào cài được hàng khuy ngực áo. Tôi nín thở, thót bụng và hy vọng điều kỳ diệu khi Françoise kéo những dải coóc-xê chặt hơn, nhưng chẳng có can thiệp kỳ diệu nào có thể cho tôi vóc dáng mảnh mai duyên dáng.

      Tôi hỏi Françoise hàng tá câu hỏi trong suốt quá trình phức tạp đó. Những bức chân dung của thời kỳ này khiến tôi trông chờ cái lồng chim cồng kềnh gọi là váy phồng để giữ cho chiếc váy mặc căng ra phần hông, nhưng Françoise giải thích rằng những thứ đấy chỉ dành cho các dịp trang trọng hơn. Thay vào đó, ta buộc miếng vải xếp nếp có hình dạng giống chiếc bánh rán vòng quanh eo tôi, bên dưới lớp váy ngoài. Điều lạc quan duy nhất để về thứ đó là nó giúp cho các lớp váy áo bị quệt vào hai chân, nhờ vậy tôi có thể lại mà quá khó khăn – miễn là có nhiều đồ đạc lối và tôi có thể tới được đích đến nếu di chuyển theo đường thẳng tắp. Nhưng tôi cũng phải biết nhún chào. Françoise nhanh chóng dạy tôi cách nhún gối chào trong khi giải thích các tước hiệu phong phú của Henry Percy phải dùng ra sao – ông ta là “Đức ngài Northumberland” mặc dù mang họ Percy và là bá tước.

      Nhưng tôi có cơ hội được dùng đến bất cứ thứ gì trong mớ kiến thức mới thu lượm được này. Ngay khi Matthew cùng tôi bước vào đại sảnh, người đàn ông trẻ tuổi gầy gò và cao lêu nghêu mặc bộ quần áo đường bằng da màu nâu nhạt bị bùn bắn tung tóe tiến tới chào hỏi cả hai. Gương mặt cởi mở càng thêm tươi sáng bởi cái nhìn tò mò khiến đôi lông mày rậm màu tro của ta nhướng lên thành cái vòm nhọn rệt. “Hal.” Matthew mỉm cười với dáng vẻ thân thiết khoan dung của người trai. Nhưng vị bá tước phớt lờ người bạn cũ, thay vào đó tiến về phía tôi.

      “Ừm, bà Roydon.” Giọng trầm ấm của vị bá tước điệu, rất ít dấu vết luyến láy hay trọng . Trước khi xuống nhà, Matthew giải thích rằng Henry hơi điếc và lắp từ khi còn . Tuy nhiên, ta rất thạo việc đọc môi người. Đây là người tôi có thể trò chuyện mà cảm thấy e dè.

      “Lại bị Kit hớt lẻo trước rồi,” Matthew với nụ cười thiểu não. “Tôi hy vọng được tự mình với .”

      “Ai là người chia sẻ tin vui này có gì khác đâu?” Đức ngài Northumberland cúi đầu chào. “Tôi cảm ơn bà vì lòng hiếu khách, thưa bà, và xin thứ lỗi vì chào hỏi trong bộ dạng này. Bà tử tế khi sớm chịu đựng những người bạn của chồng thế này. Chúng tôi lẽ ra phải rời ngay lập tức lúc biết bà trở về nhà. Quán trọ là nơi thích hợp hơn cả.”

      “Ngài vô cùng được chào đón ở đây, thưa đức ngài.” Đây là lúc thích hợp để nhún gối chào, nhưng cái váy nặng nề màu đen của tôi dễ xoay sở và chiếc áo coóc-xê thít quá chặt khiến tôi thể cúi người được. Tôi cố xếp hai chân vào tư thế thích hợp để tỏ vẻ tôn kính nhưng lại lảo đảo khi khuỵu gối chào. bàn tay to lớn ngại ngần giữ tôi đứng vững.

      “Chỉ Henry thôi, thưa bà. Mọi người khác gọi tôi là Hal, nên tên thánh của tôi được coi là khá trang trọng.” Giống nhiều người bị khiếm thính, ngài bá tước cố ý giữ cho giọng của mình êm . Ông thả tôi ra và quay sang Matthew. “Tại sao lại cạo râu thế, Matt? bị ốm à?”

      cơn sốt rét thoáng qua thôi, chẳng có gì đâu. Việc kết hôn chữa lành cho tôi rồi. Những người còn lại đâu rồi?” Matthew liếc nhìn quanh tìm Kit, George và Tom.

      Tiền sảnh Chòi Gác Cổ trông rất khác dưới ánh sáng ban ngày. Tôi mới chỉ trông thấy nó vào ban đêm, nhưng sáng hôm nay các ô ván nặng nề hóa ra lại là những cánh cửa chớp, tất cả chúng đều được mở ra. Điều đó mang gian thoáng đãng đến cho căn nhà, bất chấp chiếc lò sưởi khổng lồ ở bức tường phía xa. Nó được trang trí bằng những phần xây bằng đá theo phong cách thời Trung cổ, hẳn được Matthew cứu thoát từ đống gạch vụn của cái tu viện thời từng tọa lạc nơi đây – gương mặt thường thấy của vị thánh, huy hiệu của tu viện, hình trang trí lá bốn thùy theo phong cách Gothic.

      “Diana?” Giọng vui vẻ của Matthew cắt ngang việc quan sát căn phòng và nội thất bên trong của tôi. “Hal những người kia ở phòng khách, đọc sách và chơi bài. ấy cảm thấy thích hợp đến tham gia cùng bọn họ chừng nào còn chưa được bà chủ nhà có lời mời ở lại.”

      “Ngài bá tước phải ở lại, dĩ nhiên là thế, và chúng ta có thể đến tham gia với bạn bè ngay lập tức.” Bụng tôi sôi ùng ục.

      “Hoặc chúng ta có thể kiếm cho em thứ gì đó để ăn,” vừa gợi ý, vừa nháy mắt. Giờ tôi gặp Henry Percy mà có rủi ro nào, nên Matthew bắt đầu thả lỏng. “ có ai mời ăn chưa, Hal?”

      “Pierre và Françoise chú ý đến chuyện đó rồi,” ta đảm bảo với chúng tôi. “Dĩ nhiên, nếu bà Roydon cùng tôi…” Giọng ngài bá tước trượt dài và dạ dày ta cũng réo lên. chàng này cao như hươu cao cổ, nên chắc phải cần tới lượng thức ăn lớn.

      “Tôi cũng rất thích bữa sáng thịnh soạn, thưa đức ngài,” tôi cười .

      “Henry,” ngài bá tước dịu dàng chỉnh lại, nụ cười tươi rói của ta làm lộ ra lúm hõm xuống ở dưới cằm.

      “Vậy ngài phải gọi tôi là Diana. Tôi thể gọi bá tước của Northumberland bằng tên riêng nếu ngài ấy cứ tiếp tục nhắc đến tôi như là ‘Bà Roydon.’” Françoise khăng khăng việc cần thiết phải tôn trọng địa vị cao quý của ngài bá tước.

      “Rất hay, Diana,” Henry rồi đưa cánh tay ra.

      ta dẫn tôi băng qua hành lang lạnh lẽo để tiến vào căn phòng có trần thấp ấm cúng. Nó ấm áp và thoải mái, với dãy cửa sổ quay về hướng nam. Dù với kích thước nhưng vẫn có ba chiếc bàn được kê trong phòng, dọc theo đó là nhiều ghế đẩu và băng ghế dài. Tiếng rì rầm trầm thấp của các hoạt động bị ngắt quãng bởi tiếng lách cách của ấm tách cùng xoong chảo, cho biết chúng tôi ở gần khu bếp. Ai đó đính trang của cuốn niên lịch lên tường và cái bản đồ nằm bàn trung tâm, chiếc bàn ở góc đặt giá nến, bên bàn còn lại đặt đĩa thiếc nông đựng đầy hoa quả. sắp đặt này trông giống bức tranh tĩnh vật của Hà Lan, cùng những chi tiết giản dị kiểu cách. Tôi dừng khựng lại chút, choáng váng vì mùi hương này.

      “Quả mộc qua.” Những ngón tay tôi với tới chạm vào chúng. Chúng trông giống y như tôi thấy trong tâm tưởng khi ở Madison lúc Matthew miêu tả về Chòi Gác Cổ.

      Henry dường như bị bối rối trước phản ứng của tôi đối với đĩa trái cây bình thường nhưng do được giáo dục cẩn thận nên ta bình luận gì. Chúng tôi an vị bên chiếc bàn đó, người hầu mang thêm bánh mỳ mới cùng với đĩa nho và bát táo cho bức tranh tĩnh vật trước mặt chúng tôi. dễ chịu khi được thấy những đồ ăn quen thuộc như thế. Henry tự lấy thức ăn cho mình, còn tôi nhìn ta làm mẫu, cẩn thận để ý những đồ ăn nào ta chọn và ăn mỗi thứ bao nhiêu. Luôn có đôi chút khác biệt giữa những người lạ, và tôi muốn ra vẻ bình thường nhất có thể. Trong khi chúng tôi lấy đầy đĩa của mình, Matthew tự rót cho ly rượu vang.

      Trong suốt bữa ăn, Henry cư xử với lịch thiệp chê vào đâu được. ta bao giờ hỏi tôi điều gì mang tính cá nhân, cũng tọc mạch chuyện tình cảm của Matthew. Thay vào đó, ta khiến chúng tôi cười hết lần này tới lần khác với các mẩu chuyện về những chú chó, những khu đất của ta và bà mẹ có tính cách vô cùng chặt chẽ kỷ luật, trong khi đó ta luôn tay cung cấp đều đặn bánh mỳ nướng từ lò sưởi. Henry bắt đầu kể về việc chuyển nhà đến London có tiếng ồn dâng lên từ sân trong của ngôi nhà. Ngài bá tước quay lưng về phía cửa nên nhận thấy.

      “Bà ta thể nào! Tất cả các người cảnh cáo tôi, nhưng tôi tin có ai lại vô ơn đến thế. Sau tất cả giàu có mà tôi đổ vào trong cái két tiền của bà ta, ít nhất bà ta cũng phải làm − Ồ.” Vị khách mới của chúng tôi có bờ vai rộng choán cả khung cửa, chiếc áo choàng tay màu đen phủ kín bên vai, tiệp màu cùng mái tóc loăn xoăn ló ra quanh chiếc mũ rộng vành cài lông vũ tuyệt đẹp của ta. “Matthew. ốm à?”

      Henry quay lại vẻ ngạc nhiên. “ ngày tốt lành, Walter. Sao ở trong triều?”

      Tôi cố nuốt miếng bánh mỳ nướng. Vị khách mới đến của chúng tôi tất nhiên chính là thành viên còn thiếu trong Bè lũ Bóng đêm của Matthew, ngài Walter Raleigh.

      “Đánh đổi cả thiên đường vì mong muốn chức vị, Hal. Và ai đây thế này?” ta chiếu đôi mắt xanh lơ sang tôi, hàm răng trắng bóng lấp lánh dưới hàng râu đen nhánh. “Henry Percy, tên tiểu quỷ ranh ma. Kit với tôi là có ý định lên giường với Arabella tóc vàng đấy. Tôi mà biết khẩu vị của là thứ gì đó sung mãn trưởng thành hơn mười lăm tôi kết đôi cho với góa phụ đầy sức sống từ lâu rồi.”

      Sung mãn ư? Góa phụ ư? Tôi chỉ mới vừa bước sang tuổi ba mươi ba mà.

      quyến rũ của ấy khiến bạn ở nhà mà đến nhà thờ vào Chủ Nhật. Chúng tôi phải cảm ơn tiểu thư đây vì lôi bạn xuống khỏi con ngựa, nơi vốn thuộc về ta,” Raleigh tiếp tục, trọng nặng như tiếng vùng Devonshire.

      Bá tước của Northumberland đặt chiếc xiên bánh mỳ lên bệ lò sưởi và quan sát người bạn của mình. lắc đầu rồi quay trở lại với công việc. “Ra ngoài , rồi quay lại hỏi Matt về tin vui của ấy. Và hãy tỏ ra ăn năn hối lỗi khi bạn làm thế nhé.”

      .” Walter chăm chăm nhìn Matthew, mồm há hốc. “ ấy là của ?”

      “Với chiếc nhẫn kia để chứng minh điều đó.” Matthew đá cái ghế đẩu từ dưới bàn bằng cẳng chân dài ủng của mình. “Ngồi xuống, Walter, và uống thứ gì .”

      bạn thề bao giờ cưới vợ,” Waler , lộ bối rối.

      “Chuyện đó cần chút thuyết phục.”

      “Tôi mong là thế.” Cái liếc mắt đánh giá của Walter Raleigh lần nữa lại đặt lên tôi. “ đáng tiếc ấy lại lãng phí với sinh vật máu lạnh. Tôi trì hoãn khắc nào.”

      “Diana biết bản chất của tôi và bận tâm đến ‘lạnh lùng’ của tôi cũng như bạn vậy. Bên cạnh đó, chính ấy là người cần được thuyết phục. Tôi ấy ngay từ ánh nhìn đầu tiên,” Matthew .

      Walter khịt mũi đáp lại.

      “Đừng có nhạo báng quá thế, bạn già. Thần Cupid có thể bắt được đấy.” Đôi mắt xám của Matthew lóe lên tinh quái từ những điều chắc chắn biết được về tương lai của Raleigh.

      “Thần Cupid còn phải đợi dài để xuyên được mấy mũi tên lên người tôi. giờ tôi phải dùng hết sức né tránh những lời tán dương chẳng mấy thân thiện của nữ hoàng và ngài đô đốc đây này.” Walter ném cái mũ lên chiếc bàn bên cạnh, nó trượt bề mặt sáng bóng của bàn cờ thỏ cáo, phá hỏng ván chơi dở. ta rên rỉ ngồi xuống cạnh Henry. “Dường như mọi người đều muốn xâu xé tôi hay sao ấy, nhưng chẳng ai cho tôi phát biểu về chuyện đề bạt trong khi công việc này ở thuộc địa treo đầu tôi. Ý tưởng cho lễ kỷ niệm thường niên năm nay là của tôi, nhưng người đàn bà đó lại để Cumberland chịu trách nhiệm buổi lễ.” Tâm trạng tức giận của chàng lại nổi lên.

      “Vẫn có tin tức gì từ Roanoke à?” Henry nhàng hỏi, đưa cho Walter tách đầy thứ bia màu nâu sậm. Dạ dày tôi chao đảo khi nghe nhắc đến dự án kinh doanh bi đát của Raleigh ở Tân Thế Giới. Đây là lần đầu tiên có người lớn tiếng băn khoăn về kết quả của kiện trong tương lai, nhưng đó phải là lần cuối cùng.

      “White quay về Plymouth tuần trước, xe về nhà trong thời tiết bẩn thỉu. Ông ta phải từ bỏ việc tìm kiếm con và cháu mình.” Walter uống ngụm bia lớn và nhìn đăm đăm vào khoảng . “Chúa mới biết được chuyện gì xảy ra với tất cả bọn họ.”

      “Mùa xuân đến, quay lại tìm họ.” Henry lớn tiếng kêu lên chắc chắn, nhưng Matthew và tôi biết rằng những người khai hoang thuộc địa ở Roanoke bị mất tích bao giờ được tìm thấy và Raleigh bao giờ đặt chân lên Bắc Carolina nữa.

      “Tôi mong là đúng, Hal. Nhưng tôi có đủ rắc rối rồi. Bà đến từ vùng nào, bà Roydon?”

      “Cambridge,” tôi khẽ , giữ cho câu trả lời ngắn gọn và chân hết mức có thể. Thị trấn đó ở Massachusetts, phải ở , nhưng nếu bây giờ tôi bắt đầu đảo lộn mọi thứ, tôi thể giữ cho các câu chuyện của mình mạch lạc.

      “Vậy bà là con của học giả. Hay cha bà là nhà thần học? Matt thích thú khi có người để trò chuyện các vấn đề về đức tin. Ngoại trừ Hal, bạn bè của ấy đều vô vọng khi đến học thuyết.” Walter nhấp ngụm bia và chờ đợi.

      “Cha của Diana qua đời khi ấy còn .” Matthew nắm lấy tay tôi.

      “Tôi lấy làm tiếc cho , Diana. Mất người ch…cha quả là cú sốc khủng khiếp,” Henry thầm.

      “Và người chồng đầu của bà, ông ta có để lại cho bà những đứa con để an ủi chăng?” Walter hỏi, dấu hiệu cảm thông len lỏi vào giọng của .

      Ở thời này, phụ nữ ở tuổi tôi đều kết hôn trước và có vài ba đứa con. Tôi lắc đầu. “.”

      Walter cau mày, nhưng trước khi ta kịp truy vấn xa hơn, Kit đến cùng với George và Tom.

      “Đây rồi. Hãy cho ta tỉnh ra , Walter. Matthew thể tiếp tục chơi trò Odysseus với nàng Circe của ta được.” Kit tóm lấy chiếc ly trước mặt Henry. “ ngày tốt lành, Hal.”

      cho ai tỉnh ra cơ?” Walter gay gắt hỏi.

      “Matt, dĩ nhiên rồi. Người phụ nữ đó là phù thủy. Và có điều gì đó khác lạ ở ta.” Mắt Kit nheo lại. “ ta che giấu điều gì đó.”

      phù thủy,” Walter thận trọng nhắc lại.

      người hầu mang ôm củi bị đông cứng lại ở lối cửa ra vào.

      “Như tôi ,” Kit xác nhận bằng cái gật đầu. “Tom và tôi nhận ra những dấu hiệu đó ngay lập tức.”

      hầu ném phịch củi vào chiếc giỏ để sẵn và biến mất.

      “Là người viết kịch, Kit, bạn có cảm quan thảm hại về thời gian và địa điểm đấy.” Đôi mắt xanh lơ của Walter nhìn sang Matthew. “Chúng ta đến nơi nào khác để thảo luận vấn đề này, hay đây chỉ là trong những trò tưởng tượng rỗi hơi của Kit? Nếu nó là cái sau tôi muốn ở lại nơi ấm áp này để thưởng thức nốt cốc bia của mình.” Hai người đàn ông cùng thăm dò lẫn nhau. Khi nét mặt Matthew chẳng hề thay đổi, Walter lầm bầm chửi thề. Pierre xuất như thể nhận được tín hiệu.

      “Lò sưởi sẵn sàng trong phòng khách riêng, milord,” ma cà rồng này với Matthew, “rượu và đồ ăn được dọn cho khách của ngài. Các ngài bị làm phiền đâu.”

      Phòng khách này ấm cúng như căn phòng chúng tôi dùng bữa sáng, cũng gây ấn tượng mạnh như đại sảnh. Có đủ kiểu ghế bành được chạm khắc, rất nhiều thảm treo cùng những bức tranh được đóng khung trang hoàng gợi cho người ta biết mục đích ban đầu của nó dùng để giải trí cho những vị khách quan trọng nhất trong ngôi nhà. Tuyệt tác tráng lệ của St. Jerome và tranh sư tử của Holbein treo cạnh lò sưởi. Nó hoàn toàn lạ lẫm với tôi, như bức chân dung của Holbein bên cạnh, vẽ Henry VIII mắt lồi cầm tay cuốn sách cùng cặp kính trầm ngâm nhìn xuống người xem, chiếc bàn phía trước la liệt những món đồ quý giá. Con của Henry, nữ hoàng Elizabeth đệ nhất đương nhiệm, nhìn chằm chằm vào ông ta từ phía bên kia căn phòng. xa cách căng thẳng của họ chẳng làm tâm trạng khi chúng tôi ngồi vào chỗ. Matthew đứng dựa vào cạnh lò sưởi, hai cánh tay khoanh trước ngực, nhìn dữ dội y hệt những người nhà Tudor tường.

      vẫn kể cho họ ư?” Tôi thầm với .

      “Đó là phương thức đơn giản hơn cả, thưa bà,” Raleigh giọng sắc lạnh, “chưa kể là giữa những người bạn với nhau.”

      quên mất bản thân mình rồi, Walter,” Matthew cảnh cáo, cơn giận bùng lên.

      “Quên mất bản thân tôi! Đây là lời từ kẻ dính líu với phù thủy à?” Walter thèm nể mặt Matthew khi bực tức. Và hề có tia sợ hãi nào trong giọng ta.

      ấy là vợ tôi,” Matthew bẻ lại. đưa tay lên vuốt tóc. “Còn về phần ấy là phù thủy, tất cả chúng ta có mặt trong căn phòng này đều bị phỉ báng vì điều gì đó, dù là có thực hay tưởng tượng.”

      “Nhưng cưới ta – nghĩ gì thế hả?” Walter lặng người hỏi.

      “Tôi ấy,” Matthew trả lời. Kit đảo mắt và rót cốc rượu mới từ chiếc bình bạc. Giấc mơ của tôi được ngồi cùng ta bên cạnh lò sưởi ấm cúng bàn luận về pháp thuật và văn học dần tan biến trong ánh sáng khó chịu của buổi sáng tháng Mười này. Tôi mới đến năm 1590 chưa đầy hai mươi tư tiếng đồng hồ, nhưng hoàn toàn phát ngán Christopher Marlowe.

      Trước câu trả lời của Matthew, cả căn phòng rơi vào im lặng trong khi và Walter chằm chằm dò xét nhau. Với Kit, Matthew khoan dung và hơi cáu giận. George và Tom lấy kiên nhẫn của , còn với Henry là mến. Nhưng Raleigh ngang cơ với Matthew – về trí tuệ, sức mạnh, thậm chí có lẽ cả nhẫn tâm – điều đó có nghĩa chỉ duy nhất ý kiến của Walter là có giá trị. Họ có tôn trọng dè chừng dành cho nhau, giống như hai con sói quyết định xem kẻ nào có sức mạnh để dẫn dắt cả đàn.

      “Vậy chuyện là thế sao,” Walter chậm rãi , chấp nhận uy quyền của Matthew.

      “Đúng thế.” Matthew vẫn đứng bất động trước lò sưởi.

      có quá nhiều bí mật và kẻ thù để có thể lấy người vợ. Nhưng dù sao cũng làm rồi.” Walter tỏ vẻ ngạc nhiên. “Những người đàn ông khác kết tội cậy vào xảo quyệt của mình, nhưng tôi chưa bao giờ đồng ý với bọn họ cho tới lúc này. Rất tốt, Matthew. Nếu quá gian xảo như vậy, hãy cho chúng tôi biết điều cần khi các câu hỏi được đưa ra.”

      Kit đặt mạnh chiếc cốc lên bàn, rượu vang đỏ sánh ra tay ta. “ thể mong chúng tôi…”

      “Im lặng.” Walter lia ánh mắt giận dữ vào Marlowe. “Dựa vào những lời dối trá mà chúng tôi phải nhân danh , tôi ngạc nhiên là còn dám phản đối cơ đấy. Tiếp , Matthew.”

      “Cảm ơn, Walter. Các vị là năm người đàn ông duy nhất trong vương quốc này có thể lắng nghe câu chuyện của tôi mà nghĩ rằng tôi bị điên.” Matthew luồn hai bàn tay qua tóc. “Mọi người còn nhớ khi chúng ta chuyện lần cuối về các ý tưởng của Giordano Bruno liên quan tới số lượng vô hạn của các thế giới, bị giới hạn bởi thời gian và gian chứ?”

      Họ trao đổi những cái liếc mắt.

      “Tôi chắc,” Henry thận trọng lên tiếng, “là chúng tôi hiểu ý của .”

      “Diana đến từ Tân Thế Giới.” Matthew ngừng lại, cho Marlowe có cơ hội nhìn cả phòng với dáng vẻ đắc thắng. “Đến từ Tân Thế Giới trong tương lai.”

      Trong yên lặng tiếp theo, mọi con mắt đều đổ dồn về phía tôi.

      ấy ấy đến từ Cambridge mà,” Walter ngây ra .

      phải Cambridge đó. Cambridge của tôi là ở Massachusetts cơ.” Giọng tôi khàn vì căng thẳng và lâu cất tiếng. Tôi hắng giọng. “Thuộc địa tồn tại ở Bắc Roanoke trong vòng bốn mươi năm nữa.”

      tiếng trầm trồ cảm thán dâng lên, và các câu hỏi tới tấp hướng về phía tôi. Harriot nhích tới và ngập ngừng chạm vào vai tôi. Ngón tay của ta gặp cơ bắp rắn chắc của tôi vội rụt lại với vẻ thắc mắc.

      “Tôi được nghe về những sinh vật khác người có thể uốn thời gian theo ý họ. Đây ngày kỳ diệu, đúng , Kit? bao giờ nghĩ là biết người se sợi thời gian chưa? Chúng ta phải cẩn thận khi ở cạnh ấy, dĩ nhiên rồi, nếu chúng ta có thể bị vướng vào mạng của ấy và lạc đường mất.” Gương mặt Harriot đầy vẻ ao ước, làm như ta có thể tận hưởng việc bị bắt tới thế giới khác vậy.

      “Và điều gì đưa tới đây, bà Roydon?” Giọng trầm trầm của Walter cắt ngang tiếng ồn ào bàn tán.

      “Cha của Diana là học giả,” Matthew trả lời thay tôi. Tiếng thầm hứng thú lại bị dập tắt bằng cái phất tay của Walter. “Mẹ ấy cũng vậy. Cả hai đều là phù thủy và chết trong tình huống bí .”

      “Đó là điều mà chúng ta cùng chia sẻ, D-D-Diana ạ,” Henry với cái rùng mình. Trước khi tôi kịp hỏi vị bá tước xem ý ta là gì, Walter vẫy tay ra hiệu cho Matthew.

      “Hậu quả là giáo dục dành cho ấy với tư cách là phù thủy … bị bỏ qua,” Matthew tiếp tục.

      dễ dàng làm hại phù thủy như thế.” Tom nhăn mặt. “Tại sao ở Tân Thế Giới trong tương lai lại thiếu quan tâm đến sinh vật khác người như thế?”

      “Phép thuật và lịch sử gia đình lâu đời của tôi có ý nghĩa gì với tôi cả. phải hiểu điều đó, giống như muốn vượt khỏi hạn chế xuất thân của vậy.” Tôi nhìn Kit, con trai thợ đóng giày, hy vọng tìm thấy tán đồng nếu phải là cảm thông, nhưng ta quay mặt .

      “Dốt nát là tội lỗi thể tha thứ.” Kit lúng túng với mẩu lụa đỏ lòi ra khỏi trong hàng tá những vết rách chiếc áo chẽn đen của ta.

      “Vậy là trung thành,” Walter . “Tiếp tục , Matthew.”

      “Diana có lẽ được dạy dỗ những ngón nghề phù thủy, nhưng ấy hề dốt nát. ấy cũng là học giả,” Matthew với vẻ tự hào, “với niềm đam mê dành cho thuật giả kim.”

      “Những nhà giả kim tiểu thư chẳng là gì hơn ngoài những triết gia xó bếp,” Kit cười khẩy, “hứng thú với việc cải thiện sắc da của họ hơn là hiểu biết các bí mật của tự nhiên.”

      “Tôi nghiên cứu thuật giả kim trong thư viện – phải trong bếp,” tôi vặc lại, quên cả điều chỉnh ngữ điệu hay trọng của mình. Mắt Kit mở lớn. “Sau đó tôi giảng dạy cho sinh viên về đề tài này ở trường đại học.”

      “Họ để phụ nữ dạy ở trường đại học ư?” George lên tiếng, tỏ vẻ vừa thích thú vừa khó chịu.

      “Còn được nhận vào đại học nữa,” Matthew đáp, đưa tay vuốt sống mũi vẻ áy náy. “Diana học ở Oxford.”

      “Điều đó hẳn làm tăng số người tham dự các bài giảng,” Walter lạnh lùng bình luận. “Phụ nữ mà được phép có mặt ở Oriel tôi có lẽ lấy thêm được cái bằng khác nữa. Và có phải các nữ học giả bị tấn công trong thuộc địa tương lai ở đâu đó tại Bắc Roanoke ?” Đó là kết luận hợp lý được rút ra từ câu chuyện của Matthew.

      phải tất cả bọn họ. Nhưng Diana tìm thấy cuốn sách bị thất lạc ở trường đại học.” Các thành viên của Bè lũ Bóng đêm cùng nhổm dậy. Với nhóm người này, những cuốn sách thất lạc còn được quan tâm hơn cả những phù thủy dốt nát và các nữ học giả. “Nó chứa thông tin bí mật về thế giới của các sinh vật khác người.”

      “Cuốn sách của những Điều Huyền Bí, được cho rằng hé lộ cho chúng ta biết về nguồn gốc của chúng ta ư?” Kit trông kinh ngạc. “Trước đây bạn bao giờ hứng thú với những truyền thuyết đó mà, Matthew. Thực ra còn bác bỏ, coi chúng là trò mê tín.”

      “Giờ tôi tin chúng, Kit. Khám phá của Diana mang kẻ thù tới cửa nhà ấy.”

      “Và ở cùng ấy. Vì thế kẻ thù của ấy cậy chốt cửa và vào nhà.” Walter lắc đầu.

      “Tại sao nỗ lực quan tâm của Matthew lại có hậu quả thảm khốc như thế?” George hỏi. Các ngón tay ta lần tìm cái băng lụa sọc màu đen giữ cặp kính mắt để buộc chặt chiếc áo chẽn. Chiếc áo chẽn được xếp diềm hợp thời trang phía bụng ta và chất liệu đó kêu sột soạt như cái túi đựng bột yến mạch mỗi khi ta cử động. George nâng gọng kính tròn mặt và săm soi tôi như thể tôi là vật nghiên cứu mới đầy thú vị.

      “Bởi vì phù thủy và wearh bị cấm được phép hết hôn,” Kit nhanh nhảu . Tôi chưa bao giờ nghe thấy từ wearh trước đây, với gió w ở đầu và trong họng ở cuối.

      tinh và wearh cũng thế.” Walter siết mạnh vai Kit cảnh cáo.

      sao?” George chớp mắt nhìn Matthew, rồi lại nhìn tôi. “Nữ hoàng cấm cuộc hôn phối như thế ư?”

      “Đó là thỏa ước cổ xưa giữa các sinh vật khác người, kẻ nào dám làm trái.” Tom lộ vẻ sợ hãi. “Những kẻ vi phạm bị Đại Hội Đồng triệu tập và bị trừng phạt.”

      Chỉ những ma cà rồng nhiều tuổi như Matthew mới có thể nhớ được thời kỳ trước khi thỏa ước được thiết lập các sinh vật khác người hành xử ra sao với nhau và ảnh hưởng tương tác tới loài người xung quanh chúng tôi như thế nào. “ kết thân giữa các sinh vật khác loài” là luật lệ quan trọng nhất, và Đại Hội Đồng khống chế kiểm soát phân cách đó. Tài năng của chúng tôi – sáng tạo, sức mạnh, năng lực siêu nhiên – thể nào nổi bật khi ở trong nhóm lẫn lộn các loài. Điều đó cũng như sức mạnh của phù thủy làm nổi bật năng lượng sáng tạo của bất cứ tinh nào ở gần, và thiên tài ở tinh khiến vẻ đẹp của ma cà rồng thêm ấn tượng. Về phần các mối quan hệ của chúng tôi với loài người, chúng tôi phải giữ kín thân phận ở mức tối đa và tránh xa lĩnh vực chính trị, tôn giáo.

      Ngay sáng nay, Matthew khăng khăng có quá nhiều vấn đề khác đối diện với Đại Hội Đồng ở thế kỷ mười sáu này – chiến tranh tôn giáo, thiêu sống người dị giáo, nạn đói lan tràn, thứ vật liệu xa lạ và kỳ quái mới đây từ công nghệ in ấn – khiến cho các thành viên trong hội đồng này chẳng hơi sức đâu mà phiền lòng với chuyện quá tầm thường như phù thủy và ma cà rồng nhau. Cứ theo như các kiện nguy hiểm khiến người ta phải hoang mang xảy ra kể từ khi tôi gặp Matthew vào cuối tháng Chín, tôi thấy chuyện này khó mà tin nổi.

      “Đại Hội Đồng nào thế?” George thích thú hỏi. “Đây có phải là giáo phái mới nào đó ?”

      Walter phớt lờ câu hỏi của bạn mình và trao cho Matthew cái nhìn xuyên thấu. Sau đó, ta quay sang tôi. “ vẫn có cuốn sách này chứ?”

      ai có nó cả. Nó quay vào trong thư viện rồi. Các phù thủy trông đợi tôi gọi nó ra cho bọn họ.”

      “Vậy bị săn đuổi vì hai lý do. số kẻ muốn tránh xa wearh, những kẻ khác xem như phương tiện cần thiết để đạt được cái kết như ý.” Walter vuốt sống mũi và nhìn Matthew vẻ mệt mỏi. “Cậu đúng là thỏi nam châm chuyên thu hút rắc rối, bạn tôi ơi. Và chuyện này thể xảy ra vào thời điểm nào thích hợp hơn lúc này. Lễ kỷ niệm thường niên của nữ hoàng diễn ra trong chưa đầy ba tuần nữa. bạn được trông đợi có mặt tại triều đình đấy.”

      “Đừng bận tâm tới lễ kỷ niệm của nữ hoàng! Chúng ta cũng chẳng được an toàn với người se sợi thời gian ở đây đâu. ta có thể thấy số mệnh của mỗi người chúng ta. phù thủy này có thể sửa lại tương lai của chúng ta, nếu may mắn – thậm chí chết sớm hơn đấy.” Kit bật dậy từ chiếc ghế bành ngồi đến đứng trước Matthew. “Thế quái nào có thể làm chuyện này chứ?”

      “Dường như cái thuyết vô thần được tán dương thái quá của cậu làm hỏng cậu mất rồi, Kit ạ,” Matthew thản nhiên . “Tôi e là rốt cuộc bạn có thể phải trả lời cho những tội lỗi của mình chứ nhỉ?”

      “Tôi có thể tin vào việc làm phúc và sức mạnh thần thánh như , Matthew, nhưng thế giới này còn có nhiều hơn những gì miêu tả trong những cuốn sách triết học của . Và người phụ nữ này − ả phù thủy này – được phép xen vào công việc của chúng ta. có thể là nô lệ của ta, nhưng tôi định đặt tương lai của tôi vào tay ta!” Kit bật lại.

      “Đợi chút.” Ánh mắt trở nên kinh ngạc lướt qua gương mặt George. “Có phải từ Chester đến với chúng tôi , Matthew, hay là… ”

      . được trả lời, Matt,” Tom đột ngột với vẻ sáng suốt.” Janus đến với chúng ta là có mục đích nào đó, và chúng ta được phép can thiệp.”

      chuyện cho lý trí vào, Tom – nếu có thể,” Kit giọng nham hiểm.

      mặt, Matthew và Diana nhìn về quá khứ. Mặt khác, họ xem xét cả tương lai,” Tom , thèm để tâm đến cắt ngang của Kit.

      “Nhưng nếu Matt phải…” George lên tiếng rồi rơi vào im lặng.

      “Tom đúng,” Walter cộc cằn . “Matthew là bạn của chúng ta và đề nghị giúp đỡ của chúng ta. Theo như tôi nhớ đây là lần đầu tiên ấy làm vậy. Đó là tất cả những gì chúng ta cần biết.”

      ta đòi hỏi quá nhiều,” Kit bẻ lại.

      “Quá nhiều ư? Nó ít ỏi và muộn màng, theo như tôi thấy. Matthew trả tiền cho trong những con tàu của tôi, cứu điền trang của Henry, giữ George và Tom được ở trong sách vở và mơ mộng thời gian dài. Còn về phần bạn – Walter nhìn Marlowe từ đầu đến chân – mọi thứ người – từ các ý tưởng của cho tới ly rượu cuối cùng và cái mũ đầu kia – đều phải cảm ơn trọng đãi tử tế của Matthew Roydon đấy. Dành bến đỗ an toàn cho vợ ấy trong cơn giông bão nay là điều ít ỏi chẳng đáng gì khi đem ra so sánh.”

      “Cảm ơn, Walter.” Matthew trông nhõm hẳn, nhưng nụ cười chuyển sang tôi lại có vẻ ngập ngừng. Chiến thắng trước những người bạn của – cụ thể là Walter – diễn ra khó khăn hơn dự tính.

      “Chúng ta cần dựng lên câu chuyện để giải thích làm thế nào vợ tới đây,” Walter trầm ngâm , “thứ gì đó làm phân tán chú ý khỏi vẻ lạ lùng của ấy.”

      “Diana cũng cần thầy giáo nữa,” Matthew thêm.

      ấy phải được dạy dỗ chút ít cung cách, tất nhiên là thế,” Kit cằn nhằn.

      , giáo viên của ấy phải là phù thủy khác,” Matthew chữa lại lời ta.

      Walter thốt ra tiếng trầm trầm hài hước. “Tôi nghi ngờ có phù thủy nào trong vòng bán kính hai mươi dặm ở Woodstock này. , khi mà sống ở đây.”

      “Còn cuốn sách này sao, bà Roydon?” George rút từ cái túi trong chiếc quần chẽn ngắn dáng phồng ra cây viết nhọn màu xám bọc trong sợi vải. ta liếm đầu cây bút chì và giơ nó lên vẻ chờ đợi. “Bà có thể cho tôi biết kích thước và nội dung của nó ? Tôi tìm nó ở Oxford.”

      “Cuốn sách có thể đợi,” tôi . “Đầu tiên tôi cần quần áo thích hợp. Tôi thể ra khỏi nhà với áo khoác của Pierre và chiếc váy mà chị Matthew mặc để đến dự đám tang của Jane Seymour được.”

      “Ra khỏi nhà ư?” Kit cười nhạo. “Ý nghĩ cực kỳ điên rồ.”

      “Kit đúng đấy,” George vẻ lấy làm tiếc. ta viết ghi chú vào trong cuốn sách của mình. “Cách chuyện của bà khiến bà có vẻ kỳ lạ ở xứ này. Tôi lấy làm vui sướng được chỉ dẫn bà vài bài diễn thuyết trước đám đông, bà Roydon.” Ý tưởng George Chapman đóng vai Henry Higgins với Eliza Doolittle của tôi đủ khiến tôi thiết tha mong chờ rồi.

      nên cho phép ấy gì cả, Matt. phải giữ cho ấy im lặng,” Kit khăng khăng.

      “Cái chúng ta cần là phụ nữ, ai đó để khuyên bảo Diana. Tại sao lại con , vợ hay tình nhân nào đó của năm người các nhỉ?” Matthew cầu. im lặng bao trùm tất cả.

      “Walter?” Kit tinh quái hỏi, khiến cánh đàn ông còn lại cười rộ lên và làm dịu bầu khí nặng nề như cơn bão mùa hè thổi qua căn phòng. Ngay cả Matthew cũng hòa theo.

      Pierre bước vào khi tiếng cười lắng xuống, đá tung lên những cành hương thảo và oải hương vương vãi giữa lối vào được đặt ở đó để ngăn hơi ẩm ướt khỏi lan ra khắp ngôi nhà. Cùng lúc ấy, những chiếc chuông bắt đầu ngân điểm mười hai giờ. Giống như lúc vừa nhìn thấy những quả mộc qua, kết hợp của thanh và mùi hương mang tôi quay về Madison.

      Quá khứ, tại và tương lai hội ngộ. Còn hơn cả việc tháo cuộn chỉ lỏng, khắc yên tĩnh như thể thời gian ngừng trôi. Tôi hít hơi mạnh.

      “Diana?” Matthew gọi, đỡ lấy khuỷu tay tôi.

      Thứ gì đó màu xanh lam và hổ phách, làn sóng ánh sáng và màu sắc thu hút chú ý của tôi. Nó dồn chặt vào góc phòng, nơi có gì khác xen vừa ngoài mạng nhện và bụi bặm. Như bị thôi miên, tôi cố di chuyển về phía nó.

      “Có phải ấy sắp ngất ?” Henry hỏi, gương mặt ta xuất trong tầm nhìn của tôi, bên bờ vai của Matthew.

      Tiếng chuông ngân nga dừng lại, và mùi hoa oải hương nhạt dần. Sắc xanh lam và hổ phách lấp loáng chuyển thành xám và trắng trước khi biến mất.

      “Em xin lỗi. Em nghĩ là mình thấy thứ gì đó ở góc phòng kia. Hẳn là ánh sáng đánh lừa mắt em,” tôi vừa vừa áp bàn tay lên má.

      “Có lẽ em chịu sức ép của khoảng cách thời gian, mon coeur,” Matthew thào. “ hứa với em chuyến dạo trong khuôn viên. Em ra ngoài cùng để cho thoáng đãng đầu óc chứ?”

      Có lẽ đó là di chứng do chuyến du hành vượt thời gian, khí trong lành có thể giúp ích. Nhưng chúng tôi vừa mới đến, và Matthew gặp những người bạn này hơn bốn thế kỷ rồi.

      nên ở cùng các bạn,” tôi chắc nịch, dù ánh mắt lại lơ đãng hướng ra cửa sổ.

      “Bọn họ ở đây uống rượu khi chúng ta quay lại,” Matthew mỉm cười , rồi quay sang Walter. “Tôi đưa Diana xem ngôi nhà của ấy và để đảm bảo ấy biết đường lối lại trong các khu vườn.”

      “Chúng ta cần phải chuyện thêm nữa,” Walter nhắc nhở. “Còn có công việc phải thảo luận.”

      Matthew gật đầu và vòng tay quanh eo tôi. “Có thể đợi mà.”

      Chúng tôi rời Bè lũ Bóng đêm trong căn phòng khách ấm áp và hướng về phía cửa ra vào. Tom mất hứng với mấy rắc rối của ma cà rồng và phù thủy, lại mải mê đọc sách. George cũng tương tự, chìm đắm trong những suy nghĩ và bận rộn viết lách ghi chép vào cuốn sổ tay. Ánh mắt Kit đầy vẻ dò xét, Walter dè chừng, còn ánh mắt Henry đầy cảm thông. Ba người đàn ông đó trông giống như những con quạ ác với bộ cánh đen và nét mặt đăm chiêu. Nó gợi cho tôi nhớ đến điều Shakespeare chẳng bao lâu nữa về nhóm người khác thường này.

      “Nó bắt đầu như thế nào nhỉ?” Tôi khẽ lẩm bẩm. “Màu đen là huy hiệu của địa ngục ư?”

      Matthew đăm chiêu. “Màu đen là huy hiệu của địa ngục/ Màu của ngục tù và trường học của bóng đêm.”

      “Màu của tình bạn chính xác hơn đấy,” tôi . Tôi từng thấy Matthew điều khiển những kẻ đến đọc sách trong thư viện Bodleian, nhưng ảnh hưởng của lên những người như Walter Raleigh và Kit Marlowe vẫn bất ngờ. “Liệu có điều gì họ làm vì , Matthew?”

      “Cầu Chúa cho chúng ta bao giờ biết được,” đầy vẻ u ám.

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      3.

      Vào sáng thứ Hai, tôi mắc kẹt trong văn phòng của Matthew. Nó tọa lạc giữa căn buồng của Pierre và phòng hơn được dùng để giải quyết các công việc điền trang, và có tầm nhìn hướng ra cánh cổng của ngôi nhà cùng con đường lớn Woodstock.

      Hầu hết các chàng – giờ tôi biết họ hơn, dường như phù hợp việc tụ tập hơn là Bè lũ Bóng đêm to tát kia – giam mình trong cái Matthew gọi là phòng ăn sáng, cùng uống rượu bia và phát huy trí tưởng tượng vĩ đại của họ cho câu chuyện tiểu sử của tôi. Walter cam đoan với tôi là khi hoàn thành nó giải thích cho xuất đột ngột của tôi ở Woodstock cùng những cư dân tò mò và giảm bớt những thắc mắc liên quan đến tổ tiên và xuất thân kỳ quái của tôi.

      Những điều họ dựng lên bi thống cường điệu hết mức. Điều này cũng có gì ngạc nhiên khi hai nhà viết kịch cư trú trong nhà chúng tôi, Kit và George, là người phác họa lên các điểm then chốt của kịch bản. Các nhân vật bao gồm cha mẹ người Pháp chết, những gã quý tộc hám lợi hãm hại đứa trẻ mồ côi được bảo vệ (là tôi), và những lão già dâm đãng mưu hủy hoại danh tiết của tôi. Câu chuyện chuyển thành thiên hùng ca với những thử thách tinh thần, cùng lần cải giáo từ Công giáo sang thuyết Cavin. Những chuyện này dẫn đến chuyến lưu đầy tự nguyện bờ biển của những người theo đạo Tin lành ở nước , nhiều năm sống cuộc đời thấp hèn nghèo khó, rồi lần giải cứu tình cờ của Matthew và lòng quan tâm quý trọng đến ngay lập tức. George (người có vẻ gì đó na ná bà giáo già) hứa kèm cặp tôi cụ thể khi họ hoàn thành xong chi tiết câu chuyện.

      Tôi tận hưởng đôi chút yên tĩnh, thứ tiện nghi hiếm hoi trong ngôi nhà đông đúc có kích thước thế này dưới thời Elizabeth. Giống đứa trẻ rắc rối, Kit luôn phán đoán cách chính xác thời điểm tồi tệ nhất để đưa tới lá thư, thông báo ăn tối, hay đề nghị Matthew giúp đỡ vấn đề gì đó. Còn Matthew trong tâm trạng háo hức, hoàn toàn có thể thông cảm, khi được ở bên những người bạn mà bao giờ hy vọng gặp lại.

      tại ở cùng Walter còn tôi chú tâm vào cuốn sách trong khi đợi quay lại. rời khỏi chiếc bàn kê cạnh cửa sổ, bừa bộn những túi đựng bút lông ngỗng được gọt sắc và những lọ thủy tinh đựng đầy mực. Các dụng cụ đồ dùng khác cũng la liệt bày ra gần đó: thỏi sáp để gắn xi thư tín, con dao mỏng để mở thư từ, cây nến, lọ rắc bằng bạc. Món đồ cuối cùng này phải đựng đầy muối mà là cát, mấy quả trứng có sạn của tôi vào sáng nay chứng minh điều đó.

      bàn của tôi cũng để lọ rắc tương tự để giúp cho mực giấy khỏi bị nhòe, lọ mực đen duy nhất và ba chiếc bút mực vẫn còn đó. Tôi phá tung chiếc bút thứ tư với những đường lượn xoắn phức tạp của chữ viết tay thời Elizabeth. Việc lập danh sách việc cần thực đáng lẽ ra phải ngon lành. Với tư cách sử gia, tôi dành hàng năm trời đọc các bản viết tay cổ và biết chính xác những lá thư trông ra sao, những từ nào thông dụng nhất, còn các chọn lựa đánh vần chẳng tới nơi tới chốn của tôi chỉ được thực khi có vài cuốn từ điển và các quy tắc ngữ pháp sẵn có ở đó.

      Hóa ra thách thức lại nằm ở chỗ biết làm cái gì mà là thực hành nó như thế nào. Sau nhiều năm làm việc để trở thành chuyên gia trong lĩnh vực này, giờ đây tôi lại là sinh viên. Chỉ có điều lần này mục tiêu của tôi phải hiểu về quá khứ mà là sống trong đó. Vì thế mới có trải nghiệm khiêm nhường này, và tất cả những gì tôi xoay sở được là tạo ra mớ lộn xộn trang giấy đầu tiên của cuốn sổ bỏ túi mới tinh mà Matthew đưa cho tôi sáng nay.

      “Nó tương đương với cái máy tính xách tay ở thời Elizabeth đấy,” giải thích, đưa tôi cuốn sách mỏng. “Em cần viết những lá thư tay và thứ gì đó để viết chúng ra.”

      Diana

      vết mực đậm ở chỗ tôi ấn xuống bắt đầu viết chữ D và đến lúc viết tới chữ A cuối cùng cái bút hết mực. Dù vậy, nỗ lực của tôi cũng là ví dụ điển hình đáng trân trọng về chữ viết nghiêng trong thời kỳ này. Bàn tay tôi di chuyển chậm hơn nhiều so với Matthew khi viết những lá thư theo kiểu chữ viết tốc ký nguệch ngoạc. Đó là chữ viết tay của luật sư, bác sĩ và các chuyên môn khác, nhưng lúc này quá khó đối với tôi.

      Bishop

      Chữ này bắt đầu đẹp hơn rồi. Nhưng nụ cười của tôi nhanh chóng biến mất, họ của tôi đâu còn thế này. Giờ tôi có chồng. Tôi chấm bút mực.

      de Clermont

      Diana de Clermont. Nó khiến tôi nghe có vẻ giống nữ bá tước, chứ phải sử gia. giọt mực rớt xuống thấm ướt trang giấy phía dưới. Tôi bật ra tiếng rủa thầm cái vết bẩn đen xì kia. May mà nó xóa mất tên tôi. Nhưng đó cũng phải là tên tôi. Tôi làm nhòe cái chấm mực phía “de Clermont” rồi. Dù sao mọi người vẫn có thể đọc được. Tôi viết đều tay và nắn nót các chữ đúng.

      Roydon

      Đó là tên bây giờ của tôi. Diana Roydon, vợ của nhân vật ít người biết đến nhất liên kết tạo nên Bè lũ Bóng đêm bí kia. Tôi xem lại cả trang giấy. Chữ viết tay của tôi đúng là thảm họa. Nó chẳng giống chút nào với những gì tôi thấy trong bản viết tròn trịa, gọn gàng của nhà hóa học Robert Boyle hoặc người chị xuất sắc của ông, Katherine. Tôi hy vọng chữ viết tay của phụ nữ thời điểm 1590 xấu hơn thời kỳ 1690. Thêm vài nét bút nữa và nét hất cong bay bướm cuối cùng là tôi hoàn thành.

      Đây là sổ của ấy

      Có tiếng đàn ông vang lên ở bên ngoài. Tôi cau mày, đặt bút xuống và tới bên cửa sổ.

      Matthew và Walter ở bên dưới. Những khung kính cản bớt tiếng hai người, nhưng chủ đề chuyện ràng vui vẻ gì, có thể thấy từ nét mặt bị làm phiền của Matthew và hàng lông mày dựng lên của Raleigh. Khi Matthew làm cử chỉ tỏ ý bác bỏ và quay người bước , Walter liền ngăn lại bằng bàn tay kiên quyết.

      Có điều gì đó làm phiền Matthew kể từ lúc nhận được tập thư đầu tiên sáng nay. khí trầm lặng bao phủ lấy , rồi giữ tập thư đó mà mở ra xem. Mặc dù giải thích rằng những lá thư này giải quyết vụ đất đai bình thường, nhưng chắc chắn còn điều gì đó hơn cả các cầu về thuế má và hóa đơn.

      Tôi ép lòng bàn tay ấm nóng lên ô cửa sổ lạnh lẽo như thể chỉ duy nhất tấm kính đó chắn giữa tôi và Matthew. Trò chơi nhiệt độ gợi cho tôi nhớ đến đối lập giữa phù thủy máu nóng và ma cà rồng máu lạnh. Tôi quay trở về chỗ ngồi và cầm cây bút lên.

      “Cuối cùng, em quyết định để lại dấu ấn của mình ở thế kỷ mười sáu rồi.” Matthew đột nhiên ở ngay cạnh tôi. Khóe môi cong lên biểu lộ niềm vui thích nhưng hoàn toàn che giấu được vẻ căng thẳng ở .

      “Em vẫn chắc việc sáng tạo ra vật kỷ niệm lưu giữ lâu dài trong thời gian em ở đây là ý tưởng hay,” tôi thú nhận. “ học giả ở tương lai có thể nhận ra điều kỳ lạ trong đó.” Như Kit biết được có điều gì đó ổn với tôi.

      “Đừng lo. Cuốn sổ rời khỏi ngôi nhà này.” Matthew với tới chồng thư từ của .

      thể chắc chắn về điều đó,” tôi phản đối.

      “Hãy để lịch sử tự quyết định, Diana,” vẻ quyết đoán, như thể vấn đề này bây giờ được khép lại. Nhưng tôi thể bỏ mặc tương lai – hay nỗi lo lắng về những tác động do diện của chúng tôi ở quá khứ có thể ảnh hưởng tới nó.

      “Em vẫn nghĩ là chúng ta nên để Kit giữ quân cờ đó.” Hồi ức về việc Marlowe đắc thắng khua lên bức tượng xíu hình nữ thần Diana ám ảnh tôi. ấy đóng vai quân hậu trắng trong bộ cờ vua bằng bạc đắt giá của Matthew và là trong số các món đồ tôi dùng để hướng tới địa điểm thích hợp trong quá khứ. Hai tinh trẻ tuổi quen biết, Sophie Norman và chồng , Nathaniel Wilson, bất ngờ mang nó đến ngôi nhà của dì tôi ở Madison ngay vào lúc chúng tôi quyết định xuyên thời gian.

      “Kit đường đường chính chính thắng nó từ vào tối qua – khi chàng có ý định làm thế. Ít nhất lần này có thể thấy ta xoay sở với nó thế nào. ta làm phiền với quân xe mãi.” Matthew ngoáy bút viết phong thư với tốc độ đáng ghen tỵ rồi gấp các trang giấy lại thành tập gọn ghẽ. thả giọt màu đỏ son nung chảy vào mép lá thư trước khi ấn chiếc nhẫn có dấu ấn riêng của lên đó. Bề mặt bằng vàng của chiếc nhẫn mang hình khắc đơn giản của Sao Mộc, phải cái biểu tượng tinh vi phức tạp hơn mà Satu đốt da thịt tôi. Dấu xi kêu lách tách khi nguội . “ hiểu bằng cách nào mà quân hậu trắng của lại được từ Kit tới chỗ gia đình phù thủy ở Bắc Carolina. Chúng ta phải tin rằng nó lại xảy ra như vậy lần nữa, dù có hay trợ giúp của chúng ta.”

      “Kit biết em từ trước. Và ta thích em.”

      “Còn nhiều lý do hơn để phải lo lắng gì cả. Chừng nào nó còn khiến ta nhìn thấy nét giống nữ thần Diana, ta thể rời nó ra đâu. Christopher Marlowe là người khổ dâm hàng đầu.” Matthew cầm lên lá thư khác và rạch nó ra bằng con dao của .

      Tôi kiểm tra các món đồ khác có bàn mình và lấy ra đống tiền xu. Kiến thức thiết thực về tiền tệ thời Elizabeth vốn nằm trong những gì tôi được học. Cũng có cách quản lý ngôi nhà, trật tự đúng đắn trong việc mặc quần áo lót, tên gọi các cấp bậc của người hầu, hay cách làm liều thuốc cho chứng đau đầu của Tom. Những cuộc thảo luận với Françoise về tủ quần áo lại tiết lộ dốt nát của tôi về cách gọi tên những màu sắc thông thường. “Màu xanh phân ngỗng” chẳng lạ đối với tôi, nhưng cái sắc bóng kỳ dị của màu nâu tóc hoa râm lại được biết đến như là “màu lông chuột” tôi chẳng biết. Do đó, các trải nghiệm này khiến tôi có kế hoạch đe dọa sử gia đầu tiên về triều đại Tudor mà tôi gặp ngay khi trở về để hỏi về tội làm việc thiếu trách nhiệm.

      Nhưng cũng có điều hấp dẫn trong quá trình khám phá ra những chi tiết của cuộc sống hàng ngày, và tôi nhanh chóng quên nỗi bực bội của mình. Tôi kiếm qua lượt các đồng xu trong lòng bàn tay, tìm đồng xu bằng bạc. Nó là nền tảng cơ sở để xây dựng lên những kiến thức tạm thời của tôi. Đồng xu lớn hơn ngón tay cái của tôi là bao, nó mỏng như cái bánh xốp, và cũng được khắc khuôn mặt nhìn nghiêng của Nữ hoàng Elizabeth như hầu hết những đồng xu khác. Tôi sắp chỗ xu còn lại lần lượt theo giá trị của chúng và bắt đầu đề cập chúng theo thứ tự trang giấy trắng kế tiếp trong cuốn sổ của tôi.

      “Cảm ơn, Pierre,” Matthew thầm , chỉ hơi liếc nhìn lên khi người hầu của mang những lá thư được niêm phong và đặt thêm các thư từ khác lên mặt bàn.

      Chúng tôi ngồi viết trong gian im lặng dễ chịu. Tôi nhanh chóng hoàn thành danh sách tiền xu, cố nhớ những gì Charles, người đầu bếp kiệm lời trong nhà, dạy tôi cách làm món súp nóng cho người ốm – hay là món sữa đặc nóng hòa rượu nhỉ?

      Công thức món súp nóng cho người ốm chữa đau đầu

      Hài lòng với dòng chữ liền mạch thẳng thớm, ba vết mực xíu, và chữ C hơi nghiêng ngả, tôi tiếp tục.

      Đặt nước để đun sôi. Đánh tan hai lòng đỏ trứng. Thêm rượu trắng và đánh bông lên. Nước sôi để nguội, rồi thêm rượu và trứng. Khuấy đều trong khi nó sôi lại, thêm nghệ tây và mật ong.

      Kết quả thứ hỗn hợp đó là màu vàng kinh khủng của pho mát làm từ sữa gạn kem – nhưng Tom xì xụp húp hết nó mà kêu tiếng. Sau đó, khi tôi hỏi Charles tỷ lệ hợp lý của mật ong và rượu, ông ta hất tay dáng vẻ chán ghét trước dốt nát của tôi và hiên ngang bỏ lời.

      Được sống trong quá khứ luôn là niềm khao khát thầm kín của tôi, nhưng điều này còn khó khăn hơn nhiều so với những gì tôi từng hình dung. Tôi thở dài.

      “Em cần nhiều hơn cuốn sổ đó để cảm thấy nơi đây như ở nhà.” Mắt Matthew vẫn rời đống thư của . “Em nên có phòng riêng nữa. Tại sao em dùng căn phòng này nhỉ? Nó được trang bị đầy đủ như thư viện. Hoặc em có thể biến nó thành phòng thí nghiệm thuật giả kim, mặc dù có lẽ em muốn nơi nào đó riêng tư hơn nếu định tiến hành biến chì thành vàng. phòng ở cạnh bếp có lẽ thích hợp đấy.”

      “Khu bếp phải là ý tưởng hay đâu. Charles thích em,” tôi đáp.

      “Ông ấy chẳng thích ai cả. Cả Françoise cũng thế – ngoại trừ Charles, dĩ nhiên là thế, đó là người ấy sùng bái như vị thánh bất chấp sở thích về đồ uống của ông ta.”

      Tiếng bước chân vững vàng nện dọc hành lang. Nàng Françoise hay chê bai xuất ở ngưỡng cửa. “Có vài người đến gặp bà Roydon,” ta thông báo rồi bước sang bên để lộ ra người đàn ông ngoài bảy mươi tuổi, mái tóc muối tiêu với hai bàn tay chai sạn và người đàn ông trẻ hơn nhiều nhấp nhổm đổi hết chân này tới chân kia. ai trong số họ là sinh vật khác người cả.

      “Somers.” Matthew nhíu mày. “Và đó có phải là Joseph Bidwell trẻ ?”

      “Đúng, đúng, ông chủ Roydon.” Người đàn ông trẻ hơn nhấc chiếc mũ đầu ra.

      “Bà Roydon cho phép các ông lấy số đo ngay bây giờ,” Françoise .

      “Các số đo ư?” Cái nhìn Matthew hướng về phía tôi và Françoise đòi hỏi câu trả lời – nhanh.

      “Giày. Găng tay. Cho tủ váy áo của madame,” Françoise . giống như váy lót, giày phải ai cũng vừa cỡ được.”

      “Em cầu Françoise gọi họ đến,” tôi giải thích, hy vọng tranh thủ được hợp tác của Matthew. Đôi mắt Somers mở lớn hơn trước trọng lạ lùng của tôi, sau đó gương mặt ông ta lại quay về biểu cảm tôn kính bình thường.

      “Chuyến của vợ tôi gặp khó khăn ngoài ý muốn,” Matthew êm ái , bước tới đứng cạnh tôi, “và đồ đạc của ấy bị mất. đáng tiếc, Bidwell, chúng ta có chiếc giày nào để làm mẫu.” đặt bàn tay cảnh cáo lên vai tôi, hy vọng chặn trước được bất cứ lời bình luận nào.

      “Tôi có thể chứ, bà Roydon?” Bidwell hỏi, hạ mình xuống cho tới khi các ngón tay của ta lơ lửng ngay các nút buộc đôi giày chẳng vừa vặn gì với hai bàn chân tôi. Đôi giày mượn này là món đồ cho , còn tôi phải là người như tôi giả bộ lúc này.

      “Xin mời,” Matthew đáp trước khi tôi kịp trả lời. Françoise trao cho tôi ánh nhìn cảm thông. ấy biết im lặng của Matthew Roydon là như thế nào.

      Người đàn ông trẻ giật mình khi ta tiếp xúc với bàn chân ấm áp và các mạch máu đập đều đặn. ràng ta trông chờ đó là bàn chân ít sức sống và lạnh lẽo hơn.

      “Làm việc của cậu ,” Matthew lạnh lùng .

      “Thưa ngài. Thưa đức ngài. Ông chủ Roydon.” Người đàn ông trẻ tuôn ra gần hết các danh xưng ngoại trừ “Thưa Bệ hạ” và “ Thưa Hoàng tử Bóng đêm.” Dù sao mấy cái này cũng bao hàm ý đó rồi.

      “Cha của cậu đâu hả, chàng trai?” Giọng Matthew dịu dàng hơn.

      “Ông ấy ốm liệt giường từ bốn ngày trước rồi ạ, thưa ông chủ Roydon.” Bidwell rút ra mảnh vải nỉ từ chiếc túi buộc bên thắt lưng và đặt từng bàn chân của tôi lên đó, rồi dùng que chì than vẽ đường bao ngoài dáng bàn chân tôi. ta còn thêm vài lời ghi chú miếng nỉ, hoàn thành nhanh chóng, rồi thả chân tôi ra. Bidwell lấy ra cuốn sổ kỳ lạ được làm từ những hình vuông nhiều màu sắc, khâu lại bằng các dải dây da và đưa tới cho tôi.

      “Những màu nào được ưa chuộng, ông chủ Bidwell?” Tôi hỏi, phất tay về phía các mẫu da. Tôi cần lời khuyên chứ phải thử nghiệm nhiều lựa chọn.

      “Các quý bà sắp sửa vào triều chuộng màu trắng có điểm vàng hoặc bạc.”

      “Chúng tôi vào triều,” Matthew nhanh.

      “Thế màu đen, và màu vàng hung đẹp đẽ.” Bidwell nâng lên dải da có màu caramen. Matthew đón lấy nó trước khi tôi kịp lời nào.

      Sau đó đến lượt người đàn ông nhiều tuổi kia. Cả ông ta cũng ngạc nhiên khi cầm bàn tay tôi và cảm thấy các vết chai trong lòng bàn tay. Các tiểu thư có giáo dục kết hôn với những người đàn ông như Matthew chèo thuyền. Somers cầm vào chỗ thịt lồi lên ngón giữa của tôi. Các vị phu nhân cũng có những khối thịt chai do cầm bút quá chặt như thế. Ông ta trượt chiếc găng tay mềm như bơ lớn quá khổ vào bàn tay phải của tôi. chiếc kim xâu chỉ sợi được luồn vào chiếc găng.

      “Cha cậu có được mọi thứ ông ấy cần chứ, Bidwell?” Matthew hỏi người thợ đóng giày.

      “Vâng, cảm ơn ngài, ông chủ Roydon,” Bidwell đáp lời kèm theo cái gật đầu.

      “Charles gửi cho ông ấy món trứng sữa và thịt thú rừng.” Đôi mắt màu xám bạc của Matthew lấp lánh lướt dáng người gầy gò của người đàn ông trẻ. “Cả ít rượu nữa.”

      “Ông Bidwell rất biết ơn lòng nhân từ của ngài,” Somers , những ngón tay ông ta kéo sợi chỉ xuyên qua miếng da để chiếc găng tay vừa khít.

      “Còn ai bị ốm nữa ?” Matthew hỏi.

      “Con của Rafe Meadows bị cơn sốt kinh khủng. Chúng tôi e ngại thay cho Edward già, nhưng ông ta chỉ bị lây bệnh sốt rét,” Somers đáp ngắn gọn.

      “Ta tin con Meadows hồi phục rồi.”

      .” Somers kéo giật sợi chỉ. “Chúng tôi vừa an táng con bé ba ngày trước, Chúa phù hộ cho linh hồn con bé.”

      “Amen,” mọi người trong phòng cùng . Françoise nhướng lông mày và hất đầu về phía Somers. Tôi vội với theo.

      Công việc của họ kết thúc, trong tuần có giày và găng tay cho tôi, cả hai người đàn ông cúi chào rồi rời . Françoise quay người theo họ ra ngoài, nhưng Matthew ngăn ta lại.

      thêm cuộc hẹn nào nữa cho Diana nhé.” Tính nghiêm trọng trong giọng của thể nhầm lẫn được. “Hãy trông chừng để Edward Camberwell có y tá chăm sóc ông ấy và thức ăn, đồ uống đầy đủ.”

      Françoise nhún gối chào dáng vẻ phục tùng, rời với cái liếc mắt cảm thông khác.

      “Em sợ những người đàn ông trong làng biết em thuộc về nơi này.” Tôi đưa bàn tay run rẩy lên vuốt trán. “Các nguyên của em là cả vấn đề. Và những câu em đáng lẽ ngữ điệu phải lên nó lại xuống. Khi nào mọi người phải ‘amen’? Ai đó cần phải dạy em cách cầu nguyện, Matthew. Em phải bắt đầu từ đâu đó, và…?”

      “Từ từ thôi nào,” , trượt hai tay vòng quanh ôm lấy cái eo được siết coóc-xê của tôi. Ngay cả qua mấy lớp vải áo, đụng chạm của cũng êm ái. “Đây phải cuộc thi vấn đáp tại Oxford, em cũng cần phải ra mắt lần đầu. Nhồi nhét thông tin và nhẩm nhẩm lại cũng chẳng giúp được gì đâu. Em nên hỏi trước khi cho gọi Bidwell và Somers.”

      “Làm thế nào có thể giả vờ là người mới, ai đó khác, hết lần này tới lần khác?” Tôi thắc mắc. Matthew phải làm việc này vô số lần suốt nhiều thế kỷ khi giả vờ chết để rồi lại xuất đất nước khác, ngôn ngữ khác và được biết đến dưới cái tên khác.

      “Bí quyết đầu tiên là thôi giả vờ.” Vẻ bối rối của tôi chắc hẳn quá ràng, nên tiếp tục. “Có nhớ điều với em ở Oxford ? Em thể sống giả dối, liệu có thể giả vờ là con người khi thực chất em là phù thủy hay cố gắng làm thần dân dưới thời Elizabeth khi em đến từ thế kỷ hai mươi mốt. tại đây chính là cuộc sống của em. Hãy cố đừng nghĩ đến nó như vai diễn.”

      “Nhưng trọng của em, cách em đứng…” Thậm chí tôi còn nhận thấy chiều dài các bước chân tôi còn liên quan tới bước của những người phụ nữ khác trong ngôi nhà này, nhưng chế nhạo công khai của Kit về dáng nam tính của tôi thành tâm điểm chú ý trong nhà.

      “Em điều chỉnh được. Trong khi đó, người ta này nọ. Nhưng có ý kiến của ai ở Woodstock là quan trọng cả. Em nhanh chóng trở nên quen thuộc và lời bàn tán dừng lại thôi.”

      Tôi nhìn vẻ nghi ngờ. “ biết lắm về chuyện ngồi lê đôi mách đúng ?”

      “Đủ để biết em đơn giản là chủ đề hiếu kỳ trong tuần này đấy.” liếc nhìn cuốn sổ của tôi, thu vào mắt những vết mực và nét chữ thiếu dứt khoát ràng. “Em cầm bút quá chặt. Đó là lý do vì sao ngòi bút gãy liên tục và mực chảy được. Em cũng nắm lấy cuộc đời mới của em quá chặt.”

      “Em bao giờ nghĩ nó quá khó thế này.”

      “Em là người học hỏi nhanh và chừng nào em còn an toàn ở Chòi Gác Cổ chừng đó em vẫn còn ở giữa những người bạn. Nhưng thời gian này có thêm khách viếng thăm đâu nhé. Giờ em viết gì thế?”

      “Tên em, hầu hết là thế.”

      Matthew lật vài trang cuốn sổ, kiểm tra xem tôi ghi chép gì. bên lông mày nhướng lên. “Em cũng chuẩn bị cho các bài kiểm tra kinh tế học và việc bếp núc nữa. Tại sao em viết về những gì diễn ra ở đây trong ngôi nhà này thay vào đó?”

      “Bởi vì em cần biết cách sống ở thế kỷ mười sáu này. Dĩ nhiên, cuốn nhật ký có lẽ cũng hữu ích lắm.” Tôi cân nhắc khả năng này. Lẽ tất nhiên việc đó giúp tôi thu xếp lại cảm giác lộn xộn về thời gian của mình. “Em nên dùng tên đầy đủ. Những người ở năm 1590 thường dùng tắt chữ cái đầu để tiết kiệm giấy và mực. Và ai phản ánh các suy nghĩ và cảm xúc cả. Họ ghi chép về thời tiết và các tuần mặt trăng.”

      “Những điểm đứng đầu trong các ghi chép bằng tiếng ở thế kỷ mười sáu còn lưu giữ,” Matthew cười .

      “Phụ nữ có viết những điều giống đàn ông ?”

      đưa mấy ngón tay nâng cằm tôi lên. “Em đúng là hết cách. Hãy thôi lo lắng về những gì các phụ nữ khác làm . Hãy là chính con người đặc biệt của em.” Khi tôi gật đầu, hôn tôi rồi trở lại bàn mình.

      Cầm cây bút mực lỏng hết mức có thể, tôi bắt đầu trang mới. Tôi quyết định dùng các biểu tượng thiên văn học cho các ngày trong tuần và ghi chép về thời tiết cũng như vài điểm khó hiểu về cuộc sống ở Chòi Gác Cổ. Bằng cách đó ai đọc được chúng trong tương lai có thể phát thấy điều gì khác lạ. Hoặc tôi hy vọng thế.

      Ngày 31 tháng Mười năm 1590 mưa, quang đãng

      Vào ngày này tôi được giới thiệu với người bạn tốt của chồng tôi CM

      Ngày 1 tháng Mười , 1590 lạnh và khô

      Ngay từ sáng sớm tôi được làm quen với GC. Sau bình minh, TH, HP, WR đến, tất cả đều là bạn của chồng tôi. Mặt trăng tròn.

      số học giả trong tương lai có thể nghi ngờ các chữ cái hoa này ám chỉ về Bè lũ Bóng đêm, đặc biệt căn cứ theo cái tên Roydon ở trang đầu tiên, nhưng có cách nào chứng minh cả. Bên cạnh đó, vào giai đoạn này, ít học giả quan tâm tới nhóm trí thức đó. Được giáo dục theo phong cách tốt nhất thời kỳ Phục Hưng, các thành viên của Bè lũ Bóng đêm có thể chuyển từ ngôn ngữ cổ xưa sang đại với tốc độ đáng kinh ngạc. Tất cả bọn họ đều biết về Aristotle. Và khi Kit, Walter, cùng Matthew bắt đầu chuyện chính trị, vốn kiến thức như bách khoa toàn thư của họ về lịch sử, địa lý khiến gần như ai có thể theo kịp. Thỉnh thoảng, George và Tom cũng tìm cách chen vào ý kiến, nhưng tật lắp và điếc của Henry khiến thể tham gia trọn vẹn vào những cuộc thảo luận phức tạp này. dành hầu hết thời gian yên lặng quan sát những người khác với vẻ tôn trọng bẽn lẽn, điều đó dễ mến khi xét đến việc ngài bá tước có tước vị cao hơn mọi người còn lại trong phòng. Nếu phải có quá nhiều người, có lẽ tôi cũng tham gia vào.

      Về phần Matthew, từng là nhà khoa học trầm tư nghiền ngẫm các kết quả thí nghiệm của mình và lo lắng về tương lai của các loài. Tôi Matthew như thế, nhưng lúc này tôi nhận ra mình phải lòng lần nữa phiên bản của ở thế kỷ mười sáu, bị quyến rũ bởi vẻ cuốn hút khi cười vang hay mỗi lời ứng đối nhanh nhạy để bảo vệ cho quan điểm triết học nào đó. Matthew tham gia vào những câu chuyện đùa bên bàn ăn tối, ngâm nga những bài hát trong các dãy hành lang. đùa giỡn vật lộn với những chú chó của mình bên lò sưởi trong phòng ngủ − hai chú chó tai cụp to lớn, có bộ lông xù tên Anaximander và Pericles. Ở Oxford hay nước Pháp đại, Matthew dường như luôn phảng phất nét buồn. Nhưng tại Woodstock này, hạnh phúc, thậm chí có lúc tôi còn bắt gặp nhìn những người bạn của mình như thể tin nổi họ có thực.

      nhận ra nhớ họ nhiều tới mức nào phải ?” Tôi cất tiếng hỏi, thể kìm lòng mà cắt ngang công việc của .

      “Ma cà rồng thể suy ngẫm về những điều bỏ lại phía sau,” đáp. “Bọn phát điên mất. có nhiều thứ để nhớ về họ hơn như: những lời họ , các bức chân dung của họ. Dù em lãng quên những điều nhặt – thói quen biểu cảm, tiếng cười của họ.”

      “Bố em giữ kẹo caramen trong túi áo,” tôi thầm. “Em có ký ức nào về chúng, cho tới lúc ở La Pierre.” Khi nhắm mắt lại, tôi có thể ngửi thấy mùi những viên kẹo và nghe tiếng sột soạt của giấy bóng kính cọ vào lớp vải áo mềm của ông.

      “Và giờ đây em từ bỏ những điều biết,” Matthew dịu dàng , “ngay cả khi từ bỏ nỗi đau đó.”

      cầm lá thư khác, cây bút mực lại sột soạt lướt trang giấy. Ánh nhìn khe khắt tập trung quay trở lại gương mặt, cùng với nếp nhăn nơi sống mũi. Tôi bắt chước góc độ cầm cây bút lông, độ dài thời gian trước khi chấm mực. là dễ viết hơn nhiều khi bạn cầm nó trong bàn tay nắm chặt cứng. Tôi đưa cây bút lên trang giấy ở tư thế sẵn sàng, chuẩn bị viết thêm.

      Hôm nay là Lễ Các Đẳng, ngày lễ truyền thống để tưởng nhớ những người chết. Mọi người trong nhà bình luận về trận sương mù dày đặc làm đóng băng hết lá cây trong vườn. Ngày mai thậm chí còn lạnh hơn, Pierre cam đoan vậy.

      Ngày 2 tháng Mười , 1590 sương mù

      Đo kích thước đóng giày và làm găng tay. Fran-oise khâu vá.

      Françoise làm cho tôi chiếc áo choàng tay để chống cái lạnh giá này, bộ đồ ấm áp cho tiết trời vào đông sắp tới. ấy ở trong tầng gác mái suốt cả buổi sáng, lọc qua tủ quần áo bị bỏ của Louisa de Clermont. Những bộ váy dài của chị Matthew lỗi mốt sáu mươi năm rồi, với cổ áo vuông cùng ống tay áo hình quả chuông, nhưng Françoise sửa lại chúng cho phù hợp hơn với cái mà Walter và George khăng khăng là phong cách thời thượng và phù hợp với vóc dáng kém xinh đẹp của tôi. ấy vui khi phải xé rời các đường may nối bộ váy màu đen và bạc lộng lẫy, nhưng Matthew nhất định cầu. Vì Bè lũ Bóng đêm ở trong nhà, tôi cần những bộ đồ trang trọng cũng như thêm các phụ kiện khác nữa.

      “Nhưng tiểu thư Louisa làm đám cưới trong chiếc váy dài đó, thưa đức ngài,” Françoise phản đối.

      “Đúng thế, với lão già tám mươi lăm tuổi con cái, yếu tim và có những điền trang sinh lợi khổng lồ. Tôi tin thứ đó còn hơn cả phần hoàn lại cho đầu tư của gia đình này vào đó,” Matthew đáp. “Nó hợp với Diana cho tới khi có thể làm cho ấy thứ gì đó tốt hơn.”

      Cuốn sổ của tôi dĩ nhiên thể nhắc đến cuộc trò chuyện này. Thay vào đó, tôi lựa chọn từ ngữ cẩn thận để chúng có nghĩa gì với bất cứ ai khác, nhưng lại gợi lên cho riêng tôi những hình ảnh sống động về những người cụ thể, về thanh và những cuộc chuyện. Nếu cuốn sổ này sống sót được, độc giả tương lai thấy những mảnh vụn bé của cuộc đời tôi nghèo nàn, khô khan. Các sử gia nghiền ngẫm những văn bản như thế này, hy vọng thấy được cuộc đời phức tạp, phong phú đằng sau những dòng chữ giản dị.

      Matthew rủa thầm. Tôi phải là người duy nhất trong nhà này che giấu điều gì đó.

      Chồng tôi nhận được rất nhiều thư ngày hôm nay và tặng tôi cuốn sổ này để lưu giữ các hồi ức của mình.

      Khi tôi nhấc bút để chấm thêm mực, Henry cùng Tom bước vào phòng tìm Matthew. Con mắt thứ ba của tôi chập chờn mở ra, đột nhiên ý thức được điều đó khiến tôi kinh ngạc. Kể từ khi tới đây, các sức mạnh mới phát sinh khác của tôi – lửa phù thủy, nước phù thủy và gió phù thủy – vắng cách kỳ quái. Cùng với giác quan có thêm ngoài mong đợi này, con mắt thứ ba cho phép tôi có thể thấy chỉ cảm giác căng thẳng màu đỏ-đen của bầu khí xung quanh Matthew mà còn thấy cả ánh sáng bạc của Tom hay ánh sáng lờ mờ màu xanh-đen của Henry. Mỗi cái mang dấu ấn cá nhân giống như dấu vân tay vậy.

      Nghĩ lại những sợi ánh sáng xanh và hổ phách mà tôi thấy ở góc phòng của Chòi Gác Cổ, tôi băn khoăn biến mất của sức mạnh nào đó và nổi lên của những sức mạnh khác có thể biểu thị cho điều gì. Còn phần tiếp nối sáng nay nữa…

      Thứ gì đó ở trong góc phòng lọt vào mắt tôi, ánh sáng sượt qua màu hổ phách với những vệt màu xanh lá. Có tiếng vọng khẽ đến mức cảm thấy được hơn là nghe thấy. Khi tôi quay đầu để xác định nguồn gốc xuất của nó cảm giác đó lại mờ . Sợi sáng đó đập rộn lên ở tầm nhìn ngoại biên của tôi, như thể thời gian ra hiệu cho tôi quay về nhà.

      Ngay từ lần đầu tiên di chuyển vượt thời gian ở Madison, khi du hành trong vài phút ngắn ngủi, tôi nghĩ thời gian như loại vật chất được làm từ những sợi ánh sáng và màu sắc. Nếu tập trung cao độ, bạn có thể lấy tiêu điểm vào sợi đơn, lần theo nó để tới đầu nguồn. Bây giờ, sau khi xuyên qua vài thế kỷ, tôi biết cái vẻ đơn giản bề ngoài đó mang những đầu mối có khả năng buộc lại số lượng tưởng tượng nổi các quá khứ dẫn tới hàng triệu tại cùng khoảng tương lai tiềm tàng thể biết được. Isaac Newton tin rằng thời gian là sức mạnh cốt yếu của tự nhiên thể bị kiểm soát. Sau khi chiến đấu để đưa chúng tôi về được năm 1590, tôi sẵn sàng đồng ý với ông ấy.

      “Diana? Em ổn cả chứ?” Giọng căng thẳng của Matthew đánh tan cơn mơ màng của tôi. Những người bạn của nhìn tôi vẻ quan tâm.

      “Tốt ạ,” tôi máy móc trả lời.

      “Em khỏe.” ném cây bút lông lên bàn. “Mùi hương của em thay đổi. nghĩ phép thuật của em có lẽ cũng thay đổi. Kit đúng. Chúng ta phải tìm cho em phù thủy càng nhanh càng tốt.”

      “Còn quá sớm để mang đến phù thủy,” tôi phản đối. “Quan trọng là em phải nhìn và nghe như người ở thời đại này .”

      “Phù thủy khác biết em là người du hành thời gian,” bác bỏ. “ ta hiểu thôi. Hay còn có chuyện gì khác nữa?”

      Tôi lắc đầu, sẵn lòng đón ánh mắt .

      Matthew cần nhìn thấy thời gian giãn ra ở góc phòng mới cảm thấy có điều gì đó bị đảo lộn. Nếu nghi ngờ có nhiều thay đổi với phép thuật của tôi hơn là tôi sẵn lòng tiết lộ, có cách nào để tôi giấu giếm được các bí mật của mình trước bất kỳ phù thủy nào, người có lẽ nhanh chóng được mời đến.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :