Mắt Âm Dương - Lãnh Tàn Hà

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      Mắt dương
      [​IMG]
      Tác giả: Lãnh Tàn Hà

      Dịch giả: Sơn Lê

      Kích thước: 12 x 20.5 cm

      Số trang: 424

      Ngày xuất bản: 15-05-2013

      Giá bìa: 98.000 ₫

      Công ty phát hành: Nhã Nam

      Nhà xuất bản: NXB Văn Học

      Nguồn sách: Chào Buổi Sáng

      Chụp pic: kararoxbee

      Type

      Tang Tử: 1-5

      Violet Rosa (violetrosa): 6-7

      Trangkat: 8-9

      hongtham204: 10-11

      nguyennguyen_sayuri: 12

      Beta: Heidi

      Làm ebook: Dâu Lê

      Nguồn ebook: http://www.luv-ebook.com




      Giới thiệu



      Lạc trong địa ngục dưới lòng đất Tạng

      Khi ai đó qua đời, người Tạng đem thi thể người chết dâng cho kền kền, vốn là sứ giả của chư thần trong tín ngưỡng Tây Tạng, sau khi rỉa thịt người chết, kền kền bay về trời, ấy chính là lúc linh hồn người chết được lên thiên đàng. Những năm đầu Dân Quốc, Vương Uy cùng đồng đội lạc đến đài thiên táng đẫm máu giữa rừng rậm. Nơi đây núi liền núi, mây mù dày dặc, là chốn bế khí dưỡng thi, là đất chẳng lành.

      Đó mới chỉ là khởi đầu cho hành trình hung hiểm, trải dài từ rừng rậm Tứ Xuyên, vắt qua núi tuyết nghìn trượng chưa ai chinh phục, xuống con sông ngầm ma quái trong lòng đất... Những kiện kỳ dị vô tình vén lên bí mật về xác sống, quái thú mặt phật, tượng người đầu chim với ánh mắt buốt lạnh thấu tận tim gan... hết, là về đôi mắt có khả năng nhìn thấu dương quỷ thần mà Vương Uy biết chính mình sở hữu... Vương Uy mới chợt bàng hoàng ngẫm lại, phải chăng toàn bộ cơn ác mộng này, cả người bạn chí cốt vẫn đồng hành cùng , đều thuộc về mưu có sẵn? Nhưng đường lùi còn, chỉ còn đường tiến về phía trước, là đường về địa ngục, vào hang ổ quỷ…
      Last edited by a moderator: 31/7/14

    2. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
                  Dẫn truyện





                  Xuyên Trung vốn là vùng đất các thế lực binh gia tranh đoạt. Những năm đầu Dân Quốc, là thời hỗn chiến giữa các phe phái ở vùng người Tạng A Bối, quân phiệt Mã Văn Ninh càng đánh càng lớn, dần dần chiếm hẳn mười mấy huyện trong khu Tạng A Bối, trở thành thế lực quân phiệt có tên có tuổi khắp miền Xuyên Trung.

                  Dân gian đồn rằng, Mã Văn Ninh thạo nhất là đào mồ quật mả. Lúc đầu, vùng người Tạng A Bối có mấy phe phái quân phiệt cát cứ, Mã Văn Ninh sợ các phe phái quân phiệt khác thừa cơ hợp sức đánh lại, nên chỉ lén lút làm trò xấu xa đó. Theo đà biến chuyển của chiến , quân của Mã Văn Ninh liên tiếp thắng to, lính tráng được bổ sung với số lượng lớn, vì vậy cần khối lượng vật tư hậu cần. Mã Văn Ninh thuộc chính phủ Quốc Dân trung ương, cũng chẳng thuộc phe phái lớn nào, có cách nào bổ sung hậu cần, đành phải tự giải quyết vấn đề.

                  Thời gian ấy, Mã Văn Ninh cho đào bới hàng loạt mồ mả, đập phá tháp Phật, chùa chiền, thậm chí còn thành lập hẳn đội quân cả nghìn người chuyên đào trộm mộ, trang bị thuốc nổ mạnh, tìm những nơi có mồ mả, đào cái hố sâu, chôn thuốc nổ vào đó, dẫu lăng mộ có biện pháp chống trộm cẩn thận đến mấy cũng bị công phá. Mồ mả vừa nổ tung, đội quân trộm mộ liền vơ vét của cải bên trong, còn xương cốt, thi hài vứt bỏ. Vào thời ấy, ở vùng A Bối hễ bắt gặp hố sâu vung vãi xương cốt, có thể khẳng định đấy là nơi lính đào mộ của Mã Văn Ninh đến.

                  hôm, có vị lạt ma áo quần lam lũ, chân đất, mặt đầy nếp nhăn, xem ra cũng ngoài năm mươi tới huyện thành A Bối, thẳng đến tư dinh của Mã Văn Ninh. Vị lạt ma đứng ngoài cửa gào thét như người điên, đòi vào trong gặp chủ nhân. Lính gác lôi ông ta ra phố, ông ta lại xông vào. Thấy bên ngoài ồn ào, Mã Văn Ninh cũng chú ý, bèn sai người tra hỏi ngọn ngành, sau đó cho vị lạt ma kia vào phủ.

                  Vị lạt ma ghé vào tai Mã Văn Ninh gì đó, mặt Mã Văn Ninh liền biến sắc, mời ngay ông ta vào phòng kín chuyện. Hai người trò chuyện trong phòng kín ngày đêm, cơm nước có người đưa đến tận nơi. Về sau, những người biết chuyện rằng, vị lạt ma kia đưa đến tấm bản đồ rách nát, bên trong có giấu bí mật lớn.

                  Mã Văn Ninh cho tiếp đãi vị lạt ma rất trọng hậu, còn cử người canh gác, ngoại trừ ta, ai được tiếp xúc.

                  Buổi tối sau hôm vị lạt ma đến, Mã Văn Ninh gặp cơn ác mộng. mơ thấy mình bị đặt lên đài thiên táng rất lớn, xung quanh là các lạt ma ăn vận quái gở, rì rầm tụng kinh siêu độ cho . Dù ý thức rất mình còn sống, nhưng tay chân ta lại bị xích sắt trói chặt, gần đài thiên táng bập bùng đống lửa, trời rền rĩ tiếng kền kền xám kêu thê thảm, ai nghe cũng phải rùng mình. Mã Văn Ninh ra sức giãy giụa, có điều sợi xích to bằng cổ tay, khiến sao động cựa được.

                  lúc tuyệt vọng, phát vị lạt ma cúi đầu tụng kinh bỗng ngước lên nhìn mình, liền đưa mắt nhìn lại, mồ hôi lạnh lập tức túa ra khắp người, tin nổi vào mắt mình nữa, lạt ma ấy ngờ lại có bộ mặt chim.

                  Mã Văn Ninh sợ hãi choàng tỉnh. lập tức tìm vị lạt ma kia nhờ giải mộng, nhưng lạt ma nghe xong chỉ cười, gì.

                  Tuy ham mê chuyện đào trộm mồ mả tuyệt tử tuyệt tôn, nhưng Mã Văn Ninh lại vô cùng kính nể quỷ thần. Hơn nữa, giờ đương lúc các phe phái quân phiệt hỗn chiến, dù Mã Văn Ninh ngồi vững ở vùng Tạng A Bối, nhưng chẳng ai dám chắc đến ngày nào đó bị tiêu diệt.

                  Hôm sau Mã Văn Ninh cho yết thị, tìm người tài và lạt ma khắp các chùa chiền giúp giải mộng. Cứ tốp này đến lại tốp khác , tất cả đều đưa ra những lý do vô cùng kỳ quái, nhưng chẳng có gì đáng tin hết.

                  Ít lâu sau, lính đào mộ theo bản đồ vị lạt ma kia cung cấp, tìm thấy ở khu người Tạng phía Tây nơi giống hệt trong giấc mơ của Mã Văn Ninh, được tin, lập tức cùng đội vệ binh đến đấy xem thử.

                  Đến nơi, Mã Văn Ninh thấy đài thiên táng được bảo tồn rất hoàn hảo, quang cảnh đúng như trong mơ, nhưng kỳ lạ là, mấy trăm dặm quanh đấy bóng người, ngay cả động vật cùng chỉ thấy lác đác. lệnh cho quân lính lùng sục khắp phạm vi trăm dặm xung quanh mà sao tìm thấy người có bộ mặt chim. Từ ngày đến đó, lòng Mã Văn Ninh càng thêm thấp thỏm bất an, luôn nghi ngờ có người mưu hại, ngủ cũng mặc nguyên quần áo.

                  Thấy đám lính tráng chẳng tìm được thứ gì giá trị, ta đùng đùng nổi giận, lập tức điều thêm quân đến, cho đào sâu ba trượng trong phạm vi cây số vuông.

                  Những tưởng việc đào bới chỉ là cơn giận nhất thời của Mã Văn Ninh, nào ngờ lại đào được ngôi mộ cổ.

                  ra đấy phải mộ, mà chỉ là hang động, bên trong đặt cỗ quan tài bằng đá dài chín mét, rộng khoảng ba mét. Quân lính của Mã Văn Ninh loay hoay toát mồ hôi hột mới chuyển được cỗ quan tài đó về A Bối, đưa vào trong phủ, sai lính canh gác cẩn thận.

                  Quan tài đá về tới nơi, Mã Văn Ninh sai người mở ra trước mặt mình, ngờ nắp quan tài đậy rất chặt, sao nạy ra nổi. Đám lính đào trộm mộ tìm đủ mọi cách mà nắp quan tài vẫn xê dịch mảy may. Mã Văn Ninh lại cho tìm người tài khắp nơi, nhưng chẳng tìm được ai cả.

                  Đương lúc bế tắc, có người đề nghị Mã Văn Ninh gọi vị lạt ma kia đến, biết đâu ông ta có thế lai lịch cỗ quan tài này. Chẳng ngờ, ông ta vừa bước vào cửa, trông thấy cỗ quan tài đá kia, liền tái mặt cắm đầu chạy ra ngoài, bọn lính đứng đấy thể nào lôi lại được.

                  Hành động của lạt ma khiến Mã Văn Ninh giật thót mình, bèn vặn hỏi nguyên do. Lạt ma quỳ xuống báy lạy Mã Văn Ninh, khẩn khoản rằng ông ta dám ở lại nữa, bởi đây là nơi linh hồn Thất Sát Huynh Phật cư ngụ, ai đụng đến cỗ quan tài này sống được quá mười ngày.

                  Thấy việc kỳ lạ khó hiểu, lại nghe vị lạt ma vậy, Mã Văn Ninh sợ mất mật. Xem ra, ngoài vị lạt ma này còn ai biết nguồn gốc của cỗ quan tài đá nữa, thậm chí lạt ma cũng chỉ cho tấm bản đồ kỳ lạ mô tả nơi cất giữ báu vật chứ thêm gì khác, kể cả lai lịch xuất thân. Mã Văn Ninh lòng muốn giữ vị lạt ma trong phủ của mình, bởi lúc này chỉ mình ông ta am hiểu về cỗ quan tài đá kia, nhất định thể để ông ta được.

                  Vả lại, đám lính của Mã Văn Ninh có biết bao nhiêu người sờ vào cỗ quan tài đá kia rồi, cả cũng chẳng ngoại lệ, nếu vị lạt ma kia đúng, lẽ nào tất cả bọn họ đều sống nổi quá mười ngày hay sao?

                  Lạt ma khóc lóc cầu xin được nhưng Mã Văn Ninh kiên quyết chịu, ra lệnh cắt đứt gân chân ông ta, nhốt vào nơi để quan tài đá, bắt ông ta nội trong ba ngày phải mở được nắp quan tài, nếu đem ra xử bắn.

                  Sáng hôm sau Mã Văn Ninh sai người mở cửa xem lạt ma ra sao, nào ngờ trong phòng trống trơn, thấy người cũng chẳng thấy ma. Tối hôm trước Mã Văn Ninh còn cho lính canh gác, có thể là mấy tầng phòng ngự, cả khuôn viên đèn đuốc sáng trưng, lạt ma kia dù mọc cánh cũng bay ra nổi, vậy người đâu mất?

                  Những người có mặt tại đó đều đớ ra, chẳng ai hiểu đầu cua tai nheo gì, về sau có người , nhất định vị lạt ma kia chui vào quan tài.

                  Mã Văn Ninh bất đắc dĩ đành đồng ý vói đại đội trưởng đại đội cảnh vệ. Đầu tiên đào cái hố, đặt hai phần ba quan tài xuống đó, chỉ để lộ phần nắp, rồi dùng thuốc nổ cho nổ tung nắp quan tài, như vậy có thể mở đưọc mà làm hư hại những thứ bên trong.

                  Quả nhiên chiêu này rất diệu, nắp quan tài vỡ tung, nhưng phần chôn sâu dưới đất vẫn còn nguyên vẹn.

                  Mã Văn Ninh đến xem, giật mình thấy trong cỗ quan tài đá lớn kia ngoài những mảnh thi thể có thứ gì khác. Thi thể trong quan tài nát bấy, thể nhận khuôn mặt người chết, nhưng nhận ra những mảnh vải vương vãi kia chính là áo quần của vị lạt ma kia.

                  Mã Văn Ninh ớn lạnh khi nhận ra thi thể trong quan tài. Thực ra ép vị lạt ma phải mở được nắp quan tài, chính là để ép ông ta ra những bí mật trong đó. Lính đào mộ của Mã Văn Ninh thiếu người giỏi, nghiên cứu nắm được cấu tạo của quan tài, áo quan được làm từ khối đá nguyên vẹn, vách quan dày chừng mét, thuốc nổ bình thường khó mà phá vỡ nổi, song nếu dùng thuốc nổ cực mạnh, diện tích nổ , sức công phá lớn hẳn mở ra được.

                  Nhưng vị lạt ma có thể chui vào trong quan tài dày mét, thi thể lại bị xé tan từng mảnh, quả là chuyện khó hình dung.

                  Về sau, trong đám lính đào mộ có người phát thi thể của vị lạt ma giống như bị chim kền kền rỉa nát. Ở khu vực của người Tạng, họ từng đào bới rất nhiều mộ cổ, có những quý tộc người Tạng được thiên táng, về sau thu xác về, thi thể cũng nát bấy như vậy, kẻ chấp hành thiên táng chính là chim kền kền.

                  Vị lạt ma bị nhốt trong phòng kín lại chui vào quan tài đá, rồi bị chim kền kền thiên táng, chuyện này quá ly kỳ. Đám lính của Mã Văn Ninh đào mồ quật mả chứng kiến biết bao nhiêu chuyện ly kỳ, trong lăng mộ thứ kinh khủng gì cũng có cả, vậy mà trước tình cảnh này, vẫn khỏi rùng mình ớn lạnh.

                  Theo lời vị lạt ma kia, họ đưa quan tài đá về để bốn ngày, lại thêm ngày hôm nay nữa, vậy là những người đụng vào quan tài đá chỉ còn sống được năm ngày.

                  Cả đời Mã Văn Ninh tung hoành suốt dải Xuyên Trung, từng tơ tưởng mình được trường sinh bất lão, chứ chưa bao giờ nghĩ cuộc đời của mình chỉ còn có năm ngày. Bây giờ vị lạt ma kia chết, còn cách nào phá giải lời nguyền kia nữa, nghĩ nghĩ lại, ta đành cho người tu sủa lại quan tài, tìm nơi nào đấy chôn xuống.

                  Đám lính đào trộm mộ của Mã Văn Ninh chôn xong cái quan tài, đường về A Bối đụng phải phe phái quân phiệt khác phục kích, bị tiêu diệt gần hết. Càng quái lạ hơn nữa là, năm hôm sau Mã Văn Ninh mất tích ngay trong tư dinh, mấy hôm sau người nhà mới tìm được thi thể ta mái nhà, bị lũ kền kền rỉa nát thành từng mảnh, xương thịt tơi tả.

                  Mã Văn Ninh chết, thế lực quân phiệt của ta như rắn mất đầu, đầy ba tháng sau tan rã, thế lực quân phiệt khác lại chiếm cứ địa bàn này.

                  việc ly kỳ lan truyền nhanh chóng, cả vùng Xuyên Trung ai biết.
      TanThaiSinh thích bài này.

    3. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
                  Chương 1: Ánh lửa núi





                  Năm Dân Quốc thứ hai mươi hai, ở vùng ven phía Tây Xuyên Khang, trận đại chiến giữa hai quân phiệt Lưu ở Xuyên Trung gần đến hồi kết. Quân đoàn 21 của Lưu Tương được Tưởng Giới Thạch giúp sức, dựa vào hỏa lực của máy bay, pháo lớn, liên tiếp phá thành nhổ trại, buộc quân đoàn 24 của Lưu Văn Huy phải rút về bảo vệ Mi Sơn - Gia Định. Hai bên lấy sông Mân làm ranh giới, kịch chiến suốt nửa tháng trời, quân đoàn 24 yếu thế, đành bỏ phòng tuyến sông Mân, rút về Nhã An và gửi điện thông báo cho cả nước biết họ "lui về Tây Khang chi viện quốc phòng".

                  Lưu Văn Huy thua liểng xiểng chỉ còn mười mấy trung đoàn tàn binh bại tướng tổng cộng chưa đầy vạn binh mã, uy phong của quân đoàn 24 trôi theo dòng nước.

                  Lưu Văn Huy dẫn đám tàn quân rút về hướng Xuyên Tây, đóng ở Tây Khang. Lưu Tương toàn thắng, để cho Lưu Văn Huy có cơ hội nghỉ ngơi, liền cử hai viên tướng Điền Tụng Nghiêu và Đặng Tích Hậu dẫn đầu hai cánh quân chủ lực thâm nhập vào Tây Tạng, truy kích tiêu diệt tàn quân của Lưu Văn Huy. Hai người này đều là nhân vật lăn lộn nửa đời nơi mũi tên hòn đạn, dọc đường truy sát cho đám tàn quân của quân đoàn 24 đến còn manh giáp, xác chết đầy đồng.

                  Đội cảnh vệ của Lưu Văn Huy bị truy đuổi bỏ chạy tán loạn, chui lủi khắp nơi, dần tiến vào đất Tạng. Hơn trăm quân sĩ có hậu cần cung cấp lương thực súng đạn, đành quay sang làm thổ phỉ cướp của dân Tạng. Vùng này giáp với phía Tây Xương Đô, xung quanh đều là núi non, cao hơn mặt biển mấy nghìn mét, đất rộng người thưa, trong vòng mấy trăm dặm chỉ lác đác vài ba bóng người.

                  Dọc đường binh mã mệt mỏi, lương thực và nước uống cướp được hết từ ngày trước. vào thu, bãi cỏ núi mọc um cỏ dại, khô héo còi cọc, khó mà có thú hoang. Đám lính này vốn là đội bảo vệ Lưu Văn Huy ở Xuyên Trung, quen được sung sướng, thể chịu đựng nổi cảnh khổ cực của lính dã chiến. Thời ấy, lính tráng Tứ Xuyên quen với nếp sinh hoạt tùy tiện, kỷ luật lỏng lẻo, quân cảnh vệ trước mặt cấp tỏ ra nghiêm túc, nhưng sau lưng lại coi ai ra gì, kiêu căng, vô lễ.

                  Bây giờ, phía sau có quân đoàn chủ lực 21 truy kích, trước mặt là rừng núi hoang vu, sống chết khó lường, tương lai mờ mịt, nội bộ gần trăm con người này cũng đâm ra lục đục, mâu thuẫn. số chủ trương quay lại, chiếm ngọn núi làm bá vương Trà Mã cổ đạo, nhiều lắm là gặp bọn lính truy kích, có thể đầu hàng đầu hàng, nếu đầu hàng liều phen, như vậy còn dễ chịu hơn ở đây chết đói; số còn lại đòi vượt qua núi tuyết Mai Lý để vào Xương Đô, từ đấy phát triển tiếp.

                  Đôi bên bất đồng ý kiến, tranh chấp mỗi lúc căng thẳng, hai viên đại đội trưởng của hai đội cảnh vệ đánh nhau trước, bọn họ vừa ra tay quân lính dưới quyền cũng náo loạn, nhất loạt lên đạn bắn nhau.

                  đánh nhau bất phân thắng bại, bỗng người lính trông thấy nơi đỉnh núi phía xa có khói đen bay lên, còn thấp thoáng ánh lửa. ta quên cả đánh nhau, lớn tiếng kêu gọi em cùng nhìn lên. Đám tàn quân nộ khí xung thiên, sát khí đằng đằng nhất loạt đổ dồn ánh mắt về phía ngọn núi kia, lúc này trời nhập nhoạng tối, đám khói như mây đen từ đỉnh núi phía xa bay đến, bên dưới còn có ánh lửa, nom tình hình này, hình như ở đây có cháy lớn.

                  Mọi người lúc đầu còn ngơ ngác, rồi cùng reo hò hoan hô, có lửa tức là có người, nghĩ nhiều làm gì, cứ đến đấy tìm miếng ăn rồi tính sau. Mọi người thấy tia hy vọng, liền bỏ hết tranh chấp, dưói chỉ huy của hai viên đại đội trưởng, họ cùng dìu đỡ thương binh, về phía ngọn núi kia.

                  Giữa muôn trùng núi non, ngọn núi kia trông cũng xa lắm. Nhưng rồi mới biết vách núi cheo leo dựng đứng, leo lên khó khăn. Đám lính bị cái đói giày vò, bất chấp khó khăn, cố leo lên, leo bốn năm tiếng đồng hồ mới lên đến đỉnh.

                  Leo lên đến nơi mới biết, ánh lửa biến mất từ lúc nào rồi. Núi rất lớn, nếu cháy rừng phải cháy suốt mấy ngày đêm, vậy mà làm thế nào chỉ trong chốc lát lửa tắt?

                  Gần trăm tàn quân đứng núi, run cầm cập trong gió lạnh, đèn pin của họ chỉ soi sáng được vài chục mét, chỉ thấy xung quanh toàn là bóng tối. Hai viên đại đội trưởng quyết định xóa bỏ xích mích, cùng nhau bàn mưu tính cách, dù sao cũng thể ngồi đỉnh núi này chờ chết đói hoặc chết rét.

                  Hai người bàn nhau hồi lâu, cuối cùng quyết định chia làm hai cánh xuống theo hai ngả, nếu phát có động tĩnh gì đó đốt lửa báo hiệu cho nhau biết.

                  Họ chặt cành khô làm đuốc, mỗi người bó, tạo thành hai con rồng lửa men theo hai triền núi Đông Tây, tiến sâu vào rừng cây. Đại đội Hai về phía Tây, đại đội trưởng tên là Vương Uy, thanh niên chưa đến ba mươi tuổi. Vương Uy tính tình nóng nảy, chỉ cần tranh cãi vài ba câu lập tức rút dao động súng, là nhân vật rất khó chọc vào.

                  Vương Uy thấy ánh đuốc của đại đội Ba đâu nữa, liền gọi Triệu Nhị mặt rỗ, quân sư của ta đến. Triệu Nhị mặt rỗ tầm tuổi Vương Uy, trước đây đều là sinh viên đại học Yên Kinh, chịu ảnh hưởng của cao trào nước, đến Tứ Xuyên làm lính của Lưu Văn Huy, mấy năm nay Đông chinh Bắc chiến, trải qua kiện quân đội Tứ Xuyên đảo chính và trận chiến Xuyên Đông, cho đến ngày Lưu Văn Huy và Lưu Tương đánh nhau, họ theo bại binh của Lưu Văn Huy rút khỏi Mạch Thành, chạy đến nơi đây.

                  Hai người sống trong quân ngũ gần mười năm, rèn đúc nên tình cảm thân thiết. Triệu Nhị thời bị bệnh đậu mùa, mặt rỗ chằng rỗ chịt, gã cao cao gầy gầy, đánh trận giỏi nhưng lắm mưu mẹo. Hồi đánh nhau với quân phiệt Dương Sâm, dựa vào chủ ý của gã mà Vương Uy đánh thắng khá nhiều trận, bởi thế Vương Uy nhất mực coi trọng gã.

                  Nhị Rỗ tấp tểnh chạy tới, đưa tay chào theo quân lệnh, miệng hô:

                  - Triệu nhị báo cáo đại đội trưởng!

                  Vương Uy buồn bực, thấy Nhị Rỗ đứng nghiêm, liền đá cho gã cái, chửi ngay:

                  - Đồ chó đẻ, bảo đến nhanh lên, chết ở xó nào mà bây giờ mới đến?

                  Nhị Rỗ phủi dấu chân ở mông, cười hì hì, :

                  - Thưa chỉ huy, em ở kia để quan sát địa hình ạ. xác định phương hướng, chúng ta làm sao tìm được đường ra?

                  Vương Uy biết tổ tiên Nhị Rỗ là thầy phong thủy, nghe đời cụ tổ có cao nhân được mời vào cung xem phong thủy cho vua Càn Long, tổ tiên còn để lại bí thuật xem long mạch địa nhãn. Đáng tiếc, Trung Quốc gặp buổi loạn lạc, trong ngoài đều rối ren, chẳng ai còn để tâm đến những chuyện mắt trông thấy tay sờ đến ấy làm gì.Thời , Nhị Rỗ rất say mê phong trào học sinh, dù cha gã dốc lòng dạy dỗ, nhưng Nhị Rỗ lại để tâm học hành, chỉ biết chút ít bên ngoài mà thôi.

                  Những chuyện ấy đều là Nhị Rỗ kể với Vương Uy khi ngà ngà say, còn dặn dặn lại đừng cho ai hết. Vương Uy cũng nửa tin nửa ngờ, bởi những điều Nhị Rỗ , hễ phải lúc giao chiến căng thẳng chẳng có gì đáng tin, mười câu có đến chín câu là giả.

                  Vương Uy chẳng còn lòng dạ nào mà đùa cợt với Nhị Rỗ, bèn hỏi thẳng quan sát thấy gì chưa. Nhị Rỗ cau mày suy nghĩ, :

                  - Chỉ huy, tôi thấy chỗ này được ổn lắm. Ở đây núi liền núi, mây núi dày đặc, dãy núi tuyết Mai Lý chạy về phía Đông, có thế rồng uống nước. Nhưng ngọn núi này bị vây khốn bởi nhiều núi khác, long khí chạy về hướng Đông, biến nó thành nơi bế khí dưỡng thi, là đất chẳng lành.

                  Nghe Nhị Rỗ vậy, Vương Uy cảm thấy ở đây có thể xảy ra chuyện kỳ lạ gì đó, liền hỏi thêm:

                  - có nhận ra khói đen và ánh lửa chúng ta vừa trông thấy là chuyện gì ?

                  Nhị Rỗ vê vê chòm râu dê, nghe đó là chòm râu phong thủy tổ tiên gia truyền lại, độ dài của mỗi sợi râu đều có quy tắc riêng, để chòm râu ấy lúc xem phong thủy có thể mở ra thiên nhãn, khó lòng xem trật. Ông tổ của gã hồi xưa được vua Càn Long rất coi trọng, ban thưởng mũ lông công hàng tứ phẩm, gia cảnh tương đối sung túc, trước ngày liên quân tám nước vào Bắc Kinh, gia đình cũng coi như giàu có. Liên quân tám nước vào Bắc Kinh, chúng đốt sạch cướp sạch, kho vàng nhà ông ta bị liên quân cướp, từ đấy họ Triệu sa sút, đến đời gã chỉ còn lại chòm râu dê này thôi.

                  Mỗi lần nhắc lại chuyện xưa Nhị Rỗ đều nước mắt nước mũi ròng ròng, hơn nữa chỉ nhắc lại khi uống rượu, làm cho mọi người còn lòng dạ nào để uống, mình gã tha hồ đánh chén cho no say. Đó là mẹo vặt của Nhị Rỗ, về sau em biết tỏng ngón này, lúc uống rượu thèm mời gã nữa.

                  Nhị Rỗ suy nghĩ giây lát rồi :

                  - Cái nơi bế khí dưỡng thi này chung người sống nên đến, nhưng đám khói đen ấy giống như khói người đốt vậy, lạ .

                  Vương Uy ngẫm nghĩ, muốn biết rốt cuộc có chuyện gì, phải xuống tận nơi xem mới được, liền ra lệnh cho tra xét đến cùng. Vương Uy và Nhị Rỗ dẫn đầu, triền núi phía bên này đỡ dốc hơn, như vậy đường xuống dài hơn, cây núi chết khô gần hết, cũng đến nỗi vất vả. được quãng nghe dưới chân núi có tiếng nước chảy ào ào, réo gào đinh tai nhức óc. Vương Uy ngạc nhiên, hỏi:

                  - Tại sao ở đây lại có thác? Lúc chúng ta đến có thấy sông lớn chảy qua đâu?

                  Nhị Rỗ :

                  - Có gì lạ đâu, núi tuyết Mai Lý từ đây chảy về phía Tây, hình thế giống như con rồng nước ngóc đầu, mà ngọn núi vô danh này lại chắn ngang đường tiến về phía Đông của mạch núi, nếu xuyên qua được ngọn núi này khí thế hùng vĩ của nó làm sao có thể trải dài ngàn dặm xuyên suốt Đông Tây?

                  Đại đội cảnh vệ số Hai của Vương Uy xuống đến thung lũng, quả nhiên như lời Nhị Rỗ, ngọn thác lớn từ lưng chừng núi đổ xuống, chảy vào con sông lớn dưới thung lũng xuôi về Đông. Ngọn thác đổ xuống mạnh mẽ, cảm giác như cả thung lũng rung chuyển, khiến bốn năm chục con người bờ kinh hãi vô cùng, tai ong ong hết cả. Bỗng Nhị Rỗ kêu lên:

                  - Chỉ huy nhìn xem, ở kia có khói.

                  Sâu bên trong thung lũng bỗng có ánh lửa, khói đen bốc lên mù mịt. Vì quá xa, thấy , hình như có nhiều người hát ca nhảy múa quanh đống lửa.

                  Vưong Uy giật thót mình bảo Nhị Rỗ:

                  - Quái đản , mấy trăm dặm quanh đây có bóng người, bỗng dưng ở đâu ra lắm thế?

                  Nhị Rỗ cũng ngẩn cả người ra, hơn chục năm nay họ Nam về Bắc, tính mạng treo nơi đầu gươm mũi giáo, bất cứ việc kỳ quái gì cũng gặp, nhưng cảnh tượng này mới thấy lần đầu, gã ta cũng lấy làm kinh hãi. Bốn năm chục binh sĩ chưa ai thấy cảnh này bao giờ, ai nấy đều xôn xao là gặp phải ma, đúng là chuyện chẳng lành.

                  Vưong Uy từ ngày vào lính đánh nhau, chưa biết sợ là gì, lúc này thấy binh lính dưới quyền ngần ngại muốn tiếp, ta liền lớn tiếng:

                  - Tiến lên, gặp thứ gì cũng có súng của ông đây rồi!

                  rồi, Vương Uy xăm xăm trước, Nhị Rỗ vội theo sau. Chỉ huy tiến, lính tráng đâu dám trái lệnh, tất cả ào ạt tiến lên. được quãng xa, họ phát trong thung lũng lớn lại có thung lũng , bên vách núi có hang động lớn bằng chiếc xe quân , đến đây tầm mắt bị chặn lại, thể trông thấy ánh lửa ởbên trong, nhưng khói trong hốc kia vẫn bay ra, cay chảy cả nước mắt. Lẫn trong khói có mùi hôi thối. Vương Uy ở trong quân mười mấy năm ngửi thấy mùi này lập tức cau mày, là mùi thi thể cháy khét. Đánh nhau trong mùa nóng bức, lúc thu dọn chiến trường, số xác chết được kéo chôn, những xác thể chôn đành phải đốt để đề phòng phát sinh dịch bệnh, mùi xác cháy thường rất khó chịu, hễ ngửi thấy phải đến mấy ngày sau nuốt nổi miếng ăn.

                  Nhị Rỗ hỏi:

                  - Thưa chỉ huy, có nên đốt lửa báo cho đại đội Ba biết mà vào đây ?

                  Vương Uy phẩy tay, :

                  - cần. Chuyện vặt này mà phải đốt lửa báo tin, bọn họ cười cho. gọi mười người nữa theo tôi, những người khác canh giữ cửa hang, nếu có người chạy ra bắt sống được bắt sống, nếu bắt sống được phải giữ lấy xác, nghe cả chưa?

                  Uy tín của Vương Uy trong quân đội phải ngày ngày hai mà tạo dựng được, vừa ra lệnh, lính tráng liền đồng thanh đáp lại: "!"

                  Cả nhóm chui vào thung lũng phía trong, chừng mấy trăm mét, gian mỗi lúc rộng hơn, thung lũng bên trong có hình bầu dục, trong đó lại có bốn căn nhà gỗ, cửa khóa, Vương Uy vừa đẩy, cửa liền mở, cánh cửa bụi bặm bám thành lớp dày.

                  Nhị Rỗ và người nữa vào nhà xem xét, bên trong có kê chiếc phản gỗ, vách treo đầy cung nỏ, dụng cụ săn, áo lông và da thú, nhưng tất cả đều phủ đầy bụi bặm, chứng tỏ lâu rồi có người đến đây.

                  Vương Uy cho người kiểm tra cả ba căn nhà gỗ kia, phát đồ dùng sinh hoạt thường ngày trong nhà còn nguyên vẹn, nhưng tất cả đều phủ lớp bụi dày, giống như căn nhà thứ nhất. Vương Uy :

                  - Nhị Rỗ, vừa rồi chúng ta thấy có người nhảy múa quanh đống lửa, nhưng tại sao ở đây lại có vẻ như rất lâu có người sống rồi?

                  Nhị Rỗ gật đầu:

                  - Đúng là lạ , cứ theo bí thuật phong thủy tổ tiên của tôi truyền lại đất này là đất dưỡng thi, người sống thể ở được, nhưng nơi này lại có dấu vết con người sinh sống. Chúng ta đứng ở thác nước nhìn vào trong thung lũng này ràng thấy có rất nhiều người, thế mà vào đây lại phát người sống ở đây mất tích từ rất lâu rồi.

                  Lúc ấy, người lính ra phía sau kiểm tra chạy vào báo cáo ở đấy có bệ đá rất lớn, hình như ánh lửa phát ra từ đấy.

                  Vương Uy được tin lập tức dẫn những người khác theo người lính kia vòng ra sau rừng cây, ở đó có khe núi, phía hai vách khe liền nhau, bên dưới chỉ hở ra khe vừa người chui lọt. Người lính dẫn đường chui vào trước, Vương Uy và Nhị Rỗ theo sau, khoảng đất trống phía sau khe núi tương đối rộng rãi, dưới đất có bậc đá độ dốc khá cao, nếu leo lên có thể lên đến lưng chừng núi, đó có bệ đá rất lớn.

                  Lúc này bệ đá đèn đuốc sáng rực, khói đen bốc lên mù mịt khiến mọi người nôn ọe ra cả nước xanh nước vàng.

                  Nhị Rỗ "ọe" tiếng, chửi đổng:

                  - Đồ chó má, tám phần là trò tà thuật gì rồi, nửa đêm đốt xác chết, mẹ kiếp, đến là buồn nôn!

                  Vương Uy đưa tay ra hiệu, mười hai người liền chia thành sáu nhóm, mỗi nhóm hai người, năm nhóm leo lên, nhóm còn lại ở dưới canh chừng, đề phòng bất trắc. Hai người phối hợp với nhau, người ở bên trái bậc đá, người kia ở bên phải bậc đá liền kề sau, nhóm tiếp theo lại ở bậc đá liền kề sau nữa, tuần tự mà leo, phát tình huống gì lập tức nổ súng.

                  Mười con người thận trọng leo mãi lên tít cao, bệ đá nơi lưng chừng núi nom hệt cái miệng của bóng đêm há to, đợi họ nối đuôi nhau chui vào.

                  Hai người leo lên đầu tiên với nhau:

                  - này có người.

                  Nghe được câu ấy, Nhị Rỗ buột miệng "ơ!" tiếng, vừa rồi có ánh lửa, lại có kẻ đốt xác chết, bệ đá lý nào lại có người. Vương Uy khẽ đẩy Nhị Rỗ, ý bảo gã đừng có ngẩn ra đó, mau mau leo lên.

                  Vương Uy và Nhị Rỗ lần lượt lên đến nơi, vừa đưa mắt nhìn liền kinh hoàng phát ra bệ đá rộng thênh thang này có ai hết. Cả hai toát mồ hôi lạnh, những người khác , nhưng hai người lên đầu tiên biến đâu rồi?

                  Vương Uy nhìn quanh, thấy bệ đá lưng chừng núi này khá rộng, đủ chỗ cho đơn vị bộ đội mấy nghìn người xếp hàng. Ở giữa lại có bệ đá diện tích chừng mươi mét vuông, trông như cỗ quan tài, xung quanh có bốn mươi chín chậu lửa lớn kê trụ đá, bên trong đốt củi khô.

                  Hai người đưa mắt nhìn nhau, nhóm thứ ba đằng sau đứng dưới thềm đá hỏi tình hình thế nào, Vương Uy bèn lệnh cho họ cứ đợi ở đấy đừng lên nữa, mười lăm phút sau nếu ta và Nhị Rỗ có động tĩnh gì, họ phải lập tức tụt xuống đất, rút khỏi thung lũng.

                  Người của nhóm thứ ba thấy những lời của Vương Uy rất lạ lùng, nhưng chỉ huy có lệnh, họ cũng dám hỏi thêm gì.

                  Vương Uy và Nhị Rỗ mỗi người mỗi bên, nắm chắc tay súng tiến về phía bệ đá , xung quanh yên tĩnh đến rợn người, chỉ có vài tiếng nổ củi khô lép bép trong chậu lửa. Dưới ánh lửa, bóng núi non xung quanh lên hết sức rùng rợn, như sắp xông tới vồ người. Vương Uy vốn rất táo bạo, ngoài chiến trường giết người như thái rau, nhưng lúc này cầm súng về phía bệ đá , cũng khỏi rờn rợn, cảm thấy hình như đó có thứ gì nằm, trông lờ mờ hình dáng con người. định hỏi Nhị Rỗ, nhưng mở miệng mấy lần vẫn sao cất lời nổi.

                  Vương Uy càng nghĩ càng hoang mang, cảm thấy việc này quả là bình thường. Đúng lúc ấy, Nhị Rỗ bỗng sấn lên chạy vụt đến trước bệ đá , nổ súng đoàng tiếng.

                  Vương Uy giật nảy mình, tiếng súng của Nhị Rỗ lan trong thung lũng, ngón tay Vương Uy đặt cò súng hơi ấn xuống, chỉ chờ cho cái vật nằm đài kia bật dậy, ta nổ tiếp phát nữa.

                  Đột nhiên, Nhị Rỗ cười phá lên, :

                  - Mẹ kiếp, là người bằng đất nung!

                  Vương Uy thở phào chạy đến xem, vừa trông thấy nó, hít vào hơi khí lạnh, đấy phải người mà ràng là chim, hay có thể là người chim.

                  Chỉ thấy tượng người bằng đất nung nằm giữa bệ đá, dáng cao to hơn người bình thường, có tay có chân, nhưng phải mặt người, mà là mặt con chim. Phần giữa gương mặt gồ lên, mắt và miệng giống hệt chim, người quấn áo lông vũ bảy màu.

                  Vương Uy vói Nhị Rỗ:

                  - Gương mặt này giống mặt chim ưng nhỉ?

                  Nhị Rỗ gật đầu:

                  - Là kền kền, kền kền mà người Tạng dùng để cử hành thiên táng ấy.

                  Vương Uy nhớ ra ngay, liền :

                  - Chẳng lẽ đây là đài thiên táng ư?

                  - Nhìn quang cảnh chắc là sai, nhưng đài thiên táng này lạ lắm, sao lại đặt tượng người mặt chim ở đây nhỉ? Họ muốn người thiên táng làm thế nào đây?

                  Người Tạng đa phần tin theo Phật giáo Tạng truyền, mà tư tưởng nòng cốt chính là thuyết luân hồi. Nghi thức thiên táng của người Tạng có hàm ý để linh hồn thoát ly khỏi túi da thối là thân xác, bay lên thiên đường hoặc rơi xuống địa ngục, tiếp tục luân hồi. Trước đây Vương Uy cũng nhìn thấy nhiều đài thiên táng, chung tất cả đều được đặt núi, gần chùa chiền, nếu cần cử hành thiên táng, cũng tiện mời ngay Phật sống hoặc lạt ma trong chùa tụng kinh siêu độ. Đây là lần đầu Uy thấy đài thiên táng dựng giữa lưng chừng núi.

                  Vương Uy chăm chú nhìn mặt người chim hồi lâu, luôn cảm thấy người chim chằm chằm nhìn mình, ánh mắt của nó rất sắc, hồ như giấu điều gì đó khiến người ta sao hiểu được, ngấm ngầm hoảng sợ.

                  Nhị Rỗ vòng quanh bệ đá rồi bất ngờ dồn sức đẩy tượng người mặt chim nằm đó. Bức tượng rất nặng, Nhị Rỗ đẩy mãi vẫn nhúc nhích.

                  - Nhị Rỗ, điên đấy à, đừng làm bậy. - Vương Uy .

                  Nhị Rỗ vẫn ra sức đẩy:

                  - Thưa chỉ huy, chỉ huy đến đây giúp tay , dưới pho tượng này có vấn đề.

                  Nghe Nhị Rỗ vậy, Vương Uy biết gã phát ra chuyện gì đó, liền đến giúp. Hai người ra sức đẩy mà bức tượng chỉ hơi nhúc nhích. Vương Uy liền quay xuống dưới gọi to:

                  - Các người còn ngây ra đó làm gì, mau lên đây giúp tay.

                  Nghe lệnh chỉ huy, cả tám người bên dưới vội vã leo lên, tất cả chung tay cùng đẩy pho tượng đất nung sang bên.

                  Vừa nhìn xuống dưới bệ đá, cả mấy người đều giật nảy mình. Nhị Rỗ kêu to:

                  - Cha mẹ ơi, sao cái bệ đá này lại trong mờ?

                  Chính giữa bệ đá , vốn bị pho tượng che khuất, có khảm khối đá trong mờ, hơn bức tượng đôi chút. Giữa khối đá thấp thoáng bóng đen, Vương Uy nhìn mãi biết là thứ gì, bèn quay sang hỏi Nhị Rỗ.

                  Nhị Rỗ nhìn ngó hồi, liền bảo mọi người chụm đuốc lại, chín bó đuốc soi sáng rực phía bệ đá, bấy giờ mọi người mới nhìn .

                  Bóng đen bên trong bệ đá kia là người, hai con người nằm co, ôm nhau theo tư thế quái gở, nhìn rất kỳ dị.

                  Hơn nữa còn có thể khẳng định đây là hai con ngườì , bằng xương bằng thịt. Vương Uy phải đổi mấy góc độ để nhìn cho kỹ, bởi khối đá trong mờ này rất khó nhìn xuyên qua, nếu tìm được góc độ thích hợp chỉ thấy ở giữa là khối đùng đục, nhưng nếu nhìn từ góc độ phù hợp, có thể thấy rất . Đột nhiên mắt Vương Uy máy cái, lòng chợt lạnh buốt. Từ góc độ của mình, có thể nhìn quần áo người bọn họ, hai người này mặc quân phục lính Tứ Xuyên.

                  Bệ đá này gắn chặt với mặt đất, để hở mảy may, trông như thể nối liền với nền đất vậy. Càng kỳ lạ hơn nữa là, khối đá trong mờ cũng dính liền với bệ đá, hề có dấu vết hàn gắn, như được sinh ra từ bệ đá vậy.

                  Mọi người căng mắt ra nhìn nhìn lại mãi vẫn sao hiểu nổi. Bọn họ tìm suốt mấy tiếng đồng hồ vẫn thấy khe kẽ nào bệ đá, vậy mà sao hai người kia vừa lên đây chừng năm phút chui tọt vào đó được?

                  Hai người lính mặc quân phục Tứ Xuyên nằm co, tư thế hệt như bào thai nằm trong bụng mẹ, gương mặt bọn họ hết sức mơ hồ, sao nhìn được.

                  Nhị Rỗ vòng quanh bệ đá, bảo Vương Uy:

                  - Chỉ huy có để ý , mấy chậu lửa bệ đá này bụi phủ dày đến cả ngón tay rồi, củi trong chậu cũng phủ đầy mạng nhện, hình như chậu lửa này phải người đốt đâu.

                  Vưong Uy rối trí về việc hai ngưòi lính chui vào trong bệ đá kia, nghe Nhị Rỗ vậy, lòng càng nặng nề hơn, bèn hỏi:

                  - Lửa này phải người đốt, lẽ nào là ma đốt à?

                  Nhị Rỗ vẫy tay gọi sáu người ở phía sau đến, bảo họ xuống thung lũng lấy lên ít đất, bệ đá này được đục đẽo rất bằng phẳng, có lấy mẩu gạch ngói vụn, mấy người đều làm theo lời Nhị Rỗ, mỗi người lấy quân trang bọc đất bưng lên. Nhị Rỗ lại bảo họ dùng đất dập tắt ngọn lửa trong chậu kia. Lửa tắt, mọi người mới trông thấy xung quanh bệ đá có ánh xanh lập lòe.

                  Vương Uy hỏi:

                  - Ánh lân tinh này sao lại bay lơ lửng giữa trung?

                  Nhị Rỗ đáp:

                  - Bệ đá này ít ra cũng phải cả năm trời người lai vãng rồi, nhưng chậu lửa kia vẫn tự cháy được, là vì lân tinh trong khí rơi vào chậu lửa, góp nhặt từng ngày, tới khi tích tụ được lượng nhất định, lại gặp lúc thời tiết chuyển sang nóng nực, bén vào cành khô, bốc cháy thành ngọn lửa. Nhưng lân tinh trong xương người lơ lửng giữa trung thế này, chắc chắn dưới đất có bảo bối nào tác quái đây.

                  Góc bệ đá kề sát vào núi dày đặc ánh lân tinh lơ lửng, kết thành khối lớn bằng cơ thể người, trông vô cùng kinh hãi. Nhị Rỗ đến trước đám lân tinh, cầm lấy đèn pin từ tay người lính, soi xuống nền đất, phát chỗ tiếp giáp giữa bệ đá và vách núi vốn phải liền lạc khe hở, mà có khe nứt dài chừng ba mươi phân, nhìn vào trong tối om om trông thấy đáy, bèn thưa với Vương Uy:

                  - Chỉ huy, để tôi xuống dưới xem thử.

                  Vương Uy quát:

                  - Đồ con rùa, lúc căng thẳng này đừng gây thêm rắc rối cho ông!

                  Nhị Rỗ khăng khăng :

                  - Nơi này rất kỳ lạ, nếu phá giải được cục diện này, e rằng mọi người chẳng ai sống nổi đâu. Chỉ huy tin tôi , trong những thời điểm then chốt, Nhị Rỗ tôi bao giờ làm hỏng việc đâu, tôi nhất định phải xuống cái khe này.

                  Vương Uy chủ yếu chỉ lo Nhị Rỗ làm ẩu bị mất mạng, nhưng thấy gã cứ khăng khăng đòi xuống dưới, cũng bó tay. Nhị Rỗ quấn mấy vòng dây thừng quanh người, nhờ người giữ, rồi ngậm đèn pin vào miệng, từ từ tụt xuống cái khe kia.

    4. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      Chương 2: Cây đá





                  Khe đá rất hẹp, Nhị Rỗ phải nghiêng người lách vào, bị kẹt mấy lần, chật vật mãi mới xuống được tận đáy.

                  Vương Uy thấy sợi dây thừng chững lại, bèn gọi vọng vào khe hỏi xem có chuyện gì. Nhị Rỗ ở dưới gào to, bảo thấy cửa hang, gã muốn vào xem.

                  Đèn pin của Nhị Rỗ sắp hết pin, có thể tắt bất cứ lúc nào, Vương Uy sợ Nhị Rỗ ở dưới đó xảy ra chuyện, đành bảo lính buộc mình vào dây thừng thả xuống khe đá.

                  Vương Uy xuống đến nơi đèn pin của Nhị Rỗ cũng tắt ngấm, rất may Vương Uy có chuẩn bị, đem theo đuốc. Lúc tụt xuống khe đá tiện cầm đuốc, cẩn thận rất dễ làm cháy áo quần mình. Vương Uy xuống đến nơi liền gọi Nhị Rỗ, gọi mấy tiếng nghe Nhị Rỗ trả lời. Vương Uy sợ hãi vội đốt đuốc lên, thấy trước mặt là cửa hang cao chừng nửa thân người.

                  Vương Uy thầm chửi Nhị Rỗ chẳng giữ lời, bảo chờ bên dưới vậy mà nháy mắt thấy đâu. Xong việc này nhất định phải xạc cho gã trận, cái tội vô kỷ luật, nghe lệnh chỉ huy.

                  Nơi Vương Uy đứng là vách đá chênh vênh, rơi xuống coi như thịt nát xương tan. Nhị Rỗ quý mạng như vàng, nhất định nhảy xuống dưới, hẳn chui vào cái hang kia rồi.

                  Vương Uy chẳng kịp suy nghĩ, chỉ sợ trong hang Nhị Rỗ có ánh sáng, gặp phải rắn rết hay thú dữ coi như xong đời, đành chui đầu vào hang.

                  Trong hang nồng nặc mùi hôi thối, có lẽ là xác con vật nào đó thối rữa. Cửa hang rất hẹp, nhưng bên trong cũng đủ để đứng thẳng người.

                  Cái hang là đường hầm dẫn xuống dưới, xung quanh yên tĩnh tới mức Vương Uy nghe mồn tiếng chân mình, ngọn đuốc chỉ soi sáng được trong phạm vi mấy mét, bóng tối rợn người vây chặt lấy .

                  Vương Uy được quãng, thoáng nghe thấy trong hang sâu vang lên những tiếng động gì đó rất mơ hồ, . Vương Uy cầm chắc tay súng, thận trọng về phía phát ra tiếng động kia. Lại tiếp đoạn nữa, thanh to hơn rất nhiều, dường như là tiếng động vật rau ráu nhai gì đó. Trong bóng tối mịt mùng nghe thấy thanh ấy ai cũng phải nổi da gà. Nghe thanh này, hình như là thú dữ ăn, có cả tiếng xé thịt, nhưng điều khiến người ta lấy làm lạ là, cái hang chật hẹp thế này lấy đâu ra thú dữ?

                  Nhị Rỗ chui vào hang rồi thấy tăm hơi đâu nữa, lý ra hai người vào cách nhau lâu, hang động này lại chỉ thẳng, có nhánh rẽ, nhất định phải để lại dấu vết gì chứ. Vương Uy càng nghĩ càng cho rằng Nhị Rỗ gặp chuyện, chẳng nhẽ trong hang này có thú dữ, tiếng nhai kia là tiếng thú dữ xé thịt gã hay sao?

                  Vương Uy suy nghĩ vẩn vơ bỗng luồng khí nóng từ phía trước ập tới, tiếng nhai rau ráu như ở sát bên tai. Vương Uy giật nảy mình, toát mồ hôi lạnh, vội lùi lại, giơ súng lên bắn liền mấy phát, nhưng đạn bay cả vào trung.

                  Bỗng tiếng nhai dễ sợ kia im bặt.

                  Vương Uy cũng bình tĩnh lại, và Nhị Rỗ là bạn từ hồi học ở đại học Yên Kinh, lại là em cùng tòng quân hơn chục năm nay. Có câu sống phải thấy người, chết phải thấy xác, cứ coi như Nhị Rỗ bị thú dữ ăn thịt rồi, cũng phải thu nắm xương tàn của gã để khỏi phụ tình em sống chết có nhau.

                  Nghĩ đến đây Vương Uy hạ quyết tâm, tiếp tục phía trước, bó đuốc trong tay sắp cháy hết, ánh đuốc loang loáng vài lần rồi phụt tắt. Trong khoảnh khắc bóng tối bao trùm, Vưong Uy chợt thấy bóng người tiến tới trước mặt mình.

                  Vương Uy giật nảy mình, theo phản xạ đưa tay đẩy bóng đen ra. Vừa chạm vào, cảm thấy tay dinh dính dịch thể, biết là thứ gì. Vưong Uy vội đánh bùi nhùi, châm bó đuốc khác. Trong ánh đuốc chập chờn thấy gương mặt tái nhợt, dán sát xuống mặt đất, loang lổ máu me. Nhưng có thể khẳng định đó phải là mặt Nhị Rỗ, Vương Uy cũng thở phào nhõm.

                  Chợt lại nghĩ, chuyện này cũng bất thường, khe đá và Nhị Rỗ cùng tụt xuống, lẽ nào trong hang động này còn có lối vào khác? Hơn nữa, trong khoảnh khắc ngọn đuốc tắt phụt, ràng trông thấy bóng người, vậy mà cuối cùng chỉ có cái đầu, chuyện này cũng ly kỳ khó hiểu.

                  Vương Uy đá văng cái mặt nằm dưới đất, vừa tiếp vừa thầm chửi rủa khắp lượt tổ tông nhà Nhị Rỗ, gã này nhiễu , tự dưng tự lành đòi chui vào khe làm quái gì cơ chứ?

                  Lối trước mặt rộng hơn ra, nhưng dọc đường thấy chút dấu tích nào chứng tỏ từng có những sinh vật khác đặt chân tới. Con đường phía trước rẽ ngoặt khúc, tại nhánh rẽ có ô cửa đá cực lớn hé mở, như có người vừa tiến vào.

                  Vương Uy áp tai vào cửa, nghe ngóng động tĩnh bên trong, hồi lâu chẳng nghe thấy gì, đành khom người chui vào. Phạm vi chiếu sáng của ngọn đuốc rất , chỉ được mấy mét, Vương Uy sao xác định nổi tình hình trong hang.

                  giương đuốc tiến vào giữa hang, bỗng phát cách đấy mấy mét có người nằm sấp. Người ấy co ro, tư thế giống hệt người nằm trong khối đá trong mờ kia, tức là khoanh tròn như thai nhi trong bụng mẹ. Trống ngực Vương Uy đập thình thịch, ra hai lính của mình chui vào giữa bệ đá kia phải ngẫu nhiên, mà là kết quả tất yếu và tuân theo quy luật nào đó, rất có thể họ trúng tà thuật.

                  Vương Uy lại gần xem, thấy người kia nằm khoanh tròn bệ đá vuông vắn, chẳng hề động cựa, xem chừng là xác chết. mình kẻ đó vận bộ quân phục cũ, Vương Uy nhớ, mấy năm nay quân đội Tứ Xuyên mặc quân phục loại này nữa, là kỳ lạ. bước lên bệ đá, phát đây là cái xác đầu, liền nghĩ ngay đến cái đầu ở ngoài cửa, lẽ nào cái đầu ấy là của cái xác này?

                  Vương Uy lật cái xác lên, kinh hoàng nhận ra bên dưới là phiến đá trong mờ, giống như bệ đá lưng chừng núi. Giữa lớp đá trong mờ cũng thấp thoáng bóng đen, nhưng trông là thứ gì.

                  giơ đuốc soi khắp hang, hang này rất lớn, rộng ít nhất mấy chục mét, nhưng bên trong trừ bệ đá kỳ dị này ra còn bất cứ thứ gì khác. lại gần bệ đá nhìn kỹ, nhận ra nó rất lớn, lớn hơn nhiều so với bệ đá lưng chừng núi. Càng ngạc nhiên hơn là, bên bệ đá chừng hai mét lại có bệ đá khác giống hệt gắn vào trần hang, hai cái đối xứng nhau.

                  Chuyện này quá lạ lùng. Như vậy lẽ nào bệ đá lưng chừng núi nối liền với bệ đá trong hang? Bệ đá trong mờ kỳ lạ này xuyên qua mấy chục mét núi, hay đặt giả thiết táo bạo hơn là bệ đá này còn ăn sâu hơn nữa vào lòng núi, phần bệ đá đỉnh hang vốn liền lạc với phần bệ đá dưới đất này, về sau bị người khác dùng cách gì đó đẽo mất khúc ở giữa.

                  Nhưng quân phục người kẻ này giống như quân phục của đám quân phiệt địa phương đầu thời Dân Quốc vậy, có lẽ ta cũng là người từ cách đây mười năm hai mươi năm trước rồi. Vương Uy lục soát khắp người cái xác kia, tìm thấy tập văn bản. Lòng hiếu kỳ nổi lên, mặc kệ mình ở trong sơn động dưới đất, vội mở tập văn bản ra xem.

                  Xem xong lượt, Vương Uy toát hết mồ hôi lạnh vì kinh hãi. ra kiện đề cập đến trong văn bản liên quan tới truyền thuyết ly kỳ từ hai mươi năm trước ở Tứ Xuyên.

                  Cái xác đầu này là viên thư ký của Mã Văn Ninh, tên quân phiệt lớn vùng Tạng A Bối từ hơn hai mươi năm trước, chính xác là, thư ký đội đào trộm mộ của Mã Văn Ninh, đồng thời cũng do chỉ đạo trực tiếp.

                  Vương Uy đánh Đông dẹp Bắc, hầu khắp tỉnh Tứ Xuyên, biết ít chuyện về tên đại quân phiệt Mã Văn Ninh khét tiếng thời. Nhất là chuyện đào được cỗ quan tài đá, vướng phải lời nguyền độc địa, những toàn quân bị diệt mà bản thân cũng chết thảm trong nhà. Câu chuyện ấy Vương Uy nghe biết bao nhiêu lần.

                  Theo văn bản trong đội đào mộ thiếu thầy phong thủy cao tay, bọn họ dựa bản đồ kho báu của vị lạt ma để phán đoán vị trí, tìm được ngọn núi lớn gần vùng Xương Đô, ở đó có đài thiên táng thần bí. Viên thư ký từ lâu nghe Mã Văn Ninh kể về giấc mơ kỳ quái của mình, thấy cái đài thiên táng kia giống hệt trong giấc mơ mà Mã Văn Ninh miêu tả, ông ta vô cùng kinh hãi, vội cho người hỏa tốc về báo lại với Mã Văn Ninh.

                  Đội đào mộ của Mã Văn Ninh lại phát phía dưới khe đá của đài thiên táng có hang động bí mật, trong hang mọc thứ cây kỳ lạ, là cây đá. Giữa thân cây là khối trong mờ hỗn độn, thông thẳng lên bệ đá ở lưng chừng núi, đài thiên táng đó bắt nguồn từ chính cây đá này. Càng xuống dưới, thân cây càng to ra, chẳng ai biết nó bắt rễ từ đâu. Hơn nữa, đoạn thân cây từ nóc hang xuống mặt đất lại bị chặt ngang. sao tưởng tượng nổi, thân cây to nhường ấy, phải dùng cách nào mới có thể xén đoạn ở giữa bằng bặn như thế?

                  Mã Văn Ninh ra lệnh cho đội đào mộ mở lối trong hang, xuyên thẳng qua lòng núi, đưa đoạn của cây đá kia về. Đội đào mộ phải mất mấy tháng trời mới chuyển được đoạn cây đá đến thung lũng, trong khoảng thời gian đó, trong đội liên tiếp xảy ra chuyện, có rất nhiều người vô cớ mất tích, cấp ban lệnh xuống, cầu các chỉ huy sát sao theo dõi thuộc cấp của mình, hễ có vấn đề gì phải báo cáo ngay. Nhưng sách lược ấy vẫn cải thiện được tình hình, số người mất tích hằng ngày chẳng giảm được bao nhiêu, chỉ cần chỉ huy sơ ý, lập tức trong đám thuộc cấp có người mất tích.

                  Chuyện mỗi ngày rầy rà, chỉ mấy tháng, đội đào trộm mộ mất hơn trăm người. Trong thời gian đó, đám lính trộm mộ vốn chưa hề biết thế nào là kính sợ quỷ thần, đều thấp thỏm lo âu, ngủ yên giấc.

                  Khúc cây đá được đưa ra ngoài, mọi người mới phát nó rỗng ruột, chính xác đó là cỗ quan tài. Các cao thủ đào mồ quật mả trong đội xúm lại nhưng chẳng ai phát ra cỗ quan tài đá này có công dụng gì đặc biệt cả, Mã Văn Ninh nổi giận, liền bắt lính tráng đưa quan tài về huyện A Bối để định đoạt.

                  Ở tư dinh của mình, Mã Văn Ninh dùng thuốc nổ để mở quan tài đá, chỉ trông thấy thi thể vị lạt ma bị kền kền xé thành nhiều mảnh mà còn thấy dưới đáy quan tài có số văn tự kỳ lạ và bản đồ, nghe những chữ này rất giống với chữ tấm bản đồ của vị lạt ma đưa đến. Vị lạt ma từng chỉ dẫn cho Mã Văn Ninh, nên cũng đọc hiểu được đại khái ý nghĩa của nó.

                  Sau khi quan tài được mở ra, Mã Văn Ninh suốt đêm sao ngủ được, hôm sau sai lính đem quan tài trả về núi. Hôm quan tài được đưa , mời hơn trăm vị Phật sống và lạt ma ở mấy huyện xung quanh đến đọc kinh siêu độ, cảnh tượng rất huyên náo.

                  Nhưng ai biết rằng, cái quan tài kia hề được trả về chỗ cũ mà được đưa nơi khác, chính là hang báu vật thần bí ghi tấm bản đồ cất giấu trong quan tài, nghe chỉ cần tìm thấy nơi ấy giải được lời nguyền thể sống quá mười ngày của Mã Văn Ninh và đội trộm mộ.

                  Những thư từ này đều là mật hàm trao đổi giữa Mã Văn Ninh và viên thư ký, cũng là trong những kênh quan trọng để Mã Văn Ninh kiểm soát đội trộm mộ. thực tế, tổng chỉ huy trực tiếp của đội đào mộ là viên thư ký, ông ta tiếp nhận mệnh lệnh của Mã Văn Ninh, được phép của Mã Văn Ninh, có thể sai bảo đội đào trộm mộ làm mọi việc.

                  Viên thư ký cùng đội đào trộm mộ vừa ra khỏi thành nhận được lệnh của Mã Văn Ninh, cầu ông ta dẫn tiểu đội theo đường cũ quay về vùng núi Xương Đô, cứ ở hang núi chờ tin của Mã Văn Ninh. Mã Văn Ninh từ đó bặt vô tín, viên thư ký biết Mã Văn Ninh bảo ông ta ở đó chờ tin gì, nhưng những binh sĩ đào trộm mộ chờ ở hang núi cứ chết dần chết mòn cách hết sức kỳ quái, khiến viên thư ký càng ngày càng lo lắng. Cho đến khi chỉ còn lại mình, ông ta mới phát ra đằng sau chuyện này chứa mưu to lớn.

                  Thư viết đến đây dừng lại, mấy trang sau đều để trắng. Vương Uy đọc đến đoạn quan trọng ngưng, lòng lẫn lộn muôn mối tơ vò, lật lật lại mấy trang giấy trắng vài lần nhưng chẳng tìm thấy câu nào nữa. Đột nhiên, Vương Uy ngước lên, trông thấy bóng đen lù lù bám vách hang tự lúc nào, giật thót cả mình, chẳng biết cái bóng đó là gì, nhưng nó bám ở đấy nhìn rất khủng bố tinh thần, dưới đuốc chập chờn trông như cử động. Vương Uy thấy bóng đen kia càng lúc càng lay động hơn, thình lình, ngọn đuốc trong tay chập chờn mấy lần rồi tắt ngấm, luồng hơi thối nóng hầm hập đột ngột từ sau lưng thốc tới.

                  Vương Uy sợ đứng tim, trong tình cảnh này ai bảo sợ chỉ là khoác, vắt giò chạy về phía cửa đá, nhưng mới chạy được vài bước chân cẳng mềm nhũn ra. Những lời viên thư ký viết trong thư cứ lởn vởn trong óc, tại sao những người lính ở trong hang núi cứ chết dần? Phải chăng họ cũng chui cả vào trong bệ đá kín mít kia như hai người lính theo tới đây? Hay là có liên quan đến cái bóng đen bám vách hang?

                  Vương Uy chạy đến nỗi thở ra hơi, ráng chạm vào cánh cửa đá kia, nhưng đột nhiên hai chân bỗng chới với , dường như bị thứ gì đó xách gáy lên. Vương Uy ra sức vùng vẫy, nhưng có chỗ nào để bám víu, lòng run lên vì sợ hãi, chẳng biết thứ gì ở sau lưng mình?

                  Đương thắc mắc hiểu sao thứ ở sau lưng treo mình lên trung rồi chẳng thấy động tĩnh gì, Vương Uy bỗng thấy toàn thân hẫng, rơi bịch từ độ cao mấy mét xuống, xương cốt như muốn gãy vụn cả ra. chống tay gượng dậy thứ gì đó như cái trống đá lập tức đèn nghiến xuống, khiến nằm xụi lơ dưới đất, nảy đom đóm mắt.

                  Vương Uy giãy giụa mặt đất, sức nặng lưng mỗi lúc tăng, đột nhiên ngước đầu lên, trông thấy phía sau cửa đá sáng rực ánh đuốc. Thoáng cái ngọn lửa sau cửa đá băng qua cánh cửa mở hé, theo sau là người động tác cứng đờ, đáng sợ hơn là, người đó có bộ mặt chim, dính đầy máu.

                  chịu nổi sức nặng lưng, Vương Uy gục xuống đất ngất lịm.

    5. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961



                  Chương 3: Vương triều Lạp Cách Nhật





                  Vương Uy mơ hồ tỉnh lại, thấy mình bị khiêng vào trong rừng, hai kẻ khiêng cáng phải còng lưng tôm, vụng về luồn lách giữa rừng cây dày đặc.

                  thấy ê ẩm khắp người, hét lên lệnh cho hai người khiêng cáng dừng lại, hỏi họ định đâu?

                  trong hai người khiêng cáng mắc tật ngọng, ú ú ớ ớ hồi vẫn sao đưọc, kẻ còn lại gầy quắt, ngoẹo đầu lắp bắp giải thích rằng người của quân đoàn 21 đuổi riết, các em hy sinh khá nhiều, Nhị Rỗ dẫn theo hơn chục người chặn hậu, thấy hai người bọn họ nhanh nhẹn bèn cử họ khiêng chỉ huy chạy trốn.

                  Biết Nhị Rỗ còn sống, Vương Uy rất mừng, sau đó lại nổi nóng, thầm chửi Nhị Rỗ chỉ giỏi gây chuyện, mình tụt xuống khe núi rồi chẳng chẳng rằng biến mất, chừng nào gặp, phải xạc cho gã trận.

                  Nghe tiếng đại bác nổ rền ở phía sau, biết kẻ địch sắp đuổi tới nơi, hai người khiêng cáng lại khiêng Vương Uy lên, chạy tiếp. Lẩn lút trong rừng hơn hai tiếng đồng hồ, nghe tiếng súng xa dần, hai người mới đặt Vương Uy xuống nghỉ, còn họ ngồi dưới gốc cây thở dốc.

                  Hai cựu binh này ở trong đơn vị của Vương Uy phải chỉ hai năm, người ngọng dạo mới vào lính là thanh niên mồm mép tép nhẩy, lần bọn họ theo quân chủ lực vào vùng Tạng diệt thổ phỉ, hồi đó là mùa đông, càng tiến về phía Tây đất Tạng càng rét, nước đóng băng hết, đám thổ phỉ bị đánh tả tơi chạy hết vào núi trốn. Vùng núi này cao hơn mặt biển mấy nghìn mét, hễ ngẩng đầu lên là hoa cả mắt, đâu đâu cũng thấy núi tuyết sừng sững trắng xóa, Ngọng bị kẹt ở đó hơn chục ngày, lưỡi đông cứng lại, năng khó khăn. Người lính ngoẹo đầu kia bị tật bẩm sinh, nhà nghèo đặt tên, mọi người vẫn gọi ta là Ngoẹo, gọi mãi thành tên, đến khi vào lính cũng gọi là Ngoẹo.

                  Nhị Rỗ vốn cẩn thận chu đáo, biết rằng những cựu binh có thể tin tưởng hoàn toàn cũng chỉ có hai người này, bèn cử bọn họ khiêng Vương Uy chạy trốn.

                  Vương Uy thấy Ngoẹo bớt mệt, bèn hỏi họ sau khi xuống khe núi kia xảy ra chuyện gì.

                  Nghe cấp hỏi lại việc hung hiểm đó, Ngoẹo liền cuống cả lên, thở ra hơi. Nếu chẳng phải bị thương nằm bất động cáng, cứ như tính tình nóng nảy thường ngày, ắt Vương Uy sút cho ta cú rồi, chuyện trời sập gì mà cuống đến thế?

                  Ngoẹo thở hổn hển hồi lâu rồi thuật lại việc khủng khiếp mà bọn họ chứng kiến tại bệ đá kia, Vương Uy nghe đến trợn cả mắt.

                  Sau khi Vương Uy tụt xuống khe, sáu người còn lại ngồi canh giữ, chờ Vưong Uy và Nhi Rỗ gọi kéo hai người lên.

                  Bọn họ đợi mãi đợi hoài chẳng nghe thấy bên dưới có động tĩnh gì, bèn xúm lại tán nhảm giết thời gian. Trong đêm, ánh lân tinh lập lòe đài thiên táng xanh len lét như những u hồn chớp mắt, khiến người ta sởn cả tóc gáy.

                  Mấy người ngồi trước khe đá tán gẫu, lính lớn tuổi tên Thạch Lương kể, ở quê câu chuyện, ai ai cũng biết, nghe xảy ra cách đây vài chục năm rồi. Chuyện kể rằng, làng bên có ông lão nhà rất nghèo, sống bằng khoảnh ruộng cày rẽ của nhà địa chủ, bữa đói bữa no, cuộc sống rất khổ sở. Vào buổi chiều, ông lão vừa cày xong thửa ruộng định về nhà. Lúc ấy sập tối nhưng ông lão thông thạo đường sá nên cũng chẳng để ý lắm. Hơn nữa, ông ta là nông dân nghèo rớt mồng tơi, quỷ thần cũng chẳng làm gì được ông, ông còn phải sợ gì nữa?

                  Ông lão bước lên bờ, bỗng trông thấy bờ ruộng có con lợn nái nhơ nhỡ, con lợn thấy ông cũng bỏ chạy, mà cứ nằm ì ra đó. Ông lão nghèo khổ suốt đời, thấy con lợn nái béo tròn chạy đến trước mặt, lý nào còn từ chối, liền cởi tấm áo rách bọc nó lại, bế về nhà.

                  Về đến nhà, ông lão bảo con cho lợn ăn. Nhà ông rất nghèo, đến cháo cũng chưa chắc có mà ăn, tối thế này biết lấy gì cho lợn ăn đây?

                  Ông lão mãi đến già mới được mụn con, bà vợ lại qua đời vì đẻ khó, hai cha con nương tựa vào nhau mà sống. Thấy cha ôm lợn về, con trai ông lão vô cùng mùng rỡ, húp xong bát cháo loãng liền chạy hái rau cho lợn ăn.

                  Nào ngờ thằng mãi chẳng thấy về, thoạt đầu ông lão cũng đế ý, làng này rất rộng, ông đoán thằng con nửa đêm lấy được rau cho lợn, sợ cha mắng, nên tạt vào đâu đó ngủ lại chăng.

                  .Sáng hôm sau ông lão vào làng tìm con nhưng tìm mãi cũng thấy đâu, ra đồng tìm cũng thấy. Chuyện này kỳ lạ, người sống sờ sờ ra đó sao mất tích là mất tích luôn được?

                  Liền mấy hôm sau ông lão vẫn thấy con về, tìm khắp tám làng trong vòng mười dặm quanh đó cũng chẳng thấy bóng dáng nó, đành quay trở về nhà. Ông lão đoán rằng chuyện này có vấn đề, và nếu có điểm bất thường chính là ở con lợn đó, bèn ra chuồng lợn xem, vừa trông thấy nó, ông lão toát mồ hôi lạnh, ra đêm hôm khuya khoắt ông ôm con lợn nái về mà nhìn kỹ, đó là con lợn năm móng. Ở quê mọi người vẫn đồn rằng, lợn năm móng là điềm gở, nuôi phải lợn năm móng phá sản, nặng tai họa đến mấy đời.

                  Ông lão vội gọi người trong làng đến giết lợn, vừa mổ bụng con lợn ra, ông lão trông thấy liền quỳ xuống ôm mặt khóc lóc kêu trời. ra trong bụng con lợn có xác chết, nửa dưới phân hủy, đầu và mặt cũng rữa mất nửa, nhưng ông lão thoạt trông nhận ra đấy là con mình, ngờ chỉ vì lòng tham nhất thời, ông ta rước ma quỷ về nhà, làm hại con trai.

                  Thạch Lương kể đến đây, những người ngồi xung quanh đều run lên vì gió rét, mồ hôi lạnh vã ra đầy người.

                  ta lại tiếp:

                  - Tôi thấy chuyện người chui vào giữa đài thiên táng cũng gần giống như chuyện ở quê tôi, chắc hẳn đài thiên táng ăn thịt bọn họ rồi, các người có tin ?

                  Lời Thạch Lưong càng làm mọi người thêm sợ hãi, đài thiên táng kỳ lạ giữa thâm sơn cùng cốc này vốn là nơi người sống thể tùy tiện đến gần, hơn nữa bây giờ lúc nửa đêm nửa hôm, liệu có ai sợ?

                  Ngoẹo châm lửa hút thuốc, ta tinh mắt, thoáng thấy bệ đá có gì đó bất thường, liền dụi mắt nhìn kỹ, rồi hét toáng lên:

                  - Các cậu xem kìa, người chim đài thiên táng kia động đậy.

                  Ngoẹo vừa dứt lời, cả năm người ngồi quanh đấy nhất loạt bật dậy, rút súng nhắm vào tượng đất nung nằm đài thiên táng. Dường như tượng đất nung vẫn là tượng đất nung, nhưng có mấy người lại mực khẳng định trông thấy ngón tay pho tượng nhúc nhích, hệt như người sống.

                  Cả sáu người đờ ra vì kinh sợ, cảm thấy nơi này quả là quái gở.

                  Đúng lúc ấy, bệ đá đột nhiên rung lên dữ dội, mặt đất nứt ra mấy đường, đá quanh bệ rào rào rơi xuống, cảnh tượng vô cùng khủng khiếp.

                  Quân lính Tứ Xuyên vốn nổi tiếng vô tổ chức, vô kỷ luật, đám tàn quân này trước mặt Vương Uy còn cố giữ vẻ nghiêm chỉnh, nhưng giữa lúc cận kề cái chết thế này họ còn bụng dạ nào để ý đến chỉ huy ở dưới khe đá kia chưa lên nữa, lập tức có mấy người lính nhanh chân tụt xuống thềm đá chạy trối chết.

                  Ngoẹo và Ngọng vốn trung thành với Vương Uy nhất, trong lúc hoảng loạn hai người nghe thấy tiếng kêu dưới khe đá, biết chỉ huy và Nhị Rỗ sắp lên bèn ra sức kéo, cuối cùng cũng kéo được cả hai lên.

                  Lên tới nơi, họ thấy Nhị Rỗ bị mấy vết thương, còn Vương Uy ngất xỉu, chính Nhị Rỗ cõng Vương Uy leo lên khỏi khe đá.

                  Nhị Rỗ lên đến mặt đất lập tức nổ súng bắn chết ngay bốn kẻ bỏ chạy. Tuy ở trong quân đội, gã có chức tước gì, nhưng lại được Vưong Uy hết sức tin tưởng, nắm giữ thực quyền, luôn chấp hành kỷ luật quân đội rất nghiêm khắc.

                  Đúng lúc ấy ngoài thung lũng chợt vang lên tiếng súng nổ, quân đoàn 21 đuổi đến nơi. Bên kia núi vang rền tiếng đại bác, bên này thỉnh thoảng cũng nghe vài tiếng súng lạch tạch, xem chừng đại đội cảnh vệ số Ba của quân đoàn 24 đụng độ đối phương.

                  Đại đội cảnh vệ số Ba là quân chính quy của nhà họ Lưu, đại đội trưởng Lưu Triệu Chính là cháu ruột Lưu Văn Huy, được nuông quá sinh kiêu, chẳng coi đại đội cảnh vệ số Hai ra gì, dọc đường từ Xuyên Trung chạy về phía Tây, hai cánh quân lúc nào cũng hục hặc nhau, suýt nữa ẩu đả. Lúc này Lưu Triệu Chính đụng đầu với lính của quân đoàn 21, đại đội cảnh vệ số Hai cần thiết phải ứng cứu trong tình thế địch đông hơn ta.

                  Trải qua trận giằng co, trời cũng dần dần chuyển sáng, Nhị Rỗ gọi hơn bốn chục người theo mình chạy về phía Tây, men theo hướng dòng sông cuồn cuộn chảy. Đây là nơi giáp giới giữa Xương Đô và A Bối, núi non trùng điệp, rừng già rậm rạp, ngước đầu lên là thấy đỉnh núi tuyết chót vót chạm tầng mây.

                  Băng qua thung lũng núi vô danh, thế núi dốc dần, Nhị Rỗ đưa lính vào khu rừng mênh mông rậm rạp, từ Nam đến Bắc biết đâu là tận cùng, quả là nơi lý tưởng để né tránh quân đoàn 21 truy kích. Hơn nữa trong rừng mọc đầy cây đại thanh Tây Tạng, loài cây này lá rất rộng, tàu lá có thể che kín nửa người, tán lá lại rậm rì, là nơi náu kín đáo.

                  Nhị Rỗ tính toán rất chu đáo, nhưng gã chẳng ngờ được rằng quân đoàn 21 chỉ có chi đội đuổi theo truy kích, mà đến tận ba chi đội. chi đội bị Lưu Triệu Chính cầm chân, hai chi đội còn lại cho rằng lính chủ lực của quân đoàn 24 nhất định về hướng Tây để vào Xương Đô, bên cấp tốc đuổi theo, đụng phải Nhị Rỗ trong khu rừng này.

                  Đôi bên vừa chạm mặt nhau đồng loạt nổ súng, đại đội cảnh vệ số Hai còn chưa biết chuyện gì xảy ra bị đối phương hạ gục mất mấy người. Nhị Rỗ biết trận này sao thắng nổi, bèn hô lên tiếng, dẫn đám tàn quân còn lại chạy vào rừng.

                  Cả đám người vừa đánh vừa chạy, tạm thời thoát khỏi truy kích của quân địch. Nhị Rỗ chỉ lo Vương Uy hôn mê nằm cáng sớm muộn gì rồi cũng bị bắt. Gã bèn tìm Ngọng và Ngoẹo, hai người đáng tin nhất, chỉ đường cho họ rồi dặn họ chạy sâu vào rừng, dù mười vạn quân của quân đoàn 21 đến lùng sục cũng thể tìm ra mấy tên lính trốn chạy giữa vùng rừng núi mênh mông này được.

                  Ngọng và Ngoẹo theo lời dặn của Nhị Rỗ, vội vã khiêng Vương Uy vào sâu trong rừng. Nhị Rỗ đem theo khoảng chục người còn lại chạy theo hướng khác, nổ súng đánh lạc hướng quân truy kích, nhử chúng vào đường cùng.

                  Vương Uy nghe Ngoẹo kể xong, thấy bọn họ ở giữa cánh rừng bạt ngàn đại thụ, u tăm tối, thảng hoặc mới có chút nắng le lói chiếu qua. biết cánh Nhị Rỗ chạy tới đâu, còn cách bọn họ bao xa. Nhìn những em cùng vào sinh ra tử với mình kẻ chết người bị thương, bây giờ chỉ còn lại hai người này, Nhị Rỗ chưa biết sống chết thế nào, Vương Uy càng nghĩ càng thấy đắng nghét cả lòng.

                  Ngọng vốn tính thà, thấy Vương Uy thẫn thờ nghĩ ngợi, liền :

                  - Thưa chỉ huy, Nhị... Nhị... Rỗ bảo chúng em đưa chỉ huy vào giữa... giữa... rừng sâu này, thể chậm trễ, chúng... chúng... chúng ta phải thôi ạ...

                  Vương Uy xua tay, xa xa còn tiếng súng, chắc hẳn chiến kết thúc. Đại đội cảnh vệ số Hai cùng Nhị Rỗ xem ra lành ít dữ nhiều. Lính truy kích của quân đoàn 21 toàn thắng, có lẽ rút lui. Nhưng Vương Uy vẫn linh cảm Nhị Rỗ chưa chết, gã thông thạo bí thuật phong thủy, rất giỏi tìm lối thoát những lúc cùng đường, sao có thể chết dễ dàng như thế được?

                  Vương Uy còn suy nghĩ làm sao trở lại tìm Nhị Rỗ, đột nhiên nghe thấy lá cây trong rừng xào xạc cả lên. Sống trong quân ngũ bấy nhiêu năm rèn luyện cho hệ thần kinh chiến đấu nhạy bén, liền ra hiệu cho Ngoẹo và Ngọng, ba người lần theo triền núi chui vào bụi cây. Bụi cây này vô cùng rậm rạp, người đứng ngoài thể thấy những thứ bên trong được.

                  Vương Uy và Ngoẹo đè lên người Ngọng khiến ta thở hổn hển, lý nhí:

                  - Thưa chỉ huy, hai… hai… hai người đè lên em rồi!

                  Vương Uy và Ngoẹo cùng đưa tay bịt miệng Ngọng lại, ra hiệu cho ta đừng làm bậy.

                  Thấy đám lá đại thanh lao xao lúc rồi lặng phắc, Ngoẹo quay sang với Vương Uy:

                  - Thưa chỉ huy, có phải là gió ạ?

                  Vương Uy lộ vẻ căng thẳng, lúc này trong ba người bọn họ, bản thân bị thương, cũng chẳng thể hi vọng quá nhiều vào Ngọng và Ngoẹo, nếu lính của quân đoàn 21 tìm thấy, chắc chắn cả ba cùng chết ở đây.

                  Ba người nấp trong bụi rậm hồi, thấy bên ngoài có động tĩnh gì khác, cái cáng của Vương Uy vẫn để ở gốc cây, nếu trong rừng có người chắc chắn trông thấy nó.

                  Ngoẹo bò ra trước, lẻn đến chỗ phát ra tiếng động vừa rồi nghe ngóng hồi lâu rồi quay về báo cáo với Vương Uy là có gì cả, ắt là gió thổi lá cây mà thôi.

                  Bỗng nhiên Vương Uy lạnh toát cả sống lưng, cảm giác rất nặng nề ứ đầy trong lồng ngực, vô cùng khó chịu. đẩy Ngoẹo ra, mình lăn từ trong bụi rậm xuống triền dốc.

                  Đúng lúc ấy, loạt đạn từ mấy góc độ khác nhau cây bay vèo vèo đến, Vương Uy suýt soát tránh được, mấy lần bị đạn bay sát rạt qua mặt, chỉ chậm bước là gặp Diêm vương rồi.

                  Vương Uy bị bức lui về nấp sau thân cây đại thanh, trong tay lại có súng, Ngoẹo tuy xông pha chiến trường lâu, trung thành có thừa mà dũng khí đủ, phải là kẻ thiện chiến. Qua kẽ lá đại thanh, trông thấy Ngoẹo bị ép phải ngồi xổm xuống gốc cây chỗ đặt cái cáng, loạt đạn vừa nổ ngay trước mũi chân ta. Đạn từ cây bắn xuống, trong khu rừng này cây cối rậm rạp, khó mà thấy được người bắn nấp ở đâu.

                  Vương Uy ngẫm nghĩ, cảm thấy tình bình thường, nếu là lính quân đoàn 21 truy kích đến đây, theo cách làm việc trước nay của họ, hẳn bắn phá trận quét sạch luôn chứ chơi trò trốn tìm giữa rừng sâu với vài tên lính quèn thế này.

                  Lẽ nào ngoài lính của quân đoàn 21 trong rừng này còn có lính của đơn vị khác?

                  Thấy cách bắn của đối phương rất chuyên nghiệp, dù là quân chủ lực của quân đoàn 21 cũng khó bắn được như vậy, đừng gì đến thổ phỉ, điều này khiến Vương Uy càng thêm khó hiểu.

                  Vưong Uy nấp sau thân cây đại thanh, thấy Ngoẹo ré lên oai oái vì đạn bắn sát sạt, bỗng Ngọng từ trong bụi rậm chĩa súng ra ngoài, nhắm về phía làn đạn bắn tới, nổ súng. Đạn vừa bắn ra, lập tức cây vang lên tiếng kêu rồi người rơi xuống đất. Người đó mặc đồ đen, mặt bịt khăn đen, giống như bọn trộm cướp giang hồ. Hai chân ta duỗi thẳng, máu ồng ộc chảy ra từ cổ, tắt thở rồi.

                  Vưong Uy chứng kiến tài thiện xạ của Ngọng, khỏi thầm đánh giá lại con ngưòi này. Ngọng vốn cao lớn vạm vỡ, trông cứ lừng lững như gấu, bình thường đầu óc cũng chậm chạp, ngờ vào lúc quan trọng này lại tỏ ra được việc.

                  Ngọng hạ được tay súng, liền bị hơn chục tay súng khác vây công, bắn cho bụi cây nát bươm nhưng Ngọng vẫn cố thủ bên trong, chẳng có động tĩnh gì.

                  Vưong Uy lo cho Ngọng thấy hơn hai chục người mặc đồ đen từ cây tụt xuống, dẫn đầu là người cao lớn, nhưng đường cong người lộ rất , dường như là phụ nữ.

                  Ngọng nấp trong hốc cây tránh đạn, bị mấy tay áo đen lôi ra, bắt quỳ xuống đất.

                  Đến nước này mà Vương Uy còn xuất chỉ có chuốc khổ vào thân, đành rẽ cành lá, từ sau gốc cây ra, lập tức bị hai người mặc đồ đen đứng trước gốc cây đại thanh tóm chặt lấy vai, đẩy tới trước mặt thủ lĩnh.

                  Thủ lĩnh của bọn chúng vòng quanh Vương Uy vài vòng rồi lên tiếng, quả nhiên là phụ nữ. ta :

                  - Ồ, quân hàm thiếu úy, đại đội trưởng cơ đấy!

                  Thấy Vương Uy gì, ta lại hỏi:

                  - Nếu tôi đoán nhầm, các người là vật hy sinh cuộc hỗn chiến giữa hai phe cánh họ Lưu ở Xuyên Trung, lính của Lưu Văn Huy à?

                  Thấy Vương Uy vẫn im lặng, tên mặc đồ đen tóm vai Vương Uy bèn bóp mạnh khiến Vưong Uy đau nhói, quát lớn:

                  - Bà chủ của tao hỏi mày đấy.

                  Tổ tiên của Vương Uy vốn xuất thân lục lâm, ông nội là cướp đường nổi tiếng vùng Quan Đông, mấy chuyện cướp của nhà giàu chia cho nhà nghèo chẳng việc gì chưa làm. Đến đời cha gia cảnh bắt đầu sa sút, năm Vương Uy rời Bắc Kinh, ông nội bệnh nặng rồi chết. Cha Vương Uy ỷ thế gia đình giàu có nên ăn chơi bạt mạng, mười tám tuổi thành tay chơi nổi tiếng khắp cả Bắc Kinh, rượu chè, cờ bạc, gú, hút xách thứ gì cũng thạo. Ông nội về già mới được mụn con, tuy giận sắt mãi rèn thành thép, nhưng chẳng nỡ nghiêm hình dạy dỗ, đành mặc con mình tự tung tự tác.

                  Mãi đến khi Vương Uy ra đời, ông nội mới thấy được chút hy vọng. Vương Uy vừa chào đời cất tiếng khoác oa oa khiến ông giật cả mình. Nghe tiếng khóc của cháu trai vừa to vừa vang, như sấm rền trời, ngân dài dứt, chẳng có vẻ gì là yếu đuối, ông nội liền gọi bà mụ bế cháu ra xem mặt. Thấy đứa bé sắc diện hồng hào, mặt vuông chữ điền, lúc khóc hai mắt mở to, dáng dấp tựa như thần Kim Cương trong các đền chùa, hơn nữa thân hình lại rất dài, da đen nhẻm, bế trong tay nặng khác thường, ông nội ta nhìn nhìn lại mặt cháu mấy lần, vui mừng hớn hở, luôn miệng nhà họ Vương có hậu, nhà họ Vương có hậu, thằng cháu này vẻ mặt uy nghiêm, tiếng khóc sang sảng, sau này nhất định làm lớn. Thấy ông nội cao hứng, bà mụ liền xin ông đặt tên cho cháu, ông nội ngẫm nghĩ giây lát, thấy chữ Uy là thích hợp nhất, bèn đặt luôn tên cho cháu là Vương Uy.

                  Họ Vương xuất thân lục lâm, ông nội Vương Tứ hồi xưa là tên cướp nổi tiếng vùng Quan Đông, giết biết bao nhiêu người. Thấy cháu trai tướng mạo khác thường, ông nội lòng muốn truyền nghề cho cháu, nên từ khi năm tuổi, Vương Uy được ông nội nắn xương thông mạch, bắt đầu luyện tập những môn võ công cơ bản.

                  Nhà họ Vương đời này qua đời khác vẫn truyền nhau môn võ đoạt mệnh, nhưng trong thời đại vũ khí nóng giờ, ngón võ ấy chẳng còn mấy tác dụng. Ông nội và cụ Vương Uy đều là những tên cướp có tiếng, đắc tội với ít người, đây lại là ngón võ nổi danh của nhà họ Vưong nên từ ông nội bắt Vương Uy thề rằng, trừ phi vạn bất đắc dĩ, bằng được hiển lộ võ công gia truyền.

                  Bởi vậy, Vương Uy theo ông nội học ngón võ này từ năm mười bốn tuổi nhưng chưa lần dùng đến nó. Lúc sắp chết ông nội ta vẫn quên dặn dò Vương Uy lần nữa, ngón võ này vô cùng lợi hại có điều cũng rất dễ chuốc vạ vào thân.

                  Bị gã mặc đồ đen đè lưng, tóm chặt lấy gáy, Vương Uy đau đớn khôn xiết. người bị thương, bị đè thế này sao chịu nổi, Vương Uy lửa giận bừng lên, bất chấp lời ông nội dặn. co tay lại, cánh tay bị gã mặc đồ đen nắm chặt chợt trơn nhẫy như lươn, vùng ra. Tên mặc đồ đen chưa kịp phản ứng, Vương Uy xoay tay về phía sau, tóm lấy cổ , siết mạnh ngón tay, ta kêu nổi tiếng, bị bóp vỡ họng mà chết.

                  Vương Uy tính tình nóng nảy, hành động tính đến hậu quả, ngay lúc ấy người phụ nữ che mặt kia rút súng, gí vào đầu , lạnh lùng :

                  - Ngài thiếu úy, giỏi lắm, ngài có tin tôi cho ngài phát đạn ?

                  Vương Uy thấy bọn người này chẳng phải tử tế gì, hơn nữa tên nào tên nấy đều có vẻ là cao thủ. Có điều ngón đòn của quá cổ quái, tên mặc đồ đen kia kịp phản ứng nên mới bị bóp vỡ họng, mà chết.

                  Tránh voi chẳng xấu mặt nào, Vương Uy đành ngoan ngoãn khuất phục, trừng mắt lạnh lùng nhìn người phụ nữ che mặt, giận mà uy.

                  Chỉ nghe ta :

                  - Thiếu úy nên hiểu tình thế giờ của ngài, quân đoàn 21 vẫn chưa rút lui, dù chúng tôi giết các ngài, chỉ cần tôi phát tín hiệu, các ngài có mọc cánh cũng bay thoát, ngài có tin ?

                  Vương Uy thầm chửi ả ta ghê gớm, nhưng ngoài miệng lại :

                  - Ông đây đằng nào cũng chết, thà làm ngọc nát còn hơn ngói lành, để ông liều với chúng mày phen.

                  Người phụ nữ bịt mặt :

                  - Có ai cần ngài chết đâu? Chúng ta đánh chuyến hàng lớn, đủ người, muốn các người nhập bọn, các người có đồng ý hay ?

                  Nghe người phụ nữ bịt mặt , Vương Uy cũng hiểu ra đôi phần. Bọn người này binh hùng tướng mạnh, nhìn trang bị đều là của Mỹ, xem ra chúng kéo đến đây quá nửa là nhằm vào thứ dưới lòng đất, làm theo Mã Văn Ninh xưa. Muốn lôi kéo lũ tàn binh như chỉ là danh nghĩa, e rằng chúng muốn tìm người thế mạng đó thôi.

                  Mấy năm nay Vương Uy xông pha giữa mũi tên hòn đạn, mòn gót khắp miền Xuyên Trung, loại người nào cũng từng gặp qua, bèn :

                  - Mạng Vương Uy này rơi vào tay , nhưng tốt xấu gì ông cũng là đàn ông đàn ang, vào lính từ năm mười tám tuổi đến giờ, đánh biết bao nhiêu trận, có thắng có bại, Diêm vương ông còn sợ, huống chi đám đàn bà các ngưòi? Các người muốn rủ ông đây cùng đánh chuyến hàng phải cho ràng, còn như định lừa ông xong đâu, dù sao mạng ông cũng ở trong tay các người rồi, muốn làm sao làm.

                  Người phụ nữ bịt mặt nghe tức tối gí mạnh khẩu súng vào đầu Vương Uy, Vương Uy cũng chẳng vừa, liền trợn trừng mắt đáp trả.

                  Lúc ấy, người trong bọn áo đen tới, xem ra cũng lớn tuổi, tóc đốm bạc, chắp tay vái chào Vương Uy, :

                  - Lão họ Tôn, tên Ngô Toàn, tự là Long , được các em coi trọng gọi là lão Tôn. Lão thấy ngài là người phi phàm, giống như những tướng lĩnh quân Tứ Xuyên bình thường, hơn nữa lại biết thuật Đoạn Môn chỉ, nghe đó là tuyệt kỹ của nhà họ Vương vùng Quan Đông mấy chục năm trước. Ngài đây cũng họ Vương, phải chăng lão có mắt mà thấy Thái sơn, đắc tội với hậu nhân Vương gia?

                  Nghe lão Tôn , Vưong Uy giật thót người, thầm rủa mình đáng chết, đến lúc nguy cấp lại quên khuấy lời ông nội dặn. Bốn chục năm trước ông nội Vương Uy lui về ở , vậy mà lão Tôn này lại nhìn ra tuyệt kỹ Đoạn Môn chỉ của Vương gia, xem ra cũng là người lão luyện giang hồ, khiến khỏi chột dạ.

                  Lão Tôn giật khăn bịt mặt xuống, để lộ khuôn mặt gầy đét, mặt còn mấy vết sẹo, nhìn là biết ngay xuất thân giang hồ.

                  Những người khác thấy lão Tôn bỏ khăn che mặt xuống cũng đua nhau bỏ theo. Người phụ nữ kia còn bỏ cả khăn bịt đầu lẫn khăn che mặt xuống, để lộ mái tóc vàng óng khiến Vương Uy giật mình vỡ lẽ hóa ra ta là người nước ngoài. Duy có điều Vương Uy vẫn lấy làm lạ là, người phụ nữ này có khuôn mặt đậm nét Tây phương, nhưng đôi mắt giống hệt người Trung Quốc. Hồi , Vương Uy ở Bắc Kinh thấy nhiều người nước ngoài, nhất là người phương Tây, ai nấy đều mũi cao, mắt xanh, tóc vàng, lạ lùng.

                  Người phụ nữ tự giới thiệu mình là con lai, tên tiếng Trung là Dương Hoài Ngọc, cha người , mẹ người Trung Quốc, từ lớn lên ở Trung Quốc, nên rất lưu loát tiếng Trung, điều này Vương Uy được kiểm chứng.

                  Vương Uy mấy thiện cảm vói Dương Hoài Ngọc, nhưng thể phủ nhận rằng ta rất đẹp. Da trắng muốt, cặp mắt to tròn long lanh, gương mặt mang nét kiên nghị của người nước ngoài pha lẫn nét mềm mại của người Trung Quốc, rất cá tính.

                  Nhưng lúc này dù có Điêu Thuyền chạy đến trước mặt, Vương Uy cũng chẳng hứng thú.

                  Lão Tôn , họ đến vùng rừng núi hoang vu giáp giới giữa Tứ Xuyên và Tây Tạng này để tìm thứ, nhưng rốt cuộc là thứ gì lão cũng biết. Ngọn ngành chuyện này kể ra dài. Lão Tôn năm xưa cũng là lục lâm thảo khấu nổi danh, giết người cướp của chẳng chừa việc gì, tiếc rằng sông có khúc người có lúc, lão Tôn cũng có lần sơ sẩy. Dạo “đánh hàng” ở vùng Hồ Bắc – Hồ Nam, có lần lão Tôn trông thấy người dáng dấp như tay lái buôn giàu sụ, áo gấm xênh xang, cả gia đình ba người về quê thăm nhà. Lão Tôn bám theo hơn trăm dặm, đến nơi hẻo lánh bèn xông ra chặn họ lại. Vừa giở bọc hành lý ra, lão Tôn nổi cơn thịnh nộ, ra ba người nhà này phục sức sang trọng nhưng lại chỉ đem theo vài lượng bạc vụn. Trong cơn giận dữ, lão bèn giết cả nhà ba người bọn họ, luôn cả phu xe, rồi lập tức ra roi thúc ngựa bỏ trốn.

                  về thuật nhìn người dù là kẻ lão luyện giang hồ cũng có lúc nhìn lầm, huống hồ bấy giờ lão Tôn còn trẻ trung xốc nổi. Tiếc rằng lão giết lầm, người kia mặt mũi phương phi béo tốt, nhìn giống hệt tay buôn lớn nhưng thực ra lại là viên quan vùng biên ải Hồ Bắc nhậm chức, đúng là sai lầm tai hại.

                  Tuần phủ hai tỉnh Hồ Bắc, Hồ Nam liên kết cùng chín tỉnh khác lùng bắt lão Tôn, treo thưởng năm nghìn lạng bạc. Chỉ ít lâu sau lão bị binh lính bắt giữ, giải về tỉnh bêu phố, ba ngày sau chém đầu trước dân chúng. Lão Tôn tự biết chuyến này cùng đường, đến buổi tối hôm thứ hai bêu phố, cai ngục còn cho lão ăn bữa ngon, nhìn mâm cơm ấy, lão biết giờ chết cận kề, đây là bữa ăn cuối cùng. Thức ăn rất ngon lành, nhưng lão sao nuốt nổi.

                  Đúng lúc ấy đột nhiên có người tây đến nhà tù, toàn tiếng Trung Quốc. Sau khi nghe ông ta trình bày ý định, lão Tôn sáng mắt lên, người này muốn cứu lão ra khỏi ngục.

                  Bấy giờ dân chúng Đại Thanh căm ghét người tây đến tận xương tủy, lão Tôn chỉ là tên cướp, đâu thể mời được ông tây này. Ông ta muốn cứu lão hẳn phải có điều kiện gì đây.

                  Quả nhiên sau khi xua đám cai ngục , người tây kia lấy trong người ra bức tượng Phật đưa cho lão Tôn. Thoạt nhìn, lão Tôn tái mặt, bức tượng Phật bằng đá có vân này chính là vật lão thó tại nhà vị bối lặc sa sút ở kinh thành đem bán cho tiệm đồ cổ nhưng cũng chẳng được nổi dăm ba lạng bạc, thứ đồng nát này sao lại lọt vào tay ông ta?

                  Theo lời ông tây kia cứu lão ra khỏi tù chẳng khó khăn gì nhưng lão phải đồng ý điều kiện, giúp ông ta tìm ra nguồn gốc bức tượng Phật này.

                  Đối với lão Tôn mà , so với việc bị mất đầu đây chỉ là chuyện , liền lập tức nhận lời ngay. Hôm sau, lão ra tù thuận lợi, đến tối cưỡi con ngựa được ông tây kia chuẩn bị sẵn, chạy thẳng đến kinh thành.

                  Đến kinh thành, đầu tiên lão tìm quán trọ để nghỉ chân, đợi đến tối lại "thăm" phủ vị bối lặc kia. Bức tượng do bị lão thó gần mười năm nay, trải mười năm dâu bể đổi dời, phủ bối lặc bỏ hoang, cỏ dại um tùm, con chó giữ nhà cũng chẳng còn.

                  Lão Tôn tìm khắp phủ bối lặc cũng thấy manh mối gì, lòng rất buồn bực. Sực nhớ trong vườn còn có xẻng, lão liền xách xẻng đến căn phòng đặt pho tượng Phật khi xưa, xới tung cả phòng lên. Có điều đào mãi chẳng tìm thấy gì, trời cũng dần chuyển sáng.

                  Lão Tôn rời phủ bối lặc về nhà trọ ngủ giấc, rồi trở lại. Lần này lão vào phủ mà lân la đến các nhà hàng xóm hỏi thăm tình hình. Sau phen thăm dò, lão Tôn cũng phải hít hơi khí lạnh, ra phủ bối lặc này gặp họa diệt môn, mấy chục người trong phủ đều bị thiêu chết trong trận hỏa hoạn lớn.

                  Nghe , nguyên nhân dẫn tới họa diệt môn là do người trong phủ đánh mất bức tượng Phật trấn trạch, bức tượng này là thần khí từ thời viễn cổ, thể tùy tiện đụng vào. Sau khi bức tượng bị mất cắp, lão bối lặc đến từng nhà hỏi thăm tung tích pho tượng, những mong ai biết tiết lộ cho hay, đồng thời cũng kể cho mọi người lợi hại của bức tượng.

                  Chuyện xảy ra chưa đầy nửa tháng trận hỏa hoạn thiêu trụi phủ bối lặc. Kể ra cũng lạ, bấy giờ là mùa đông tuyết rơi, vậy mà nửa đêm nửa hôm phủ bối lặc lại xảy ra đám cháy. Đợi đến lúc láng giềng thức giấc chạy đến cứu hỏa cả phủ bối lặc chìm trong biển lửa, lửa còn cháy đến tận sáng hôm sau mới tắt. Hơn ba chục con người lớn bé già trẻ trong phủ, ai sống sót, tất cả đều bị thiêu cháy thành than.

                  Lão Tôn nghe mà toát mồ hôi lạnh, vội vã cáo từ, nghĩ bụng, tượng Phật kia quả là tầm thường. Lão định thôi, nhưng là sinh mệnh nằm trong tay người tây kia, chưa lo xong chuyện này đừng hòng rút lui; thêm vào đó, lão Tôn cũng xuất thân kẻ cướp, trông thấy tượng Phật quý làm sao nảy lòng tham?

                  Tối hôm ấy lão lại lẻn vào phủ bối lặc đào bới, đào mãi nửa đêm quả nhiên phát cửa hầm ngay trong căn phòng bày tượng Phật. Miệng hầm hình vuông, mỗi bề chừng hai thước, bốn xung quanh lát đá. Lão Tôn phải buộc dây thừng vào người leo xuống, địa động này sâu chừng trượng, là cái giếng dốc đứng.

                  Xuống đến nơi mới nhận ra đây là căn địa lao, lão Tôn khỏi bực dọc, lão bối lặc này có chứng tật gì thế, tự dưng tự lành lại xây địa lao ngay trong phòng ngủ của mình, vậy mà đến đêm vẫn kê cao gối ngủ được ư?

                  Địa lao này là căn phòng lớn xây bằng đá, bên trong bày rất nhiều dụng cụ tra tấn còn dính máu, góc nhà lại đặt sẵn chậu lửa lớn. Vừa đặt chân vào phòng, lão Tôn ngửi thấy mùi thối hoắc, liền đốt đuốc lên soi, mình ở trong căn phòng tối tăm này, trong lòng lão cứ thấy rờn rợn. đến giữa phòng, lão Tôn thấy chiếc chum sành to tướng, miệng chum là cái đầu khô quắt.

                  Lão Tôn hít hơi sâu, thấy cái đầu đó chẳng còn mắt, mũi, tai gì hết, bèn nhặt cây gậy dưới đất, thò vào chum khuấy mạnh, phát thi thể đó cũng cụt hết tay chân, hẳn bị người chặt mất tứ chi, xẻo hết ngũ quan rồi đem ngâm vào chum thuốc, thảo nào có thể để suốt mười năm thối rữa. Lão Tôn từng bôn ba ra Bắc vào Nam cướp bóc, giết biết bao nhiêu người, nhưng lão ta giết người chỉ nhát dao là mạng, mau lẹ sảng khoái, chưa bao giờ chứng kiến cảnh hành hạ con người thế này. Lão thầm rủa tên bối lặc kia quả nhiên phải hạng tử tế gì.

                  vòng quanh địa lao, thấy dưới đất có tấm tăng y cũ, lão Tôn cũng là người có chút hiểu biết, nhận ra đó là tăng y các lạt ma xứ Tạng, té ra thi thể trong chum kia là vị lạt ma.

                  Lão Tôn châm lửa vào bốn cái chậu đặt ở góc, cả căn phòng lập tức sáng như ban ngày, ánh lửa vừa sáng lên, lão liền trông thấy tường có chạm khắc gì đó. Đó là bức bích họa, đường nét rất vụng về thô kệch nhưng nội dung lại hết sức hấp dẫn.

                  Phần đầu của bức tranh khắc họa khu vực bốn bề bị núi non bao bọc, đỉnh núi chót vót chọc trời. ngọn núi là ngôi chùa náu mình giữa cánh rừng rậm rạp, chỉ để lộ góc mái ngói, càng toát lên vẻ thần bí.

                  Phần thứ hai của bức tranh phải là cảnh chùa chiền mà là cảnh tượng tòa cung điện bày biện rất xa hoa, đèn đuốc trong cung đều là những viên dạ minh châu. Lão Tôn trố mắt hồi lầu vì kinh ngạc, chỉ viên trong số đó cũng đủ cho lão sống sung túc mấy đời rồi. Giữa điện có người đứng sừng sững, được những kẻ khác vây quanh quỳ lạy, xem ra là vị quốc vương.

                  Nhưng điều khiến lão Tôn kinh ngạc chính là vị quốc vương này đứng quay lưng về phía đám triều thần, dáng người thẳng đơ, trông như xác chết. Lão Tôn vừa chăm chú quan sát bóng lưng vị quốc vương, vừa vắt óc suy nghĩ, càng nghĩ càng thấy bất thường. Tư thế đứng của vị quốc vưong này cứng đờ, lại nghiêng hẳn về bên như sắp đổ tới nơi, trông rất quái gở. Nhìn dáng dấp, vị quốc vương này chắc hẳn cững gầy gò, nhưng y phục người ông ta lại chật căng, chứng tỏ thi thể trương lên, ních căng quần áo ra.

                  ràng vị quốc vương này chết, sao những người xung quanh lại hay biết gì cả, chẳng phải quá lạ lùng ư? Lẽ nào bức bích họa này khắc họa nghi thức tế lễ gì?

                  Lão Tôn nghĩ mãi ra, quẩn quanh tìm kiếm trong phòng hồi lâu, chẳng thấy thứ gì giá trị, lão đành nhân lúc đêm tối rời khỏi phủ bối lặc. Hôm sau lão đánh điện báo ngay cho ông tây kia, thuật lại những phát của mình. Chừng nửa tháng sau ông ta đến kinh thành, sau khi tìm hiểu tình hình, bèn bóc nửa mặt tường dưới địa lao đem .

                  Lão Tôn lấy làm lạ trước hành vi của ông Tây, nhưng dám hỏi. Hết sức hài lòng về hành động lần này của lão Tôn đồng thời cũng nhằm điều tra thêm về lai lịch bức tượng Phật, ông ta bèn kể mọi chuyện với lão.

                  Ông Tây này tên Thomas, là nhà thám hiểm dòng dõi hoàng gia , rất có hứng thú với văn minh Trung Hoa, cũng sống ở Trung Quốc mười mấy năm nay. lần ông ta vô tình mua được bức tượng Phật kia ở hiệu bán đồ cổ, lập tức bị bức tượng hấp dẫn. Bức tượng Phật này khác hẳn những pho tượng thờ cúng trong các chùa chiền, từ thần thái đến tư thế đều rất kỳ dị. Thomas để tâm nghiên cứu bức tượng, phát dưới đáy pho tượng khắc đầy những dòng chữ lạ lùng, chữ khắc li ti, phải dùng kính lúp mới đọc nổi. Thomas mời nhiều chuyên gia ngôn ngữ tới đọc giúp, nhưng sao giải mã nổi những dòng chữ kỳ quái kia. Mãi đến hôm, Thomas kết bạn với lạt ma đến từ Tây Tạng, vừa trông thấy bức tượng Phật, vị lạt ma liền bảo: “Tôi cũng hiểu nội dung những dòng chữ kia, nhưng hơn nghìn năm trước, trong kinh Phật từng đề cập đến bức tượng này, hình như nó đến từ vương triều thần bí ở vùng Tạng, tên là Lạp Cách Nhật. Chính sử ghi chép về vương triều này rất ít, nhưng những câu chuyện trong kinh Phật thỉnh thoảng vẫn nhắc tới, ai biết vương triều này bắt đầu từ thời nào, đến lúc nào bị tiêu diệt, ấn tượng về nó trong lòng người Tạng chỉ có hai chữ: thần bí."

                  Nghe lạt ma , Thomas chợt nảy sinh hứng thú với vương triều Lạp Cách Nhật, định hỏi kỹ hơn nhưng lạt ma cũng được ngọn ngành. Vị lạt ma chỉ nhấn mạnh rằng vương triều Lạp Cách Nhật tồn tại giữa rừng sâu núi thẳm, nghe từ xửa xưa từng có người lạc vào địa giới của họ, bị phát và bị đuổi ra, truyền thuyết về vương triều này cũng do người ấy kể lại, tuy nhiên, ta chỉ biết rất sơ sài.

                  Thomas nhịn được tò mò, bèn bỏ mấy năm thâm nhập đất Tạng để nghe ngóng truyền thuyết về vương triều Lạp Cách Nhật, nhưng đều tay trắng về , chẳng kiếm được thông tin giá trị nào.

                  Cho nên, ông ta nghĩ phải tìm cho ra nguồn gốc bức tượng, từ đấy mới lần ra được bí mật của vương triều Lạp Cách Nhật.

                  Thomas tìm tới tìm lui, cuối cùng tìm được lão Tôn. Mà cảnh tượng vẽ trong bức họa vách địa lao phủ bối lặc rất có thể là cảnh tượng thực tế của vương triều Lạp Cách Nhật. Dựa vào địa vị quý tộc của mình, Thomas tìm rất nhiều chuyên gia đồ cổ, các vị lạt ma xứ Tạng và chuyên gia khảo cổ Hoàng gia quốc đến nghiên cứu, phân tích bức bích họa. Ông ta còn mời cả chuyên gia giải phẫu đến tiến hành giải phẫu thi thể trong chum, cuối cùng rút ra kết luận: vị quốc vương bức họa kia đúng là thi thể, nhưng cung điện đó lại là chính điện, nơi nghị bàn chính , còn những người quỳ rạp bên dưới phải tăng lữ, mà là vương công đại thần. Quốc vương Lạp Cách Nhật phải người sống, người tinh tường chỉ thoạt nhìn là biết ngay, nhưng đám đại thần lại chẳng hề có vẻ sợ hãi và bi thương, cứ điềm nhiên bẩm tấu các vụ, điều này khiến mọi người lấy làm lạ. Lão Tôn cũng đâm ra kinh hãi, lẽ nào quốc vương Lạp Cách Nhật xưa nay đều phải người sống ư? Nghĩ đến đây lão rợn cả gai ốc, việc này đúng là quá mức quái gở.

                  Thomas nhún vai với lão, qua những phân tích của các bác sĩ giải phẫu và chuyên gia khảo cổ bức bích họa tường là do lão bối lặc buộc vị lạt ma bị ngâm trong chum kia miêu tả lại rồi tự mình vẽ ra. Lão bối lặc ép buộc lạt ma từng bước , trước hết là chặt tay chân, sau đó khoét đến ngũ quan mặt, nhưng cái lưỡi của lạt ma vẫn còn, chứng tỏ bức bích họa chưa vẽ xong vị bối lặc kia qua đời.

                  Ít lâu sau ngày lão bối lặc chết , vị lạt ma trong chum kia cũng chết đói, tất cả những bí mật về vương triều Lạp Cách Nhật cũng theo cái chết của lạt ma mà trở thành dấu hỏi lớn, điều này khiến Thomas rất chán nản.

                  Theo Thomas thấy, vị bối lặc này thủ đoạn tàn nhẫn như vậy, hẳn phải là kẻ ác độc vô cùng, lão tiếc thủ đoạn nào để tìm ra vưong triều Lạp Cách Nhật, chắc chắn đơn thuần vì hiếu kỳ mà nhất định là bởi vương triều kia có gì đó quan trọng, khiến lão ta thèm muốn.

                  Lão Tôn nghe Thomas phân tích, cũng nảy sinh hứng thú dào dạt với vương triều Lạp Cách Nhật, cảm thấy chuyện lấy người chết để làm quốc vương này vô cùng quái dị. Hơn nữa, trong bức họa, những vương công đại thần kia nom bộ dạng vẫn hào hứng bẩm tâu, chẳng nhẽ vị quốc vương đó vẫn nghe hiểu được lời quần thần để phán xét đúng sai rồi xuống chiếu, hạ lệnh được hay sao?

                  Sau khi nghe Thomas kể đầu đuôi ngọn nguồn, lão Tôn trở thành "tùy tùng" của ông ta. Ở Trung Quốc, Thomas cũng làm gì xấu xa, là nhà thám hiểm, ông ta chỉ lòng muốn đào bới bí mật về vương triều Lạp Cách Nhật thần bí đất Tạng mà thôi. Lão Tôn ông ta có định ngấp nghé kho báu của vương triều Lạp Cách Nhật hay , nhưng suốt mấy chục năm qua, ông ta luôn ra sức tìm kiếm mọi manh mối về vương triều này, khiến trong lòng lão cũng phải bội phục.

                  Hơn mười năm trước, theo manh mối bất ngờ, Thomas tiến vào vùng rừng núi hoang vu giáp ranh giữa Xương Đô và A Bối, lâu sau mất tích. Đại sứ quán quốc từng cử người vào đó tìm, nhưng chẳng thấy tung tích.

                  Lão Tôn mang ơn Thomas cứu mạng, liền tới tìm kiếm, nhưng cũng phải mất nhiều năm mới tìm được vợ con ông ta. Có điều gia tộc Thomas thất bại trong đấu tranh chính trị, cả gia tộc bị trục xuất, vợ con ông ta lâm vào cảnh nghèo khó khốn cùng. Khi lão Tôn tìm đến, vợ Thomas bệnh nặng, nghe tin Thomas mất tích, bệnh bà ta càng nặng thêm, chẳng bao lâu qua đời.

                  Lão Tôn vốn là tên cướp, có nghề nghiệp gì để mưu sinh, nhưng cũng chẳng dám giết người cướp của ở nơi đất khách quê người. còn cách nào khác, lão đành đưa Dương Hoài Ngọc, con của Thomas về Trung Quốc. Dưới dạy bảo và ảnh hưởng của lão Tôn, Dương Hoài Ngọc chưa đầy hai mươi tuổi thành lưu manh chuyên hoạt động ở các bến tàu, bến xe. Bọn họ còn đến Malaysia, Philipin và số đảo quốc khác, chuyên cướp bóc tàu bè qua lại, giết người đoạt của, cực kỳ hung ác.

                  Thời ấy kẻ làm hải tặc còn ít, lão Tôn dựa vào kinh nghiệm giang hồ, chiêu tập được bọn côn đồ, mở rộng đội hải tặc lên đến hàng trăm tên, trở thành toán cướp nổi tiếng khắp vùng Nam Hải. Thậm chí cả tàu của quân đội, đám tay chân dưới quyền lão Tôn cũng dám tập kích, nên có dạo, rất nhiều tàu thuyền chở hàng phải đường vòng, tránh vùng này ra. Hàng hóa cướp được nhiều vô kể, chúng đều đem bán lại cho các nước lân cận, lấy tiền sắm vũ khí tối tân từ những tay buôn vũ khí người hoặc người Mỹ, thậm chí chúng còn sắm được chiến hạm .

                  Có lần lão Tôn cũng mạnh tay thái quá, liên tiếp tập kích tàu quân của nước láng giềng, bị họ liên hợp lại truy quét, đám lâu la kẻ chết người bỏ chạy, căn cứ đảo mà họ chiếm cứ cũng bị đánh chiếm. còn cách nào khác, lão đành đem theo số người thân tín trở về Trung Quốc, còn những kẻ khác cho giải tán.

                  Lão Tôn và Dương Hoài Ngọc về Trung Quốc, lại nhớ đến Thomas mất tích trong rừng sâu núi thẳm xứ Tạng. Hai người bàn nhau, thấy số tiền họ cướp được trong mấy năm nay đủ sống phè phỡn mấy đời, cần làm hải tặc nữa. Nhưng hình ảnh Thomas vẫn canh cánh trong lòng bọn họ, ông ta chưa đạt được tâm nguyện, họ phải giúp ông ta hoàn thành, phải tìm cho ra bí mật của vương triều Lạp Cách Nhật, để Thomas trời có biết cũng được ngậm cười.

                  Bọn họ bàn bạc đường hướng, lại bỏ tiền mua hàng loạt trang thiết bị tân tiến phục vụ việc leo núi thám hiểm, đồng thời chiêu mộ rất nhiều người tài trong dân gian, cùng tiến vào vùng rừng núi xứ Tạng. Đây là vùng giáp giữa hai tỉnh, xung quanh có núi non bao bọc, ba con sông tụ lại, rừng rậm đầm lầy, những nguy hiểm bên trong sao hình dung hết được. Ở huyện lỵ Xương Đô lão tìm được mấy người dẫn đường, nhưng tất cả bọn họ đều bỏ mạng trong rừng.

                  Vừa may gặp được nhóm ba người của Vương Uy, họ liền nảy ra ý định chiêu mộ ba người này vào đội thám hiểm. Thứ nhất là mấy người bọn họ vốn là vật hy sinh trong trận đại chiến Xuyên Trung, hẳn rất thông thạo địa thế xứ Tạng; thêm nữa, họ là lính, trải qua rèn luyện nên nếu gặp nguy hiểm cũng có thể chống chọi lâu hơn.

                  Về sau, lão Tôn giao thủ với Vương Uy, phát viên sĩ quan trẻ này là con cháu nhà họ Vương từng tung hoành Quan Đông mấy chục năm trước, ý muốn lôi kéo ta nhập bọn càng thêm mãnh liệt. Địa vị của Vương gia trong giới lục lâm năm xưa ai biết, có thêm tuyệt kỹ độc môn của nhà họ Vương, khả năng tìm ra vương triều Lạp Cách Nhật càng lớn hơn.

                  Lính của Vương Uy dọc đường bỏ chạy tán loạn, tan tác hết cả, giờ cũng biết Nhị Rỗ sống chết thế nào. Theo bọn người này vào rừng tìm kho báu cũng là lựa chọn tồi, có điều Vương Uy lo cho an nguy của Nhị Rỗ, bèn đặt điều kiện, phải tìm xem những người theo ta sống chết ra sao , mới có thể yên tâm theo họ. Nghe Vương Uy xong, lão Tôn liền khen là người có tình có nghĩa, vội bảo thuộc hạ đóng trại trong rừng để ngày mai do thám tình hình quân đoàn 24.

                  Thuộc hạ của lão Tôn tìm quanh vùng mấy ngày liền, phát người của đại đội cảnh vệ số Hai tiến vào rừng đều bị tiêu diệt, đồng thời cũng tìm thấy ít thi thể binh sĩ đại đội cảnh vệ số Ba, tuy nhiên vẫn thấy Nhị Rỗ đâu. Khu rừng rậm này rất lớn, khó mà lùng sục hết mọi chỗ được, biết đâu họ chết ở nơi nào đó ai biết hoặc bị quân đoàn 21 bắt sống rồi cũng nên.

                  Tuy Vương Uy rất buồn rầu, nhưng chỉ có thể vin vào lý do " tìm thấy xác Nhị Rỗ tức là Nhị Rỗ vẫn chưa chết" để tự dối mình. Đến ngày thứ ba vẫn có tin tức gì về Nhị Rỗ, lão Tôn thể chờ lâu hơn nữa, lão thấy vết thương của Vương Uy cũng đỡ nhiều, bèn quyết định xuất phát.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :