1. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Mariana

Thảo luận trong 'Truyện Phương Tây'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961


                  CHƯƠNG 1


      Lần đầu tiên tôi nhìn thấy ngôi nhà là vào mùa hè tôi tròn năm tuổi.

      Tất cả hoàn toàn là lỗi của nhà thơ. Thực tế, chính chuyến viếng thăm đến nhà bà bác lớn tuổi được cả nhà mến ở Exeter vào dịp cuối tuần đẩy cha tôi vào tâm trạng lãng đãng chất thơ như thế. Đối mặt với ngã ba thình lình xuất con đường về nhà ở Oxford, ông cố tình chọn ngã rẽ trái thay vì rẽ phải. “Con đường hiếm khách vãng lai”, ông bảo chúng tôi bằng giọng hiền hòa và mơ mộng. Và như nhà thơ kia hứa hẹn, điều này quả thực tạo nên tất cả khác biệt.

      Cho khởi đầu, chúng tôi lạc hướng. Mất phương hướng cách vô vọng đến mức, thực tế, chính mẹ tôi phải quẳng bản đồ . Những đám mây cuộn tròn bao lấy vầng thái dương dường như chỉ là tiếp nối cho tâm trạng mỗi lúc u của cha tôi, tất cả chất thơ chẳng thấy tăm hơi khi ông gù lưng lo lắng bánh lái. Đến tận giờ ăn trưa trời đổ mưa, khá nặng hạt, mẹ đưa những chiếc kẹo cho Tommy và tôi trong cố gắng vô ích giữ chúng tôi khỏi chọc tức cha thêm nữa, người với cơn giận trứ danh gần chạm đến điểm giới hạn.

      Những chiếc kẹo có vị bạc hà, kẻ sọc những đường hồng và trắng như những miếng cẩm thạch lớn, khiến chúng tôi phải nhè hết kẹo ra mới chuyện được với nhau. Đến khi chúng tôi tới dãy nhà và cửa hàng đầu tiên trong làng, mặt và tay tôi lem nhem đường, còn đằng trước chiếc váy yếm xếp đăng ten mới tinh đầy nếp nhăn cùng vết bẩn ố màu.

      Tôi chưa bao giờ hoàn toàn chắc chắn về nguyên nhân khiến cha tôi dừng xe ở nơi đó. Tôi nhớ loáng thoáng có con mèo lao qua đường trước mặt chúng tôi, nhưng có lẽ đó đơn thuần chỉ là sản phẩm từ trí tưởng tượng của đứa trẻ mệt nhoài. Dù lý do là gì chăng nữa, chiếc xe cũng dừng chạy, động cơ khựng lại, trong chấn động nối tiếp, tôi có cái nhìn thoáng qua đầu tiên và đẫm nước mắt về ngôi nhà.

      Nó là ngôi nhà cổ to lớn, vuông vức, chắc chắn, nằm cách khoảng với con đường và được ngăn cách bởi đám cây cối um tùm mọc rải rác bao quanh. Mái đá lấp lánh mơ hồ dốc xuống góc đáng sợ hợp lại với những bức tường đá xám bợt bạt, sắc màu nhờ nhờ buồn tẻ bị phá vỡ nhờ đôi ống khói bằng gạch đỏ cùng dãy cửa sổ lớn nhiều ô kính, với khung sơn trắng tinh tươm.

      Khi tôi ấn mũi lên lớp kính lạnh lẽo của chiếc xe, để căng mắt nhìn hơn, sau vài tiếng chửi thề cực kỳ ác độc, cha tôi xoay xở để dỗ được động cơ trở về với sống. Mẹ tôi, nhõm cách ràng, quay sang để kiểm tra hai em chúng tôi.

      “Julia, đừng con”, bà thuyết phục. “Con làm bẩn kính bây giờ.”

      “Đó là nhà của con”, tôi giải thích.

      Tommy của tôi chỉ vào ngôi nhà to hơn và oai vệ hơn nhiều vừa vào tầm mắt. “Ờ, kia là ngôi nhà của ”, đáp trả, ra chiều đắc thắng. Khiến cha mẹ tôi thích thú, hai em tôi tiếp tục trò chơi suốt chặng về, và ngôi nhà màu xám đơn chìm vào quên lãng.

      Tôi thấy nó trong suốt mười bảy năm.

      Mùa hè đó, cái mùa hè tôi bước sang tuổi hai mươi hai, vẫn còn khắc sâu trong trí nhớ của tôi. Tôi vừa tốt nghiệp trường nghệ thuật, và giành được công việc tưởng chừng hoàn hảo ở công ty quảng cáo tại Luân Đôn. Tom của tôi, hơn tôi ba tuổi, mới tốt nghiệp Oxford cùng tấm bằng xuất sắc và ngay lập tức khiến cả nhà choáng váng với việc thông báo kế hoạch tham gia Giáo hội . Gia đình chúng tôi đặc biệt mộ đạo, nhưng Tom hài hước bảo vệ ý kiến rằng, với việc đặt tên như vậy, hầu như chẳng có lựa chọn nào khác trong vấn đề này. “Thomas Beckett [1] ! Con hỏi mẹ”, trêu. “Mẹ còn có thể mong chờ gì nữa nào?”

      [1] Thomas Beckett đọc gần giống tên của Thomas Becket hay còn gọi là Thánh Thomas Canterbury, vị Tổng giám mục tử vì đạo ở Canterbury.

      Để kỷ niệm mốc đánh dầu trưởng thành, Tom và tôi quyết định nghỉ ngắn ngày ở bờ biển nam Devon, nơi chúng tôi có thể tạm quên cha mẹ, trách nhiệm và tận hưởng thời tiết nóng bức đầy ánh nắng mà thiên nhiên ban tặng cho miền nam nước . phải thất vọng, chúng tôi dành tuần hạnh phúc cho việc lang thang bờ biển ở Torquay, hoàn toàn thư giãn, trẻ hóa, và rám nắng.

      Tom, còn mải đắm mình trong lạc quan dâng trào, chỉ định tôi làm hoa tiêu cho chuyến trở về. đáng lẽ phải dự liệu tốt hơn. Trong khi khả năng định hướng bản đồ của tôi chính xác là hề tệ, tôi lại là đứa dễ dàng bị xao nhãng bởi phong cảnh xung quanh. Bởi vậy, lạc khỏi đường chính đương nhiên là điều khó tránh khỏi, chúng tôi cứ thế nhọc nhằn vượt qua chuỗi tưởng như vô tận những ngôi làng bé hao hao nhau được kết nối bằng con đường hẹp có những tán cây rậm rạp đan lại đầu mang vẻ ngoài y hệt đường hầm.

      Sau ngôi làng thứ bảy, Tom bắn sang cho tôi những cái liếc dài buộc tội. Cả hai đều được thừa hưởng màu tóc, màu mắt và những đường nét đẹp đẽ của người mẹ gốc Cornwall, nhưng khi mái tóc và cặp mắt đen mang cho tôi ấn tượng tinh quái nhiều hơn xinh đẹp, có thể giúp Tom trở nên tuyệt đối đe dọa theo ý .

      “Em nghĩ chúng ta ở đâu?” hỏi, với thái độ lịch chết người.

      Tôi nghiêm túc nghiên cứu bản đồ. “Wiltshire, em hy vọng thế”, tôi vui vẻ trả lời . “Nơi nào đó giữa đường.”

      “Hừm, nghe mạch lạc đấy.”

      “Coi nào”, tôi đề nghị, khi đến ngôi làng thứ tám, “sao ngừng bướng bỉnh và hỏi đường ở quán rượu tiếp theo? Thành thực mà , Tom à, cũng tệ y hệt như cha…”. Lời kết thúc trong tiếng ré lên đột ngột.

      Lần này, tôi hề tưởng tượng. con mèo núc ních vàng hoe xông ngay qua đường, thẳng trước mũi ô tô của chúng tôi. Chiếc phanh rít lên phản đối khi Tom đạp phanh, và rồi, bất thình lình, động cơ chết ngóm.

      “Khốn kiếp!”

      “Các cha xứ ăn thế đâu”, tôi nhắc và nhe răng cười vô tư.

      loại bỏ nó ra khỏi hệ thống từ ngữ của mình đây”, đó là lời giải thích của .

      Bật cười, tôi nhìn qua cửa sổ và đông cứng.

      thể tin được”

      biết rồi”, trai tôi đồng ý. “Nhỡ miệng thôi mà.”

      Tôi lắc đầu. “ phải, Tom, nhìn kìa - đấy là nhà của em”

      “Cái gì?”

      “Ngôi nhà xám của em”, tôi . “ nhớ sao, cái ngày con mèo chạy qua đường và làm cha chết máy ô tô ấy?”

      .”

      đường trở về từ nhà bác Helen”, tôi thêm, “ngay sau sinh nhật thứ năm của em. Trời đổ mưa và cha rẽ nhầm lối, rồi con mèo chạy qua đường và cha phải dừng xe”.

      trai tôi nhìn tôi hệt theo cái cách nhà khoa học nghiên cứu mẫu xét nghiệm mới quái dị, và lắc đầu.

      , nhớ.”

      “Ừm, xảy ra mà”, tôi khăng khăng, “và chiếc xe chết máy ngay chỗ này, rồi em trông thấy ngôi nhà đó”.

      “Nếu em thế.”

      Bây giờ chiếc xe bắt đầu khởi động lại, và Tom cho nó táp vào lề đường nên tôi có thể nhìn ràng hơn.

      có biết thế nghĩa là sao ?” Tôi hỏi.

      nghĩ thế có nghĩa là số gia đình ta quá đen với đám mèo ở Wiltshire”, Tom đáp. Tôi chọn cách lờ .

      “Em tự hỏi biết nó bao nhiêu tuổi.”

      Tom nghiêng đầu lại gần hơn. “ nghĩ là từ thời Elizabeth I [2] . Cũng có thể từ thời James I [3] .”

      [2] Elizabeth I (1533-1603): Nữ hoàng trị vì nước từ 1558 đến khi qua đời. Dưới cai quản của bà, quyền lực của nước vươn xa toàn thế giới, đây là giai đoạn huy hoàng trong lịch sử của nước .

      [3] James I (1566-1625) trị vì nước từ 1603 đến khi qua đời năm 1625.

      Tôi quên mất Tom vốn rất say mê môn kiến trúc. Bên cạnh đó, ấy luôn biết tất cả mọi thứ.

      “Em muốn được nhìn gần hơn.” Giọng tôi tràn trề hy vọng nhưng Tom đơn giản chỉ trao cho tôi cái nhìn thoáng qua bao dung trước khi đánh xe vòng vào làng.

      ”, , “ nhòm qua cửa sổ nhà ai đó chỉ để thỏa mãn tính tò mò của em đâu. Bên cạnh đó, người ta để biển ‘Đất tư’ lối vào nhà rồi”.

      được quãng ngắn chúng tôi lái xe vào sân đỗ của quán Sư Tử Đỏ, quán rượu tao nhã có kết cấu phân nửa làm từ gỗ với phần mái lợp tranh cổ kính cùng những chiếc bàn xếp tạm trước hiên để đón khách buổi trưa. Tôi ngồi trong xe, sẵn sàng đổi chỗ sang ghế lái, trong khi Tom vào quán để tu nhanh vại bia và hỏi hướng trở lại đường chính.

      Vì quá bận nghĩ ngợi về quái lạ tột độ khi lạc hai lần tại cùng địa điểm, tôi quên béng bảo trai hỏi xem ngôi làng này tên là gì.

      Phải đến tám năm sau, tôi mới nhận ra lần nữa mình ở Exbury, Wiltshire.

      Lần này, cũng là lần cuối cùng, vào đầu tháng Tư, còn hai tháng nữa đến sinh nhật thứ ba mươi của tôi, và - lần này - tôi bị lạc. Tôi vẫn sống ở Luân Đôn, trong căn hộ cho thuê xíu dần trở nên gắn bó ở Bloomsbury, dù vừa bất ngờ được bác Helen bên đằng nội cho thừa kế khoản kếch xù, đây cũng là bà bác mà nhiều năm trước gia đình chúng tôi ghé thăm ở Exerter. Mới chỉ gặp tôi hai lần, nên vì sao bác chọn tôi làm người thừa kế khoản tiền quá lớn đó vẫn là . có lẽ vì tôi là đứa cháu duy nhất trong dòng họ. Bác Helen, theo cha tôi, là người sở hữu nhân sinh quan gắn chặt với bình quyền nữ giới. “ căn phòng dành riêng cho em”, Tom tuyên bố rành rọt với tôi. “Đấy là những gì bác ấy để lại cho em. Em đọc Virginia Woolf [4] chưa?”

      [4] Virginia Woolf là trong những tiểu thuyết gia đại lừng danh nhất thế kỉ XX, câu châm ngôn “Nếu người phụ nữ định viết tiểu thuyết, ta cần tiền và căn phòng dành riêng cho mình” rất nổi tiếng trong tác phẩm căn phòng riêng của bà.

      Thực số tiền đó thừa sức mua căn phòng, nhưng dù chỉ là chút mơ hồ, tôi cũng chẳng biết xử lý số tiền đó ra sao. Tom nhất quyết từ chối lời đề nghị của tôi chia khoản thừa kế cho , còn cha mẹ tôi cũng bảo cần, vì sau khi cha tôi nghỉ làm bác sĩ phẫu thuật cha mẹ tôi cũng sống thừa sung túc rồi. Vậy đấy.

      Phần lớn thời gian tôi đều khá bận rộn, khi cứ phải luân phiên làm những việc từ thiết kế đồ họa cho đến vẽ tranh minh họa, lĩnh vực vừa mang cho tôi nhiều hứng thú lẫn thù lao hậu hĩnh hơn. Nhờ chút may mắn, trước đó tôi có cơ hội làm việc với tác giả vô cùng tài năng, và việc cộng tác cho ra đời tuyển tập các câu chuyện giả tưởng cho thiếu nhi mang lại danh tiếng đáng kể cho tôi trong công việc, đây là còn chưa kể mức sống ổn định hơn. Tuần đó, tôi vừa được uỷ quyền vẽ minh họa cho tuyển tập mới vô cùng đồ sộ về truyền thuyết và các câu chuyện cổ tích đến từ khắp nơi thế giới, dự án khiến tôi vô cùng hào hứng và hứa hẹn giữ cho tôi bận rộn suốt phần lớn thời gian còn lại trong năm. gì có thể diễn tả nỗi niềm hạnh phúc của tôi.

      Thông thường, tôi ăn mừng cơ may của bản thân cùng gia đình, nhưng bởi cha mẹ tôi nghỉ ở nơi cách nửa vòng trái đất và Tom bận rộn với các buổi lễ Phục sinh, tôi đành chuyển sang phương án hay ho tiếp theo và dành ra những ngày cuối tuần đến Bath [5] cùng bạn. Vào sáng thứ Hai, khi nhận thấy dòng xe cộ trục đường chính hơi đông quá mức với mình, tôi bẻ lái sang hướng bắc và dọc con sông Kennet dịu dàng uốn lượn đổ về Luân Đôn.

      [5] Thành phố ở nổi tiếng với suối nước nóng và khu nghỉ dưỡng do người La Mã xây dựng từ hàng nghìn năm trước.

      Trời tuy hơi lạnh nhưng vẫn là ngày mùa xuân hoàn hảo, hàng cây hai bên đường hăng hái vươn lá non như cây vùng nhiệt đới. Với ngưỡng mộ mùa xuân, tôi lái xe với những khung cửa kính được hạ xuống, khí có mùi ngọt ngào của mưa, đất và vạn vật sinh sôi.

      Với tiếng khò khè phản đối, chiếc xe Peugeot thấp khớp nhưng đáng tin cậy của tôi leo lên ngọn đồi . Ghìm tốc độ, tôi vượt qua vòng cung rộng nơi con đường dốc xuống thung lũng trước khi vượt qua Kennet chiếc chầu đá hẹp. Khi vọt qua chiếc cầu, tôi cảm giác ngứa ran lờ mờ sau gáy mình, và những ngón tay bất giác siết lấy vô lăng.

      Ngạc nhiên nhất là tôi hoàn toàn hề bất ngờ, vào lần này, lúc nhìn thấy ngôi nhà. hiểu vì sao, tôi gần như trông đợi nó nằm ở đó. Tôi cho xe lăn bánh chầm chậm, rồi đỗ lại và tắt máy, ngay đối diện lối lái xe dài rải đầy sỏi. con mèo vàng nghênh ngang băng qua đường mà thèm liếc mắt nhìn tôi, và biến mất vào trong đám cỏ dập dờn. Ba lần trong đời người, tôi tự nhủ, thậm chí nếu có con mèo, điều này chắc chắn nằm ngoài phạm vi của trùng hợp ngẫu nhiên.

      Chắc chắn, tôi suy luận, người nào đó sở hữu ngôi nhà cũng thực phiền lòng nếu tôi tùy tiện ngó nghiêng xung quanh, phải nhỉ…? Khi tôi còn ngập ngừng cắn môi, bầy sáo đá đập cánh bay lên từ cánh đồng ngay bên cạnh, tụm lại và nhảy lích chích ngôi nhà đá màu xám, rồi biến mất.

      Đối với tôi, đó là yếu tố mang tính quyết định. Từ cách nhìn nhận của mẹ tôi, tôi cũng được thừa kế bản tính mê tín từ những tổ tiên Cornwall, và bầy chim sáo chính là điềm lành theo quan niệm của bản thân tôi. Từ thưở , bất cứ khi nào tôi nhìn thấy bầy chim sáo có nghĩa có chuyện gì đó rất tuyệt sắp xảy ra. Tom luôn cố gắng chỉ ra kẽ hở trong niềm tin này bằng cách nhắc tôi nhớ chim sáo ở các đồng quê nước hề hiếm, và mối liên kết của chúng với hạnh phúc của tôi chỉ là xác suất ngẫu nhiên quá lớn mà thôi. Tôi tiếp tục hoài nghi. Chỉ biết những chú chim sáo chưa bao giờ dẫn tôi nhầm lối, lúc nhìn chúng quay trở lại và bay khỏi ngôi nhà, tôi đột ngột ra quyết định.

      Tôi vồ lấy chiếc áo choàng xanh lá bùng nhùng từ ghế bên cạnh và ra khỏi xe; thiếu chút nữa thụt chân xuống rãnh trong trạng thái quá háo hức. Tôi phải thừa nhận kiểu ăn mặc của bản thân hề phù hợp với chuyện thăm thú, khi kéo chiếc áo khoác trùm lên quần jean cùng chiếc áo nỉ xù lông – nhưng cũng chẳng ích gì. Tôi lùa bàn tay qua mái tóc trong cố gắng đến tuyệt vọng làm mượt những lọn tóc ngắn bờm xờm, nhưng con gió ẩm ướt thổi phá hỏng mọi nỗ lực của tôi.

      Giờ , tôi nghĩ, nên dùng lý do nào bây giờ? Lạc đường? Xin ly nước? Hay xe gặp trục trặc? Tôi ngó lại chiếc Peugot lồi lõm và méo mó rồi gật đầu. Hỏng xe, tôi quyết định. Ai cũng tin điều đó. Nhẩm lại đoạn thoại của mình, tôi băng qua đường và bắt đầu lên lối xe rải sỏi. tấm biển rạn nứt và bạc thếch cùng dòng chữ “Đất tư” sơn đỏ phai màu ủ rũ treo chiếc đinh đóng cái cây gần đó. cách dũng cảm, tôi tiếp tục kiên trì, hy vọng những bước chân tạo ra tiếng lạo xạo với những người trong nhà như với đôi tai của chính mình.

      Ngôi nhà trông hệt như những gì mà tôi ghi nhớ - mái ngói đỏ với những ống khói bằng đất nung; những khung cửa sổ trắng nằm cân xứng, bốn ô kính bên và bên dưới; những bức tường thô kệch dưới vòm đá đen dốc đứng. Thứ khác biệt duy nhất là cái cửa. Tôi luôn hình dung nó có màu nâu, nhưng lúc này tôi trông thấy màu xanh thẫm ràng, tạo nên tương phản nét với khung đá đồ sộ bao xunh quanh.

      Tiếng gõ cửa của tôi vọng lại nặng nề với thanh trầm đục và trống rỗng. Tôi gõ ba lần lên cánh cửa gỗ chắc nịch, trước khi phải thừa nhận chẳng có ai trả lời tiếng gọi cửa.

      Có nghĩa là chẳng có ai ở nhà. Và, tôi hạnh phúc nghĩ thầm, bởi có ai ở nhà, dẫn đến ai cảm thấy phiền hà nếu tôi vòng ra sau ngôi nhà và tiếng người đàn ông đột ngột vang lên đằng sau tôi.

      “Ông ấy có nhà đâu.”

      giọng thân thiện, với lối phát có chút thuần khó nghe, từ xa vọng lại. Nhưng tôi nhận ra bất cứ dấu hiệu nào ngay lập tức. Tôi giật mình quay phắt lại, làm chồng chậu hoa rơi loảng xoảng xuống đất.

      Ban đầu tôi nhìn thấy ai, nhưng khi cứ đứng đó nhìn chằm chằm, dáng hình người đàn ông dần tách ra khỏi bức tường đá đổ nát và băng qua bãi cỏ về phía tôi. ta còn trẻ, có lẽ nhiều hơn tôi năm tuổi, mặc áo lao động bằng vải thô và đeo đôi găng tay dài bằng da kỳ quặc như thể có từ thời trung cổ và vô cùng bất hợp lý.

      “Tôi định khiến hoảng sợ”, ta xin lỗi. “Tôi tưởng tìm Eddie, ông ấy có ở đây.”

      Giờ ta đến khá gần, đủ gần để tôi có thể nhìn thấy mái tóc nâu vàng và cặp mắt màu xám tro, ràng là người Scotland. ta mỉm cười, nụ cười cũng thân thiện đôi cùng giọng .

      là bạn của Eddie à?” ta hỏi.

      Tôi lắc đầu.

      “Ra là họ hàng.”

      .” Củng cố thêm lời thú nhận, mặt tôi thoáng đỏ. Tôi linh cảm câu chuyện bịa về chiếc xe hỏng của mình qua được đôi mắt xám sắc sảo đó. “, tôi quen chủ nhà. Liệu có biết khi nào ông ấy trở lại ?”

      Người đàn ông nghiêng đầu sang bên và nhìn tôi dò xét, phần nào khiến tôi nhớ đến trai mình.

      “Tôi hy vọng là ”, ta đều giọng . “Chúng tôi mới chôn cất ông ấy tháng trước.”

      “Ôi, tôi xin lỗi.” Sắc màu má tôi sậm hơn. “Tôi thực xin lỗi.”

      hại gì cả.” ta nhún vai. “Vậy chỉ ngó nghiêng thôi, đúng ?”

      Mặt tôi, lần này chuyển sang đỏ lừ, và tôi cứ có cảm giác bồn chồn ràng của mình khiến ta thích thú. Phải mất lúc toàn bộ tầm quan trọng trong điều ta vừa mới cuối cùng cũng lắng xuống trong tôi, và tôi đột ngột quên tình trạng bối rối của bản thân.

      Tôi nhanh chóng ngước mắt lên. “Tức là ngôi nhà rao bán?”

      “Phải. Nên muốn xem xét nó hả?”

      “Tôi muốn mua nó. Tôi chờ để mua ngôi nhà này hai mươi lăm năm rồi.”

      Người đàn ông nhướng bên lông mày nâu đỏ, rồi tôi phát ra biết vì lý do ngớ ngẩn bản thân lại bập bẹ toàn bộ câu chuyện về “Ngôi nhà và tôi”, còn ta lắng nghe với kiên nhẫn rất đáng ngưỡng mộ. Tôi tưởng tượng nổi ta thấy câu chuyện đáng thú vị ở chỗ nào. Khi tôi kết thúc bài tường thuật ngây ngô, tầm mắt ta đón ánh mắt tôi lần thứ hai, và vẻ tương đồng với trai tôi thậm chí còn rệt nhiều hơn nữa.

      “Hừm”, ta nghiêm nghị , “thế tốt nhất nên gặp ông Ridley ở đường Thượng. Tôi mang chìa khóa theo, tôi dẫn xem quanh đây rồi”. ta cởi chiếc găng và chìa tay ra bắt. “Nhân tiện, tôi là Iain Sumner.”

      “Julia Beckett.” Tôi phải sửa lại biểu cảm khi nhìn thấy bàn tay ta, bởi lại mỉm cười lúc nhìn xuống những vết cứa xíu làn da mình.

      “Do bụi mâm xôi”, ta giải thích. “Tôi mà tỉa bớt là chúng lại làm tắc nghẽn khu vườn của tôi. đau đâu”, ta vừa cam đoan vừa kéo lại găng tay. “Tốt hơn hết tôi nên quay lại làm việc. Chúc may mắn với ngôi nhà nhé.”

      “Cảm ơn ”, tôi , nhưng ta ra khỏi tầm nghe mất rồi.

      Năm phút sau, tôi ngồi trong văn phòng của Ridley và Staward, những người môi giới bất động sản. Thú thực, tôi nhớ được nhiều về chiều hôm đó. Tôi có chút ấn tượng mấy ràng về những lời dông dài của ông Ridley với các vấn đề luật pháp, chuyển nhượng và điều tra gì đó, nhưng tôi cũng thực chú ý lắng nghe.

      có chắc”, ông Ridley hỏi tôi, “rằng muốn xem nhà trước ?”.

      “Tôi thấy nó rồi”, tôi đảm bảo với ông ta. Thành thực mà , những thủ tục thế này dường như cần thiết. Nó, sau cùng, là nhà của tôi. Nhà của tôi. Tôi vẫn ôm nhận thức đó cách mạnh mẽ, như đứa trẻ ôm món quà, khi gõ lên khung cửa nhà mục sư ở khu vực St. Stephen, Elderwel, Hampshire, chiều hôm đó.

      “Chúc mừng em nào, mục sư.” Tôi cười rạng rỡ trước cái giật bắn mình gương mặt của tôi. “ thực tế, chúng ta trở thành hàng xóm. Em vừa mới mua ngôi nhà ở Wiltshire.”

                  CHƯƠNG 2


      “Cái này để ở đâu vậy, thưa ?”

      chàng phụ tá trẻ tóc vàng của đội vận chuyển nhấc bổng chiếc văng dễ dàng như bê món đồ chơi, và ngừng lại ở hành lang chờ tôi chỉ dẫn.

      Tôi bận lục lọi trong đám hộp chứa vật dụng linh tinh, cố gắng định vị ấm pha trà cũ kỹ gắn bó lâu năm của mình trước khi chiếc ấm đun nước tôi mới bắc bếp lò sôi. Tôi lơ đễnh liếc qua vai.

      “Trong phòng ngủ của tôi”, tôi bảo ta. “Phòng đầu tiên bên tay phải của ngay tầng ấy. A, đây rồi!”

      Tay tôi sờ ngay đường cong thân thuộc nơi tay cầm của ấm trà đúng lúc ấm nước sôi lên với tiếng rít sắc nhọn. Ngắt van an toàn của bình ga, tôi xúc ít lá trà sấy cho vào trong bình, châm ngập nước nóng và đặt lại bếp lò trong lúc chờ đợi.

      “Thưa Beckett?” Là ông Owen, người quản lý đội vận chuyển, cùng phụ tá khác đứng ở cửa sau. Gương mặt tròn tròn vui vẻ của ông ta hồng lên vì cố sức. “Chúng tôi đặt bàn bếp của ở đây. Mang nó vào từ phía sau có lẽ là tiện nhất – tôi thích lưu lại dấu vết lên khung cửa gỗ ở sảnh trước.”

      Tôi nhường đường cho họ, kéo hay hai chiếc hộp trong cùng.

      “Tôi vừa mới châm trà”, tôi , “nếu ông và người của ông muốn tách. Ôi thôi chết”, tôi nhìn quanh, đột nhiên nhớ ra. “Tôi vẫn chưa dỡ chiếc tách nào ra hết.”

      “Xin đừng ngại.” Ông Owen tử tế nháy mắt. “Tôi có sẵn hộp cốc trong xe tải. Lúc nào tôi cũng chuẩn bị.”

      chàng phụ tá trẻ tóc vàng hoe quay trở lại, trông có vẻ lúng túng. “ có chắc ý là cánh cửa thứ nhất bên tay phải , thưa ? Nhìn nó giống phòng ngủ bởi nó khủng khiếp và còn có giá vẽ hoặc thứ gì đó bên trong.”

      Tôi vỗ bàn tay lên trán và mỉm cười xin lỗi.

      “Thứ lỗi cho tôi, ý tôi là cánh cửa thứ ba bên tay phải. Phòng ngủ lớn ở mặt phía bắc ngôi nhà.”

      “Ổn rồi, thưa .” Gương mặt ta giãn ra, và ta biến mất lần nữa.

      “Lúc nào cũng có chút hoang mang, phải ?” Ông Owen đẩy chiếc bàn vào vị trí sát vách phòng cất thức ăn. “Chẳng mấy chốc sắp xếp mọi thứ đâu ra đấy thôi. Phải rồi, tôi nghĩ đồ đạc đều mang cả vào trong rồi đấy. Chỉ còn lại đống hộp thôi. Vậy để tôi lấy cốc uống trà ngay nhé?”

      Ông ta có chút gì đó kỳ lạ, chắc chắn là người đàn ông ngăn nắp nhất tôi từng gặp, và rất xứng đáng với khoản tiền tôi định trả thêm cho những dịch vụ của ông ta. Khi mua ngôi nhà ba tuần trước, tôi quá bận tâm dến chuyện chuyển đồ của mình từ Luân Đôn về Exbury. Nhưng ngay khi trở lại căn hộ của mình đường Bloomsbury và bắt đầu đóng gói, tôi mau chóng nhận ra cần phải nhờ đến trợ giúp chuyên nghiệp. Ngoài nội thất phòng ngủ từ thời Victoria theo đúng ước nguyện của tôi – tài sản thừa kế khác từ bác Helen – còn có nội thất phòng khách và đồ đạc bên trong bếp, tất cả dụng cụ vẽ, bảng vẽ, vài trăm cuốn sách tôi mang về từ các phiên đấu giá và những cửa hàng sách cũ trong suốt những năm ở Luân Đôn. Theo giới thiệu của người bạn thân, tôi gọi cho ông Owen, và ông ấy nhận nhiệm vụ, chẳng khác hiệp sĩ đại đến giải cứu cho tôi là mấy.

      Trong căn hộ của tôi, đống hộp đựng đồ được đánh dấu và dán nhãn gọn gàng trông đồ sộ và hoành tráng bao nhiêu ở đây, trong căn nhà này, khó mà phát ra chúng, khi chúng trở nên nhoi trước tầm vóc tuyệt đối của kiến trúc cùng dãy phòng rộng lớn ngập ánh nắng. Tôi rất hài lòng khi phát phần bên trong ngôi nhà cổ cũng quyến rũ đến từng phần hệt như bên ngoài, và khá phù hợp với sở thích truyền thống của tôi.

      Bước qua cửa chính vào sảnh lớn phía trước, cửa chính được ghép từ những tấm ván bằng gỗ sồi bóng loáng vô cùng lộng lẫy. “Thế kỷ mười bảy”, ông Owen liếc qua và tuyên bố, “và cực kỳ hảo hạng”. Thẳng về phía trước, cầu thang từ gỗ sồi chắc nịch đặt ngay chính sảnh dốc lên vài bậc, ngừng tại chiếu nghỉ vuông vức, rồi xoay góc chín mươi độ đột ngột ngoặt sang bên trái và tiếp tục hành trình lên tầng . Những cánh cửa dẫn đến phòng khách và phòng đọc mở lối tương ứng hai bên trái phải phía sau sảnh, trong khi mé phải của cầu thang là hành lang thông đến bếp. Phòng ăn, bếp và phòng để chén đĩa kiểu cũ choán hết nửa phần sau của tầng trệt, từ những khung cửa sổ lớn ngập sáng có thể nhìn bao quát đồng cỏ xanh um rải rác những đóa hoa dại chớm nở của mùa xuân.

      Có bốn phòng ngủ ở tầng. phòng lớn, có chiều dài chạy khắp mặt bắc của ngôi nhà bên phòng đọc và phòng để chén đĩa, hiển nhiên được lựa chọn làm phòng ngủ của tôi. Nó thậm chí còn được thiết kế lò sưởi riêng, cùng với tủ búp phê cỡ đại náu trong gian bên dưới những bậc thang lên gác mái. Tôi chọn phòng ngủ phía sau làm xưởng vẽ, và bằng lòng để hai phòng phía trước bỏ trong khoảng thời gian, dùng làm khu vực nhà kho cho đến khi tôi hoàn toàn ổn định. Giữa xưởng vẽ và phòng ngủ, khoảng khá rộng, là phòng tắm đầy đủ tiện nghi – khá sang trọng so với ngôi nhà cổ.

      Đương nhiên vẫn có vài chỗ rạn và kêu cọt kẹt, vài phản đối từ đám ống nước, cũng như ẩm ướt bóp vụn lớp vữa trát quanh những khung cửa sổ ở tầng , nhưng có gì thể đặt về đúng chỗ, cách kịp thời.

      “Ngôi nhà cổ mua đáng đấy”, ông Owen , như thừa nhận với những suy nghĩ của riêng tôi khi ông ta ngồi lên chồng thùng đựng đồ bên cạnh và đưa cho tôi chiếc cốc nhựa. “ nó được xây vào khoảng năm 1580 phải ?”

      “Đấy là điều mà người môi giới bất động sản với tôi.” Tôi gật đầu, rót trà đặc cho người vận chuyển và hai phụ tá toát mồ hôi của ông ta, rồi an vị lên chỗ ngồi tạm thời để tận hưởng cốc trà nghi ngút khói của mình. “Tôi e mình biết nhiều lắm về lịch sử ngôi nhà.”

      “Ồ, dân làng rồi bổ sung chỗ khuyết ấy cho thôi”, ông Owen tinh tường phát biểu. “Những ngôi nhà cổ như thế này luôn có quá khứ. Phần lớn trong số đó đều vô cùng thú vị. Từ người dân địa phương, biết vô khối chuyện hơn bất cứ cuốn sách lịch sử nào.”

      “Tôi ghi nhớ điều đó.”

      Hai người đàn ông trẻ hơn lễ phép thưởng thức trà trong im lặng, kiên nhẫn chờ ông Owen kết thúc cuộc chuyện và ra dấu cho họ trở lại công việc. Cuối cùng, sau tách trà thứ hai, ông ta đứng dậy. Ngay lúc đó, tiếng sập khủng khiếp dội vào sảnh trước, làm tôi nhảy dựng khỏi chỗ.

      “Chỉ là cửa trước thôi, thưa ”, trong hai nhân viên vận chuyển trẻ tuổi giải thích. “Các bản lề bị cong vào trong, thấy đấy, còn then cài cũng mấy chắc chắn. Gió mạnh cái cũng bật tung cả cửa.”

      Ông Owen nhanh chóng kiểm tra cánh cửa, lắp thêm lớp bảo vệ cho tay cầm bên trong để tránh gây thiệt hại nhiều hơn cho bức tường ốp gỗ đằng sau, và đề nghị tôi mua ổ khóa mới càng sớm càng tốt. “Cẩn thận chẳng bao giờ thừa đâu”, đó là lời khuyên chân thành như người cha dành cho con của ông.

      Chưa đầy giờ, ba người đàn ông hoàn thành công việc tháo dỡ và sắp xếp phần còn lại trong đống đồ đạc của tôi, và vào lúc hai rưỡi, tôi đứng ngay ngưỡng cửa, vẫy chào lần cuối với chiếc xe tải khuất dần và có cảm giác, lần đầu tiên trong đời, vô cùng bấp bênh với chính bản thân mình. Và cực kỳ đơn độc.

      Cảm giác lớn lao từ những gì vừa làm đột ngột đánh vào tôi, với cường độ ngay cả toàn bộ chủ nghĩa hoài nghi của trai lẫn những bài diễn thuyết nhàng hơn điện thoại của cha mẹ tôi cũng khó có thể đạt được.

      Tôi tuyên bố có thể thoải mái làm việc khi ở Exbury cũng như khi ở Luân Đôn. thực tế, ràng tôi còn có thể có nhiều cảm hứng hơn khi ở Exbury, tránh xa những xao nhãng mà thành phố mang lại cho tôi. Và sau cùng, mua nhà nghe có vẻ mang tính chất đầu tư. Còn thực, việc này thay đổi từ môi trường thân thuộc và quây quần của những người bạn quen biết từ lâu sang cộng đồng những người xa lạ chưa bao giờ có vẻ quá quan trọng với tôi. Cho đến giờ phút này. Tôi có cảm giác nhói đau chút với khao khát khi nghĩ tới căn hộ ở tầng ba, và bà hàng xóm Angie, ở dọc hành lang, người luôn sống lệ thuộc vào tách cà phê và những câu chuyện buôn dưa lúc ban chiều.

      Dù vậy nỗi khao khát ấy cũng nhòe trong thoáng chốc, khi tôi từ sảnh quay vào phòng đọc. Đó là căn phòng yên tĩnh đáng , với những bức tường ốp gỗ tối màu, những hàng giá sách trống thoảng mùi dầu chanh, và lò sưởi trông vô cùng ấm áp tương tự như chiếc lò trong phòng ngủ tầng của tôi. Lúc rạng sáng, ánh mặt trời chiếu qua khung cửa sổ thiếu rèm, trải rộng, xiên những đường chiếu vuông vức lớp da nâu bọc chiếc sô pha cũ của tôi. Giờ ánh nắng chao nghiêng, và lờ mờ yên ả. Ngoài chiếc sô pha, những vật dụng duy nhất còn lại được tôi thêm vào căn phòng là chiếc ghế bành tương xứng đặt trước lò sưởi và bộ bàn viết cùng ghế đơn giản làm từ gỗ cây óc chó. Giờ phút này, chúng bị chôn vùi bên dưới các thùng đựng sách và giấy tờ chuyển đến cùng với tôi.

      Ý tưởng bắt đầu dỡ đồ của mình ở đây cám dỗ, nhưng từ kinh nghiệm, tôi thừa biết rằng xao nhãng mà việc đó gây ra đến mức nào. cuốn sách cũ thích mà tôi hân hoan tìm thấy giữa thùng đồ, đồng nghĩa với việc tiêu tốn phần còn lại của buổi chiều trong lãng quên, vô bổ và niềm hạnh phúc của tôi. Tốt nhất nên dọn phòng đọc cuối cùng, tôi kết luận, và bắt đầu ở nơi hợp lý và thực tế nhất – phòng bếp.

      Tôi miễn cưỡng đóng cửa phòng đọc và rút lui ra phía sau ngôi nhà, vài giờ tới, tôi tấn công các hộp đồ đóng gói ở đó với hăng hái phải khiến mẹ tôi tự hào. Sau cùng, công việc nặng nhọc cũng bỏ tôi lại với lớp bụi dày bao quanh, và ước ao – giống như chú chuột chũi trong câu chuyện thiếu nhi thích của tôi - hít thở bầu khí mát lành của mùa xuân.

      Với tính bốc đồng của chú chuột chũi, tôi kéo rộng cánh cửa sau nhà và thơ thẩn bước ra ngoài, đón chào cơn gió nô đùa làn da và thổi những lọn tóc lòa xòa vầng trán mướt mồ hôi của mình. Tôi chùi hai lòng bàn tay lên quần để lau phần cáu bẩn cứng đầu nhất, và đứng chống tay trong chốc lát, tận hưởng cảm giác tự do vô cùng xứng đáng.

      Ánh mắt tôi lướt chồng đá ngổn ngang, nơi Iain Sumner từng đứng cái ngày tôi mua ngôi nhà, và tôi thích thú rẽ về hướng ấy.

      Nó cách ngôi nhà khoảng hơn hai mươi bảy mét, ngay bên ngoài ranh giới đất nhà tôi, mặc dù giống với phần của hàng rào, nó cũng toát lên vẻ cân xứng để có thể trở thành bức tường tự nhiên. Khi tiến lại gần hơn, tôi thấy những khối đá được xếp thành hình chữ L, mạn dài hơn của chữ L chạy song song với tường sau nhà tôi. Tại những vị trí đó, bức tường thấp hơn chiều cao mét sáu của tôi, và trong góc khuất của chữ L, ai đó cẩn thận xới đất để làm thành khu vườn. Lớp đất đen được lên luống gọn gàng và mới bón phân, sẵn sàng để gieo trồng.

      “Vậy là mua nó.”

      Lần thứ hai tôi nhảy dựng lên và quay phắt lại, trước thanh từ giọng của Iain Sumner. ta phải người bé gì cho cam và cái cách ta băng qua bãi cỏ mà tôi hề hay biết quá kỳ quái. Nhanh chóng lấy lại bình tĩnh, tôi có thể chào đón ta bằng nụ cười rạng rỡ nhất của mình. ta mặc chiếc áo len xù xì màu nâu cùng chiếc quần lao động và đội chiếc mũ nâu có vành lấm tấm bẩn. ta kéo ngược chiếc mũ ra sau đầu và đôi mắt xám đáp lại nụ cười của tôi.

      mua ngôi nhà”, ta lặp lại.

      Đó là lời tuyên bố, phải câu hỏi, nhưng dù sao tôi vẫn trả lời. “Vâng.”

      “Mấy tuần vừa rồi trở thành chủ đề bàn tán của cả dân làng, tôi tốt hơn hết nên cảnh báo , vì ông Ridley tiết lộ là họa sĩ đến từ Luân Đôn, nên tất cả mọi người đều rất tò mò. Nếu có vài người bạn bất hảo và buông thả để mời xuống chơi cuối tuần, tốt nhất nên kết bạn ngay , cả làng thất vọng mất.”

      Tôi bật cười. “Tôi e họ thấy tôi vô cùng nhàm chán. Và tôi có người bạn buông thả nào cả.”

      người họ hàng bất hảo?”

      “Tất cả đều chuyển đến New Zealand rồi. Giờ cha mẹ tôi cũng ở đó, thế nên thực tế trong tương lai gần chỉ có mỗi mình tôi có thể ghé qua thôi”, tôi giãi bày. “Và ấy là mục sư.”

      “À. Thế”, ta chấp nhận thông tin cách nhã nhặn, nghiêng đầu sang bên. “ thấy khu vườn của tôi thế nào?”

      “Rất đẹp”, tôi thành . “Hóa ra đây là đất của ?”

      .” ta lắc đầu. “Nó thuộc về người bạn của tôi. Tôi chỉ giúp cậu ta thôi. Chỉ còn chút gian cho vài loại hoa, nhiều lắm.”

      “Và bụi mâm xôi”, tôi thêm vào, nhớ về đôi tay của ta.

      “Phải.” ta nhe răng cười rầu rĩ. “Và bụi mâm xôi. Đồng hành với nghề làm vườn, thế đấy.”

      Tôi vươn bàn tay chạm vào bức tượng đá, rất thích cảm giác bề mặt ram ráp ấm lên trong ánh mặt trời bên dưới những ngón tay.

      “Trước đây nơi này là gì vậy?” Tôi hỏi ta.

      “Từng là chuồng bồ câu, người ta kể với tôi thế, để nhốt những chú chim bồ câu. Giờ còn lại nhiều lắm.”

      “Nó lâu đời lắm phải ?”

      “Cũng như ngôi nhà, tôi tin vậy. Có khi còn cổ hơn.”

      “Vậy những người sống ở đây ban đầu là nông dân chăng?”

      “Rất có thể là những người nông dân thuê đất.” ta nhún vai. “Nơi đứng là đất thuộc trang viên, luôn luôn là vậy theo những gì tôi được biết.”

      “Tôi có hứng thú với các ngôi nhà cổ”, tôi thú nhận, bàn tay vẫn lơ đãng vuốt ve phiến đá bạc màu, “nhất là ngôi nhà này. Tôi rất muốn được hiểu thêm về lịch sử của nó”.

      “À”, ta đập hai tay vào nhau và , “vậy chuyện với nhầm người rôi. Tôi sống ở đây chưa được năm năm. Vivien mới là người nên trò chuyện”.

      “Vivien?”

      “Phải.” Đôi mắt ta dịu . “Vivien Well, ở quán Sư Tử Đỏ. ấy là cuốn sách bách khoa toàn thư chính cống di động. Nếu như có điều gì ấy biết, tức là điều ấy đáng bận tâm.”

      Tôi thực lắng nghe, bởi khi ngẩng đầu lên toàn bộ chú ý của tôi bị người cưỡi ngựa đơn độc xuất từ xa ngay sau vai Iain Sumner nắm giữ. Người đó đứng dưới bóng cây sồi, dõi theo chúng tôi. Chú ngựa có màu xám, to lớn và đầy sức mạnh, còn người cưỡi ngựa là người đàn ông mặc quần áo màu đen, nhưng cách quá xa để tôi có thể nhìn thấy ràng.

      Iain Sumner nhíu mắt. “Có gì ổn sao?”

      “Gì cơ?” Tôi mang ánh mắt hối lỗi trở lại nhìn ta. “Xin lỗi. , tôi chỉ nhìn người đàn ông kia thôi.”

      “Người đàn ông nào?”

      “Người đàn ông lưng ngựa, đằng sau ”, tôi vừa vừa chỉ.

      ta quay lại, nhưng bóng râm bên dưới cây sồi trống trải.

      Tôi lắc đầu. “ ta mất rồi. người to lớn, cưỡi ngựa xám.”

      “Có thể là Geoff”, Iain chậm rãi . “Đấy vẫn thuộc đất trang viên. Dù tôi biết cậu ta có con ngựa xám nào trong chuồng ngựa .”

      quan trọng đâu”, tôi bảo ta.

      “Có lẽ .” ta mỉm cười. “Tôi tốt hơn hết nên quấy rầy nữa. Tôi quay lại với cái mai của mình đây.”

      ta tìm được món dụng cụ bị bỏ quên trong góc tường và chúc tôi buổi chiều tốt lành, rồi kéo chiếc mũ sụp che đôi mắt và vừa sải bước xuống con đường vừa huýt sáo.

      Sau khi nhìn quanh lần cuối, tôi trở lại ngôi nhà, nơi còn khả năng nắm giữ nguồn nhiệt huyết trước đó nữa, tôi lờ quyết định ban đầu và lưu mình trong phòng đọc. Sau khi dỡ gần hai thùng sách, tôi tình cờ chạm phải bản in Đá Mặt Trăng quăn góc của Wilkie Collins. Qua nửa đêm, tôi cuối cùng mới lết được lên tầng để tắm rửa rồi rã rời ngủ thiếp , với bóng cây bạch dương vắt ngang giường ngủ như người bảo vệ.

    2. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

      CHƯƠNG 3


      khó khăn để xác định vị trí của Vivien Wells trong quầy bar của quán Sư Tử Đỏ chiều hôm sau. Đây chính là quán rượu Tommy và tôi dừng lại để hỏi đường nhiều năm trước. Những thanh rầm từ vương triều Tudor [1] cùng lớp vữa trát dưới mái lợp tranh mới trông sạch hơn những gì tôi còn nhớ. Bên trong, khu vực quầy bar chính có trần thấp hơn và có vẻ ấm cúng, có lẽ hơi cũ kỹ nhưng thoải mái, nền nhà cũ được phủ tấm thảm mòn vẹt như hút hết thanh trò chuyện.

      [1] Vương triều trị vị nước từ năm 1485 đến 1603.

      Trừ nhóm vài người đàn ông luống tuổi tụ lại quanh bàn trong góc, tôi là khách hàng duy nhất còn lại tận hưởng bầu khí thân thiện của quán rượu vào giờ này trong ngày. Và trong hai người đứng quầy, chỉ có người là phụ nữ.

      Vivien Wells cao và trông rất khỏe mạnh, cũng trạc tuổi tôi, với mái tóc dài màu mật ong, đôi mắt xanh dương chân thành và nụ cười thoáng lúm đồng tiền. Vừa nhìn, tôi thấy thích ấy rồi.

      ấy đẩy ly Gin Tonic [2] qua quầy về phía tôi và chống hai khuỷu tay lên mặt gỗ sứt sẹo, nghiêng đầu đánh giá.

      [2] loại cocktail.

      “Iain rất đẹp”, ấy nhận xét hề ác tâm, làm tôi ngượng ngùng trở mình ghế.

      ấy bảo cuốn bách khoa toàn thư”, tôi mở lời khiến ấy bật cười thích thú.

      “Vậy là ca ngợi rồi. Công cuộc thưởng thức Đàn Cừu Xám của thế nào rôi?”

      Tôi nhướn mày. “Gì cơ?”

      “Nhà của ”, ấy thêm. “Đấy là tên của nó.”

      “Tôi tưởng tên nó là Mạn Sông. ràng đấy là tên giấy tờ chuyển nhượng mà?”

      “Đó là tên Eddie đặt”, ấy bảo tôi. “Người chủ sau cùng. Ông ấy nghĩ tên đó nghe hay hơn, mặc cho hiển nhiên là chúng tôi chẳng có mạn sông nào mấy dặm quanh đây cả. Nó đơn giản chỉ là Đàn Cừu Xám từ khi tôi lớn lên thôi, và tất cả mọi người vẫn gọi nó thế.”

      “Đàn Cừu Xám.” Tôi cố thử cảm giác của cái tên đầu lưỡi. “Nghe cũng rất lãng mạn.”

      “Thực thú vị đâu.” Vivien Wells mỉm cười với tôi. “Đó chỉ là tên từ xưa của thứ đá người ta dùng để xây dựng ở đây thôi. Đá sa thạch. biết đấy, giống như loại ở Stonechenge [3] . Từng có hàng trăm khối nằm nghiêng ngả khắp các cánh đồng và những người thợ xây chỉ cần lấy phiến đá họ muốn.”

      [3] Công trình đá kỳ bí từ thời tiền sử của , đến giờ vẫn còn là thách thức với các nhà khoa học.

      “Ồ.”

      “Theo Iain kể để mắt đến nó từ trước rồi phải ?”

      Tôi gật đầu, tự hỏi ta kể bao nhiêu phần câu chuyện ngu ngốc của tôi với ấy. nhiều lắm, tôi đánh cuộc, khi nhớ đến đôi mắt đá xám và điềm tĩnh đó. Với tôi, Iain Sumner gây ấn tượng là kiểu người thích đưa chuyện.

      “Tôi nhìn thấy nó vài năm trước, và bắt đầu phải lòng nó”, tôi giải thích. “Vận may kỳ diệu đến khi nó được rao bán. Và ở mức giá tôi có thể chi trả.” Gần chi trả được thôi, tôi tự sửa lại với bản thân, khi nghĩ về tài khoản tiết kiệm bị tước đoạt của mình.

      “Ừm”, Vivien nhấc chiếc ly lên và bắt đầu lau chùi thành thạo. “trong khu vực này, nhu cầu mua nhà nhiều lắm. Chúng tôi chỉ có vài trang trại cùng nửa tá các cửa hàng – giờ hầu như chỉ toàn người nghỉ hưu sống ở đây. Tôi e thấy chúng tôi buồn tẻ chết người so với Luân Đôn”.

      “Luân Đôn được đánh giá quá cao thôi”, tôi , nhưng tôi biết chắc Vivien Wells biết điều đó. “Hơn nữa, tôi cần nơi yên tĩnh để tập trung làm việc.”

      “Đương nhiên rồi.” ấy nhấc chiếc ly khác và tiếp tục lau chùi. “ là họa sĩ, đúng ? vẽ tranh gì?”

      “Màu nước”, tôi đáp. “Thực ra tôi vẽ tranh minh họa. Tôi vẽ cho các cuốn sách.”

      sao? Có quyển nào tôi biết ?”

      , trừ khi đọc sách thiếu nhi. Tôi thực bộ Llandrah với Bridget Cooper vài năm trước.”

      “Là ? Tôi có cháu sáu tuổi cực kỳ thích những câu chuyện đó. Chà, chà.” Vivien nhướn cả hàng lông mày vì bị ấn tượng. “ ngại nếu tôi lan rộng tin này chứ? Nó khiến người làng an tâm đôi chút. Họ lo có thể là nhà điêu khắc trường phái đương đại. biết đấy, những tảng đá lớn cùng kim loại méo mó, đại loại thế.”

      Tôi mỉm cười lắc đầu. “, tôi ngại đâu.”

      “Tôi nghĩ họ ... Đợi , thứ lỗi cho tôi chút nhé?”

      Những tiếng gọi từ nhóm người sôi nổi tại chiếc bàn trong góc thu hút chú ý của Vivien, trong khi ấy tham gia với họ, tôi uống ngụm Gin Tonic nữa và hơi xoay người sang vị trí khác thoải mái hơn chiếc ghế bằng gỗ cứng.

      Tôi ngủ ngon đêm hôm trước. Trong khi cơ thể mệt mỏi rã rời, đôi tai tôi vẫn tiếp tục tỉnh táo và nhạy cảm với từng thanh bất thường trong căn nhà trống vắng: từng tiếng kẽo kẹt của chiếc cầu thang lên gác mái cạnh phòng ngủ, từng giọt nước tí tách trong phòng tắm, từng chuyển động của nhánh cây quét qua mái ngói . Tôi cứ thế chập chờn ngủ, và tỉnh giấc vì cần cà phê sáng hơn lúc thường.

      Dù sao tôi cố gắng mở hầu hết những chiếc thùng trong phòng đọc trước khi được nghỉ ngơi và bộ đoạn vào thị trấn.

      Quán Sư Tử Đỏ nằm con đường Thượng của Exbury cùng ít các cửa hàng và văn phòng, dãy các ngôi nhà nông thôn sau thời chiến, vài ngôi nhà cổ lui về phía sau con đường và được che chắn khỏi những con mắt tò mò nhờ bức tường đá thấp cùng cánh cổng sắt chạm trổ hoa văn. Bản thân con đường được lát cẩn thận, nhưng ở phần phía tây của nó, lối bộ cũ kỹ rải sỏi hầu như được đụng đến, thêm vào quyến rũ riêng biệt cho ngôi làng. Tôi thích thú chú ý, còn có cánh cổng gỗ theo kiểu cổ, cùng những băng ghế dài và mái che, phải thừa nhận rằng chính chúng khiến tôi để ý đến nhà thờ nơi có gác chuông khó lòng trông thấy từ bên dưới tấm bình phong của hàng cây đâm chồi nảy lộc.

      Tôi lười nhác tự hỏi biết nhà thờ này bao nhiêu tuổi, và hẳn to câu hỏi đó, bởi Vivien Wells trả lời tôi, khi trở vể vị trí của mình sau quầy bar. “Thực ra nhiều phần của nó do người Saxon xây dựng, dù đến thế kỉ XV nó mới được hoàn thiện.” ấy ném ánh mắt thân thiện về phía chiếc ly của tôi. “ có muốn thêm ly nữa ?”

      “Chỉ thêm chút thôi”, tôi thú nhận, đẩy chiếc ly về phía Vivien. “ thực là nhà sử học địa phương đấy.”

      Vivien mỉm cười. “Tôi rất thích môn lịch sử”, ấy , “và tôi cũng có người bà ưa chuyện nữa. Iain bảo tìm kiếm thông tin về ngôi nhà, phải vậy ? Tôi e mình cũng biết nhiều về nó đâu. Dì tôi chắc chắn biết nhiều hơn. Theo những gì tôi nhớ nhà Randall sống ở đó từ rất lâu rôi, và họ phải những người lý thú cho lắm. Dù vậy, tôi có thể tìm hiểu vài thứ cho . Bởi thực tế…”.

      ấy quay sang nhìn người đồng nghiệp ngồi ườn ở tít cuối quầy đọc tờ báo hằng ngày và hút điếu thuốc lá.

      “Ned ơi”, ấy gọi ta, “cha từng làm việc ở Đàn Cừu Xám khi ông Randall làm chủ, phải ?”

      Ned ngước mắt khỏi tờ báo, thoáng nhìn về phía chúng tôi và mỉm cười với Vivien, rồi gọi qua vai, “Cha ơi”.

      trong số những người đàn ông lớn tuổi ngồi ở chiếc bàn trong góc ngẩng đầu đáp lại. “ Sao?”

      “Viv có chuyện muốn hỏi”.

      Cha của Ned chống người rồi lảo đảo tiến về quầy bar. Người đàn ông giới thiệu với tôi tên là Jerry Walsh, thợ hàn về hưu. Phải, ông với Vivien, ông từng làm vài việc cho ông già Bill Randall.

      “Ông ta muốn sửa phòng tắm cho đại hơn”, ông . “Thay mới toàn bộ ống nước và tất cả những thứ khác. bao giờ cần lo về đám ống nước đâu, ạ”, ông tự hào thêm vào khi vỗ ngực. “Ta mà làm đâu ra đây. Chứ như đám nhóc bây giờ.”

      Tôi chọn cách đề cập đến vòi nước giọt cũng như lớp nước màu nâu tồi tệ xối ra lần đầu tiên khi vặn vòi. “Bác nhớ nhà Randall mua ngôi nhà từ ai sao, Jerry?” Vivien hỏi.

      Ông nhíu mày. “Tôi chắc… họ mua nó ngay sau cuộc chiến Thế giới lần thứ nhất, tôi nghĩ vậy. Trước đó có vẻ tay quân nhân sở hữu nó. Art nhà tôi có khi nhớ đấy… Arthur à!” Ông gọi người đàn ông khác ngồi ở chiếc bàn trong góc.

      Trong vòng mười phút, tôi bị vây quanh bởi tất thảy bảy người, bị áp đảo trong thân thiện và háo hức muốn giúp đỡ của họ. Lần ngược về trước, với loạt các tranh luận, họ xác định Eddie Randall thừa kế ngôi nhà từ người cha tên William của ông ấy vào đâu thập niên năm mươi. William mua ngôi nhà vào năm 1921 từ đại úy nào đó, nghe đồn ông ta có hai con vô cùng xinh đẹp. Ngoài những điều đó ra, ai hoàn toàn dám chắc, dù cố gắng mấy họ cũng thể nhớ thêm bất cứ tình tiết thú vị nào về lịch sử ngôi nhà của tôi.

      “Ngoại trừ hồn ma”, người đàn ông đánh bạo phát biểu.

      “Hồn ma ạ?” Tôi lặp lại theo.

      Vivien mỉm cười. “Tôi quên mất đấy”, .

      “Nhiều năm rồi người ta trông thấy ấy”, Jerry Walsh đảm bảo với tôi.

      “Đúng rồi, giờ cũng phải ba mươi năm còn gì”, trai của ông chen ngang. “Thiếu Phụ Xanh phải ?” Những người khác gật đầu và ông tiếp tục. “Tôi chưa nhìn thấy ấy bao giờ, nhưng rất nhiều người thấy rồi. Chỉ là trẻ, mặc chiêc váy màu xanh lá cây. Thường xuất trong khu vườn lúc trời nhá nhem.”

      “Tôi thấy ấy lần”, người đàn ông lần đầu tiên đột ngột lên tiếng. “Làm tôi sợ chết khiếp. ấy chỉ đứng đó, nhìn xuyên qua tôi với đôi mắt u hoài…”

      phải hồn ma gây hại”, Jerry Walsh ngắt lời, hướng ánh mắt trách cứ về phía người đàn ông bé. “ ấy chẳng làm hại ai cả. Chỉ đôi khi đứng trong vườn thôi.”

      Thế là ngay cả những hồn ma ở Đàn Cừu Xám cũng buồn tẻ, tôi tự nhủ. có tiếng xích va loảng xoảng, có những tiếng rú tang tóc giữa đêm…

      giống mấy hồn ma lâu đài, mấy ông nhỉ?” Nụ cười toe toét của Arthur Walsh khoe cả hàng răng đen xỉn vì nicotine. “Giờ có rất nhiều nhân vật sống động cho rồi nhé. Tôi chưa bao giờ thực nhìn thấy hồn ma nào trong số họ, nhưng nghe người ta …”

      “Thôi đủ rồi”, Vivien chặn ngang, giọng hiền hòa. “Các bác thảy ác mộng cho này đấy.”

      “Ôi, sao đâu ạ.” Tôi mỉm cười. “Cháu rất thích nghe chuyện ma. Lâu đài ở đâu thế ạ?”

      trong số những người đàn ông chĩa ngón cái qua vai. “Lâu đài Crofton”, ông ta . “Tòa trang viên cổ đấy ở ngay mặt bên kia của nhà thờ. chưa lên đó bao giờ à?”

      Tôi phải thừa nhận mình chưa đánh bạo đâu xa hơn khu văn phòng đại lý nhà đất, nằm ngay phía đối diện của quán Sư Tử Đỏ đường Thượng. Vài hàng lông mày nhướn cao giữa dàn hợp xướng la hét tin.

      phải thăm thú lâu đài…”

      “…được đề cập trong ba cuốn sách hướng dẫn du lịch, nó…”

      “…chắc chắn cậu chàng Geoff vui vẻ dẫn vòng. Dù sao đa phần lâu đài đều mở cửa cho khách tham quan. Cậu ta chỉ giữ riêng mạn phía nam để sử dụng thôi.”

      Tôi đầu hàng trước những lời phản đối. “Vậy cháu làm chuyến thăm thú, khi sắp xếp xong đồ đạc trong nhà.”

      Được xoa dịu phần nào, những người đàn ông bắt đầu chuyện trò sôi nổi liên quan đến chủ đề chuyển nhà, điều tôi hứng thú cao độ mặc cho tôi hầu như góp nổi từ.

      Vào bốn giờ kém mười, tất cả bảy người bọn họ đồng loạt đứng dậy, lịch chúc tôi ngày tốt lành và nối đuôi nhau ra khỏi cửa. Vivien Wells mỉm cười đón ánh mắt thắc mắc của tôi.

      “Giờ uống trà”, giải thích. “Thời điểm họ cập nhật những tin đồn từ các bà vợ. Dù hôm nay tôi nghĩ những người đàn ông nhiều hơn.”

      “Ý là gì?”

      “Ý tôi là họ kể chuyện về .” ấy cười toe toét. “ có rất nhiều điều phải học về cuộc sống ở làng quê, biết đấy. Chuyện hắt hơi cái ở đây mà hàng xóm nhảy ra câu ‘Chúa phù hộ’ khó xảy ra lắm.”

      “Tôi đảm bảo thích nghi được thôi.”

      ấy gật đầu. “Tôi nghi ngờ điều ấy. Thực tế, có vẻ gặt hái tương dối thành công trong ngày hôm nay. cứ đợi mà xem – ngày mai thôi, có cả hàng dài các vị khách ghé thăm ngôi nhà, với các đĩa bánh ngọt và chậu hoa phong lữ, đến để xem thu xếp ra sao.”

      “Tôi lau chùi bộ ấm pha trà bằng bạc”. tôi hứa. “Thực tế, tôi có thể nhờ vả luôn các vị khách vào ngày mai. Tôi có kế hoạch xoay vài món đồ trong phòng khác, và rất có thể có thêm vài đôi tay giúp đỡ nữa.”

      Vivien bật cười. “ cần giúp đỡ ấy hả?” ấy hỏi. “Bởi tôi chắc chắn Iain vui vẻ giúp tay.”

      “Trời ơi, ”, tôi , giơ tay lên phản đối. “Tôi chỉ đùa thôi.” ý nghĩ đột nhiên nảy đến. “Dù sao công việc của Iain Sumner là gì vậy? ấy có phải thợ làm vườn ?”

      “Nông dân”, ấy sửa lại. “ ấy nuôi cừu. Có cả vườn táo nữa, nhưng phần lớn là do sở thích.”

      “Ồ”, tôi thốt lên.

      “Đương nhiên ấy rất có khiếu với những khu vườn”, ấy tiếp tục. “ ấy tốn rất nhiều thời gian để giúp Geoff cải tạo khu vườn ở lâu đài đón khách tham quan, trước khi nó được mở cửa, cha Geoff để nơi đó xuống cấp chút, mặt đất là đống hỗn độn kinh khủng. Giờ nó người làm vườn toàn thời gian rồi. Khu vườn hoa hồng đáng của họ - thực phải đến thăm nó vào mùa hè.”

      “Chắc rồi”, tôi . “Sau cùng, chúng tôi là hàng xóm, phải sao? Nhà của tôi ngay đằng sau đất trang viên, theo những gì tôi nghe .”

      “Đúng vậy. thích Geoff. ấy là quý tộc chính cống đấy – gia đình ây đến đây cùng Quân Xâm Chiếm [4] – nhưng ấy là người thực tế và vui tính cực kỳ. Nhân tiện nhắc đến, ấy có thể kể cho nghe điều gì đó về Đàn Cừu Xám. ấy quần thảo rất nhiều sách về lịch sử địa phương khi viết cuốn sách hướng dẫn du lịch cho lâu đài Crofton.” Vivien quay để rót cho mình tách cà phê từ chiếc bình trông như bình chứa thuốc độc nơi cuối quầy bar. “Tiếc là giờ ấy nghỉ ở Pháp, nhưng khi ấy quay lại, chắc chắn tôi giới thiệu với . Trong lúc ấy”, ấy vừa thêm vừa khuấy tách cà phê, “tôi xem xem có thể tự tìm thấy gì ở chỗ dì tôi và ở dân làng ”.

      [4] Chỉ đội quân Norman xâm chiếm nước năm 1066.

      “Cảm ơn , tôi biết ơn nhiều lắm. Đồ uống của tôi hết bao nhiêu vậy?”

      mất tiền.” ấy phẩy tiền của tôi sang bên và lắc mái đầu màu mật ong. “Miễn phí. Coi như cách chào mừng đến Exbury của tôi , nếu thích.”

      “Nhưng ràng… ý tôi là, tốt bụng, nhưng…” Tôi thoáng nhìn về phía quầy bar, nơi Ned vẫn cắm cúi vào tờ báo, và Vivien tinh ý nhìn theo ánh mắt tôi.

      “Ồ, Ned phải kiểu người chuyên thưa chuyện với ông chủ đâu”, ấy quả quyết. “Giả như ông ta có ở đây cũng chả thu được lợi lộc gì cả, vì tôi là sếp.”

      Tôi lắp bắp nhanh câu xin lỗi và đỏ lựng cả mặt. Vivien hòa nhã lờ xấu hổ của tôi.

      “Điện thoại của được kết nối chưa? Tốt. Số bao nhiêu?”

      Tôi ấy ghi nhanh lại. “Được rồi”, ấy . “Tôi gọi cho nếu tìm thấy có gì thú vị. Đây.” Vivien đẩy cho tôi hộp diêm. “Số của tôi ở mặt sau, nếu cần gì. Hoặc có thể chỉ cần ghé qua, bất cứ khi nào cảm thấy chán việc dỡ đồ. Chiều nào tôi cũng có thời gian tán gẫu.” ấy nhìn thẳng vào mắt tôi và thoáng nở nụ cười chân .

      “Tôi rất vui khi chuyển đến sống ở đây”, ấy đơn giản.

      Tôi cười đáp lại, trong lòng cảm thấy ấm áp đến lạ.

      “Tôi cũng vậy”, tôi với theo.

      Nụ cười vẫn lưu lại môi khi tôi bộ về nhà, tận hưởng cảm giác trong lành, đầy sức sống của ngọn gió cuối tháng Tư và yên lặng tuyệt vời của con đường người qua lại. Ngôi nhà đứng đó đón tôi về, trông ít lôi thôi chút dưới đôi mắt chênh chếch của tôi.

      “Xin chào, Đàn Cừu Xám”, tôi chào nó, khi leo lên lối lái xe vào nhà. Ít nhất tôi cũng biết được cái tên chính xác của nó. Và hồn ma. Những người đàn ông ở Sư Tử Đỏ gọi ấy là gì nhỉ? Thiếu Phụ Xanh. Ở đâu đó trong khu vườn.

      Vấn đề là, tôi tự hỏi khu vườn trước đây nằm ở chỗ nào? Chắc chắn giờ còn bất cứ dấu vết gì của nó, ít nhất cũng ở phía trước nhà. Tò mò, tôi vòng ra sau và ngó thử.

      phải chỗ chuồng bồ câu, tôi khẳng định. Khu vườn còn mới. Có khi nào gần nhà bếp, dọc theo lối lái xe ? Mặt đất ở đó tất nhiên trông phẳng hơn, nhưng…

      . phải ở đó. Tôi dồn chú ý sang phía kia của khoảng sân. Ở đó, tôi tin chắc. Người ta thậm chí có thể nhìn thấy mặt đất hơi gồ lên, nơi các thảm hoa được vun xới bởi những bàn tay thương . Tôi băng qua sân và hân hoan đứng chỗ đó.

      Mặt trời hạ xuống thấp hơn bầu trời và ngọn gió quét ngang qua tôi lạnh đến rùng mình. Rúc sâu hơn vào chiếc áo len, tôi ôm lấy người giữ hơi ấm, quay sang phía hàng cây ở phía xa.

      Người đàn ông cưỡi con ngựa xám đứng đó, nương mình dưới tán sồi, quan sát tôi.

      Tôi bướng bỉnh vênh cằm. Tôi thề rằng ta mỉm cười, dù tôi đứng cách quá xa để có thể nhìn mặt ta, chứ chưa đến chuyện phán đoán biểu cảm. Sau lúc lâu, ta thúc ngựa quay lại và hướng thẳng về lâu đài Crofton, dáng hình sẫm tối của ta bị nuốt dần vào bóng râm của những cây cổ thụ.

      Quên biến Thiếu Phụ Xanh, tôi bước chân vào nhà, chăm chút đặc biệt cho cái then cửa đằng sau lưng.

                  CHƯƠNG 4


      Trưa hôm sau, tôi ước gì mình lau chùi bộ ấm trà theo lời tùy tiện đưa ra hôm trước. Thực tế, tôi ước gì mình kịp lường trước mà mua bộ ấm chén ngay từ đầu. Do đó, tôi đành phải dùng chiếc ấm nâu sứt sẹo cũ mèm cùng bộ cốc sứ mỗi cái kiểu mấy ăn nhập với đĩa, để chiêu đãi các vị khách của mình.

      Đương nhiên là nhà tôi có khách rồi. Những người đến đầu tiên, vào lúc chín giờ, là ông Ridley, nhân viên môi giới nhà đất, và vợ ông ấy, hai người ràng thức dậy từ sớm khi mang theo đĩa bánh bao Bath [1] vẫn còn ấm khỏi lò. Nối gót họ là Jerry Walsh và Eva – người vợ đáng mến của ông cùng hai lọ thạch nho đen; rồi Arthur và Marie Walsh bê đĩa bánh quy sô la. Vài người khác đến và như gió, bao gồm cả bà Hutherson lớn tuổi có giọng dịu dàng, người cho tôi hai tá bánh nướng bơ hoa quả và những lời chúc tốt đẹp nhất của mình. Tất cả mọi người đều vô cùng tốt bụng, thân thiện và nắm bắt tin tức cực kỳ tốt.

      [1] Loại bánh ngọt có hình tròn giống chiếc bánh bao rắc nho khô vỏ bánh, rất nổi tiếng ở khu vực Bath thuộc nước .

      “Sách thiếu nhi, phải cháu?” Bà Hutherson khẽ giọng hỏi. “Cháu tài hoa đấy.” Đôi mắt xanh của bà gợi lên nét thân thuộc trong ký ức của tôi, nhưng bà trước khi tôi kịp hình dung ra mối liên hệ.

      Cặp đôi lặng lẽ đến cuối cùng đem theo chai rượu mâm xôi được lợi nhất khi tha hồ lựa chọn món. Bàn cà phê trong phòng khách của tôi lúc này đầy ắp các tặng phẩm thức ăn khiến bất cứ ai cũng nghĩ tôi bỏ ra hàng giờ để chuẩn bị cho buổi tiệc trà thiết đãi hàng xóm.

      Bất cứ nghi ngờ nào còn sót lại trong đánh giá của các vị khách về nhân phẩm của tôi cuối cùng được gạt bỏ, cách dứt khoát và bất ngờ, bởi chuyến ghé thăm của trai tôi, với phần cổ áo đặc trưng của các mục sư và trông ngoan đạo đến tột độ. Thực tế, ngoan đạo đến mức tôi nghi ngờ liệu có giáo dân nào của ấy nhận ra ấy nữa .

      Chẳng mấy chốc, sau buổi trưa, đám đông cũng vãn dần, Tom ngả lưng ghế và vòng hai tay sau đầu.

      “Chúc mừng em”, . “ ở trong làng đến tuần trời hàng xóm mới thèm vây lấy . Em mới ở đây được bao lâu? Hai ngày à?”

      “Em chuyển đến từ thứ Ba, nên đây là ngày thứ ba. Thả chân xuống bàn cà phê giúp em .”

      “Xin lỗi.” ngoan ngoãn nhúc nhích đôi giày. “ hy vọng chuyến tạt ngang làm phiền em. nghĩ mình nên gọi trước.”

      chọn thời điểm nào thích hợp hơn được đâu.” Tôi đảm bảo. “Em nghĩ đến còn gây hiệu quả tuyệt vời kìa. Vào giờ uống trà, toàn thị trấn biết em có người nhà làm mục sư.”

      Hừm. Hoặc em hẹn hò với người đó.” Tom cười nhăn nhở. “Trí tưởng tượng của dân làng cực kỳ kinh khủng, em thừa biết còn gì.”

      Tôi lờ . “Hôm nay là ngày nghỉ của à?”

      “Ừ. giao giáo khuvào bàn tay vị cha phó mới kế nhiệm tài năng, chàng Ogilvie trẻ tuổi. Em thích cậu ấy, Julia ạ. Ogilvie bớt tẻ nhạt hơn người phụ trách của cậu ấy rất nhiều. Đương nhiên, với các giáo dân tầm nhìn của cậu ấy có hơi hạn chế chút, nhưng là người tốt.”

      “Tốt chán so với cha phó trước đây còn gì”, tôi đồng ý với cảm thông. “Michael gì đó, đúng nhỉ? Theo phái Hạ Giáo hội [2] , bao giờ mỉm cười, luôn sôi sùng sục với lửa địa ngục và đọa đầy hả?”

      [2] Nguyên tác: Low Church – phái thuộc Giáo hội coi trọng quyền lực của giám mục.

      “Là người đó.”

      “Mà có chuyện gì xảy ra với ta vậy?”

      sắp xếp để chuyển cậu ta lên giáo khu phía bắc. cảm giác mình hoàn thành quá trình hành xác”, Tom vừa mỉm cười vừa . “Thôi, trở lại chủ đề ngày nghỉ. hứa với cha mẹ tuần này đến xem em thu xếp ra sao. Thế nào rồi?”

      “Rất tốt, cảm ơn . Em nghĩ dọn xong gần hết các phòng tầng dưới rồi.”

      “Trông rất đẹp.” để ánh mắt lang thang khắp căn phòng rộng lớn, ngập ánh mặt trời. “Quả là ngôi nhà đáng . bị ấn tượng đấy. Em dẫn thăm thú chuyến, hay”, ánh mắt rơi chiếc bàn đầy ụ thức ăn, “để phải giúp em lau dọn trước?”

      Tôi đảm bảo là việc lau dọn có thể chờ và bắt đầu chuyến thăm thú trong căn phòng chúng tôi ngồi.

      “Ừm, đây, đương nhiên là phòng khách”, tôi . “Em cần mua tấm thảm to hơn để bảo vệ sàn nhà, và những tấm rèm đương nhiêu phải…”

      hiểu.” Tom nghiền ngẫm trong lúc nhìn lớp vải hoa sặc sỡ. “Dẫu vậy, riêng các khung cửa sổ cũng đẹp sẵn rồi. Và thích lò sưởi. Chỗ này thông với đâu vậy?” ra dấu về cánh cửa ngách bức tường phía xa.

      “Phòng ăn.” Tôi dẫn qua.

      “Julia!” Giọng tôi đầy thán phục. “Em lấy chạn bát này đâu ra vậy?”

      “Trông được phết nhỉ? Nó có sẵn trong nhà.”

      Chạn bát từ cuối thời Victoria, làm từ gỗ óc chó chắc nịch, cao gần hai mét tám, mặt của nó chạm trần trát thạch cao của phòng ăn. Tôi đoán nó có sẵn trong nhà bởi phải dùng đến cần trục mới đưa được nó vào đây. Món đồ duy nhất hoàn toàn nổi trội trong căn phòng dài khiến người ta khó để ý tới chuyện căn phòng này bàn ghế. Ở mỗi bên chạn bát, hai dãy cửa sổ cao nhìn ra bãi cỏ phía sau, càng làm tăng ấn tượng về vẻ tao nhã.

      Từ phòng ăn, chúng tôi qua cánh cửa vẩy [3] vào phòng bếp đơn giản và bụi bặm với kho chứa , rồi thông qua hành lang hẹp để vào sảnh trước ốp gỗ. Sau ít phút rẽ ngang vào phòng đọc, nơi Tom có thể dễ dàng chiếm cứ cả ngày mà tôi kiểu gì cũng lôi ra được, chúng tôi bước lên cầu thang chéo để lên tầng.

      [3] Loại cửa mở được theo cả hai chiều.

      tại em chưa động tay tí nào này từ ngày chuyển vào”, tôi cảnh báo, “nên vài phòng có thể bừa bộn chút. chung, đừng mong đợi nhiều”.

      “Những cái trần nhà khỉ gió.” Tom hụp người quá muộn nên vừa bước lên đỉnh cầu thang vừa bóp đâu. “Làm cho người tí hon chắc. Em có bao nhêu phòng ngủ?”

      “Bốn. Nhưng em chỉ dùng hai thôi. Hai phòng kia”, tôi chỉ những cánh cửa sát tay trái của chúng tôi, “ tại dùng để chứa đồ”.

      “Rất hợp lý.” Tò mò hơn bao giờ hết, Tom thò đầu vào phòng đầu tiên và chăm chú nhìn quanh. Nó là căn phòng dài và hẹp, ngăn khỏi phòng tôi bởi cầu thang lên gác mái chạy sau lưng bức tường. Ánh sáng chiếu qua khung cửa sổ đôi khi bị chắn phần bởi những tán lê mọc sát mặt tiền ngôi nhà. Phòng làm kho chứa còn lại choán hết vạt trước phía nam, tuy chỉ có số cửa sổ nhưng nó được bù lại với diện của lò sưởi khác.

      “Em phải học cách bổ củi thôi”, bình luận của làm tôi nhăn nhó.

      “Còn lâu ấy, Tom. nhìn em nhóm lửa trước đây còn gì. Cả nhà cháy ngùn ngụt như nến La Mã mất.”

      Tom cười toe toét và cúi người nghiên cứu mặt lò sưởi khắc gỗ. Để ở đấy, tôi hướng đến cánh cửa tiếp theo, dẫn đến căn phòng ở góc đằng sau tôi chọn làm xưởng vẽ. Tôi vẫn chưa buồn kiểm tra dụng cụ lẫn các trang thiết bị, khi quả quyết nghĩ đến công việc trong tuần đầu tiên, nhưng rồi tôi đột ngột nhận ra rằng bởi Tom ở đây, nên tôi có thể ép ấy ráp bàn vẽ cho mình.

      Bình thường, tôi vô dụng đến thế nếu phải thực các công việc mang tính kĩ thuật, nhưng đây là bàn vẽ đặc biêt – được phát minh bởi nhà thiết kế Thụy Điển tàn bạo – luôn cố vùi dập mọi nỗ lực cao độ của tôi, bỏ tôi ngồi nản chí và vô dụng giữa đống ống crom la liệt, đủ loại dụng cụ hỗn hợp, và cái then gì đó được đề cập trong các chỉ dẫn.

      Nhân tiện, tôi tươi tỉnh nghĩ, tôi thực cũng chưa nhìn thấy đội chuyển đồ mang chiếc bàn lên tầng. Có lẽ nó bị thất lạc trong khi vận chuyển. Tôi mở cánh cửa xưởng vẽ, bước vào căn phòng và đứng khựng lại vì bối rối.

      Chẳng có gì ở đây. Đại khái có thứ gì của tôi. Ngoại trừ chiếc giường hẹp và thấp kê sát bức tường cuối phòng cùng tủ đựng quần áo kiểu cổ đặt trong góc, căn phòng hoàn toàn trống rỗng.

      “Kỳ quái ”, tôi lớn.

      “Cái gì kỳ quái?” tôi hỏi vọng lại.

      “Đồ đạc này phải của em”, tôi trả lời khi băng qua hành lang để đến phòng ngủ phía trước. “Họ phải để các thứ trong xưởng vẽ của em vào trong các phòng này. Đáng lẽ phải có giá vẽ, bả vẽ và cái ghế to đùng xấu xí đó. Em thể hình dung nơi…”

      Giọng tôi dần khi tôi lục lọi giữa đám hộp và bóng trai lướt qua tôi vào trong hành lang.

      “Julia”, tôi gọi lát sau đó. “Lại đây.”

      Tôi thấy đứng ngay ngưỡng cửa của xưởng vẽ, hai tay chống lên hông. “Nào”, , khi tôi đến chỗ , “em nhìn thấy cái gì?”

      Tôi nhìn, cật lực chớp mắt và nhìn lại. Tất cả đều ở đây – chiếc giá vẽ, nội thất trong xưởng, đống hộp màu lộn xộn, bút lông và giấy…tất cả mọi thứ, như nó luôn ở đó. Hơn nữa, cũng thấy dấu vết nào của chiếc giường hay tủ quần áo.

      “Em uống tí rượu nặng nào đây chứ?” Tom trêu chọc.

      “Nhưng mà Tom”, tôi ngơ ngác lắc đầu, “quả thực những thứ này phút trước còn có trong đây”.

      nhìn tôi, mặt có vẻ âu lo, và khi cuối cùng lên tiếng, giọng mất tính giễu cợt. “Nghe này”, , “sao chúng ta đợi thêm lúc nữa mới tiếp tục chuyến tham quan nhỉ? Em hẳn kiệt sức sau sáng nay rồi”.

      “Em điên.”

      “Đương nhiên là em điên. Còn sức pha ấm trà ?”

      Tôi buồn bã theo xuống tầng.

      bảo em sai. cũng em thấy những gì em bảo mình thấy. chỉ nghĩ ràng có nguyên do hợp lý cho những gì em bảo mình được chứng kiến thôi.”

      “Em hiểu”, tôi . “Chẳng hạn như?”

      Tom nhún vai. “ biết. Em mệt mỏi, em thúc ép bản thân quá sức… Tối qua em ngủ lúc nào?”

      “Muộn”, tôi thừa nhận. “Nhưng em thể tin có gì đó liên quan…”

      “Thế sáng nay dậy lúc mấy giờ?”

      “Hơn sáu giờ chút. Nhưng…”

      đấy”, , giơ cả hai bàn tay để nhấn mạnh luận điểm của bản thân. “Em có ngủ đủ đâu.”

      Quá quen với tính khí của trai, tôi đợi cho đến khi trà pha xong và chúng tôi ngồi đối diện nhau bên chiếc bàn bếp, trước khi tôi dám cãi lại.

      “Thực tế là”, tôi khẳng định, “em ngủ đẫy ra ấy. Em thực chẳng mệt gì hết. Em còn chẳng hoàn thành công việc thực thụ nào từ lúc chuyển đến kìa, em chỉ mới mở vài thùng đồ thôi”.

      “Em trông có vẻ mệt.”

      “Tom”, tôi mỉm cười trước ngoan cố của , “nghe em này. Em nghỉ ngơi thực đầy đủ. Em ngủ mụ cả người đây này. Nhân tiện nhắc đến đêm nào em cũng nằm mơ”.

      á? Nghe mấy bình thường với em nhỉ? tưởng có mấy khi em nằm mơ đâu.”

      “Có lẽ là do khí hậu vùng quê.”

      “Loại giấc mơ nào vậy?”

      “Em thực thể nhớ hầu hết trong số chúng”, tôi đáp, thoáng nhăn mày khi uống tách trà của mình. “ trong số chúng về sao chổi, em nghĩ thế. Phải, đúng rồi… có hai ngôi sao chổi, nối tiếp nhau, và mọi người kháo rằng có điều gì đó khủng kiếp sắp xảy ra. Freud [4] gì về những giấc mơ xuất sao chổi vậy ?”

      [4] Signund Freud (1856-1939) là bác sĩ người gốc Do Thái – cha đẻ của liệu pháp trị liệu tâm lý.

      phải Freud.” Tom lắc đâu. “Là Jung [5] . Mà thực cũng biết nữa. nghiên cứu tâm lý học. Điều nhắc ”, đột ngột ngồi vươn về trước, “thứ Bảy tới, Rod Denton định tổ chức bữa tiệc tối tại nhà cậu ta ở Luân Đôn”.

      [5] Carl Gustav Jung (1875-1961) là bác sĩ tâm lý người Thụy Sĩ có những phát kiến quan trọng trong việc lý giải bí của những giấc mơ.

      “Làm sao giấc mơ về sao chổi của em có thể nhắc đến bữa tiệc tối của Rod Denton được?”

      “Rod có nghiên cứu về tâm lý học ở trường đại học”, Tom giải thích. “Cùng nhiều thứ khác.” Roderick Denton tốt nghiệp Oxford cùng thời điểm với tôi, nhưng khác với tôi, ta được định trước cho những đeo đuổi mang tính trần tục hơn. ta cưới con của Bá tước, được thừa kế ngôi nhà ở Belgravia [6] , và đạt được thành công nhất định trong giới tài chính.

      [6] phần phía tây trung tâm Luân Đôn, nơi tập trung rất nhiều nhà cửa lẫn cửa hàng sang trọng của các đại sứ quán của nước ngoài.

      “Đại khái”, Tom tiếp tục, “các bữa tiệc của cậu ta thường khá là vui vẻ. nghĩ em có thể muốn cùng . ra ngoài chơi ngày tốt cho em đấy”.

      làm như em ở lì tại đây hàng tuần liền rồi bằng.’

      chỉ nghĩ”, bắn cho tôi cái lườm tăm tối, “rằng em có thể nghỉ ngơi chút và thoát khỏi đống việc này thôi”.

      “Hừm, thực ra em có thể ”, tôi thừa nhận, uống cạn tách trà với nụ cười. “Cảm ơn . thứ Bảy tới phải ? Mấy giờ?”

      “Tiệc cocktail vào sáu giờ ba mươi. Em nhớ chỗ cậu ta sống chứ?”

      Tôi gật đầu. “Vậy nếu muốn, em gặp ở đây. Em chắc Cheryl vui vẻ giữ em lại đêm. Em có thể gửi xe ở chỗ ấy, ngay quận Islington [7] và tàu điện ngầm xuống chỗ của Rod. thấy có được ?”

      [7] Quận ở đông bắc Luân Đôn, đa phần dân cư là tầng lớp trung lưu.

      “Được.”

      “Tốt rồi. sẵn sàng cho phần còn lại của chuyến thăm thú chưa?

      “Em có chắc còn đủ sức thế?”

      “Đương nhiên rồi. Bên cạnh đó”, tôi vừa vừa thân thương choàng cánh tay lên vai trai, “em muốn ngó qua cái bàn vẽ của em”.

      nhíu mày. “ trông thấy rồi còn gì.”

      “Nhìn gần cơ, hiểu ý em chứ.”

      Tom tóm được ngụ ý của tôi và nặng nhọc thở hắt ra. “Đừng nháy mắt với , cưng à, nhìn cái là biết có bẫy ngay.” dẫn đường lên cầu thang và tôi nghe thấy tiếng chửi thề báng bổ kinh hãi khi mái đầu đen của chạm phải trần nhà thấp lần thứ hai.

      “Cũng may cho em”, bảo, khi ngoác miệng cười và quay lại nhìn tôi, “hàng xóm ở quanh để nghe câu vừa rồi”.

      Chiều muộn hôm đó, thêm lần nữa tôi lại thơ thẩn con đường hẹp dẫn vào làng, vừa vừa hướng mặt về phía ngọn gió và mê mải trong bầu khí thôn dã mát rượi và thơm ngát thổi vào hai lá phổi đóng bụi của tôi.

      Tom ra về cách đây gần giờ. Phần còn lại của chuyến ghé thăm của trôi qua êm ả - tôi bị thêm ảo giác nào nữa và nhõm hơn hẳn là mọi căn phòng chúng tôi bước vào đều y chang như cũ. Sau cùng, tôi phải khẳng định là trai tôi hẳn đúng. Tôi kết luận, Tom có thói quen thể chịu được là chẳng bao giờ nhầm. Có lẽ tôi thúc ép bản thân quá sức, cố gắng thực quá nhiều việc cùng lúc nên mới bị như vậy.

      Tôi lên kế hoạch dọn dẹp tàn dư từ buổi tiệc trà ngẫu hững ban sáng, rửa chén đĩa và thử bịt lại lỗ rò trong nhà tắm sau khi trai tôi , nhưng thay vào đó, tôi quyết định nghe theo lời khuyên của Tom và rời ngôi nhà lúc.

      Ý định ban đầu của tôi là ghé qua quán Sư Tử Đỏ để ăn và tán gẫu với Vivien, nhưng ánh nắng rạng ngời và con đường cứ dang tay vẫy gọi, và khi càng dấn bước, tôi lại càng có cảm giác muốn dạo hơn.

      Tôi vượt qua quán Sư Tử Đỏ, văn phòng nhà đất của vợ chồng Ridley và Stewart, cùng dãy cửa hàng khác. thêm quãng ngắn, khung cửa đá đồ sộ dần nhô lên bên tay phải của tôi, cánh cổng sắt hé mở đầy lôi cuốn. con đường đất hẹp uốn mình khuất dần vào khu bóng râm mát lạnh, được tạo thành nhờ tán cây gọn ghẽ như được dệt từ hai hàng cây san sát mọc nối tiếp nhau tỏa bóng mát. Đây, tôi nghiêm túc thừa nhận, hẳn phải là lối vào tòa trang viên lừng danh.

      Kháng cự cám dỗ xâm nhập vào bên trong, tôi kiên quyết quay trở lại đường Thượng rải sỏi. Để hôm nào khác đủ thời gian thăm thú trang viên , tôi tự nhủ. Bên cạnh đó, Vivien cũng người chủ sở hữu tòa lâu đài vắng. Ở Pháp. Tốt hơn nên đợi ta quay lại rồi hãy thực chuyến tham quan bên trong lâu đài tử tế. Tôi bước lên khung cửa có mái che bằng gỗ khác lạ vừa thán phục lúc trước, đẩy rộng cánh cửa khép hờ và lặng lẽ vào nghĩa địa nhà thờ.

      Hiếm địa điểm nào ở nước được yên ả và đẹp lạ thường như nghĩa trang nơi thôn dã, nơi đây thường xuân mọc dày đặc trong những góc tối và rải rác khắp các phiến đá hao mòn, bề mặt chạm khắc của chúng gần như thể đọc nổi sau vô số năm dãi dầu trước nắng mưa. Có rất nhiều phiến đá nằm chênh vênh, nghiêng sang bên như những người canh gác say rượu. vài hoàn toàn lật nhào khỏi trụ và được cẩn thận dựng chống vào bức tường bao quanh nhà thờ.

      Tự bản thân nhà thờ cũng nhắn và giản dị, nó là tòa nhà tương đối thấp làm từ những phiến đá bạc thếch và sở hữu ngọn tháp vuông vức có lỗ châu mai. tấm áp phích viết tay phai màu dán lên cửa cho biết đây là nhà thờ St. John, hoạt động vào các tối Chủ nhật và thứ Bảy. Chỉ cần cú đẩy là cánh cửa gỗ sồi to bản ngoan ngoãn kẹt mở các bản lề sắt nặng nề, cho tôi thấy gian đơn sơ bên trong, tuy vậy vẫn mang lại ấn tượng về khoảng rộng lớn. Ánh chiều muộn rót qua ô cửa kính hẹp nhiều màu và tắm những bức tường đá trơ trụi trong làn ánh sáng ấm áp và rực rỡ.

      Những bước chân vang vọng cách lạ thường, chẳng khác gì thực tại xâm phạm vào nơi yên ả thần thánh này khi tôi chầm chậm bước vào trung tâm nhà thờ, đọc những cái tên đáng chú ý tấm bia đá vuông ghi danh dưới chân mình: Staynor, Alleyn, Hatch, de Mornay…

      thanh dữ dội nổ ra, tôi ngẩng phắt đầu lên và giật mình ngó quanh, trái tim đập điên cuồng trong lồng ngực. Chỉ là con chim bồ câu, tạm thời bị mắc kẹt đằng sau bức bình phong làm lễ, quẫy cánh trong hoảng loạn trước khi tìm được lối thoát và vội vã bay ra ngoài qua ô cửa hé mở.

      Trái tim từ từ quay trở lại nhịp đập bình thường, để lại cho tôi cảm giác hơi váng vất, với tiếng chuông ngân đều đều trong tai, như thể tôi chực ngất . Nhà thờ chan hòa ánh nắng đột nhiên mang lại cho tôi cảm giác ngột ngạt khác gì trong lăng mộ và tôi loạng choạng trở ra ngoài, hớp từng ngụm khí vào hơi thở sâu hãy còn run rẩy của mình.

      Trong trạng thái hỗn loạn, tôi quay lưng lại đường Thượng và phát bản thân dấn bước con đường đất rợp bóng râm từ những cây sồi sừng sững xào xạc trong cơn gió xoay vần. Gương mặt ướt đẫm mồ hôi, và khi tôi chống bàn tay lên thân cây thô ráp để nghỉ tạm thanh rầm rập vọng lại ràng bên tai. Tiếng rầm rập kia mỗi lúc to hơn, nhịp nhàng hơn cho đến khi có thể nhận ra là tiếng vó ngựa nện nền đất chắc nịch. Ngước lên, tôi thấy người cưỡi ngựa tiến đến. con ngựa xám chở người đàn ông cao to mặc quần áo đen.

      Tôi chớp mắt, tầm nhìn nhòe nhòe. Con ngựa đổi màu, giờ phải xám nữa mà là màu hạt dẻ, có chiếc bờm mượt mà và chiếc đuôi đen. Người đàn ông cưỡi ngựa cũng hơi khác, giống như đất sét rót từ khuôn này sang khuôn khác, đường nét của ta lờ mờ trong những vạt râm của con đường. Dẫu người đàn ông càng lại gần hơn, tôi vẫn thốt nên lời hay di chuyển chút nào, chỉ đứng cắm rễ tại chỗ và trợn mắt nhìn như đứa đần độn.

      Bóng ma đó tiến gần, gần hơn nữa, cho đến khi con ngựa bị ghìm lại trước mặt tôi. Tôi nhìn lên. Mặt trời nằm ngay đầu người cưỡi ngựa. Xuyên qua các tán cây, ánh nắng tạo nên vầng hào quanh chói lòa quanh mái đầu đen của người đàn ông, và tôi cảm giác được, hơn là nhìn thấy, nụ cười của ta. “Xin chào”, ta . “ hẳn là hàng xóm mới của tôi. Tôi là Geoffrey de Mornay.”

      Ngay tức khắc, tôi quên mất các phép tắc xã giao. Tôi đưa tay lên, mỉm cười với ta rồi lăn đùng ra như chết dưới chân con ngựa của ta.

    3. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

      CHƯƠNG 5


      Đây phải là cuộc gặp thuận lợi nhất, tôi thừa nhận khi ngồi ấn đầu giữa hai gối chiếc sô pha nhà Geofrey de Mornay. Bất cứ ấn tượng nào mà tôi hy vọng là có thể thể với vị hàng xóm nổi tiếng của mình chắc chắn cũng phải như thế này.

      “Tôi mang cho ly nước”, ta lên tiếng lúc trở vào phòng. “, đừng ngồi ngay dậy. thấy thế nào rồi?”

      “Ổn.” Giọng của tôi như bị bóp nghẹt.

      ta ấn ly nước vào tay tôi và tôi ngửa đầu để uống hớp, hành động này cho phép tôi có cái nhìn đầy đủ đầu tiên về vị chủ nhà. Dẫu có giọng , học thức, quần áo cắt may khéo léo cùng những vật dụng đắt tiền xung quanh, Geoffrey de Mornay hẳn vẫn được bạn đồng nghiệp Bridget cổ lỗ của tôi xếp vào loại “xuất sắc”. Bridget để ý tới chiều cao, thân hình lực lưỡng và nụ cười rạng rỡ lóe lên trong giây lát của người đàn ông này. Tôi chú ý đến những đường nét cổ điển cấu trúc xương và chiều sâu tĩnh lặng từ đôi mắt nâu đỏ của ta, nằm bên dưới hàng lông mày đen tương ứng chính xác với màu nâu sẫm mái tóc.

      “Cảm ơn ”, tôi , gắng gượng trao cho ta nụ cười tươi tắn nhất. Tôi chắc mình ngất xỉu bao lâu, nhưng hẳn mới vài phút thôi, bởi ánh mặt trời vẫn tràn qua ban công ốp kính rộng đối diện. Tôi nhớ lờ mờ là mình được nâng lên và bế đoạn, rồi có gì xảy ra cho đến vài phút tiếp theo, thời điểm tôi mở choàng mắt, hét lên đòi đứng dậy và bị ấn cách thô lỗ xuống vị trí đúng đắn thời.

      có gì.” ta ngồi lên chiếc ghế chênh chếch với tôi, thận trọng quan sát gương mặt tôi như thể nghĩ tôi thình lình bật dậy bất cứ lúc nào. “Tôi xin lỗi nếu khiến hoảng sợ. Brutus đơn thuần chỉ là con ngựa to lớn, và tôi thường quên mất…”

      phải lỗi của , thực đấy. Mấy hôm nay tôi cứ thức khuya dậy sớm nên mới bị vậy, thế thôi.”

      chắc cảm thấy ốm chứ?”

      “Chắc chắn.” Giọng tôi vững vàng, sau khi nghiên cứu gương mặt tôi chốc, ta mỉm cười.

      “Vậy có lẽ chúng ta thử giới thiệu lần hai xem sao”, vừa đề nghị ta vừa nhoài người ra trước và vươn bàn tay ra. “Geoffrey de Mornay, rất lấy làm hân hạnh.”

      “Julia Beckett.” Tôi đáp lại cái bắt tay. Cẩn thận ngồi dậy, tôi cố gắng cứu vớt tình huống bằng việc mở lời. “De Mornay… vậy là tôi nhìn thấy vài tổ tiên của trong nhà thờ. Gia tộc hẳn là trong những gia tộc cổ xưa nhất ở đây.”

      “Còn tùy thuộc vào cách hiểu của ”, ta nhún vai đáp. “Dòng họ de Mornay ngụ tại lâu đài Crofton từ triều đại của nữ hoàng Elizabeth I nhưng lại bán nó khoảng thế kỷ sau. Cha tôi đợi người ta rao bán lâu đài hàng năm trời, và cuối cùng khi thời điểm đến, ông mua lại. Ông là người cực kỳ tâm huyết với lịch sử gia đình.”

      Tôi đánh giá xung quanh, phát căn phòng dài và chan hòa ánh nắng, trần thạch cao được trang trí công phú, những bức tường dán giấy nhuốm đầy vẻ trang nhã và hào hoa từ kỷ nguyên xa xưa. “Bảo tồn các ngôi nhà cổ như thế này quả là công việc tuyệt vời”, tôi .

      “Và đắt đỏ”, ta đáp, dùng thực kìm tính lãng mạn của tôi. “Còn chưa đề cập đến việc thiếu thực tế. Khi có quá nhiều phòng cho con người.”

      “Đấy là lý do mở cửa ngôi nhà cho các đoàn tham quan?”

      .” ta lại mỉm cười thích thú. “, tôi e mình phải công dân có đầu óc đến thế. Tôi đăng ký nhận khoản trợ cấp của chính phủ vài năm trước, để kiến tạo số thứ và đổi lại, nghĩa vụ của tôi là mở cửa nơi này.”

      “Rất đẹp để tham quan”, tôi chỉ ra. “Vài người kể với tôi là vé vào rất đáng tiền.”

      “Ngôi nhà đúng là rất đáng . Giờ tôi dẫn vòng, miễn phí, nhưng tôi e hơi khó với tình trạng của .”

      Đôi chân có cảm giác như muốn sụm xuống, nhưng tôi muốn nghĩ sâu hơn về nguyên nhân. Tôi mỉm cười. “Có lẽ để lần khác.”

      “Chắc chắn rồi. Lúc nào đó vào tuần sau, khi tôi cũng thu xếp ổn thỏa chút. Tôi vừa mới nghỉ về.”

      “Tôi biết. Từ Pháp, phải ?”

      Geoffrey de Mornay mỉm cười, nụ cười rộng – chủ định quyến rũ tôi – và có vẻ hơi buộc tội. “ đến quán Sư Tử Đỏ”, ta . “Phải, tôi neo con thuyền trong cảng tại Antibes [1] , miền nam nước Pháp. Hằng năm, tôi đều đưa nó ra khơi hoặc hai lần. Thi thoảng tránh mùa mưa cũng thú vị lắm.”

      [1] thành phố du lịch nổi tiếng ở đông nam nước Pháp bên bờ Địa Trung Hải.

      “Và ai trông coi lâu đài khi vắng mặt?”

      “Tôi có đội ngũ nhân viên siêu năng lực quản lý thay mình.” ta ngả lưng ghế, hơi xoay đôi vai rộng. “Hai hướng dẫn viên, quản gia, nhân viên vệ sinh làm ngoài giờ, người làm vườn – theo mùa – và người chăm sóc lũ ngựa. Thực là cả chu trình.”

      “Đương nhiên rồi!” Tôi gật đầu khi đột nhiên lĩnh hội. “Điều đó giải thích hết thảy.”

      “Giải thích cái gì?”

      “Xin lỗi. Tôi chỉ mới tháo gỡ được , thế thôi. Tôi nhìn thấy người đàn ông cưỡi ngựa các cánh đồng của , người đàn ông mặc quần áo đen cưỡi con ngựa màu xám. Hẳn là người chăm sóc ngựa nhà .”

      “Nếu là ngựa xám phải. Trong chuồng nhà tôi chỉ có ngựa màu hạt dẻ và hồng mao.” ta lười nhác lướt ngón cái dọc tay cầm chiếc ghế, vuốt ve mặt vải, và giọng ta, khi cất lên, có vẻ rất tùy tiện. “ chắc nó có màu xám chứ?”

      “Ngựa có thể phải thế mạnh của tôi”, tôi bảo ta, “nhưng màu sắc có”.

      ta cười toe toét. “Tôi quên mất. là họa sĩ, phải ? Hừm, tôi cũng lo ngại gì đâu. Tôi quá so đo về quyền sở hữu đất đai. Nếu ai đó muốn sử dụng con đường cưỡi ngựa của tôi họ đều được hoan nghênh. Trông ta thế nào?”

      Tôi cố gắng nhớ lại cách chính xác. “Tôi thực nhìn ta, ta ở quá xa. Tôi nghĩ ta khá cao – dù khó mà vậy nếu ngồi lưng ngựa, đúng chứ? ta mặc quần áo đen, lạ cái là tóc ta cũng dài”

      “Nghe như mấy gã từ quán trọ. Có quán trọ dành cho khách nghỉ qua đêm cách đây ba dặm về hướng tây”, ta giải thích. “Tương đối lớn. Rất nhiều khách du lịch ngang qua nó. Thi thoảng họ cũng thuê con ngựa.”

      “Tôi hiểu.” Điều này chắc chắn nghe có vẻ hợp lý với tôi. Tôi uống nốt ly nước, Geoffrey de Mornay cựa quậy chiếc ghế.

      muốn uống thêm ?” ta đề nghị. “Thứ gì đó có vị hơn?”

      “Ôi, đâu. Tôi thực ổn rồi mà. “ Đặt ly xuống cuối chiếc bàn bên cạnh rồi lúng túng đứng dậy, tôi lùa bàn tay qua mái tóc rối bù. “ tốt bụng, nhưng tôi quả thực nên thôi. Tôi chiếm dụng thời gian của đủ rồi.”

      hề. Nhưng tôi chưa bao giờ tranh cãi với hàng xóm cả.” ta cũng đứng lên, khiến tôi trông lùn tịt, và lịch thiệp nghiêng đầu. “Lại đây, tôi tiễn .”

      Tôi theo ta qua hành lang hẹp và tối đến cửa ngách, rồi quay người lại nơi ngưỡng cửa để cảm ơn ta lần nữa.

      “Vinh dự của tôi”, ta quả quyết, vai dựa vào trụ cửa và khoanh hai tay trước ngực. “Thay đổi thú vị trong lịch trình hằng ngày. Tôi thường được gặp các xinh đẹp là người dưới chân mình như thế.”

      “Ừm, vâng, chuyện đó”, tôi đỏ mặt , “ xảy ra nữa đâu”.

      ta mỉm cười với tôi, sau cái bắt tay cuối cùng, tôi lên đường ra về. Khi tôi gần đến cuối quãng đường có hai bên lề cỏ được cắt tỉa gọn ghẽ, ta lên tiếng.

      “Đáng tiếc đấy”, ta , nhưng tôi nghĩ đấy là câu ta định cho tôi nghe.

      “Em cần cẩn thận, cưng ạ”, trai tôi ra chiều am hiểu dặn dò lúc tôi kể cho câu chuyện về lần gặp gỡ Geoffrey de Mornay. “Em biết đấy, các lãnh chúa có những đặc quyền bất di bất dịch trong lịch sử. Lựa chọn các trinh nữ trong làng, và nhiều hơn nữa kìa.”

      thôi vớ vẩn ”, tôi đáp.

      tuần trôi qua, giờ là tối thứ bảy, và chúng tôi ngồi giữa những vật dụng sang trọng lẫn đâu được trong nhà Roderick Denton tại Luân Đôn. Bữa tiệc tối hết sức thành công, khi toàn bộ các đối tác đầu tư của Rod đều tề tựu, đây cũng phải lần đầu tiên tôi buộc phải thừa nhận lời khuyên của trai là chính xác.

      Bữa tối cho tôi quãng nghỉ thư thái khỏi vòng quay của việc dỡ đồ và trang trí liên miên, tôi có cảm giác gần như lại được làm người. Hơn hết, tôi cuối cùng cũng có lý do để mặc quần áo sang trọng, thay cho những chiếc quần jean và áo sơ mi mềm suốt hai tuần qua. Chúng cho tôi cảm giác trưởng thành và lọc lõi cách thú vị. Giá như mình quá đỗi buồn chán như thế…

      Mới có hai tuần rời Luân Đôn thôi, tôi nghĩ, mà cuộc chuyện trò diễn ra quanh căn phòng này dường như chẳng còn lien quan đến tôi rồi, hơn nữa còn hời hợt đến hợm hĩnh. Tom tóm được cái ngáp của tôi và trêu chọc huých tôi cái.

      bảo em uống rượu từ từ rồi mà”, nhắc.

      “Xin lỗi.” Tôi lại ngáp. “Em nghĩ mình đến giới hạn rồi, Tom à. Em phải đây.”

      “Được rồi. gặp em ở cửa.”

      “Julia quý.” Roderick Denton bất ngờ tấn công với hai cánh tay dang rộng, chặn đường đào tẩu của tôi. “ rất vui vì em đến.”

      Tôi ôm lại ta. “Cảm ơn vì lời mời. Em vui lắm. Và nhớ gửi lời cảm ơn đến chị Helen hộ em nhé.”

      phải em định về đấy chứ?”

      “Em e là thế. Có người bạn đợi em.”

      “Ồ?” ta nhướn bên lông mày đưa chuyện lên. “Em định nghỉ lại tối nay trong thành phố à?”

      “Vâng, ở chỗ Cheryl. nhớ Cheryl chứ, Rod? ấy làm ở Whitehall [2] .”

      [2] Tên con đường tập trung các cơ quan đầu não của . Hay còn để chỉ chính phủ .

      ta thoáng nhíu mày, rồi hỏi. “Tóc đỏ hả? Khá thông minh? Sống ở Camden Town [3] ?"

      [3] quận nội thành phía tây bắc Luân Đôn.

      “Giờ ở Islington rồi”, tôi sửa lại. “ ấy được tăng lương.”

      Rod hẳn đánh giá cao điều đó, tôi suy luận, khi tự bản thân cũng là người leo lên ngừng trong xã hội thượng lưu. Tôi lén lấy Cheryl làm lý do để rời bữa tiệc. Thực tế, ấy hề đợi tôi. ấy giờ thậm chí còn ở Luân Đôn. ấy được bạn trai mời nghỉ ở quận Hồ [4] , nên rất hân hoan cho tôi mượn căn hộ đêm, cùng với con mèo cưng và sử dụng chỗ đỗ xe của ấy.

      [4] Công viên quốc gia lớn nhất nước .

      “Nếu em đợi vài phút, có thể tìm ai đó cho em nhờ”, Rod – vị chủ nhà chu đáo hơn bao giờ hết – đề nghị.

      “Thôi, em cảm ơn.” Tôi lắc đầu. “ tàu điện ngầm cũng nhanh mà. Còn ”, tôi thúc vào cánh tay Tom, “cũng nên về . Nếu ngủ gật suốt buổi thuyết giảng ngày mai mất”,

      “Cùng với phần còn lại của giáo đoàn”, Rod , làm tôi cười khúc khích.

      Tom mỉm cười khoan dung. “Cứ cười to vào”, mời mọc. “Em thừa biết để mặc em tàu điện ngầm trong tình trạng này rồi còn gì. tìm cho em chiếc taxi.”

      “Em muốn taxi”, tôi phản đối. “Em muốn tàu điện ngầm. Hoặc bộ. Em thích hít thở chút khí trong lành.”

      Nhưng Tom rất cương quết. đưa tôi xuống đường, vẫy chiếc taxi, ấn tôi vào và đưa chỉ dẫn đến thẳng căn hộ của Cheryl. Ngay khi chiếc xe ngoặt vào góc đầu tiên, tôi chúi người lên trước và đập vào vai tài xế. “Tôi đổi ý rồi”, tôi bảo ta. “Làm ơn cho đến ga tàu điện ngầm Embankment.”

      Sau cùng, tôi nên taxi. Lối vào ga tàu điện ngầm đông nghẹt thanh niên, người người chen chúc nhau trong mùi bia ôi cùng mồ hôi đêm thứ Bảy khiến nỗi sợ gian kín của tôi càng rệt. Tôi định bắt tuyến bắc chạy thẳng đến Islington, rồi đột nhiên ánh đèn sặc sỡ trong ga điện ngầm chỉ còn lại chút mời gọi. Thực cũng cần phải vội, tôi tự nhủ. Tôi có thể tản bộ đoạn dọc bờ sông rồi bắt tuyến vòng ở ga xa hơn. Với ánh nhìn quyết định cuối cùng về phía đám đông huyên náo, tôi quay gót hướng đến ánh đèn dìu dịu của đường Embankment và vô số hình ảnh phản chiếu lấp lánh sông Thames thiu thiu ngủ.

      Đằng sau tôi, sau cây cầu Westminster, là mặt ngoài ấn tượng của tòa lâu đài cổ County uốn cong, phía trước là kiến trúc mái vòm thân thuộc của nhà thờ St. Paul sáng lung linh, lên như ngọn hải đăng bầu trời đêm. Quả là đêm tuyệt đẹp, yên ả đến ngờ và nhiệt độ khá dịu, mặc cho độ ẩm cao. Tôi lững thững bước, vượt qua ngọn tháp hình chiếc kim của Cleopatra, với những con nhân sư canh gác, vượt qua chiếc bóng khổng lồ của tòa nhà Somerset [5] và cổng vào còn uy nghi hơn dẫn đến trường Luật và Hội luật Hoàng gia.

      [5] Trung tâm văn hóa nghệ thuật lớn ở Luân Đôn.

      Đầu tiên, tôi khoan khoái tận hưởng cảm giác đơn độc. Nhưng vài phút sau, nỗi thỏa mãn bị rượu che mờ của tôi dần dần rẽ lối cho thận trọng trườn vào. Sau cùng, giờ là khuya thứ Bảy, dù cũng có thể đáng như đường Embankment, nhưng đây phải nơi khôn ngoan nhất cho người phụ nữ dạo mình. Tôi bồn chồn rảo bước. Đến đúng trạm tiếp theo, tự hứa với bản thân, tôi xuống ga điện ngầm. Tôi bộ đủ xa trong đêm. Bên cạnh đó, tôi cũng uống rượu hơi quá mức cho phép và lúc này tôi có cảm giác mệt mỏi kinh khủng. Những bước chân của tôi bắt đầu thoáng lung lay và loạng choạng, song đầu óc lại có cảm giác tỉnh táo đến lạ lung, chứa đầy những hồi chuông vang vang kỳ quặc.

      phút sau, tôi bỏ luôn ý định bắt tàu điện ngầm và đổi hướng khỏi bờ sông để tìm chiếc taxi. Nhưng chiếc xe nào trong tầm măt, và càng tìm kiếm trong những con đường rối như mê cung, tôi càng bị lạc. Những con đường đầu tiên hẹp lại thành ngõ, rồi hẻm , lối mỗi lúc tối thêm và nhấp nhô thêm dưới chân, trong khi tiếng chuông bên tai càng trở nên nét. Sau vài lần rẽ nhầm, tôi cuối cùng cũng băng qua con đường trông có vẻ quen thuộc – con đường hơi quanh co với những ngôi nhà dựng từ gỗ sồi có tường thạch cao, những tầng cao cùng nhô lên được sơn màu và trang trí. Khi tôi qua khug cửa có mái che, cậu bé thó, rách rưới giơ chiếc đèn lồng tiến lên trước.

      có cần đèn , thưa ?” Cậu bé hỏi tôi đầy hy vọng, nhưng tôi lắc đầu và vội vã tiếp.

      Thêm đoạn ngắn xuôi xuống con đường, tôi dừng lại ở trong những ngôi nhà đứng tụm lại với nhau và gõ dồn dập lên khung cửa. Tưởng như thời gian trôi qua rất lâu trước khi tiếng gõ cửa của tôi cuối cùng cũng được trả lời bởi người phụ nữ bé, trung tuổi với đôi mắt xanh hiền hòa và gương mặt mộc mạc. Bà mặc đồ ngủ và choàng tấm khăn từ đầu xuống vai để tránh làn hơi buốt lạnh buổi đêm.

      Nhìn thấy tôi, đôi mắt bà trừng lớn vì kinh ngạc. “Cháu tôi! Sao cháu lại ra ngoài lúc đêm hôm thế này? Vào trong … vào trong và làm ấm người lên!”

      Tôi như lê khỏi ngưỡng cửa và đứng trước ngọn lửa bập bùng. Tôi nhìn chằm chằm vào đống lửa, cảm thấy hơi lạnh trũng sâu vào nơi hơi ấm từ ngọn lửa thể chạm đén.

      “Mẹ cháu bị ốm”, tôi .

      Ánh mắt người phụ nữ chạm ánh mắt tôi và có nỗi đau khổ thấu hiểu lướt qua chúng tôi còn hơn cả việc diễn đạt bằng lời.

      “Khi nào?” Bà hỏi.

      “Mẹ đột ngột ngã bệnh.” Giọng tôi đờ đẫn. “Vào bữa tối. Rồi bà sốt cao và nhận ra cháu nữa. Người hầu đưa cháu ra khỏi nhà.”

      “Họ làm đúng. Cháu thể quay lại đấy.” Bà nặng nhọc ngồi xuống bên cạnh tôi. “Cũng thể ở lại đây. Hàng xóm nhà bác cũng rất sợ bệnh dịch. Họ gây rắc rối.” Bà nghĩ ngợi rồi trầm ngâm lúc lâu. “Cháu về nông thôn”, cuối cùng bà lên tiếng. “Đến chỗ bác cả của cháu.”

      “Bác Jabez ạ?” Tôi cắn môi. Bà biết nguyên nhân cho những e ngại của tôi.

      “Bác ấy giống bác John của cháu, Chúa phù hộ cho linh hồn hiền lành của ông ấy. Nhưng là người đáng kính trọng và lương thiện. Bác sắp xếp chiếc xe ngựa vào sáng mai. Cháu mang gì theo sao?”

      Tôi lắc đầu khiến bà nhíu mày. “Cháu cần quần áo. Ellen nhà bác cũng tương tự với cháu. Con bé có lẽ có thứ gì đó phù hợp.”

      Bà đứng dậy khỏi ghế và hối hả hướng về cầu thang hẹp. Tôi yếu ớt phản đối.

      “Bác Mary…”

      “Mariana.” Giọng bà chắc nịch. “Đây là ý Chúa. Tất cả định rồi.”

      Điệu vũ của những ngọn lửa chập chờn, mờ ảo, và biến mất.

      Tôi chớp mắt. Tôi đứng ở hẻm Blackfriars, giữa chồng gạch xây dựng trong lô đất trống tối đen. Trời bắt đầu mưa, lại trận mưa xuân lạnh lẽo ngớt, chiếc xe vụt qua hắt làn nước buốt giá khiến cả thân thể tôi lạnh cóng và hàm răng va vào nhau lập cập. tòa nhà lùm lùm lên ngay phía trước, ánh đèn vàng cùng tiếng cười hòa trong nhạc tràn khắp con đường qua ô cửa để mở của quán rượu trong khu và tôi xoay những bước chân vấp váp của mình thẳng về hướng đó.

      Hãng taxi nhanh chóng phản hồi cuộc điện thoại của tôi. Nhét mình vào ghế sau trong quãng ngắn ngược lên Islington, tôi rụt người vào trong góc tối, tránh xa ánh sáng loang loáng của những ngọn đèn đường bỏ lại sau lưng.

      Trong chiếc xe, thoát khỏi màn mưa, còn thấy lạnh nữa; nhưng tôi liên tục rùng mình, như thể chẳng bao giờ lại cảm thấy ấm áp.

                  CHƯƠNG 6


      “Mariana.” Vivien Wells cuộn cái tên đầu lưỡi như định lượng năm sản xuất rượu, rồi nhíu mày quay đầu ra sau. “, tôi nhớ từng nghe ai đó có cái tên này. sao, Ned?”

      buồn ngẩng lên từ tờ báo, chàng phục vụ quầy bar lắc đầu, Vivien tiếp tục cân nhắc khi tính tiền.

      “Cái tên này khá lạ, phải sao?” ấy . “ cái tên cổ.”

      “Hài hước là lại gọi cái tên đó như vậy.” Tôi cười với ly nước cam, ấy hứng thú ngẩng đầu lên.

      “Còn vẫn tìm kiếm những lá thư cũ nhét dưới ván sàn đấy hả?” ấy hỏi.

      “Gần tương tự. Thực cũng quan trọng đâu.” Tôi đặt ly lên quầy bar và liếc về phía chiếc bàn trống trong góc.

      “Tôi thấy những người đàn ông chưa đến hôm nay.”

      Vivien nhìn theo tôi và mỉm cười. “Vẫn còn sớm”

      Tôi ngó đồng hồ và nhìn, với chút ngạc nhiên, mới mười hai giờ rưỡi. Phải thừa nhận vẫn còn hơi sớm cho người dân lương thiện ở Exbury đến quán rượu, nhất là vào Chủ nhật. Dẫu thế, với tôi cứ như thể đến giữa chiều rồi vậy.

      Tôi có giấc ngủ tệ hại đêm hôm trước. “Ngủ” có lẽ phải từ chính xác, bởi hầu hết cả đêm tôi đều trừng mắt nhìn vào bóng tối, dõi theo chiếc đồng hồ điện tử dạ quang cạnh giường hiển thị từng phút .

      Tôi nhớ lại những khoảnh khắc lạ lùng và đáng sợ trong hẻm Blackfriars, lật lật lại chúng trong tâm trí cho đến khi có cảm giác mình hẳn bị điên. Nó giống trải nghiệm có thể kể với bất kì ai. Tom có thể lắng nghe, nhưng hôm nay là Chủ nhật, và liên lạc với Tom vào Chủ nhật là điều tưởng. chiếc bàn ăn sáng trong căn hộ đơn độc ở Luân Đôn, con mèo của Cheryl cứ nhìn chằm chằm vào tôi.

      “Mày nghĩ gì thế?” Tôi hỏi nó. “Tao sắp mất trí rồi phải ?” Con mèo đơn giản vẫn tiếp tục nhìn, mong đợi có được câu trả lời từ hướng đó nên tôi trở về nhà. lạ lùng, tôi nghĩ, chẳng mấy chốc mà ngôi làng hẻo lánh mang lại cho tôi cảm giác như ở nhà. Càng lạ hơn khi Luân Đôn, nơi tôi sinh sống biết bao năm, giờ dường như trở nên xa cách và tách biệt đến lạ.

      “Quay lại thành phố vui chứ?” Câu hỏi của Vivien nhảy vào tâm trí tôi với chính xác đến kỳ quặc.

      có biết”, tôi từ tốn , “tôi nghĩ mừng khi thoát khỏi Luân Đôn ? trở về nhà”.

      ấy gật đầu thấu hiểu. “Sống ở đấy đủ lâu, và Luân Đôn có vẻ bắt đầu trở nên thực. Người ta quá căng thẳng khi sống ở đó. Tôi thường tự hỏi làm sao ai đó có thể chịu đựng được loại căng thẳng ấy ngày này qua ngày khác. nghĩ thế nào hả, Iain?”

      Tôi giật nảy ghế và quay lại. Như mọi khi, tôi nghe thấy tiếng ta tiến lại gần.

      á? khoái Luân Đôn”, Iain Sumner vừa vừa chống khuỷu tay lên quầy bar và vắt chéo đôi chân bốt nặng nề.

      di chuển cứ như con mèo phải gió vậy”, tôi cáu kỉnh buộc tội ta, dây thần kinh của tôi tróc hết cả ra vì thiếu ngủ. ta quay đầu sang nhìn tôi, rồi nhướn bên lông mày khó hiểu lên.

      “Tôi xin lỗi”, ta bình tĩnh . “ có muốn tôi huýt sáo, hay làm gì để đánh động cho biết rằng tôi đến ?”

      “Ý hay đấy.” Vivien bật cười, đôi mắt xanh dương nhảy múa. Tôi có ấn tượng nét rằng ấy rất quý mến Iain Sumner. “ vẫn uống như mọi khi chứ?”

      “Ừ”, ta gật đầu, quan sát ấy rót cho mình vại bia đắng sủi bọt màu đen. ta lôi từ túi áo sơ mi gói thuốc lá nhăn nhúm, lắc ra điếu và tò mò nhìn tôi. “ có phiền ?”

      “Ý là nếu hút thuốc ấy hả?” Tôi lắc đầu. “ đâu.”

      “Cảm ơn.” ta châm điếu thuốc, khum những ngón tay lem nhem đất quanh que diêm và lờ ánh nhìn phê phán của Vivien.

      “Em tưởng bỏ rồi”, .

      “Ừ. Mẹ cũng vậy.” ta nhìn thấy ấy ra chiều vô tội. “ mới từ lâu đài về. Geoff cậu ta tìm thấy tất cả giấy tờ em hỏi, những tài liệu cậu ấy dùng cho việc nghiên cứu lịch sử lâu đài và hỏi em có muốn mời cậu ấy uống cà phê tối nay , để cậu ấy có thể mang đến đây cho em với Julia xem.”

      “Em có muốn mời ấy á? Thế mới ghê chứ!” Vivien nở nụ cười rộng. “Gì nữa đây, nông dân bọn em được phép đến lâu đài vào Chủ nhật à?”

      Iain nâng vại bia của mình lên và nhún vai. “Có vẻ người giúp việc mới về cách đây lâu. Em biết Geoff rồi đây. Cậu ta bày bừa đống khi tìm đám giấy tờ.”

      “Được rồi”, Vivien đầu hàng, “bảo ấy cứ xem như được mời . Đó là nếu Julia rỗi. Phải ?”

      Tôi gật đầu.

      “Tốt. Vậy chúng ta hẹn bảy giờ nhé? Iain sao?”

      Đôi lông mày của ta nhướn lên. “ cũng được mời à?”

      lúc nào cũng được mời”, ấy bảo ta.

      “Thế em tốt nhất nên bồi dưỡng cho .”

      “Em làm sandwich”, Vivien nghiêm túc hứa hẹn. “Nhân đây, cái tên Mariana có ý nghĩa gì với ?”

      “Shakespeare”, là câu trả lời tức khắc và ngờ của ta.

      “Shakespeare?” Tôi lặp lại và ta gật đầu.

      “Vị hôn thê lén lút của Angelo trong vở Mạt cưa mướp đắng [1] .”

      [1] Vở bi kịch có tên Measure for measure của Shakspear.

      “Ồ.”

      “Nó có ý nghĩa gì đó khác ?”

      sao đâu, đấy”, tôi , “tôi chỉ tình cờ đọc được cái tên này trong … lá thư khi dọn dẹp và tự hỏi liệu có ai biết ấy thôi”. ai nhận ra chút vấp váp trong lời dối của tôi.

      “Hừm, ràng tôi phải người thích hợp nhất để hỏi những chuyện như thế”, Iain thừa nhận với nụ cười khẽ, “Dì Freda nhà em có thể biết đấy”, ta bảo Vivien. “Hoặc nhóm đàn ông.” ta bắt đầu về phía chiếc bàn trống trong góc.

      quan trọng đâu”, tôi lặp lại và gần như hối tiếc vì hỏi Vivien ngay từ đầu. Sau cùng, trải nghiệm lạ lùng của tôi ở hẻm Blackfriars tối qua rất có thể chỉ là sản phẩm từ quá nhiều rượu, hoặc quá nhiều căng thẳng… hoặc mối nguy ngấm ngầm nào đó từ bệnh thần kinh đan kết trong dòng họ của tôi. Dù sao nữa, khả năng người phụ nữ trẻ tên Mariana cùng bà bác Mary ồn ào của ấy có đời cũng rất mong manh. Ít nhất tôi thích nghĩ thế hơn. Bởi giả sử thực từng có Mariana, cũng đồng nghĩa rằng tôi…

      “Được rồi.” Iain đặt chiếc vại rỗng xuống quầy bar với tiếng cạch thỏa mãn, cắt đứt dòng suy nghĩ của tôi. “ đây.”

      quên chuyển lời nhắn của em đến Geoff đấy chứ?” Vivien hỏi khi Iain quay ra cửa.

      , quên đâu. Mà em biết ”, ta nghiêm trang, “mấy người bọn em nên học cách sử dụng điện thoại và cứu lấy đôi chân đau nhức của thôi”.

      bộ tốt cho còn gì”, ấy bắn trả.

      “Hẳn rồi. Vậy hẹn gặp lại hai người sau nhé.”

      ấy thực rất tuyệt”, Vivien cất tiếng lúc cánh cửa sập lại sau lưng ta.

      “Và đọc Shakespeare.”

      “Điều đó khiến ngạc nhiên phải ? Dù tin hay Iain cũng nghiên cứu Ngữ văn ở Cambridge. Thế nên ấy với Geoff mới gặp nhau.”

      “Vậy ư? Và giờ ấy chăn cừu?”

      “Ừm. tại Iain chăn nuôi. ấy có thể làm rất nhiều chuyện với cuộc đời của mình – ý tôi là, ấy ổn định về mặt tài chính và có thể trở nên thông minh chết người bất cứ khi nào ấy muốn. Nhưng tôi nghĩ ấy hạnh phúc nhất khi vầy vò với đám đất.”

      “Còn Geoffrey de Mornay học gì ở Cambridge vậy?” Tôi hỏi, hy vọng thờ ơ ở đúng mức độ.

      “Chính trị, tôi nghĩ thế. phải cái ấy cần. Chưa bao giờ phải thắc mắc về tương lai của Geoff.” ấy mỉm cười. “Ông của ấy là người lập nên hãng điện tử Morland.”

      “Tôi hiểu.” Có chút điếng người. Logo màu đỏ tươi của Morland gần như có thể nhận ra như cái bóng của bãi đá cổ Stonehenge, và gần như truyền nỗi kinh sợ. Từ công ty sản xuất các thiết bị radio trong thời chiến, Morland bành trướng thành trong những công ty đa quốc gia lớn nhất nước . Tôi đoán lợi nhuận hằng năm của nó phải tính bằng con số hàng nghìn tỷ bảng.

      vẫn chưa gặp ấy à?” Vivien hỏi.

      “Thực tế tôi gặp rồi. Chiều thứ Năm tuần trước. Đại loại chúng tôi đâm phải nhau lối cạnh nhà thờ.”

      “Vậy ư? Lạ là ấy nhắc đến.” ấy nhìn tôi tò mò. “Khôi ngô chết người, phải ? Tôi thường nghĩ ông trời bất công khi cho người tất cả tiền tài và khuôn mặt như thế.”

      “Tôi hình dung ta hẳn bị mọi trong làng theo đuổi”, tôi . câu hỏi dò mạo hiểm và đáng xấu hổ, Vivien lại mỉm cười.

      “Tôi cũng theo đuổi ấy”, ấy thừa nhận, “khi còn học. thấy ấy là điều gì đó tuyệt vời, nên nhìn ấy lúc đó. ấy sống năm năm ở California và có làn da rám nắng khủng khiếp, mỗi khi đều lẫn chút trọng Mỹ”. ấy lim dim mắt tán thưởng. “Nhưng đương nhiên ấy để mất chúng còn nhanh hơn. Cambridge gột đám trọng ấy .”

      “California?” Điều đó khiến tôi ngạc nhiên. “ ấy làm gì ở đó vậy?”

      “Cha mẹ Geoff ly hôn khi ấy lên mười tuổi. Mẹ ấy bỏ theo người đàn ông khác và Geoff đến Mỹ với cha mình. Tôi nghĩ Morland có chi nhánh lớn ở đó, gần San Francisco. Dù sao lúc mười sáu tuổi cuối cùng Geoff cũng quay về. Coi như chút điều chỉnh với ấy”, ấy lại mỉm cười . “Dẫu vâỵ, ấy vẫn hòa nhập được với cộng đồng ở đây và thậm chí mọi chuyện còn tệ hơn khi ấy quay lại – ai ấy cũng kết bạn hết. Kể cả tôi”, ấy toe toét thêm vào. “Cứ nghĩ mà xem, thời gian đó chúng tôi sống chung dưới mái nhà, nên có kết bạn cũng chẳng có gì đáng chê trách cả, nhưng vẫn khiến vài người nhướn mày. Giờ ngẫu nhiên vẫn vậy đấy.”

      Tôi thoáng nhíu mày và cố gắng bắt theo. “ sống ở lâu đài Crofton sao?” Tôi ngập ngừng. “Khi còn ?”

      “Phải. Xin lỗi, tôi quên mất là biết.” nụ cười lúng túng xoẹt qua. “Tôi cứ luôn phải nhắc bản thân, biết đấy, rằng chúng ta chỉ mới gặp nhau. Nhưng đôi khi cứ như tôi với kết bạn hàng năm trời rồi ấy, có cảm thấy thế ? Dù sao đúng, lúc còn , tôi sống ở lâu đài. Dì tôi trông tòa nhà hộ cha của Geoff, thấy đấy, và tôi sống với dì ấy. Cha mẹ tôi”, giải thích, trước khi tôi kịp hỏi, “mất trong tai nạn tàu hỏa nhiều năm trước. Tôi hầu như nhớ nổi mặt họ. Dì Freda cưu mang tôi, và xét cho cùng thực việc ấy cách phi thường, dù tôi chắc chắn mình là nguyên nhân cho từng sợi tóc bạc mái đầu dì”. mỉm cười trước dòng ký ức. “ đêm, dì phát tôi có mặt trong những tấm ảnh cùng Geoff. Thế là dì bắt tôi qua đường đến nhà ông bà tôi, cùng chiếc vali. đứa cháu nào của dì được trở thành đề tài cho các câu chuyện ngồi lê đôi mách của dân làng. Dì Freda tội nghiệp.”

      Tôi dùng chiếc ly vạch lên biểu tượng vu vơ quầy bar. “Vậy và Geoffrey de Mornay từng là…”

      “Ôi, lạy trời, . Chẳng có gì nghiêm túc cả. Thực đây, chưa bao giờ có ai thực nghiêm túc, với Geoff.” Nụ cười của Vivien trở nên rộng hơn khi nhìn vào mắt tôi. “Vẫn chưa.”

      Tôi thoáng đỏ mặt và uống nhanh ngụm từ ly nước quả.

      có chắc muốn thứ gì mạnh hơn ?”

      “Chắc mà.” Tôi , rồi xoay cổ tay để có thể nhìn thấy mặt đồng hồ. “Thực tôi nên về đây. Tôi vẫn phải sắp xếp cho xong xưởng vẽ, và sau đó, nếu may mắn tôi có thể ngủ vài giờ trước khi trời tối. Hôm ở Luân Đôn tôi ngủ ngon mấy.”

      “Trông mệt lắm”, Vivien . “Nếu muốn lúc nào chúng ta cũng có thể hoãn bài học lịch sử được mà.”

      “Ôi, . Tôi ổn thôi. Bảy giờ phải ?”

      ấy gật đầu. “Cứ vòng ra cửa sau. Đấy là khu vực riêng của tôi. Ned có thể tự mình trông quán đêm, đúng cưng?”

      Tại đầu kia của quầy bar, Ned lật tờ của trang thể thao. “Ừ, đương nhiên rồi”, ta .

      Hẳn có điều gì đó lộ mặt tôi khi nghĩ Ned tự mình trông quán ra sao, bởi Vivien cười ha hả.

      có thấy ấn tượng gây cho này Ned?” ấy hỏi ta. “ ấy thậm chí thể hình dung nổi cảnh làm việc này.”

      ấy chưa nhìn thấy hành động thôi”, Ned đáp với cái nhún vai tùy tiện.

      Vivien hạ giọng và hất đầu về phía đồng nghiệp. “ chung chúng tôi chỉ giữ ấy ở đây bởi tài pha màu quá khéo của ấy”, ấy giãi bày. “Nhưng thi thoảng ấy thực cứ ngồi yên chỗ thế đấy. Cũng thú vị ra trò nhỉ.”

      “Tiếp tục ”, người đàn ông ở quầy bar điềm nhiên thách thức, “và đêm nay quán rượu mở cửa đấy cưng à. Miễn phí cho toàn bộ khách”.

      Tôi bật cười. “ có muốn tôi mang gì đến tối nay ?”

      “Mang người đến thôi. có chắc mình đủ sức thế?”

      “Ngủ hai giờ là tôi đâu vào đấy ngay”, tôi quả quyết.

      Tôi cảm thấy kiệt quệ. Nhưng hiểu sao, thay vì thẳng về nhà lúc rời quán Sư Tử Đỏ, tôi lại thấy mình rẽ phải và thơ thẩn ngược lên đường Thượng hướng về phía nhà thờ.

      ràng ở đây có mưa đêm hôm trước, giống Luân Đôn. Ngoài bầu trời u ám cao, vỉa hè vẫn ẩm ướt, mùi đất ngai ngái, cỏ đẫm nước và những bông hoa sũng mưa ủ rũ trong khí ban chiều. Người ta có thể bắn thẳng quả đại bác đường mà trúng nổi linh hồn, ngôi làng yên tĩnh vậy đấy, nhưng các vết chân dính đầy bùn đất ở nhiều nơi con đường rải sỏi ít nhất cũng cho thấy dấu hiệu của vài người thức dậy đủ sớm để lễ nhà thờ.

      Cũng có những dấu chân hướng lên con đường rợp bóng dẫn về tòa trang viên. Những dấu chân của Iain Sumner, tôi suy luận, khi có hai vệt dấu chân vào và chỉ có hàng dấu chân lại ra. Trong cơn bốc đồng, tôi rời đường lớn và bắt đầu lên con đường , giày của tôi giẫm bì bạch lớp bùn dần khô. Chỉ là cơn bốc đồng vẩn vơ thôi, tôi tự nhủ. Tôi thực chưa nhìn kỹ ngôi nhà trong lần viếng thăm mới đây và nghi ngờ khả năng Geoffrey de Mornay thấy phiền nếu tôi chỉ ngó qua vòng.

      Con đường tĩnh lặng và vắng vẻ. Bên tay trái của tôi, qua hàng cây chen nhau san sát, tôi chỉ có thể phác lên đường nét mờ mờ của nhà thờ, những bức tường đá vàng của nó mờ đục hẳn trong gian vắng ánh nắng mặt trời. Con đường ôm lấy nghĩa địa nhà thờ vòng góc trong trơn tru, rồi lại được nắn thẳng khi đến gần tòa trang viên. Trước mặt tôi lờ mờ lên cổng vườn dành cho khách bộ hành dẫn đến lối vào phía bắc của lâu đài, khung cửa có giá đỡ được đẽo từ đá vôi xám, cái gờ kèm khối cầu trang trí phủ lên . biển hiệu đặt bên cổng lịch thông báo: “Chào mừng đến lâu đài Crofton. Mạn này dùng cho gia chủ. Khách tham quan xin mời sử dụng cổng phía đông, dẫn vào từ đường Thượng”.

      Quả là chu đáo, tôi nghĩ, để hướng dẫn cho những người bị lạc. Mà cũng khiến họ cảm thấy khó chịu khi phải quay lại lối vừa vào. cánh cổng gắn với bức tường đá thấp bên tay trái dẫn vào khu nghĩa địa nhà thờ, mời chào tắt trở lại đường Thượng.

      Bên tay phải của tôi, tòa nhà dài và thấp lợp mái đá vươn khỏi cổng vườn bệ vệ trước mặt. Mùi hăng hăng dễ chịu lan ra qua khung cửa rộng mở ngay lập tức cho thấy đây là chuồng ngựa của lâu đài. do dự của tôi chỉ dừng trong chốc lát. Tôi chưa bao giờ có thể kháng cự nét quyến rũ gần như nam châm trước diện của những chú ngựa. Quên tất cả về tòa dinh thự, tôi bần thần bước về phía khung cửa lớn, tiếng ruồi nhũng nhiễu mấy phiền hà bên tai tôi.

      Đập vào mắt tôi là khu chuồng ngựa cũ kỹ được xây từ những phiến đá xám thô ráp trông giống hệt loại dùng để xây nhà tôi. Đá sa thạch, Vivien gọi chúng thế. Con ruồi lại vo ve bay qua, lần này lớn tiếng hơn và tôi lại xua nó . Bên trong, chuồng ngựa ấm áp và thơm ngát, tôi ngừng chốc lát để mắt quen với ánh sáng mờ.

      Ở đây có bảy gian có cửa sổ, hầu hết đều là loại hai khung hai cánh mạ chì độc đáo, với những con nhặng xanh thỏa thuê đập cánh o o bên lớp kính. Trong chín ngăn chuồng thẳng hàng có sáu ngăn chứa ngựa, đủ các màu từ đen huyền như màn đêm đến nâu vàng óng ả. Nhưng có con ngựa xám trong góc chuồng phía xa, thu hút ngay chú ý của tôi.

      Đó là con ngựa giống, cao đúng mười sáu gang tay [2] , với cái cổ vươn cao ngạo nghễ và khuôn mặt vương giả gợi nhớ đến những bãi biển lộng gió gồ ghề và những vương quốc ngoại giáo xa xôi. Khi bước lại gần hơn, con ngựa xám quay đầu về phía tôi, đôi mắt đen của nó ánh lên thoáng tò mò và mũi nó khẽ khụt khịt. Tôi vươn bàn tay vuốt chiếc mũi mượt như nhung, làm hai lỗ mũi phập phồng xinh xẵn của nó hơi run lên đáp lại, khi hít vào mùi của tôi.

      [2] Đơn vị đo chiều cao của ngựa, mỗi gang tay bằng 4 inch khoảng 10cm.

      “Xin chào, Navarre”, tôi âu yếm chào nó, “bé cưng xinh đẹp”.

      Con ngựa sục mõm vào tay tôi, tìm kiếm cưng nựng trái phép. Và nó có thể được vuốt ve cái nếu giây phút ấy tôi nghe thấy tiếng bước chân tiến lại gần – những bước chân chắc nịch, tự tin cùng tiếng huýt sáo vui vẻ. Tôi tội lỗi quay phắt lại và đứng trân trân nhìn cánh cửa với hai bàn tay giấu sau lưng như nữ sinh mắc lỗi.

      Nhưng có ai tiến vào.

      Đàn ruồi càng lúc càng réo rắt ồn ã hơn các khung cửa kính, dìm tiếng tim đập dồn dập của tôi chìm nghỉm, tôi chớp mắt trước ánh đèn điện đột ngột sáng bừng, thứ ràng có mặt ở đây lúc trước đó. Khung cửa sổ mạ chì biến mất, được thay vào bởi những khung cửa đôi tiết kiệm năng lượng. Cũng bay biến là các ngăn chuồng ngay ngắn, ở vào vị trí của chúng là các lô giữ ngựa gọn gàng và rộng rãi hơn. Còn con ngựa sau lưng tôi, khi tôi thu đủ dũng khí để nhìn, còn mang màu xám nữa, mà là con ngựa hồng mao sẫm màu, tò mò nhìn tôi từ bức tường an toàn tít phía xa.

      Tôi có thời gian phân tích chuyện gì vừa xảy đến. Tôi bỏ chạy. Bỏ chạy khỏi chuồng ngựa, băng qua con đường và xông vào cánh cửa dẫn đến khu nghĩa địa tôn nghiêm im lìm, và nếu vấp phải rễ cây ngoằn ngoèo, tôi chắc chắn tiếp tục chạy thục mạng

      Tôi ngã sõng soài ra đất giữa đám cỏ mọc um tùm cạnh tường nhà thờ, cú ngã khiến tôi thở nổi, phải nằm yên lúc. Và khi tôi nằm đó, thở hổn hển, hy vọng có ai đó nhìn thấy mình trong tình trạng bất nhã này, ánh mắt rơi tự do lên phiến đá bạc thếch cách tay tôi quãng ngắn.

      Đó là phiến đá cổ, dựng lên góc khó tin và bị dây tường vi quấn dày đặc, nhánh tường vi bao kín phiến đá đến mức chỉ có thể đọc được tên của người nằm yên nghỉ bên dưới:

      Mariana…

    4. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

      CHƯƠNG 7


      Lối vào dãy phòng riêng của Vivien sau quán Sư Tử Đỏ vòng qua trong những khu vườn đáng nhất tôi từng thấy – kiểu vườn vẫn được in trong những tờ quảng bá du lịch mang tiêu đề “Khu vườn đồng quê ”. Hay ít nhất cũng trở thành kiểu vườn như thế vào mùa hè, khi hoa trong vườn nở rộ, thậm chí giờ đây, giữa tháng năm, khu vườn cũng như mớ bòng bong tuyệt diệu, với những bông hoa li ti bám từng kẽ nứt của bức tường đá cũ kỹ bao quanh sân. Chân tôi giật lùi lại trong chốc lát, để bước lang thang trong nỗi thán phục lặng câm.

      “Tôi lại gần sau này”, Iain Sumner thông báo từ cách đó vài thước. “Thế”, ta , khi dần tiến lại chỗ tôi, “ ổn hơn chưa?”

      Bật cười, tôi lắc đầu. “Tôi xin lỗi, nhưng chả ổn tí nào. Tôi vẫn nhảy dựng lên.”

      “À, hừm”, ta thở dài, “chúng ta nghĩ ra cách nào đó. Tôi muốn lên cơn đau tim đâu”.

      “Xin chào!” Geoffrey de Mornay ngoặt qua góc ngôi nhà, trông thanh lịch lạ lùng trong chiếc quần jean và áo sơ mi giản dị. Lời chào của được gửi đến Iain, nhưng nụ cười, tôi ảo tưởng, là dành cho tôi.

      “Sao cậu lại khiến ấy lên cơn đau tim?” ta hỏi. Iain nhe răng cười.

      “Vì tôi cứ di chuyển như con mèo phải gió ấy.”

      “Thứ lỗi cho tôi?”

      ấy cứ rón rén theo tôi”, tôi giải thích.

      Iain phật ý và nhướn cả đôi lông mày lên vờ phẫn nộ. “ người Scotland”, ta tuyên bố với tôi, “ bao giờ rón rén”.

      “Ừm, sao cũng được. Tôi chưa bao giờ nghe thấy tiếng ấy lại gần.”

      Geoff nhíu mày. “Tôi nghĩ cậu có thể đổi sang đôi bốt nặng hơn”, ta gợi ý, nhưng Iain lắc đầu.

      “Sao nổi đôi nào nặng hơn nữa.”

      Cả ba chúng tôi nhìn xuống đôi giày đầy bùn của Iain, vẻ mặt trầm ngâm, cho đến khi tiếng hắng giọng dần ràng khiến đầu chúng tôi đồng loạt ngẩng lên.

      “Chào.” Vivien mỉm cười rạng rỡ từ khung cửa ngó. “Cả ba người muốn vào trong, hay tôi nên ra đó với mọi người nào?”

      “Chào, Viv.” Geoff cúi người để hôn lên má . “Cảm ơn vì mời .”

      lướt qua tiến vào trong nhà, Iain và tôi nối gót theo sau. Vivien vừa đóng cửa sau lưng vừa lắc đầu. “Cả ba làm trò gì thế?”

      “Nhìn đôi bốt của ”, Iain giải thích, đá bay mạo từ của câu hỏi và thong dong vào căn bếp với bàn chân chỉ còn đôi tất. ta cũng mặc quần jean và chiếc áo sơ mi lao động, chiếc váy cùng áo len dài tay của tôi hẳn cho tôi cảm giác chưng diện thái quá nếu tính đến thực tế Vivien cũng mặc váy, chiếc váy xẻ màu xanh nước biển xinh xắn càng tôn lên mái tóc vàng hoe của ấy.

      “Khu vườn nhà đáng đấy”, tôi khen làm ấy mỉm cười.

      “Cảm ơn, nhưng tôi thể nhận hết công lao đâu. Phần lớn việc gieo trồng đều do Iain làm.”

      “Còn khu vườn nhà ai ấy chưa đụng tay vào ?” Tôi muốn biết.

      “Hầu như ”, Iain ngoái lại trả lời khi lục lọi tủ lạnh. “Tôi thích những khu vườn, ghét việc nhìn thấy chúng bị bỏ tan hoang.” ta đứng thẳng với chiếc bánh sandwich trong tay. “Tiện đây cũng từng có khu vườn rất đẹp ở nhà . Eddie già để mặc nó mọc tràn lan. buồn bận tâm đến nó.”

      “Khu vườn nơi Thiếu Phụ Xanh xuất .”

      “Đúng rồi”, Geoff lên tiếng lúc ngồi xuống chiếc sô pha dài trong phòng khách thông với nhà bếp. “ kịp tìm tòi về các truyền thuyết trong vùng rồi hả?”

      “Tôi thấy chúng rất hấp dẫn. Tôi chưa từng gặp ma trước đây.”

      “Giờ cũng nhất thiết phải gặp đâu”, ta chỉ ra. “Người ta chưa gặp Thiếu Phụ Xanh từ ngày tôi mặc quần đùi kìa. Trừ khi mới gặp ấy gần đây?”

      , tôi e là .” Tôi lắc đầu, khi Vivien băng qua căn phòng từ khu vực nấu ăn để đưa ly chất lỏng có màu hổ phách nhạt cho Geoff.

      “Dẫu vậy, ấy tìm thấy các lá thư cũ được cất giấu”, ấy , “ có biết ai tên Mariana sống ở đây ?”

      “Mariana…” Geoff nghiền ngẫm nhấp ngụm rượu. “ chắc. có biết họ của ấy là gì ?”

      “Farr”, tôi , đáp lại ánh nhìn thắc mắc của Vivien, “Tôi thấy mộ của ấy trong nghĩa trang nhà thờ”.

      “Mariana Farr. , tôi nhớ. Nhưng có thể ấy được đến ở đây.” ta gõ lên tập tài liệu dày cộm nằm bàn cà phê thấp cạnh đầu gối mình, với những khay pho mát cùng bánh quy nướng sắp xếp cẩn thận xung quanh.

      tốt nhất nên ngồi cạnh Geoff ấy, Julia, để có thể nhìn hơn”, Vivien khéo léo thu xếp. “Iain, cũng dùng chút rượu Scot chứ?”

      “Mạch nha nguyên chất?”, Iain ngoái lại trả lời khi lục lọi tủ lạnh. “Tôi thích những khu vườn. Ghét việc nhìn thấy chúng bị bỏ tan hoang.” ta đứng thẳng với chiếc bánh sandwich trong tay. “Tiện đây cũng từng có khu vườn rất đẹp ở nhà . Eddie già để mặc nó mọc tràn lan. buồn bận tâm đến nó.”

      “Pha.”

      “Vậy dùng ly, cảm ơn.” ta lôi chai bia nhập khẩu ra từ tủ lạnh và ngồi cùng chúng tôi, chọn cái ghế đôi đối diện với chiếc sô pha qua chiếc bàn cà phê.

      “Còn muốn thứ gì hả, Julia? Vivien hỏi. “Ý tôi là đồ uống ấy.”

      Trong quá khứ, mỗi lần được hỏi câu đó, tôi luôn thành công trong nỗ lực chọn loại đồ uống chủ nhà có. Lần này, tôi thử cách giải quết khác.

      là bartender [1] .” Tôi mỉm cười. “Tôi để chọn giúp.”

      [1] Người phục vụ quầy bar, phụ trách rót và pha chế rượu.

      “Linh hồn cả tin”, Geoff nhận xét lúc Vivien lấy đồ uống cho tôi. “Vậy kể tôi nghe xem. Chính xác hứng thú với cái gì?”

      “Gì cơ?”

      “Về mặt lịch sử. Chỉ ngôi nhà của thôi sao?”

      “Vâng, chủ yếu là thế. Nhưng tôi cũng hứng thú với lịch sử lâu đài của nữa.”

      ư?” ta trông có vẻ hài lòng.

      Iain lớn tiếng rên rỉ. “Lại nữa à”, ta , với cái miệng đầy bia và sandwich.

      “Sao thế? Tôi gì à?”

      gì cả”, Vivien đáp, quay trở lại với hai chiếc ly cao đầy ắp chất lỏng lợt màu. “Giống như Geoff lại định sa hố nữa ấy, thi thoảng lại thế khi ấy vùi đầu vào lịch sử lâu đài.” ấy đặt đồ uống trước mặt tôi và ngồi bên cạnh Iain, người vừa bắn cho ấy cái liếc ý nhị.

      “Đấy là cách tử tế”, ta bình luận.

      Tôi tò mò nhìn ly nước của mình làm Vivien mỉm cười. “Có rượu rum trong đó”, ấy cảnh báo tôi, “nhưng thành phần còn lại là tối mật”.

      Ngụm thử nghiệm đầu tiên là bất ngờ thú vị. “Tuyệt quá. Cảm ơn.”

      có gì. Giờ , Geoff, mời bắt đầu bài giảng . Em nghĩ tốt hơn hết nên đưa bọn em trở về thời tu viện Benedict và tiếp tục từ đó, theo hứng thú của Julia.”

      “Được.” mở tập tài liệu và vui vẻ sắp xếp các giấy tờ bên trong, hệt như cậu học trò thuyết trình trước lớp học. “Vào năm 1173, tôi tin rằng…”

      “74”, Iain vừa dùng tay dụi mắt vừa sửa lại.

      “… khi Henry II ban mảnh đất cho Thomas Killingbeck, nhằm xây dựng tu viện thuộc dòng thánh Benedict. Quy mô xây dựng tương đối lớn vào thời ây.”

      “Henry II”, tôi lơ đãng nhoài người về trước. “Đó là cha của Richard Tim Sư Tử, đúng ? Người giết Thomas Becket?”

      Geoff hướng đôi mắt tán đồng về phía tôi. “Phải rồi. nhiều người nhớ đâu.”

      “Ừm, biết đây, đó là tên trai tôi”, tôi giải thích. “Thomas Beckett. Đại loại là tôi chú ý đến phần đó trong bài học lịch sử ở trường.”

      Iain duỗi chân, gác cánh tay dọc theo đệm lưng của chiếc ghế đôi. “Tên trai là Thomas?” Đôi mắt xám của ta ánh lên thích thú. “Cha mẹ chọn cái tên tương đối thích hợp nhỉ?”

      “Tương đối.” Nhằm chiếm được đồng tình của Geoff và Vivien, tôi giải thích. “Tom là mục sư ở Hampshire, cách đây xa lắm.”

      Geoff bật cười. “ phải đấy chứ? Nếu được chọn làm Tổng giám mục Canterbury, ấy chắc chắn khiến vài cái đầu ngoái lại nhìn cho xem.”

      “Tôi nghĩ ấy tham vọng thế. Tom thích cuộc sống ở miền quê. Dù sao tôi cũng lạc đề mất rồi. Chuyện gì xảy đến với tòa tu viện vậy?”

      “À, các thầy tu vẫn ổn cho đến khi Henry VIII quyết định xung công tu viện. Tu viện trưởng cuối cùng bị treo cổ vì chống đối hoàng gia.”

      “Ông ấy là trong những bóng ma sao?” Vivien hỏi.

      “Rất có thể. Vài người báo cáo nhìn thấy hồn ma thầy tu bay khắp các hành lang, nhưng khả năng có phải là hồn ma của tu viện trưởng chưa biết.” ta thẳng thắn đến mức kinh ngạc, như thể nhìn thấy ma ở trong các hành lang là chuyện thường ngày vậy. “Dù sao nữa”, ta tiếp tục khi rà soát các ghi chép, “khu đất được bán vào năm 1547 cho ngài James Crofton, người bắt đầu xây dựng tòa nhà tàn tích của tu viện. Tòa nhà gọi theo họ của ông ta. Trong những tấm bản đồ cổ, nó được để là lâu đài của Crofton, và khi thời gian trôi , người ta bắt đầu bỏ từ ‘của’. Ông ta chỉ sống ở đó mười bốn năm, trước khi bán cho Nicholas Hatch, người tặng nó cho con trai Edmund như món quà cưới.”

      “Edmund Hatch cũng dành nhiều thời gian tận hưởng ngôi nhà, bởi ông ta chết vào năm 1594. Có vẻ như do tai nạn súng bắn. Ông ta để lại tài sản cho Ann – vợ ông ta, và bà ấy, Chúa phù hộ, ngay lập tức kết hôn với tổ tiên của tôi, William de Mornay.”

      “William làm nghề gì?” Tôi hỏi.

      “Ông ấy là quân nhân về hưu. Tôi biết vì sao bà lại cưới ông – bà mới mãn tang và người đàn ông ấy gấp đôi tuổi bà.”

      “Có thể ông ấy giàu”, Iain giả thuyết.

      “Cũng có khả năng.”

      Tôi thiên về ý kiến phản đối. Nếu tất thảy sức quyến rũ và vẻ bề ngoài của Geoff đều được thừa kế từ tổ tiên của ta, tôi nghĩ mình biết chính xác vì sao người góa phụ tên Ann Hatch lại vội vã kết hôn với William de Mornay.

      “Ann và William có đứa con, cũng tên là William, khiến mọi nghiên cứu thêm rối rắm. Cha tôi phải trải qua giai đoạn kinh khủng để cố phân loại tài liệu nào về William cha và tài liệu nào về William con. Dù sao nhân vật William con cũng có chút thú vị. Trong suốt cuộc nội chiến, khi đất nước bị chia cắt bởi tùy tùng của vua Chrles I và những người ủng hộ nghị viện của Cromwell, William con mắc sai lầm tai hại, dù đáng khâm phục, khi về phe nhà vua.”

      “Khi nhà vua mất đầu, William con mất trang viên và bị ném vào tháp Luân Đôn [2] vì các rắc rối gây ra. Ông được thả vào năm 1660 khi Charles II đoạt lại ngai vàng và được hoàn trả đất đai, nhưng sức khỏe của ông bao giờ phục hồi lại được. đầy năm sau, ông qua đời. Có bức chân dung còn khá nguyên vẹn của ông trong phòng ăn ở lâu đài – tôi nghĩ có bức ảnh chụp của nó, đây… phải, đây rồi. Đây là William con.”

      [2] Tháp Luân Đôn hay còn gọi là Cung điện Nữ Hoàng nằm ở trung tâm Luân Đôn, phía bắc sông Thames. Đây từng là cung điện, pháo đài của hoàng gia song sang thế kỷ XVI và XVII, nó trở thành nhà tù của những người có địa vị cao (Nữ hoàng Elizabeth I từng bị giam ở đây).

      ta đẩy tấm ảnh qua bàn về phía tôi và tôi cúi người để nhìn hơn. Giả định ban đầu của tôi là chính xác. Vẻ ưa nhìn dứt khoát được kế thừa từ đời này qua đời khác. William de Mornay trông khá thanh lịch trong tấm chân dung sống động, với mái tóc xoăn đen, chòm râu vểnh Vandyke và cặp mắt đen lười biếng mang cảm giác đầy nhục dục. Trong chiếc áo choàng đỏ tươi và quần ống túm, tay ông để chuôi kiếm và tay kia ngang ngược chống lên hông, ông trông giống kỵ sĩ [3] hào hoa đến từng phân .

      [3] Nguyên gốc là “cavalier” – chỉ những người ủng hộ đức vua trong cuộc nội chiến thế kỷ XVII ở .

      Tôi miễn cưỡng trả lại tấm ảnh. “ tấm chân dung tuyệt vời.”

      “Phải. Chúng tôi tìm thấy ghi chép nào về những đứa con của ông, bởi tòa trang viên được truyền lại cho cháu trai của ông, Arthur de Mornay. Điều đó có chút sai lầm. Arthur có vẻ đam mê bài bạc và những mất toàn bộ gia tài của gia đình mà còn dẫn đến kết cục phải bán trang viên để trả nợ. Nên nhà de Mornay lần thứ hai mất đất đai. Chúng tôi lấy lại được nó cho đến khi cha tôi mua lại lâu đài vào năm 1964.” ta lật thêm vài trang giấy với cái nhíu mày lơ đãng. “Tôi nên hồi tưởng lại điều này, biết đấy, trong những ngày ấy. Cha tôi say mê gia phả - ông dành nhiều ngày giam mình trong cục lưu trữ công, tìm kiếm những tờ di chúc và tài sản. Nhưng cuối cùng, ông phần nào đánh mất hứng thú và tôi dường như bao giờ có thời gian…”

      Iain ngọ nguậy ghế. “Bắt đầu hơi chán sau ngài Arthur già rồi, cậu nghĩ vậy sao Geoff? Sao cậu tìm cho chúng tôi thứ gì đó về ngôi nhà của Julia ấy?”

      “Gì cơ?” Geoff ngơ ngẩn nhìn lên, rồi mỉm cười. “Ồ, đúng rồi. Đợi phút, tôi phải tìm kiếm chút .”

      Tôi nhìn đôi bàn tay ta như bị mê hoặc, khi ta xáo tung đám giấy tờ. ta có đôi bàn tay tuyệt đẹp, thon gầy, mạnh mẽ và rám nắng, kèm đôi chút duyên dáng ngẫu nhiên hiển qua từng cử động.

      “À há!” ta rút tờ từ chồng giấy. “Nó đây. Đàn Cừu Xám. Theo nghiên cứu, nó được xây vào năm 1587 bởi người đàn ông tên Stephen Sharington, người nông dân thuê đất từ người bạn Edmund Hatch già cỗi của chúng ta. Ngôi nhà được người con trai của Stephen là John thừa kế, người bán nó vào năm 1626 cho Robert Howard, lái buôn. ổn chứ?”

      Tôi gật đầu. “Chỉ là cơn ớn lạnh thôi. Xin tiếp tục.”

      “Gia đình Howard giữ ngôi nhà cho đến những năm đầu thế kỷ XIX, rồi họ bán cho Lawrence Alleyn. Ông ta là kiểu người vui nhộn – chiến đấu với Wellington [4] ở trận Waterloo và dành vài năm ở Ấn Độ. Ông ta chỉ có đứa con tên là Mary, và ta có đôi chút cấp tiến trước thời đại. Mặc quần dài và viết tiểu thuyết.”

      [4] Hay còn gọi là Công tước Wellington “Công tước Sắt”, nhà chỉ huy quân tài ba, nổi tiếng với trận Waterloo đánh thắng Napoleon năm 1815. Sau này trở thành Thủ tướng Chính phủ.

      “Những cuốn tiểu thuyết kinh khủng”, Vivien khẽ nhún vai thêm vào. “Tôi từng đọc cuốn. Dạng thời Victoria. Đầy rẫy những đoạn miêu tả dài loằng ngoằng và khô như ngói.”

      “Tuy vậy.” Geoff mỉm cười khoan dung. “ ấy chết vào năm 1896 và ngôi nhà được bán cho đại úy James Guthrie.”

      “Chính là ‘Đại úy nào đó’ mà những người đàn ông kể cho nghe hôm trước”, Vivien . “Tôi hỏi dì tôi về ông ta. Dì ấy ông ta là sĩ quan hải quân, hay gì đó, chung là rất bí . Vài người nghĩ ông ta là gián điệp. Có vẻ ông ta điều hành ngôi nhà như trong những con tàu của mình. Có ba con , hầu như được phép ra ngoài, tội nghiệp.”

      “Chuyện gì xảy đến với họ?” Tôi hỏi.

      “À, cuối cùng người cha chết.” ấy mỉm cười. “Bị hạ độc, hầu hết mọi người đều nghĩ vậy. Các bỏ và lấy chồng. Chuyện này diễn ra vào đầu những năm hai mươi.”

      “Hừm, ăn khớp đấy”, Geoff thừa nhận, “bởi vào năm 1921, ngôi nhà được bán cho William Randall, cha của Eddie già. Ông ta cố thuyết phục người sở hữu lâu đài Crofton khi đó – tôi nghĩ tên là Pilkington – tách phần vùng đất, nên nhà Randall là những người đầu tiên đứng tên đất chính chủ.”

      “Và sau nhà Randall, người chủ tiếp theo là ”, Vivien với tôi. “ đề cập đến Mariana nào ở đây sao?”

      Iain nhún vai. “ ấy có thể là người hầu.”

      “Hoặc vợ của ai đó”, Geoff đoán. “Các ghi chép cũ hiếm khi đề cập đến những người phụ nữ trong gia đình.”

      Tôi gật đầu. “Dù sao cũng rất thú vị. phiền nếu cho tôi bản sao của nó chứ?”

      “Lịch sử ngôi nhà của hả? Tôi rất vui ấy chứ.” Ánh mắt ta ấm áp nét cười đón mắt tôi và tôi đột ngột cảm giác như thể mình hít đủ khí. Tôi quay , phá vỡ kết nối, và với tay lấy đồ uống của mình.

      có muốn thêm ly ?” Vivien đề nghị khi nhìn vào ly tôi.

      “Ôi, đâu, cảm ơn , tôi như trôi bồng bềnh rồi đây này.”

      “Dẫu vậy, uống thêm ly Scotch nữa.” Geoff phấn khởi giơ chiếc ly rỗng của mình lên làm Vivien mỉm cười đứng dậy khỏi chiếc ghế đôi.

      “Thế khá hơn là năng gì, phải sao? Còn Iain? Thêm bia nữa nhé?”

      “Chắc rồi, sao ? ta cũng đưa lên chiếc chai rỗng và trông cũng gần mệt như tôi vậy. Rồi tôi nhớ ra, là nông dân, ta chắc chắn phải dậy sớm khi bình minh ló dạng mỗi ngày.

      Geoff ngả lưng ghế, ly rượu của ta được đổ đầy. ta xê dịch chút sô pha để có thể trực diện nhìn tôi. “Thế, việc định cư của thế nào rồi?”

      “Tương đối ổn, cảm ơn ”, tôi . “Tôi dỡ được hầu hết các thứ quan trọng, quét dọn các phòng sạch và số còn lại tôi làm tiếp khi nào có hứng.”

      Vivien ngồi xuống ghế đôi, khoanh hai chân lại. “Tôi nghĩ rất khôn ngoan”, ấy . “Sau cùng, những phòng quan trọng nhất là phòng bếp và phòng ngủ, thực đấy.”

      “Và phòng tắm”, Geoff đế thêm.

      “Và xưởng vẽ của tôi.” Tôi mỉm cười. “Hai tuần vừa rồi kinh khủng, tôi làm việc chút nào cả. Biên tập của tôi ngất xỉu bốn mươi lần nếu ấy phát ra.”

      “Julia”, Vivien thông báo chung cho cả phòng, “vẽ tranh minh họa cho sách thiếu nhi”.

      Iain uống mạch hết chỗ bia, đôi mắt xám của ta lấp lánh gương mặt điềm tĩnh. “Ừ, nghĩ mình có nghe về điều đó.”

      “Công việc thú vị”, đó là lời bình luận của Geoff. “Hẳn có nhiều bó buộc.”

      “Vâng. Nhưng tôi vẫn phải tuân theo kế hoạch, nếu chẳng bao giờ hoàn thành việc gì cả. Tôi thường làm việc vào các buổi sáng và nghỉ vào phần còn lại trong ngày.”

      “Giờ minh họa loại sách nào thế?” Vivien hỏi. “ cuốn khác của Bridget Cooper ư?”

      Tôi lắc đầu. “Thực ra nó là bộ truyện cổ tích. Hay lắm.Có rất nhiều câu chuyện từ phương Đông và bản dịch xuất sắc.”

      làm việc dựa vào mỗi trí tưởng tượng thôi”, ấy thắc mắc, “hay tranh ảnh và thứ gì đó khác?”

      “Mỗi thứ chút. Đôi khi tôi vẽ những cái nhìn thấy từ cuộc sống, phụ thuộc vào hình dáng tôi muốn.”

      “Vậy cần người mẫu”, Geoff lưu ý, phô bày gương mặt với khoa trương rất kịch.

      Iain nhe răng cười. “Lại tự tưởng tượng mình là Hoàng Tử Quyến Rũ đấy à?”

      “Đức vua cơ”, Geoff khinh khỉnh sửa lại. “Cần gì mà ấn định mình chỉ là hoàng tử?”

      “Hoàng tử mới được con chạy theo”, Iain chỉ ra làm Geoff nghiêng đầu nghiền ngẫm.

      “Cậu đúng. Thôi được rồi, tôi đành tự đề cử mình làm Hoàng Tử Quyến Rũ vậy. Nếu cần tôi”, ta , cùng với nụ cười có thể khiến trái tim người đối diện ngừng đập ngay tức khắc.

      Tôi ưu tiên đáp lại, dù phải thừa nhận Geoffrey de Mornay chắc chắn đủ điều kiện để sắm vai hoàng tử trong truyện cổ tích.

      Cuộc chuyện của chúng tôi diễn ra chậm rãi thêm khoảng nửa giờ, thời điểm tôi phải vật lộn để chống giữ mí mắt. Trái ngược với tôi, tôi nhận thấy Iain Sumner nhìn mình với nụ cười thấu hiểu, đầu ta dựa sâu hơn vào những tấm nệm.

      “Nếu cậu muốn trở thành Hoàng Tử Quyến Rũ”, cuối cùng ta làm gián đoạn câu chuyện khi quay sang với Geoff, “cậu có thể ngừng và hộ tống tội nghiệp này trở về nhà trước khi ấy ngủ gật”.

      Geoff ngạc nhiên nhìn tôi, “Xin lỗi”, ta . “Tôi quên mất cả đêm qua dự tiệc ở Luân Đôn. có muốn quá giang về nhà ? Tôi có thể lái xe vòng lại đây.”

      “Lấy xe em ấy, nếu muốn”, Vivien gợi ý. “Nó đỗ ngay góc đường.”

      Quyết định có vẻ là vì tôi. Vài phút sau, tôi phát bản thân ngồi cạnh Geoff trong chiếc Vauxhall được Vivien giữ gìn cẩn thận, chỉ nhớ lơ mơ tạm biệt chủ nhà và Iain, chàng cắm rễ sâu hơn vào đệm của chiếc ghế đôi.

      Chỉ mất vài phút lái xe để đưa tôi về nhà. Khi cho chiếc xe đỗ lại lối rải sỏi, Geoff quay sang nhìn và tôi đột ngột nhận thức được tác động tuyệt đối từ thân thể gần gũi của ta trong chiếc xe thẫm tối.

      “Ngày mai định làm gì?” ta hỏi.

      “Tôi chắc. Sao thế?”

      “Tôi nghĩ có thể dẫn tham quan lâu đài như hứa. Kiểu tham quan đằng-sau-hậu-trường, nếu thích. Hấp dẫn hơn những gì khách du lịch nhìn thấy rất nhiều.” Nụ cười của ta vô cùng quyến rũ, và rất thuyết phục.

      “Được thôi.”

      “Tốt. Vậy chọn lúc nào đó vào buổi chiều nhé. Tôi ở nhà cả ngày.”

      “Vâng. Chúc ngủ ngon, Geoff.” Tôi mò mẫm tìm tay nắm cửa. “Cảm ơn cho tôi nhờ.”

      có gì.”

      hiểu sao, có vẻ rất tự nhiên, khi Geoff vươn người qua và trao cho tôi nụ hôn chúc ngủ ngon. Cũng tự nhiên khi tôi nghiêng người thấp hơn chút để đáp lại cử chỉ đó. Tất cả chỉ là tình cờ và là giao tiếp mang tính bạn bè, ấy vậy mà tôi vẫn có thể cảm nhận được hơi ấm lưu lại ngay khi đèn đuôi xe của chiếc Vauxhall biến mất cuối đường để quay lại ngôi làng.

      Với tiếng thở dài khe khẽ, tôi quay người và bắt đầu băng qua bãi cỏ về ngôi nhà, lê đôi chân trong cơn mỏi mệt đột ngột dâng lên. Gió thổi mạnh hơn kể từ bữa tối. khí buổi đêm có vẻ nặng nề với cơn mưa đe dọa ập đến. Thêm vào việc khẳng định phán đoán chính xác của tôi, tiếng sấm ầm ầm phía xa có thể nghe ràng tiếng gió rền rĩ qua những rặng cây kẽo kẹt.

      Còn vài bước nữa mới đến cửa trước nó thình lình bật mở, mảng sáng màu vàng tràn qua bãi cỏ và dựng lên bóng hình của người đàn ông, người nhìn tôi tiến lại với hai cánh tay khoanh trước ngực.

      “Bác”, tôi gọi, nhưng giọng bị gió cuốn phăng.

      Sấm lại rền vang, những bước chân của tôi thoáng loạng choạng. Thu hết can đảm, tôi nhấc vạt váy sũng nước khỏi mặt cỏ và ép bản thân những mét cuối cùng đến khung cửa.

      Người đàn ông hơi ngẩng đầu và tôi có thể nhìn thấy nét mặt ông hơn – đôi mắt của mẹ tôi nằm gương mặt như diều hâu và sót lại chút dịu dàng nào của bà. Tôi nghếch cằm và im lặng nhìn ông chằm chằm. Tôi định mỉm cười, nhưng hiểu sao vẻ mặt ông đem lại cảm giác thân quen nào. Chúng tôi nhìn nhau lúc lâu, trong khi cơn bão nổi lên và quần thảo phía sau, cùng lúc gió mỗi lúc than vãn điên cuồng.

      “Vậy”, ông cuối cùng cũng lên tiếng. “Chị đến.”

                  CHƯƠNG 8


      khó để mô tả cảm giác bị trôi ngược thời gian, trao đổi với thực tại khác cũng chân , hữu hình và thân thuộc y như vậy. Có lẽ tôi nên cho nó là “trôi”, bởi thực tế tôi bị tống – đột ngột và báo trước – từ thời đại này đến thời đại khác, như thể tôi bước qua cánh cổng xoay vô hình ngăn chia tại và quá khứ vậy.

      Khi mọi chuyện xảy ra, vào khoảnh khắc bước qua cánh cổng, tôi vẫn vui vẻ mà hay biết có điều gì thay đổi. Nhận thức ấy, và toàn bộ tác động từ tầm quan trọng của nó, đến muộn hơn, khi tôi trở về là Julia Beckett.

      Nhưng khi đứng những bậc cửa trước thềm Đàn Cừu Xám tối đó, nhìn chằm chằm người đàn ông chặn ngang khung cửa, tôi còn là Julia. Julia, cùng toàn bộ ký ức lẫn lộn của , bị tước đoạt khỏi tôi. Những suy nghĩ của tôi trở thành suy nghĩ của ai đó khác, cơ thể tôi thuộc về chính tôi, và khi cử động, tôi sống với trải nghiệm lần đầu tiên xảy ra trong đời. Tôi là Mariana, và qua đôi mắt của Mariana, tôi nhìn bác mình.

      Jabez Howard là người đàn ông cao lớn, với bờ vai đầy sức mạnh và chiếc cổ to bè. Ông cần đệm lót dưới tất để tạo cảm giác về những khối cơ bắp, và chiếc quần ống túm cùng áo khoác dạ bị kéo căng hết cỡ tại những đường may khác gì quần áo dành cho người có dáng hình bé hơn nhiều. Mái tóc được cắt tỉa đủ để đội những bộ tóc giả hợp thời trang, trông lố bịch và tàn bạo dị thường trong thứ ánh sáng xa lạ ấy. Nhưng rồi, cuối cùng ông cũng mỉm cười, làm tôi như lại được nhìn thấy gương mặt mẹ mình, và những mối âu lo của tôi được thay thế bằng cảm giác ấm cúng như được về nhà.

      “Ta nghe thấy tiếng xe ngựa”, ông khi nheo mắt nhìn vào mảng tối sau lưng tôi.

      con ngựa bị trật chân và người đánh xe dám mạo hiểm mất thêm con nữa giữa đêm thế này. ta cho cháu xuống quán trọ trong làng.”

      “Và chị tự mình đến đây. Chị nên đợi đến lúc trời sáng.”

      “Cháu rất hăm hở được đến chỗ bác.” Giọng lén lút, nài nỉ của gã đánh xe có bộ dạng dâm đãng cùng mùi hôi thối của bia, thuốc lá và những người khách trọ hợp lại chiến thắng nỗi sợ hãi phải bộ mình con đường trống trải. Người chủ khách trọ tốt bụng chỉ đường và hứa giữ hộ chiếc rương của tôi cho đến khi tôi có thể quay lại lấy nó.

      Bác tôi hừ tiếng chê trách và quay , ra hiệu cho tôi theo mình vào trong. Phòng khách rộng bừng lên như được chiếu sáng từ hàng trăm cây nến, những đốm lửa nhảy múa các chân đèn và lấp lánh những tấm gỗ ốp tường bóng loáng. “Đóng cửa vào”, ông ra chỉ thị ngắn gọn và tôi tuân theo, chặn bóng tối lẫn cơn bão chực ập đến bên ngoài và chốt then cài bằng sắt.

      “Chị chuyện với ông chủ quán Sư Tử Đỏ?” Ông hỏi.

      Tôi biết ông hỏi điều gì.

      “Cháu bảo ông ấy rằng mình là con của em bác, ở Southampton, và đến đây ở với bác thời gian. Đây là những gì bác Mary khuyên cháu .”

      Bác Jabez gật đầu thỏa mãn. “Thằng John em ta, mặc cho tất cả sai lầm của nó, có lựa chọn hôn nhân chính xác”, ông . “Bác chị là người tốt bụng và thông minh. Để tâm mà ghi nhớ lời khuyên ấy. Nơi này rất sợ bệnh dịch nên các du khách đến từ Luân Đôn được chào đón ở đây.”

      “Cháu rất biết ơn”, tôi với ông, khi nhớ đến lối cư xử của mình, “vì bác cho cháu mái ấm, trong khi bác hẳn cũng rất e ngại bị lây nhiễm”.

      Đôi mắt ông dịu . “Ta có gì phải e ngại. Ta là người ngay thẳng. Lại đây.”

      Ông dẫn tôi xuôi theo hành lang hẹp về phía sau ngôi nhà. Tôi nhích từng bước chân theo ông, chiếc váy mượn nặng nề kéo lê đôi chân mềm nhũn. Hai ngày đường gian khổ đưa tôi đến bờ vực kiệt sức, mái tóc vàng xỉn màu vì bẩn thỉu và cáu ghét, còn đôi mắt xanh trũng sâu đỏ ngầu. Bụi đất bám khắp nơi, biến chiếc váy màu xanh lá cây của tôi thành màu xám xấu xí và chúng còn dai dẳng bết sâu trong cổ họng tôi khiến những tràng ho liên tiếp cũng thể rũ bỏ hết.

      Chúng tôi ra khỏi ánh sáng rực rỡ của phòng khách để bước vào khoảng sáng nhạt màu hơn của căn bếp dài có hơi ấm tỏa ra từ cái bếp lò thực thụ. người phụ nữ ngồi cạnh bếp lò cho em bé bầu bĩnh hồng hào bú. Gần họ, người phụ nữ trẻ hơn lúi húi bên bếp, thành thạo giữ vạt váy tránh xa đám lửa trong khi đảo món ăn nghi ngút khói trong nồi. Cả hai người cùng quay đầu lại khi chúng tôi vào bếp, đôi mắt họ quét qua bác tôi trước tiên, rồi mới hướng về chỗ tôi. Ông hất đầu về phía người phụ nữ ôm đứa trẻ.

      “Bác Caroline của chị đây”, ông bảo tôi.

      Bác gương mặt dễ chịu, nét và trẻ trung mặc những sợi tóc bạc phá hỏng mái tóc đen mượt. Nhưng tôi thấy vẻ mặt của bác rất đáng lo ngại. Tuy thân thiện nhưng cũng ác tâm; chỉ là thiếu biểu cảm, cá tính, đôi mắt đờ đẫn và trống rỗng như con cừu. Bác lơ đễnh gật đầu lại với tôi và tiếp tục đong đưa đứa trẻ.

      “Rachel, em của vợ ta”, bác trai tôi tiếp, khi người phụ nữ kia đứng thẳng dậy từ bếp lò cháy sáng. ấy, ít ra cũng tràn đầy sức sống, và có độ tuổi gần tương đương tôi – có lẽ hơn hoặc hai năm so với tuổi hai mươi của tôi. Mái tóc màu mật ong của ấy gợn sóng đôi má hồng hào và nụ cười hoạt bát cũng rất ấm áp và hoan nghênh.

      “Tôi hâm nóng chút bia”, ấy thông báo, “và có bánh mì bàn nếu đói”.

      Tôi thực đói cồn cào ruột gan, vì hầu như ăn gì từ bữa sáng muộn. Tôi biết ơn và ngồi xuống ghế đối diện bác trai chiếc bàn thô ráp bằng gỗ sồi, đón vại bia thơm ngát bằng đất nung và những lát bánh mì nặng trĩu. tên Rachel ngồi bên cạnh tôi, đôi mắt đen chân nhìn tôi tò mò.

      “Có tin tức gì từ Luân Đôn vậy?” ấy hỏi. “Có nhà vua chuyển đến cung điện Hampton vì sợ hãi dịch bệnh ?”

      “Tôi biết ý định của nhà vua”, tôi thành , “nhưng người dân bàn tán rất nhiều đến chuyện di chuyển”.

      Dưới thúc giục của Rachel, tôi kể với họ về nỗi sợ hãi bóp nghẹt cả thành phố, những lời đồn thổi ngừng cùng những lời cầu nguyện lặng câm, cả những ngôi nhà tôi thấy bị niêm phong ở Westminster, với dấu gạch chéo sơn đỏ cùng dòng chữ ‘Chúa rủ lòng thương’ viết nguệch ngoạc bên dưới bởi bàn tay điên rồ nhưng vẫn còn hy vọng nào đó.

      Bác tôi nhún vai.

      “Luân đôn là nơi báng bổ đầy tội lỗi”, ông , “và bàn tay của Chúa tìm kiếm trả thù. Những ai ngay thẳng cần sợ hãi”.

      Tôi nghếch cằm lên, đôi mắt nhức nhối.

      “Mẹ cháu làm gì nên tội”, tôi bảo, “mà bà vẫn chết”.

      Bác trai nhai nhồm nhoàm nốt miếng bánh, gương mặt vô cảm. Đôi mắt xanh xám của ông dường như đột nhiên trở nên cứng rắn và xa cách, tương trợ cho tất cả điềm nhiên trong giọng . “Nó làm trái lời cha mình. Trong mắt Chúa, đấy là tội lỗi.”

      Tôi cần thúc bách ông hơn. Tôi thừa biết mẹ mình chống lại ý muốn của ông ngoại để lựa chọn nhân viên sao chép tài liệu nghèo giữa tất cả những săn sóc từ người muốn cầu hôn bà trong vùng. Là người trực tiếp chứng kiến tình của cha mẹ tôi, tình soi rọi tuổi thơ của tôi và giúp mẹ tôi trụ vững qua chín năm góa bụa đơn, tự tôi thể gọi lựa chọn của bà là tội lỗi. Nhưng tôi nuốt lại những lý lẽ của bản thân, kịp thời nhớ ra tinh thần can đảm được cha mẹ tôi khuyến khích được cho phép trong những gia đình khác.

      Tôi hạ thấp đôi mắt và hẳn cúi gằm nếu bác tôi vươn bàn tay to lớn qua chiếc bàn để siết cằm tôi và nâng nó lên trong ánh sáng của ngọn lửa.

      “Chị trông giống mẹ chị”, ông lỗ mãng sau lúc nghiên cứu. “Annie là thiếu nữ duyên dáng. Ở chị, ta cũng thấy bóng dáng chồng Annie, lạy Chúa.”

      “Mọi người bảo cháu giống bà nội.”

      Ông làu bàu, mất hứng thú và thả cằm tôi ra.

      “Con bé mệt lả rồi, Jabez”, bác đột ngột từ chỗ ngồi trong góc, với chất giọng cũng vô hồn như đôi mắt, “Rachel có thể chỉ cho con bé phòng của nó.”

      “Ừ”, ông thừa nhận. “Chị ngủ . Chúng ta còn phải dậy sớm để lễ nhà thờ.”

      Tôi dợm đứng dậy, nhưng ông đột ngột vươn người về trước, đôi mắt dán lên đôi mắt tôi với hứng thú mãnh liệt. “Chị có sợ Chúa , Mariana Farr?” Ông hỏi.

      “Cháu được dạy dỗ để làm thế.”

      Ông thực chạm vào tôi, nhưng đôi mắt khiến tôi đông cứng tại chỗ và giọng ông gần như khiến người ta hoảng sợ vì dữ dội của nó. “Thổi kèn của ngươi thiên đường”, ông êm ái trích dẫn, “dậy vang tiếng cảnh báo ngọn núi thần thánh của ta; khiến cư dân mặt đất run rẩy…”. Ông ngừng lại, chờ đợi và tôi nhận ra đó là bài kiểm cha.

      Tôi hoàn thành đoạn trích trong Kinh Thánh hộ ông. “cho ngày Đức Chúa tới”, tôi , “cho màn đêm gần kề”.

      “Ngoan lắm”, bác tôi khen, lại dựa mình ghế với nụ cười thỏa mãn. “Rất tốt. Chúng ta hợp nhau, chị và ta.”

      Đó là câu cho phép lui. Đứng dậy, tôi chúc cả ông lẫn bác ngủ ngon và theo tên Rachel ra khỏi phòng. ấy cách vài bước trước mặt tôi, giơ cao ngọn nến cháy bập bùng soi sáng cho chúng tôi bước lên cầu thang rộng tầng . Ở đây khí lạnh hơn, và ẩm ướt, ánh lên từ cây nến đổ những bóng dài bức tường chỉ trát thạch cao.

      “Phòng của chị ở đây”, Rachel vừa vừa dẫn đường xuôi theo hành lang tối đen đến cánh cửa ở góc sau ngôi nhà.

      Đó là phòng ngủ tồi tàn và đơn giản, với chiếc giường hẹp và tủ quần áo trống. Có cảm giác Rachel quan sát gương mặt tôi khi tôi nhìn khắp căn phòng. “Đây là căn phòng ”, , “nhưng vô cùng yên tĩnh và chị thấy toàn cảnh con đường xuôi xuống dòng sông từ cửa sổ”.

      hăm hở nét muốn tôi hài lòng của ấy ép tôi phải mỉm cười, cảm giác giọng của tôi bớt chán chường hơn nhiều. Có thể thấy được nhõm của , cũng như tính chân của nhõm ấy. “Tôi mang cái váy ngủ của tôi đến cho chị”, ấy , ra dấu về phía hình dáng mờ trắng giường. “Chúng tôi biết chị có kịp chuẩn bị hành lý .”

      “Cảm ơn .”

      Tôi nhặt chiếc váy lên và vuốt ve nó trong khi Rachel thắp nến cạnh chiếc giường. Đây hẳn là chiếc váy ngủ đẹp nhất của ấy, làm từ vải gai mịn màu trắng với những chiếc cúc trang trí xíu. Tôi ngờ rằng nó thậm chí còn chưa bao giờ được mặc.

      sao đâu.” ấy đỏ mặt chút vì thỏa mãn, hơi lưỡng lự nơi ngưỡng cửa với bàn tay đặt then cửa. “Tôi rất mừng vì chị đến sống ở đây”, ấy ngượng ngùng .

      Trước khi tôi có thể trả lời, đóng cánh cửa ngăn giữa chúng tôi và tôi có thể nghe những bước chân bẫng lùi dần trong hành lang. Tự bản thân tôi thấy mừng. Tôi chỉ cảm thấy mệt mỏi, đói và tuyệt vọng. Cởi chiếc váy xanh bám đầy đất ra, tôi mặc chiếc váy ngủ đáng rồi trườn mình vào dưới tấm chăn và vươn tay để dập tắt ngọn nến.

      Nơi đây, trong bóng tối, với nhận thức về toàn bộ sức nặng của tình thế giờ đè nặng lên người, nỗi thống khổ cứ thế dâng lên như mật đắng đặc sệt và khó nuốt trong cổ họng tôi. Tôi phát bản thân nhớ Luân Đôn, và chiếc giường thoải mái ở nhà, cũng như đôi môi lành lạnh dịu dàng của mẹ chạm lên trán tôi. Mẹ tôi…

      Ý nghĩ về bà thêm lần nữa khiến đôi mắt tôi ướt nhòe. Đây cũng từng là nhà bà, tôi nghĩ, khi bà cùng độ tuổi với tôi. Trước khi bà gặp cha tôi và theo ông xa. ngạc nhiên khi bà rất sẵn lòng bỏ . Đây là ngôi nhà tăm tối và ảm đạm, có chỗ nào phù hợp với người phụ nữ sống động hay cười trong ký ức của tôi cả. Liệu đây có phải cũng từng là phòng của bà, tôi tự hỏi, liệu bà có từng mang nước mắt vào giấc ngủ như tôi lúc này, áp gương mặt vào tấm chăn để giấu nỗi tuyệt vọng của mình ?

      Tôi thức giấc trong im lặng và ánh sáng xám lanh lẽo của bình minh. im lặng gần như khiến tôi bối rối. Vào giờ sớm thế này trong ngày, con đường dưới cửa sổ phòng tôi trong thành phố nhộn nhịp tiếng người – những người bán hàng rong với những chiếc xe đẩy và xe thồ, những chồng giỏ lắc lư cánh tay khi họ lấp đầy khí trong lành buổi sáng với những tiếng hỗn độn từ những điệu hát ê a, trong khi các quý tộc với đôi mắt mệt mỏi cùng phu nhân mệt rũ cùng nhanh chóng về nhà ngủ sau đêm hội hè linh đình.

      Tôi nhìn chằm chằm lên trần nhà, vật lộn với nỗi nhức nhối nhớ nhà vừa trỗi dậy và tự hỏi điều gì đánh thức mình, khi tiếng gõ vang lên khung cửa và đợi trả lời, Rachel lướt vào trong phòng. ấy ăn mặc chỉnh tề trong chiếc váy trơn màu cà phê, mái tóc chải đơn giản, chút rối, gương mặt được rửa cẩn thận sáng bừng và toát lên vẻ điềm tĩnh. ấy bê chậu nước cùng mảnh vải xù xì.

      “Tôi nghĩ chị có thể muốn tắm rửa trước buổi lễ”, ấy vui vẻ chào tôi, rồi đặt chậu nước lạnh bên cạnh giường. “Chị ngủ có ngon ?”

      “Rất ngon, cảm ơn ”, tôi dối.

      Tiếng huýt sáo phấn khởi xé rách gian im lặng bên ngoài, giống tiếng huýt sáo của cha tôi đến mức khiến tôi lao ra khỏi giường và chạy đến cửa sổ trước khi tâm trí hoàn toàn nhận thức được những hành động của bản thân. Khung cửa sổ nhìn ra ngoài khu vườn phía sau và chuồng ngựa, với tầm nhìn hướng về phía con sông uốn quanh giữa khu rừng và những cánh đồng, và đồi cỏ xanh mướt phía xa.

      người đàn ông leo lên ngọn đồi từ con đường, vác chiếc rương nặng đựng quần áo của tôi lên vai dễ dàng như thể nó là bao tải đựng lông vậy. ta bước với những sải chân dài nhịp nhàng. Trong khi chiếc mũ rộng vành của ta che khuất gương mặt, tôi có thể thoáng nhìn đường viền quai hàm vuông vức và nhẵn nhụi, cùng mái tóc nâu quăn dài tự nhiên.

      “Rachel”, tôi , ra dấu cho đến bên cửa sổ, “người đàn ông bên dưới là ai vậy? Người chuyện với bác tôi kìa”.

      Rachel ngoan ngoãn lại gần nhìn, rồi lại quay , đôi má ửng đỏ lạ kỳ. “Đấy là Evan Gilroy”, ấy với tôi. “ ấy sống ở trang viên trong làng.”

      ta mang rương của tôi từ quán trọ đến.”

      Bác tôi, người vừa ra khỏi bếp để gặp người đàn ông, trông có vẻ vừa lòng vì thiện ý của ta. Bằng cách đứng nhón chân và ép mình sát vào lớp kính, tôi có thể thấy cả hai người đàn ông khi họ đứng bên dưới phòng tôi. Gương mặt bác tôi tăm tối và khó chịu, dù thể nghe thấy những gì ông , nhưng tôi biết chất giọng của ông vẫn cụt lủn và khó nghe. Người đàn ông đáp lại gì đó, tôi thấy nụ cười xoẹt qua môi ta khi ta lẳng cái rương xuống đất rồi quay bước cùng tiết tấu vui nhộn, thong thả như trước về hướng ngôi làng.

      Trừng mắt nhìn theo ta lúc lâu, sau khi lầm bầm mấy câu bác tôi nhàng vác cái rương lên vai, thêm lần nữa khiến tôi ấn tượng với kích cỡ to lớn và sức mạnh của ông. Tôi nghe cửa nhà bếp đóng sập lại bên dưới và ngước mắt lên, định tránh khỏi cửa sổ, nhưng ngay lập tức chú ý bị cái bóng dưới cây sồi to bên rìa cánh đồng tóm gọn. Cái bóng dần thay đổi và trở thành người đàn ông, người đàn ông tóc đen cưỡi con ngựa xám, táo bạo nhìn chằm chằm lên cửa sổ phòng ngủ của tôi.

      Khi tôi đứng nhìn theo, phong cảnh mờ ảo chuyển dịch, trở nên nhòe nhoẹt, mọi màu sắc chồng lên nhau như màu nước bảng vẽ của nghệ sĩ, rồi toàn bộ bức tranh bắt đầu rung động và tôi phát bản thân liều lĩnh bấu chặt lấy gờ cửa sổ khi cả thế giới trở nên tối đen.

    5. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

      CHƯƠNG 9


      Khi còn là đứa trẻ, tôi luôn giữ đôi mắt lờ đờ của mình nhắm chặt mỗi khi tỉnh giấc từ cơn ác mộng, sợ rằng nếu tôi mở mắt phát bóng ma khủng khiếp nào đó thực đứng bên cạnh giường. Cùng loại bản năng ngây ngô đó ép chặt đôi mắt tôi lúc này. Tôi nằm yên như chết, thu mình sát lại bức tường, và máu chảy rần rật bên tai khi tôi sờ soạng tay sang bên cạnh.

      Những ngón tay kiếm tìm của tôi chạm phải mặt sàn gỗ yếu ớt, lướt dọc tấm thảm len xơ mòn, và yên tâm đặt tay lên vật hình ống quen thuộc lành lạnh làm từ thép. Là do cả chiếc bàn vẽ của tôi bằng cách nào đó cũng tự chuyển mình về quá khứ. Đánh liều lần chót, tôi thận trọng hé mắt, chớp vài cái để tập trung.

      Căn phòng rung chuyển lần, rồi đứng yên. Với nhõm dâng lên, tôi nhìn thấy các vật dụng của thế kỷ XX nằm hỗn độn xung quanh – thùng các tông, giấy tờ, bút vẽ la liệt khắp sàn. Ngẩng đầu thêm chút, tôi vươn cổ để nhìn khắp phòng hơn, rồi nằm lăn ra sàn gỗ cứng với tiếng thở dài rã rời.

      Chỗ tôi buông người là khoảnh sàn trống trơn ngay bên dưới cửa sổ trống ở phía tây, lý giải cho cơn gió lạnh tôi cảm nhận mặt và cổ. Bên ngoài, từ bầu trời nhợt nhạt, những tia nắng yếu ớt đầu tiên của sớm mai rọi xuống mang cảm giác gần như màu. Tôi vẫn mặc bộ quần áo tối hôm qua lúc đến nhà Vivien, chiếc áo len dài tay cùng váy nhăn nhúm và đầy nếp gấp như thể tôi mặc chúng ngủ.

      Chỉ có mình tôi trong phòng.

      Tôi chậm rãi đẩy người ngồi dậy, ngừng lại để thở và thận trọng tựa vào chiếc bàn vẽ để đứng lên. Tôi có cảm giác sững sờ và mất phương hướng hệt như nhân vật Ebenezer Scrooge [1] trải qua, khi ông ta cuối cùng cũng thức dậy vào buổi sáng Giáng sinh trong cuốn tiểu thuyết trứ danh ấy. Đây từng là góc kê chiếc giường ngủ của tôi, tôi nghĩ khi nhìn quanh; đây từng là nơi tôi cởi đồ và đặt chiếc váy màu xanh lá cây cáu bẩn ra xa; đây là khung cửa nơi tên Rachel đứng, thoáng nở nụ cười e thẹn với tôi.

      [1]Nhân vật chính trong tác phẩm Achristmas Carol của nhà văn Charles Dickens: kẻ có máu lạnh, keo kiệt và căm ghét lễ Giáng sinh.

      Bần thần ra ngoài hành lang, tôi xuống cầu thang đôi chân run rẩy. Nhà bếp trông hơn những gì tôi nhớ và đứng nhíu mày lúc cho đến khi lý giải đánh vào mình – nhà bếp tôi đứng tối qua có phòng chứa thức ăn. Nhà bếp ràng bị ngăn làm đôi cho đến triều đại nữ hoàng Victoria, nếu xét đến các ngăn tủ và đồ gỗ trang trí bên trong phòng chứa.

      Tôi bước về phía phòng chứa thức ăn nhìn cho và ngừng lại để vuốt bàn tay lên bức tường phía bắc. có khung cửa sổ nào ở đây, lớp thạch cao có cảm giác thô ráp và gồ ghề, như thể người ta trát lên thứ gì đó được thiết kế sẵn trong nhà. bếp lò lộ thiên, có lẽ thế…

      “Chuyện gì xảy ra với mình thế này?” Tôi gần như chỉ thào những từ đó, nhưng chúng cứ vang vọng trong gian vắng lặng.

      Đột nhiên cảm thấy nghẹt thở, bất chấp va quệt lung tung trong bếp, tôi xông đến giật mở cửa hậu và gần như ngã nhào trong gấp gáp ra khỏi căn nhà. Bước được vài bước tôi ngừng lại, vòng hai tay ôm lấy cơ thể run bần bật và hít vào những hơi thở sâu và thổn thức từ làn khí ẩm ướt buổi sáng.

      Ngay cả trước khi tóc kịp dựng đứng gáy, tôi vẫn biết mình bị theo dõi. Tôi quay phắt lại để đối mặt với cây sồi cùng người đàn ông tóc đen cưỡi con ngựa xám mà tôi biết chắc ở đó. Rồi nỗi giận dữ, mù quáng và cuồng nộ đột ngột như thủy triều cồn lên trong tôi.

      “Cút !” Tôi thét về phía ta. “Cút và để tôi yên. Tôi muốn ở đây!”

      Từ từ, cách miễn cưỡng, cả người lẫn ngựa rút lui vài bước, màn sương xám buổi sáng dâng lên lấp đầy nơi người và ngựa vừa đứng. Vẫn còn run rẩy do bị cảm xúc tác động, tôi ôm lấy mình chặt hơn và cụp mắt xuống.

      Bên dưới chân tôi, những bông hoa dại màu xanh dương mong manh lưa thưa, ướt sương và nép mình dưới lớp cỏ um tùm. Mặt đất bằng phẳng và cứng rắn, có thể dễ dàng nhìn thấy nơi nào hơi lún xuống, và rất lâu về trước, dường như ai đó từng trồng khu vườn ở đây…

      Ngôi nhà của mục sư ở Elderwel, Hampshire là tòa nhà vững chãi kiểu Victoria bằng gạch đỏ thẫm, tọa lạc gần đường và đối diện với nhà thờ St. Stephen trang nhã được xây dựng từ thế kỷ XV. Dây thường xuân tìm được căn cứ vững chắc ở mạn phía bắc của ngôi nhà, và đám dây leo chằng chịt sum suê lá, với ý chí kiên định gần như vươn tới ngưỡng cửa sổ tầng . Bên tầm với của dây thường xuân, những ô cửa sổ đầu hồi nép dưới phần mái dốc nghiêng nhìn về phía ngôi làng như những con mắt nhân từ và độ lượng.

      Bên trong, ngôi nhà trông như tổ kiến với nhiều căn phòng tối đen, được thiết kết để làm nơi trú ngụ cho các đại gia đình trong thế kỷ trước. Bởi chưa kết hôn, Tom tự hài lòng với phần chính của căn nhà nhiều ngóc ngách, để các tầng phía cho cha phó cũng như các vị khách bất chợt và người vô gia cư trong giáo khu xử dụng. Phần lớn công việc trong nhà đều tự mình làm, nhưng thứ Hai hằng tuần, bà Pearce, người dọn dẹp, đến để làm công việc của mình.

      Là bà Pearce, với khăn lau trong tay, trả lời tiếng gõ cửa của tôi sáng hôm nay và đưa tôi vào phòng làm việc được trang trí đầy nam tính nhưng rất thoải mái. Tôi kinh ngạc nhận ra bà Pearce có lối cư xử vô cùng khéo léo. Tôi trông như quỷ, và tự biết điều đó. Tôi chưa bao giờ biết làm sao mình có thể lái xe từ Exbury đến Elderwel mà gây thiệt hại gì cho bản thân hay chiếc xe, nhưng khi tôi đến ngôi nhà dành cho mục sư đúng giờ nữa mới đến thời điểm ăn sáng.

      Lúc này kích động bắt đầu giảm dần, tôi vẫn run rẩy đến mức hầu như thể kiểm soát bản thân, nhưng nếu nhận ra, bà Pearce cũng bình luận gì. Bà kéo rèm, nhìn tôi ngồi xuống chiếc ghế bành thích của Tom, lặng lẽ và ý nhị rút lui để đặt nồi lên bếp.

      Vài phút sau, Tom xuất trong lúc vẫn cài cúc áo. , chắc chắn, định đùa cợt về xâm chiếm lúc tinh mơ của tôi vào chốn linh thiêng của mình, nhưng vừa nhìn thấy tôi nụ cười giễu cợt của tắt ngay môi.

      “Làm sao thế?” gấp gáp hỏi.

      Sợi dây kiểm soát mong manh cuối cùng đứt đoạn và tôi bật khóc Sau đó, tôi ước mình mang theo chiếc máy quay phim, để ghi lại biểu cảm gương mặt Tom – tôi ngờ rằng vẻ mặt tuyệt đối hoảng loạn của chỉ có trong những bộ phim câm.

      Phản ứng của , đủ khôi hài, cũng hoàn toàn có thể thông cảm. Tôi chưa bao giờ khóc to thành tiếng. Thậm chí rất hiếm khi thút thí. Lần cuối cùng Tom nhìn thấy tôi chảy nước mắt là gần hai mươi năm về trước, khi vô tình dập cánh cửa ô tô vào tay tôi. Ngay cả khi đó, nước mắt trào ra cũng vừa phải, chứ giống những tiếng thổn thức bột phát đầy đáng sợ và vặn xoắn tim gan mà phải chứng kiến lúc này.

      “Julia?” Giọng chắc chắn. Phải mất vài phút trước khi tôi có thể phục hồi bản thân đủ để trả lời.

      “Em ổn, đấy”, tôi giữa những tiếng khịt mũi. “Em chỉ mất trí thôi.”

      Tom ngồi xuống chiếc ghế đối diện và nhíu mày. “Cái gì?”

      “Loạn óc”, tôi tỉ mỉ diễn giải. “Suy sụp. còn lời giải thích nào khác nữa.”

      “Em làm rối trí.”

      Những giọt nước mắt giờ rút hẳn, tôi hít vào hơi sâu run rẩy và lấy cổ tay chùi gương mặt ướt nhẹp. “Em biết tin nếu em kể nghe”, tôi .

      “Thử xem nào.”

      Tôi nhìn hồi lầu đầy đánh giá, rồi thử ra hơi run run khác và bắt đầu kể. Tôi bắt đầu, từ khoảnh khắc đầu tiên tôi nhìn thấy người đàn ông cưỡi con ngựa xám, qua việc diễn ra ở ngõ Blackfriar, đến việc phát ra ngôi mộ của Mariana Farr trong nghĩa địa và cơn mơ sống động tối qua. Bà Pearce yên lặng ra vào căn phòng, đặt bình trà, bánh quy và nhanh chóng mang phần thừa xa mà lần cắt ngang bài tường thuật của tôi, trong khi trai tôi lẳng lặng lắng nghe. Khi tôi kết thúc, trầm ngâm ngả lưng lên ghế và hạ thấp hàng lông mày vẫn nhướn lên nãy giờ.

      “Những… trải nghiệm đó”, cuối cùng , “chúng đến đột ngột, hay em có vài cảnh báo trước khi chúng xảy ra?”

      Tôi nỗ lực để ngẫm lại. Thôi thúc đầu tiên khiến tôi định có bất cứ dấu hiệu nào, nhưng… “Đôi khi em nghe thấy tiếng chuông bên tai”, tôi với . “hay chút chóng mặt. Hoặc cả hai”.

      “Em chắc chắn mình là người tham dự cả quá trình, chứ phải khán thính giả theo dõi vở kịch chứ?”

      ràng là . Thực tế, em thậm chí có cảm giác như mình là diễn viên tham gia diễn xuất. Các diễn viên còn có kịch bản, chứ em chút ý tưởng về chuyện gì sắp diễn ra cũng biết. Nó giống hệt đời thực… như thế này!” Tôi ngửa hai bàn tay rồi xòe ra, trong điệu bộ bao trùm cả căn phòng lẫn hai chúng tôi. “Ngay cả thời gian và gian xung quanh cũng rất . Em ràng dịch chuyển, bởi em bắt đầu ở bên ngoài ngôi nhà tối qua và kết thúc ở trong xưởng vẽ sáng nay.”

      Tom ngẫm nghĩ về chuyện đó. “Và khi có những trải nghiệm đó, em nhớ bất cứ điều gì về Julia Beckett sao?” Tôi lắc đầu. “Nhưng khi thoát ra, em có thể nhớ rành rọt mình biến thành người phụ nữ khác?”

      “Em nhớ tất cả mọi thứ.”

      “Lúc này cứ đặt lập luận em bị điên sang bên ”, chậm rãi , “thế em nghĩ chuyện gì diễn ra?”

      “Em cho rằng… em cho rằng đó có thể là hồn ma.”

      “Em nhắc đến Thiếu Phụ Xanh, người được tất cả dân làng đề cập đấy à?”

      Tôi gật đầu. “Chiếc váy em mặc tối qua, khi e là ấy… khi em là Mariana… có màu xanh. Em biết nữa. có nghĩ hồn ma có thể chiếm hữu thân thể người sống ?”

      hầu như am hiểu về vấn đề này”, Tom thừa nhận. “ nghĩ là có thể, nhưng trong trường hợp của em, cho là như vậy. Trừ khi hồn ma theo em từ Luân Đôn về đây từ tuần trước.” nhíu mày. “Còn có khả năng em vẫn chưa tính đến.”

      “Là gì?”

      ngẩng đầu lên và nhìn tôi. “Rằng mọi thứ em nhìn thấy. mọi thứ em trải qua, rất có thể đến từ chính ký ức của em. Rằng thực tế, em rất có thể là Mariana.”

      đùa em đấy à?”

      “Sao ? Đầu thai là tượng được chấp nhận rộng rãi trong rất nhiều nền văn hóa. Thậm chí có thể kể tên vài nhà thờ chuyên biệt ở đều ủng hộ học thuyết này.”

      “Và điều tin là gì?” Tôi thách thức.

      “Hừm…” mỉm cười. “ trong các đòi hỏi ở công việc của đó là tin vào sống trường tồn của linh hồn con người. Và điểm đến của linh hồn sau khi con người qua đời là câu hỏi chỉ cái chết mới có thể trả lời.”

      “Vậy tức là nghĩ trong kiếp nào đó của em, em có thể sống trong ngôi nhà đó sao?” Nghe nực cười, nhưng biểu cảm của Tom rất nghiêm túc.

      “Phải, nghĩ ý tưởng ấy rất đáng nghiên cứu đấy. Sau cùng, nếu em cảm thấy mình từng ở nơi nào đó trước đây, giải thích logic thường là em ở đó trước đây.”

      Tôi nhíu mày. “Em cho rằng nó có thể lý giải vì sao em bị ngôi nhà hấp dẫn.”

      “Và vì sao em biết vị trí của khu vườn cũ. Vì sao em chọn xưởng vẽ trong căn phòng bé xíu ở mặt sau ngôi nhà, thay vì sử dụng trong số các căn phòng đẹp hơn ở mặt trước.”

      Khi trai những lời đó, hình ảnh trôi lơ lửng ngay trước mắt tôi, viên phụ tá trẻ của bên vận chuyển bê cái ghế trong phòng ngủ của tôi và hỏi với giọng bối rối, “ có chắc ý là phòng ngủ đầu tiên bên tay phải …?”

      Tôi giật mình, bản thân trở về tại. “Chúa lòng lành”, tôi thất thần thốt lên.

      có thể tìm hiểu thêm về vấn đề này cho em”, Tom đề nghị. “Bọn thủ thư lập dị ở đây rất thích săn lùng những mẩu thông tin lạ lùng.”

      tin có kiếp trước đấy à?” Tôi hỏi và nhún vai.

      “Chúa chuyển dịch theo nhiều cách bí lắm.” mỉm cười trả lời.

      “Ôi, điều đó nhắc em”, tôi thốt lên, ngồi thẳng dậy. “ từng nghe đoạn nào trong Kinh Thánh bắt đầu với Thổi kèn thiên đường hay câu nào tương tự chưa? Em nhớ phần còn lai, thứ gì đó về loài người run rẩy và ngày phán quết.”

      Tom đảo tròn mắt. “Nghe như trong những chương diệt vong –và- tăm tối trong kinh Cựu Ước”, suy đoán. “Rất có thể là lời tiên tri của Micah hoặc Joel.” Đứng dậy khỏi ghế, đến chỗ làm việc và cầm bản in Kinh Thánh vua James [2] nhàu nát lên. Vài phút sau, im lặng lật vài trang. Sau cùng, tôi định đến chỗ để bảo cũng chẳng có gì quan trọng đột ngột ấn mạnh ngón tay thắng lợi lên trang. “A ha! Lời tiên tri của Joel. Chương hai, khổ . Em xem này.”

      [2] Bản dịch Kinh Thánh tiếng theo cầu của vua James I in lần đầu năm 1611.

      đưa quyển Kinh Thánh vẫn mở rộng cho tôi và chỉ vào chỗ đó. Khi tôi đọc đoạn thơ ngắn gọn, u ám đó, Tom lại ngồi xuống, bất giác gãi trán. “Cha phó trước kia của thường rất thích đọc những trích đoạn của Joel”, nhớ lại. “Thực tế là thể loại địa-ngục-cùng nguyền rủa, khó mà gây cảm hứng cho giáo đoàn. Dẫu vậy có vẻ vẫn nhớ phần đó được cái ông Joel già cỗi viết suốt giai đoạn diễn ra nạn dịch châu chấu, nên nghĩ ông ta có quyền trở nên sầu muộn.”

      Nạn dịch… cụm từ đó đột ngột rống lên hồi chuông trong ký ức của tôi và tôi ngước mắt lên khỏi trang giấy. “ có biết thời điểm diễn ra nạn đại dịch ở Luân Đôn ?”

      nghĩ cũng có vài lần”, Tom đáp. “Đương nhiên có nạn dịch hạch vào thế kỷ XIII.” Tôi khép hờ mắt, tua lại những cảnh tượng trong tâm trí, cố gắng tập trung vào quần áo mọi người mặc, kiểu tóc của họ, đồ đạc trong nhà…

      .” Tôi lắc đầu. “Nạn dịch em nghĩ xảy ra muộn hơn.”

      “Sau đó nạn dịch khá lớn vào giữa thế kỷ XVII, ngay trước trận Đại Hỏa Hoạn [3] .”

      [3] Trận hỏa hoạn lớn năm 1666 ở Luân Đôn.

      “Chính là nó.” Tôi chắc làm sao hay lý do nào mình lại biết, nhưng tôi khẳng định chính là nó.

      “Em muốn biết gì về nó nào?”

      “Tất cả mọi thứ.”

      Tôi vươn vai rộng hơn. “Giai đoạn lịch sử đó em am hiểu lắm. Và em đảm bảo đấy là khoảng thời gian Mariana sống. Mẹ ấy chết vì dịch bệnh”

      “Bản thân cũng mù mờ về thế kỷ XVII. chỉ nhớ chút về cuộc nội chiến và vụ chém đầu Charles I, đương nhiên cả Cromwell, nhưng nếu liên quan đến nạn dịch… Chờ ”, bỗng rạng rỡ chen thêm. “ bản in nhật ký Pepys [4] vứt đâu đó. nghĩ ông ấy ghi chép khá chi tiết về năm diễn ra nạn dịch. Để xem có thể tìm cho em nhé.

      [4] Samuel Pepys (1633-1703) là tác giả nổi tiếng người chuyên viết nhật ký ghi lại cuộc đời cũng như các kiện quan trọng diễn ra trong giai đoạn ông sống, cung cấp rất nhiều thông tin giá trị cho các nhà nghiên cứu sau này.

      đứng dậy khỏi ngế lần thứ hai và xem xét kỹ lượng giá sách quá tải của mình ở phía xa tít tắp trong phòng. Sau cộc tìm kiếm dài hơi, rút ra cuốn và lật giở tờ bìa. “Nó đây rồi. Bản in cũng đẹp đấy chứ. mua nó tại đợt giảm giá sách ở Oxford.” đưa nó cho tôi, quyển sách nép mình thoải mái trong bàn tay mở rộng của tôi. Giở trang tiêu đề, tôi đọc to:

      “Nhật ký của ông Samuel Pepys, T.H.K.H. “T.H.K.H” là gì vậy?”

      “Thành viên Hiệp hội Khoa học Hoàng gia”, Tom dẫn chứng. “Ông ta làm việc ở văn phòng của Bộ Hải quân và giữ cuốn nhật ký từ năm 1659 đến 1669, cho đến khi thị lực bắt đầu giảm sút. Bản gốc còn gồm mấy tập liền cơ. Quyển của là bản chỉnh sửa, e là thế, bị cắt tất cả các chi tiết sinh động, nhưng đọc vẫn rất hấp dẫn.”

      “Cám ơn.” Tôi gấp sách, giữ nó chặt.

      Tom tư lự nhìn tôi. “Em biết luôn được chào đón ở lại vài ngày mà”, . “Là thế, nếu em muốn…”

      “Cám ơn . Để em xem thế nào .”

      Bà Pearce xuất nơi khung cửa. “Tôi dọn giường trong phòng ngủ xanh dương dành cho khách”, bà ấy điềm nhiên , như thể việc em mục sư đột ngột ghé thăm vào bữa sáng và ngủ lại vào ban ngày là chuyện bình thường vậy. “ có cần dùng phòng tắm trước khi tôi bắt đầu dọn dẹp trong đó ?”

      , cảm ơn bà”, tôi mỉm cười. “Giường ngủ nghe cứ như thiên đường với tôi vậy.”

      “Người phụ nữ diệu kỳ”, Tom , khi bà giúp việc ra. nhìn tôi và nhe răng cười. “ cá ngay cả lãnh chúa của trang viên Exbury cũng được nhân viên đối xử như vậy đâu.”

      “Ôi, lạy chúa!” Tôi đứng bật dậy. “Mấy giờ rồi?”

      “Vừa qua trưa. Sao thế?”

      “Em có thể sử dụng điện thoại của ?”

      Phải mất vài phút để người trực tổng đài tìm thấy số của lâu đài Crofton, thêm vài phút nữa để ta nối máy cho tôi và tám hồi chuông dài để ai đó ở đầu bên kia trả lời điện thoại.

      “Xin chào?”

      “Xin chào. Geoff đấy à?”

      Ngừng chút. “, tôi xin lỗi”, giọng đáp cẩn thận, với trọng của người Scotland lẫn đâu được. “Giờ cậu ấy có ở nhà. Tôi có thể nhận lời nhắn ?”

      “Iain”, tôi , “tôi là Julia Beckett đây. làm ơn với Geoff giúp tôi là tôi thể đến tham quan chiều nay được ? ấy hiểu ý của tôi. Có … tình trạng khẩn nho trong gia đình và tôi phải đến chỗ của trai ở Hampshire.”

      có gì nghiêm trọng chứ, tôi hy vọng thế?”

      ta nghe có vẻ rất lo lắng và tôi cảm thấy tội lỗi vì dối.

      “Ôi, đâu”, tôi đáp. “Sáng mai tôi có mặt ở nhà.”

      “Được rồi. Vậy tôi chuyển lời nhắn hộ .”

      “Cảm ơn.” Tôi cúp máy, cảm thấy đầu óc thư thái hơn chút và quay sang, để rồi phát trai quan sát mình.

      “Mọi chuyện vẫn ổn chứ?” hỏi.

      “Ổn.”

      “Vậy em nghỉ thôi”, . “Trông em như thể sắp lăn ra đất đến nơi rồi ấy.”

      Trong khoảng thời gian ngắn đến ngạc nhiên, tôi thấy mình rúc gọn bên dưới những tấm chăn bằng len có mùi rất ngọt ngào chiếc giường rộng bằng đồng trong căn phòng ngủ xanh dương dành cho khách ở tầng, mặc chiếc áo ngủ rộng rãi của tôi với tay áo xắn lên đến khuỷu.

      Bà Pearce kéo những tấm rèm xuống để phủ bóng tối lên căn phòng cho tôi dễ ngủ, nhưng vẫn còn đủ ánh sáng để đọc sách.

      Tôi thở dài, khoan khoái lim dim mắt và quờ quạng vươn tay về phía cuốn sách bỏ lại chiếc bàn cạnh giường. Mở bất kỳ trang trong cuốn nhật ký của Samuel Pepys, tôi đọc dòng mở đầu cho ngày 6 tháng Tư năm 1665:

      Câu chuyện kỳ thú về ngôi sao chổi mới, ông viết, và trong điều kiện thuận lợi nhất, nó chắc chắn sáng rực như ngôi sao chổi mới xuất gần đây; nhưng tôi được tự mình chứng kiến. Hai sao chổi…

      Tôi bất giác xoay người những chiếc gối, gáy tôi rộn rạo như thể bàn tay lạnh băng vừa vuốt qua. Tất cả mệt mỏi bay biến, tôi siết cuốn sách chặt hơn trong tay và bắt đầu đọc.

                  CHƯƠNG 10


      Tôi mong đợi cảm nhận được nhiều cảm xúc nào đó khi lái xe quay lại Exbury vào sáng hôm sau. Bồn chồn, chắc chắn là vậy, và sợ hãi, thậm chí là cả thích thú. Nhưng tôi được chuẩn bị để đón nhận cảm giác hoàn toàn thanh thản bao trùm như tấm chăn dễ chịu, gần như trước khi tòa tháp nhà thờ chỗ tôi bị những lùm cây nuốt mất trong gương chiếu hậu. Đó là cảm giác mạnh mẽ, rất mạnh mẽ, bình tĩnh và lan tỏa. Và hoàn toàn vô lý, sau những kiện điên cuồng ngày hôm trước.

      Tôi để ánh mắt lần theo sau những chuyển động thất thường của những tài xế đường khi họ lách mình vượt lên trước trong giờ cao điểm, trong khi tâm trí tôi vơ vẩn trôi trở lại sáng hôm qua.

      Tôi cố gắng đọc gần trọn năm trong cuốn nhật ký của Pepys trước khi bị mệt mỏi đánh bại. Lúc tỉnh dậy chiều muộn. Qua khung cửa sổ khép hờ, bầu khí có mùi sạch và trong lành vô cùng. Quần áo của tôi được bà Pearce giặt và là phẳng như mới, nằm phẳng phiu chiếc ghế như người bạn chờ được chơi cùng. Tôi đứng dậy tắm rồi xuống tầng tìm trai.

      Tôi thấy ngồi trong khoảnh hiên dài sau nhà, lơ đãng gặm đầu cây bút chì trong khi suy ngẫm, nhìn chằm chằm khắp bãi cỏ rộng rãi được cắt tỉa bằng đôi mắt mấy tập trung.

      Đột ngột nghe thấy tiếng bước chân của tôi vọng lại, mỉm cười ngước lên, bỏ chiếc bút chì khỏi miệng và đặt nó lên quyển sổ để mở chiếc bàn bên cạnh.

      “Em trông khá hơn rồi đấy”, chào tôi. “ Có khi nào em nên ở lại vài ngày, cho bản thân thư thái.”

      “ Cảm ơn nhưng thôi.” Tôi ngồi xuống chiếc ghế lót đệm màu sáng trước mặt .” Sáng mai em phải về rồi. làm gì ấy?”

      nâng quyển sổ lên, cho tôi xem những trang giấy chi chít chữ.” Giảng đạo. Theo nhớ em rất giỏi dùng từ. Còn cụm nào khác cho ‘trả lời tùy biến’ nữa nhỉ?”

      “Ứng khẩu?”

      “ Hoàn hảo.” đánh dấu thêm vài ghi chú khó đọc bằng cây bút chì và lần thứ hai đặt cuốn sách sang bên.” Em đọc cuốn sách của Pepys chút nào chưa?

      “Ừm.”. Tôi ngả lưng, vắt chân và nhàn nhã lúc lắc bên chân.” Em gần như đọc hết năm có thông tin về nạn dịch. Nhân tiện, đó là năm 1665. Rất khủng khiếp.”

      Cũng gần như những gì tôi có thể hình dung, nạn dịch bắt đầu cách chậm rãi, lan hết từ Hà Lan qua các con thuyền buôn neo đậu tự do ở eo biển nước , từ Amsterdam đến Luân Đôn và ngược lại. Từng bước chiếm lấy quyền kiểm soát, nó lây nhiễm và mưng mủ như vết thương đẫm máu, lan rộng khắp các vùng ngoại ô đông đúc, gây nên hậu qủa đầy chết chóc cho đến khi vươn đến thành phố. Là người được sinh ra ở thế kỉ XX, tôi buồn bã nhận ra người Luân Đôn thời bấy giờ, với dốt nát mê tín, nhanh chóng tàn sát tất cả chó và mèo họ có thể tìm ra, mà hay biết chính loài động vật ấy là thiên địch của loại chuột mang mầm bệnh. Thậm chí cả ngày hôm nay, với nền y học đại của chúng ta, trận bùng phát dịch hạch cũng trở thành cảnh tượng gây nhiều khiếp đảm. Cho nên trong mắt những người dân thế kỉ XVII, nó hẳn cũng giống như tận thế.

      “Có tìm được gì thú vị ?” Tom hỏi.

      chút. còn nhớ em mơ về hai ngôi sao chổi ? Thực có hai ngôi sao chổi xuất ở Luân Đôn, vào tháng Mười hai năm 1664 và ngôi sao thứ hai vào xuân năm xảy ra nạn dịch. gây ra rất nhiều náo động, theo những gì Pepys . Điềm rất gở.”

      “ Phải, có thể hình dung.” Tom gật đầu. “ Thời đó sao chổi được coi là biểu tượng của nguy cơ diệt vong. Thực phải có nguyên nhân. Tấm thảm Bayeux mô tả ngôi sao chổi xuất khi Harold giả tội nghiệp thừa kế ngai vàng, ngay trước khi William Xâm Lược đánh cho quân đội còn manh giáp và bắn xuyên mũi tên qua mắt Harold.

      phải”, tôi phản đối. “ Thầy dạy Lịch sử của sai rồi, ạ. Người bị bắn tên vào mắt tấm thảm phải Harold. Harold bị cây đao bổ vào người hay sao đó, sau khoảng thời gian.”

      “ Sao cũng được. Trọng điểm là sao chổi luôn bị coi là điểm gở. Nó là tương phản mang tính lịch sử với đàn chim sáo may mắn của em đấy, nếu em thích tế. Còn gì khác trong cuốn nhật kí nghe quen thuộc nữa ?”

      hẳn.” Tôi lắc đầu. “ Vài điều ông ta đề cập đến vào đầu năm đó khuấy động trí óc em, nhưng khi ông ta viết về những tháng hè, với người chết như ngả rạ đường, em lại có cảm giác gì cả.”

      trai tôi mỉm cười, nụ cười tự mãn đặc thù thường cho thấy có gì đó vừa sáng tỏ trong . “ Em cảm giác được, phải ?”

      “ Ý là gì?”

      “ Giả sử có kiếp nào đó em chính là Mariana, vậy em khó có thể hy vọng nhớ cảnh tưởng Luân Đôn ra sao khi nạn dịch lên đến đỉnh điểm. Thời điểm ấy em vừa bị gửi khỏi Luân Đôn, phải sao? Về vùng quê ấy.”

      “ Đến Exbury.” Tôi đăm chiêu. Tôi định thần và thoáng mỉm cười rầu rĩ. “ Nghe càng lúc càng vô lý nhỉ? Nghe cứ như truyện xu [1] ấy.”

      [1] Nguyên tác: “penny dreadful”- loại tiểu thuyết xuất bản vào thế kỷ XIX, dưới dạng các câu chuyện nhiều tập, cách vài tuần lại ra phần và mỗi phần giá xu. Đối tượng độc giả chính là tầng lớp lao động.

      cũng chịu.” Tom nhún vai. “ lại thấy hấp đấy chứ. Với lại cũng bảo người thủ thư tìm kiếm rồi, chúng ta phải chờ xem cậu ta có đào xới thêm được về chủ đề đầu thai .”

      Tôi mỉm cười. “ ta thấy lạ khi mục sư vùng này lại nghiên cứu về chủ đề đó sao?”

      Lạy trời, .” bác bỏ lời phát biểu của tôi. “ bảo cậu ta là mình cần thông tin cho bài giảng đạo sắp tới.”

      Điều này, sau lúc suy nghĩ, tôi cho rằng là lời giải thích logic và đáng tin cậy. Những bài giảng đạo của Tom nổi tiếng là chính thống. Khi đứng bục giảng kinh, có thể thảo luận về môn cricke trong lúc định trích dẫn đoạn trong Kinh Thánh. ràng các giáo dân quen với tính cách lập dị của , nên giờ mới chấp nhận mà buồn thắc mắc thế này.

      phải lục tìm trong đống tài liệu giáo trình cũ về các tôn giáo khác”, trai tôi tiếp tục. “ Hẳn có vài thông tin về đầu thai ở đây. biết phần lớn tín ngưỡng của đạo Hindu và đạo Phật đều tin vào nó.”

      “ Em chắc bản thân có hoàn toàn tin tưởng hay ”, tôi bảo. “ Nhưng dù có chuyện gì diễn ra, cũng liên quan đến ngôi nhà của em.”

      “ Em có chắc mình muốn về ?”

      Tôi nghĩ đến phòng đọc xinh đẹp ngập nắng của mình; đến bầu khí thân thiết ở quán Sư Tử Đỏ, với Ned suốt ngày cắm mặt vào tờ báo ở cuối quầy bar; với Geoffrey de Mornay và cái đôi mắt thẫm lại mỗi khi mỉm cười...

      “ Vâng”, tôi chắc chắn. “ Em biết nghe thuật ngu ngốc – nhưng dường như việc em bị Đàn Cừu Xám hấp đẫn là có lý do. Rằng bằng lý do nào đó, em thuộc về ngôi nhà ấy”.

      ngu ngốc tí nào đâu. tin mọi thứ diễn ra đều có nguyên do.” Vị mục sư phát biểu. “Và nghĩ em đúng. Em cần quay lại và đối mặt với chuyện này, nếu về sau em còn muốn được yên ổn. Em cần khám phá tất thảy về Mariana trong khả năng của mình. Nếu có thể làm được em có thể tìm ra lý do tại sao tất cả chuyện này giờ lại xảy đến với mình. ít công việc dang dở, có lẽ, rất cần được hoàn thành.”

      “Em nghĩ hoàn toàn có thể làm được.”

      “Hoặc”, nhe răng cười thêm vào, “có lẽ học thuyết về kiếp trước của đều quá ủy mị và sau cùng em chỉ ngấm ngầm bị điên thôi. Giống như bà Sarah của chúng ta ấy”.

      Tôi nhăn mặt. “ ý tưởng để an ủi ư.”

      “Có lớn để làm gì nào?”

      “Dù sao”, tôi thừa nhận, “có lẽ thiết thực nhất là cứ đề phòng trường hợp bị mất trí. Em vẫn chắc có tin vào quan niệm đầu thai . thấy viển vông sao?”

      Tom liếc tôi cái. Dường như muốn bỏ qua chủ đề này, hướng ánh mắt qua thảm cỏ rộng, nơi những chiếc bóng của màn đêm đến sớm vươn dài qua bãi cỏ mới cắt như những ngón tay ve vuốt dịu dàng. “Em vừa năm diễn ra nạn dịch là 1665 phải ? Khi đó ai ngồi ngai vàng?”

      Tôi nhíu mày.”Em nghĩ là Charles II.”

      “Ô, đúng rồi. Chẳng phải lại thêm vị vua xấu số thuộc dòng họ Stuart sao? Em đọc tí nào về lễ lên ngôi báu của ông ta chưa?”

      “Chưa. Em lật lại xa như thế”

      “Ừm”, Tom ngả lưng ra sau, “ muốn đến các điểm xấu. Trời mưa như trút cả ngày”.

      Tôi lơ đãng lắc đầu. “Trời đổ mưa cho đến tối hôm đó”, tôi sửa lại. “Sau khi các nghi lễ kết thúc.”

      tin hôm đó là thứ Bảy.”

      Câu trả lời của tôi lần này phát ra chậm hơn. “. Thứ Ba.”

      “Và mặt đất được trải thảm đỏ.”

      “Xanh dương...” Tôi quay đầu, cứng người, khi đón đôi mắt ranh mãnh của trai.

      “Em phải”, bảo tôi. “ ràng mảng đầu thai này có nhiều chứng cứ rồi.”

      Tôi trừng mắt nhìn , đầu tiên tài nào đối đáp được, đầu óc tôi kinh ngạc và mụ mị. “Chết tiệt”, tôi chậm rãi . Sau cùng, mục sư hay phải mục sư...

      “Chính xác”, Tom thốt lên và mỉm cười, rồi quay trở lại với bài giảng của minh.

      Giao thông trước mắt vẫn thông suốt. Đột ngột tiếng còi của chiếc xe rú lên, ngay lập tức kéo tôi khỏi dòng suy tưởng. Vẫn được bao phủ trong thanh thản ấm áp, tôi chuyển chiếc Peugeot bé vào làn dành cho tốc độ cao hơn và nhấn ga tăng tốc rồi điều chỉnh vai dựa lên ghế lái cách thoải mái với tiếng thở dài hầu như tiếng. Phần còn lại cùa quãng đường, tôi lái xe trong im lặng.

      Khi tôi vọt chiếc xe qua cây cầu đánh dấu sắp về đến Exbury, hài lòng như tấm chăn thít chặt quanh người tôi, chút rộn rã vì mong đợi xộc khắp cơ thể rã rời vì chuyến của tôi. Sắp về đến nhà. Những từ ngữ đó choán hết đầu óc tôi như tiếng , ngọt ngào và êm dịu.

      Lại là từ đó, tôi nghĩ. Nhà. Nó xuất quá dễ dàng và tự nhiên trong tâm trí tôi, gần như thế...

      “Tôi biết”, tôi to với tấm kính chắn gió lốm đốm bẩn trước mặt, “ tôi từng sống ở đây trước kia, trong cuộc đời khác ư?”. Lời đáp trôi trở lại, nhanh chóng và đơn giản, từ những gì có thể là do trí tưởng tượng của tôi hoặc từ nơi sâu kín nhất trong tiềm thức: Phải.

      Xinh đẹp trong ánh nắng lên cao của buổi sáng với những bông hoa đầu xuân nở rộ dọc theo bức tường phía bắc, con đường cong cong và ngôi nhà lên đầy uy nghi như chào đón tôi. Luôn luôn trở về với ngôi nhà, tôi nghĩ, khi rẽ lên lối lái xe hẹp. Tôi chọn ngôi nhà này, như những người khác, với tâm lý thoải mái và đầy lý trí; ngôi nhà chọn tôi. Nếu quả nơi đây hấp dẫn tôi là có chủ đích, tốt hơn hết tôi nên cố hết sức tìm ra chủ đích đó là gì, bắt đầu từ hôm nay. Bắt đầu ngay lúc này.

      “Được rồi”, tôi kiên quyết , nâng cằm lên. “Tao về rồi đây. Giờ cho tao thấy mày muốn tao làm gì xem nào.”

      Quả , ra vẻ hiên ngang thế này có hơi đáng xấu hổ. Tôi thậm chí chẳng mấy chắc chắn những lời của mình là hướng đến hồn ma, ngôi nhà hay chính bản thân nữa. Và tôi chắc chắn hề mong đợi nghe thấy câu trả lời.

      Nhưng khi đỗ xe vào chuồng ngựa được cải tạo ở sau nhà, chuyển động mơ hồ lọt vào mắt tôi. Và khi quay đầu lại, tôi thấy hình dáng của người phụ nữ trẻ trong khu vườn có chuồng bồ câu. Hình dáng bất động và tĩnh lặng của người phụ nữ trẻ trong bộ đồ màu xanh. Trong giây lát, tôi hoảng sợ, ngực thít lại. Rồi người phụ nữ quay lại mỉm cười và vẫy tay, tôi thấy đó hoàn toàn phải hồn ma, chỉ là Vivien trong bộ đồ cũ màu xanh kỳ quái, với mái tóc xõa tùy tiện quanh vai và gương mặt sáng hồng rạng rỡ. nhõm hẳn, tôi chậm rãi băng qua bãi cỏ dài về phía chiếc chuồng bồ câu đổ nát. Vivien ngừng làm việc và tựa người lên cái cào, hướng đôi mắt thân thiện nhìn tôi đến gần.

      “Vậy là ở nhà”, ấy , cách thừa thãi. “Mọi chuyện vẫn ổn với gia đình chứ?”

      “Vâng, cảm ơn .” Tin tức lan truyền rất nhanh. ấy trông như thể muốn biết thêm, nhưng tôi thay đổi chủ đề. Tôi chưa bao giờ thích dối, nhiều như lúc này. “Tôi biết cũng bắt chước làm vườn đấy”, tôi .

      thường xuyên lắm. Tôi chỉ giúp Iain nhổ cỏ thôi. Sáng nay đẹp quá”, ấy giải thích, chỉ lên bầu trời trong xanh hoàn mỹ. “Tôi ghét bị nhốt trong nhà.”

      “Cái tay em giúp được nhiều lắm đâu, cưng ạ”, giọng của Iain Sumner vọng lại khô khốc. Tôi thể nhìn thấy ta ở chỗ bức tường đá, nhưng khi tôi tiến lại gần khu vườn hơn, ta đứng thẳng dậy và vươn vai. “Hai mươi phút vừa rồi em vẫn chỉ cào y nguyên tí tẹo đất ấy”, ta buộc tội Vivien.

      ấy thuần thục xới đất. “Đấy là em cẩn thận.”

      “Phải rồi. tranh cãi với em ở đây.” Đôi mắt ta trượt ra xa khỏi Vivien, mỉm cười chào tôi, ném búi cỏ đầy đất lên cái đống mỗi lúc chất cao sau lưng. Sáng nay, ta trông hệt chàng nông đân dích thực, trong chiếc quần thô và áo sơ mi xanh bạc màu, với găng tay dài bằng da kéo lên hết cẳng tay. ta cũng trông mệt rã rời. Đôi mắt xám căng thẳng và trũng sâu gương mặt nghiêm túc. Tôi nghĩ đến người họ Ronald của mình, ở Cornwall, người mỗi sáng đều thức dậy từ bốn giờ để vắt sữa ba mươi con bò, và tự hỏi lần thứ trăm vì sao lại có ai đó lựa chọn trở thành người nông dân.

      Iain giật mạnh chiếc găng tay bong tróc ra và dùng bàn tay rám nắng to lớn quệt mồ hôi khỏi trán. “Tôi chuyển lời nhắn của đến Geoff”, ta báo tin cho tôi biết. “ vẫn đề gì đâu. Cậu ta cũng vắng, lên phương bắc vì chuyện làm ăn, trong vài ngày tới, nhưng cậu ta gọi cho khi nào quay lại.”

      “Ồ, vậy à?” Vivien tinh quái ngẩng đầu.

      ấy hứa dẫn tôi tham quan vòng quanh lâu đài”, tôi giải thích, hy vọng ai chú ý đến sắc hồng mặt mình giữa ánh mặt trời chói chang. Lần thứ hai, tôi thay đổi chủ đề. “Khu vườn trông đáng quá”, tôi .

      đáng . Những hàng cây non màu xanh tí hon ngay ngắn giờ được bao quanh bởi những lùm dạ lan hương và hoa thảo mướt mát. ta cũng thêm vào cụm hồng leo, có lẽ được chiết từ vườn hồng nổi tiếng ở lâu đài Crofton, đám dây leo của nó lười biếng bám lưng chừng các tầng nhà được ánh mặt trời sưởi ấm. Trong vòng , hai tháng nữa, mảnh đất này chắc chắn nở rộ đầy sức sống và sắc màu.

      Iain nhìn theo ánh mắt thưởng thức của tôi và nhún đôi vai rộng. “Đúng vậy”, ta ngượng ngùng .

      Tôi liếc xuống đồng hồ đeo tay. gần mười giờ. “Có ai muốn tách trà ?” Tôi ngỏ lời.

      “Thế tuyệt quá.” Vivien nhõm vứt bỏ luôn cái cào, Iain dành cho ấy ánh nhìn trìu mến đầy khoan dung trước khi đôi mắt xám mệt mỏi chạm phải mắt tôi và ta mỉm cười.

      “Tôi phải từ chối rồi”, ta trả lời.

      Thành thực mà , tôi phải thừa nhận với ai, ít nhất là với bản thân, nhưng tôi mừng vì mình còn ở mình khi mở khóa cửa ngôi nhà xám im lặng. Hít hơi sâu đầy kiên quyết, tôi băng qua ngưỡng cửa chờ đợi.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :