Ma thổi đèn - Thiên hạ bá xướng

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. Skye

      Skye Well-Known Member

      Bài viết:
      698
      Được thích:
      5,624
      Nội Dung Truyện : Ma Thổi Đèn
      Bạn đọc truyện Ma Thổi Đèn của tác giả Thiên Hạ Bá Xướng trang đọc truyện online. sâu nhiều lắm vào vấn đề trộm mộ như đề tài trọng tâm, chỉ là những trải nghiệm thời trai trẻ của nhân vật Trần Bát Nhất. Hai nhân vật còn lại ( Tuyền béo và Shirley Dương) chỉ xuất chủ yếu ở phần cuối truyện - lần đào mộ đầu tiên và thứ 2. Nhưng thiết nghĩ,đây là những trải nghiệm cần thiết và lối dẫn dắt vô cùng lôgic của tác giả.Những chuyện kỳ lạ mà họ trải qua, những nguy hiểm chết người mà họ phải đối đầu dẫn người đọc từ hết bàng hoàng nọ đến ngạc nhiên kia. Và chính những cái đó khiến họ có cảm tưởng như biết thêm được bao nhiêu là kiến thức kỳ bí: Kỳ nhông, Lười đất, Bọ lửa, Rắn đen, gỗ thần Công Luân, Hoa thơm xác... (chẳng biết là có hay nữa).Kết thúc chuyện cũng hết sức hợp lý và cũng phải kiểu kết mở lấp lửng câu khách rẻ tiền thông thường. Người đọc có đọc nữa hay là do họ chứ phải do tác giả quyết định. Nếu thấy hay đọc nữa để xem những cuộc phiêu lưu tiếp theo, nếu thấy hay cũng có thể dừng ở đó coi như biết kết cục của cuộc đào mộ lần này

    2. Skye

      Skye Well-Known Member

      Bài viết:
      698
      Được thích:
      5,624
      Q.1 - Chương 1: Ả người giấy và bạn chuột





      Vào truyện Truyện "Ma Thổi Đèn "


      Trộm mộ chẳng phải việc tham quan ngắm cảnh, chẳng phải ngâm thơ đối câu, chẳng phải thuê hoa dệt vóc, thể nhã nhặn khiêm nhường, thể ung dung nhàn tản, chẳng thể tuần tự theo tôn ti “thiên địa quân thân sư” cho được. Trộm mộ là thứ kỹ thuật, thứ kỹ thuật phá hoại. Tự thuở xưa, khi các quý tộc xây dựng lăng mộ, ắt tìm đủ mọi cách để phòng ngừa trộm cắp, vậy nên hẳn là có bao nhiêu thủ đoạn cũng dùng hết cả rồi, trong mộ thường sắp đặt đủ loại cạm bẫy ám khí, nào đá tảng, cá trôi, nào tên độc, rắn rết, hố chông…nhiều kể xiết. Đến đời nhà Minh, chịu ảnh hưởng của kỹ thuật phương Tây, số ngôi mộ lớn thậm chí sử dụng cả hệ thống bánh răng ròng rọc của phương Tây, đặc biệt là lăng của các hoàng đế nhà Thanh, có thể coi là những kiệt tác gom thâu kỹ thuật phòng trộm của mấy ngàn năm cũng xứng. Đại quân phiệt Tôn Diệt muốn khai quật Đông lăng để lấy vàng bạc sung vào quân phí, huy động cả đội quân, vừa đào bới vừa nổ mìn cũng phải mất năm sáu ngày trời mới xong, độ kiên cố của mấy lăng ấy thế nào chắc cần cũng có thể mường tượng ra được. Bài toán dành cho những kẻ trộm mộ thời bấy giờ là phải nghĩ ra trăm phương nghìn kế phá giải những cạm bẫy đó, để vào mộ tìm kiếm báu vật. Thế nhưng nay, việc tìm ra mộ cổ còn khó hơn việc khai quật mộ nhiều lần, những ngôi mộ lớn xây theo kiểu đắp nấm dựng bia ràng bị người ta đào bới gần hêt từ lâu rồi. Còn nếu muốn tìm mộ cổ vùi sâu trong lòng đất nhiều năm, lại có dấu mốc gì mặt đất, phải cần đến số kỹ thuật nhất định như vài thứ công cụ đặc biệt, các loại như khoan sắt, đinh tre, xẻng Lạc Dương, thám trảo, hắc chiết tử, toàn địa long nhất loạt đều từ đây mà ra. Ngoài ra,cũng có số cao thủ lại dựa vào mấy thứ ấy, có người tìm mộ bằng cách lần tìm đầu mối được ghi chép trong thư tịch cổ xưa, cũng có số rất ít người hiểu được bí thuật, có thể tìm ra mộ huyệt bằng khả năng xem phong thuỷ, đọc mạch tượng của đồi núi sông ngòi, bản thân tôi chính là thuộc loại cuối cùng này. Tôi đặt chân qua khắp mọi nẻo đừơng, trải qua vô số chuyện ly kỳ quái dị, nếu đem kể từng chuyện ra, chắc hẳn khiến kẻ thấy kinh hồn, người nghe bạt vía, cho cùng những tích lấp biển lật sông, xẻ đất che trời, hình rồng tướng hổ như vậy kể cũng đâu phải tầm thường.


      Những tích ấy phải bắt đầu kể từ cuốn sách cũ Thập lục tự dương Phong thủy bí thuật ông nội tôi để lại, cuốn tàn thư này, chẳng biết cớ gì mà nửa cuối lại bị người ta xé toẹt rồi, chỉ còn lại phần đầu viết về bí thuật phong thuỷ. Những điều trong sách, quá nửa là các bí thuật độc môn để học hiểu bố cục phong thủy của mộ táng…


      Chương 1: Ả người giấy và bạn chuột


      Nội tôi tên là Hồ Quốc Hoa. Tổ tiên nhà họ Hồ là đại địa chủ có tiếng trong vùng, vào thời huy hoàng nhất từng mua hơn bốn mươi gian nhà liền kề nhau ở ba con ngõ trong thành, trong họ cũng có người làm quan, có người buôn bán, cũng từng quyên tiền hỗ trợ công việc tào vận và cung cấp thóc lúa cho triều đình Mãn Thanh.


      Tục ngữ có câu: “ ai giàu ba họ, ai khó ba đời” kể cũng đúng , trong nhà dù có núi vàng núi bạc, cũng trụ được khi có những đứa phá gia chi tử chỉ biết ăn tàn phá hại.


      Đến những năm Dân Quốc, Hồ gia truyền tới đời ông nội tôi gia đạo suy vi, thoạt tiên là chia nhà, gia sản chia cho ông cũng ít, đủ để ăn no mặc ấm suốt đời, thế nhưng ông lại chịu học điều hay lẽ tốt, đương nhiên điều này có ảnh hưởng của hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ nữa, trước say mê cờ bạc, sau lại nghiện Phúc thọ cao (1), cuối cùng cả gia tài bị ông đem tiêu sạch bách.


      Thời trai trẻ hút hít ăn chơi, tệ nào ông phạm, cuối cùng quẫn đến nỗi cắc chẳng còn. Người ta khi lên cơn nghiện vò ruột bứt gan, sao mà nhịn nổi, nhưng có tiền ai cho ông hút? Trước kia lúc có tiền có của, từ thằng chủ cho đến con hầu trong ổ hút ấy hễ thấy ông là xoen xoét gọi “Hồ đại gia”, tiếp đãi ân cần chu đáo lắm, nhưng đến khi xu dính túi, chúng coi ông là thằng ăn mày, chúng vừa chửi mắng vừa đánh đuổi,hắt ông như hắt hủi vậy.


      Người ta nhược bằng túng quẫn quá, mấy mớ quan niệm về đạo đức liêm sỉ cũng có sá gì, nội tôi nghĩ được cách, lừa tiền ông cậu. Cậu của ông tôi biết ông là thằng nghiện ngập phá gia chi tử, thường ngày hào cắc chẳng cho, nhưng lần này ông phỉnh cậu, bảo rằng sắp lấy vợ, xin cậu gom cho ít tiền.


      Ông cậu nghe vậy, xúc động đến nỗi nhạt nhoà nước mắt, thằng cháu bất hiếu này giớ mới coi như cũng làm được việc tử tế, nếu kiếm được cháu dâu hiền đức trông coi cẩn thận, dạy dỗ cho nó, có khi về sau lại khá lên cũng chừng.


      Vậy là ông cậu đưa nội tôi hai mươi đồng Đại Dương, dặn rằng lấy vợ sau phải sống cho đàng hoàng, chớ dính vào Phúc thọ cao nữa, để mấy hôm nữa rảnh, ông đích thân tới nhà xem mặt cháu dâu.


      Ông nội Hồ Quốc Hoa của tôi có rất nhiều trò ma mãnh, để đối phó với cậu, sau khi về nhà, ông liền vào thôn tìm tay thợ chuyên làm mấy thứ người giấy, ngựa giấy(chính là loại để đốt cho người chết). Lão thợ này tay nghề rất cao, chỉ cần là thứ có thể tả ra được là lão có thể làm ra giống hệt như thế.


      Theo cầu của ông nội, lão hàng mã làm ra bằng giấy phết hồ, sau đó dùng màu nước vẽ lên lông mày, mắt, mũi, áo quần, đầu tóc, nhìn từ xa, ôi thôi, trông giống y như người vậy.


      Ông nội tôi cõng người giấy về nhà, đặt vào giường trong, lại lấy chăn đắp lên, trong bụng tự lấy làm yên tâm lắm, đợi mấy hôm nữa ông cậu đến, cứ viện cớ vợ ốm, nằm liệt giường thể tiếp khác, để ông cậu đứng nhìn từ xa là được. Ngẫm thấy đắc ý, ông bất giác hát rống lên vài câu, rồi chuồn luôn vào thành hút thuốc.


      Mấy hôm sau, ông cậu quả nhiên đến , lại còn mua vải vóc bánh trái thăm cháu dâu, nội tôi mang những lời nhẽ toan tính ra từ trước lần nữa thoái thác, than rằng vợ khoẻ, tiếp khách được, rồi vén rèm để cậu đứng ngoài nhìn, sau đó lại lập tức buông xuống ngay.


      Ông cậu vừa lòng, mới nhủ, cái thằng ranh con này lại đối phó với cậu mày như thế à? được! Hôm nay dứt khoát phải gặp được cháu dâu mới thôi, có bệnh cho tiền mời thầy lang đến chữa!


      Ông nội sống chết níu ông cậu lai cho vào, nhưng cành níu kéo ông cậu càng sinh nghi, đôi bên cứ thế co kéo, cuối cùng ngăn được, ông cậu chạy xộc vào nhà trong, vừa nhìn lên giường, suýt nữa chết khiếp, bộ mặt đàn bà trắng bệch, còn phết đỏ tròn hai má, ràng là ả người giấy.


      Mùa xuân năm ấy xảy ra rất nhiều chuyện, vụ ông Hồ Quốc Hoa mua người giấy gạt tiền bại lộ, ông cậu giận quá hoá bệnh, ngồi dậy nổi, chưa đến ba hôm rũ áo chầu trời.


      Họ hàng bạn bè của Hồ gia, ai cũng phòng nội tôi như phòng trộm, chớ cho vay tiền, ngay đến cơm thừa cũng cho ông lấy miếng. Ông đành bán nốt đôi tủ gỗ đàn lấy hai đồng bạc, chiếc tủ này là của hồi môn của cụ bà, ông vốn định giữ lại để tưởng niệm, chưa nỡ đem cầm,nhưng khi cơn nghiện phát tác, cũng còn nghĩ ngợi được nhiều thế nữa rồi. Cầm hai đồng bạc ấy mua dúm Phúc thọ cao, chạy về nhà liền vội vã sà vào giường châm thuốc hít mạnh hai hơi, cơ thể bỗng dưng bẫng, tựa hồ như chấp chới lên mây.


      Lúc ấy, ông cảm thấy sướng như lên tiên, dăm ba cái chuyện bị người ta khinh rẻ, ức hiếp, rồi bị mắng bị chửi thường ngày, giờ đều vặt vãnh cả. Hít thêm hai hơi tiếp, ông bỗng phát nằm cái giường nát bươm của mình còn có đống đen đúa xù xì, nhìn lại cho kỹ, hoá ra góc giường có con chuột cống to tướng chồm hỗm. Con chuột này ý chừng phải sống lâu rồi, ria nó trắng cả, mình nó phải xấp xỉ con mèo. Nó nằm hít thứ khói bốc ra từ tẩu thuốc của Hồ Quốc Hoa, dường như cũng biết đến lợi ích của thuốc phiện, lỗ mũi cứ khịt khịt tham lam tận hưởng.


      Nội tôi bỗng thấy hứng thú lắm, quay ra bảo con chuột: “Mày cũng nghiện thuốc hả? Xem ra tao với mày là người đồng đạo rồi.” đoạn ông lại hút hơi, rồi phả thứ khói nồng nặc ấy vào con chuột, con chuột dường như biết ông tôi có ác ý, cũng chẳng sợ ông, bèn nghển cổ đón lấy làn khói đặc đương phả vào mình. Quá trưa, dường như thoả mãn được cơn nghiện, con chuột lững thững bò .


      Mấy ngày liền đều như vậy, hôm nào con chuột cũng bò đến hít thuốc với ông nội, ông tôi đâu cũng bị người ta khinh miệt, chung quanh chẳng có lấy tấm bạn tâm tình, thấy con chuột quấn mình như vậy đâm ra thích chí, có lần con chuột đến hơi muộn, ông cũng gắng nhịn cơn nghiện mà chờ nó.


      Thế nhưng niềm vui ngắn chẳng tày gang, nhà ông nội bây giờ chỉ còn lại chiếc giường trơ và bốn bức tường, chẳng còn đồng nào mà mua thuốc nữa, ông ủ rũ vì hết cách, than thở với con chuột: “Chuột ơi chuột à, hôm nay là ngày cùng tháng kiệt rồi, chẳng còn tiền mua Phúc thọ cao nữa đâu, e rằng chẳng được cùng mày ngửi lại cái mùi nồng nàn ấy nữa rồi.” dứt ông cứ sụt sịt thôi.


      Con chuột nghe những lời ông , hai mắt long lanh chớp chớp như nghĩ ngợi gì, rồi bỗng quay ngoắt bỏ . Đến khi trời tối, nó ngậm đồng tiền bạc quay về nhà bên cạnh gối ông tôi, ông nội vừa mừng rỡ lại vừa kinh ngạc, liền chạy cả đêm vào thành mua lấy miếng Phúc thọ cao, về nhà là đốt ngay bàn đèn, cùng con chuột hút trận đầy no sướng.


      Ngày hôm sau con chuột lại ngậm ba đồng bạc tha về, ông nội mừng rơn khôn tả, nhớ lại điểm cố được học từ thời con trong trường tư thục trước đây, bèn với nó: “Kẻ biết Quản Trọng, chính Bào Thúc Nha đó vậy, nay người biết ta bần hàn mà hậu đãi ta, là tri kỷ của ta vậy, nếu chẳng chê bai, chúng ta hãy kết nghĩa kim lan !”. Từ đó ông với chuột xưng huynh gọi đệ, gọi là “ chuột”, ăn uống cùng chia, thuốc hút chung hưởng, lại còn làm cho con chuột cái ổ bằng bông, để nó cùng ngủ giường.


      Người chuột nương nhau, như đôi bạn tâm đầu ý hợp, con chuột hàng ngày đều tha bạc về, ít hai đồng, nhiều bốn năm đồng, từ đó ông nội chẳng còn gánh lo cơm áo nữa. Bao năm về sau, mỗi khi nội tôi nhớ lại, vẫn rằng chuỗi ngày ấy là quãng thời gian vui sướng nhất của đời ông.


      Bẵng nửa năm trôi qua, ông tôi ngày giàu có, nhưng trớ trêu thay chẳng phải có câu “Giàu sang gặp thảy bạn vàng, sa cơ lỡ vận gặp toàn tiểu nhân” đó sao, cũng chỉ biết trách cái số ông nội Hồ Quốc Hoa của tôi là số nghèo số hạn, bị thằng tiểu nhân nhòm ngó.


      Trong thôn có thằng vô lại Vương Nhị, thằng này đâu bì được với ông tôi, ông nội chí ít cũng từng giàu có, dù gì cũng từng là “Hồ đại thiếu gia” ngót nghét hai chục năm trời, còn thằng Vương Nhị kia có đâu cái phúc ấy, tổ tiên tám đời nhà kể cả bây giờ đều chưa từng mặc nổi cái quần nào lành lặn. Vương Nhị thấy ông tôi gia nghiệp suy bại “cháy nhà hàng xóm, vỗ tay reo mừng”, thỉnh thoảng lại vô duyên vô cớ bức hiếp làm nhục ông nội, bắt nạt Hồ đại thiếu gia năm xưa mấy phen cho hả dạ. Truyện "Ma Thổi Đèn "


      Gần đây Vương Nhị lấy làm kỳ lạ, ông tôi là tên nghèo đói chẳng có công ăn việc làm, đồ đạc lại đều đem cầm cố cả, ngay đến họ hàng thân thích cũng chết gần hết, chẳng hiểu cớ gì mà vẫn hút thuốc được như thường? Tiền mua thuốc lấy đâu ra? bèn nghĩ bụng: chừng thằng ấy lại ăn trộm. Ta phải rình nó xem sao, đợi lúc nó thó đồ nhà người ta, mình bắt quả tang rồi báo cho quan phủ, kiếm mấy đồng Đại Dương tiền thưởng cũng tốt. Truyện "Ma Thổi Đèn "


      Thế nhưng rình thời gian, phát ông tôi ngoại trừ những khi thi thoảng vào thành mua đồ ăn và thuốc hút, căn bản là bước chân ra khỏi cửa, mà cũng chẳng qua lại với bất kỳ người nào. Càng tò mò muốn biết tiền ở đâu ra, Vương Nhị lại càng thấy bứt rứt yên.


      hôm, nhân lúc ông nội tôi ra ngoài mua đồ, Vương Nhị thừa cơ trèo tường nhảy vào nhà trong, lục lọi mọi nơi gầm bàn hốc tủ hòng tìm xem ông tôi rốt cuộc có bí mật gì. Đột nhiên nhìn thấy giường có con chuột to xù ngủ, hằn bèn tiện tay vất luôn vào trong siêu nước đun lò, sau đó đậy nắp lại, nghĩ bụng đợi đến khi tên họ Hồ kia về nhà uống nước, ta nấp bên ngoài xem trò hay ho.


      Chẳng đợi Vương Nhị chạy ra, ông nội về đến nhà, vừa văn dồn chặn lại bên trong. Vừa nhìn thấy con chuột bị luộc chín trong siêu nước, tức thời mắt ông liền đỏ sọc lên, vớ ngay con dao thái rau, chém vào thằng vô lại họ Vương kia mười mấy nhát. May mà nội tôi là kẻ nghiện ngập, chân tay yếu ớt nên tuy Vương Nhị bị chém trúng mấy nhát dao nhưng cũng có vết thương nào chí mạng cả, Vương Nhị máu me bê bết khắp người, chạy thục mạng tới đội bảo an cầu cứu, đội trưởng đội bảo an là họ hàng với tay quân phiệt địa phương, bấy giờ mời tay quân phiệt này nhắm rượu, tên đội trưởng biết tin liền nổi giận đùng đùng, giữa ban ngày ban mặt hành hung giết người còn coi vương pháp ra gì nữa? Vội sai ngay mấy tên thuộc hạ bắt trói ông nội tôi về.


      Ông nội bị giải về đốn, tên đội trưởng nạt giọng quát hỏi, cớ gì cầm dao hành hung đòi giết Vương Nhị.


      Ông tôi nước mắt lưng tròng, khóc nấc kể lại đầu đuôi tình, cuối cùng với giọng đầy ai oán: “Nhớ khi xưa tôi khốn khổ khốn nạn, chuột tôi chẳng sống được đến ngày hôm nay, nào ngờ chỉ sơ suất chút để mất mạng, tuy phải do tôi giết, nhưng chuột lại vì tôi mà chết. Tôi mà phụ người bạn hiền dưới chín suối này tình nghĩa ở đâu nữa? mình tôi làm mình tôi chịu, tôi chém thằng khốn Vương Nhị vậy rồi, giờ muốn phạt muốn giết xin nghe đại nhân phán xử, chỉ xin đại nhân cho tôi về an táng chuột, rồi tôi chết cũng nhắm mắt.”


      đợi tên đội trưởng gì, tay quân phiệt bên cạnh cảm động xuýt xoa, với ông tôi: “Mẹ kiếp! vong ơn chính là nhân, phụ lòng tức là nghĩa, đối với con chuột mà còn như vậy huống hồ là đối với con người? Ta niệm tình cậu có nhân có nghĩa, giờ lại chốn nương thân, từ rày hãy theo ta tòng quân làm phó quan ”.


      Súng ống là chính quyền, trong thời loạn lạc, lời của kẻ nắm giữ binh quyền là vương pháp. Tay quân phiệt ra lệnh cho bọn thủ hạ dùng roi quất Vương Nhị trận te tua để nội tôi bõ tức, sau đó cho ông về nhà an táng con chuột. Ông tôi trở về lấy hộp gỗ liệm xác bạn chuột, rồi đào cái hố chôn , khóc lóc tỉ tê hồi lâu mới dứt áo theo tay quân phiệt kia.


      Tục ngữ hay: “Đói thời khoai ráy cũng ngon, no thời xô thịt bấy còn dửng dưng”. Con người ta khi nghèo khổ điêu đứng, người khác dẫu chỉ cho bát cháo, miếng cơm hẳn cũng cảm tạ ơn đức vô cùng, huống hồ con chuột kia lại mang về cho ông tôi biết bao tiền của. Đương nhiên tiền ấy cũng chỉ là tiền ăn cắp, thánh nhân dạy dẫu chết khát cũng chẳng uống nước trộm dòng, có điều đó là tiêu chuẩn đạo đức của những bậc thánh tiên hiền, cổ nhân còn hiếm người làm được, huống hồ là hạng phàm phu tục tử như ông Hồ Quốc Hoa! Trước thường nghe hút thuốc trong phòng, lâu ngày chuột ruồi nghiện cả, lời này tịnh chẳng hề sai chút nào.

    3. Skye

      Skye Well-Known Member

      Bài viết:
      698
      Được thích:
      5,624
      Q.1 - Chương 2: “Thập lục tự dương phong thuỷ bí thuật”





      Từ đó trở ông tôi làm lính, lại rất được trọng dụng, khốn nỗi cái thời ấy thiên hạ đại loạn, quân phiệt hỗn chiến,chỉ cần nắm trong tay đội quân độ trăm người là có thể cát cứ vùng, nay ngươi diệt ta, mai kẻ khác lại xử ngươi, chẳng mấy thế lực có thể giữ được lâu dài. Thế lực của đội quân mà ông tôi theo vốn dĩ lớn, chưa quá năm bị đạo quân khác đánh cho tơi bời khói lửa trong trận chiến tranh giành địa bàn, kẻ chết, người bỏ chạy, ngay cả tay quân phiệt trước cất nhắc Hồ Quốc Hoa cũng trúng đạn tử trận. Truyện "Ma Thổi Đèn "


      Sau cuộc binh bại, ông nội tôi chạy về quê cũ, lúc bấy giờ gian nhà rách nát ngày xưa sập từ đời nào, lại vì chạy trốn quá vội vàng nên người cũng mang theo đồng xu nào, hai ngày liên tục được ăn, cộng với cơn nghiện hoành hành, ông chẳng còn cách nào khác, đành phải bán khẩu súng cho bọn thổ phỉ, đổi lại chút thuốc hút đồ ăn để giải quyết mối nguy trước mắt.


      Ông tôi trầm tư tự nhủ, cứ tiếp tục thế này cũng chẳng phải cách, dúm lương thực với thuốc phiện này cùng lắm cũng chỉ có thể gắng gỏi được dăm ba hôm, nhưng ăn trơn hít sạch rồi sau đó thế nào? Khi ấy ông mới chợt nhớ ra cách nhà chừng hơn trăm dặm có khu Thập Tam Lý phố, chỗ ấy có rất nhiều mộ phần của các bậc đại quan hiển quý, bên trong có vô số đồ tuỳ táng đắt tiền.


      Ông Hồ Quốc Hoa lúc bấy giờ từng lính, từng đánh trận, so với trước kia giờ to gan lớn mật hơn nhiều. Trước trong quân đội, ông tôi từng được tay binh sĩ già kể cho nghe nhiều chuyện đào trộm mộ, trộm mộ trong dân gian vẫn thường gọi là “đổ đấu”(1), có thể phát tài lớn, nhưng nếu bị bắt chỉ có nước bêu đầu, cho nên ông dám hành động vào ban ngày, đành đánh liều cầm đèn, vác cuốc tới khu mồ hoang Thập Tam Lý trong đêm trăng lông.


      Trăng lông tức là trăng gì? Tức chỉ trời mây, nhưng ánh trăng sáng mà mông lung mờ ảo. Đương nhiên người thời nay chúng ta đều biết, đây là tượng tự nhiên, trăng như vậy thường được gọi là trăng quầng, là điềm báo sắp có gió to, nhưng người nhà quê thời ấy,nào ai biết gì về khoa học. Ở số vùng quê dân cứ gọi đó là trăng mọc lông, có người đêm trăng u ám như vầy, cũng chính là lúc hồn dạ quỷ thích ra ngoài lảng vảng nhất.


      Vừa tới nơi, ông liền uống ngay nửa cân rượu cho nóng người, lấy thêm can đảm. Đêm hôm ấy, trăng lạnh sao thưa, gió se sắt, giữa nấm mồ hoang chập chờn những đốm mà trơi, phút chốc lại có tiếng chim lạ kêu lên ken két, ngọn đèn trong tay lúc mờ lúc tỏ, tựa hồ có thể phụt tắt bất cứ lúc nào.


      Ông nội tôi bấy giờ tuy vừa uống rượu, nhưng vẫn đổ mồ hôi lạnh bởi cái chốn ma ám rợn mình, bận này toi công, nửa cân rượu trắng uống vào coi như , bao nhiêu rượu đều theo lỗ chân lông chảy ra ngoài hết cả.


      Cũng may đây là khu mộ hoang, xung quanh bóng người, có gào hét ầm ĩ cũng chẳng sợ ai nghe thấy, ông tôi bèn hát vài khúc sơn ca để tăng thêm dũng khí, nhưng ông cũng chẳng biết mấy bài, được dăm ba câu hết cả vốn, sau đành hát bừa mấy điệu quen thuộc hàng ngày như “sờ mười tám cái” , “mong nhớ năm canh”.


      Ông tôi đánh liều, run rẩy bước tới giữa khu nghĩa địa. Nơi đó có nấm mộ lẻ loi bia, giữa bãi mộ hoang đất vằng này, nấm mộ này có vẻ khác hẳn những ngôi mộ khác.


      Ngôi mộ bia, quái dị ở chỗ cỗ quan tài hề được chôn xuống đất, mà lại cắm thẳng đứng giữa mộ phần, để lộ ra ngoài quá nửa. Cỗ quan tài trông còn rất mới, mười tám nước sơn đỏ bóng loáng dưới ánh trăng lờ nhờ chốc chốc lại ánh ra những tia sáng kỳ dị.


      Ông tôi lẩm bẩm tự nhủ, cái quan tài sao lại đặt thế này cơ chứ? Mẹ tiên sư quái đản, chỉ sợ phải tầm thường. Có điều đến cũng đến rồi, mở ra xem chuyến này công toi à? Hết tiền chết đói cũng là chết, thuốc hút lên cơn cũng chết, chả bằng để ma nó bóp chết luôn cho sướng, ông đây cả đời toàn bị chúng nó hiếp đáp rồi, tổ bà nó, hôm nay ông quyết liều phen, làm làm đến cùng.


      Nghĩ xong, ông nội liền vung xẻng đào tung mớ đất chôn ngập nửa dưới cỗ quan tài lên, cả cỗ quan tài liền lộ ra trước mắt. Vốn là tay nghiên ngập, thể lực lại yếu, đào có tí đất mà mệt lử cả người. Ông vội mở quan tài, ngồi bịch xuống đất moi ra ít thuốc mang theo, đưa lên mũi hít hơi.


      Đại não bị thuốc phiện kích thích, thần kinh cũng phấn khích hơn, ông nội tôi nghiến răng đứng phắt dậy, đưa xẻng nạy bung nắp quan tài ra, thi hài bên trong ngờ lại là mỹ nữ, mặt mũi sáng sủa như người sống, có điều phấn trát mặt quá dày, hai bên má lại đỏ hằn hai khoảnh son tròn, nền phấn trắng càng nổi bật lên như hai lá cao đỏ ói. mình thi thể khoác mũ phượng dải mây, áo bào lụa đỏ, ăn vận như dâu.


      Xác chết này vừa được chôn xuống, hay là chôn được thời gian rồi? Khu mộ này từ lâu bị bỏ hoang, mấy năm gần đây làm gì có ai lai vãng? Lẽ nảo ả ta hoá thành cương thi?


      Nhưng lúc ấy, ông tôi chẳng còn nghĩ ngợi được gì nhiều, trong mắt chỉ còn rặt những đồ trang sức treo đầy mình xác chết, trong ánh đèn lay lắt đống châu báu lại loé lên những tia sáng lấp lánh đến mê người, ngoài ra đồ tuỳ táng còn có những đồng bạc được dùng giấy đỏ gói vào thành từng cọc, và vô số những lá vàng, nhiều đếm xuể.


      Lần này giàu to rồi, ông nội tôi hí hửng thò tay gỡ chiếc nhẫn lục bảo thạch tay cỗ tử thi đột nhiên cổ tay bị người giữ lại, ông giật bắn mình, định thần nhìn lại, thấy người nắm tay mình hoá ra là vị trưởng bối phong độ phi phàm.


      ra lúc nội tôi tất tưởi chạy tới Thập Tam Lý phố, giữa đường gặp ông thầy phong thuỷ họ Tôn, Tôn tiên sinh là pháp sư có tiếng cả tỉnh, những có thể coi số mệnh, xem phong thuỷ, mà còn biết bấm tay tiên đoán, thông hiểu Ngũ hành độn giáp nữa.


      Tôn tiên sinh thoạt thấy Hồ Quốc Hoa, phát ngay mặt ông tôi thấp thoáng có đám khí đen bao phủ, bấm đốt ngón tay, rồi đùng đùng nổi giận, thằng ranh con này định đào mà quật mộ làm trò tổn hại đức, nay gặp phải ta, ta quyết thể để kệ thế được, nghĩ đoạn tiên sinh bèn theo để ngăn cản. Truyện "Ma Thổi Đèn "


      Lúc bấy giờ Tôn tiên sinh bất ngờ chộp lấy cánh tay Hồ Quốc Hoa, rồi quát lớn: “Thằng trộm kia! Mày làm như vậy sợ bị trời đánh thánh vật sao?”.


      Lời ấy vừa cất lên, ông nội tôi ngỡ như bị vả vào mặt, vội quỳ sụp xuống, cầu xin Tôn tiên sinh tha mạng.


      Tôn tiên sinh đỡ nội tôi lên, rồi : “Tuy ngươi đạo đức băng hoại, nhưng chưa gây tội lớn, ngươi phải biết rằng quay đầu là bến, muốn ta giúp ngươi khó, có điều ngươi phải bái ta làm thầy, rồi cai hẳn thuốc !”.


      Ông nội tôi nghe bảo phải cai thuốc, thoạt nghĩ thế chẳng bằng lấy quách cái mạng mình cho xong, nhưng đắn đo hồi thấy phải chịu báo ứng còn khổ hơn nhiều, lại nhủ, thôi còn nước còn tát, cứ cầu xin lão tạm tha cho , sau này đợi lúc lão lơi là, ta lại tiếp tục hút hít có sao, lão phát thế nào được? Tính toán xong, ông nội liền dập đầu, vái Tôn tiên sinh tám lạy để hành lễ bái sư.


      Tôn tiên sinh thấy ông nội tôi biết lỗi sửa lỗi, lấy làm hài lòng gật đầu, sau đó nhìn ra cỗ quan tài vừa bị nội tôi mở ra, thấy xác chết bên trong còn y như sống, cũng khỏi giật thót mình, nhủ thầm, xem ra nơi đây là đất dưỡng thi, cái xác của này để lâu ắt ương thành đại hoạ, cần phải diệt trừ sớm mới phải. Thế rồi tiên sinh dặn dò ông tôi phải làm thế này, thế này…


      Hai người hợp sức khuân nắp quan tài lên, gắng đẩy cho nắp ván đóng lại, lấy đinh dài đóng chắc, lại còn dùng dấu mực vẩy lên khắp quan tài những dây mực đan xen ngang dọc, tựa những ô cờ trong bàn cờ vây, từng dây mực chen nhau tạo thành tấm lưới đen ngòm, phủ kín lên cỗ quan tài quái dị.


      Tiếp sau đó ông nội tôi chất củi khô, đốt luôn cỗ quan tài sơn son thiếp bạc ấy, ngọn lửa bùng lên rừng rực, từng luồng khói đen ngừng bốc lên ngút trời, thối ngửi nổi, cuối cùng chỉ còn lại đống tro tàn.


      Ông tôi lúc ấy mới nhớ ra trong quan tài còn bao nhiêu vàng bạc châu báu, liền giậm chân thở dài, tiếc nuối vô cùng, nhưng quá muộn rồi, đành dìu Tôn tiên sinh, theo về ở cùng sư phụ.


      Về sau, Tôn tiên sinh dùng phương pháp bí truyền trị cho ông tôi khỏi nghiện, lại còn truyền cho phép bói chữ với xem phong thuỷ. Nội tôi liền bày sạp trong huyện thành, giúp người ta xem tướng, bói chữ, kiếm ít tiền vặt, rồi lấy dưới quê làm vợ. Ông đội ơn cứu mạng của sư phụ, từ đó về sau an phận thủ thường, cuộc sống ngày tốt hơn.


      Song lần Tôn tiên sinh bị cảm phong hàn, từ khi đổ bệnh mời biết bao thầy lang, uống rất nhiều thuốc mà bệnh tình mãi thuyên giảm, được vài năm tiên sinh cưỡi gió về trời.


      Trước lúc lâm chung, Tôn tiên sinh có gọi nội tôi đến, dặn rằng: “Ta và con có nghĩa thầy trò, ngặt nỗi kẻ làm thầy ta đây chưa kịp truyền thụ cho con bản lĩnh gì thực thụ cả, nay ta có cuốn cổ thư Thập tự dương phong thủy bí thuật ở đây, sách này tàn khuyết, chỉ còn nửa quyển, cũng chỉ chép mấy thuật coi phong thủy, tìm mộ huyệt mà thôi, con hãy giữ bên mình làm kỷ niệm vậy”. Tôn tiên sinh vừa xong, hơi thở chưa kịp hắt ra, vội lìa chào nhân thế.


      Ông nội tôi an táng ân sư xong, những lúc rảnh rang lại nghiền ngẫm cuốn sách cũ của thầy để lại,ngày rộng tháng dài, lâu dần cũng nắm bắt được những lẽ ảo diệu bên trong, bắt đầu khắp huyện giúp người nhà giàu tìm đất tốt để đặt mồ mả, dần dà có tiếng tăm, gia nghiệp cũng ngày hưng vượng.


      Bà nội tôi sinh cho ông người con trai, đặt tên là Hồ Vân Tuyên, đến năm mười bảy tuổi, Hồ Vân Tuyên bố tôi được gửi lên tỉnh theo học trường của giáo hội Quốc, trai trẻ tính cách sôi nổi, chịu ràng buộc, đồng thời sục sôi bầu nhiệt huyết, đêm nào bố tôi cũng mơ được tham gia bạo động cách mạng, cuối cùng quyết chí bỏ nhà ra , chạy đến thánh địa cách mạng, Diên An.


      Về sau bố tôi gia nhập quan ngũ đến tận khi đất nước bước vào công cuộc xây dựng đổi mới. Rồi tới chiến dịch Hoài Hà, bố tôi được thăng lên làm trung đoàn trưởng của trung đoàn, sau chiến dịch Độ Giang, ông theo quân đoàn xuống phương Nam, đồng thời cũng đưa gia đình định cư luôn ở dưới này.


      Sau nữa tôi ra đời, tôi lại sinh đúng vào ngày thành lập Quân đội Nhân dân Trung Hoa mồng tháng Tám, bố liền đặt tên là Hồ Kiến Quân, kết quả là khi mẫu giáo, cả lớp có đến bảy tám đứa có tên Kiến Quân, thấy nhiều đứa trùng tên quá, bèn đổi tên tôi gọi là “Hồ Bát Nhất” (tức là mồng 1 tháng 8-).


      Ông nội tôi, Hồ Quốc Hoa, đùa bảo: “Tên đổi hay lắm! Đơn hoà (hồ), Bát vạn, Nhất đồng (2) đây!”


      Năm tôi mười tám tuổi,gia đình tôi bị đấu tố, xúât thân của bố mẹ tôi mấy đẹp đẽ, cả hai người đều bị đem cách ly tra xét, còn ông nội bị lôi diễu phố phê đấu mấy chuyện giả thần giả quỷ. Ông là người có tuổi, lại chân yếu tay mềm, chịu nổi dày vò chì chiết nên chẳng quá dăm hôm về trời. Cả đời ông tôi coi phong thủy cho người ta, giúp người ta chọn đất đặt mộ, vậy mà cuối đời lại bị đưa hoả táng. đời vẫn luôn vô thường như thế.


      Nhà tôi cả thảy bị soát ba đợt, tất cả những đồ đáng tiền đều bị tịch thu hết, ông nội tôi sinh thời thích sưu tầm đồ cổ, mấy thứ này bị đập cũng bị thu, chẳng món nào còn được nguyên vẹn. Cuối cùng thứ duy nhất may mắn sót lại chính là cuốn sách cũ mà ông bảo tôi đem gói trong túi vải dầu, cất lên nóc nhà xí.


      Thanh niên thời Cách mạng Văn hoá có ba lựa chọn: là nhập ngũ, đây là lựa chọn tốt nhất, vừa có thể rèn luyện mình, sau này lại có thể được đổi ngành, phân về làm trong cơ quan nhà nước. Thứ nữa là ở lại thành phố làm công nhân, như thế cũng hay, chí ít có tiền lương mà dành dụm. Cuối cùng, xui xẻo nhất chính là những thành phần có nhiều mối quen biết, có cửa sau, hoặc gia đình bị đấu tố như tôi, những thanh niên này chỉ còn cách lên vùng núi hoặc về quê lao động mà thôi.


      Bạn khuyên tôi nên chọn con đường thứ tư, là chẳng đâu hết,cứ ở im trong nhà, liệu có được ? Như vậy cũng chẳng xong, thời buổi ấy có cái khái niệm “ngồi chơi xơi nước” đâu, mỗi người đều là đinh vít của xã hội chủ nghĩa, đều có tác dụng cả. Nếu như cứ ở trong nhà, Uỷ ban dân phố, trường học, ban Thanh niên Trí thức, họ nay đến, mai đến, ngày ngày lại như đèn kéo quân, động viên đến cùng thôi. Nhưng có số người cũng kiên trì đến phút chót, họ đâu hết, vậy làm gì được họ? Những người như thế rồi cũng được ở lại thành phố, được bố trí công việc cho. Có nhiều việc là vậy đấy, chẳng thể cho được, càng sống càng hồ đồ,người ta chẳng bao giờ biết được quy tắc là gì, còn quy tắc ngầm có phải ai cũng biết đâu.


      Thời ấy tôi còn quá trẻ, cũng chẳng biết lên núi ahy về quê cụ thể là phải làm việc gì, dẫu sao với lí lịch này, có muốn nhập ngũ cũng chẳng có nước, ở lại thành phố càng ai lo sắp xếp việc cho, nếu tham gia lao động cũng biết đâu nữa. Lúc ấy tôi nghĩ bụng , trời cao biển rộng trái tim hồng, đằng nào cũng là xa nhà, thế phải càng xa càng tốt.


      Phần lớn thanh niên chọn Vân Nam, Tân Cương, tôi lại chọn đất Nội Mông,ngoài tôi ra còn có bạn tên Vương Khải Tuyền, tay này trắng mà bự nên có biệt hiệu là “Tuyền béo”.


      Nơi chúng tôi đến gọi là trại Cương Cương, địa danh này từ trước tới nay tôi chưa từng nghe thấy. Khi lên tàu xa, ai đến tiễn chúng tôi,so với cảnh tượng náo nhiệt lúc người ta đưa tiễn người nhập ngũ, tình cảnh của bọn thanh niên trí thức như chúng tôi thê thảm mà bi tráng hơn nhiều. Tôi chỉ mang theo người duy nhất cuốn Thập lục tự dương phong thủy bí thuật giấu nóc nhà xí công cộng, tôi cũng chẳng biết đây là sách gì nữa, chỉ biết rằng đây là thứ duy nhất còn sót lại của gia đình, cứ mang theo bên người, những lúc nhớ nhà lại đem ra xem cho khuây khoả cũng tốt.


      ***


      (1) Đổ đấu: tức hình dung việc trộm châu báu trong quan tài người chết như đổ cái đấu ra lấy gạo lấy thóc.


      (2) Đơn hoà, Bát vạn, Nhất đồng: Bát vạn, Nhất đồng là tên hai quân bài. Đơn hoà là trong những kiểu "ù" của trò mạt chược. Người Bắc Kinh gọi "ù" là "hú", chữ ấy Hán việt đọc là "hồ", cùng với họ Hồ

    4. Skye

      Skye Well-Known Member

      Bài viết:
      698
      Được thích:
      5,624
      Q.1 - Chương 3: Ngôi mộ trong núi





      Tuy gọi là Nội Mông, nhưng kỳ thực chỗ này cách Hắc Long Giang xa, gần tiếp giáp với biên giới Ngoại Mông rồi. Cư dân nơi đây phần lớn là người Hán. chỉ có số ít là người Mãn, người Mông. Đội thanh niên chúng tôi tổng cộng sáu người, bốn nam hai nữ, vừa đến nơi ai nấy đều trơ mắt ra, chung quanh chỉ có những dãy núi nhấp nhô trải dài muôn dặm, những cánh rừng nguyên sinh ngút mắt bạt ngàn, rời khỏi thôn tầm chục dặm chẳng còn thấy bất kỳ bóng người nào nữa.


      Nơi đây vốn thông ra đường cái, thế nên đừng nhắc tới việc mắc điện, ở đây có thắp cây đèn dầu cũng là đãi ngộ dành cho cán bộ, còn phòng ai có được chiếc đèn pin chẳng khác gì dinh tổng thống, người sống trong thành phố hoàn toàn thể nào ngờ đến được. Lúc ấy, chúng tôi còn nghĩ khắp mọi miền tổ quốc nơi đâu cũng có nhà cao tiệm lớn, đèn điện điện thoại sử dụng tha hồ nữa cơ.


      Có điều lúc ấy cũng thấy rất mới mẻ, bởi xưa nay nào ai thấy dãy núi nào sừng sững đến vậy đâu, huống hồ còn lần đầu tiên được nếm bao món đặc sản miền rừng núi nữa. Núi non chung quanh sản vật tương đối dồi dào, cá đầy dưới sông, chẳng lo có thứ ăn. Sau này khi về thành phố, nghe bọn bạn Thiểm Tây kể mới thấy chúng nó cực khổ thế nào, cả mấy năm trời có ăn được bữa nào ra hồn đâu.


      Công việc của thanh niên trí thức nặng lắm, bởi nơi đây “gần núi nhiều củi đốt, kề sông lắm cá ăn” nên việc đồng áng vất vả quá. Có điều, buổi tối mùa hè, chúng tôi phải lần lượt thay nhau trông hoa màu ngoài ruộng. Vì lo thú rừng phá ruộng, cho nên mỗi tối phải có hai người ngủ ngoài đồng để canh chừng.


      Đồng ruộng nơi đây phải là những dải xanh mướt, thẳng cánh cò bay như đồng bằng Hoa Bắc, mà thường chỗ này khoảnh, chỗ kia khoảnh, tuỳ chỗ nào bằng phẳng là xới ruộng chỗ đó luôn, cho nên buổi tối phải ra ngoài vòng vòng để canh gác. Đêm hôm ấy đến lượt nhóm tôi và Tuyền béo, cậu ta ngủ trong lều, còn tôi ra ngoài lượn vòng, cũng thấy chẳng có gì, bèn về lều đánh giấc cho xong.


      Quãng về gần tới lều, bỗng dưng tôi thấy có cái bóng trắng tròn tròn cách lều cỏ xa, bèn dụi mắt nhìn cho kỹ, chắc chắn phải tại hoa mắt rồi, nhưng trời tối quá nên rốt cuộc chẳng thể nhìn được xem là thứ gì. Hồi ấy tôi tin có ma, đoán là có con gì đó, bèn nhặt cây gậy định xua nó .


      đám trắng loá giữa màn đêm tối mịt, lại còn khẽ dật dờ đung đưa nữa, rốt cuộc là thứ gì đây? “Thứ đó” cũng giống động vật, nhưng nếu phải là động vật sao nó lại chuyển động được nhỉ?


      Tôi tuy sợ ma quỷ, nhưng khi đối mặt với thứ mình biết là cái gì, cho cùng vẫn có tâm lý dè dặt, dám vung gậy đánh thẳng tới. Cây gậy tôi cầm trong tay, thực ra là cành cây tiện tay lượm được dưới đất mà thôi, tôi lấy cành cây chọc vào đám trắng mờ ảo kia, cảm giác rất mềm... đột nhiên, trong bóng tối mờ mịt tôi nghe thấy tiếng Tuyền béo gắt lên: “Này...làm gì thế, Hồ Bát Nhất? Sao lại chọc gậy vào mông tôi thế?”.


      phen hú vía, hoá ra là Tuyền béo, tại sáng ăn bẩn nên nửa đêm đau bụng, ngồi chồm hỗm ở đó mà ngoài, trong đêm cái mông trắng hếu của trông bắt mắt.


      Sáng sớm hôm sau, Tuyền béo cứ nằng nặc bắt đền tôi, mực bảo tối qua tôi khiến sợ phát khiếp, làm não chết đến hàng triệu tế bào. Tôi bảo rằng: “Não cậu có nhiều tế bào thế cơ à? Cả tớ lẫn cậu đều nghèo xơ nghèo xác, nhận chỉ thị tối cao của nhà nước tới nông thôn tiếp nhận học tập những điều vô cùng cần thiết từ giai cấp trung nông nghèo khổ,tớ lấy thứ gì để đền cậu đây? Tớ với cậu từ trước rồi, với tư cách là người chiến hữu cách mạng thân thiết của cậu, tớ khẳng định toàn bộ tư trang của tớ chỉ còn lại mỗi chiếc quần mặc này thôi, chắc cậu bắt tớ phải tụt quần ra đền đấy chứ?”


      Tuyền béo cười nắc nẻ, : “ cần phải thế, hôm trước tớ phát trong khu rừng Đoàn Sơn có tổ ong cực lớn, bọn mình chọc nó xuống, lấy ít mật uống cho , phần còn lại đem về đổi cho bố Yến Tử lấy thịt thỏ mà ăn.”


      Yến Tử là tên của , bố là thợ săn già có tiếng trong làng, tôi và Tuyền béo đều sống nhờ trong nhà họ. Hai cha con thường vào rừng săn, dăm hôm lại mời chúng tôi ăn thịt thú rừng, nhưng ăn mãi đồ ăn ngon nhà người ta, lâu ngày bọn tôi cũng áy náy,ngặt nỗi hai thằng tôi thực quá nghèo, cũng chẳng có gì mà mời lại hai cha con Yến Tử.


      Tuyền béo phát được cái tổ ong, bọn tôi liền quyết định kiếm ít mật về đem biếu hai cha con. Hai thằng tôi tính sốt sắng, làm là làm luôn, hồi còn ở thành phố, tôi và Tuyền béo là chúa nghịch ngợm trong toàn quân khu, giờ có chọc cái tổ ong nhằm nhò gì, mấy trò nghịch hơn gấp chục lần, bọn tôi cũng giỡn như cơm bữa.


      Tôi sợ lạc đường, bèn tìm mượn con chó săn của Yến Tử, con chó này chỉ nhỡ nhỡ, được Yến Tử chăm nuôi từ . đặt tên nó là Dẻ Vàng, tại nó chưa lớn nên cũng nỡ đem theo săn, giờ thấy chúng tôi bảo lên núi chơi chốc, Yến Tử liền cho dắt ngay.


      Tính đường chim bay, rặng Đoàn Sơn cách làng chúng tôi ở cũng xa lắm, nhưng bởi có đường thẳng nên chúng tôi phải trèo đèo lội suối hồi lâu mới tới. Khu rừng này rất rộng lớn, người trong làng từng cảnh báo chúng tôi nên vào đây, nghe đồn trong rừng thường có gấu người xuất . Chúng tôi cũng từng gặp người đàn ông chỉ có nửa khuôn mặt trong làng, nghe đầu hồi ta vào rừng gặp phải gấu người, may mà bố Yến Tử chạy đến kịp thời, nổ súng đuổi con gấu mới cứu được. Nhưng ta vẫn bị con gấu liếm cho phát vào mặt, cái lưỡi nhơ nhám của con gấu mọc chi chít những gai thịt, chỉ cần liếm cái là xé phăng mảng thịt lớn, đến giờ, nửa mặt trái của người đàn ông ấy còn tai mắt, cả mồm mũi cũng đều méo xệch, hơn bốn mươi tuổi đầu mà chẳng lấy được vợ, người già trong làng mỗi khi nhắc đến chuyện của đều rơm rớm nước mắt.


      Chúng tôi tuy to gan, nhưng cũng dám mạo hiểm chạy vào khu rừng già, cái tổ ong mà Tuyền béo thực ra nằm lủng lẳng cành cây đại thụ gần con suối ở bìa rừng, cậu ta phát trong lúc cùng dân làng lấy dầu thông.


      Có điều tôi ngờ tổ ong này lại lớn thế,còn lớn hơn tất cả những cái tổ mà chúng tôi từng chọc trước kia cộng lại nữa, nhìn từ xa, cái tổ tựa như con nghé chân bị treo ngược cành cây lớn, bên trong xáo xác lũ ong to tướng bay qua bay lại, những tiếng vo vo khiến người ta rầy tai nhức óc.


      Tôi thấy vậy chửi Tuyền béo: “Mẹ kiếp, cậu chơi tớ à? Tổ ong của cậu đấy hả? Bom nguyên tử có! Chọc để nó nổ cho có mà vỡ mặt!”. Tuyền béo cười hề hề bảo: “Còn gì nữa! Tổ ong thường tớ cần gì gọi cậu ra? mình tớ với tay cái là xử lý xong. Sao? Dám làm nữa ?”


      Tôi nghe vậy liền : “Nhằm nhò gì, đội ngũ chúng ta bất khả chiến bại, cả máy bay xe tăng của đế quốc Mỹ ta còn chẳng sợ, lại sợ mấy con ong nhép này ư? Mẹ tiên sư, toàn lũ hổ giấy cả thôi, hôm nay em mình dứt khoát phải xơi mật ong cho bằng được!”. Truyện "Ma Thổi Đèn "


      Tuy như vậy, nhưng cũng thể làm bừa được, chỉ chút sơ suất thôi chắc chắn bị bầy ong vò vẽ kia đốt cho đến chết, loại ong này to như vậy, hẳn có độc, cần gì nhiều, chỉ bị chích hai phát thôi là đời nhà ma ngay. Cũng may bên cạnh lại có dòng suối, hẳn là trời cũng muốn giúp chúng tôi đây. Đầu tiên tôi bẻ chiếc bánh ra làm đôi, cho Dẻ Vàng ăn rồi để nó chạy xa. Sau đó hai bọn tôi chia nhau mặc hai bộ quân phục thùng thình lên người, đội mũ da chó quấn khăn chít cổ, đeo chặt găng tay, trước mũ còn che tấm vải the nhìn xuyên qua được mượn của mấy chị em thanh niên trí thức, sau khi kiểm tra mình còn chỗ nào hở thịt, tôi mới bảo Tuyền béo tìm lấy hai cành lau rỗng ruột, mỗi thằng cầm cành, để đợi chốc nữa dùng hít thở khi nhảy xuống suối tránh lũ ong.


      Chuẩn bị xong đâu đấy, chúng tôi như hai con gấu ục ịch tiến lại gần gốc cây, tôi cầm nắm cỏ Đông tử và bao diêm tay chuẩn bị sẵn sàng Tuyền béo cầm cây sào, đếm “...hai...ba!” Vừa đếm đến ba, cái sào chọc mạnh vào chỗ nối giữa cành cây và cái tổ, chỉ vài nhát, cái tổ ong khổng lồ rơi bịch xuống đất, từ bên trong hàng vạn con ong vò vẽ to mẫm lao ra ồ ạt, chẳng mấy chốc bấu thành đám mây đen kịt giăng trung, phát ra những tiếng vo vo inh ỏi phủ trùm lên đầu chúng tôi.


      Tôi chuẩn bị tương đối kỹ, bất chấp tấn công của bầy ong, vẫn ngang nhiên đốt nắm cỏ Đông tử tay, rồi đặt ngay cạnh miệng tổ, bi khói hun sặc sụa, những con ong to sụ bị mất phương hướng lao ra nhốn nháo điên loạn, tôi và Tuyền béo vội lấy bùn đất đắp thành gờ chống lửa chung quanh đống cỏ khô bốc cháy để tránh lửa lan ra cả khu rừng.


      Lúc đó những con ong chưa bị hun sặc xác định mục tiêu, lao ầm ập vào chúng tôi bất chấp sống chết. Tôi bấy giờ chỉ cảm thấy như có hàng ngàn hạt mưa đá rơi lộp bộp đầu, dám dừng lại nửa bước, vội vã cùng Tuyền béo lao thẳng xuống dòng suối bên cạnh. Suối sâu lắm, chưa đến mét, sau khi nhảy đánh ùm, chúng tôi chạm xuống tận đáy nước, những con ong bám người lập tức bị nước suối cuốn trôi . Tôi tay giữ chặt lấy cái mũ da chó đầu để khỏi bị nước cuốn, tay móc lấy nhành lau rỗng ruột ra, đưa lên để thở.


      lúc lâu sau tôi mới dám nhô đầu lên, thấy bầy ong con sặc nước, con sặc khói, tình hình còn nguy hiểm nữa. Thời tiết khi ấy tuy là giữa hè, nhưng sông suối trong rừng núi lại vẫn rất lạnh, khắp người tôi cứ run cầm cập, khó khăn lắm mới bò được lên bờ, rồi nằm dải đá hít thở sâu, đón những vạt nắng ấm áp sưởi ấm thân mình, cảm giác dễ chịu khôn tả.


      Chẳng lâu sau Tuyền béo cũng thể chịu nổi, bèn run rẩy bò lên, mới bò được nửa, đột nhiên kêu á tiếng, cánh tay vung phắt lên, chẳng hiểu vì sao tay bị cứa rách đường dài, máu chảy lênh láng.


      Tôi vội chạy xuống đỡ Tuyền béo, cậu ta vừa bóp chặt vết thương, vừa : “Cẩn thận đấy! Hình như dưới suối có cái bát vỡ, cứa đau chết được”.


      Chung quanh vốn có người ở, sao lại có bát vỡ ở đây, tôi bỗng nổi trí tò mò, liền cởi phăng quần áo để mình trần lặn xuống suối mò tìm, ở chỗ Tuyền béo bị cứa chảy máu, tôi mò được nửa cái bát sứ, nhìn kỹ kiểu dáng cùng với hoa văn xanh lam, cũng có mấy phần giống với đồ sứ hoa xanh thời Bắc Tống khi trước nội tôi sưu tầm.


      Nhưng tranh chữ, đồ cổ của ông tôi, hồi đấu tố đều bị bọn Hồng vệ binh đập nát cả rồi, chẳng ngờ ở chốn thâm sơn cùng cốc này lại có thể nhìn thấy mảnh vụn của thứ đồ cổ này, cảm giác cũng thân thiết ra phết, nhưng suy cho cùng chúng cũng chẳng có giá trị gì với tôi cả, nghĩ đoạn tôi liền vung tay ném văng mảnh bát vào rừng.


      Tuyền béo cũng cởi hết quần áo ướt, băng qua loa vết thương rồi lại nhảy xuống suối. Chúng tôi tắm xong, liền đem quần áo giày tất phơi lên dải đá sỏi bờ, tôi huýt tiếng sáo dài gọi con Dẻ Vàng quay lại.


      Chỉ thấy con Dẻ Vàng từ đằng xa chạy về, miệng tha theo con thỏ rừng béo mẫm. Chẳng hiểu con thỏ xấu số kia thế nào mà lại để rơi vào mõm con chó săn còn trong thời gian tập này nữa. Tôi vừa thấy con thỏ rừng mừng rơn ôm lấy con chó lăn tròn mặt đất mấy vòng, quả là con chó săn cừ khôi, tôi liền bẻ buồng đẫm mật tổ ong thưởng cho nó.


      Tuyền béo : “Sau đợt này bọn mình xin dân làng mấy nhóc cún về nuôi, mai mốt tha hồ ăn thịt thỏ.”


      Tôi đáp: “Cậu đừng có mơ! Bao nhiêu thỏ rừng mới vừa cái miệng sói của cậu đây, thôi đừng ba hoa nữa, tớ đói rồi, cậu xử lý con thỏ kia , để tớ kiếm củi”.


      Tuyền béo ngồi bên bờ suối làm sạch con thỏ từ trong ra ngoài, tôi ôm mớ cành thông khô về đốt đống lửa, quết lớp mật ong dày lên mình con thỏ lột sạch da, rồi đem nướng. Chẳng mấy chốc, mùi thịt thỏ nướng mật thơm nức lan toả trong khí, tôi cắt đầu con thỏ ra cho Dẻ Vàng, phần thịt còn lại xẻ làm đôi, tôi và Tuyền béo mỗi người nửa đánh chén trận đời. Tôi lớn chừng này rồi mà cũng chưa bao giờ được ăn thứ nào thơm ngon như thứ này, thiếu chút nữa là nuốt luôn cả mấy ngón tay vào bụng, tuy có muối dầu gia vị, nhưng phết mật ong rừng lên thịt thỏ rồi lại dùng củi thông nướng chín cũng có phong vị rất riêng, người ở thành phố cả đời cũng thể nào tưởng tượng ra thế gian này lại có thứ đồ ăn ngon như thế.


      Sau khi đánh bữa no nê, thấy trời còn sớm, quần áo cũng gần khô cả, hai chúng tôi dùng cành cây to xuyên ngang tổ ong, người trước người sau vác về, vừa vừa hát vang bài ca Cách mạng: “Trời bao la, đất bao la... đâu bằng lòng quyết tâm của nhân dân ta...Thân thay mẹ, thân thay cha...nào thân bằng tình nghĩa Đảng ta.” đúng là “roi quất ngựa chồn chuông reo múa, hát vang khúc tiến quân về”. Điểm hài hoà duy nhất chính là tiếng sủa phấn khích của con Dẻ Vàng xen trong tiếng hát hào hùng của chúng tôi, điều này khiến cho tôi có cảm giác mình giống bọn giặc Nhật đổ bộ vào thôn làng trong phim vậy.


      Về tới thôn, thấy người trong làng vơi quá bán, tôi liền hỏi Yến Tử: “Yến Tử! Bố em với mọi người đâu cả vậy?”


      Yến Tử vừa giúp chúng tôi nhấc tổ ong xuống, vừa trả lời: “Sông Chakanha có lũ, cây gỗ trong lâm trường đều bị lụt cả, buổi trưa người trong làng đều chạy tới giúp khuân gỗ, đồng chí bí thư chi bộ bảo em nhắc các trông hoa màu cho cẩn thận, đừng có gây vạ, bọn họ phải bảy tám hôm nữa mới về được.”


      Tôi chúa ghét nghe ai bảo mình được gây hoạ, cứ làm như tôi sinh ra là để khắp nơi reo rắc tai hoạ bằng, nghe vậy tôi liền với Yến Tử: “Đồng chí bí thư uống rượu say lẫn rồi! Bọn có gây vạ gì đâu? Bọn đều là cháu ngoan của Mao chủ tịch mà!”.


      Yến Tử cười bảo: “Có là mấy gây vạ gì ? Từ sau khi đám thanh niên trí thức mấy về đây, gà mái cả làng này đều bị nạt cho con nào đẻ được trứng nữa rồi đấy.”


      Hai bạn cùng đoàn với tôi cũng ra lâm trường, chỉ còn lại tôi, Tuyền béo và hai nữa, hai chúng tôi chạy chơi nên bị gọi đến lâm trường khuân gỗ, nghĩ cũng may ! Bọn tôi đổ mật ong vào bình, cả thảy cũng được hơn mười bình đầy, Yến Tử bảo buồng ong thừa lại có thể nấu ăn, bữa tối nấu cho chúng tôi ăn món thịt nai xào tổ ong.


      Vừa nhắc đến ăn, Tuyền béo lại sướng tít cả mắt, bảo rằng hôm nay bọn mình có khác nào ăn Tết, chiều vừa ăn thịt thỏ nướng, tối lại được ăn thịt nai xào tổ ong, mình chảy cả nướng miếng ra rồi này. Yến Tử hỏi chúng tôi nướng thịt thỏ ở đâu. Tôi kể cho nghe đầu đuôi câu chuyện. Yến Tử nghe xong thốt lên: “Ôi trời ạ, các đừng có làm liều thế chứ! Nướng thịt thỏ ở bìa rừng, mùi thịt thơm như thế dụ gấu người ra sao?”


      Bọn tôi nghe Yến Tử vậy mới sực nghĩ lại, đúng nguy hiểm , may mà sao, có lẽ tại hôm nay con gấu ngủ cho nên đánh hơi thấy mùi thịt nướng. Tôi vừa giúp Yến Tử gầy lò, vừa kể chuyện Tuyền béo bị mảnh bát vỡ ở suối cứa vào tay, chẳng biết ở nơi rừng hoang núi hẻm ấy cớ gì lại có bát sứ hoa xanh thời Tống nữa?


      Yến Tử nghe vậy, mới bảo rằng: “Có gì lạ đâu, làng mình mỗi khi có ai lấy chồng, nhà nào nhà nấy cũng đều có đến mấy chiếc bình đựng làm của hồi môn, mà những thứ ấy đều vớt ở dưới suối lên cả.”


      Tôi càng nghe càng thấy lạ, dưới suối lại vớt được đồ cổ ư?


      Thấy tôi ngơ ngác, Yến Tử liền với tay vào gầm giường lôi ra hai chiếc bình sứ chỉ cho tôi xem: “ phải dưới suối tự mọc ra đâu, đều là từ thượng du xối xuống đấy. Gần làng mình có mấy con sông đều bắt nguồn từ núi Tim Trâu ở khe Lạt Ma, nghe người già kể núi ấy có mộ của bà thái hậu nước Kim hay nước Liêu nào ấy, đồ tuỳ táng bên trong đều cũ rích cả rồi, có nhiều người muốn tìm cái mộ ấy lắm, nhưng chẳng phải tìm thấy cũng là vào rồi mà biết lối ra. Khu rừng trong khe Lạt Ma rậm rạp lắm, bố em còn kể từng thấy quanh khu ấy có người rừng xuất , có người còn trong núi Tim Trâu có ma, bao năm nay chẳng có ai dám vào đấy đâu.”


      Trong lúc chúng tôi chuyện, màn đêm buông xuống từ lúc nào biết, Yến Tử làm cơm cũng hòm hòm, Tuyền béo liền gọi hai bạn kia đến ăn cơm, nhưng vừa được lúc, cậu ta và tên là Vương Quyên hớt hơ hớt hải chạy về. Tôi vội hỏi xem có chuyện gì, Vương Quyên thở hổn hển hồi mới , hoá ra bạn tên Điền Hiểu Manh ở cùng Vương Quyên nhận được thư nhà, trong thư viết mẹ bị hen suyễn phải nằm viện, bệnh tình xem ra khá trầm trọng. Điền Hiểu Manh nghe người ta bảo trong khe Lạt Ma có quả Bồ Tát chữa bệnh hen suyễn rất hiệu nghiệm, bèn mình vào rừng tìm, từ sáng sớm mà mãi tớ giờ vẫn chưa thấy về. Truyện "Ma Thổi Đèn "


      Tôi nghe mà gân xanh giật lên bần bật bên hai thái dương, Điền Hiểu Manh này cũng liều mạng , chỗ đó là rừng nguyên sinh, ngay cả thợ săn có kinh nghiệm trong làng còn chẳng dám tuỳ tiện vào, làm sao mà ta lại mình cơ chứ.


      Vương Quyên khóc bảo rằng tại mình ngăn Hiểu Manh được, rồi bảo mọi người mau chóng tìm, kẻo có chuyện gì chẳng biết phải làm sao nữa.


      Nhưng bấy giờ lực lượng lao động trong làng đều đến lâm trường cả rồi, chỉ còn hai người già và trẻ , xem ra chỉ còn mỗi tôi và Tuyền béo là được, Yến Tử cũng dắt theo Dẻ Vàng và súng săn cùng chúng tôi, Vương Quyên ở lại trông coi hoa màu.


      Trong rừng núi có chó chẳng sợ lạc đường, chúng tôi dám trễ nải, vội đốt đuốc dắt theo Dẻ Vàng phăm phăm vào rừng. Núi sâu rừng thẳm căn bản có đường nào được, tôi cũng thực chẳng hiểu nổi Điền Hiểu Manh, con sao dám thân mình xông vào nơi thâm sơn cùng cốc này cơ chứ, Tuyền béo bảo,có lẽ tại lo lắng quá nên tỉnh táo, mẹ bệnh nặng ai mà chẳng lo cơ chứ.


      Trời tối, lại phải nhờ Dẻ Vàng ngửi mùi lần vết, nhưng nó chưa từng được huấn luyện bài bản bao giờ, nên cứ mất dấu suốt, thành ra lại phải quay lại tìm lần nữa, vậy nên chúng tôi rất chậm, đoạn đường ngày thường chỉ cần bốn năm tiếng, giờ ba chúng tôi phải suốt cả đêm. Phía Đông trời hửng sáng, ngọn gió sớm trong khu rừng già thổi qua làm chúng tôi nổi hết da gà, khí tươi mới của buổi sớm khiến tinh thần người ta phấn chấn, Yến Tử chỉ tay về phía Tây : “Hai trông! Ngọn núi lớn kia chính là núi Tim Trâu đấy.”


      Tôi với Tuyền béo liền nhìn theo hướng tay chỉ, trong dãy núi bao trùm bởi biển rừng ngút ngát, sừng sững ngọn núi khổng lồ hình thù quái dị, cả ngọn núi hình dạng như quả tim trâu,chín dòng thác trắng muốt như chín con rồng ngọc cuồn cuộn chảy từ cao xuống, những đồ sứ mà dân làng nhặt được hẳn là do những dòng thác này cuốn ra, xem chừng lăng mộ của Thái hậu nước Liêu có lẽ ở trong núi, chỉ là xưa nay chẳng có ai tìm được lối vào mà thôi.


      Tôi trông thấy dãy núi hùng vĩ ấy đột nhiên có cảm giác rất lạ, thề có chủ tịch Mao, dãy núi này hình như tôi thấy ở đâu đó. Ngẫm nghĩ lúc, cuối cùng tôi cũng sực nhớ ra đây chính là đoạn chép trong cuốn tàn thư ông nội để lại mà hằng ngày khi rảnh rỗi tôi vẫn thường mở ra xem. Nơi có bố cục sơn thuỷ này chính là phong thủy tốt nhất để làm huyệt mộ, trước nhìn sông, sau tựa núi, chín dòng thác tuôn trào như chín con rồng hút nước, chia ngọn núi thành hình hoa sen nở rộ, đúng rồi, hình như bố cục này được gọi là “Cửu long trạo ngọc liên” (Chín rồng trùm sen ngọc) phải.


      Chín dòng thác núi, nếu nhiều hơn hay ít hơn , hoặc lưu lượng nước đủ lớn, đều thể gọi là bố cục “Cửu long trạo ngọc liên” được. Số chín là đơn vị lớn nhất, có hàm nghĩa “tối thượng, chí tôn”, phát lại giống với chữ “cửu” là “lâu bền”, có ý “vĩnh cửu trường tồn”, bởi thế tự cổ chí kim đều được coi là con số may mắn nhất. Ngoài ra, nếu lượng nước đủ lớn, cũng thể gọi là “rồng” được, mà chỉ có thể gọi là “rắn” mà thôi.


      Loại huyệt báu phong thủy này, còn có tên khác, gọi là “Lạc thần liễn”, trong sách có ghi, bố cục như vậy thích hợp nhất là an táng đàn bà, nếu chôn đàn ông vào, gia tộc nhà ấy kể như xúi quẩy muôn đời.


      Lúc ấy, đầu tôi lởn vởn suy nghĩ, cuốn Thập lục tự dương phong thuỷ bí thuật của nội tôi nào phải là sách phong kiến bậy bạ, nội dung sách chép toàn là vật thực việc thực, trở về thế nào tôi cũng đọc lai cho kỹ càng mới được.


      Có điều tôi hề thấy cái thứ thuật phong thuỷ này có giá trị gì cả, Trung Quốc tự xưa biết bao vị đế vương khanh tướng có ai chết mà lại chọn bừa lấy mảnh đất đem chôn đâu? Vậy sao triều đại vẫn đổi thay, dòng lịch sử hết hưng thịnh rồi suy vong, lẽ nào do phần mộ tổ tiên mà quyết định được?


      Yến Tử chỉ khe sâu phía trước núi Tim Trâu bảo: “Đây chính là khe Lạt Ma nổi tiếng, nghe đồn trong đó có người rừng, mà đêm đến lại còn có ma nữa.”


      Tuyền béo đưa mắt nhìn khu rừng nguyên sinh rậm rạp u, nhíu mày : “Hiểu Manh vào khe này thảo nào chẳng lạc, chúng ta chỉ có ba người con chó, muốn tìm nàng chắc cũng dễ đâu.”


      Tôi thấy hai người có vẻ nản lòng, bèn động viên: “Những người theo chủ nghĩa duy vật Cộng sản nên tin vào những điều ma quỷ, bất kể là mà hay là người rừng, gặp phải tớ đây coi như vô phúc, tớ bắt sống mấy con, đem về Bắc Kinh tặng Mao chủ tịch, nhất định người rất kinh ngạc cho mà xem!”


      Tôi và Tuyền béo đều xuất thân trong gia đình quân nhân, trong máu có sẵn phẩm chất gan lì chẳng sợ trời sợ đất, cậu ta nghe tôi thế, liền lập tức phấn chấn tinh thần, cũng xắn quần áo tiến vào khe sâu.


      Chỉ còn Yến Tử là lo lắng chưa yên, Yến Tử dẫu sao cũng là người bản địa, từ bé nghe vô số câu chuyện đáng sợ về khe Lạt Ma,tự nhiên trong tâm trí hình thành nỗi sợ tiềm âu cũng là điều dễ hiểu. Có điều bây giờ cứu người quan trọng, cũng đành gác lại nỗi lo sợ ấy mà theo chúng tôi.


      Ba chúng tôi ngồi ăn lót dạ chút lương khô, kiểm tra lại đồ đạc chuẩn bị xuất phát, ba người có hai khẩu súng, đều là của bố con Yến Tử, khẩu là súng ba nòng, khẩu là súng tự chế của người Ngạc Luân Xuân, cả hai khẩu đều rất lạc hậu, toàn phải nhồi thuốc rồi mới bắn được, bắn cự ly gần khả năng sát thương rất lớn, nhưng nếu bắn mục tiêu ngoài ba mươi lăm mét trở ra, độ chuẩn xác và sức của đạn đều mấy đảm bảo, dùng bắn hươu bắn thỏ còn tạm ổn.


      Hồi tôi sáu tuổi được bố dắt tới trường bắn chơi súng, các loại súng ngắn dài của Quân Giải phóng tôi đều sử dụng thành thạo, nhưng loại súng săn nhồi thuốc này tôi chắc có thể điều khiển được, Tuyền béo cũng khác tôi là mấy, sau hồi bàn bạc, tôi với Yến Tử mỗi người cầm khẩu súng, Tuyền béo dắt con dao chặt củi. Sau khi chuẩn bị tương đối, ba người bắt đầu tiến vào rừng cây rậm rạp trong khe Lạt Ma.


      Trong khe Lạt Ma, so với ma quỷ và người rừng trong truyền thuyết, gấu người vẫn là mối uy hiếp trực tiếp và chân thực nhất, gấu người và gấu đen tuy cùng là gấu, song gấu người thích đứng thẳng như người cho nên mới có tên như vậy. Loài gấu này thân hình to lớn, da thịt săn chắc, thợ săn phải hợp nhau lại, còn mang theo đàn chó săn mới dám tấn công nó. Còn như chỉ có thân mình vác theo cây súng rởm, gặp loại ác ôn này trong rừng sâu coi như lĩnh trọn án tử hình.


      Chúng tôi mất nửa ngày trong rừng, tiếng nước tuôn rầm rầm ở chín dòng thác núi Tim Trâu nghe mỗi lúc , nhác thấy đến tận đầu kia của khe Lạt Ma, xem ra cũng gần tới chân núi Tim Trâu rồi.


      Gấu người hay ma quỷ đều chẳng gặp, càng chẳng thấy bóng dáng của Điền Hiểu Manh đâu, Tuyền béo đặt bàn tọa phịch xuống đất, mệt nhọc : “Dừng thôi...thực ... thể nổi nữa!”


      Yến Tử liền bảo: “Mọi người đành nghỉ lúc vậy, con Dẻ Vàng hình như cũng đánh hơi ra được dấu vết gì của Hiểu Manh cả, ôi, thế này chẳng xong rồi, ngộ nhỡ tìm ra ấy, bí thư với bố em về mắng cho chết mất.”


      Nãy giờ tôi cũng mệt ra trò, vớ lấy bình nước tu ừng ực mấy ngụm, đoạn với hai người: “Điền Hiểu Manh chắc phải làm mồi cho gấu người đấy chứ? Hay là bị người rừng bắt đem về làm áp trại phu nhân mất rồi?”


      Chúng tôi nghỉ ngơi chuyện phiếm, bỗng thấy Dẻ Vàng xông vào phía rừng cây rậm rạp sủa nhặng lên,mà chó săn đều là những giống chó cực tốt, nếu gặp chuyện gì nguy hiểm lắm, chúng tuyệt đối bao giờ sủa nhặng lên như thế.


      Tôi hỏi Yến Tử: “Con chó làm sao thế? Có phải phát ra thú rừng đúng ?”


      Yến Tử mặt mũi tái nhợt: “Mau...Trèo mau lên cây! Có... có gấu người!”


      Tôi vừa nghe thấy hai tiếng “gấu người” lập tức ba chân bốn cẳng trèo tót lên cành cây to, cúi đầu nhìn xuống, thấy Tiểu Yến Tử còn gắng sức đẩy mông Tuyền béo lên, cái cậu này vốn biết leo trèo, chỉ biết gắng gượng ôm lấy thân cây nhích dần lên từng tí . Thấy thế tôi lại vội tuột xuống, cùng Yến Tử đẩy cậu ta lên, nhọc nhằn lắm cuối cùng Tuyền béo mới leo lên được chạc cây to gần nhất. Cậu ta nằm sấp ôm chặt lấy cành cây, mồ hôi nhễ nhại, vọng xuống: “Ôi khổ thân tôi...tổ sư cái cây...cao thế biết!”.


      Tiếng sủa của Dẻ Vàng càng lúc càng gấp, tôi với Yến Tử chưa kịp trèo lên cây, từ trong bụi rậm con gấu người khắp mình đen trũi xông ra, con gấu thấy có người, lập tức phấn khích đứng thẳng hai chân, gầm lên như sấm.


      Yến Tử theo cha săn trong núi nhiều năm, rất nhiều kinh nghiệm, chẳng nghĩ ngợi gì nhiều, ngay tức khắp giơ súng lên nhắm thẳng vào con gấu bắn luôn phát, chỉ nghe “đoàng” tiếng, tia lửa bắn toé ra, viên đạn trúng ngay bụng con gấu.


      Khoảng cách gần, vả lại vùng bụng gấu chính là chố mềm yếu nhất, phát súng vừa rồi khoét ngay bụng con ác thú cái lỗ lớn, máu tươi và phèo ruột đều xổ cả ra. Con gấu bị thương, tức giận vô cùng, liền lấy tay nhét đống phèo ruột vào trong bụng, điên cuồng lao về phía Yến Tử, súng săn của thể bắn liên tiếp, phía sau lại toàn cây cối gai góc muốn chạy cũng chạy đâu được, chỉ đành nhắm mắt chờ chết.


      Cứu người là hết, tôi chẳng đắn đo gì thêm, vội vàng giương súng ngắm vào đầu con gấu, nếu phát súng này mà trược coi như Yến Tử tong, nghĩ đến đây tay tôi hơi run rẩy, vội lập tức nghiến răng bóp cò, tiếng nổ “đùng” vang lên, lực giật của cây súng Ngạc Luân Xuân khiến tôi ngồi phịch xuống đất, suýt lộn mấy vòng, chẳng do lực sát thương đủ lớn hay tại tôi ngắm lệch, tuy viên đạn trúng đầu con gấu nhưng chỉ khiến nó mù mắt.


      Phát súng ấy tuy chí mạng, nhưng cứu được Yến Tử, con gấu bị chột mắt, khắp mặt máu me đầm đìa, hốc mắt hẵng còn lủng lẳng nửa con ngươi, con ác thú càng trở nên điên cuồng dữ tợn, bỏ mặc Yến Tử ở đó mà lao thẳng về phía tôi.


      Lúc này, Dẻ Vàng từ phía sau cắn mạnh vào chân con gấu, con gấu quay ngoắt lại định túm lấy Dẻ Vàng, nhưng con chó rất cảnh giác, thấy đối thủ xoay mình, liền chạy tít ra xa, nhe hàm răng nhọn hoắt lên thách thức với con gấu.


      Trong khoảnh khắc ấy, tôi với Yến Tử vội tranh thủ chục giây quý báu, mỗi người leo ngay lên cái cây.


      Gấu người bị thương , ruột lòi cả ra ngoài, máu chảy đầm đìa, lại mù mất mắt, ở trong rừng này ngay cả hổ cũng phải sợ nó vài phần, xưa nay bao giờ chịu thiệt đến thế đâu, muốn xông ra tóm con Dẻ Vàng, nhưng gấu chạy làm sao nhanh bằng chó săn được, muốn cắn xé chúng tôi, nhưng cả ba đều trèo lên cây hết cả. Nó đảo mấy vòng quanh gốc cây, tuy ôm bụng căm tức, song nhất thời cũng biết phải làm thế nào, bèn ngẩng đầu gầm lên như sấm, thanh chấn động cả núi rừng.


      Tôi sấp mình cây, thấy con gấu ở dưới bực bội đảo đảo lại, quên khuấy mất trong tình thế nguy hiểm, chỉ thấy nực cười, bèn vọng sang phía Tuyền béo: “Ê! Béo! Ông hai nhà cậu sao vẫn chưa thế? Cứ đảo như đảo trứng phía dưới làm gì? Cậu khuyên ông cậu , đừng có nghĩ quẩn nhé!”.


      Tuyền béo chẳng sợ gấu mà chủ yếu là sợ cao, theo thuật ngữ y học ngày nay tức là chứng sợ độ cao, thế nên cậu ta cứ nằm sấp ôm chặt lấy cành cây run rẩy, nhưng thấy tôi đá đểu, cũng chẳng chịu thua thiệt, liền chửi lại: “Hồ Bát Nhất! Cái đồ thất đức! Nhìn cho rồi hãy nhé! Dưới kia phải ông hai tôi đâu, mà hình như là vợ cậu hay sao ấy!”.


      Tôi cười lên ha hả, rồi chỉ tay vào con gấu bên dưới : “Ối! Nhìn nhầm rồi! Hoá ra là bà dì của cậu Béo, tớ chẳng muốn làm dượng cậu đâu nhé!”. Truyện "Ma Thổi Đèn "


      Tuyền béo tức khí định ngắt quả thông ném tôi, nhưng hai tay đều bận ôm khư khư lấy cành cây, sợ hễ rời tay ra là ngã xuống đất cho nên chẳng dám làm động tác gì mạnh, chỉ biết giương mắt lên lườm mà thôi.


      Tôi thấy bộ dạng Tuyền béo lại càng buồn cười, nhưng nụ cười ấy ngay lập tức cứng đờ, con gấu điên khùng bên dưới bắt đầu bất chấp tất cả, mực trèo lên cái cây tôi náu mình.


      Tuy con gấu nặng nề, nhưng rất khoẻ, lại bị thương, cái đau khiến nó hoàn toàn mất lý trí, trong mắt nó giờ đây chỉ còn có ba người chúng tôi và con chó, con mắt còn lại của nó trợn lên đỏ ngầu, những chiếc gai thịt bên bàn tay nó bấu chắc vào thân cây, cả cơ thể to lớn mà nhún cái lên được cả mét. Tôi chửi thầm trong bụng: “Tiên sư đứa nào bảo ông gấu chó biết trèo cây ấy nhỉ? Muốn chơi ông chắc!”.


      Xưa nay vào rừng, thợ săn già vẫn thường dặn dò đám người trẻ: Thà đánh mãnh hổ, chấp gấu điên. Bởi loài gấu bị thương mà phát khùng lên sức phá hoại và tàn bạo ai có thể tưởng tượng ra được. Tôi sợ đến tái mặt, nào còn bụng dạ bỡn cợt với Tuyền béo nữa, trong đầu chỉ rặt suy tính tìm kế thoát thân.


      Lúc bấy giờ Yến Tử liền nhắc tôi: “Mau...mau nhồi đạn! Bắn nốt con mắt còn lại của nó mau!”.


      Tôi lúc ấy mới sực nhớ ra cây súng săn đeo sau lưng, vừa mắng mình vô tích , vừa trèo thêm quãng nữa lên phía ngọn cây, cởi bỏ dây lưng, thắt vào cành cây to đủ chịu trọng lượng cơ thể mình, sau đó tay giữ chắc cây súng để giữ trọng tâm, tay còn lại nhồi cả nửa số thuốc đựng trong ống sừng trâu vào nòng súng.


      Con gấu trèo nhanh, cách tôi mỗi lúc gần, Yến Tử và Tuyền béo đều toát hết mồ hôi lạnh. Tôi gắng dồn chú ý vào việc nhồi thuốc,cố nghĩ đến con gấu hung dữ tiến lại gần mình nữa.


      Sau việc nhồi thuốc là công đoạn nạp đạn, phải dùng ống sắt nhồi chặt, tóc mai và lỗ mũi tôi ướt sũng mồ hôi, loại súng săn này quả rắc rối, để vỡ nòng tôi cũng toi đời luôn. Ở vùng rừng núi Đông Bắc này, có biết bao thợ săn vì có nổi lấy khẩu súng bắn nhanh mà để mất sinh mạng quý báu, lúc này giá mà tôi có khẩu súng trường bán tự động kiểu 56, dẫu dăm ba con nữa đến đây cũng chấp hết, bằng súng lục cũng vẫn được.


      Ngay sau khi tôi nạp đạn và thay xong mồi lửa, móng vuốt sắc nhọn của con ác thú cũng vập sát chân, tôi vội co chân lại, thuận thế xoay nòng súng chĩa xuống dưới, nhằm đúng đầu con gấu mà bóp cò. Lần này vì cho quá nhiều thuốc súng nên khói bay mịt mù, làm mặt tôi đen kịt.


      Đạn được nén trong lòng súng rồi bắn ra nhờ sức thuốc nổ, nhưng vì góc độ quá thấp nên bị lỏng, thể nào phát huy được hết uy lực vốn có của súng, vả lại do tôi bắn súng tay, phía sau có điểm tựa, nên cự ly gần thế mà cuối cùng vẫn bị lệch, bắn trúng đầu mà chỉ làm con gấu tét bên vai. Con gấu người gã tự độ cao mười mấy mét xuống đất đánh rầm cái, bên dưới toàn là lá khô cành mủn dày đến mấy tấc,cộng với con gấu cũng thuộc loại da dày thịt chắc, nên rơi từ cao xuống vẫn mảy may gì.


      Con gấu lại bò dậy, lần này nó trèo lên nữa, mà rú lên ầm ĩ huých mạnh tảng người vâm chắc vào thân cây như cỗ xe tăng hạng nặng, làm lá thông quả thông rơi xuống lả tả như mưa. Cũng may tôi gài cánh tay vào sợi dây lưng treo cành nên đến nỗi bị rơi xuống dưới, chỉ hơi lo cái cây đủ to chắc, bị con gấu huých thêm vài phát nữa chừng cũng bật rễ luôn, ngờ hôm nay lại phải chết trong chốn rừng thiêng nước độc này.


      Phút lâm chung cũng được mất thể diện, chí ít phải lấy lại chút chí khí lẫm liệt của người chiến sĩ cách mạng vì đại nghĩa quên mình, phải khiến cho Tuyền béo và Yến Tử thấy rằng họ Hồ ta đây phải là hạng tầm thường. Nghĩ đoạn tôi liền cao giọng gọi Yến Tử và Tuyền béo: “Xem chừng tớ phải gặp ông Các Mác rồi, xin lỗi các đồng đội, tớ trước bước đây, tớ đến đó giữ chỗ cho, hai người có lời nào muốn nhắn gửi tới những người thầy của chủ nghĩa cách mạng của chúng ta , tớ chuyển giúp!”


      Tuyền béo nằm cái cây cách tôi mười mấy mét, vọng lại: “Đồng chí Hồ Bát Nhất! Cậu cứ yên tâm lên đường,. nghiệp cách mạng có cậu cũng tốt lên, thiếu cậu cũng chẳng xấu , cậu cứ đến chỗ lão Mác học lý luận cách mạng cho tốt , nghe họ ăn toàn thịt bò sốt khoai tây đấy,có quen được ?"


      Tôi đáp lời: “Người làm cách mạng có bao giờ kén cá chọn canh? Này đồng chí Béo! Cỗ xe cách mạng còn chưa đổ các cậu vẫn phải tiếp tục đẩy về phía trước đấy nhé! Cờ đỏ tung bay dân cầm mác, tước quyền bá chủ quân gian ác, hai phần ba dân nghèo trong thiên hạ chờ các cậu giải phóng đấy, tớ ăn thịt bò sốt khoai tây đây!”


      Yến Tử khóc oà lên: “Giờ là lúc nào rồi mà các vẫn còn đùa được chứ? Mau nghĩ cách gì !”


      Đúng lúc chúng tôi bó tay hết cách, con gấu bỗng dưng huých cây nữa mà dừng lại, ngồi bệt xuống đất thở phì phò. Hoá ra do chảy quá nhiều máu, lại ngừng lồng lộn, nên tuy có sức mạnh ghê người, con gấu cũng đến lúc cùng kiệt, cơn điên cũng xẹp ít, nó ngồi dưới gốc cây, giở kế “rỗi chơi đợi nhọc”, chờ cho chúng tôi mệt lả mới tiếp tục ra tay.


      Dẻ Vàng cũng biết con gấu ghê gớm, nên dám bén mảng tới gần, chỉ ngồi chồm chỗm ở chỗ xa, nó hẳn cũng rất đói, nhưng bởi tuyệt đối trung thành với chủ nên quyết bỉ kiếm ăn mình. Yến Tử xót chó, huýt hồi sáo ra lệnh cho Dẻ Vàng tự kiếm ăn, nó mới lầm lũi bỏ .


      Ba người chúng tôi nằm cành cây cùng bàn bạc đối phó, nhưng nghĩ nghĩ lại thực chẳng còn cách nào nữa cả, giờ mà xuống dưới liều mình, với mấy khẩu súng kiểu cổ lỗ sĩ này khác nào tự tìm cái chết, người trong làng đều cả, nên chờ người đến cứu là điều thể. Để khỏi rơi xuống đất, mỗi người đành phải lấy thắt lưng trói chặt thân mình vào cành cây, rồi chờ xem ai lỳ hơn ai.


      Vậy là bế tắc,tình thế giằng co thế này rất bất lợi đối với ba người chúng tôi, phen sống mái kinh hồn bạt vía với con gấu vừa rồi cũng khiến sức lực chúng tôi gần như cạn kiệt, trời cũng sắp tối, cả ba hơn hai ngày đêm đều được chợp mắt, ban sáng cũng chỉ ăn có mấy miếng bánh lót dạ, giờ vừa đói vừa buồn ngủ, chỉ e chưa đến sáng sớm lả mà rớt xuống mất.


      Tình cảnh này khiến tôi nhớ đến câu thơ của Mao chủ tịch: “Địch kia vây bủa trùng trùng, ta đây đứng vững lung sờn”. Có điều trong núi chẳng hề có cờ lọng phấp phới, chỉ có mỗi con gấu người chồm hỗm chờ sẵn.


      nghĩ ngợi vẩn vơ, bất giác cơn buồn ngủ thiu thiu ập đến, tôi nằm úp cây rồi thiếp . Cũng chẳng biết ngủ được bao lâu, đến khi có cảm giác đói meo khó chịu, mình mẩy đau nhức, tôi mới tỉnh giấc, chỉ thấy trời sao giăng chi chít, trăng tựa móc câu, đêm chừng khuya. Khắp khu rừng yên lặng như tờ, tôi mượn ánh trăng quan sát, con gấu còn dưới gốc cây nữa, nó bỏ từ lúc nào cũng chẳng ai hay. Cây cối rậm rạp qúa, tôi nhìn Yến Tử và Tuyền béo còn ở cây , liền cất giọng gọi vang: “Yến Tử, Béo ơi! Hai người còn ở cây ?”


      Tôi gọi liên tục mấy lượt tiếng gọi vọng vang khắp núi rừng, nhưng mãi chẳng thấy người nào trả lời. Tôi tuy cũng bạo gan, nhưng thoáng nghĩ chỉ còn mình lạc lõng trong rừng sâu khỏi dựng tóc gáy, thầm nhủ hai tên kia chẳng ra gì, quên mất cả tôi, lúc cũng chẳng thèm gọi lấy tiếng.


      Tôi lại cố gọi thêm hai tiếng, vẫn thấy động tĩnh gì, liền lo lắng ngoảnh nhìn tứ phía, phát ra phía trước xa có ánh đèn lấp loá, ngờ nơi đây lại vẫn có người cư trú. Hai đứa kia hẳn cũng thấy ánh đèn nên chạy đến đó tìm người rồi?


      Đêm tối như mực chẳng thể phân biệt được đâu là Đông Tây Nam Bắc, chỉ nghe thấy tiếng nước chảy ầm ầm, tôi đành ngẩng đầu tìm sao Bắc Đẩu, ánh đèn có lẽ hắt ra từ phía núi Tim Trâu, tôi tuột xuống, khập khiễng về phía đó.


      Tôi bắt đầu tưởng tượng ra chủ nhân của ánh đèn ấy là ông thợ săn già có chòm râu bạc trắng, rất đỗi hiền từ lại nhiệt tình và mến khách, gặp thanh niên trí thức bị lạc trong rừng như tôi đây, ông nhất định nhiệt tình khoản đãi, mời uống trà nóng, rồi nướng đùi hươu cho ăn....càng nghĩ, bụng tôi càng đói cồn cào, phải lấy tay áo lau nước miếng đầm đìa nơi khoé miệng.


      Tôi vừa vừa nghĩ đến bữa ăn, phút chốc tới trước cửa hang khổng lồ, trong hang sâu ánh đèn rực rỡ, nhưng cũng lạ, vừa nãy còn thấy ánh đèn xa sao bây giờ lại ở sâu tít trong hang núi, lẽ nào tại tôi đói đâm hoa mắt chăng?


      Tôi bị chiếc đùi hươu thơm phức trong tưởng tượng dẫn dụ bước vào trong hang động, rảo chân tiến vào tận cùng cái hang vừa sâu vừa tối mò ấy, chợt phát ra gian trong lòng núi rộng lớn vô cùng, cảnh vật trước mắt bỗng sáng bừng choáng ngợp. Bỗng thấy phía trước có năm sáu trẻ măng cười cười sánh vai bước , giờ ràng là mùa hạ, nhưng bọn họ lại toàn mặc áo da cừu lộng lẫy, kiểu dáng cổ điển, giống kiểu cách ăn mặc thời nay, duy chỉ có người trong số đó mặc áo kaki màu lam đúng mùa, tóc tết hai bím, vai khoác chéo túi vải xanh bộ đội in chữ “Vì dân phục vụ”, ơ, chẳng phải chính là Điền Hiểu Manh đó sao?


      Đúng rồi, chính xác là Điền Hiểu Manh, này là thanh niên trí thức đến từ Tô Châu, còn tôi với Tuyền béo đều là dân Phúc kiến, tuy cùng là dân Miền Nam, nhưng thực ra cũng chẳng thân nhau mấy. Cái chính là vì tôi với Tuyền béo nghịch quá, lại toàn gây hoạ, thường đám con hiền lành chân chất chẳng có đứa nào dám gần bọn tôi cả.


      Nhưng gặp được người quen ở cái hang động kỳ quái này, ít nhiều cũng cảm thấy vững dạ. Tôi vội chạy lên, gọi : “Tiểu Điền! Sao lại ở đây? Có gì ăn được ?”.


      Hiểu Manh ngoảnh lại thấy tôi, liền vẫy tay gọi, tỏ ý bảo tôi đến gần hơn nữa. Tôi bước lại với : “Cậu ở đây vui chơi sướng nhỉ, bọn tôi vì cậu mà suýt nữa làm mồi cho gấu đấy. Mà đây là đâu vậy? Cậu có gì ăn ? Tôi đói móp cả bụng rồi đây này.”


      Hiểu Manh đáp: “ xin lỗi các cậu, đều tại mình tốt, mình vào khe Lạt Ma hái thuốc nhưng lại bị lạc đường, may gặp mấy chị tốt bụng đây giúp, lát nữa bọn họ còn diễn kịch bóng da nữa đấy, cậu đến đúng lúc lắm, mình ở lại cùng xem lát hẵng về.” đoạn liền giới thiệu với tôi mấy trẻ bên cạnh, những này đều giọng địa phương, ai nấy đều hết sức nhã nhặn, còn mời tôi ăn thịt hươu khô, rủ tôi cùng vào xem kịch nữa.


      Tôi theo mấy vào bên trong, chỉ thấy ngay giữa hang động rộng lớn là toà thành lầu gon gác tía, đèn đuốc sáng chưng, khắp nơi đồ cổ, châu báu chất cao như núi.


      Trước cổng thành chăng tấm vải trắng lớn, phía sau là mười mấy vị nhạc sư khua chiêng gõ trống, phía trước đặt chiếc bàn dài kiểu cổ, bàn là ấm nước chén trà, thứ nào thứ nấy đều rất tinh xảo, ngoài ra còn chiếc mâm mã não màu đỏ đựng đầy hoa quả và các món điểm tâm nữa.


      Trước bàn có đặt ba chiếc ghế, mấy mặc áo lông vừa nãy lần lượt mời tôi và Hiểu Manh ngồi vào hai ghế trái phải, còn ghế giữa để trống, dường như còn đợi môt nhân vật quan trọng khác nữa đến.


      Điền Hiểu Manh thấy chỉ có ba ghế, những người còn lại đều đứng hết ở phía sau, cảm thấy có chút phải, cứ lần lữa từ chối. Tôi vừa mệt vừa đói, cũng chẳng muốn khách sáo làm gì, dù sao sông núi của dân dân làm chủ, có chỗ ngồi như vậy, ai ngồi mà chẳng như nhau, vậy là tôi cứ nghênh ngang ngồi xuống, bốc lấy thức ăn trước mặt xơi luôn.


      Nhưng chắc vì đói quá, nên đồ ăn làm rất kỳ công, mà tôi lại thấy thếch chẳng mùi chẳng vị, cứ như nhai phải sáp nến, ăn được mấy miếng, càng nghĩ càng thấy quái lạ.


      Lúc bấy giờ có hai thiếu nữ dìu bà cụ lọm khọm tóc trắng như cước toát lên vẻ cao sang quý phái từ trong cửa lớn bước ra, tiến lại ghế giữa.


      Tôi và Điền Hiểu Manh đều đứng dậy cúi chào chủ nhân, nom bộ dạng bà ta, tôi càng thấy quái dị, giờ thời đại nào rồi mà vẫn còn loại quý bà như vầy chứ?


      Bà già gật đầu chào lại chúng tôi, rồi ngồi xuống ghế, chẳng chẳng rằng chăm chú đợi xem kịch.


      trẻ đứng chầu bên cạnh vỗ tay cái, các nghệ nhân, nhạc sư của gánh hát nghe thấy hiệu lệnh liền ra sức biểu diễn. Kịch bóng da khơi nguồn từ thời Hán Đường, còn có tên “kịch bóng đèn”, là loại nghệ thuật diễn xúât rất được dân chúng chuộng, người ta dùng da lừa hoặc bìa giấy cắt thành các nhân vật, động vật trong truyện, các nghệ nhân vừa điều khiển, vừa diễn xướng và khua chiêng gõ trống phía sau màn trắng, đến ngày nay, có tới hàng trăm tiết mục khác nhau.


      Có điều trong thời kỳ Cách mạng Văn hoá loại hình nghệ thuật này cũng tránh khỏi oan khiên, người ta phê phán thứ kịch này toàn tuyên truyền tán tụng vớ vẩn về những tài tử giai nhân, đế vương khanh tướng, là thứ cỏ rác độc hại, nên nào còn ai dám diễn nữa. Tôi có nằm mơ cũng thể ngờ rằng mình lại được xem thứ này ở đây, trong cái thời buổi đời sống văn hoá là con số này, kịch rối quả thực là hấp dẫn, tôi cứ mải xem kịch mà quên bẵng mọi việc khác.


      Các tiết mục đều vô cùng đặc sắc, đầu tiên là vở “Thái tông mộng du cung Quảng Hàn”, rồi đến “Địch Thanh đêm chiếm ải Côn Luân”.


      màn ánh dao bóng kiếm, binh tướng tới lui, sắc màu sặc sỡ, lại cộng thêm tiếng trống kèn cổ động, khiến người xem vỗ tay ngớt. Tôi xem đến nỗi đầu óc quay cuồng, mồm miệng khô khốc, bèn với tay vớ chén trà bàn uống lấy ngụm, bất chợt liếc nhìn bà già ngồi bên,chỉ thấy bà ta cũng cười híp cả mắt lại, vừa xem vừa lấy đồ ăn bàn bỏ vào mồm, chỉ có điều bộ dạng nhai thức ăn của bà ta quá ư cổ quái, hai má cứ phồng lên như con vượn già, rệu rạo từng miếng từng miếng .


      Bà nội tôi về già cũng còn răng, nhưng chẳng bao giờ bà ăn kiểu như vậy, bà già này là người hay là khỉ đây? Trong lúc hoang mang, tách trà trong tay tôi bỗng dưng rơi xuống đất vỡ tan tành, cái tách rơi vỡ cũng chẳng có gì ghê gớm, kinh hơn nữa là cái đầu của bà già cũng rơi ngay xuống theo, hai con mắt vẫn nhìn chăm chăm lên sân khấu, miệng vẫn nhai tóp tép thôi.


      Mấy thị nữ vội vã chạy lại cung kính bưng chiếc đầu lên, lắp lại lên mình bà ta.


      Tôi vô cùng sợ hãi, vội kéo Điền Hiểu Manh chạy ra ngoài cửa động, lọ mọ trong bóng đêm tối mịt, chúng tôi lảo đảo lao ra cửa hang, bên tai ầm ầm những tiếng long trời lở đất, dưới chân rung chuyển dữ dội, hang động đằng sau khép lại thành bức tường đá khổng lồ, chỉ muộn độ nửa phút, hai chúng tôi chắc hẳn bị kẹp chết trong vách núi ấy rồi.


      Bên ngoài sắc trời sáng, tôi dắt Điền Hiểu Manh chạy tới bờ suối ở chân núi, bỗng nhiên bụng đau quặn lên, mồ hôi vã ra đầy trán, phải ngồi xuống ôm bụng. Tôi nhớ nội tôi từng kể rằng bọn ma quỷ thường biến đá, sỏi, giun, cóc thành sơn hào hải vị rồi lừa người ta ăn, biết vừa nãy tôi ăn phải cái quái quỷ gì, càng nghĩ lại càng muốn oẹ cuối cùng nhịn nổi nữa liền nôn thốc nôn tháo.


      Trong cơn vật vã, tôi vẫn thấy thấp thoáng có hai người từ xa bước lại, người con phía trước trông hơi quen, ra là Yến Tử, thấy đến tôi mới thực yên tâm, trước mắt tôi tối sầm lại, cứ thế lịm .


      Tôi tỉnh dậy là chuyện của ba ngày sau rồi, hôm ấy Yến Tử và Tuyền béo vẫn nằm cây đợi đến khi trời sáng, còn con gấu người dưới gốc cây vì mất quá nhiều máu nên cũng chết. Có điều tìm khắp nơi mà cũng thấy tung tích của tôi, cuối cùng ngờ lại gặp tôi và Điền Hiểu Manh bên bờ suối.


      Ba ngày nay tôi vẫn hôn mê bất tỉnh, sốt cao hơn bốn mươi độ, Tuyền béo phải chạy cả trăm dặm đường núi mới mời được bác sĩ huyện khám cho. Cũng may tôi có sức khoẻ tốt nên cuối cùng cũng tỉnh lại được, nhưng Điền Hiểu Manh từ đầu chí cuối vẫn ngây ngô vô thức, đành thông báo cho gia đình đưa về điêù trị, về sau thế nào, chúng tôi chẳng ai biết .


      Tôi kể lại mọi chuyện cho bố Yên Tử, ông bảo vùng này có truyền thuyết, kể rằng sau khi bà Thái Hậu chết chôn sống theo rất nhiều nghệ nhân và gánh hát dân gian,ngày xưa cũng có số người đến núi Tim Trâu và gặp những việc tương tự như chúng tôi gặp.


      Song trong ký ức của tôi những việc vừa rồi đều rất mơ hồ,có lúc bản thân tôi cũng chẳng dám chắc việc ấy có thực có xảy ra nữa.


      Tôi chỉ làm thanh niên trí thức có hơn nửa năm, nhưng những kỷ niệm còn đó suốt đời bao giờ phai nhạt, mùa xuân năm 1969 đến lượt tôi về nhà thăm gia đình, cuộc đời tôi bắt đầu thay đổi từ đó

    5. Skye

      Skye Well-Known Member

      Bài viết:
      698
      Được thích:
      5,624
      Q.1 - Chương 4: Dòng Côn Luân băng





      Mùa xuân năm ấy, các nhà lãnh đạo Trung Quốc chấp nhận uy hiếp nghiêm trọng đến từ các thế lực thù địch quốc tế, liền ngừng tiến hành điều chỉnh lại toàn bộ chiến lực quân như mở rộng quân đội, chuẩn bị tác chiến, đào hầm, trữ lương, đồng thời huy động nhân dân tích cực tham gia các cuộc diễn tập phòng , chống chiến tranh hạt nhân, và chiến tranh hoá học. Truyện "Ma Thổi Đèn "


      Đợt về thăm nhà, có người báo cho tôi tin nội bộ, rằng vấn đề của gia đình tôi nhanh chóng được các ban ngành cấp làm sáng tỏ, chứng minh ông nội tôi phải địa chủ mà chỉ là thành phần trung nông, như vậy việc thả bố mẹ tôi xem ra chỉ là chuyện sớm chiều. Lúc bấy giờ quân Giải phóng trưng binh ồ ạt, ông bạn chiến đấu cũ của bố cho tôi nhập ngũ theo kiểu “lính chạy cửa sau”.


      Chú Trần, đồng đội cũ của bố tôi, là tham mưu trưởng của phân khu quân đội. Năm xưa binh đoàn số 9 tham chiến ở Triều Tiên, cao nguyên Cái Mã băng tuyết phủ dày, mười mấy vạn quân tình nguyện bao vây sư đoàn hải quân lục chiến số tinh nhuệ nhất quân đội Mỹ. quân Mỹ thả xuống chiến trường lượng lớn bom lân tinh, bom na pan, biến bầu trời đêm thành sáng rực như ban ngày. Bất chấp tấm bình phong hoả lực xây bởi làn mưa bom bão đạn của quân đội Mỹ, quân tình nguyện vẫn phát động những đợt tấn công như vũ bão, hết trận này đến trận khác.


      Trong cuộc chiến khốc liệt ấy, bố tôi chẳng quản cái lạnh hơn hai mươi độ, lao vào đống binh sĩ thiệt mạng cõng chú Trần bị thương nặng chạy ra, đến khi tới trung tâm cứu hộ, cơ thể của hai người bị dính chặt bởi máu và nước đông cứng, y tá phải dùng kéo cắt vào da thịt hai người mới tách họ ra được. Tình nghĩa của hai người họ chẳng thể chỉ dùng bốn chữ em sinh tử mà so sánh được, vả lại vấn đề của bố mẹ tôi cũng sắp được giải quyết ổn thoả, nên giờ có sắp xếp cho tôi vào quân ngũ đối với tham mưu trưởng của phân khu kể ra cũng chẳng khó gì.


      Chú Trần hỏi tôi muốn làm lính gì, tôi bảo muốn làm quân, nghe phi công có chế độ ăn uống tốt. Chú cười gõ vào đầu tôi: “Lái máy bay đâu có dễ thế! Mày vào đội quân dã chiến cho chú, rèn luyện tử tế vài năm, rồi chú điều mày vào làm trong cơ quan phân khu.” Tôi nghe thấy phải làm việc trong cơ quan bảo thôi, thà cứ ở bộ đội cơ sở còn hơn, chứ ngồi trong văn phòng tôi chẳng quen được.


      Tôi cứ định quay lại trại Cương Cương chào tạm biệt Tuyền béo với Yến Tử, nhưng vì thời gian cho phép, đành phải viết cho hai người họ bức thư vậy, trong lòng vẫn cảm thấy áy náy yên, mình nhập ngũ làm bộ đội, bỏ mặc bạn tốt lao động nơi núi rừng hẻo lánh, thế nào cũng vẫn có cảm giác thể cùng chung hoạn nạn với bạn bè. Có điều cảm giác ấy chỉ ba tháng sau là bay biến, khi ấy tôi mới biết quãng thời gian làm thanh niên trí thức ở Nội Mông mới dễ chịu biết bao!


      Tôi được ban trưng binh biên vào sư đoàn sắp chuyển thành bộ đội thiết giáp, chẳng ngờ ma xui quỷ khiến thế nào, vừa mới tới trại huấn luyện tân binh chịu khổ được ba tháng, Quân uỷ Trung ương lại hạ lệnh điều đơn vị chúng tôi tới binh trạm đạo 62 ở dãy Côn Luân cao nguyên Thanh Tạng, cả sư đoàn đều đổi thành bộ đội công trình.


      Thực ra việc này cũng có gì lạ, tình hình lúc bấy giờ, bộ đội cả nước đều phải đào hầm, xây dựng những kiến trúc phòng kháng hạ tầng như hầm phòng , hầm chứa đạn dược, hầm che chiến lược, vân vân, toàn quân hầu như có người lính nào đào hầm cả, chỉ khác ở chỗ: đơn vị của tôi chuyển từ đào hầm nghiệp dư thành đào hầm chuyên nghiệp. Nhiệm vụ của chúng tôi thuộc loại cơ mật cấp I, xây dựng căn cứ khổng lồ ở tận sâu trong lòng núi Côn Luân, tuy ai thông báo cho các chiến sĩ về mục đích sử dụng của căn cứ này, nhưng những người có đầu óc chút chắc đều có thể đoán ra được cả. Trong quân đội có những điều lệ bảo mật, nên mọi người ngày thường bao giờ đả động đến chuyện này. Cũng có lời đồn rằng hoàn thành nhiệm vụ này xong, chúng tôi lại được biên trở về làm quân dã chiến.


      Núi Côn Luân hay còn gọi là Côn Luân Ô Khẩu, cao 4767 mét so với mực nước biển, theo cách của địa chất học núi này thuộc loại “địa mao hoang mạc băng tích nhiều năm”, tạo nên bởi các lớp nham tầng chuyển hoá từ những hợp chất phân huỷ từ thời cổ đại. Sư đoàn chúng tôi từ xuống dưới, ngoài biết đào chiến hào ra, chẳng có kiến thức gì về việc thi công các công trình xây dựng, vậy nên quân đội đặc phái rất nhiều kỹ sư, kỹ thuật viên đến làm công tác chỉ đạo hướng dẫn, đồng thời tiến hành bồi dưỡng cấp tốc cho các cán bộ chỉ huy và chiến sĩ trong vòng năm tháng. Phân đội của tôi được giao phó phái tiểu đội tiên phong xuống phía Nam, vượt qua “Bất Đông Tuyền” ( suối đóng băng) rồi tiến vào tận trong dãy núi Côn Luân rộng lớn, nhiệm vụ của chúng tôi là phải tìm địa điểm mật thích hợp cho việc xây dựng công trình.


      “Bất Đông Tuyền” nằm ở bờ phía Bắc Sông Côn Luân, còn gọi là suối Côn Luân, những tấm đá hoa cương quây thành vách, nước suối trong vắt ngừng tuôn trào hàng vạn năm nay, dù là mùa đông băng giá vẫn hề đóng băng, cũng ai biết suối này bắt nguồn từ đâu cả. Cấp có lệnh cấm cho binh lính được tắm rửa ở đây, bởi dân Tạng bản địa coi con suối này là suối thần, thường xuyên bái lạy.


      Hồi trước khi Tây Tạng vừa giải phóng, đại quân từng ngang qua đây, khi ấy vẫn chưa có quy định gì hết, có ba chiến sĩ tự xuống suối tắm, nhưng đều chết đuối cả, nguyên nhân cái chết nghe là do trong nước có lượng diêm tiêu và lưu huỳnh rất lớn, mộ của ba chiến sĩ ấy ở binh trạm cách đây xa, trạm tiếp tế cuối cùng của chúng tôi cũng được đặt ở chỗ ấy.


      Cuối cùng chúng tôi cũng tiến vào dãy Côn Luân, dường như mọi người đều xuất phản ứng cao nguyên nghiêm trọng. Mặt người nào người nấy đều tím bầm lại, mắt mũi tối sầm, đầu óc dường như sản sinh ảo giác. Dãy Côn Luân sừng sững muôn núi ngàn khe, tựa những con rồng khổng lồ xám bạc cuồn cuộn phóng mình về phía trước, tiểu đội chục người của chúng tôi trông chẳng khác gì mống kiến xíu lạc lõng giữa mạch núi hùng vĩ vô biên này.


      đường hành quân, tôi chợt nhớ tới cuốn sách cũ ông nội để lại, trong sách có ghi năm ngàn ngọn núi ở Côn Luân là long mạch tổ của toàn thiên hạ, những mạch núi này từ thời thái cổ đến nay vùi náu vô số bí mật bên trong,tương truyền lăng tháp của vị vua hùng Kasar và cánh cửa lớn thông với Ma quốc trong thần thoại Tây Tạng đều ở cả trong dãy núi hùng vĩ này.


      Nhiệm vụ của đội tiên phong là phải tìm được địa điểm thi công thích hợp, ngoài đám lính chúng tôi còn có hai kiến trúc sư, kỹ sư đo vẽ và kỹ sư thăm dò địa chất, sau khi để xe lại, chúng tôi bộ trong núi được chẵn hai ngày, buổi chiều hôm thứ hai khi mọi người dựng lều lán nghỉ ngơi, bầu trời dày đặc những áng mây chì, thi thoảng lại có vài bông hoa tuyết lất phất, xem chừng đến tối thế nào cũng đổ trận tuyết lớn.


      Bốn kỹ sư đều là loại trí thức đeo kính, còn có người là nữ nữa, họ thích ứng được với môi trường khắc nghiệt cao nguyên, vừa đặt lưng xuống lều thở hổn hà hổn hển, nghe tiếng thở ấy mọi người đều lấy làm lo lắng thay cho thân thể còm cõi của họ. Truyện "Ma Thổi Đèn "


      Chính trị viên dẫn đội, tiểu đội trưởng và nhân viên y tế vội pha thuốc hạ sốt cho họ uống, khuyên họ nên ăn chút, vì càng ăn càng thấy thiếu ô xy.


      em lính tráng đều thân thể cường tráng, khi nhập ngũ đều phải rèn luyện mỗi ngày chạy việt dã năm cây số ở trường huấn luyện tân binh, nên khả năng thích ứng với môi trường rất mạnh, lúc này về cơ bản ai nấy đều dần thích ứng với môi trường thiếu dưỡng khí nảy rồi. Mọi người dùng antraxit đặc chế đốt lửa trại, ngồi quây quanh đống lửa sưởi ấm, sau đó ăn mì nửa sống nửa chín với lương khô, vùng này quá cao, nước đun thể sôi, nên mì cũng chỉ có thể nấu chín được nửa.


      Mấy chiến hữu tôi chơi tương đối thân có “ Đô” người vùng Đông Bắc Hắc Long Giang, Cả Oa người Tây Tạng và cậu giao liên Tiểu Lâm người Cát Lâm mới mười sáu tuổi. Mấy người chúng tôi sùm sụp vài ba miếng là hết tô mì, sau đó khề khà mấy hơi rồi nghỉ, cảm giác ăn bữa cao nguyên còn tốn sức hơn hành quân việt dã dưới đồng bằng nhiều.


      Tiểu Lâm nghĩ lúc rồi bảo tôi: “ Nhất! nhập ngũ ở thành phố, hiểu rộng biết nhiều, kể chuyện gì cho bọn tui nghe chớ!” Đô cũng hùa theo: “Trời ơi, tui thấy thằng cha Nhất nó kín tiếng quá trời quá đất à, lát nữa còn phải họp tiểu đội, đằng nào cũng được nghỉ sớm, thôi cứ kể chuyện cho em nghe mừ!”.


      Cả Oa tiếng phổ thông được sõi, nhưng nghe hiểu được, cậu ta cũng muốn gì đí, mấp máy hồi rồi cứ ngây ra chẳng nhớ định gì, đành chỉ thẳng vào tôi rồi trỏ trỏ, tôi đoán chàng đại khái bảo tôi kể , cậu ta cũng muốn nghe.


      Tôi bèn le lưỡi đáp: “ khí loãng thế này mà mọi người vẫn có hứng được cơ à? Được rồi, các đồng chí muốn nghe, tôi đành tán gẫu đoạn vậy, lát nữa họp mà tiểu đội trưởng gây khó dễ cho tôi mọi người phải đỡ cho đấy nhé!”.


      Tại sao tôi lại vậy, bởi vì tay tiểu đội trưởng này thường ngày cứ ngứa mắt với tôi, nhập ngũ dưới quê, phục dịch như nàng dâu hầu nhà chồng trong quân đội năm năm mới lên được chức tiểu đội trưởng tép riu, nên đặc biệt khó chịu với loại “lính chạy cửa sau” con em cán bộ cấp cao như tôi. Mỗi lần họp tiểu đội là bắt tôi phát biểu đầu tiên, rồi cứ nhắm những chỗ sơ hở của tôi để phê bình chỉ trích, chuyện này dường như thành quy luật, làm tôi tức điên cả người lên, chẳng muốn nhắc lại nữa.


      Nhưng giờ kể chuyện gì mới được nhỉ? Số sách tôi đọc cộng lại chưa đến mười cuốn, trong đó Tuyển tập Mao chủ tịch bốn cuốn, Những lời bác Mao dạy cuốn, tự điển cuốn, rồi Mặt trời đỏ cũng coi là cuốn, Quân cận vệ thanh niên tính là cuốn nữa. Nhưng mấy quyển đó tôi kể hết cả rồi, còn có cuốn Bí thuật phong thủy nữa,có điều tôi nghĩ họ có nghe cũng chẳng hiểu.


      Tôi vắt óc nghĩ, cuối cùng nghĩ ra cuốn sách tôi mượn của Điền Hiểu Manh hồi còn tham gia lao động ở Nội Mông, đó là cuốn sổ chép tay ghi lại những truyền thuyết dân gian, nội dung chủ yếu kể về tổ chức và hoạt động của Đảng Hoa Mai(1), ngoài ra còn có ít những câu chuyện kì quái hồi bấy giờ, trong đó câu chuyện trăm bộ da mỹ nhân để lại cho tôi ấn tượng sâu sắc.


      Câu chuyện xảy ra chuyến tàu từ Bắc Kinh về Nam Kinh, sinh viên Triệu Bình Bình bắt chuyến tàu này về Nam Kinh thăm nhà, người khách ngồi đối diện với sĩ quan quân Giải phóng khôi ngô tuấn tú, chẳng biết vô tình hay hữu ý, hai người bắt chuyện với nhau. Triệu Bình Bình bị phong độ ngời ngời và cách chuyện hết sức có duyên của chàng sĩ quan trẻ hút mất hồn, qua câu chuyện, biết hoàn cảnh gia đình sĩ quan rất tốt, lại được học hành cẩn thận. Triệu Bình Bình thậm chí còn mơ tưởng mình được gả cho đối phương nữa. Chẳng mấy chốc, đoàn tàu tới ga Nam Kinh, sĩ quan mời Triệu Bình Bình tới quán ăn gần ga ngồi trò chuyện, trong bữa ăn ta chạy gọi điện lát,quay lại liền đưa cho bức thư nhờ gửi về nhà. Nghe ta có nhiệm vụ khẩn cấp phải gấp về đơn vị, thể về nhà luôn được, Triệu Bình Bình liền nhận lời ngay chút do dự, hai người quyến luyến nhau mãi rồi mới chia tay.


      Ngày hôm sau, Triệu Bình Bình đưa thư tới nhà sĩ quan, đón tiếp bà già, bà mở thư ra đọc, rồi nhiệt tình mời Bình vào nhà ngồi chơi uống nước. Triệu Bình Bình uống vài ngụm trà, chuyện với bà già mấy câu, đột nhiên cảm thấy hoa mắt choáng váng, ngã lăn ra đất.


      xô nước lạnh thấu xương dội thẳng vào người khiến Bình Bình bừng tỉnh, phát mình bị lột trần, trói chiếc ghế băng, bốn bức tường xung quanh treo đầy da người. Mấy người đứng vây xung quanh là mụ già ban nãy và mấy tên đàn em vạm vỡ. Mụ lấy bức thư ra giơ trước mặt Triệu Bình Bình cho xem, trong thư chỉ viết câu duy nhất: “ đưa đến tấm da mỹ nhân thứ trăm, xin kiểm tra lại”. Mụ già cười lạnh lùng, : “Mày chết đến nơi rồi, để tao cho mày được chết minh bạch, bọn tao là đội đặc vụ bí mật, lột lấy da bọn con chúng mày là để nhét thuốc nổ vào, tất cả trăm bộ da người cuối cùng cũng đủ số rồi.” đoạn liền rút ra con dao nạo sáng loáng đưa cho tên đàn em, dao nạo là loại dao đặc chế, chuyên dùng để lột da, gã to con kia đưa con dao cắt xuống đầu Triệu Bình Bình trong tiếng kêu gào thảm thiết của


      Tôi kể lên hứng, bị tiểu đội trưởng chạy lại ngắt lời: “Đừng kể nửa! Đừng kể nửa! Hồ Bạt Nhật! Đồng chí bịa chuyện vợ vẩn gì thệ. Mọi người họp giờ đây! Đồng chị thịch lặm mồm lạt tui cho đồng chí phạt biệu trược, được phỏng!”.


      Tôi vội đứng nghiêm, bắt trước giọng của tiểu đội trưởng trả lời: “ được! được! Sao lại là tui nọi trược? Nếu có nọi, cũng phải đến lượt tay Cạ Oa, mọi người đều bình đẳng mợi là nguyên tặc xả hội chủ nghỉa chự!”


      Tiểu đội trưởng lại : “Đồng chí Nhật! Sao đồng chí lại nọi năng như vậy? Tui đề nghị đồng chị được bặt chược cạch tui nọi. Tui là tiểu đội trưởng, tui bảo đồng chị phạt biểu đồng chị phải phạt biểu chự, cọ chủ nghỉa bình quân tuyệt đội gì hệt!”


      Tôi nhìn đám đồng đội ngồi quanh, ai cũng đều ra vẻ rất nghiêm túc đợi nghe tôi phát biểu, Cả Oa nhân lúc tiểu đội trưởng chú ý, còn lè lưỡi trêu tôi nữa. Mấy ông tướng này chẳng trượng nghĩa gì cả. Giờ chỉ còn cách tự cứu lấy mình mà thôi: “Báo cáo tiểu đội trưởng!


      Hôm nay chúng ta thảo luận về vấn đề gì vậy? Đồng chí còn chưa nêu , đồng chí bảo tôi phát biểu thế nào?”


      Lúc bấy giờ, chính trị viên bước lại, chính trị viên Lý Kiện, năm nay ngoài ba mươi tuổi, thân hình trung đẳng, con người nho nhã, cũng là người lính lão luyện nhiều năm, đối đãi với em binh lính rất tốt, làm bộ làm tịch bao giờ, với mọi người: “Các đồng chí họp à? Tôi đến dự thính lúc!”.


      Tiểu đội trưởng vội chạy đến chào chính trị viên, chỉ huơ huơ tay tỏ ý mọi người cứ tiếp tục, đừng vì mình mà ảnh hưởng đến cuộc họp.


      Trình độ của thằng cha tiểu đội trưởng này thực ra rất kém, thấy có chính trị viên ngồi bên cạnh liền trở nên căng thẳng, chẳng biết phải gì, có lẽ nghĩ có lẽ hát bài tương đối đơn giản, liền bảo với mọi người: “Cạc đồng chí! Chụng ta cùng hạt bài ca Cạch Mạng để cổ vủ ỵ chị nào! Cạc đồng chị thậy cọ được ?”


      Đám chiến sĩ chúng tôi liền đồng thanh trả lời: “Được!”. Chính trị viên ngồi bên cạnh suýt nữa sặc cười, vội giả vờ ho để che giấu.


      Tiểu đội trưởng thấy có gì buồn cười cả, nghiêm mặt giơ hai tay lên làm động tác chỉ huy dàn nhạc: “Cạc đồng chị! Tui mào trược, nào…Nụi Nhị Lang…hai …ba!”


      “Núi Nhị Lang à núi Nhị Lang, trập trùng muôn trượng vẫn ca vang. Ơi quân giải phóng mình gang thép, xông pha khí thế ngang tàng. Mặc gió táp tuyết giăng muôn lối, xây đường lên Tây Tạng thênh thang!”


      Tuyết rơi ngày lớn, tiếng đồng ca của mười mấy chiến sĩ vang vọng trong những áng tuyết rãi đầy trời đất Côn Luân, cũng chẳng biết là những bông tuyết ngập trời, những dãy núi bạt ngàn dội vang tiếng quân ca hào sảng, hay là tiếng quân ca điểm xuyết cho vẻ thê lương tịch mịch của dãy Côn Luân, nhất thời cả những kỹ sư công trình nằm trong lều trại cũng đều bị lôi cuốn bởi tiếng hát vang trời này, họ quên hết cả phản ứng cao nguyên, dõi mắt nhìn theo những dãy núi trải dài tít tắp trong tiếng quân ca, sóng lòng dồn dập vỗ về…


      Chú thích: (1) Đảng Hoa Mai: trong những đảng phái chống phá Đảng Cộng Sản Trung Quốc trong thời kỳ cách mạng Văn hóa. Cuốn sách tác giả kể quả thực được phát tán và lưu truyền trong xã hội bấy giờ

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :