Ma câm: Ma Khóc dưới Hồ Tiên Đôn - Thiên Hạ Bá Xướng

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

      Ma câm: Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn
      [​IMG]
      Tác giả : Thiên Hạ Bá Xướng
      Dịch giả: Trần Hữu Nùng
      Kích thước: 14 x 20.5 cm
      Số trang: 628
      Ngày xuất bản: 01/12/2013
      Giá bìa: 120.000 ₫
      Công ty phát hành: Tân Việt
      Nhà xuất bản: NXB Văn Học
      Chụp pic: Dư Tĩnh
      Type
      haphung: 1-5
      Mạc Thiên Y: 6-10
      pcy1127: 11
      silverysnow: 12-15
      blues999: 16-hết


      Giới thiệu


      “Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn” là tập đầu tiên trong series “Ma câm” của tác giả Thiên Hạ Bá Xướng, đây là tác phẩm mới nhất được ấp ủ trong suốt 5 năm kể từ sau ra đời của tác phẩm bán chạy - “Ma thổi đèn”. Với “Ma câm”, tác giả khởi động lại mật mã trộm mộ, mở ra những cuộc phiêu lưu mạo hiểm giống như truyền kỳ về những trải nghiệm quái dị gắn liền với nền văn hóa cổ xưa và thần bí của Trung Quốc - văn hóa Na giáo. Ma Câm đưa bạn xuyên qua mọi ngóc ngách thần bí nhất của mảnh đất Hoa Hạ rộng lớn, để kiếm tìm hư thực ảo diệu phía sau truyền thuyết xa xưa. Sức tưởng tượng mới mẻ, ly kỳ cộng với đề tài độc đáo của tác phẩm khiến đạo diễn Trần Gia Thượng (đạo diễn “Họa bì”) chọn làm tư liệu quan trọng để xây dựng nên kịch bản cho tác phẩm điện ảnh “Ma thổi đèn 3D”.

      Câu chuyện kể về hai cuộc hành trình trộm mộ đầy ly kỳ của nhân vật tôi và các bạn. Ở chuyến phiêu lưu đầu tiên, nhân vật tôi và bạn Sách Ni Nhi dấn thân tìm ngôi mộ cổ của nữ thần Saman thời Liêu. Với lần đầu tiên hoàn toàn lạ lẫm ấy, họ bị những bí , những cơ quan đầy nguy hiểm cài đặt trong mộ cổ làm cho kinh hoàng bạt vía, những lấy được bảo vật mà còn suýt phải trả giá bằng tính mạng. Trước khi rút chạy, nhân vật tôi chẳng may vấp chân ngã vào thi thể nữ thần Sa man và chạm đầu vào chiếc gối của nàng, kể từ đó tôi bị cơn ác mộng dằn vặt từng đêm. Nhân vật tôi mơ lại cơn ác mộng từng dày vò nữ thần đến chết của hàng ngàn năm trước.

      Để tìm ra số của giấc mơ hãi hùng và quái dị, tôi cùng người họ Điếu bát, bạn đồng hành Mặt dày và giảng viên trường họa Điền Mộ Thanh dấn thân vào cuộc phiêu lưu thứ hai. Tại đây, họ phải đối mặt với những loài động vật giết người trong chớp mắt, đối mặt với những cương thi sống dậy từ thời cổ đại, đối mặt với lễ giáo thần bí cổ xưa và hơn hết họ phải đối mặt với sinh vật kỳ dị có khả năng làm gian biến mất… Cuộc phiêu lưu tìm câu trả lời đầy nguy hiểm và cái giá phải trả cho đáp số chính là tính mạng của chính mình.

      Xen giữa hai cuộc phiêu lưu của nhân vật tôi là cuộc phiêu lưu tìm những di chỉ xưa đầy mạo hiểm và đáng sợ của các bậc tiền bối qua lời kể của nhân vật tôi. Cái kết bi thảm của chuyến phiêu lưu này như lời cảnh báo để ngăn các bậc hậu bối dừng bước, nhưng bức bách của số phận khiến bốn người bạn đồng hành thể sa chân vào vòng tròn sinh tử lối thoát
      *
      Có người hỏi tôi: “Tại sao có nhiều người thích đọc truyện về đào trộm mộ như vậy?”, lại có người giải thích: “Truyện đào mộ trộm đảm bảo đáp ứng được như cầu tâm lý làm giàu qua đêm của đại đa số người đọc.” Nhưng chỉ nhăm nhăm vào việc phất lên sau đêm tại sao xem những bộ phim hành động cướp ngân hàng của Mỹ?

      Thực ra, thuyết phong thủy và văn hóa lăng tẩm tồn tại hàng nghìn năm ở Trung Quốc. Tự cổ chí kim, việc hậu táng trở thành phong tục, tượng đạo mộ cũng theo đó xuất . Đào trộm mộ cổ cũng hoàn toàn vì phát tài, mà đôi khi còn vì mục đích báo thù, vì ham sắc, vì muốn tìm lại những công thức bí mật bị thất truyền. chung, động cơ khiến người ta đào trộm mộ và thủ đoạn trộm mộ muôn hình vạn trạng, vì trong đó tiềm văn hóa cổ đại Trung hoa, đồng thời, từ đó lại sinh ra vô vàn những giai thoại khác nhau truyền vào dân gian. Cứ nhắc tới chuyện đào trộm mộ thể nhắc tới những nội dung này, mỗi lối vào ngôi mộ cổ đều giống như cánh cửa lớn thông với thế giới cổ đại, chúng ta như sờ thấy lịch sử, giải mã văn hóa truyền thống, tìm lại những quá khứ bị biến mất, tôi thiết nghĩ những điều này còn có giá trị hơn việc trộm bảo vật làm giàu

      – Trích lời Thiên Hạ Bá Xướng.

      Vì sao truyện trôm mộ của Thiên Hạ Bá Xướng hấp dẫn đến vậy?

      Truyện trộm mộ của Thiên Hạ Bá Xướng hấp dẫn bởi phong cách kim cổ dã sử chí dị đậm chất truyền kỳ thám hiểm của phương Đông.

      Nếu như truyện trộm mộ của Nam Phái Tam Thúc thiên về xây dựng tuyến nhân vật điển hình, cá tính Thiên Hạ Bá Xướng lại gây ấn tượng với người đọc bằng những câu chuyện mang hơi hướng dân gian, dấu ấn vùng miền khá nét, tạo cho người đọc cảm giác quen thuộc, gần gũi. Điểm sáng trong tác phẩm của Thiên Hạ Bá Xướng đó là:

      - Miêu tả chân thực cuộc sống hành tẩu giang hồ của các nhân vật trong tác phẩm;

      - Giới thiệu được nét đặc sắc cảnh sắc, phong tục tập quán, nếp sinh hoạt của nhiều vùng miền, dân tộc;

      - Xây dựng cuộc chiến đấu gay cấn giữa những người trộm mộ và cương thi nơi địa cung kì bí;

      - Cách kể “chuyện lồng trong chuyện” độc đáo, mỗi câu chuyện là đơn nguyên vừa độc lập nhưng lại được lồng ghép vào nhau rất tài tình tạo nên gắn kết hoàn chỉnh, hấp dẫn người đọc.
      Last edited by a moderator: 1/8/14

    2. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      Chương 1: Chuyện kể về chợ phủ


                  1



                   Trước đây, khái niệm “Chợ phủ” mà người Bắc Kinh xưa hay gọi còn có tên “Chợ ma” hoặc chợ đêm. Những loại chợ như thế này thường được họp ở số nơi nhất định. Vào canh tư, khi trời còn tối đen chưa có chút ánh nắng, hàng hóa được bày ra bán và toàn hàng nguồn gốc. Mỗi lần đến chợ phủ, người ta thường thấy những bóng hình dật dờ qua lại là người hay là ma, khiến những ai yếu bóng vía đều dám tiến lại gần.

                   Nhắc đến chợ phủ, tôi muốn đến người tên là Nghĩa, người dân quanh đây vẫn gọi là lão Nghĩa mù. Ngày trước, phía ngoài cổng Nam có rất nhiều người sinh sống bằng nghề khiêng kiệu. Khiêng kiệu cũng có nhiều loại, loại kiệu bên trong có chiếc hòm màu đen, khiêng thẳng ra nghĩa trang để chôn cất đó là khiêng người chết, còn khiêng người sống dân gian gọi là phu khiêng kiệu. Người ta gọi nơi các phu khiêng kiệu ở là hẻm Giang phòng, cái tên này được dùng đến tận ngày nay. Gia đình lão Nghĩa mù sống ở khu phố đó. Trước giải phóng, lão sống qua ngày bằng việc đào trộm mồ mả, giới trong nghề gọi đây là “đổ đấu”, lão cũng phải mù , chỉ do tuổi tác cao, nhìn mọi thứ còn được tinh tường, nhiều lúc nhầm lẫn đến dở khóc dở cười, dần dần bà con lối xóm gọi luôn lão là Nghĩa mù.

                   Mắt lão kém tới mức, có lần giữa ban ngày ban mặt, đường, bỗng lão nhìn thấy vật gì đen đen của ai đánh rơi, lão nghĩ bụng: “Ai làm rơi món hàng da thế này nhỉ?”, rồi nhân lúc có người định cúi xuống nhặt mang về, nào ngờ, lão vừa mới thò tay ra, nghe tiếng sủa gâu gâu, rồi thấy bóng con chó vàng vụt chạy qua bên kia đường.

                    lần khác, lão Nghĩa mù mua hai chiếc bánh mì nướng, bên còn rắc ít vừng đen, bánh vừa mới ra lò còn nóng hổi, phải ăn lúc còn nóng mới ngon. Hôm đó gió to trời lạnh, lão chọn bức tường khuất gió đừng ăn cho đỡ rét mà biết bức tường có dán tờ cáo thị, tờ cáo thị đóng dấu đỏ tròn. Trước kia thường dùng dấu vuông, sau này mới đổi thành dấu tròn, thời đó nào có mấy người biết chữ. Lúc này, có người ngang qua ghé vào xem cáo thị, người qua đường này cũng chưa nhìn thấy dấu tròn bao giờ, cứ ngỡ lão Nghĩa mù đọc cáo thị rồi lên tiếng hỏi cái tròn tròn kia là gì, lão Nghĩa mù trả lời: “Là bánh mì chứ là gì nữa, cậu thích ăn tự mà mua”. Người qua đường hiểu lão gì, chỉ lên chỗ cáo thị hỏi lại lần nữa: “ phải bánh mì, tôi hỏi cái bên kia cơ?” Lão Nghĩa mù trả lời: “Bên là vừng”, đúng là ông gà bà vịt, hai người lời qua tiếng lại lúc suýt chút nữa xảy ra ẩu đả.

                   Những câu chuyện này chưa hẳn , có thể mọi người cố tình bịa ra nhưng chung quy là cả khu phố đều biết đến lão Nghĩa mù. Còn nghe có lần lão bộ, thấy chiếc đinh mũ nằm giữa đường, ánh lên những tia sáng lóng lánh dưới trời nắng. Cứ tưởng rằng đó là viên ngọc trai do ai đánh rơi, lão liền nhặt vội cầm chặt trong tay. Lão bị chiếc đinh đâm cho chảy máu, liền vứt . Nhưng lão cũng nghĩ rằng mình mắt kém nhìn nhầm mà tự lẩm bẩm: “Xời, hóa ra là con sâu, bóp nát chảy cả máu.”

                   Chung quy là mắt của lão Nghĩa mù rất kém, nếu trời nổi gió cuốn bay những cọng lông gà, lão ta lại tưởng là đàn chim sẻ bay qua. Mặc dù mắt lão chưa phải là mù hẳn nhưng thể tiếp tục kiếm cơm bằng nghề đổ đấu được nữa. Vậy là, lão đành chuyển sang buôn bán tại chợ phủ. Kiểu buôn bán của lão cũng khác người, chỉ là bày bán vài bao “thắp đèn” tấm bạt trải dưới đất, bao thắp đèn chính là bao diêm, bao thắp đèn là cách gọi xưa. Ở chợ phủ nếu đến mua diêm, người ta gọi lóng là “đổi trống mềm”, thắp đèn gợi liên tưởng đến ánh sáng, nghĩa là “minh”, mà “minh” còn có nghĩa khác nữa là “ phủ”. Lão bán diêm là muốn ngầm bảo mọi người rằng mình chuyên thu những đồ móc lên từ mộ cũ. Lão Nghĩa mù ngồi đó, chẳng thèm hỏi han ai, càng buồn đoái hoài đến những người lạ.

                   Lão Nghĩa mù kể lại, chuyện mắt của lão bị mù cũng rất ly kỳ. Từ lúc lão vẫn làm nghề đổ đấu, có lần đào mả ở tỉnh khác, nghe người đồng hương kể rằng tại ngọn núi ở vùng này thường xuyên xảy ra tượng lạ. Cứ mỗi đêm trăng rằm, ngọn núi đó lại xuất đốm sáng, là vật gì, nhìn từ xa trông cứ như có hai vầng trăng sáng.

                   Lão Nghĩa mù nghe kể, chắc mẩm núi có mộ cổ chôn nhiều báu vật, liền hỏi thăm đường lên núi. Đến chập tối tới được chân núi, trời bỗng nổi mây đen, loáng thoáng nghe thấy tiếng sấm xa. Sợ trời đổ mưa khó lên núi, lão dừng chân quan sát xung quanh, thấy ngôi chùa bỏ hoang bên đường liền quyết định nghỉ đêm tại đây. Vì bị bỏ hoang lâu ngày nên trong chùa còn tăng ni sư sãi, lão cũng phải người tin tà ma, bèn thắp đèn lên rồi vào bên trong Phật điện, phía sau bức tượng Phật có gian phòng , hai cánh cửa sập sệ, hỏng nát, mở ra là đóng lại được nữa. Lão gom mớ rơm sàn lại góc làm chỗ nằm, mình ngồi trong phòng mở lương khô ra ăn cho đỡ đói, để ý tiếng gió bên ngoài mỗi lúc gấp hơn, trời đất tối sầm, chưa có mưa nhưng tiếng sấm xa nổi lên ngớt.

                    định nằm, bỗng nghe phía bên ngoài có tiếng động, sợ gặp phải bọn cướp, lão vội ra ngoài, nấp sau bức tượng Phật nghe ngóng tình hình. Lúc này, cửa chùa bật mở, người con mặc chiếc váy màu xanh từ bên ngoài bước vào, lão Nghĩa mù bất chợt giật mình, bao nhiêu năm làm nghề đào mả trộm khiến nhãn lực của lão cũng trở nên khác thường, cơ thể này tỏa ra luồng khí, cứ như ta vừa mới bò ra từ ngôi mộ nào vậy. vội vàng vào trong, quỳ xuống trước tượng Phật vái lạy liên hồi. Bên ngoài, chớp giật ngoằn nghèo, sáng chói bầu trời, rồi đánh thẳng vào trong chùa, ngôi chùa bốc cháy, lão Nghĩa mù hồn bay phách lạc, lai lịch của người con này thế nào mà phải tới ngôi chùa hoang này tránh thiên lôi?

                    dường như cũng phát ra phía sau bức tượng có người, bất chợt ngẩng đầu lên, lão Nghĩa mù kinh hoàng, mặt có tới sáu con mắt, lão vội cắm đầu bỏ chạy, đuổi theo phía sau lưng, bất chợt tia sét nổi lên đánh trúng ngay giữa đỉnh đầu , lão Nghĩa mù cũng lăn ra bất tỉnh, đôi mắt của lão bị lửa sét thiêu đốt, chưa đến nỗi mù nhưng nhìn được nữa. Ngày hôm sau, người dân ngang qua ngôi chùa hoang cứu lão, họ còn thấy con nhện rất to bị sét đánh chết nằm nền nhà, trong bụng con nhện đó toàn là những viên đá thoạt trông như những viên ngọc bích, tựa ngọc mà lại phải là ngọc, đến tối những viên đá này phát ra ánh sáng lấp lánh, trông như ánh trăng. Đây chính là nguyên nhân mà người dân nhìn thấy hai vầng mặt trăng vào những đêm trăng sáng.

                  2



                   Lời của lão Nghĩa mù có đúng hay , có cơ sở để xác minh, nhưng tôi mấy tin vào câu chuyện ly kỳ này. Nghe , lão Nghĩa mù từng cứu mạng tôi. Tôi tuổi rắn, theo lời các cụ, rắn là rồng . Hồi tôi khoảng ba bốn tuổi, lần bố tôi tan ca đêm, mình đạp xe trở về nhà, khi rẽ vào con đường đất bỗng thấy chiếc xe nảy lên như vừa đằn qua vật gì đó, bố tôi dừng lại xem thấy ông vừa cán chết con rắn, cũng nghĩ ngợi gì nhiều, ông lên xe chuẩn bị tiếp, bỗng phía trước xuất cậu bé chắn ngang đường giận dữ : “Ông đâm chết tôi cũng sao, nhưng tôi bắt người tuổi rắn trong nhà ông phải đền mạng”, xong cậu bé biến mất. Về nhà, bố thấy tôi sốt cao, miệng mê sảng, chữa chạy khắp nơi mà khỏi. Hàng xóm đều rằng tôi bị trúng tà. Lão Nghĩa mù có quan hệ rất đặc biệt với gia đình tôi, lão là em kết nghĩa với ông nội tôi, bố tôi biết lão rất rành về lĩnh vực này, liền đem chuyện đêm hôm nọ cán chết con rắn dọc đường kể cho lão nghe và nhờ lão nghĩ cách giúp đỡ. Lão Nghĩa mù bày cách: “Đúng là con rắn kia về đòi mạng rồi. Bây giờ gia đình phải đưa cháu về quê ở đúng bảy bảy bốn chín ngày, phải thay tên đổi họ cho cháu, về quê phải ban ngày, gặp các ngã ba ngã tư phải rải hùng hoàng [1] , có như vậy mới tránh được tai họa lần này”. Gia đình tôi làm theo đúng lời của lão Nghĩa mù, cả tên khai sinh lẫn tên gọi ở nhà đều dùng nữa mà đổi hết thành tên mới cho tôi, tôi về quê sống thời gian, cuối cùng cũng khỏi bệnh, may là giữ lại được cái mạng.

                  [1] Hùng Hoàng: là loại bột màu vàng cam hoặc lẫn lộn giữa bột màu vàng và đỏ, thành phần chủ yếu là Asen sunfua. Đây là loại thuốc kỵ (đuổi) rắn rất công hiệu. Hùng hoàng có tác dụng giải độc, sát trùng, hóa ứ, tiêu đờm, lợi đại tiểu tiện, triệt ngược định kinh.

                   Chuyện bố tôi xe đạp cán chết rắn cũng là nghe lão Nghĩa mù kể lại, tôi vẫn nhớ hồi còn , các gia đình đều khó khăn cả, đó là thời tem phiếu, chỉ có năm hết Tết đến mới dám mua tí thịt để ăn Tết, nhưng lão Nghĩa mù tháng nào cũng có hai bữa thịt dê, mà cách ăn của lão cũng chẳng giống ai, tấm sắt được đặt bếp lò đốt bằng củi thông, phía trước đặt chiếc ghê băng, nhưng phải là để ngồi mà là để lão gác chân, chân lão gác lên ghế, tay trái cầm bát nước chấm đầy đủ xì dầu, tương, tỏi, ớt, rau mùi v.v… tay phải gắp từng miếng thịt dê nướng chín chấm nước chấm hoặc kẹp với tỏi tây, bánh mì nướng. Lão Nghĩa mù giải thích đây là cách ăn của người dân tộc Kỳ ở Quan Ngoại. Hồi trẻ, lão từng tìm mỏ vàng trong rừng xanh núi thẳm ở vùng đó, nên quen với cách ăn hoang dã này. Vì lão mắt kém, lại ở mình nên từ khi biết cầm đũa tôi cũng là người nướng thịt cho lão Nghĩa mù và cũng là để được ăn ké, lần nào tôi cũng được ăn thoải mái. Mỗi lần ăn thịt nướng, lão Nghĩa mù đều có thói quen uống rượu, vừa uống vừa kể cho tôi nghe những câu chuyện năm xưa lão tìm long mạch như thế nào, làm sao để đào vật báu trong mộ cổ, còn giải thích “nhện qua sông” là mộ gì, “rắn vào bụi cỏ” là mộ gì, toàn những chuyện xưa như quả đất nhưng kém phần ly kỳ hấp dẫn, tôi cứ nghe mê mẩn, đến sau này lớn lên mới biết, mỗi lần lão Nghĩa mù ăn thịt dê nướng chính là lúc lão vừa được món hời nào đó ở dưới mộ.

                  thể coi thường khu phố mà lão Nghĩa mù sinh sống, trông tồi tàn vậy nhưng có rất nhiều nhân tài, ví dụ như Hàn sư phụ, sống bằng nghề làm ngói nhưng lại cực kỳ giỏi võ, phải loại võ thuật nổi tiếng ở Bắc Kinh như Thái Cực Quyền, mà chỉ là loại quyền cước vô danh ở quê hương của ông, nhưng ở vùng quê đó ai ai cũng biết múa loại võ này.Tôi cũng từng theo học Hàn sư phụ vài năm. Lão Nghĩa mù cứ can tôi đừng theo Hàn sư phụ, vì học võ vào rồi thường hay rước vạ vào thân.

                   Tôi vốn tin, chẳng ngờ đúng là xảy ra chuyện . Số là chớm đông năm đó, tôi ngang qua công viên Địa Đàn, gặp thằng khùng cùng bọn du côn chặn đường trêu chọc hai , nghe kể bố mẹ thằng này là cán bộ cấp cao. Thời Cách mạng đại văn hóa, nó bị kích động mạnh nên giờ đầu óc được bình thường, dựa vào tấm giấy chứng nhận tâm thần của bệnh viện, nó huênh hoang rằng cho dù có cầm dao đâm chết người cũng chẳng ai làm gì được, nên thường ngày chỉ chuyên phá phách, thêm vào đấy thằng này lại có bọn choai choai đầu đường xó chợ theo làm đàn em, việc gì mà bọn chúng dám làm. Lần này, nó trêu chọc con nhà lành, trong đó có lại là ban học của tôi ngày trước, tôi liền tiến đến can ngăn, thằng khùng lời, rút dao ra nhằm thẳng tôi đâm tới, tôi ra tay mạnh cũng , rút ngay chiếc khóa xe quất hai phát vào đầu thằng khùng, nó đổ xuống đất kịp kêu lên tiếng, máu chảy ào ào như vỡ ống nước, lũ đàn em đần thối mặt, rồi hét lên ầm ĩ “Giết người rồi! Giết người rồi!”, sau đó bỏ chạy toán loạn.

                   Lúc này, tôi biết mình gây ra vạ lớn, liền chạy mạch đến nhà lão Nghĩa mù để lánh nạn vài hôm. Căn nhà của lão vốn ẩm thấp, giữa ban ngày cũng tranh sáng tranh tối, tôi đẩy cửa bước vào, thấy lão Nghĩa mù đắp chăn nằm giường, phía dưới chăn lòi ra chiếc đuôi, là đuôi sói hay đuôi hồ ly, tôi hoảng quá quay đầu chạy bổ ra bên ngoài.

                  3



                  Chạy ra đến cổng tôi ngã nhào, va cả đầu vào lu nước sứt miếng da, sau này để lại vết sẹo trán. Vừa lúc đó, lão Nghĩa mù từ ngoài vào. Lão Nghĩa mù xương khớp tốt nên rất sợ trời lạnh, mùa đông thường đắp chăn lông thú, vật mà vừa rồi tôi nhìn thấy trong nhà là tấm chăn da thú của lão. Thấy tôi, lão Nghĩa mù hỏi: “Gì mà hoảng hốt thế, lại gây chuyện ở đâu rồi hả?”

                   Tôi kể lại chuyện đánh nhau ở công viên Địa Đàn cho lão nghe, có thể xảy ra án mạng rồi cũng nên.

                   Lão Nghĩa mù hốt hoảng: “Mạng người quan trọng, hơn nữa bố mẹ người ta còn làm quan, mày mà rơi vào tay họ chẳng phải như đầu dê đặt thớt, mặc cho người ta muốn làm gì làm sao.”

                   Tôi : “Họ muốn làm gì làm, cùng lắm là mất đầu chứ gì, mười tám năm nữa cháu vẫn là cháu.”

                   Lão Nghĩa mù : “ được hành động bốc đồng, mau thu dọn hành lý, lên Nội Mông lánh tạm ít lâu, chỗ bố mày cứ để đấy ông lo.”

                   Lúc đấy, tôi cứ chắc mẩm là đánh chết người nên nghe lời lão Nghĩa mù, tàu suốt đêm lên Đông Bắc vào nơi rừng xanh núi thẳm. Lão Nghĩa mù có người em kết nghĩa, biệt danh là “Thổ địa gia”, làm quản lý lâm trường ở huyện Hưng An, Nội Mông. Hai người là bạn chí cốt với nhau, tấm chăn lông thú của lão Nghĩa mù chính là do Thổ địa gia tặng. Gặp tôi, ông cứ lôi vào hỏi chuyện tới tấp cho đâu. Ít lâu sau, người nhà gửi điện báo gọi tôi quay về, ở nhà có chuyện gì cả, tên khùng đó chưa chết, chỉ bị thương hai chỗ ở đầu. Hai kia sau đó trình báo, công an tiến hành điều tra, ra chứng nhận tâm thần của là giả, chuyện bố mẹ là cán bộ cách mạng cũng chỉ do bịa ra. Nhưng tôi quen với cuộc sống tang bồng bên ngoài, muốn cùng Thổ địa gia đào vàng thêm thời gian nữa, chờ khi nào phát tài quay về.

                   Tổ tiên Thổ địa gia họ Sách, là Vương gia thời nhà Thanh, sau vì mang tội nên bị triều đình lưu đày xung quân ở biên cương, sinh sống bằng nghề săn bắt. Ông có cháu tên Sách Ni Nhi, tôi theo hai ông cháu họ săn thỏ bắt hồ ly lấy da, men theo sông Hắc Long Giang để tìm mỏ vàng. Nhưng Thổ địa gia tuổi cao, sức khỏe còn dẻo dai như trước đây, trải qua mùa đông dài lạnh lẽo, mùa xuân và mùa hè đến bất chợt, chớp mắt sang thu, xem chừng cũng chẳng có thu hoạch gì, Thổ địa gia quay về Hưng An trước, tôi và Sách Ni Nhi mang mấy bộ da thú đánh được trước đó xuống chợ bán. Từ mùa xuân khi sông băng tan cho tới khi tuyết dày bao phủ các dãy núi người ta họp ba phiên chợ cạnh dòng sông, đây là phiên chợ cuối cùng trong năm. Nơi này từ xưa vốn hoang vu ít người sinh sống, trước giải phóng những người đến chợ phiên thường là dân lâm trường, dân giang hồ, tàn binh bại tướng, ăn mày và số người dân du mục. Vì nhu cầu mà tự lập ra chợ phiên, hàng giao dịch trong chợ thường là vàng đào được trong núi, nhân sâm, lộc nhung, da thú v.v… phong tục này được lưu lại tới ngày nay.

                   Sau khi bán được mấy tấm da thú cho người dân du mục Mông Cổ, Sách Ni Nhi với tôi: “ theo ông cháu em lăn lộn vất vả trong núi thời gian rồi, hôm nay phải ăn bữa ngon.”

                   Tôi thấy trong chợ cũng có vài quán ăn tương đối tốt, trước cửa còn treo biển hiệu hình đèn lồng. Vùng Đông Bắc rất để ý đến biển đèn lồng. Ngoài cửa tiệm cùng lắm là viết tên mặt hàng, có giá cả cũng quán bán những món gì, nhưng chỉ cần xem biển đèn lồng là biết tất cả. Nếu phân loại theo màu sắc màu vàng là quán chay, màu xanh là quán người Đạo Hồi, nếu treo đèn lồng là quán bình dân, có vẽ vòng tròn là quán bánh bao, có hình hoa là quán bán màn thầu, bánh bao, phía dưới có tua rua là quán bán mì, quán treo hai đèn lồng cao cấp hơn, có thể tổ chức tiệc tùng, treo bốn đèn lồng là cao cấp nhất. Chưa thấy ai treo ba biển đèn lồng bao giờ, vì phát của nó nghe như lừa đảo khách hàng nên kiêng. Mặc dù những chuyện này tôi được nghe lão Nghĩa mù kể nhưng chưa đến ăn bao giờ nên cũng chẳng biết món nào ngon, đành để Sách Ni Nhi tự quyết định.

                   Sách Ni Nhi dẫn tôi vào cái quán gần đó, quán có bán món cá hầm, loại cá tầm được bắt từ sông Hắc Long Giang lên, dù cách chế biến đơn giản nhưng giữ lại được hương vị thơm và tươi ngon của cá. Lần đầu tiên được ăn món cá ngon như vậy, tôi bỗng thèm uống vài ly, liền gọi nửa cân rượu hoa quả rừng. ăn có hai thực khách nữa bước vào quán, họ cũng gọi món cá hầm, vừa ăn vừa hỏi thăm chủ quán đường tới Lão Câu. Chủ quán lộ vẻ kinh ngạc: “Lão Câu [2] ? Hai người tới đó làm gì? đào mộ à?”

                  [2] Lão Câu: Trong tiếng Hán có nghĩa là khe núi cổ.

                  4



                  Chủ quán quen biết Sách Ni Nhi, bèn với hai người khách: “Lão Câu à… bao năm nay chẳng có ai tới đó, hai người muốn hỏi kia kìa, ông nội ấy trước giải phóng từng vào Lão Câu đào vàng. Ngoài Thổ địa gia ra chưa ai vào Lão Câu mà có thể sống sót trở về đâu.”

                   Hai người khách sán ngay tới chỗ chúng tôi để hỏi đường vào Lão Câu, còn hứa trả khoản tiền lớn nếu Sách Ni Nhi nhận dẫn đường.

                   Lưu vực sông Hailar và sông Nuomin ở Nội Mông là vùng đầm trạch hoang vu, phía tây bắc là núi cao, phía đông là rừng rậm, phía nam là thảo nguyên, chu vi trăm cây số có bóng nhà. Hai dòng sông uốn lượn ngoằn nghèo và có nhiều nhánh , vì địa hình thấp nên nước sông chảy vào đây hình thành vùng đầm lầy mọc đủ loại thực vật thủy sinh. Giữa vùng đầm cỏ bao la này là những vũng sình lầy sâu hoắm, nếu trong đầm cỏ phải dò đường cẩn thận, may rơi xuống đám sình lầy mà có người cứu lên bị lún sâu hơn cho đến khi chìm hẳn và chết. Từ xưa tới nay, vùng này có dấu tích của người hay động vật sinh sống. Nghe phía sâu bên trong vùng đầm lầy này có khe núi, trong đó có hang động cổ, thời xưa có rất nhiều người mạo hiểm vào đó tìm mỏ vàng, hầu như có có về, cho dù cao số chết trong vùng đầm lầy khi xuống tới hang động cũng bị ma đất ăn thịt, những người đào vàng truyền nhau như vậy. Nơi đó gọi là Kim Câu [3], hay còn gọi là Lão Câu, chỉ cần nhắc đến tên thôi là mọi người thất kinh hồn vía, chẳng ai dám .

                  [3] Kim Câu: Trong tiếng Hán có nghĩa là khe núi vàng.

      justify;" align="



                  Sách Ni Nhi nhìn hai người khách, trông họ giống dân đào vàng, hơn nữa mỏ vàng cũng chỉ là truyền thuyết, liền hỏi: “Hai người làm nghề gì? Đến Lão Câu làm gì?”

                    trong hai người đó là đạo sĩ, khoảng ngoài bốn mươi tuổi. Đạo sĩ được chia làm hai phái, phái chuyên ở trong đạo quán, thường xuyên mặc áo đạo sỹ, tu luyện cầu đắc đạo, đó cũng là phái thường gặp nhất, thường thuộc Toàn Chân giáo, phái còn lại ăn mặc như người dân bình thường, ít khi mặc trang phục đạo sỹ, có thể lấy vợ sinh con nhưng cũng biết các thuật làm bùa, bắt ma trừ , niệm thần chú, xem bói xem tướng, xem phong thủy v.v… Họ thuộc phái Chính nhất giáo. Người Đông bắc thường nôm na gọi họ là Nhị lão đạo.

                   Mới đầu, Nhị lão đạo chịu , chỉ kể rằng sư phụ ông ta báo mộng giao cho nhiệm vụ bắt cương thi. Cương thi đó tồn tại lâu năm, có nhiều phép thuật cần phải tiêu trừ tránh hậu họa về sau. Sau vì Sách Ni Nhi truy hỏi gắt gao, họ đành tìm chỗ vắng người để chuyện. là những chiêu trò sư phụ ông ta truyền lại thể lừa người kiếm cơm được nữa, dựa vào chút khả năng xem phong thủy nên ông ta đổi nghề đào trộm mộ. Nghe ở Lão Câu có bích họa, chắc rằng nơi đó có mộ cổ nên quyết chuyến thu mẻ to. Người cùng ông ta là Trương Cự Oa, vốn là cậu bé mồ côi thảo nguyên, bố mẹ chết trong nạn đói của vùng Đông Bắc, chỉ còn mình cậu ta sống sót, sau đó được người lính nhận làm con nuôi rồi lấy họ Trương theo họ của cha nuôi. Người này khoảng hơn hai mươi tuổi, thân hình to lớn vạm vỡ, cao hơn người bình thường đến nửa cái đầu, là chàng thanh niên thà chất phác, được Nhị lão đạo nhận làm đồ đệ. Hai người họ tìm người dẫn đường vào Lão Câu đào mộ tìm bảo vật. Ở cái nơi núi cao, Hoàng đế ở xa này, gặp đâu ăn đó, cái trò đào vàng quật mả đều thể công khai, mặc dù chẳng hay ho gì, nhưng trước mặt người dân địa phương cũng cần giấu giếm.

                   Nhị lão đạo giơ ngón tay cái lên với tôi và Sách Ni Nhi: “Lão huynh đệ, đại nương! Lão đạo tôi đều hết với cậu rồi tuyệt đối để cậu phải thiệt, nếu dẫn đường cho tôi tới được Lão Câu, việc thành công cậu cứ việc ra giá, lời chấp thuận luôn, hai bên đều thoải mái. Được chứ?”

                   Sách Ni Nhi vốn là có chủ kiến, nghe Nhị lão đạo hứa trả cho khoản lớn, ngẫm nghĩ lúc rồi nhận lời. Giờ vừa mới hết mùa mưa, lúc này vào cái nơi ăn thịt người thèm nhả xương đó chín phần chết chắc, thế nên cần chuẩn bị kỹ càng trước khi . giao cho Nhị lão đạo và Trương Cự Oa chuẩn bị lương thực và ngải cứu, ngày 16 tháng 7 lịch gặp nhau tại khúc cong thứ ba của sông Nuomin.

                   Sách Ni Nhi đợi hai người kia khuất liền dặn tôi được chuyện này với Thổ địa gia. Mỏ vàng giờ đây ngày càng khó tìm, muốn kiếm thêm ít tiền để sau này ông nội phải đào vàng nữa. Tôi : “Những việc khác lo. Có điều thấy Nhị lão đạo cũng chỉ là dân nửa vời, cùng lắm đào được mấy cái mộ cũ kiếm được chút tiền. Ông ta mà tìm được mộ cổ mới lạ. Vùng Lão Câu đến thú giữ còn khó vào làm gì có mộ cổ đời nào cơ chứ. cũng chưa nghe thấy ai trong Lão Câu có mộ cổ bao giờ, chỉ nghe trong đó có ma đất ăn thịt người thôi.”

                  5



                   Chuyện trong Lão Câu có ma đất ăn thịt người cũng là do dân đào vàng truyền nhau, có mới mới biết thực hư thế nào. Lão Câu chắc phải mất sáu ngày cả lẫn về, chúng tôi phải đối mặt với rất nhiều mối nguy hiểm, đầu tiên đó là thay đổi thất thường của thời tiết, nếu vào mùa mưa mà biết địa hình đúng là tự tìm đường chết. Thực ra các mùa khác cũng chẳng khá hơn gì, mùa đông dễ lạc đường vì tứ bề tuyết phủ, dễ gặp phải bầy sói, mùa thu và mùa xuân nước trong đầm đóng băng chắc, biết được chỗ nào có thể qua.

                   16 lịch, tôi và Sách Ni Nhi mang theo khẩu súng săn nòng, đến bờ sông gặp hai thầy trò nhà Nhị lão đạo, họ cũng chuẩn bị sẵn sàng, Trương Cự Oa còn vác lưng chiếc nồi sắt rất to.

                   Nhị lão đạo hỏi chúng tôi: “ cậu đem theo vài con chó à? Lỡ gặp thú dữ sao?”

                   Sách Ni Nhi : “Mùa này trong đầm trạch có thú dữ, chỉ có chim và rắn thôi, đem theo súng săn phòng thân là được rồi. Mà hai người mang theo chiếc nồi sắt to thế kia làm gì? nặng à?”

                   Nhị lão đạo : “Lần này cũng phải mất đến mấy ngày, vùng đó lại có dân sinh, trong đầm cỏ vừa lạnh vừa ẩm, tôi nghĩ mang nồi nấu món gì đó nóng nóng ăn nên mới bảo đồ đệ mang theo cái nồi này. sao, cậu ta thấy nặng đâu, thanh niên sung sức mà.”

                   Tôi : “Đạo trưởng, đồ đệ của ông thấy nặng, vấn đề là chúng ta vào vùng đầm lầy, cậu ta to cao thế kia vốn nặng rồi, giờ vác thêm bao nhiêu đồ, ông định để cậu ta rơi vào hố sình à? Chúng tôi phải trước với ông, cậu ta to cao như vậy, nếu sa chân vào hố sình chúng tôi kéo nổi cậu ta lên đâu.”

                   Nhị lão đạo : “Ờ nhỉ! Lão huynh đệ chí phải, thế mà tôi nghĩ ra. mang nồi sắt nữa, hành lý càng càng tốt.”

                   Sách Ni Nhi : “Muốn đun nước có nồi quân dụng, ngoài những đồ vật thiết yếu ra cố gắng mang thêm ngải cứu.”

                   Chúng tôi đều biết Sách Ni Nhi rât thông thạo vùng thảo nguyên hoang vu và rừng sâu núi thẳm, ấy mang theo vật gì tất có lý do của nó. Chúng tôi sửa soạn lại hành trang, cái nào cần mang mang, cái nào cần thiết bỏ lại, bốn người lên đường, thẳng tiến đến hướng nam vùng đồng cỏ mênh mông ngút ngàn tới tận chân trời. Thực vật chủ yếu của vùng này là cây chịu lạnh tốt như họ nhà cói, chúng mọc thành từng cụm nối nhau, phía bên dưới chính là những hố sình, cả nhóm bước thấp bước cao, tưởng chừng như bao giờ tới được điểm dừng. Mùa thu ở đây đến sớm, chớm thu cây cỏ úa vàng, phóng tầm mắt nhìn ra xa, xung quanh chỉ thấy màu vàng xanh xen lẫn, biển cỏ trải dài, trước thấy núi, sau thấy rừng, có đường , chỉ có vùng đầm lầy nước đọng, bốc lên mùi hôi thối của cây cỏ bị phân hủy, mỗi bước đều phải dùng gậy thăm dò trước, chỉ cần chút sơ ý bị chôn thây lại nơi đây.

                   Mây mù bầu trời thay đổi liên hồi, trong ngày thời tiết biến đổi bảy tám lần là chuyện bình thường, có lúc sương mù dày đặc, giăng mắc màu trắng đục, phân biệt được đông tây nam bắc, có lúc trời nắng như đổ lửa, muốn trốn cũng có chỗ trốn, rồi mây đen lại đột nhieên kéo đến bay là là đầu, có lúc mưa đổ như trút nước, sấm rung chớp giật, khi mưa đá rơi tối tăm mặt mũi, khi lại mưa phùn bay hoặc mưa quấn gió lạnh đổ từng cơn lúc khoan lúc nhặt. Chỉ mưa lúc là nước dâng lên, khắp nơi lênh láng màu trắng xóa, kỵ nhất là phải lội bì bõm trong nước, những lúc như vậy cần tìm nơi cao chút, đứng chờ nước rút rồi mới tiếp được. Cứ như vậy, lúc mưa lúc nắng, lúc nóng, lúc lạnh, bữa đói bữa no, bước thấp bước cao, cả hội trải qua biết bao nhiêu gian nan, vất vả.

                   Nhị lão đạo vì muốn phát tài, nên lão màng tới những nỗi vất vả đó, suốt dọc đường chỉ trời đất, bốc phét với chúng tôi về những kinh nghiệm của lão trong quá khứ, còn hứa với Trương Cự Oa: “Đợi chuyến này kiếm được món lớn, thầy xây nhà lấy vợ cho con”. Trương Cự Oa cảm ơn ân đức của thầy, thấy Nhị lão đạo mệt nổi liền cõng lão lên tiếp, bước thấp bước cao lội bì bõm, mặc dù to khỏe nhưng cậu ta vẫn mệt thở phì phò.

                   Ngày đầu tiên qua , mặt trời xế về Tây, nhiệt độ đồng cỏ giảm xuống, gió cũng ngừng thổi, vùng hoang dã ngút ngàn chân mây. Nhị lão đạo nếu mà được như thế này mãi mấy ngày mấy đêm trong đồng cỏ cũng được. Còn chưa hết câu từng đụn mây đen trong đám bụi rậm ngừng đùn lên, Trương Cự Oa hét lên kinh hãi: “Đạo trưởng, cái gì thế kia?”. Nhị lão đạo : “Ối mẹ ơi, khí ngút trời!”

                  6



                   Người đông bắc có thói quen gọi người tuổi lão, như vậy mới thân thiết, ví dụ gọi người nhất trong nhà là lão út. Nhị lão đạo gọi tôi là lão huynh đệ, gọi Trương Cự Oa là lão đồ đệ, nhìn thấy từng đụn mây đen đùn lên từ trong những bụi cỏ, ông ta liền hô to: “Lão đồ dệ, mau lấy thanh kiếm chém của thầy ra đây!”

                   Trương Cự Oa đần mặt hỏi: “Con chưa thấy bao giờ, nó là cái gì hả thầy?”

                   Nhị lão đạo tức điên lên: “Cái đồ bị thịt, lên giường biết ôm đúng vợ, xuống đất biết xỏ đúng dép, thế mà biết thanh kiếm chém gia truyền của thầy mình, cái roi gỗ đào ta vẫn gác xà cửa ấy, chửa…”

                   Sách Ni Nhi : “Quẳng mấy thứ vô dụng của ông , đây là đinh tử ngưu ở vùng đầm lầy, mau đốt ngải cứu đuổi nó.”

                   Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy những đám mây to đen như thế này, chúng túm tụm thành khối, phát ra tiếng kêu ong gong nghe rất lạ, tôi khỏi giật mình kinh sợ. Nghe Sách Ni Nhi nhắc tới “đinh tử ngưu” mới hiểu đây là bọn ruồi trâu, tôi từng thấy ruồi trâu ở Hưng An nhưng chưa bao giờ nhìn thấy nhiều như lần này. Người vùng đông bắc còn gọi ruồi trâu là muỗi đen, chúng như những chiếc phi cơ chiến đấu được trang bị kỹ càng, bay đến tối tăm mặt mũi, trong chớp mắt có thể hút sạch máu con trâu mộng. Ban ngày mưa lớn nắng to thấy chúng đâu, đêm đến chúng mới rời tổ kiếm ăn, ruồi trâu mang mình virus viêm não, nếu bị chúng cắn có thể tử vong. Tôi vội làm theo lời Sách Ni Nhi, lấy ra bốn chiếc ống làm bằng vỏ cây, phát cho mỗi người cái, nhét đầy ngải cứu vào rồi đốt lên, dùng khói ngải cứu để đuổi bọn ruồi trâu . Vậy là từ chập tối cho tới khi trời sáng, nếu trời có mưa sao, chỉ cần tạnh mưa là lại phải đốt ngải cứu lên, nếu ngừng đốt ngải là lũ ruồi trâu lại lao vào chực đốt người.

                   Trương Cự Oa giờ mới hiểu ra: “Ối, ra là ruồi trâu, thế mà đạo trưởng lại khí.”

                   Nhị lão đạo phân bua: “Cái bọn này cũng ăn thịt người mà, khéo lại là oan hồn hóa thành. khí quá nặng, đáng tiếc thanh kiếm chém của ta có ở đây, nếu chỉ cần đưa vài đường bọn ruồi trâu này phải tan biến hết, cần gì hun khói như thế này.”

                   Trương Cự Oa tâm phục khẩu phục: “Phải là trình của đạo trưởng cao siêu đấy.”

                   Nhị lão đạo mặt dày tự đắc: “Đương nhiên rồi.”

                    qua vùng ruồi trâu, bóng đêm bắt đầu ập tới, bao phủ thảo nguyên, nhiệt độ xuống thấp, thể tiếp trong bóng đêm, nên cả hội đành phải tìm chỗ dựng trại đốt lửa sưởi ấm. Chúng tôi bắt được vài con cá tại đầm nước bên cạnh, trời mưa to nước dâng cao, có khá nhiều cá bơi vào trong đầm và bị mắc kẹt lại bên trong, còn có cả cá taimen hoặc cá tầm đen, có con dài tới hơn năm mươi centimet, bắt bọn cá này khó. Dọc đường , Sách Ni Nhi để ý hái ít cây lá chua và ớt dại, dùng que xiên dọc theo thân cá nướng lửa cho tới khi thịt cá trắng đều, xé cá thành từng miếng , chấm cùng ớt dại và lá chua ăn, hương vị rất nguyên thủy, ngon thể tả được.

                   Nhị lão đạo uống vài ngụm rượu, bắt đầu kể chuyện rông dài.

                   Tôi hỏi: “Đạo trưởng, nghe người Chính nhất giáo các ông thường mặc áo đạo sỹ nhưng cũng biết đạo pháp, ví dụ ngậm ngụm rượu có thể phun ra thành hình mũi tên. Nếu luyện tập phun tung tóe ra khắp nơi, đúng vậy ?”

                   Nhị lão đạo : “Chà, lão huynh đệ hổ danh là người từ thành phố lớn đến, biết nhiều hiểu rộng, đến món này mà cậu cũng biết. Cậu đúng đấy, để tôi phun thử cho cậu xem nhé…”. rồi, lão hớp ngụm rượu ngậm trong mồm rồi phun ra, lão còn bấm đốt ngón tay niệm câu trong miệng, cũng ra dáng gớm, đáng tiếc là thành công, rượu phun ra tung tóe giống như tiên nữ rắc hoa vậy.

                   Ba người chúng tôi vội vàng né tránh, may bị Nhị lão đạo phun cho đầy mặt.

                   Nhị lão đạo hơi ngượng, lau miệng : “Cậu xem, chẳng hiểu sao nữa, chắc tại lâu ngày tập, chủ yếu là bây giờ chẳng ai xem mấy món này nữa, nên có đất dụng võ, các cụ sao nhỉ --- Miệng đói đầu gối cũng phải bò. Nếu lão đạo ta đến nỗi phải theo con đường đào mộ quật mả này.”

                   Tôi hỏi Nhị lão đạo: “Đạo trưởng chưa Lão Câu bao giờ, sao lại biết ở đây có mộ cổ?”

                   Vầng trăng tròn nhô lên từ phía chân trời, lúc lúc sau biển mây bồng bềnh, mặt trăng to lạ kỳ giữa đồng cỏ mênh mông, tựa hồ chỉ cần giơ tay ra là có thể chạm tới. Đêm đồng cỏ hoang huyền ảo như mơ, khó tin như câu truyện mà Nhị lão đạo sắp kể cho chúng tôi nghe.


    3. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      Chương 2: Bức bích họa ăn thịt người


      1



      Nhị lão đạo trong Lão Câu có mộ cổ của người Khiết Đan, dân đào trộm mộ ở Quan Nội, Quan Ngoại đều biết bí mật này, chỉ có môn đồ của Chính nhất đạo biết mà thôi. Khoảng bảy tám trăm năm trước, nước Liêu chịu ảnh hưởng sâu sắc của hai triều đại Đường Tống, nên người Khiết Đan cũng rất chú trọng tới phong thủy long mạch khi chọn nơi xây lăng mộ. Tương truyền, công chúa Mang Cổ con Liêu Thế Tông là nữ thần Saman, sau khi chết nàng được chôn tại Lão Câu. Trong hầm mộ và đường hầm dẫn vào mộ treo đầy bích họa, đó đều là những tuyệt tác, nghe còn tùy táng cả người sống. Lúc đó, đầm cỏ lại khó khăn như bây giờ, nó vốn là thảo nguyên bao la. Lăng mộ hoàng đế thường chọn thế núi hai bên cao, ở giữa thấp để xây lăng tẩm. Ngôi mộ cổ trong Lão Câu chính là ngôi mộ do đích thân sư tổ Nhị lão đạo xem phong thủy, sau đó suýt chút nữa bị Bắc đại vương giết người diệt khẩu. Bí mật về ngôi mộ được truyền từ đời này sang đời khác cho tới ngày nay, chính vì vậy Nhị lão đạo mới nắm về ngôi mộ trong Lão Câu.

      Mấy năm gần đây, nghề kiếm cơm của Nhị lão đạo gần như thể trụ được nữa, nhớ lại lời sư tổ truyền lại về số vị trí long mạch, kìm được lòng tham, lão đào được vài ngôi mộ cũ, kiếm được chút tiền nhưng nhiều. Lần này nhắm vào ngôi mộ cổ của công chúa Khiết Đan, lão biết rằng trong đó có nhiều báu vật, nếu thành công từ giờ tới cuối đời cần phải lo lắng gì nữa.

      Chuyện trong Lão Câu có mộ cổ hiếm người biết đến, nhưng từ cuối đời Thanh tới nay, mọi người đồn nhau trong đó có mỏ vàng nên rất nhiều người tham tiền tới đây tìm vàng, kết quả vàng đâu chẳng thấy, nhưng người mất mạng ở đây quả ít. Có người cao số chết trong đầm cỏ cũng chết trong khe núi. Nghe đồn trong đó có những bức bích họa nhiều năm tuổi chứa quái ăn thịt người, nếu vào tới bên trong kiểu gì cũng bị quái trong bích họa ăn thịt. Cũng có lời đồn trong đó có ma đất hoành hành, chung là đủ loại lời đồn.

      Nhị lão đạo cũng những lời đồn đại đáng sợ này có liên quan gì tới ngôi mộ cổ Khiết Đan hay , nhưng thời buổi này đói kém sinh làm liều, nhát gan chỉ có chết, dám làm nghề quật táng đừng tin tà ma, những người quá tin vào ma quỷ thể kiếm cơm bằng nghề đổ đấu được.

      Đây là lần đầu tiên tôi và Sách Ni Nhi nghe tới chuyện bích họa ăn thịt người. Năm xưa, số người qua được đầm cỏ vào tới trong khe núi nhiều, phần đa đều chết dọc đường, rơi vào hố sình lầy cũng bị chìm trong đầm trạch, hoặc làm mồi cho đám ruồi trâu. Chúng tôi thể lý giải nổi, cũng rất hiếu kỳ, bích họa chẳng qua là những bức tranh được vẽ tường, sao có thể ăn thịt người được?

      Nhị lão đạo cũng hiểu: “Cũng có thể người ta nhìn thấy những bức tranh đó có niên đại lâu, hiếm thành ra thấy lạ, cũng có thể những bức tranh đó hình thù kỳ quái đáng sợ, mọi người đồn tới đồn lui thành quái ăn thịt người cũng nên, làm sao mà tin được. Mọi người mà muốn nghe kể chuyện ma để lão đạo ta kể cho chuyện. Thời Tống, bên dòng sông Hoàng Hà có con hồ ly tu luyện nhiều năm thành tinh, thường biến thành hình dạng vào thành. Có họa sỹ trông thấy dung mạo đẹp tuyệt trần vẽ lại, bức tranh được vẽ sinh động như người . Sau đó, con hồ ly tinh này trà trộn vào cung cấm để mê hoặc quân vương, ngờ sau khi uống rượu nguyên hình, lộ ra chiếc đuôi hồ ly, bị ngự lâm quân nhìn thấy bắt lấy chém đầu tại Ngũ Triều môn. Con hồ ly chết nhưng hồn chưa siêu thoát được, nó chốn trong bức tranh mỹ nhân. Về sau, bức tranh đó lưu lạc trong dân gian, người dân nhầm tưởng rằng đó là bức tranh tiên nữ, chỉ cần nửa đêm thắp hương cầu khấn tiên nữ trong tranh bước ra. Có lão nhà giàu trong vùng bỏ khoản tiền lớn để mua bức tranh về thờ trong nhà chờ thời cơ gặp tiên nữ trong tranh. Kể từ đó gia đình ông ta bị tinh trong tranh hại chết từng người từng người . Đúng lúc này sư tổ của ta qua, thấy khí từ trong nhà bốc ra mù mịt khiến người mở mắt nổi, sư tổ liền đeo kiếm bước vào nhà, dùng tam vị chân hỏa đốt bức tranh, giải cứu cho dân chúng trong vùng.”

      Tôi thấy câu chuyện của Nhị lão đạo chỉ là chuyện bịa, nhưng vùng Đông Bắc lại lưu truyền rất nhiều những câu chuyện ma mãnh như vậy, vì nơi đây nhiều rừng rậm, thường xuyên bắt gặp cáo và hồ ly, nên tin được. Sách Ni Nhi và Trương Cự Oa tròn mắt lắng nghe, vừa sợ vừa muốn nghe tiếp, nghe xong còn thỏa sức tưởng tượng.

      Đêm đó ngủ lại đầm cỏ, tôi cứ có cảm giác như bên cạnh mình có thêm người nữa khiến toàn thân gai lạnh, chẳng biết có phải do nghĩ ngợi nhiều quá hay mà suốt đêm mộng mị liên miên, mơ màng thấy có người lại lại suốt đêm, làm tôi thể ngủ yên. Tôi cứ tưởng đó chỉ là ảo giác, nhưng khi trời sáng thức dậy thấy bên cạnh đúng là thừa ra người, có điều phải là người còn sống.

      2



      Trước giải phóng có lời đồn đại rằng, ít người mạo hiểm vào Lão Câu tìm vàng, nhưng rất nhiều người nắm tình hình, mới được nửa đường làm mồi cho lũ ruồi trâu, bị hút cạn máu thành những xác chết khô đét, khắp người chi chít chấm đen, bộ dạng hết sức kinh khủng. Những xác chết này nằm rải rác trong các bụi cỏ, năm này qua năm khác chịu gió dập mưa vùi. Có những xác chết đến bây giờ vẫn còn nằm đó và trở thành ký hiệu dẫn đường tới Lão Câu. Tối qua, chúng tôi dừng chân dựng trại, vì quá mệt nên sau khi nghe Nhị lão đạo huyên thuyên xong, tôi vào lều lăn ra ngủ ngay, đến khi trời sáng mới biết có xác chết nằm cạnh mình, kinh sợ đến nỗi cả ngày hôm đó muốn ăn bất cứ thứ gì.

      Ngày thứ hai rồi ngày thứ ba, thời tiết vẫn lúc đẹp lúc xấu, lúc nắng cháy khi mưa rào, luôn khiến người ta cảm thấy khó chịu, có những chỗ thể vòng đành phải lội nước, những lúc như vậy cần quấn xà cạp tránh bị đỉa cắn. Cứ như vậy, chúng tôi lần mò trong đầm cỏ, qua những vũng lầy. trời mây trắng, dưới đất là cỏ vàng, ngút ngàn tầm mắt như có điểm tận cùng. đến ngày thứ tư, mây đen đầy trời, gió dữ nổi lên, phía chân trời phía nam xuất hai vệt màu đen, tựa như hai con cá quả khổng lồ chui lên từ trong những bụi cỏ.

      Sách Ni Nhi : “Đó là núi Kháng Diên Tử, phía dưới có khe núi gọi là Lão Câu, cũng đến nỗi sâu lắm.”

      Nhị lão đạo xem xét lúc, mừng rỡ : “Núi Kháng Diên Tử hai bên cao chính giữa thấp, hình dạng giống như hai con quỷ đứng gác cổng, y như lời Sư tổ tôi truyền lại. Đúng là chỗ này rồi! Trông gần vậy, nhưng tới nơi cũng còn xa lắm, ít nhất chiều mới tới, giờ vẫn còn sớm, chúng ta nghỉ chân ăn trưa rồi tiếp.”

      Chúng tôi tìm chỗ đất bằng để nghỉ chân, gặm tạm miếng bánh mì khô cùng rau vuốt mèo[1]. vào đầm trạch mang được nhiều lương khô, dọc đường đều phải ăn tạm rau dại cho đỡ đói. Nhị lão đạo hứa, chỉ cần tới nơi là đưa trước nửa tiền, lúc ra trả nốt phần còn lại. Ông ta y lời lấy tiền đưa cho Sách Ni Nhi, còn : “Tôi và đồ đệ xuống Lão Câu đào mộ, e hơi ít người, nếu hai cậu đồng ý ở lại giúp tay hai người có thể chọn bất cứ thứ gì trong cỗ quan tài cổ đó, mỗi người chọn lấy món tùy thích.”

      [1] Là loại rau dại có hình dạng giống vuốt mèo.

      Sách Ni Nhi lắc đầu : “Tôi cứ nghĩ trong Lão Câu chẳng có gì, mới đồng ý dẫn đường cho ông, nhưng dọc đường nghe đạo sỹ kể chuyện, hóa ra có mộ cổ , giờ tôi hối hận lắm rồi, trở về thể nào cũng bị ông nội tôi mắng chết.”

      Nhị lão đạo : “Chỉ cần chúng ta ra làm sao có người biết được. xem, giờ tới đây rồi, sao còn hối hận nữa?”. Ông ta lại hỏi tôi: “Lão huynh đệ, thế còn cậu? Tiền đến tận tay rồi mà có gan lấy à?”

      Tôi cũng kìm nén được nỗi tò mò, muốn theo Nhị lão đạo vào bên trong xem chuyện bích họa trong ngôi mộ cổ thực hư thế nào, vả lại nghe lão đạo kể ngôi mộ này quy mô , cơ hội tốt như vậy hiếm có. Mặc dù trước đây nghe lão Nghĩa mù thể kiếm cơm bằng nghề đổ đấu, trò đào mộ trộm báu vật tránh khỏi chữ “tham”, khi lòng tham nổi lên có nghĩa khí gì nữa, gan ăn trộm cũng ngày to hơn, lấy mạng để đổi tiền khác gì xẻo thịt ở chân để lấp đầy bụng đói, sớm muộn gì mình cũng chết dưới tay mình. Nhưng sợ hãi dám chẳng phải để Nhị lão đạo và đồ đệ của ông ta chê cười tôi nhát gan sao? Người ta tới nước này rồi tôi cũng thể để mất mặt được. Kéo Sách Ni Nhi sang góc bàn bạc, cuối cùng chúng tôi cũng nhận lời Nhị lão đạo.

      Nhị lão đạo : “Lão huynh đệ hổ là người tới từ thành phố lớn, biết nhiều hiểu rộng, cái khác tôi dám chắc, còn hôm nay cậu cứ đợi được mở mang tầm mắt. Mấy ngày nay chúng ta lăn lộn đồng cỏ, hít gió trời ăn cỏ dại, đợi việc thành công, tôi mời mọi người ăn bữa no nê, tay gấu hầm hạt thông, nấm thông nhung kho mũi chó rừng, môi cá tầm hầm gân hươu, cứ món ngon mà gọi, được ?”

      Trương Cự Oa nghe vậy, nước miếng chảy ròng ròng: “Đạo trưởng, thế còn gì được nữa, thầy bảo sao con làm vậy.”

      Nhị lão đạo : “Tốt! Lần này lão đạo ta điều hành đại cục, mọi người phải nghe theo lời tôi, lát nữa nghỉ chân xong chúng ta tới chỗ khe núi xem tình hình ra sao rồi tính kế sách.”

      Lúc này mây đen che kín bầu trời, con chim nhạn đơn vỗ cánh bay ngang qua, đầm cỏ lại nổi gió, những cơn gió lạnh buốt kèm theo mưa, thời tiết lại đột ngột chuyển xấu. Chúng tôi ăn vội mấy miếng lương khô rồi thẳng tiến về phía Lão Câu, tới chân núi Kháng Diên chúng tôi nhìn thấy ngọn núi thấp, mà thực ra cũng thể gọi là núi, cùng lắm là quả đồi, núi có khe nứt chạy theo hướng đông tây, hẹp dưới rộng, sâu khoảng mười mấy mét, hơi lạnh bốc lên gai cả người, nước mưa chạy dọc theo sườn núi xuống tận đáy. Nhị lão đạo bật đèn pin lên, dẫn đầu nhóm, dọc xuống khe núi theo sườn đất. đường , tôi phát , vách núi có nhiều hoa văn giống hình cá tầm bốn chân, đầu to đuôi . Lời đồn bích họa ăn thịt người có khi chỉ là những dấu tích này, niên đại của nó còn lâu đời hơn mộ cổ Khiết Đan.

      Trương Cự Oa cố mở to mắt hết cỡ nhìn những hoa văn vách núi: “Trông thế nào cũng giống quái vật ăn thịt người”. rồi cậu ta định sờ vào những họa tiết đó.

      Tôi giữ lấy tay Trương Cự Oa: “Nếu là tôi, tôi động vào nó, tục ngữ có câu “ có lửa làm sao có khói”, lời đồn bích họa trong Lão Câu ăn thịt người phải tự mọc ra đâu.”

      3



      Nhị lão đạo với Trương Cự Oa: “Lão huynh đệ sai, kiếm cơm bằng nghề này chúng ta phải hết sức cẩn thận.”

      Trương Cự Oa trả lời: “Vâng, em xin nghe và đạo trưởng.”

      Sách Ni Nhi cũng hiếu kỳ hỏi tôi: “ nghĩ dưới khe núi đó vẽ những hình gì?”

      Tôi : “Có thể là rắn hoặc rồng gì đó, cũng có thể là hóa thạch. Niên đại lâu quá rồi tôi cũng nhìn .”

      Ở Nội Mông có tục thờ rắn, rồng, vùng thảo nguyên thờ sói, vùng rừng rậm thờ gấu, có hang động thờ rắn v.v… nhưng những dấu tích ở Lão Câu này đơn thuần là dấu tích tự nhiên, có thể phải do con người tạo ra.

      Vết tích vách núi có niên đại lâu đời hơn bích họa trong mộ Khiết Đan. Năm xưa, những người đào vàng mạo hiểm vào đây, rồi đồn nhau bích họa trong này ăn thịt người có thể là do nhìn thấy những hình thù vách núi, liên quan tới ngôi mộ cổ chúng tôi tìm. Chúng tôi thận trọng di chuyển cẩn thận trong khe núi, có dấu vết của con người cũng có dấu vết của động vật, dưới khe núi vừa ẩm vừa lạnh, toát ra mùi hôi tanh ẩm thấp.

      Nhị lão đạo lôi la bàn ra tìm phương hướng, phía trước dẫn đường, lúc rẽ hướng đông lúc rẽ hướng tây. Núi Khang Diên có địa thế hai bên cao ở giữa thấp, phía bắc cao hơn phía nam. Vị trí hầm mộ nằm tại phần trũng xuống, đường hầm thông vào mộ chính là chỗ khe núi. Phía dưới khe núi toàn nhũ đá bị gãy, cho dù có tìm thấy đường hầm dựa vào mấy người chúng tôi chưa chắc đào nổi. Mấy trò phép thuật của Nhị lão đạo tuy chẳng ra sao, nhưng bản lĩnh tìm huyệt mộ phải vừa. Nhận thấy lớp đá rất cứng, khó có thể di chuyển được, lão liền ra khỏi khe leo hẳn lên núi Khang Diên, tay vẫn cầm la bàn tới lui, qua trái phải, sang đông sang tây, tìm lúc xuống sườn núi. Lão chỉ vào đám bùn lầy mọc đầy cỏ dại phía bên ngoài khe núi: “Ngắm chuẩn rồi! Đào chỗ này chắc chắn thông tới đường hầm.”

      Trương Cự Oa nhận được lệnh liền lôi xẻng cán ngắn ra phát cho tôi và Sách Ni Nhi mỗi người chiếc. Dưới hướng dẫn của Nhị lão đạo, chúng tôi bắt đầu đào từ đám bùn lầy đó. Mặc dù đất bùn lầy dễ đào nhưng vì khe núi hẹp tay chân thể cử động thoải mái được, nên tới nửa đêm, chúng tôi mới đào tới đáy, bên dưới lộ ra những viên gạch dài màu đỏ đun, dùng đất sét đỏ khớp rãnh, ba người chúng tôi cạy vài viên gạch lên mệt bở hơi tai, bên dưới là đường hầm chỉ vừa người .

      Tôi nhìn thấy Nhị lão đạo tránh vào cửa chính của ngôi mộ mà đào từ phía đỉnh đường hầm xuống. Vì bị ngâm trong nước nhiều năm, nên kết cấu giữa những viên gạch có phần lỏng lẻo, chúng tôi khỏi khâm phục đôi mắt gian xảo của Nhị lão đạo, trông thế mà chuẩn.

      Nhị lão đạo cố nén lòng tham, lão giải thích vì hầm mộ bị bịt kín nhiều năm, bên trong có nhiều khí, thể vào bên trong ngay được, hơn nữa bây giờ trời cũng tối rồi, mọi người ai nấy đều mệt, nghỉ ngơi chút , cuối đường hầm còn lần cửa nữa, ngày mai vẫn còn việc để làm.

      Đêm hôm đó trời mưa ngớt, Trương Cự Oa hỏi chúng tôi: “Mọi người có tin lúc đào trộm mộ mà gặp trời mưa nghĩa là ma khóc ?”

      Sách Ni Nhi nhát gan, hay tin vào mấy câu chuyện mê tín dị đoan kiểu này, nghe Trương Cự Oa hỏi vậy mặt tái mét.

      Tôi với Sách Ni Nhi: “ có chuyện đó đâu, người chết bị chôn trong mộ giữa chốn hoang vu có ai làm bạn, lạnh lẽo bao nhiêu năm như vậy, giờ khó khăn lắm mới có người đến thăm, vui mừng còn hết, sao mà phải khóc.”

      Nhị lão đạo : “Đúng là lão huynh đệ tin tà ma, lão đạo tôi sớm nhận ra cậu phải người tầm thường, hơn hẳn thằng đồ đệ của tôi chỉ biết mỗi việc khiêng đồ. Tôi thấy hồn dã quỷ có đáng sợ đến mấy cũng đáng sợ bằng nghèo đói, tôi bị cái nghèo hành cho phát sợ rồi. Đợi mẻ này thành công đủ cho nửa đời còn lại ăn chơi phè phỡn, các cậu chỉ cần nghĩ như vậy thôi là cứng gan lại ngay.”

      Chúng tôi uống nước lạnh, ăn lương khô, nghe Nhị lão đạo đến đó hai mắt díp lại thể chống lên được nữa, đêm hôm nay đúng là quá mệt. Bốn người thay nhau gác cửa đường hầm tránh cho nước chảy vào, chịu đói chịu khát tới khi trời sáng.

      Sáng hôm sau, Nhị lão đạo thắp ngọn đèn bão giao cho tôi và Trương Cự Oa vào trong thám thính, ông ta còn dặn dò: “Lão huynh đệ phải nhớ kỹ, đèn tắt người chết.”

      4



      Nhị lão đạo với tôi, ngôi mộ Khiết Đan này nằm phía dưới đồi đất to, bên mọc đầy cỏ dại, hầm mộ ở ngay dưới đồi đất, lần cửa thứ nhất nằm dưới khe núi Lão Câu, để đảm bảo ảnh hưởng tới phong thủy nên người xưa dùng gạch xây nối giữa hầm mộ và cửa mộ, phía sau cửa mộ còn lần cửa đá nữa, tường hầm mộ xây bằng đá rất kiên cố, khó mà đào vào trong được. Để vào ngôi mộ cổ này, cách đơn giản nhất chính là đào từ phía đường hầm dẫn vào mộ. Nhưng ngôi mộ bị bịt kín nhiều năm, lưu thông khí, vào sâu bên trong thấy khó thở, nếu ngọn đèn bị tắt chứng tỏ khí trong mộ vẫn còn nhiều, phải quay ra ngay, đêm dài lắm mộng, ở trong đó lâu ắt có biến cố, thăm dò tình hình trong mộ, mở cửa mộ lấy đồ xong, phải nhanh chóng quay trở ra ngay.

      Chúng tôi quấn xà cạp, rồi thòng dây thừng để xuống đường hầm, bên dưới lạnh lẽo vô cùng, nếu hai người song song nhau hơi chật, đất rất xốp, chạm tay vào tường là từng mảng đất rơi xuống, đường hầm có thể sập bất cứ lúc nào, và chúng tôi bị chôn sống dưới này bất cứ lúc nào. Đường hầm được xây bằng gạch nung dài, bên phủ lớp bụi dày, tường đều khắc bích họa tuy nhiên đoạn hầm này bị sụt lở nghiêm trọng, lại ngâm trong nước lâu năm nên chỉ vài họa tiết còn nhìn thấy được, trong đường hầm vương vãi ít xương cốt, có thể là xương người bị tùy táng, cũng có thể là xương súc vật, chúng gãy vụn thể nhận biết được.

      Trương Cự Oa tuy to xác nhưng nhát gan, cậu ta theo sát phía sau lưng tôi và hỏi: “ à, đào mộ cổ bao giờ chưa?”

      Tôi : “Hồi ở quê vẫn hay chơi dưới mấy cái huyệt , còn cá cược với lũ bạn ngủ qua đêm ở bãi tha ma nhưng chỉ là huyệt trống, ngoài mấy con nhện ra chẳng có gì dưới đó cả. Mộ cổ như mộ thời Liêu này lần đầu tiên đấy, cậu là đồ đệ của Nhị lão đạo mà chưa vào mộ cổ lần nào à?”

      Trương Cự Oa : “Nửa năm nay em theo đạo trưởng cũng đào được mấy cái mộ, nhưng chưa bao giờ đào cái mộ nào to như thế này, chỉ riêng đường hầm thôi mà sâu thế vậy rồi, bên trong biết có gì?”

      Tôi nghĩ bụng: “Biết rồi còn hỏi, trong mộ cổ ngoài ‘bánh chưng[2]’ ra còn có gì được nữa? Trước đây nghe Nhị lão đạo ngôi mộ này chôn người con Khiết Đan, lúc còn sống nàng những là người hoàng tộc, xinh đẹp tuyệt trần, mà còn là nữ thần Saman, thân phận rất đặc biệt.”

      [2] Bánh chưng: là tiếng lóng của dân trộm mộ, ám chỉ xác chết trong quan tài.

      Trương Cự Oa kêu lên: “Chà! biết nàng đẹp đến mức nào?”

      Tôi hỏi cậu ta: “Cậu nghĩ xem, trong số những cậu từng gặp ai là xinh nhất?”

      Trương Cự Oa : “Sách Ni Nhi! Tóc dài thướt tha, trông là thấy thích rồi. Cả đời em chưa bao giờ thấy nào xinh như vậy cả.”

      Tôi : “Sách Ni Nhi đúng là rất xinh, nếu sinh vào thời Thanh ấy cũng có thể là Cách Cách đấy, nhưng so với Khiết Đan này khí chất có khi bằng vì Sách Ni Nhi lớn lên trong gia đình săn bắn, tính khí nhiều lúc còn cương hơn cả đám đàn ông.”

      Trương Cự Oa : “Dù sao Khiết Đan kia cũng chết rồi, người chết sánh được với người còn sống.”

      Tôi : “Biết đâu chết nhưng bị phân hủy, mở nắp quan tài ra thấy vẫn như còn sống…”

      Trương Cự Oa : “Thế thành cương thi rồi còn đâu. đừng nữa, em yếu bóng vía lắm.”

      Tôi : “Mà bọn mình đến đâu rồi nhỉ! Cậu đừng chuyện này với Sách Ni Nhi nhé, nếu ấy tha cho tôi đâu.”

      Trương Cự Oa : “Đánh mắng thôi. ấy để ý đến mới làm vậy, con ở vùng bọn em toàn thế thôi.”

      Chúng tôi vừa vừa chuyện cho bớt sợ, tới tận cùng của đường hầm, theo ánh sáng ngọn đèn chúng tôi nhìn thấy lần cửa bằng gỗ, mỗi bên cánh cửa có dãy đinh tán bằng đồng mạ vàng. Ở giữa có chiếc khóa lớn hoen rỉ. Lớp cửa mộ đầu tiên dưới lòng núi Khang Diên là cánh cửa đá, trong đường hầm có khối đá to đùng để chặn kẻ xâm phạm, có lừa ngựa kéo đừng mơ tưởng đến chuyện mở ra, nhưng lớp cửa thứ hai chỉ làm bằng gỗ nẹp đồng, lại bị hoen rỉ mục nát, nên về cơ bản là chặn được ai.

      Trương Cự Oa rút từng cái đinh tấm cửa, rồi đục xuyên qua, bên trong toàn cát, đào hết lớp cát lại là than cốc. Đây là lớp chống ẩm trong mộ cổ, may mà dày lắm, phía sau lớp đất cát đó lại là lần cửa nữa.

      Tôi và Trương Cự Oa toàn thân nhễ nhại mồ hôi và lấm lem đất cát, nghĩ tới chuyện phía trước chính là địa cung, tự nhiên tôi lại thấy căng thẳng. Khi chúng tôi chuẩn bị cạy lớp cửa thứ ba, thấy Sách Ni Nhi vào, tôi hỏi: “Sao em lại vào đây? sợ xác chết Khiết Đan à?”

      Sách Ni Nhi : “Hai người vào lâu quá mà thấy động tĩnh gì, em lo xảy ra chuyện, sao vẫn chưa xong?”

      Tôi : “Sắp xong rồi, còn lần cửa nữa, cạy xong lớp cửa này, bên trong chính là địa cung…”

      xong Trương Cự Oa cũng đẩy bật được cánh cửa, địa cung chẳng qua cũng là huyệt đạo trong lòng đất, đúng lúc Trương Cự Oa đẩy bật cánh cửa, luồng gió đen từ bên trong phụt ra khiến mọi người nghẹt thở. Tôi và Trương Cự Oa mới nhắc đến chuyện hình dạng người Khiết Đan nên rất hiếu kỳ, mọi người bất giác cầm đèn lên, vào bên trong xem xét tình hình. Bất thình lình, từ bên trong hầm mộ tối đen xông ra con quái vật hình thù kỳ dị, toàn thân mọc đầy lông trắng toát, hai mắt sáng rực, răng nanh nhọn hoắt.

      5



      Ngọn đèn bão lung lay trước cơn gió từ trong hầm mộ thổi ra lúc tỏ lúc mờ, cùng lúc đó con quái vật chưa ai nhìn thấy bao giờ, lông trắng mắt vàng, há to cái miệng đỏ au như máu xông ra. Ba người chúng tôi hồn bay phách lạc, tóc đầu dựng ngược hết cả lên, chôn chân trong đường hầm chật hẹp biết chạy trốn đâu, chỉ biết giương mắt nhìn con quái vật lao tới. Tôi kinh hoàng vơ vội chiếc cuốc chim ném về phía con quái vật, chỉ thấy như ném vào khí, chiếc cuốc va vào lớp tường gạch phát ra tiếng kêu chát chúa, vì ném mạnh quá nên lưỡi cuốc bị nứt, còn con quái vật lao về phía chúng tôi như cơn lốc khiến mọi người thể thở được, khi nhìn lại trước mắt bỗng thấy gì hết.

      Chúng tôi thất kinh hồn vía, thở ra hơi, vội vã quay ra theo đường cũ. Trương Cự Oa kể lại hình ảnh kinh hãi vừa rồi cho Nhị lão đạo nghe. Cả ba người đều nhìn thấy, thể nhìn nhầm được, nếu tiếp tục vào bên trong chắc chắn bị con quái vật canh mộ đó ăn tươi nuốt sống.





      Nhị lão đạo kiếm cơm bằng nghề đổ đấu, kinh nghiệm cũng rất phong phú, nghe Trương Cự Oa tả lại như vậy biết ngay đó phải ác thú. Ngôi mộ cổ này hàng nghìn năm lưu thông khí, những bức tranh vẽ tường màu sắc vẫn sặc sỡ giống như vừa được vẽ xong, đúng thời khắc mở cửa mộ, khí trong mộ tràn ra ngoài, màu sắc những bức tranh cũng theo cơn gió đó mà bị bay ra bên ngoài phần nào. Mắt thường nhìn thấy hình ảnh quái thú chẳng qua là màu sắc của những bức bích họa bị thổi ra ngoài. Thời xưa mê tín, cứ nghĩ rằng đó là hồn ma bóng quỷ. Nếu gặp phải những trận gió như vậy, sợ tới hồn bay phách lạc, nặng chết ngay tại chỗ. Thực ra điều này cho thấy ngôi mộ được bảo tồn nguyên vẹn.

      Tôi nhớ lão Nghĩa mù cũng từng với tôi chuyện này, Nhị lão đạo dối, nhưng Trương Cự Oa thế nào cũng chịu vào mộ lần nữa.

      Nhị lão đạo quát: “Đồ vô dụng! Suốt ngày biết làm gì, chỉ muốn ngồi ăn sẵn, cũng nghĩ lại xem mộ tổ nhà mày có mọc ngọn cỏ dại nào ? Nhát gan làm được tướng quân, sợ chết phải là đại trượng phu, mày có muốn kiếm tiền xây nhà, cưới vợ hà?”. Nhị lão đạo biết tỏng gan ruột của Trương Cự Oa, hồi như vậy, cậu ta lại bị thuyết phục.

      Trương Cự Oa ôm mộng làm giàu, nghe Nhị lão đạo vậy, cậu ta lại liều ôm cuốc cầm đèn quyết tâm vào mộ cổ tìm báu vật.

      Nhị lão đạo quay lại với tôi: “Lão huynh đệ, thằng đồ đệ của tôi chẳng được tích gì, đành phải nhờ cả vào cậu. Cậu cũng biết từ cổ tới nay có ba giáo phái: Đạo giáo, Phật giáo, Nho giáo. Nho giáo bình thường, Phật giáo thanh đạm khổ cực, duy có Đạo giáo là trường sinh bất lão, biến hóa vô cùng và lanh lợi nhất. tới đâu cũng khiến mọi người phải ngước mắt nhìn. Thuật trường sinh bất lão tuy khó luyện thành nhưng sư phụ tôi cùng các đạo nhân đều dựa vào xem bói xem tướng, xem phong thủy để kiếm sống. Tuy chưa đến mức giàu có nhưng tới nỗi chết đói. Có điều tới đời chúng tôi gặp lúc đất nước giải phóng, nhà nước chủ trương đẩy lùi tệ nạn mê tín dị đoan. Bát cơm từ nhiều đời tổ tiên để lại, đến đời tôi bị đạp đổ, tôi chẳng biết làm gì khác, đào trộm mộ biết làm gì? Ngày trước tôi hút thuốc phiện, giờ thành đồ bỏ rồi, thể chịu được cái lạnh dưới hầm mộ, nên đành nhờ vào cậu hướng dẫn đồ đệ tôi vào mộ, nhờ cậu trong nom nó với.”

      Tôi nghĩ trong bụng: “Lão cáo già này khéo sai bảo người khác, tự thân mình vào mộ cổ, mấy việc nặng nhọc khó khăn này đều đùn hết cho mình và Trương Cự Oa”. Nhưng tôi là người ưa chứ ưa nặng, thời buổi đó lại tuổi thanh niên hiếu thắng, biết là việc khó cũng muốn kiếm cớ thoái thác. Tôi nghe theo sắp xếp của Nhị lão đạo, bảo Trương Cự Oa mang túi da rắn, đeo găng tay, dây thừng, đèn pin, đèn bão và rìu.

      Lúc này quá ngọ, chắc dưới hầm mộ có chút khí tràn vào, tôi và Trương Cự Oa đeo khẩu trang chuẩn bị xuống, Sách Ni Nhi vác theo khẩu súng săn đòi theo vào hầm mộ, phần lo tôi xảy ra chuyện, phần cũng do hiếu kỳ, càng sợ càng muốn , cho cùng vẫn là kẻ to gan, vác theo súng săn tuy dọa được người chết, nhưng cũng đủ để người sống thêm phần vững dạ.

      Tôi muốn để Sách Ni Nhi xuống mộ, tuy tôi tin hồn người chết vẫn còn trong mộ, nhưng những hiểm họa như cát rơi đá đổ luôn rình rập, thời gian lưu thông khí cũng chưa lâu, chưa biết chừng xuống đó lại chết ngạt, đường hầm có thể sập xuống bất cứ lúc nào. Nhưng Sách Ni Nhi mực đòi theo, tôi đành phải để theo và bắt phải sát phía sau tôi, được lên phía trước.

      Lần này trước khi xuống đường hầm, Nhị lão đạo đưa cho tôi cây hương, dặn kỹ chúng tôi phải hành động nhanh chóng, trước khi que hương cháy hết phải trở lại mặt đất. Tôi hỏi lại tại sao phải vậy, lão ta chỉ ậm ừ trả lời rằng ở dưới lâu sợ xảy ra biến cố.

      Trương Cự Oa cầm rìu và đèn bão trước, tôi cùng Sách Ni Nhi cầm đèn pin sau, ba người thả dây thừng xuống đường hầm, lần mò vào tới cửa mộ theo đường cũ. Hầm mộ được đào bên dưới đồi đất, chia thành tiền, trung, hậu ba gian mộ thất. Tiền thất hẹp, chỉ cách cửa mộ khoảng năm bước chân, bức tường đối diện cửa mộ vẽ hình con mãnh hổ nhe nanh giương vuốt, đây là linh thú trấn mộ tránh tà, phần lớn màu sắc bị bay mất khi mở cửa mộ, bức tranh giờ có mày tối sậm nhưng vẫn nhìn hình ảnh con vật gầm gừ hung dữ. Những bức bích họa phía trong bay màu nghiêm trọng lắm, chúng tôi quét đèn pin lượt, chỉ thấy màu tranh vẫn tươi tắn như mới, đó vẽ người, vật, hoa cỏ, cung điện, núi non, còn có quần thần ca hát tiệc tùng, nét vẽ điêu luyện, có phong cách của hội họa đời Đường. Ở giữa nơi này, tôi thấy mình như lạc vào phòng tranh nghìn năm tuổi.


    4. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      <!--[if gte mso 9]><xml>
      <o=DocumentProperties>
      <o:version>12.00</o:version>
      </o=DocumentProperties>
      </xml><![endif]-->

      6[/B]

       

                  [/B]Diện tích tiền thất lớn nhưng rộng hơn nhiều so với đường hầm. Bốn bề đều được xây bằng gạch. Mới bước vào trong, ánh sáng chiếc đèn bão giảm , đèn pin cũng chiếu sáng được xa, mùi ẩm mốc vẫn nồng nặc kèm thêm mùi tanh khó chịu của đất. Chúng tôi sợ bị ngạt nên dám quá nhanh.

                   Vừa vào, chúng tôi nhìn thấy bức bích họa ác thú gác cổng, hai bên và phía đầu có họa tiết hạc tiên và mây vờn, hai bên có bốn tượng đất quay mặt vào nhau trong tư thế nửa quỳ nửa ngồi, xem ra đây là hình ảnh của lính thị vệ, người nào người nấy mắt to mày rậm, tóc dài ngang vai, mình mặc áo dài cổ tròn có hoa, chân hài, thắt dây lưng, tay cầm búa dài. Họa tiết hoa áo, búa và hài đều được dát vàng.

                   Thấy Trương Cự Oa cạo lớp vàng bên ngoài, tôi liền : “Nhị lão đạo dặn rồi, lấy năm món bảo vật ở hậu thất là được, đồ tùy táng ở ngôi mộ này quá nhiều, đến vàng dát mà cậu cũng lấy cạy ba ngày ba đêm cũng hết đâu.”

                   Trương Cự Oa tuy hoa hết cả mắt nhưng vẫn gật đầu : “Vâng, em nghe . này, mấy ông tượng gốm này sao cầm dao quăm mà lại cầm vũ khí hao hao giống búa thế nhỉ, liệu có dùng được ?”

                   Tôi : “Cậu biết gì, phải búa, mà là kim trảo, trước ngự giá được dùng đao, nên chỉ có thể dùng kim trảo, Hoàng thượng thấy ai chướng mắt liền lệnh cho thị vệ lôi ra ngoài điện dùng kim trảo “kích đỉnh”, có nghĩa là đè phạm nhân xuống dưới đất, dùng búa dài này gõ mạnh vào đầu, như là bổ dưa hấu ấy.”

                   Trương Cự Oa : “ giỏi đấy, chuyện này mà cũng biết.”

                   Sách Ni Nhi : “Hình như em có nghe ông nội , cái này gọi là cốt đóa…”

                   Thực ra Sách Ni Nhi sai, vũ khí mà võ sỹ trong mộ Liêu cầm chính là cốt đóa. Từ rất lâu rồi, nó là binh khí của người Khiết Đan, cũng là binh khí của đội quân tự vệ. Lúc đó tôi cũng biết nó là binh khí gì, chỉ tiện mồm vậy thôi. Tôi giải thích với Sách Ni Nhi rằng cốt đóa và kim trảo khác gì nhau, chỉ là cách gọi của Quan Nội và Quan Ngoại giống nhau mà thôi.

                   Trung thất là hầm mộ xây dựng theo thuyết trời tròn đất vuông trần vòm, diện tích bằng bốn gian nhà dân, tường cao khoảng ba bốn mét, đèn pin thể chiếu sáng đến điểm tận cùng, hai bên mỗi bên có gian nhĩ thất [3] , góc tường là những chiếc cột xây bằng gạch, tường vẽ những bức tranh đen trắng và tranh màu nền đỏ, trần mộ và bốn phía xung quanh bức tường là bức tranh hoàn chỉnh, màu sắc vẫn còn tươi tắn, hình ảnh sinh động như .

                 [3] Nhĩ thất: là gian phòng nằm ở hai cạnh gian chính.[/I]

                   Trần mộ tô màu xanh lam điểm xuyết những ngôi sao màu trắng, phía đông nam vẽ vầng mặt trời đỏ au, bên trong có con chim vàng ba chân, phía tây nam vẽ vầng trăng sáng vằng vặc, trong cung trăng có cây đa và thỏ ngọc, gian thăm thẳm, trời thăng trăng giáng, toàn cảnh bức tranh khiến người ta có cảm giác như thỏ chạy, chim bay, thời gian trôi chảy như ánh sáng, và cuộc sống được hồi sinh. Tôi ngẩng đầu nhìn trần ngôi mộ cổ nghìn năm tuổi, vừa xem tim vừa đập thình thịch, Sách Ni Nhi và Trương Cự Oa cũng tròn mắt kinh ngạc đứng.

                   Tôi nghĩ thầm: “ Khiết Đan này cũng biết hưởng thụ đấy, chết rồi mà vẫn còn được ngắm những bức tranh đẹp như trong truyện cổ tích thế này”. Vừa nghĩ, tôi vừa lia ánh đèn pin sang phía bức tường, tiền gần lại xem thấy những bức bích họa trong ngôi mộ cổ này được sắp xếp theo lớp lang, miêu tả lại cuộc sống của chủ nhân khi còn sống, những buổi ca hát tiệc tùng trong hoàng cung, những buổi tế lễ thần, những buổi cưỡi ngựa săn bắn trong rừng, đội quan thị vệ uy nghiêm trong bộ áo giáp lấp lánh, người hầu quỳ dưới chân kính cẩn dâng rượu thịt, lính dắt ngựa nghiêm trang trong tư thế sẵn sàng đợi lệnh xuất hành của chủ nhân. Bên gian nhĩ thất chất đầy các loại bát bằng mã não, thủy tinh, bát đĩa sứ tráng men trắng, men xanh, bình vàng hũ bạc, yên ngựa khảm ngọc dát vàng. Chỉ cần lau lớp bụi dày bên ngoài , là vàng ròng, bạc trắng, mã não đỏ ra chói lóa cả mắt. Những ngôi mộ bình thường thể nào so sánh nổi. Dù cách hàng nghìn năm, nhưng nhìn vào những đồ tùy táng này cũng đủ biết được cuộc sống, sa hoa, cơm vàng áo bạc, người hầu kẻ hạ của chủ nhân ngôi mộ.

                   Trương Cự Oa : “So với chủ nhân ngôi mộ này mình đúng là lãng phí đời, sao người ta lại có cuộc sống sa hoa như vậy được chứ?”

                   Tôi : “Sư phụ cậu câu rất chuẩn, số đểu còn biết trách ai, có trách trách mộ tổ nhà cậu mọc được cỏ.”

                   Sách Ni Nhi hỏi: “Toàn những thứ sinh mang đến chết mang , cần nhiều thế để làm gì? Công chúa Mang Cổ lúc sống có bao kẻ hầu người hạ, của cải chất đống, nhưng chẳng phải vẫn chết trẻ đấy thôi.”

                   Tôi hỏi lại: “Sao em biết Khiết Đan chết trẻ?”

                   Sách Ni Nhi trả lời: “Có gì lạ đâu, nữ thần Saman Mang Cổ chết lúc ngoài hai mươi tuổi, nếu hỏi mộ nàng ở đâu ai biết, nhưng nhắc tới tên của nàng lớp người trước của giáo phái Saman ai cũng . Truyền thuyết rằng, nữ thần Mang Cổ có thể chuyện với quỷ thần, mắt của nàng có thể nhìn xa ngàn dặm, sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành, thế gian hiếm có.”

                   Tôi : “ Khiết Đan này lúc sống xinh đẹp đến đâu chúng ta ai biết, vì hồi đó chưa có máy ảnh, nhưng những bức bích họa kia chắc phải khắc họa lại dung nhan của chủ nhân ngôi mộ.”

                   Tôi muốn tìm tranh chân dung nữ thần Saman trong số những bức bích họa kia, có điều nhiều bức họa như vậy nhưng hoàn toàn có tranh chủ nhân ngôi mộ. Tôi biết, thi thể nằm ở hậu thất mà nằm trong hầm mộ u lạnh lẽo này và theo dõi mỗi hành động của ba chúng tôi từ đầu đến cuối.

                 7[/B]

       

                   Tôi với Trương Cự Oa và Sách Ni Nhi là chúng tôi ở rất gần thi thể Khiết Đan, chủ nhân ngôi mộ được đặt ở chính nơi này.

                   Trương Cự Oa thắc mắc: “Sao chủ nhân ngôi mộ lại ở hậu thất hả ?”

                   Tôi : “Cậu theo Nhị lão đạo làm đồ đệ bao lâu thành công cốc à? Hậu thất thường chỉ dùng để bia đá, chủ nhân ngôi mộ đương nhiên phải ở gian chính thất rồi.”

                   Sách Ni Nhi nghe tôi thi thể Khiết Đan ở ngay đây sợ hết hồn, trách tôi sao sớm. Những truyền thuyết về nữ thần Saman nước Liêu lưu truyền rộng rãi khắp vùng Đông Bắc, giáo phái Saman ngày nay chỉ còn biết thuật trừ tà. Nghe thời xưa họ thông thạo mọi pháp thuật thần thông. Sách Ni Nhị nghe quá nhiều những truyền kỳ về họ từ các bậc tiền bối, nên giờ sợ sợ nhưng vẫn muốn xem hình dạng của Khiết Đan kia như thế nào.

                   Càng sâu vào trong, ánh đèn bão càng tối, chúng tôi hít thở cũng thấy khó khăn hơn, hơi thở bắt đầu trở nên gấp gáp, mồ hôi túa ra đầy lòng bàn tay. Chúng tôi tiếp tục tiến lên, phía trước mờ mờ ảo ảo ra hình ảnh chiến giường bằng đá kê sát chân tường, cao đến lưng người bình thường, chạm khắc thành hình đầu rồng mình cá, đó là chiếc giường đá hình cá Ma Kết, có điều chỉ có chiếc giường đá chứ có quan tài, thi thể nằm nghiêng chiếc giường đá đó. Phong tục mai táng của người Khiết Đan khác với vùng Quan Nội. Người Saman cổ tin vào thuyết thông linh, khi mai táng kiêng dùng quan tài. Điều này tôi cũng được nghe lão Nghĩa mù kể lại. Tôi tiến lên vài bước để xem cho hơn, Sách Ni Nhi nấp phía sau tôi và Trương Cự Oa, cố rướn người xem ra chúng tôi gần như nín thở, quan sát mọi thứ trước mắt dưới ánh sáng lờ mờ của chiếc đèn pin.

                   Phía dưới chiếc giường đá vẽ hình nam hai nữ, hình thức và thần thái đều rất sinh động, hai mặc váy cung nữ màu xanh, người cầm quạt lông vẹt trắng, người cầm chậu vàng, bên cạnh còn có cụ già trong trang phục Saman, đầu quàng khăn voan màu đen, khuôn mặt hơi gầy, mũi cao mắt sâu, để râu dài, hai tay chắp phía trước cung kính, vẻ mặt trang nghiêm khiến người nhìn phải nể sợ. Phía trước giường đá có ba thi thể khô quắt, cũng là hai nữ nam, trang phục giống như hình vẽ trong tranh, thi thể chi chit những nốt đen.

                   Ba người này hẳn là người tùy táng, giường đá có vẽ hình dạng của ba người này cho thấy họ là người hầu thân cận của chủ nhân ngôi mộ. Người sống bị bắt uống thủy ngân rồi tùy táng, khi chết cơ thể mới có nhiều nốt chấm đen như vậy, thủy ngân giúp thi thể bảo tồn được nhiều năm mà bị phân hủy.

                   Nhìn lại nằm nghiêng giường đá, Khiết Đan được đeo mặt nạ vàng, hai bím tóc tết phía sau đầu, bên còn cài trâm bằng vàng, gối đầu chiếc gối hình thú, lưng đeo đai cài khuy Như Ý, tay đeo găng, chân hài thêu kim tuyến, cổ tay đeo đôi vòng vàng hình đầu rồng, tai đeo hoa tai bằng đá quý, ngón tay đeo nhẫn vàng, bên hông đeo hai chiếc đao có cán làm bằng ngọc, trước ngực đeo chiếc vòng hổ phách lớn, kết bằng hàng trăm viên hổ phách và ngọc trai, toàn thân mặc chiếc áo dệt bằng sợi bạc, tay ôm chiếc hộp bằng vàng có trang trí mã não. Mặt nạ vàng hẳn được làm mô phỏng lại diện mạo của khi còn sống, dùng những lát vàng mỏng dát thành, dù sao đó cũng phải là khuôn mặt của người sống, nó chỉ là chiếc mặt nạ lạnh lẽo suốt hơn nghìn năm, khi phản chiếu ra những tia sáng lấp lánh tiếp xúc với ánh đèn pin nhưng trong ngôi mộ lạnh lẽo này, tôi hề cảm nhận được vẻ đẹp hay vẻ đoan trang của , mà chỉ thấy nó kỳ dị.

                   Tôi nghĩ bụng, chẳng trách người ta ví xác chết trong các ngôi mộ cổ là “bánh chưng”, cứ bao bọc từ trong ra ngoài tầng tầng lớp lớp như vậy làm sao mà xem diện mạo trước đây được.

                   Trương Cự Oa nhìn thi thể Khiết Đan lúc hỏi tôi: “ à, cứ nhìn mãi thế này khiếp lắm. Em rồi mà, Khiết Đan này làm sao mà đẹp bằng chị em được.”

                   Sách Ni Nhi hiểu gì, hỏi lại Trương Cự Oa: “Cậu vừa gì thế?”

                   Trương Cự Oa giải thích: “ bảo, chị với Khiết Đan kia tướng mạo như nhau, nhưng em nghĩ xác chết kia làm sao đẹp bằng chị được….”

                   Sách Ni Nhi nghe vậy nổi cáu, véo tai tôi đay nghiến: “ dám so sánh em với người chết à?”

                   Tôi đau đến thở hắt ra, vội phân bua với Sách Ni Nhi: “Em đừng tin mồm thằng Oa, chắc nó lại nằm mơ, rồi tưởng là đấy”, rồi quay sang liếc xéo Trương Cự Oa cái. Tôi hỏi: “Phía sau chiếc mặt nạ kia là chân dung Khiết Đan, mọi người có dám xem ?”

                   Sách Ni Nhi sợ hãi phản đối ngay: “ cần… đừng xem, mặt người chết… có gì đáng xem đâu.”

                   Tôi , Nhị lão đạo dặn rồi, cần lấy đồ tùy táng gì khác vì bảo vật đích thực đều nằm người Khiết Đan kia, chỉ cần lấy chiếc hộp mã não khảm vàng trong tay , chuỗi vòng cổ mã não, chiếc mặt nạ vàng, ba thứ này là đủ. Đặc biệt là chiếc mặt nạ vàng có chạm trổ hình long phượng rất tinh vi, lại có hình dạng khuôn mặt của Khiết Đan khi còn sống, nên có món đồ nào có giá trị bằng nó cả.

                   Sách Ni Nhi : “Nhị lão đạo hay, sao ông ta xuống đây mà tháo chiếc mặt nạ từ người Khiết Đan kia xuống?”

                   Trương Cự Oa : “Sư phục em dám xuống đâu, nếu xuống chỉ có nước chết.”

                 8[/B]

       

                   Tôi hỏi lại Trương Cự Oa: “Cậu thế nghĩa là sao? Sao lão đạo tặc kia xuống mộ lại chết?”

                   Trương Cự Oa kể cho tôi và Sách Ni Nhi biết, tổ tiên Nhị lão đạo năm xưa xem phong thủy cho ngôi mộ này thề độc rằng, ông và hậu thế của ông được đến đào trộm mộ, nếu bị chết.

                   Tôi hỏi lại: “Cậu là đồ đệ của Nhị lão đạo, ông ta sợ chết, cậu sợ chết à?”

                   Trương Cự Oa ngẩn người ra, rồi kinh hãi kêu lên: “Ối! Em còn chưa nghĩ tới điều này!”

                   Tôi hỏi lại cậu ta: “Nhị lão đạo dạy cậu những thứ gì rồi?”

                   Trương Cự Oa : “Nhiều lắm, đạo trưởng dạy em, đào trộm mộ khởi nguồn từ lưu vực Hoàng Hà, phát triển trong dân gian, sau đó còn đưa vào cả trong kịch của người Đông Bắc, thông thường do nhóm hai người cùng làm việc…”

                   Tôi mới nghe là biết, Nhị lão đạo là tên gian xảo, ông ta chẳng dạy gì cho Trương Cự Oa cả, mấy thứ này cũng chỉ có thằng ngốc như Trương Cự Oa mới tin thôi.

                   Trương Cự Oa ít tiếp xúc với xã hội, nhìn thấy vàng bạc châu báu cơ thể Khiết Đan nổi lòng tham, chẳng còn biết sợ là gì nữa liền giục tôi soi đèn cho cậu ta lấy đồ, cậu ta còn quỳ trước vái lạy, khấn: “Em , em chết rồi giữ mấy thứ này cũng chẳng để làm gì, thôi chia cho bọn ít, coi như tích đức, đây xin đắc tội.”

                   Trương Cự Oa niệm vài câu cho vững dạ, rồi giơ tay lấy những báu vật thi thể , vì vướng ba cái xác khô nằm phía trước giường đá, nên cho dù Trương Cự Oa cao to, tay dài cũng thể với xa được, cậu ta đành dời ba xác chết sang bên, người chết do uống thủy ngân rất nặng dù bị khô đét, Trương Cự Oa di chuyển hết sức chật vật.

                   Sách Ni Nhi cầm đèn bão và súng săn sát phía sau tôi, tôi cắm que hương mà Nhị lão đạo đưa cho vào khe gạch tường, cầm sẵn túi da rắn, soi đèn pin cho Trương Cự Oa. Lúc này, thời gian khí lưu thông trong hầm khá lâu, nên phạm vi chiếu sáng của ánh đèn được mở rộng, có thể nhìn thấy bức tranh phía sau thi thể Khiết Đan. Đó là bức bích họa, có điều nội dung hết sức kỳ lạ, khiến cho người xem khó lòng lý giải.

                   Phần bức bích họa hình ảnh sói ăn mặt trăng, vầng trăng to tròn bị biến thành màu đen, hơn nữa lại to đến kỳ lạ khiến người xem sởn gai ốc, cảm tưởng chỉ cần nhìn thêm chút nữa bị hút vào bên trong. Góc trái vẽ hình con sói đói với bộ dạng to xù và hung ác. Theo quan niệm mê tín của người Trung Nguyên xưa, nguyệt thực là tượng thiên cẩu ăn mặt trăng, còn người Liêu cho rằng là thiên lang; tức sói trời ăn mặt trăng. Cả hai cách này đều ám chỉ tới cùng tương. Nửa dưới bức bích họa vẽ ngọn núi to, trong lòng núi có chiếc quan tài bằng gỗ, bên ngoài quấn mấy vòng xích sắt, xung quanh có mười mấy bức tượng bằng vàng. Phía ngoài ngọn núi có rất nhiều người với những khuôn mặt vô cảm, nam nữ lớn đều có, biết là còn sống hay chết, tất cả đều nằm ở phía dưới vầng mặt trăng đen kia.

                   Trương Cự Oa chỉ chăm chăm lấy vàng bạc châu báu, còn tôi và Sách Ni Nhi bị bức tranh hút hồn. Các bức vẽ trong ngôi mộ này phần lớn là tranh tả thực, duy có bức họa này hết sức cổ quái, lại được đặt ở vị trí phía sau nữ thần, nó mang ý nghĩa vô cùng ràng.

                   Tôi nhìn chăm chú lúc, vẫn nghĩ ra bức tranh này có ý gì, chỉ thấy khó hiểu.

                   Sách Ni Nhi lẩm bẩm mình: “Bức họa này cứ như là giấc mơ của Khiết Đan.”

                   Tôi nghe vậy bất giác sững người, Sách Ni Nhi trúng điểm trọng yếu, thi thể Khiết Đan được đeo mặt nạ vàng, nằm nghiêng giường đá, phía sau lưng là bức tranh, nó giống như thể giấc mơ của chủ nhân ngôi mộ lúc còn sống, khiến người ta cảm thấy Khiết Đan này chưa chết, chỉ nằm ngủ giấc dài miên man trong ngôi mộ u lạnh lẽo này. Nếu là giấc mơ, đây quả là giấc mơ rất kỳ dị.

                   Tôi với Sách Ni Nhi: “ chừng em đoán đúng đấy. Người xưa hay mê tín, nghĩ rằng nằm mộng có thể gặp được thần linh, hơn nữa trái lành phải hung. Khiết Đan khi còn sống thuộc dòng dõi hoàng tộc, lại là nữ thần Saman, khi còn sống chắc giấc mơ khiến thể nào quên, giấc mơ này có thể rất quan trọng, nên cho đến lúc chết vẫn dặn dò mọi người vẽ lại bức tranh ấy trong hầm mộ của mình.”

                   Sách Ni Nhi nhìn vào bức tranh rùng mình: “Đây là cơn ác mộng thể nào lý giải được…”

                   Trương Cự Oa lên tiếng: “Mọi người đừng nhìn mãi bức bích họa đó nữa, giấc mơ trước đây của người chết liên quan gì tới chúng ta, mau lại giúp em tay.”

                   Tôi quay lại thấy Trương Cự Oa giơ hai cánh tay run cầm cập ra phía trước, chuẩn bị nâng đầu cỗ thi thể để lấy chiếc vòng cổ hổ phách. Hai tay cậu ta bận ôm lấy đầu , nên còn cách nào để lấy chiếc vòng.

                   Tôi với Trương Cự Oa: “ Khiết Đan là nữ thần Saman, lại là công chúa nước Liêu, thằng nghèo kiết xác như cậu lấy tư cách gì mà đòi ôm ấy hả?”

                   Trương Cự Oa giọng run run: “Ôi ơi, đừng dọa em, em sợ sắp đái cả ra quần rồi đây này, may mà lần này em mang theo hai cái quần.”

                   Tôi thấy Trương Cự Oa sợ lắm rồi, đành quan sát bức bích họa nữa, tắt đèn pin treo vào dây lưng, gọi Sách Ni Nhi cầm đèn tiến đến gần tháo chiếc vòng cổ thi thể ra, chiếc vòng rất nặng, tôi thuận tay cho luôn vào chiếc túi da rắn, nghĩ bụng: “Nhị lão đạo phen này đúng là vớ được món bở.”

                   Trương Cự Oa rón rén hạ đầu Khiết Đan xuống, biết đây là người chết, nhưng nhìn thấy ánh sáng phát ra từ chiếc mặt nạ vàng, cậu ta có cảm giác chỉ cần hơi manh động là thi thể Khiết Đan này ngồi bật dậy, nên đến thở cũng dám thở mạnh.

                   Sau chiếc vòng hổ phách, chúng tôi phải gỡ chiếc mặt nạ mặt xác chết. Tôi thể tưởng tượng được bên dưới chiếc mặt nạ kia là khuôn mặt như thế nào, Khiết Đan chết hơn nghìn năm, cũng bị đổ thủy ngân, là xác chết khô đét người đầy nốt đen như ba người tùy táng kia ư? Hay vẫn giữ được dung mạo như khi còn sống?

                 9[/B]

       

                   Thường ngày, Sách Ni Nhi nghe nhiều lời đồn về nữ thần Saman, giờ thấy chúng tôi chuẩn bị lấy mặt nạ sợ quá bịt hai mắt lại dám nhìn mặt xác chết.

                   Trương Cự Oa : “Chị đừng nhắm mắt đấy! Nhỡ bóp cò trúng em và bọn em thành ma chết oan.”

                   Tôi trấn an Sách Ni Nhi đừng sợ, khuôn mặt Khiết Đan đáng sợ hơn ba xác chết dưới đất kia đâu. Theo lý thuyết bên dưới chiếc mặt nạ kia chỉ là bộ xương khô, công chúa Mang Cổ có vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành, rất quý nhan sắc của mình, nên mới uống thủy ngân để mong thi thể bị phân hủy, nhưng người chết và người sống hoàn toàn khác nhau. Trước đây, cũng chỉ có người hầu tùy táng uống thủy ngân để chống phân hủy, ngôi mộ cổ này lại có quan quách gì, Khiết Đan chết hàng nghìn năm, bảo vệ tốt đến mấy cũng chỉ là bộ xương khô. người được bọc nhiều lớp vải, đeo mặt nạ vàng, nằm giường đá trông có vẻ như người bình thường thôi, chứ phía dưới lớp áo liệm và chiếc mặt nạ đó có khi có gì ngoài bộ xương khô cả.

                   Sách Ni Nhi lại cho rằng nữ thần Saman như những người bình thường khác, ít ra mái tóc của người chết vẫn đen dài, chỉ được mượt như người sống mà thôi.

                   Nghe Sách Ni Nhi như vậy, Trương Cự Oa cũng có gan mở mặt nạ vàng ra nữa, cậu ta với tay lấy mấy thứ trang sức bằng vàng và chiếc dao bạc có cán bằng hổ phách, đưa tất cho tôi bỏ vào túi da rắn, rồi gỡ cánh tay ra để lấy chiếc hộp vàng khảm mã não, chiếc hộp dài khoảng thước.

                   Tôi mở ra xem, bên trong có ba ngăn, ngăn đầu tiên chỉ để vài chiếc xương thú.

                   Sách Ni Nhi : “Em biết cái này, đây là Shagai của Mang Cổ.”

                   Tôi nghe kể, ở vùng Đông Bắc, các thích đeo loại trang sức làm bằng xương thú, gọi là “Shagai”, người Quan Nội quen gọi nó là “Dương quải”. Người Quan Ngoại sử dụng xương đầu gối của lợn, còn người Quan Nội dùng xương đầu gối của dê, nhưng đều phải thứ tôi cầm tay, cái này chắc có niên đại rất lâu đời, bề mặt sáng bóng như ngọc, bên có khắc ký hiệu những lá bùa, các mặt đều có đường viền đỏ, đen, xanh, trắng. Có thể là người Saman xưa dùng để bói quẻ hung cát. Hai ngăn còn lại của chiếc hộp đựng vòng ngọc và viên ngọc trai to như mắt rồng. Tôi biết vòng ngọc trị giá bao nhiêu, nhưng nhìn viên ngọc trai phát ra ánh sáng kỳ lạ dưới ánh đèn như muốn át hẳn ánh sáng của ngọn đèn bão biết giá trị của đúng là liên thành, thậm chí thông qua ánh sáng rực rỡ của viên ngọc có thể nhìn được từng sợi tóc của Khiết Đan. Tôi nhớ đến lời lão Nghĩa mù, làm nghề đổ đấu được nổi lòng tham, phàm việc gì cũng được làm thái quá, vòng hổ phách, đao ngọc, hộp vàng đều là những thứ bên ngoài, lấy cũng sao, còn mặt nạ vàng và chiếc gối ngọc tốt nhất là nên lấy.

                   Tôi định gọi Trương Cự Oa dừng tay, nghe thấy Sách Ni Nhi kêu lên: “Sao em thấy bức bích họa có gì đó khác với vừa này”.

                   Tôi bỏ chiếc hộp vàng vào túi da rắn, nhìn lên bức bích họa phía sau thi thể , quan sát lúc lâu vẫn có cảm giác sắp bị vầng trăng đen hút vào bên trong, nhưng nhận ra bức tranh có gì thay đổi, chung nhìn vào bức tranh đó chỉ thấy màu đen ngòm.

                   Lúc này, que hương cũng cháy gần hết, tôi cứ nghĩ que hương cháy được khoảng tiếng, ai ngờ chỉ được hai mươi phút, tôi vội giục Trương Cự Oa: “Được rồi đấy, cậu dám lấy chiếc mặt nạ chúng ta quay ra thôi, chỗ này thể ở lâu.”

                   Ban đầu, Trương Cự Oa rất sợ hãi, nhưng khi lấy được vài món trang sức người Khiết Đan mà thấy có chuyện gì xảy ra to gan hơn, cậu ta lấy hết món này đến món khác, vì dù sao lấy ít cũng là lấy mà lấy tất cũng là lấy, bây giờ lấy sau này lại hối hận, nghĩ tới nghĩ lui cậu ta vẫn muốn gỡ chiếc mặt nạ vàng xuống. Chiếc mặt nạ có khuy cài phía sau đầu, Trương Cự Oa dùng tay nhấc đầu thi thể Khiết Đan lên để tháo chiếc khuy phía sau ra, lóng nga lóng ngóng toát cả mồ hôi mà vẫn tháo ra được. Lúc này, que hương hoàn toàn cháy hết.

                   Tôi hiểu vì sao Nhị lão đạo lại dặn dò phải ra ngoài trước khi que hương cháy hết, nhưng tôi bỗng có cảm giác bất an, vội lôi Trương Cự Oa: “Đừng lấy mặt nạ nữa, thôi.”

                   Trương Cự Oa vẫn tiếc rẻ chưa nỡ buông tay, chiếc mặt nạ bị cậu ta lôi tuột ra. Lúc đó tôi và Sách Ni Nhi đứng phía sau, lại chỉ có mỗi ngọn đèn bão chiếu sáng nên nhìn thấy mặt Khiết Đan, cũng biết Trương Cự Oa nhìn thấy gì, chỉ nghe thấy cậu ta thét lên: “Ối trời ơi, khiếp quá!” vừa kêu lên thảng thốt, cậu ta vừa nhảy lùi ra sau.

                   Dưới ánh đèn bão chập chờn, chúng tôi nhìn thấy diện mạo Khiết Đan, vị nữ thần Saman có sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành giờ cũng chỉ là cái xác khô như vỏ cây, hai hốc mắt và miệng sâu hoắm như ba cái hố đen sì, trông khủng khiếp chẳng khác gì vầng trăng đen bức bích họa.

                    Khiết Đan có thể lúc còn sống bị cơn ác mộng đó giày vò nên khi chết rất đau khổ, chẳng trách khiến cho Trương Cự Oa sợ chết khiếp. Tôi nhìn mà còn dựng hết tóc gáy, với Trương Cự Oa: “Bảo cậu đừng có gỡ mặt nạ nghe, giờ sợ rồi chứ gì?”, nhưng quay đầu lại thấy Trương Cự Oa đâu nữa, nếu cậu ta bỏ chạy ra ngoài lẽ tôi nghe thấy tiếng bước chân? Người sống sờ sờ ra vậy sao lại tự nhiên mất tích được.

                   Sách Ni Nhi cũng hoảng hốt: “ ấy đâu rồi? Chuồn rồi à?”

                   Tôi nghĩ Trương Cự Oa thể nào nhanh chân như vậy được, biết phải trả lời Sách Ni Nhi ra sao, đành bấm đèn pin tìm xung quanh. Tôi giật bắn mình khi nhìn Trương Cự Oa bị bức bích họa cổ ăn thịt.

                 

      <!--[if gte mso 9]><xml>
      <w:WordDocument>
      <w:view>Normal</w:view>
      <w:Zoom>0</w:Zoom>
      <w:TrackMoves/>
      <w:TrackFormatting/>
      <w:punctuationKerning/>
      <w:validateAgainstSchemas/>
      <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid>
      <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent>
      <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText>
      <w=DoNotPromoteQF/>
      <w:LidThemeOther>EN-US</w:LidThemeOther>
      <w:LidThemeAsian>X-NONE</w:LidThemeAsian>
      <w:LidThemeComplexScript>X-NONE</w:LidThemeComplexScript>
      <w:Compatibility>
      <w:BreakWrappedTables/>
      <w:SnapToGridInCell/>
      <w:WrapTextWithPunct/>
      <w:UseAsianBreakRules/>
      <w=DontGrowAutofit/>
      <w:SplitPgBreakAndParaMark/>
      <w=DontVertAlignCellWithSp/>
      <w=DontBreakConstrainedForcedTables/>
      <w=DontVertAlignInTxbx/>
      <w:Word11KerningPairs/>
      <w:CachedColBalance/>
      </w:Compatibility>
      <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel>
      <m:mathPr>
      <m:mathFont m:val="Cambria Math"/>
      <m:brkBin m:val="before"/>
      <m:brkBinSub m:val="--"/>
      <m:smallFrac m:val="off"/>
      <m=DispDef/>
      <m:lMargin m:val="0"/>
      <m:rMargin m:val="0"/>
      <m=DefJc m:val="centerGroup"/>
      <m:wrapIndent m:val="1440"/>
      <m:intLim m:val="subSup"/>
      <m:naryLim m:val="undOvr"/>
      </m:mathPr></w:WordDocument>
      </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml>
      <w:LatentStyles DefLockedState="false" DefUnhideWhenUsed="true"
      DefSemiHidden="true" DefQFormat="false" DefPriority="99"
      LatentStyleCount="267']
      <w:LsdException Locked="false" Priority="0" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" QFormat="true" Name="Normal"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="9" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" QFormat="true" Name="heading 1"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="9" QFormat="true" Name="heading 2"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="9" QFormat="true" Name="heading 3"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="9" QFormat="true" Name="heading 4"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="9" QFormat="true" Name="heading 5"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="9" QFormat="true" Name="heading 6"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="9" QFormat="true" Name="heading 7"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="9" QFormat="true" Name="heading 8"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="9" QFormat="true" Name="heading 9"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="39" Name="toc 1"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="39" Name="toc 2"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="39" Name="toc 3"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="39" Name="toc 4"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="39" Name="toc 5"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="39" Name="toc 6"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="39" Name="toc 7"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="39" Name="toc 8"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="39" Name="toc 9"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="35" QFormat="true" Name="caption"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="10" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" QFormat="true" Name="Title"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="1" Name="Default Paragraph Font"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="11" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" QFormat="true" Name="Subtitle"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="22" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" QFormat="true" Name="Strong"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="20" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" QFormat="true" Name="Emphasis"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="59" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Table Grid"/>
      <w:LsdException Locked="false" UnhideWhenUsed="false" Name="Placeholder Text"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="1" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" QFormat="true" Name="No Spacing"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="60" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Light Shading"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="61" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Light List"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="62" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Light Grid"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="63" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Shading 1"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="64" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Shading 2"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="65" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium List 1"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="66" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium List 2"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="67" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Grid 1"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="68" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Grid 2"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="69" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Grid 3"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="70" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Dark List"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="71" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Colorful Shading"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="72" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Colorful List"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="73" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Colorful Grid"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="60" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Light Shading Accent 1"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="61" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Light List Accent 1"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="62" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Light Grid Accent 1"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="63" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Shading 1 Accent 1"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="64" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Shading 2 Accent 1"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="65" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium List 1 Accent 1"/>
      <w:LsdException Locked="false" UnhideWhenUsed="false" Name="Revision"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="34" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" QFormat="true" Name="List Paragraph"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="29" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" QFormat="true" Name="Quote"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="30" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" QFormat="true" Name="Intense Quote"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="66" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium List 2 Accent 1"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="67" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Grid 1 Accent 1"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="68" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Grid 2 Accent 1"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="69" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Grid 3 Accent 1"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="70" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Dark List Accent 1"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="71" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Colorful Shading Accent 1"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="72" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Colorful List Accent 1"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="73" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Colorful Grid Accent 1"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="60" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Light Shading Accent 2"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="61" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Light List Accent 2"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="62" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Light Grid Accent 2"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="63" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Shading 1 Accent 2"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="64" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Shading 2 Accent 2"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="65" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium List 1 Accent 2"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="66" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium List 2 Accent 2"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="67" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Grid 1 Accent 2"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="68" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Grid 2 Accent 2"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="69" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Grid 3 Accent 2"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="70" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Dark List Accent 2"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="71" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Colorful Shading Accent 2"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="72" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Colorful List Accent 2"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="73" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Colorful Grid Accent 2"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="60" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Light Shading Accent 3"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="61" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Light List Accent 3"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="62" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Light Grid Accent 3"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="63" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Shading 1 Accent 3"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="64" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Shading 2 Accent 3"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="65" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium List 1 Accent 3"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="66" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium List 2 Accent 3"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="67" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Grid 1 Accent 3"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="68" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Grid 2 Accent 3"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="69" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Grid 3 Accent 3"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="70" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Dark List Accent 3"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="71" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Colorful Shading Accent 3"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="72" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Colorful List Accent 3"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="73" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Colorful Grid Accent 3"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="60" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Light Shading Accent 4"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="61" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Light List Accent 4"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="62" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Light Grid Accent 4"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="63" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Shading 1 Accent 4"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="64" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Shading 2 Accent 4"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="65" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium List 1 Accent 4"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="66" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium List 2 Accent 4"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="67" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Grid 1 Accent 4"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="68" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Grid 2 Accent 4"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="69" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Grid 3 Accent 4"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="70" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Dark List Accent 4"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="71" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Colorful Shading Accent 4"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="72" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Colorful List Accent 4"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="73" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Colorful Grid Accent 4"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="60" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Light Shading Accent 5"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="61" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Light List Accent 5"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="62" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Light Grid Accent 5"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="63" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Shading 1 Accent 5"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="64" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Shading 2 Accent 5"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="65" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium List 1 Accent 5"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="66" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium List 2 Accent 5"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="67" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Grid 1 Accent 5"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="68" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Grid 2 Accent 5"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="69" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Grid 3 Accent 5"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="70" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Dark List Accent 5"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="71" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Colorful Shading Accent 5"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="72" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Colorful List Accent 5"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="73" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Colorful Grid Accent 5"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="60" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Light Shading Accent 6"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="61" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Light List Accent 6"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="62" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Light Grid Accent 6"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="63" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Shading 1 Accent 6"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="64" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Shading 2 Accent 6"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="65" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium List 1 Accent 6"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="66" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium List 2 Accent 6"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="67" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Grid 1 Accent 6"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="68" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Grid 2 Accent 6"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="69" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Medium Grid 3 Accent 6"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="70" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Dark List Accent 6"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="71" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Colorful Shading Accent 6"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="72" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Colorful List Accent 6"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="73" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" Name="Colorful Grid Accent 6"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="19" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" QFormat="true" Name="Subtle Emphasis"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="21" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" QFormat="true" Name="Intense Emphasis"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="31" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" QFormat="true" Name="Subtle Reference"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="32" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" QFormat="true" Name="Intense Reference"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="33" SemiHidden="false"
      UnhideWhenUsed="false" QFormat="true" Name="Book Title"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="37" Name="Bibliography"/>
      <w:LsdException Locked="false" Priority="39" QFormat="true" Name="TOC Heading"/>
      </w:LatentStyles>
      </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]>
      <style>
      /* Style Definitions */
      table.MsoNormalTable
      {mso-style-name:"Table Normal";
      mso-tstyle-rowband-size:0;
      mso-tstyle-colband-size:0;
      mso-style-noshow:yes;
      mso-style-priority:99;
      mso-style-qformat:yes;
      mso-style-parent:"";
      mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt;
      mso-para-margin:0in;
      mso-para-margin-bottom:.0001pt;
      mso-pagination:widow-orphan;
      font-size:11.0pt;
      font-family:"Calibri","sans-serif";
      mso-ascii-font-family:Calibri;
      mso-ascii-theme-font:minor-latin;
      mso-fareast-font-family:"Times New Roman";
      mso-fareast-theme-font:minor-fareast;
      mso-hansi-font-family:Calibri;
      mso-hansi-theme-font:minor-latin;
      mso-bidi-font-family:"Times New Roman";
      mso-bidi-theme-font:minor-bidi;}
      </style>
      <![endif]-->

    5. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      Chương 3: Ác mộng ngàn năm


                  1



                   Sau khi mở tấm mặt nạ vàng của công chúa Khiết Đan, Trương Cự Oa sợ khiếp vía vì nhìn thấy khuôn mặt khô héo của nữ thần Saman, cậu ta bật ngửa ra phía sau sát tận chân tường, rồi chúng tôi nhìn thấy cậu ta đâu nữa, tới lúc tôi lấy đèn pin ra soi mới thấy nửa thân của cậu ta bị nuốt vào phía trong bức bích họa, hai chân vẫn giãy giụa ở phía ngoài, trông như người trong bức tranh sống dậy, túm lấy cậu ta và lôi tuột vào bên trong. Những biến cố xảy ra liên tục chỉ trong chớp mắt khiến tôi kịp phân tích xem chuyện gì xảy ra, nỗi sợ hãi khó tả lan rộng xâm chiếm khắp cơ thể tôi.

                   Tôi cứng đờ người nhìn người trong bức họa cử động, ngôi mộ cổ triều đại Liêu này bị chôn vùi trong lòng đất hàng nghìn năm nay, có chút khí nào lọt vào, trong này sống mới đúng chứ, trừ phi trong bức bích họa có quái, làm sao có thể như thế được?

                   Tôi kìm được nỗi sợ hãi, tay cầm đèn pin cũng run lên, trong ánh sáng chập chờn, thấy cậu ta ngày càng bị lún sâu vào trong bức tranh, lúc này tôi và Sách Ni Nhi mới sực tỉnh, cứu người là hết, cũng chẳng có thời gian mà sợ, vứt luôn súng săn, đèn bão và túi da rắn, hai đứa chạy vội tới mỗi người cầm chân của cậu Trương cố hết sức kéo ra ngoài.

                   Hai người nghiến răng nghiến lợi để kéo, cuối cùng cũng lôi được Trương Cự Oa ra, chỉ thấy mặt cậu ta máu me be bét, lớp da mặt bị lột hết, còn nhận diện được, cũng biết là còn sống hay chết, xem tình hình lành ít dữ nhiều. Lại , cả con người to lớn như vậy bị nuốt vào trong bức tranh tường phải để lại lỗ hổng mới phải, đằng này bức tường vẫn có dấu vết gì, chỉ thấy có mảng tường dường như hơi nhô ra, tôi soi đèn pin lại gần, dưới ánh sáng lờ mờ chỉ thấy mặt cung nữ hình như lồi ra khỏi bức tranh.

                   Tôi và Sách Ni Nhi thất kinh, chẳng lẽ người trong bức tranh chuẩn bị bước ra ngoài sao? Chúng tôi có to gan đến mức nào cũng dám ở lại tiếp tục nghiên cứu bức tranh, vội lôi xềnh xệch cậu Trương dở sống dở chết ra ngoài, trong lúc vội vã quên mất trong hầm mộ còn có ba xác ướp nữa, tôi vấp phải đám xác ướp này ngã ngửa ra phía sau, đầu va vào vật gì đó rất cứng, trước mắt bỗng tối sầm lại.

                   Cú vấp khiến tôi ngã nhào lên chiếc giường đá đặt xác ướp công chúa nước Liêu, đầu va vào chiếc gối đá hình thú, tôi ngã nhào xuống gần như nằm song song với thi thể Khiết Đan, tôi kêu thầm trong bụng, xúi quẩy, rồi vội vã ngồi dậy nhưng chân tay cứng đờ thể cử động được, dường như tôi bị ác mộng bao vây, ý thức của tôi dần hòa nhập vào bức tranh phía sau thi thể này, quên mất mình trong hầm mộ cổ, tôi thấy mình tiến gần đến chiếc quan tài, nhìn thấy những bức tượng vàng đặt xung quanh, nhủ thầm trong bụng lần này phát tài rồi, vừa đưa tay ra định sờ vào chiếc dây xích buộc xung quanh quan tài bỗng bị đứt, nắp quách bằng gỗ chò mở bung ra, để lộ chiếc quan tài bằng ngọc nằm bên trong, người tóc tai rũ rượi đẩy nắp quan tài bước ra, mặt máu chảy thành ròng, tứ chi đơ cứng, toàn thân cũng đầy máu, phèo ruột tuột cả ra ngoài, nửa thân dưới vẫn nằm trong quan tài, thoắt cái tiến tới trước mặt tôi, tôi khiếp đảm vô cùng, muốn kêu lên nhưng cổ họng cứng đơ thể nào bật ra thành tiếng, muốn chạy trốn mà chân thể cử động được, đành nhắm mắt chờ chết.

                   Bỗng nhiên, có người kéo tuột tôi từ chiếc giường đá xuống, tôi mở bừng mắt, thở hồng hộc, toàn thân lạnh toát, mồ hôi nhễ nhại, nhìn lại hóa ra là Sách Ni Nhi lôi tôi xuống, bức tranh sau thi thể Khiết Đan có gì thay đổi, dường như cảnh tượng vừa rồi chỉ là ảo giác do đầu tôi bị chấn thương, ý thức của tôi lúc đó bị cơn ác mộng bao trùm. Khiết Đan khi còn sống giấc mơ mà đến tận khi chết vẫn thể nào quên, nghìn năm sau, tôi cũng mơ giấc mơ y hệt như vậy trong chính hầm mộ này. Mặc dù chỉ trong khoảnh khắc ngắn ngủi nhưng nỗi sợ hãi thể nảo tả xiết, đủ để tôi nhớ suốt đời. Tôi hiểu vì sao mình lại mơ lại giấc mơ của Khiết Đan kia, lúc đó tôi lý giải được chuyện gì xảy ra, chỉ nghĩ là do hồn ma Khiết Đan giở trò. Tôi thực ngờ, sau này ác mộng nghìn năm của nữ thần Khiết Đan bám riết lấy tôi tha.

                  2



                   Lúc được Sách Ni Nhi lôi xuống, tôi cũng bừng tỉnh cơn mê, khắp mình mẩy đau nhức, đầu bị va vào đá tương đối mạnh, giờ vẫn còn ong ong, dưới ánh đèn pin lúc tỏ lúc mờ, tôi thấy Trương Cự Oa nằm bất động dưới đất biết sống chết ra sao, phía sau bức tranh chỗ mặt cung nữ hơi nhô ra bên ngoài dường như là cả lớp tường cử động.

                   Tôi vội với Sách Ni Nhi: “ sao, mình mau thôi”, vừa dứt lời bỗng lớp bụi trần hầm mộ rơi xuống, ngẩng đầu lên xem, chỉ thấy phía như có những con vật to bằng chiếc bao tải di chuyển, là con gì, nhưng những bức bích họa trong mộ cổ đều được vẽ lưng của những con vật này. hiểu nguyên do từ đâu, lúc này những con vật đó bỗng sống dậy trườn ra khỏi bức tranh, để lại từng lỗ hổng. Ngôi mộ cổ này vốn vẫn nguyên vẹn từ xưa đến nay, trước khi chúng tôi đào thông đường hầm nó chưa từng được mở ra, chẳng lẽ trong bức tranh nghìn tuổi kia có ma chắc?

                   Trong lúc tôi thất thần suy nghĩ, vật giống như mảng tường rơi bịch xuống trước mặt tôi, thứ đỏ dẹt, mềm nhũn xương, đầu to đuôi , trông như chiếc đàn tỳ bà, trong tay tôi chỉ có chiếc đèn pin, tay khó mà đối phó được với nó, tôi vơ vội chiếc cuốc chim của Trương Cự Oa bổ về phía con quái vật, nhưng cứ như là bổ vào bì tải vậy, lưng nó là vỏ tường, bỗng nhiên nó quay đầu lại cắn lấy chiếc cuốc chim, tôi hoảng sợ, vội giằng chở lại.

                   Sách Ni Nhi giương súng lên nhằm vào cái bao tải rách kia bóp cò, tiếng súng săn vang lên trong hầm mộ nghe càng chói tai, con vật bật ngửa ra nền đất, tôi thấy tay mình bẫng, giành lại được chiếc cuốc chim, đầu cuốc dính đầy chất nhầy nhầy sặc mùi thịt phân hủy, những chỗ dính thứ nước nhầy đó bị ăn mòn, cán cuốc thể đóng chặt vào lưỡi cuốc được nữa, tôi thở hắt ra kinh hãi, con vật nấp mình trong bức tranh hàng nghìn năm kia đó là quái gì mà có thể phun ra loại nước có sức tàn phá như axít vậy.

                   Sách Ni Nhi hét lên: “ xem kìa… trông nó như là rắn tỳ bà ấy!”

      justify;" align="



                   Tôi nhớ lại Thổ địa gia từng tới chuyện này, tương truyền, trong những khu rừng nguyên sinh và thảo nguyên ở vùng đông bắc thường hay có rắn tỳ bà, nó giống chiếc đàn tỳ bà chính xác bằng nó giống như con nòng nọc khổng lồ, sau khi chết nó trở thành hóa thạch, nghe loài này muôn đời chỉ dùng thân xác, thế hệ sau nhập vào thi thể chết trước đó, chỉ cần gặp dương khí là hồi sinh, quá trình ra đời của nó cũng giống như loài bò sát ngủ đông, khi cảm nhận được hơi ấm của mùa xuân tỉnh dậy. Người Khiết Đan xưa đều coi nó là rắn thần, cũng vì loài này tuyệt chủng lâu nên ai có thể giải thích nó có phải họ nhà rắn hay , tên của nó chỉ còn được nhắc lại trong những câu chuyện của những người thợ săn, cũng có người gọi loài vật này là “yển đình”.

                   Khi nghe Sách Ni Nhi vậy, tôi cũng đoán con vật kỳ quái trong ngôi mộ cổ Khiết Đan này có thể là rắn tỳ bà, chừng người Khiết Đan mang những xác chết của rắn tỳ bà đính vào tường rồi vẽ những bức tranh lên đó, dưới lòng đất lạnh sao, nếu có người đào trộm mộ, đốt đèn trong hầm mộ và hơi thở của con người khiến những con rắn tỳ bà này hồi sinh, lần lượt ăn thịt những kẻ dám xông vào quấy rối giấc ngủ nghìn thu của vị nữ thần Saman này. Nhị lão đạo dặn chúng tôi phải quay lại trước khi hương tàn, hiển nhiên là lão ta biết trước trong hầm mộ có rắn thần, nhưng lại sợ chúng tôi dám vào trong nên cố tình giấu giếm ra .

                   Những dấu tích để lại vách núi trong Lão Câu chắc cũng là do những con rắn tỳ bà này gây nên, những câu chuyện về bức tranh ăn thịt người hẳn cũng từ đây mà ra, tôi thầm rủa lão đạo trường đáng bị băm vằm thành trăm mảnh, nhưng trước mắt phải làm sao để nhanh chóng thoát ra khỏi chỗ này, bọn rắn tỳ bà trong bức tranh chui ra ngày càng nhiều, mồm chúng há ra rộng bằng miệng chiếc bao tải, đủ để nuốt chửng những vật to hơn chúng gấp nhiều lần, khẩu súng săn cũ rích trong tay Sách Ni Nhi và nửa chiếc cuốc chim của tôi thể nào đánh lại lũ kia được, cũng may là bọn rắn mới bò trong bức tranh ra, di chuyển còn chưa linh hoạt, chúng tôi vẫn còn cơ hội để chạy thoát.

                   Trương Cự Oa trước đó bị nuốt vào trong bức tranh, được tôi và Sách Ni Nhi lôi ra nhưng cũng bị bọn rắn tỳ bà cắn nát phần , be bét máu nằm dưới đất, khi chúng tôi định tháo chạy nghe thấy cậu ta rên “ư” lên tiếng, chứng tỏ vẫn chưa chết, tôi nỡ để cậu ta lại trong hầm mộ làm mồi cho bọn rắn, bèn cùng với Sách Ni Nhi mỗi người tay lôi cậu ta ra cùng, chiếc túi đựng vàng bạc châu báu rơi đất cũng chẳng còn tâm trí đâu mà nhặt.

                   Tôi đạp đổ đèn bão, dầu chảy loang lổ mặt đất, ngọn lửa bùng cháy, chúng tôi nhân cơ hội lôi Trương Cự Oa rồi chạy ra phía đường hầm, lũ rắn tỳ bà vẫn ngừng chui ra từ trong bức bích họa. Ngôi mộ cổ Khiết Đan nằm giữa thung lũng trong lòng núi, bên là đầm cỏ quanh năm ngập nước, bên dưới là đồi đất, huyệt mộ được đào phía dưới đồi đất, xung quanh dựng cột để chống đỡ hầm mộ, bọn rắn tỳ bà chui ra từ trong tường mộ khiến bức tường lộ ra những lỗ hổng lớn , nước từ bên ngoài tràn vào, ngôi mộ cổ lập tức chìm xuống đầm lầy.

                   Tôi và Sách Ni Nhi nhìn nhau, mặt biến sắc, ngờ hôm nay bọn tôi lại bị chôn sống ở đây cùng với thi thể Khiết Đan này, chỉ sợ nghìn năm sau cũng chẳng còn cơ hội được thấy lại ánh sáng mặt trời.

                  3



                   Nước ngừng chảy vảo trong hầm mộ, toàn bộ ngôi mộ chìm dần, chúng tôi chạy thục mạng ra ngoài, chỉ cố lôi cho được Trương Cự Oa, còn mọi thứ khác đều vứt lại phía sau lưng.

                   Bên ngoài, Nhị lão đạo đợi lâu sốt ruột cũng mò vào đường hầm tìm chúng tôi, thấy chúng tôi lôi xềnh xệch Trương Cự Oa be bét máu chạy ra hiểu ngay cơ , nhưng vì thắng nổi lòng tham, lão nhổ bãi nước bọt vào lòng bàn tay hạ quyết tâm, rồi đốt đuốc lên phăm phăm vào phía trong ngôi mộ mà chuyện gì vừa xảy ra, lão cứ cho rằng thứ gì cũng sợ lửa, chỉ cần có lửa đuổi được hết lũ rắn rết bọ cạp, và kiểu gì cũng phải lấy cho được vài món bảo vật, chứ cam tâm về tay . Trong đầu chỉ nghĩ có vậy nên lão quên béng lời sư tổ của mình dặn, được đoạn chợt thấy tình hình bất ổn, lão dừng lại do dự.

                   Tôi và Sách Ni Nhi lôi Trương Cự Oa tháo chạy ra ngoài, mệt thở ra hơi, hồn xiêu phách lạc, nên lời, cũng kịp ngăn cản Nhị lão đạo, đúng lúc này phần ngoài của đường hầm bỗng sập xuống, bịt kín lối ra, Nhị lão đạo rướn cổ nhìn vào bên trong, khi phát ra đường hầm bị sập quá muộn, tôi chỉ còn biết đứng nhìn lão bị nhấn chìm cùng ngôi mộ cổ, theo cách của dân đổ đấu độn thổ rồi”.

                   Tôi và Sách Ni Nhi lôi được Trương Cự Oa ra ngoài, quay lại nhìn thấy Nhị lão đạo bị chôn sống trong đường hầm mà đau lòng, nhưng chỗ chúng tôi đứng, bùn cũng bắt đầu ngập tới đầu gối, đành phải mau chóng bò ra ngoài, bên tai nghe thấy tiếng gió thổi, đồng cỏ vàng ra trước mắt. Bên ngoài, trời cao mây trắng, cứ như những chuyện kinh hoàng trong hầm mộ chưa từng xảy ra, chỉ thấy mặt đám sình lầy sủi tăm ngớt, điều này chứng tỏ ngôi mộ cổ chìm xuống, lúc sau thấy gì nữa, chỉ còn dấu tích phần con đường hầm bị sập, ngập đầy bùn đất.

                   Trải qua việc này, tôi tin vào những gì lão Nghĩa mù , quật táng lấy bảo vật được nổi lòng tham, Nhị lão đạo có thể coi là người có am hiểu về thuật trộm mộ, nhưng chỉ vì ý tà niệm mà hối hận kịp, chúng tôi suýt nữa cũng mất mạng, Trương Cự Oa da mặt bị lột hết, mê man bất tỉnh, may mà Sách Ni Nhi kiếm được ít cỏ ba lá, băng bó viết thương, vắt nước cho cậu ta uống, nên chưa đến nỗi bị chết. Tôi và Sách Ni Nhi xốc nách vác cậu ta quay trở ra. Mới được nửa đường bỗng tuyết rơi đầy trời, phút chốc mặt đầm trắng xóa, chúng tôi chẳng mang áo rét, chỉ còn cách cố gắng càng nhanh càng tốt, cuối cùng cũng thoát ra được vùng đồng cỏ ăn thịt người nhả xương này trước khi thời tiết trở nên khắc nghiệt hơn. Chúng tôi đưa cậu Trương vào làng để dưỡng thương, số tiền Nhị lão đạo đưa cho chúng tôi và ít vàng cạy được cửa mộ, tôi đều để lại cho cậu ta và mua ít tiền giấy đốt cho Nhị lão đạo, cầu mong cho lão mau được siêu thoát.

                   Quay trở về lâm trường, Sách Ni Nhi dám dấu ông nội, kể lại đầu đuôi chuyến vào Lão Câu cho Thổ địa gia nghe, ông trợn mắt mắng cháu trân tơi bời, vơ lấy cây gậy còn định đánh , tôi đành phải nhận hết tội lỗi về mình, nhưng cũng sợ cái tính ngang tàng của Thổ địa gia, nhân tiện viện cớ về nhà thời gian, chờ cơn lôi đình của ông qua rồi tính tiếp. Tôi lên tàu ở ga gần lâm trường, sau khi cáo biệt Sách Ni Nhi, tôi về chỗ ngồi, trong lòng bỗng thấy như mất thứ gì đó, cảm thấy hết sức chán nản, lật lật lại cuốn sách cũ trong tay để giết thời gian, đây là cuốn “ dương bảo kíp” mà sư tổ Nhị lão đạo truyền lại, bên trong chỉ giới thiệu về sơn hình, thủy thế, phần, dương trạch, còn có nhập địa tầm long, bói toán, giải mộng v.v… Nhị lão đạo bị chôn sống trong hầm mộ nhưng cuốn “ dương bảo kíp” của lão vẫn ở bên ngoài, tôi nhìn thấy khi mở tay nải của lão để tìm diêm, tôi định bụng cầm về cho lão Nghĩa mù. Trước đó chưa có thời gian xem, giờ ngồi tàu mới có cơ hội đọc, tôi đọc phần phong thủy hình thế trước, thấy cũng khác với những gì lão Nghĩa mù là mấy, chỉ thêm phần chú thích bằng hình ảnh, xem ra dễ hiểu hơn, lúc giở tới phần giải mộng, bất chợt tôi nhớ đến bức bích họa trong mộ cổ.

                   Suốt thời gian ngồi tàu, tôi xem xem lại mấy lần bí kíp giải mộng của đạo giáo, nhưng cơn ác mộng của tôi lúc trong hầm mộ thể giải mã nổi. Lần này nghe lời Nhị lão đạo đào mộ cổ trong Lão Câu đúng là xui tận mạng, giờ nghĩ lại cũng phải trách mình lỗ mãng, nhưng dám làm dám chịu, chẳng có gì phải oán thán cả. Vốn nghĩ việc như vậy là xong, ai ngờ ác mộng ngàn năm mới chỉ bắt đầu, điều tưởng tượng được vẫn chờ tôi phía trước.





                  Chương 4: Thông thiên hoàng tuyền





                  1



                   Trong ký ức của tôi, năm đó khí trời Bắc Kinh nóng nực, ít mưa, bụi tung mù mịt trời đất, trời màu vàng ệch, dưới đất màu tro tàn, hiếm khi thấy có hôm nào trời cao trong xanh. Tương truyền cuối đời Minh, Lý Sấm Vương vào Bắc Kinh, để lại câu ngạn ngữ: “Trời vàng động đao binh, đất bụi người lang sói”. Người lang sói ở đây là chỉ những kẻ hung ác mất hết tính người. Ngày nay thời thế thái bình, có biến cố, nhưng giữa mùa hè mà lại có bão cát cũng chẳng phải điềm lành gì.

                    đường từ ga tàu về nhà, thấy trời đất mù mịt, tôi khỏi có linh cảm lành, nỗi sợ hãi mơ hồ trỗi dậy, cũng là sợ điều gì, về đến nhà mới biết lão Nghĩa mù cưỡi hạc quy tiên, vừa mới ngày hôm kia, vậy là tôi gặp được lão lần cuối. Bình thường lão Nghĩa mù cũng được khỏe, thị lực kém, nhưng có rất nhiều biệt tài mà người khác có, ví dụ ai mang đến chiếc nhẫn ngọc, lão Nghĩa mù cầm lên ngửi trước, lấy tay sờ qua, cùng lắm là liếm thêm cái là có thể được niên đại của đồ vật đó, còn biết được đó là đồ chôn dưới mộ hay là vật gia truyền, hầu như chưa đoán sai bao giờ, nếu có biệt tài đó, lão làm sao dám “đổi diêm thắp đèn”, đổi “trống mềm” ở chợ phủ được chứ? Năm đó, chỉ cần nhắc đến tên lão Nghĩa mù, giới chơi đồ cổ ai là phục, lão cũng gom được rất nhiều đồ quý nhưng tiếc thay đều bị hủy dưới thời cách mạng văn hóa, chỉ còn lại tấm sắt để nướng thịt và tấm chăn lông sói và mối làm ăn về đá hầm mộ. Lúc lâm chung lão Nghĩa mù dặn rằng, lão để tất cả những thứ đó lại cho tôi.

                   Mặc dù lão Nghĩa mù mất, nhưng danh vẫn còn, tự hiệu của lão vẫn còn, mọi người nể mặt lão Nghĩa mù, cho rằng tôi hẳn là cao đồ của lão, cứ dăm ba bữa lại có người mang đồ đến nhờ tôi giám định, làm sao mà thoái thác được, cũng may thường ngày tôi được nghe lão Nghĩa mù chuyện, hàng cũng được tận mắt thấy nhiều, lúc nào tránh được đành vừa lừa vừa dọa ứng phó cho qua chuyện, cũng chưa đến nỗi làm tổn hại thanh danh của lão Nghĩa mù, có lúc cao hứng tôi cũng mang vài “bao diêm” ra ngồi mình ngoài chợ phủ thử vận may xem có thu được thứ gì đáng giá .

                   Những năm trước, lão Nghĩa mù chủ yếu buôn bán mấy vụ đá lát đường hầm mộ quanh khu vực Độc Thạch Khẩu, Xích Thành, Hà Bắc. Riêng cái tên lên tất cả, vùng này có khối đá niên đại lâu đời, khối đá to lớn lừng lững như mọc từ dưới đất lên, cao hơn hai trượng, vòng quanh tảng đá chắc cũng đến trăm bước chân, quanh năm dầm mưa dãi nắng mà vẫn đứng sừng sững, tảng đá mọc bốn cây cổ thụ, cành lá sum suê che lấp được cả con trâu. Có nhiều truyền thuyết về nguồn gốc của tảng đá đó, nhưng đến nay vẫn chưa có kết luận chính thức. Nơi này nổi tiếng vì làm nghề điêu khắc đá, có cả đá hầm mộ, cột đá, đá ông trọng v.v… tất cả đều có ở Độc Thạch Khẩu, có đồ cũng có đồ giả cổ.

                   Buôn bán ở lĩnh vực này quả là độc, cầu cũng cầu kỳ, đặc biệt là những hòn đá có hoa văn động vật, mỗi kiểu hoa văn lại có hàm ý riêng, ví dụ: hoa văn đầu thuồng luồng có nghĩa là nhìn xa trông rộng; hoa văn cá mình chim ưng nhả ra mây có thể dùng để trấn hỏa; hoa văn sử tử có ý nghĩa duy trì hương hỏa; hoa văn con giải trãi [1] có thể phân biệt trung thần hay gian thần, thiện hay ác… Tin vào những phong tục này phần đa là những tay giàu có và quan lại địa phương.

                  [1] Con giải trãi: là con thú có ngoại hình giống như dê nhưng chỉ có sừng.

                   Đầu những năm 90, phong tục này lại rộ lên ở những vùng nông thôn, họ tiếc tiền của để tu sửa mộ phần cho tổ tiên, bởi họ thấy sử dụng những hòn đá hàng trăm tuổi trong nghĩa trang gia tộc là việc rất đáng hãnh diện. Đá hầm mộ có rất nhiều loại, ví dụ như những viên đá có hoa văn khắc lồi hoặc lõm, trụ đá trong hầm mộ, đá ông trọng dùng để trấn mộ tránh tà, tượng người tượng ngựa bằng đá, tất cả những thứ đó đều gọi là “mộ đạo thạch”, mỗi khách nhu cầu, người nhiều tiền dùng đồ , tiền ít dùng đổ giả cổ. Thợ đá chủ yếu tới từ Xích Thành ở Hà Bắc. Lão Nghĩa mù từ bảy tám năm trước chuyên buôn bán món này, lão mất còn nợ hàng rất nhiều khách. Những người này cũng đến tìm tôi, tôi đành phải cấu chỗ nọ đập chỗ kia, hàng ngày chăm sóc mấy vị khách hàng này, lại còn phải về vùng nông thôn lấy hàng. Bận tối tăm mặt mũi, cứ nghĩ đến việc đây là vốn buôn bán mà lão Nghĩa mù để lại cho mình dù có khó khăn mấy cũng thể bỏ được. Đối phó được ngày nào hay ngày đó, tôi đành phải gửi thư cho Sách Ni Nhi với ấy tạm thời tôi chưa quay về đó được, chờ mùa xuân năm sau xem tình hình thế nào tôi lên Đông Bắc tìm mỏ vàng sau.

                   Sau đó, tôi cũng mấy lần Độc Thạch Khẩu, Ký Bắc, dần cũng tìm ra được bí quyết, chỉ cần làm quen được với dân bản địa ở đó việc gì cũng dễ giải quyết. Từ xưa đến nay, người dân vùng Ký Bắc vốn hiếu khách, ở vùng đó, khách đến nhà được chủ nhà dùng bát to mời nước mời cơm, nếu muốn chủ nhà quý mến khách phải hiểu phong tục ở đó, uống trà được uống hết sạch nước trong bát, ăn cơm được dừng lại nửa chừng, nếu bị coi là khinh thường chủ nhà, sau khi ăn no gác đũa lên bát cơm của mình. Nghe khi vào mùa lạnh, khách còn phải nằm ngủ cùng với gia đình nhà chủ mà được chê bai, khi tạm biệt được chủ nhà tặng những sản vật địa phương mang về, thích mang bao nhiêu cũng được. Toàn bộ người dân trong thôn đều là thợ khắc đá, đặc biệt là mô phỏng đồ cổ bằng đá y như , cũng có cả những phiến đá trộm được từ những ngôi mộ núi. Cứ như vậy, tôi bận rộn liên hồi đến mức có thời gian để suy nghĩ nhiều. Thời gian đó, tôi lăn lộn hết ngày này sang ngày khác, nhưng hễ đêm đến tôi lại gặp ác mộng, cứ nhắm mắt là hình ảnh người đàn ông đầu tóc rũ rượi kéo theo khúc ruột dài loằng ngoằng bò ra từ quan tài lại ra. Tôi cho rằng chắc tại mình tưởng tượng quá nhiều, nhưng cũng tránh khỏi sợ hãi, cho đến khi tôi tới vùng núi sâu ở Dự Tây gặp kỳ nhân, người vốn nằm trong quan tài từ rất lâu rồi.

      justify;" align="            2



                   Các cụ cấm có sai - Gặp quý nhân phát tài mà móc phải lưỡi câu xui xẻo. Và tôi gặp phải cái “lưỡi câu” như vậy nên mới có chuyến hành trình Dự Tây. Trong số những người thường xuyên tới hẻm Giang Phòng tìm tôi, có người họ xa, biệt danh là Điếu bát, tính theo thứ bậc tôi phải gọi ta là chú họ, thực tế ta chẳng hơn tôi bao nhiêu, tôi cũng biết thứ bậc này tính ra sao, chung họ hàng xa, xa tới mức bắn tám tầm đại bác cũng đến, tôi thấy rất thiệt thòi nên chỉ gọi ta bằng biệt danh Điếu bát. Vì nghiện thuốc nặng, cả ngày thể rời thuốc nên bà con lối xóm đều gọi ta bằng biệt danh ấy. chàng này nghèo nhưng hay kiểu cách, tim to gan , hay gây chuyện nhưng dám gánh trách nhiệm, cũng chẳng ngọn cỏ nào mộ phần tổ tiên nhà ta bị mọc lệch nên vận khí toàn xui xẻo. Năm ta mười tuổi, tự nhiên lại muốn tìm hiểu bí mật của phụ nữ, thế là trong lần kìm được tò mò, trèo tường nhà xí nữ để nhìn trộm, chưa kịp nhìn thấy gì bị cán bộ thôn ngang qua bắt gặp, bị hai bà trong thôn áp giải lên đồn công an, chưa đợi người ta tra hỏi tự mình khóc lóc khai ra hết tất cả những việc xấu từng làm từ đến giờ, cả việc hai năm trước bố ta trót chơi cũng khai tuột ra luôn, thời đó đấy là tội nặng. Bố ta bị phán cải tạo lao động ở Tây Bắc, Điếu bát bị nhốt ở đồn công an, sau đó cũng nghỉ học. ta bắt đầu ra ngoài xã hội từ đó, giờ ‘cao tới thấp thông’, vẫn lởn vởn khắp nơi, có nghề ngỗng gì đàng hoàng, dựa vào cái miệng khéo ăn khéo , cũng lượm được vài món hàng ở chợ phủ, thấy người khác kiếm tiền mắt sáng lên, cũng về quê thu mua đồ cổ, tìm được món nào lại lo kiếm khách hàng để bán. ta thường với tôi, giá mà vận may tốt, thu được món đồ có giá trị, ví như đường bỗng nhặt được con chó bằng vàng ròng chẳng hạn, cả đời này phải lo lắng về tiền nong nữa. Nhưng giờ người dân ở nông thôn cũng còn đơn thuần như trước, họ biết tìm mua những đồ giả cổ vật về để trong nhà, có người đến hỏi là đào được dưới đất lên, ông chú họ tôi cũng bị lừa nhiều lần nên giờ biết sợ, dám mình tới những nơi xa, hơn nữa nếu biết nhìn mặt hàng cũng bằng .

      justify;" align="



                   Mùa hè năm đó, trời khô như rang, khắp nơi nóng như trong lò hấp bánh bao. Thời tiết nóng bức vậy mà Điếu bát cứ khăng khăng mời tôi ăn thịt nướng. Từ ngày lão Nghĩa mù qua đời, tôi chưa dùng tấm sắt nướng thịt lần nào, là vì chưa thu được món nào cho có giá trị, nhưng lại được với Điếu bát. Hôm đó, hai chúng tôi vẫn ngồi trong ngôi nhà ẩm thấp của lão Nghĩa mù, vẫn đốt lò bằng củi thông và quả thông, còn uống vài cút rượu trắng nữa, trời nóng, mồ hôi nhễ nhại, tôi đoán chắc Điếu bát có chuyện gì đó muốn , đoán xem ta bắt đầu từ đâu Điếu bát thở dài thườn thượt: “Hây… Cậu xem, là người hiếu thắng như thế, ngày xưa bao nhiêu hoài bão là thế, nhưng thể thắng được số phận, đúng là số xui xẻo, có chí khí mấy cũng bằng . Năm đó, chỉ lần trèo tường nhà xí nữ, chẳng nhìn được cái quái gì bị lôi vào đồn công an, tiền đồ cũng tiêu tan, còn liên lụy đến cả ông già. Cậu xem, thằng nhóc con mười lăm, mười sáu tuổi, có đứa nào làm cái trò đó đâu, thế mà mỗi cậu gặp xui xẻo.”

                   Tôi lại: “Tới đồn công an chưa đợi người ta tra hỏi khai tuốt hết cả rồi, giờ còn trách ai được nữa?”

                   Điếu bát thở dài: “Đúng là thiệt vì mình còn trẻ người non dạ, chưa hiểu chuyện đời, cứ nghĩ bị bắt vào đồn chưa cần họ cho mình phát súng vào mông rồi, hảo hán nào mà chịu cho nổi? cậu lại nghĩ, sỹ phu có thể chết nhưng thể bị làm nhục, phải thà khai báo mới bảo vệ được cái mông, may ra họ khoan hồng mà xử nặng cho mình, thế nên mới khai ra tuốt, ai dè cái trò bắn vào mông chỉ là đồn đại, hây… chuyện này…”

                   Tôi : “Đừng nhắc lại mấy chuyện mất mặt ấy nữa, gần đây công việc làm ăn của thế nào rồi?”

                   Điếu bát lần này đến tìm tôi cũng là để chuyện này, ta gom góp hết vốn liếng gia tài định cùng tôi về vùng quê nào đó kiếm vài thứ có giá trị. Vì tìm thấy món nào hay ở mấy vùng gần gần xung quanh, muốn làm giàu phải mạo hiểm, xa chút để thử vận may. Nếu may mắn, ăn mười. ta với tôi: “Chúng ta là chú cháu, lại là em, cậu từng này tuổi đầu rồi chưa cầu xin ai bao giờ, cậu giúp người khác cũng phải giúp ”. Hỏi ta định đâu, hóa ra có chủ ý trước, Điếu bát mở tờ giấy ra chỉ cho tôi xem.

                   Tôi nhìn vào tờ giấy, đọc to nội dung: “Mao Chủ tịch từng giúp ông nội tôi…” hiểu gì cả, tôi hỏi lại: “Thế là sao, định đưa tôi đến đài tưởng niệm Mao Chủ tịch à?”

                   Điếu bát nghe xong cũng thấy khó hiểu, nhìn kỹ lại hóa ra là tôi cầm ngược, vì ta tiện tay vẽ lên tờ báo cũ, lật mặt bên kia là sơ đồ vẽ loằng ngoằng xiêu vẹo, có hình ngọn núi, ta giải thích đó là Thông Thiên Lĩnh, núi Phục Ngưu ở Dự Tây, trước đây từng có người mua được chiếc cốc ngọc từ người dân ở khe Hoàng Tuyền, Thông Thiên Lĩnh. chiếc cốc bằng ngọc trong suốt, miệng cốc nẹp viền vàng. Thời cổ, chỉ có hoàng đế hoặc các chư hầu mới dùng loại cốc như vậy, điều đó chứng tỏ ở Thông Thiên Lĩnh hẳn có mộ cổ. Trước giải phóng, có người dân từng đào được tượng đá, vòng ngọc khi cày ruộng, nghe trong núi còn có xác chết biết bay.

      justify;" align="            3



                   Thông Thiên Lĩnh dường như tách biệt với thế giới bên ngoài, thời xưa những có người rừng xuất mà tương truyền còn có cương thi biết bay. Nhưng đó đều là lời của những người trộm mộ trước giải phóng kể lại, mấy trăm năm trở lại đây ai nhìn thấy tượng này cả. Những chuyện truyền miệng ở chợ phủ đều là thông tin chính ngạch, khó mà tin được, thế mà Điếu bát lại tin. ta còn vẽ lại sơ đồ theo lời kể của mọi người, đến gạ gẫm tôi cùng ta chuyến, thực ra tấm bản đồ của ta chẳng có chút giá trị nào.

                   Nếu làm mấy cái trò đào mồ quật mà trộm đồ tôi muốn cùng ta, có điều tới Thông Thiên Lĩnh xem có kiếm được món đồ cổ cũng được. Tôi nghe nơi giáp ranh giữa tỉnh Hà Nam và Sơn Tây là núi Phục Ngưu, đó là ở vùng nếp gấp nối liền các mạch núi dôi ra của Thái Hành Tần Lĩnh, thế núi to lớn hơn hẳn những ngọn núi bình thường, Thông Thiên Lĩnh chính là ngọn núi nằm dãy núi này. Từ xưa đến nay, tình trạng thổ phỉ hoành hành ở Dự Tây rất nghiêm trọng, đây là nơi thường xuất bọn “thảng tướng”, người Dự Tây gọi thổ phỉ là “thảng tướng”. Từ cuối triều Thanh đến thời kỳ Dân quốc, tình hình hỗn loạn, thêm vào đó là nạn hạn hán quanh năm, đây chính là thời điểm thích hợp cho bọn thổ phỉ cướp bóc lộng hành. Lúc đó, quân số của bọn thổ phỉ dưới trăm ngàn tên. Thủ lĩnh quân phiệt Tôn Điện cũng từng xuất thân từ thổ phỉ, trở nên nổi tiếng vì đào trộm Đông Lăng của các hoàng đế Mãn Thanh để cướp bảo vật. Trong những truyền thuyết mê tín xưa, trời có chín tầng trời gọi là huyền thiên, dưới đất có chín tầng suối gọi là hoàng tuyền, chỉ cần nghe tên khe hoàng tuyền là thấy chứa mối nguy hiểm rồi, nó với Thông Thiên Lĩnh tạo thành hai thế đối ngược nhau, cao sâu, vậy cũng đủ thấy khác biệt giữa núi và vực. Tuy bây giờ khác với ngày xưa, sau giải phóng, thổ phỉ ở Dự Tây bị tiêu diệt sào huyệt, còn nạn thổ phỉ nữa, nhưng Thông Thiên Lĩnh vốn cách biệt với bên ngoài, ít dấu tích con người, khó mà dám chắc gặp gì bất trắc, để Điếu bát mình tôi cũng yên tâm, hơn nữa lòng hiếu kỳ lại trỗi dậy, tôi liền đồng ý theo ta.

                   Tôi nghĩ lên kế hoạch cũng thể lường trước được mọi , cứ rồi tính tiếp, nên cũng chuẩn bị gì nhiều. Sáng ngày hôm sau, chúng tôi lên đường, nhằm hướng Dự Tây thẳng tiến, manh mối chỉ dựa vào lời đồn từ mấy chục năm trước. Thông Thiên Lĩnh núi non hùng vĩ, phía bắc giáp Thái Hành, phía tây nối với Tân Lĩnh, núi non trùng trùng điệp điệp, là dãy núi quá to lớn, biết phải tìm ra khe núi ở đó như thế nào đây?

                    ngờ, bản đồ cũng có vùng gọi là khe Hoàng Tuyền ở Thông Thiên Lĩnh, tuy nằm giữa các ngọn núi nhưng vẫn có lối vào. Dọc đường, chúng tôi nhờ chiếc xe tải chở hàng, lái xe là quân nhân xuất ngũ, cũng là người trong thành phố như chúng tôi, ta họ Bì, người béo tròn, tôi nghe những người bạn của ta gọi ta là Mặt dày, chắc là biệt danh. ta vỗ ngực khẳng định đưa chúng tôi tới thẳng Thông Thiên Lĩnh, xuống xe bộ đoạn là đến khe Hoàng Tuyền, nhưng thu tiền xe, Điếu bát cò kè gẫy lưỡi nhưng ta nhất định đồng cũng chịu bớt, ta vì đường núi khó , phải qua nhiều đèo dốc nguy hiểm, Điếu bát còn cách nào khác đành chấp nhận trả tiền.

                   Mặt dày chắc chắn: “Các đừng sợ thiệt, tìm chỗ có người tự cười sung sướng , tôi đưa các đường Ô Thử động, đó là con đường tắt, đảm bảo tới nơi trước khi trời tối”. ta lái xe về phía những ngọn núi, chúng tôi nhìn thấy phong cảnh hai bên đường đều là những sườn núi, do bị sói mòn nên hình thành những đụn đất tròn, trông như những nấm mồ kích thước to khác nhau.

                   Nghe thời xưa ở vùng Thông Thiên Lĩnh hay xuất loài động vật có hình thù kỳ quái, con quái vật này có khuôn mặt giống người, môi dài, khắp người đầy lông lá, bằng hai chân, nhìn thấy người ta cười cũng cười theo. Theo cách miêu tả này nó tựa như vượn người hoặc gấu chó, nhưng tuyệt chủng từ lâu. Hơn hai ngàn năm trước, vùng Thông Thiên Lĩnh khí hậu ôn hòa, ẩm thấp, cây cối xanh tươi, nhưng về sau do đất đai bị nước sói mòn, đến mèo rừng chó hoang cũng hiếm gặp, chỉ còn lại rừng sâu núi thẳm. Dọc đường toàn đèo núi và những đồi trọc nhấp nhô, núi tiếp núi tít tắp đến tận chân trời.


    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :