1. QUY ĐỊNH BOX XUẤT BẢN :

       

    Đặt Title theo mẫu [Tên truyện] [dấu cách] - [dấu cách] [Tác giả] [Số chương]

    ----•Nội dung cần:

    - Hình minh họa (bìa truyện, hình ảnh,etc,...)

    - Tác giả

    - Dịch giả

    - Đơn vị phát hành

    - Số trang ( nên có)

    - Giá bìa (nên có)

    - Ngày xuất bản (nên có)

    --- Quy định

    1 . Thành viên post có thể tự type hoặc copy từ nơi khác (để nguồn)

    2 . Trình bày topic truyện khoa học, bôi đen số chương để dễ nhìn

    3. Cần có trách nhiệm post đến hết truyện. Nếu không thể tiếp tục post liên hệ

    Ad và Mod

  2. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Kim Lăng Thập Tam Thoa - Nghiêm Ca Linh

Thảo luận trong 'Sách XB Hoàn'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      KIM LĂNG THẬP TAM THOA

      [​IMG]


      Tác giả: Nghiêm Ca Linh

      Dịch giả: Lê Thanh Dũng

      Nhà xuất bản: NXB văn học - Nhà sách Phương Đông

      Ngày xuất bản: 03 - 2012

      Giá bìa: 60.000VNĐ

      Mở đầu

      tôi, Mạnh Thư Quyên cứ mải miết tìm người. chính xác là tôi tìm người đàn bà. Tìm mãi tìm mãi, mỗi ngày già , quên cả chuyện chồng con. Tôi lớn lên, đến cái tuổi để có thể trút bầu tâm , tôi mới phát ra rằng, người mà muốn tìm là điếm. Khi ta và tôi quen nhau, ta là ngôi sao của nghề đó. Theo cách mới, ta là nhân vật có máu mặt.
      Tháng 8 năm 1946, trong buổi xét xử tội phạm chiến tranh Nhật Bản tại Nam Kinh, tôi gần như tìm thấy con người này. ta ngồi ghế của người làm chứng, chỉ ra những sĩ quan cao cấp của Nhật Bản tổ chức vụ hãm hiếp qui mô lớn.
      tôi nhận ra ta qua giọng . Chen chân trong đám người bên ngoài cuộc xử án, nghe thấy lời làm chứng của ta qua chiếc loa mắc cột điện cho dù ta dùng tên khác.
      Từ bên ngoài len vào phòng xử án, mất hơn giờ đồng hồ. Năm mươi sáu năm trước, trong cái ngõ vạn người này, dân phố sẵn sàng chịu cái nóng thiêu đốt của những ngày tháng tám để được tai nghe mắt thấy kết thúc nhục nhã của những kẻ từng đầy đọa họ tám năm trời.
      Bên trong bên ngoài phòng xử án còn chỗ đặt chân, tôi cảm thấy như bức tường bị bở tơi ra, cứ mỗi lần bị xô đẩy, nó lại bị biến dạng . Những người dân Nam Kinh còn sống sót sau cuộc thảm sát giờ này hầu như đều tụ tập bên ngoài phòng xử án, đứng cách xa đến nửa dặm, nghe tiếng loa truyền, họ cũng thấy hả hê.
      Từ xa, tôi nhìn thấy phía sau ta. Dáng người ta còn ngon mắt lắm, bị giày vò nhưng cũng chưa đến nỗi nhàu nát. Khi lách theo khe hở đến được gần sau lưng ta, Thư Quyên bị hơi nước bốc lên từ hàng vạn con người hấp cho ướt đầm đìa. đưa tay ra vỗ lên bờ vai tròn nổi tiếng nhất Nam Kinh những năm ba mươi. Khuôn mặt quay lại nằm trong ký ức của tôi. khuôn mặt ra mặt; về sau đoán rằng có thể khuôn mặt kiều diễm bẩm sinh đó bị hủy hoại rồi về sau được bác sĩ chỉnh hình sửa sang lại.
      “Triệu Ngọc Mặc!” Mạnh Thư Quyên hai mươi tuổi khẽ kêu lên kinh hãi. Người đàn bà tên Triệu Ngọc Mặc giương mắt giả vờ ngạc nhiên.
      : “Tôi là Mạnh Thư Quyên đây.”
      ta lắc đầu, bằng giọng đặc trưng của Triệu Ngọc Mặc: “ nhận lầm người rồi.” Những năm ba mươi, lãng tử Nam Kinh chẳng ai quen biết, ai cũng thích nghe giọng hát có chút lạc điệu của .
      tôi cam chịu, len đến trước mặt ta và mình là Mạnh Thư Quyên, trong các học sinh được ta và các chị em của ta cứu thoát!
      Cho dù Mạnh Thư Quyên thế nào Triệu Ngọc Mặc cũng nhất định nhận. ta lườm xéo cái, chiếc cằm lạnh lùng còn lại sau khi chỉnh hình nảy cái, tiếng Nam Kinh mang giọng Tô Châu: “Triệu Ngọc Mặc là ai kia?”
      xong câu đó, ta đứng lên len qua phía sau hàng người đứng đầu rồi mất. Cái cằm thanh nhã tuyệt đẹp rướn , trước cái cằm đó ai có thể oán trách bất cứ điều gì bất tiện mà ta gây ra.
      Tất nhiên Mạnh Thư Quyên thể nào theo ta được vì chẳng ai dãn ra cho cả. đành phải dùng cách vào như thế nào ra như thế. Khi thoát được ra ngoài rồi, chẳng thấy bóng dáng Triệu Ngọc Mặc đâu nữa.
      Từ lần đó, Mạnh Thư Quyên của tôi kiên quyết thực ý định, cho dù Triệu Ngọc Mặc thay đổi còn chút nào là Triệu Ngọc Mặc nữa, nhất định phải tìm ra tung tích của ta và mười hai người chị em của . Qua ghi chép của các phóng viên, tôi tìm được số người, số được tìm thấy qua các cuộc chuyện với đám lính Nhật về già, nhưng phần lớn tìm được qua mấy chục năm lân la trong dân chúng vùng Giang Tô, An Huy, Chiết Giang.
      Cả khối tư liệu đồ sộ trải rộng tấm bản đồ lớn, Mạnh Thư Quyên nhìn thấy tọa độ của mình ở thành phố Nam Kinh khi thất thủ ngày 13 tháng 12 năm 1937 và vị trí nhà thờ Wilson, nơi cùng các bạn học náu. Tư liệu cho thấy bức tranh rộng lớn của Nam Kinh trước khi gặp tai họa và cũng cho thấy kiếp người bé như con giun con dế kinh hoàng, hoảng loạn trong bức tranh…
      Và đây là Mạnh Thư Quyên 13 tuổi của tôi.​

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Mở đầu

      tôi, Mạnh Thư Quyên cứ mải miết tìm người. chính xác là tôi tìm người đàn bà. Tìm mãi tìm mãi, mỗi ngày già , quên cả chuyện chồng con. Tôi lớn lên, đến cái tuổi để có thể trút bầu tâm , tôi mới phát ra rằng, người mà muốn tìm là điếm. Khi ta và tôi quen nhau, ta là ngôi sao của nghề đó. Theo cách mới, ta là nhân vật có máu mặt.

      Tháng 8 năm 1946, trong buổi xét xử tội phạm chiến tranh Nhật Bản tại Nam Kinh, tôi gần như tìm thấy con người này. ta ngồi ghế của người làm chứng, chỉ ra những sĩ quan cao cấp của Nhật Bản tổ chức vụ hãm hiếp qui mô lớn.

      tôi nhận ra ta qua giọng . Chen chân trong đám người bên ngoài cuộc xử án, nghe thấy lời làm chứng của ta qua chiếc loa mắc cột điện cho dù ta dùng tên khác.

      Từ bên ngoài len vào phòng xử án, mất hơn giờ đồng hồ. Năm mươi sáu năm trước, trong cái ngõ vạn người này, dân phố sẵn sàng chịu cái nóng thiêu đốt của những ngày tháng tám để được tai nghe mắt thấy kết thúc nhục nhã của những kẻ từng đầy đọa họ tám năm trời.

      Bên trong bên ngoài phòng xử án còn chỗ đặt chân, tôi cảm thấy như bức tường bị bở tơi ra, cứ mỗi lần bị xô đẩy, nó lại bị biến dạng . Những người dân Nam Kinh còn sống sót sau cuộc thảm sát giờ này hầu như đều tụ tập bên ngoài phòng xử án, đứng cách xa đến nửa dặm, nghe tiếng loa truyền, họ cũng thấy hả hê.

      Từ xa, tôi nhìn thấy phía sau ta. Dáng người ta còn ngon mắt lắm, bị giày vò nhưng cũng chưa đến nỗi nhàu nát. Khi lách theo khe hở đến được gần sau lưng ta, Thư Quyên bị hơi nước bốc lên từ hàng vạn con người hấp cho ướt đầm đìa. đưa tay ra vỗ lên bờ vai tròn nổi tiếng nhất Nam Kinh những năm ba mươi. Khuôn mặt quay lại nằm trong ký ức của tôi. khuôn mặt ra mặt; về sau đoán rằng có thể khuôn mặt kiều diễm bẩm sinh đó bị hủy hoại rồi về sau được bác sĩ chỉnh hình sửa sang lại.

      “Triệu Ngọc Mặc!” Mạnh Thư Quyên hai mươi tuổi khẽ kêu lên kinh hãi. Người đàn bà tên Triệu Ngọc Mặc giương mắt giả vờ ngạc nhiên.

      : “Tôi là Mạnh Thư Quyên đây.”

      ta lắc đầu, bằng giọng đặc trưng của Triệu Ngọc Mặc: “ nhận lầm người rồi.” Những năm ba mươi, lãng tử Nam Kinh chẳng ai quen biết, ai cũng thích nghe giọng hát có chút lạc điệu của .

      tôi cam chịu, len đến trước mặt ta và mình là Mạnh Thư Quyên, trong các học sinh được ta và các chị em của ta cứu thoát!

      Cho dù Mạnh Thư Quyên thế nào Triệu Ngọc Mặc cũng nhất định nhận. ta lườm xéo cái, chiếc cằm lạnh lùng còn lại sau khi chỉnh hình nảy cái, tiếng Nam Kinh mang giọng Tô Châu: “Triệu Ngọc Mặc là ai kia?”

      xong câu đó, ta đứng lên len qua phía sau hàng người đứng đầu rồi mất. Cái cằm thanh nhã tuyệt đẹp rướn , trước cái cằm đó ai có thể oán trách bất cứ điều gì bất tiện mà ta gây ra.

      Tất nhiên Mạnh Thư Quyên thể nào theo ta được vì chẳng ai dãn ra cho cả. đành phải dùng cách vào như thế nào ra như thế. Khi thoát được ra ngoài rồi, chẳng thấy bóng dáng Triệu Ngọc Mặc đâu nữa.

      Từ lần đó, Mạnh Thư Quyên của tôi kiên quyết thực ý định, cho dù Triệu Ngọc Mặc thay đổi còn chút nào là Triệu Ngọc Mặc nữa, nhất định phải tìm ra tung tích của ta và mười hai người chị em của . Qua ghi chép của các phóng viên, tôi tìm được số người, số được tìm thấy qua các cuộc chuyện với đám lính Nhật về già, nhưng phần lớn tìm được qua mấy chục năm lân la trong dân chúng vùng Giang Tô, An Huy, Chiết Giang.

      Cả khối tư liệu đồ sộ trải rộng tấm bản đồ lớn, Mạnh Thư Quyên nhìn thấy tọa độ của mình ở thành phố Nam Kinh khi thất thủ ngày 13 tháng 12 năm 1937 và vị trí nhà thờ Wilson, nơi cùng các bạn học náu. Tư liệu cho thấy bức tranh rộng lớn của Nam Kinh trước khi gặp tai họa và cũng cho thấy kiếp người bé như con giun con dế kinh hoàng, hoảng loạn trong bức tranh…

      Và đây là Mạnh Thư Quyên 13 tuổi của tôi.



      1

      Mạnh Thư Quyên ngồi phắt dậy và phát ra rằng mình đứng bên mép giường. Lúc đó khoảng hơn năm giờ sáng hoặc sớm hơn chút nữa, chưa đến bốn rưỡi. phải tiếng đại bác mà là dòng chất dịch nóng trong người đánh thức dậy. Dòng dịch nóng kèm theo sức ép cuối cùng vọt ra, lúc ấy Thư Quyên tỉnh giấc. Dòng kinh nguyệt đầu tiên trào ra.

      Chân đất đứng sàn nhà, cảm thấy chất dịch vừa nóng bỏng vội lạnh ngắt như băng. Bên trái giường có bảy tấm thảm trải sàn, lối cắt ngang, tiếp theo lại có bảy tấm nữa. ngôi nhà xa gần đâu đó bị cháy, ánh lửa bập bùng chiếu qua tấm rèm cửa sổ màu đen làm cho khoảng gian trong căn gác đung đưa. Thư Quyên nhìn các bạn ngủ say trong ánh lửa, nghe tiếng thở vừa dài vừa sâu; trong giấc mơ của họ là cảnh thanh bình.

      Thư Quyên khoác lên mình tấm áo gấm, lần mò về phía cầu thang. phải là cái cửa thẳng góc với mặt phẳng ngang, từ gác nhìn xuống, nó chỉ là cái nắp hình chữ nhật để người quản lý đôi lúc chui lên chữa điện hay chống dột. Tối qua khi Thư Quyên và các bạn đến nhà thờ Wilson, linh mục Engman của nhà thờ bảo các phải ở yên gác, tiểu có thùng tôn, đại tiện mới xuống dưới nhà.

      Cái nắp hình chữ nhật gắn với cầu thang, giữa có cái chốt làm rất khéo, khi cái nắp mở ra cầu thang thò xuống.

      Chiều qua, linh mục Engman và phó linh mục Atonado dẫn Thư Quyên và mười sáu học sinh nữ chạy đến bờ sông định lên phà Phố Khẩu. Sẩm tối, phà từ Phố Khẩu quay về bỗng có tốp thương binh được chở đến. Những người này đều bị thương vì đạn của quân mình, số là họ được lệnh khẩn cấp rút lui, đến nửa đường gặp đơn vị quân đội chưa nhận được lệnh rút lui đánh chặn vì tưởng họ là lính đào ngũ, họ bị quét súng máy, câu súng cối, dùng xe tăng cán. Trước khi rút lui họ được lệnh hủy hết vũ khí hạng nặng, giờ đây trước mũi súng của đơn vị đánh chặn, họ trở thành những tấm bia thịt. Khi hai bên hiểu ra đơn vị rút lui bị thương vong mấy trăm người. Những người lính nã đạn vào họ, quá ân hận cho nên điên cuồng cướp sà lan cho đám người bị thương. Vậy là thày trò đám nữ sinh lỡ mất chuyến qua sông.

      Khi đó linh mục Engman thấy rằng đêm ở ven sông quá nguy hiểm, súng mạnh ai nấy bắn; gươm mạnh ai nấy chém, ông nghĩ lính Nhật cũng vậy thôi. Thế là với giúp đỡ của A Cố và George Trần, ông và phó linh mục Atonado dẫn các em học sinh quay về nhà thờ. Ông hứa với đám học sinh trước khi trời sáng nhất định kiếm được thuyền, cho dù có thuyền cũng còn lối thoát cuối cùng, đó là tránh nạn tại vùng an toàn. Engman cho rằng Nam Kinh dễ thủ khó công. Chỉ với tường thành kiên cố và địa thế hiểm yếu của Trường Giang, muốn công thành cũng phải mất mấy ngày.

      Mấy chục năm sau, mỗi khi nhớ lại, Mạnh Thư Quyên vẫn thấy bàng hoàng: Tháng 12 năm 1937, thủ đô Nam Kinh của Trung Quốc thất thủ nhanh đến vậy! Linh mục Engman dày dạn từng trải tính nhầm khiến ông và đám nữ sinh tuột mất cơ hội thoát thân cuối cùng.

      Đó là sai lầm chết người, phải trả giá quá đắt để sửa chữa.

      bé mười ba tuổi Thư Quyên men theo chiếc cầu thang gỗ kẽo kẹt xuống. Chân đặt lên nền xưởng đóng sách kinh thánh, cảm thấy cái lạnh cắt da của tháng mười hai. Nếu có mấy tiếng súng lẹt đẹt phía xa, khung cảnh yên tĩnh, như nghe thấy cả tiếng thân mình cọ xát nhè với màn đêm. Lúc này đây, vẫn chưa biết đó là yên tĩnh chẳng lành, yên tĩnh của thành trì buông xuôi còn chống trả, yên tĩnh quy phục.

      Thư Quyên trong yên tĩnh ẩm ướt, thuộc đường từ đầu này đến đầu kia xưởng đóng sách. Tất cả có hai mươi hai cái bàn dùng để cho học sinh đóng sách kinh thánh và sổ tay giảng kinh. Giờ đây các nữ học sinh ở lại nhà thờ với Thư Quyên phần đông là trẻ mồ côi, chỉ có hai người như Thư Quyên, cha mẹ lỡ việc ở ngoài nước hoặc ngoài tỉnh. cho rằng những người cha người mẹ này đều cố tình bị lỡ, họ muốn quay về thủ đô Nam Kinh, nơi chẳng còn thiết tha gì với chính phủ và quân đội của mình nữa.

      Đúng vào khi nửa thân dưới trần truồng đứng trước chiếc thùng vệ sinh, cảm giác lạ lùng và ghê sợ, cơ quan nội tạng thần bí bắt đầu chộn rộn và co bóp, tiết ra chất dịch đỏ sẫm, hề biết chút gì về bên ngoài bức tường nhà thờ là buổi sớm điên rồ thê thảm của ngày tận thế.

      Hàng trăm hàng ngàn xe tăng cắm cờ lá cao (1) tiến vào Nam Kinh, cửa thành mở toang, kẻ xâm nhập thọc vào nơi sâu nhất của thành trì. Những thây người chết ngổn ngang máu thịt đầm đìa đường phố. Lúc này mười ba tuổi Thư Quyên chỉ thấy nỗi ô nhục ê chề là đám máu kinh nguyệt của thân phận con ; mơ hồ cảm thấy từ lúc này trở thành tấm thân gây ra những điều xấu xa, là mảnh đất ươm mầm tội ác cho bất cứ kẻ nào, để mặc cho chúng tùy ý trồng cây và hái quả.

      Buổi sớm đó, Mạnh Thư Quyên chấm dứt quãng đời thiếu nữ ngây thơ, tấm khăn nhét giữa hai chân; bước ra ngoài với dáng chẳng lấy gì làm thanh nhã. Từ mấy ngày trước, tháp chuông kiểu Gothic của nhà thờ bị phá sập thành đống gạch đổ nát cùng với mảng cửa lớn trông ra phố. Từ nay lối vào ra là chiếc cổng phụ tí. Đống đổ nát in hình nền đỏ của đám lửa đâu đó như muốn chứng tỏ rằng nó cũng hùng vĩ nguy nga kém. Tòa nhà chính ngăn cách với xưởng đóng sách bằng hành lang dẫn đến cổng phụ, đầu kia hành lang là bãi cỏ sau tòa nhà chính. Linh mục quí nó hơn cả giường đệm của mình, ông tự hào với giáo dân rằng đó là miền đất hứa cuối cùng của Nam Kinh. Mấy chục năm nay, thảm cỏ là nơi hành lễ, tổ chức tang chay cưới xin cho giáo dân. thảm cỏ trải lá cờ sao vạch và cờ chữ thập đỏ cỡ lớn. Ngôi nhà gạch đỏ của linh mục nổi bật thảm cỏ xanh như chỉ có trong thần thoại.

      Trời đông ửng hồng.

      Nắng đẹp. Rất nhiều năm sau tôi vẫn còn than rằng: Ngày tận số của Nam Kinh mà lại là ngày đẹp trời!

      Mạnh Thư Quyên bước đôi chân ở giữa ngăn cách bằng chiếc khăn, ngượng nghịu qua xưởng đóng sách. Leo hết cầu thang, lập tức bước vào cõi mộng bình yên.

      Trời sáng, các nữ sinh đều tỉnh dậy. Họ bị tiếng khóc đàn bà bên dưới gác đánh thức.

      Ba tấm cửa sổ của căn gác đều treo rèm phòng màu đen và dán chéo những băng giấy. Lúc này băng giấy bị các bóc để có thể nhìn ra sân trước và góc cổng phụ.

      Thư Quyên áp mặt vào khung cửa, trông thấy linh mục chạy từ sân sau ra cổng phụ, tấm áo vừa rộng vừa dài như cánh buồm giương lên trước gió. Ông vừa chạy vừa kêu: “ được trèo tường! có gì ăn đâu!”

      nữ sinh mạnh dạn mở toang cửa ra, các bé chen nhau thò cổ ra xem. bức tường bên cổng phụ có hai trẻ ngồi vắt vẻo, mặc áo dài lụa hồng có vẻ như là dâu vừa chạy thẳng từ giường tân hôn đến, kia khoác tấm áo lông chồn, chiếc váy hoa bên dưới có cúc cài, để lộ ra những lớp y phục đủ cả xuân hạ thu đông.

      Các bé nhìn chưa , kéo nhau xuống thang gác đứng chật ở cửa xưởng đóng sách nhìn ra.

      Khi Thư Quyên cũng chen vào xem tường còn là hai nữa mà là bốn . Hai lúc nãy bị Engman chặn lại đáp xuống khoảnh đất nhà thờ. A Cố và George Trần chạy đến giúp sức cũng ngăn cản được tốp lính tiên phong nước mắt mũi dãi đầm đìa này.

      Linh mục Engman trông thấy đám nữ sinh chen chúc thầm nơi cửa bèn nổi nóng bảo A Cố: “Dẫn bọn trẻ , cho chúng nhìn thấy những người đàn bà này!” Vì nhà thờ bị cắt nước, bộ râu cạo mọc tua tủa, trông ông già sọm .

      Thư Quyên hiểu được tình hình xảy ra, mấy người kia đúng là đám đàn bà nên để mắt tới.

      Trong đám con có đứa có chút hiểu đời bảo các bạn: “Bọn ở nhà chứa đấy.” “Nhà chứa gì?” “Nhà thổ bên sông Hoài đó!”…

      Phó linh mục Atonado từ tòa nhà chính chạy ra hét to: “ chỗ khác! Ở đây chứa dân tị nạn!” Ông trẻ hơn Engman đến hơn hai chục tuổi nhưng mặt già hơn tuổi, tóc lại già hơn mặt. Tên ông là Fabbi, giáo dân gọi thân mật là Fabbi Dương Châu(2). Câu đặc giọng Dương Châu của Fabbi khiến đám đàn bà kêu khóc van xin im bặt giây lát. Sau khi biết mình nghe nhầm họ lại nhao nhao như thợ cắt tóc, như đầu bếp gào trong quán ăn.

      linh mục Tây mắt sâu mũi lõ giọng Dương Châu tròn vành chữ!

      điếm hai lăm hai sáu tuổi : “Chúng tôi chạy từ bờ sông tới đây! Xe ngựa bị lật, ngựa hoảng loạn chạy mất. Bây giờ trong thành đầy lính Nhật, chúng tôi đến được khu an toàn nữa rồi!”

      ả mười bảy mười tám cướp lời: “Khu an toàn cũng chẳng đủ chỗ mà ngồi, có chen được vào cũng phải cắm đầu trồng cây chuối!”

      mụ bừng bừng như sôi: “Tôi có người quen ở sứ quán Mỹ bằng lòng cho trú nhờ, tối qua lật lọng nhận nữa! Thế là bà trẻ này mất trắng cho nó bữa vui vẻ!”

      giọng bất cần đời: “Tiên sư cha nó! Lúc đến kiếm vui em nào cũng như khúc giò lụa!”

      Thư Quyên thấy đầu váng mắt hoa vì những câu chữ lạ lẫm. A Cố đến lôi , giãy ra. nhận thấy tất cả các bạn trở về căn gác. George Trần được lệnh dùng gậy cản bọn điếm lại. ta hai tay hai gậy lại trở thành người van xin: “Các nghe tôi ! Các vào đây cũng chết! chết đói cũng chết khát. Học sinh ngày hai bát cháo loãng, uống nước trong bồn nước rửa tội. Xin các nghe tôi ra !…” câu lại gậy đập xuống bậc cửa, chấn động cả cổ tay cánh tay, người bị đau là chính ta.

      điếm hai bốn hai lăm tuổi đột nhiên quì xuống trước mặt Engman, đầu hơi cúi xuống, thế là Thư Quyên nhìn thấy thân hình mà suốt đời quên. dáng người biết biểu cảm thay cho nét mặt. Sau đó sống chung thời gian với người đàn bà này, Thư Quyên phát thêm rằng, chỉ cái lưng, người ta chỗ nào nhàn rỗi cả, chỗ nào cũng biết cười, biết than vãn, biết ra hiệu cách tinh tế. Còn bây giờ Mạnh Thư Quyên nghe linh mục Engman vận dụng vốn tiếng Trung Quốc hơn ba mươi năm để tranh luận với ta nhưng cũng chỉ mấy câu George Trần : Gạo hết, nước hết, chỗ cũng chẳng còn, đông người trú chẳng có gì an toàn. Khi diễn đạt được hết ý ông nhờ George Trần dịch từ tiếng Trung Quốc sang tiếng Trung Quốc - Dương Châu.

      Thân người đàn bà quì mọc rễ nhưng vai và lưng vẫn liên tục biểu cảm.

      ta : “Cái mạng chúng tôi rẻ mạt, chẳng đáng để cho ngài cứu; nhưng chúng tôi chỉ cầu mong chết được tử tế. Hèn hạ như loài chó lợn cũng đáng được chết cho nhanh gọn, chết mà phải đau đớn.”

      Phải rằng lúc này con người ta trang trọng và lịch . mãi mãi, tóc ta xổ ra, chảy tràn đôi vai. mái tóc đẹp!

      Linh mục Engman lạnh lùng bảo ta, trong những học sinh ông che chở, có những người có cha mẹ là nhân sĩ danh giá, cũng là con chiên lâu năm của nhà thờ. Mấy hôm trước họ đều đánh điện cầu linh mục bảo vệ cho con em họ tránh khỏi mọi xâm hại. Ông lần lượt đánh điện trả lời rằng ông đem tính mạng mình ra đảm bảo lời hứa.

      Fabbi còn kiên nhẫn được nữa, ông biến trở lại thành người Dương Châu. Ông dùng tiếng với Engman: “ kiểu đó với họ bây giờ ăn thua nữa rồi! Phải bằng thứ ngôn ngữ họ hiểu được – George Trần, lên sân khấu diễn Tôn Khỉ ! Làm vào!”

      A Cố buông Thư Quyên ra. ta lao đến định giật lấy cái gậy trong tay George Trần để múa. người đàn bà ngã từ gác xuống rơi vào lòng A Cố, suýt nữa đè cái cổ ngắn của ta chui vào trong ngực. Chiếc áo choàng da báo xô , tấm thân trần người đàn bà phơi ra. A Cố cả đời chỉ thấy người đàn bà trần như nhộng đó là vợ mình. Tưởng là cái xác kiều diễm rơi xuống, ta hãi quá kêu lên thất thanh “ối trời ơi”. Thừa cơ, đám đàn bà tường nhảy ào ào xuống sân nhà thờ như ếch gặp mưa rào. Còn lại người đàn bà da đen cao lớn kéo thêm ba bốn ả điếm bên ngoài lên tường.

      Fabbi tuyệt vọng: “Khiếp quá! Cả cái thuyền hoa sông Tần Hoài cập bến hay sao đây!” Dù sao ông cũng là người nhà thánh thể hành động thô bạo với người ta được, chỉ có thể mạnh mà thôi. Ông chỉ vào đám đàn bà quát lớn: “Loại đàn bà như các người sợ gì hả? Ra phố mà chèo kéo bọn lính Nhật !”

      Mấy người đàn bà đối đáp lại: “Thế mà là linh mục Tây kia đấy! An kiểu gì vậy?” “Muốn chửi chúng tôi cứ chửi ! Chửi sao mà độc địa thế biết!…”

      A Cố muốn thoát thân khỏi mụ đàn bà dở sống dở chết nhưng mụ ta khỏe quá, hai cánh tay như hai cái râu bạch tuộc, càng giãy nó càng quấn chặt.

      Linh mục Engman thấy khí thế như nước lũ của đám đàn bà mua hương bán phấn này thể cản nổi, ông đành bó tay, bảo A Cố mở cổng ra.

      Thư Quyên nhìn thấy người đàn bà chậm rãi đứng lên, ra đó là người đàn bà có vóc dáng khá cao. Sàn đá sạch đến xanh bóng bị đám đàn bà xanh đỏ làm cho nhem nhuốc. Hòm xiểng, tay nải, chăn màn đủ màu cũng kéo theo vào, lôi theo cả mọi thứ dây dợ, tất dài, đồ lót.

      Thư Quyên của tôi khi đó biết rằng những gì nhìn thấy là mảng rất của cái mà sau này các nhà viết sử gọi là vụ đại thảm sát xấu xa nhất, tàn khốc nhất. Xung quanh mảng đó đầy xác người dân Nam Kinh, rãnh thải nước hai mép đường biến thành rãnh thải máu. Phải chờ biết bao lâu mới biết đầu đuôi câu chuyện, mới biết mình là đứa trẻ may mắn đến thế nào, linh mục và bức tường cao ngất của giáo đường che bớt cho những hình ảnh và thanh đẫm máu; đầu người rơi xuống, thân người phun máu tạo ra thanh độc nhất vô nhị.

      Đứng trước cửa xưởng in, nghĩ miên man: Nếu bố mẹ ích kỷ, thiên vị làm sao có thể bỏ lại đây trong lúc này, để những người đàn bà nhơ nhuốc kia làm bẩn đôi mắt trong sạch của ? luôn luôn nghi ngờ chiều của bố mẹ đối với mình, đến lúc này hết nghi ngờ. Bố mẹ đứa em của hơn. Bố có cơ hội Mỹ để học lên, ngay lập tức ông bảo chỉ có thể đưa đứa bé vì nó chưa đến tuổi học, bị lỡ học khi ra nước ngoài. Mẹ cũng đỡ cho bố, rằng điều quan trọng hơn nữa là để bác sĩ Mỹ chữa bệnh hen cho em. Bố mẹ bảo với Thư Quyên rằng năm trôi qua nhanh lắm, nhoáng cái cả nhà bốn người lại sum họp. Thế là yên chuyện, vốn bị ức lâu, đứa con lớn cam chịu bất công để tha thứ cho bố mẹ!

      Ông bà ngoại ở tít tận Ninh Ba lúc đầu định đến Nam Kinh chạy nạn, nhân thể chăm sóc Thư Quyên, nhưng tứ bề loạn lạc, đường thủy đường bộ về phía tây đều hung hiểm, cuộc hành trình tám trăm cây số là cuộc đánh bạc với tính mạng, hơn nữa ông bà già biết rằng mình bảo vệ cháu chẳng thể tốt hơn linh mục Engman và giáo đường Mỹ của ông ta. Trong bức điện ông bà còn nhắc nhở Thư Quyên học hành, ở cùng các bạn bị thất học.

      Những khi buồn bực nhất Thư Quyên đều oán trách họ, tận đáy lòng mình rất hận cha mẹ.

      Cái con tinh kia làm sao thế nhỉ, chết ngất trong lòng A Cố rồi kìa! Hai vạt trước tấm áo lông báo phanh toang ra! Dưới ánh sáng màu chì của buổi sớm, cái thân người nung núc lộ ra màu lông đen của chiếc áo, dòng sữa chảy ra lênh láng. vội thụt đầu vào trong cửa.

      Đứng rất lâu, đôi má nóng bừng mới nguôi dần. Đến mười Thư Quyên cũng thể xấu hổ thay cho mụ ta được.

      Thư Quyên leo lên gác trở về phòng như chạy trốn. Các vẫn xúm xít nơi cửa sổ, các băng giấy dán kính lột , tấm rèm đen gạt ra, ba ô cửa dài và hẹp biến thành các lô xem hát. Tình hình bên dưới hoàn toàn mất kiểm soát, đám đàn bà chui rúc vào mọi nơi mọi chỗ tìm đồ ăn nước uống, tìm nơi phóng uế. điếm kéo ả khác vén tấm màn gió xanh đen bằng nhung thẹn thùng với các linh mục Tây: Chạy miết cả đêm dám kiếm nơi ngoài, đành phải xấu mặt ở đây vậy. rồi hai ả biến mất sau tấm bình phong.

      Fabbi hét lên bằng tiếng : “Đồ súc vật!”

      Engman sống gần sáu mươi năm trời, chỉ riêng ở Trung Quốc, ông kinh qua hai cuộc biến loạn: Bắc phạt, Quân phiệt nhưng ông chưa bao giờ chứng kiến cảnh tượng xấu xa đến thế này, ông đáng phải chịu đựng bọn người thô bỉ đê tiện đến thế. Vị linh mục có ưu điểm, đó là lấy cao thượng thanh nhã thắng thô bỉ, đối phương càng thô bỉ ông càng thanh nhã; cuối cùng đạt đến đỉnh điểm, đúng lúc đó, bằng giọng ôn tồn, bình thản, ông : “Xin hãy tự chủ, thưa ngài Atonado.” Rồi ông quay lại với các ả giang hồ, kể cả hai người vừa trở ra sau tấm bình phong nét mặt hớn hở tay kéo dây quần, ông cân nhắc từng chữ: “Bây giờ chị em vào đây, với tư cách là linh mục cai quản nhà thờ, tôi khẩn thiết cầu chị em tuân theo quy tắc.”

      Fabbi kêu lên bằng tiếng giọng Giang Bắc: “Thưa Cha, cho họ vào thà cho lính Nhật vào còn hơn!”(3). Ông với hai người làm công người Trung Quốc: “Sống chết thế nào cũng phải lôi cổ họ ra! nhìn thấy chưa? Đứa nào cũng làm loạn cả!”

      ả có tấm thân tròn lẳn bỗng kêu lên: “Cứu tôi với!”

      Mọi người quay sang nhìn, ra ả kêu vờ, ánh mắt cười cợt lẳng lơ.

      “Cái người này cấu véo tôi!” Ả chỉ tay vào A Cố.

      A Cố quát lên: “Ai làm gì mụ?”

      “Cái của nợ của mày đụng vào mẹ mày!” Bộ ngực đồ sộ phập phồng.

      A Cố trả miếng: “Đụng sao? Người ta đụng được tao đụng được à?”

      Ai cũng thấy rằng A Cố cũng phải là nghiêm túc cho lắm. “Đủ rồi!” Engman bằng tiếng . Nhưng A Cố vẫn thấy chưa đủ, vẫn cãi nhau với ả điếm. Linh mục mới bằng tiếng Trung Quốc: “Đủ rồi!”

      Thực ra Engman nhận ra điều, George Trần và A Cố phản bội, họ ngấm ngầm làm nội ứng cho đám điếm.

      Fabbi : “Cha hãy nghe…”

      “Ông hãy nghe đây, cho họ vào.” Engman . “Ít nhất cho họ ở ngày tại đây. Khi hoàn thành việc chiếm đóng, người Nhật chịu trách nhiệm giữ gìn trật tự cho thành phố, khi đó chúng ta mời những người này ra khỏi nhà thờ. Dân tộc Nhật Bản nổi tiếng về kỷ luật trật tự, tin rằng họ mau chóng kết thúc tình trạng hỗn loạn thời chiến.”

      ngày thể kết thúc được!”

      “Vậy hai ngày.”

      rồi linh mục Engman quay người bước . Quyết định của ông được đưa ra, chẳng còn gì để bàn tán nữa.

      “Thưa Cha, con đồng ý!” Fabbi đứng phía sau to.

      Engman quay lại, vẫn rất mực thanh nhã. Ông trả lời Fabbi cách ngắn gọn: “Tôi biết đồng ý.” Sau đó ông quay . Ông gì nhưng hơn cả ra lời: “ đồng ý sao?” Rất khó để có thể thách thức quyền uy và ưu thế trong phong thái thanh cao của ông. Fabbi Atonado lớn lên ở nông thôn Dương Châu, là con trai của tu sĩ truyền giáo Mỹ hậu duệ của hai người gốc Ý. Ông ta đối xử với người Trung Quốc y hệt như cường hào địa chủ, coi họ thấp hèn hơn mình mấy bậc. Do tính cách thô lậu của Fabbi, Engman cũng coi ông ta thấp hèn hơn mình mấy bậc.

      ả điếm bé con chạy vào xưởng đóng sách trông thấy mấy khuôn mặt nữ sinh ra gác, nghĩ rằng ở đó dễ chịu lắm, ít nhất cũng ấm áp. Fabbi tóm ả ta lại. Con bé định luồn nhanh khỏi tay Fabbi nhưng bị ông này nắm chắc lấy cái túi đeo lôi ra khỏi xưởng. Cái túi xổ tung ra những quân mạt chược rơi ào ào xuống đất. Chỉ cần nghe tiếng rơi giòn tan cũng biết là quân bài xương hạng cao cấp.

      Mụ điếm đen trũi to con kêu lên: “Con ranh, mất quân tao xe xác mày!”

      Con bé quát lại: “Xé con lợn đen ấy, xé cả cái x đen luôn!”

      Nghe con bé chanh chua quá, sợ nó còn những điều khó nghe, Fabbi buông con bé ra lại vội chộp lại rồi vừa lôi vừa đẩy, tống nó ra ngoài.

      “Cút ! Cút ngay! A Cố đâu, mở cửa cho nó ra!” Fabbi mặt đỏ gay quát lên.

      Con bé : “Ông ơi, ông là đồng hương với con đó…”, nó bỗng loạng choạng đôi chân rồi đổi giọng: “Xin ông, từ nay con dám nữa ạ!…”

      Dưới khuôn mặt non choẹt là thân hình đủ cân đủ lạng, nung núc, đẩy lại bật về: “Ông ơi, ông dạy bảo con bé đồng hương này của ông! Con mới tròn mười lăm!…Chị Ngọc Mặc ơi! Chị xin giúp ông già cho em!”

      điếm có tên Ngọc Mặc thu dọn hành lý, uyển chuyển về phía con bé van nài, cười rất tươi và : “Cái miệng của em phải làm vệ sinh chút! Xin được ông già dạy bảo chẳng thà cho em ngậm viên thuốc làm sạch miệng.”

      A Cố vốn con nhà tử tế, chỉ cần hai mươi phút để biến thành công tử ăn chơi. ta hớn hở dẫn đường cho đám đàn bà đến ở tại nhà kho dưới hầm bếp. Bọn họ lếch thếch theo A Cố, vừa vừa nhìn ngang nhìn ngửa bình phẩm mọi thứ của nhà thờ.

      Thư Quyên tì ngực cửa sổ ghi nhớ cái tên Triệu Ngọc Mặc của người đàn bà có dáng người đẹp. Từ những cảnh tượng nhìn thấy, biết rằng Triệu Ngọc Mặc là nhân vật chính trong đám điếm, cũng có vẻ như là đầu trò. Về sau hiểu rằng, đó gọi là thủ lĩnh. Cấp bậc điếm sông Tần Hoài được qui định rất nghiêm ngặt tựa như tiến sĩ, thạc sĩ, học sĩ vậy. Thân phận, trình độ, cung phụng mỗi bậc khác. Hơn nữa cấp bậc là do công chúng đặt cho. Về mặt này người Nam Kinh từ cổ xưa quan niệm ràng, các tài tử văn nhân đời này sang đời khác đều khen ngợi điếm, từ Bát Diễm Tần Hoài đến Trại Kim Hoa đều là những nhân vật chính diện trong văn chương của họ. Thư Quyên mười ba tuổi, chẳng bao lâu cũng hiểu, Triệu Ngọc Mặc là cấp bậc cao nhất trong nghề này, tương đương đại tướng năm sao. Cũng như trong giới quân nhân, đàn bà thuyền hoa Tần Hoài đều mang cấp hiệu trong khi phục vụ, lon của Triệu Ngọc Mặc có năm ngôi sao, quan khách nhìn đó mà trả tiền, còn phải nhẩm tính lượng bạc trong túi xem có chơi được hay .

      Chú thích:

      (1) Ý miệt thị, cờ Nhật màu trắng có mặt trời tròn đỏ ở giữa, bị ví như miếng cao dán – ND. (Trong nguyên bản có các chú thích, người dịch chịu trách nhiệm về các chú thích trong bản dịch).

      (2) Dương Châu là thị trấn gần Nam Kinh – ND.

      (3) Giang Bắc là phía bắc sông Trường Giang, như ta là tả ngạn – ND.



      2

      Buổi lễ sớm, tiếng súng rộ lên, hình như đâu đó lại nổ ra trận chiến, tiếng súng dồn dập gấp gáp.

      Trưa, Fabbi khu an toàn lấy lương thực trở về nhà thờ, có lương thực đem về, chỉ có tin xấu. đường , ngổn ngang xác người, ba bốn tuổi, bảy tám chục tuổi, có những xác đàn bà thân dưới lõa lồ, hố đạn đại bác cày lên đường đều được lấp bằng xác người cho bằng phẳng. Người hiểu tiếng khi lính Nhật quát lên, người bỏ chạy khi trông thấy súng đều phải ngã gục, sau đó cái xác được chất làm công . Buổi sáng các học sinh nghe những loạt súng dồn dập dài đến nửa giờ đồng hồ, các nhân viên quốc tế ở khu an toàn ngờ rằng là quân Nhật hạ sát hàng binh Trung Quốc. Fabbi xong cười nhạt nhìn các học sinh rồi nhìn linh mục Engman như muốn , ông đoán sai rồi, với cục diện đẫm máu này làm sao vãn hồi trật tự trong hai ngày?

      Giờ ăn trưa, mười sáu nữ sinh ngồi hai bên chiếc bàn dài. Từ lúc các học sinh vào trú ở nhà thờ, linh mục Engman bảo George Trần đem thức ăn của ông vào buồng riêng, ông tin rằng uy nghiêm phải được duy trì bằng khoảng cách và tấm ngăn; với các nữ sinh, tốt nhất có khoảng cách bằng thảm cỏ. Nhưng hôm nay nghe Fabbi Atonado từ khu an toàn chạy về, ông bỏ bánh ở đó chạy đến.

      “Bởi vì lương thực và nước uống là vấn đề sống còn cho nên chúng tôi nhận mười mấy người này,” Fabbi .

      “George,” Engman hỏi: “Ta còn bao nhiêu lương thực?”

      George Trần : “Còn gánh bột, gạo chưa đến thăng. Nước chỉ có tí chút ở bồn rửa tội… À, nhưng mà còn hai thùng rượu.”

      Fabbi trừng mắt nhìn George Trần, rượu có thể dùng để tắm rửa được ư? Có thể pha trà, nấu cơm, nhào bột sao? Toàn ba lăng nhăng!

      George Trần hai mươi tuổi ấm ức nhìn lại Fabbi, thiếu nước ngài có thể uống thêm ít rượu, dù sao ngài cũng uống như uống nước mà.

      Nhưng linh mục Engman lại : “ tưởng tượng giỏi hơn tôi.”

      Fabbi cáu, với George Trần: “ gánh bột cho từng này người? Hai ngày nữa uống gió tây bắc à!” Biết làm sao được, ta thể cáu với Engman, bèn trút hết giận lên đầu George Trần.

      George Trần : “Hãy còn ít dầu, ngài bảo đổ , tôi tiếc! Còn vại dưa mốc, hơi có mùi, nhưng ăn vẫn khá ngon!” Những câu ấy ra vừa là kể công vừa là nịnh nọt, động viên linh mục.

      “Vài ngày nữa tình hình dịu . Hãy tin tôi. Tôi Nhật mấy lần, người Nhật lịch ôn hòa nhất thế giới, họ cho phép ở vườn hoa có cành cây ngay ngắn.” Linh mục Engman .

      Tuy các nữ sinh được học tiếng từ nhưng nghe linh mục Engman , các thường để lọt vài từ hiểu, giọng của ông có sức truyền cảm rất mạnh đủ để các mê mẩn mà để sót mấy từ cụ thể.

      Linh mục vừa rời , trong bếp có tiếng hòm xiểng đổ ầm ầm.

      George hỏi: “Ai đấy?” rồi chạy lao vào.

      Hai giây sau, Thư Quyên nghe tiếng đàn bà: “Ăn hết nhẵn rồi à?”

      George : “Đây còn ít bánh qui…”

      hiểu sao, nghe vậy, các nữ sinh đều chạy xuống bếp. Thư Quyên chạy đầu. Trong nháy mắt cậu George Trần này thành kẻ phản bội, cậu ta đem bán phần ăn của các nữ sinh. Bánh qui chỉ ăn lúc có súp mì, súp ngày càng loãng có bánh qui làm sao no được, chỉ đánh lừa cái miệng thôi.

      Thư Quyên nhìn thấy ba bốn ả điếm vét nhẵn như chùi chỗ bánh qui, có vẻ như là vụ làm ăn. Ả cầm đầu tên là Hồng Lăng, tròn xoe nhưng béo, tay chân nhanh thoăn thoắt, mắt đảo nhanh như chớp rướn đôi mày mảnh như sợi chỉ bảo mọi người đừng có trêu vào ta.

      “George Trần! Tại sao lại cho người ta ăn phần bánh của chúng tôi?” Thư Quyên hỏi, hai chữ “người ta” phải giọng ra mà là giọng chửi.

      George Trần : “Người ta đến xin!”

      Sô-phi : “Xin cho à?” là trẻ mồ côi cho nên trường dòng đặt cho cái tên Sô-phi, phải nhận.

      “Ôi dào, giành nhau làm gì?” Ả đen cười cợt.

      “Vay các ăn trước ít, ngày mai họ bán, mua trả các là được chứ gì?” Hồng Lăng .

      “George Trần, điếc à?” Thư Quyên quát lên. Lúc này cũng tỏ ra ghê gớm. Tất cả những uất ức mười ba năm trời trút hết ra, kể cả việc bị bố mẹ phân biệt đối xử, ném vào cái nhà thờ xập xệ đói khát như con chó bỏ , lại còn bị thằng George Trần chân trong chân ngoài phản bội để bọn điếm bắt nạt…

      “Kệ xác nó, ta cứ tìm xem còn bánh qui ở đâu…” Hồng Lăng , đôi lông mày cong vút như trăng non.

      “Hừm, tôi chuyện với hả? đáng chuyện với tôi hả?” Mạnh Thư Quyên tỏ thái độ đanh đá.

      Ngay cả các nữ sinh cũng thấy xấu hổ thay, : “Thôi, thôi…”

      Con bé Hồng Lăng trợn mắt mở mồm là văng ra: “Cái con mặt x thối tha!…”, nếu có bàn tay thò ra từ phía sau bịt miệng nó lại có lẽ lời nó phát ra chắc khiến cho cho đám nữ sinh và tất cả lũ đàn bà ở đây ngất xỉu.

      Người bịt miệng nó là Triệu Ngọc Mặc. Dưới hầm kho nghe ràng cuộc cãi cọ trong bếp cho nên ta chạy lên cắt ngang miệng lưỡi bẩn thỉu của con bé.

      Bọn điếm ai về chỗ nấy từ lâu rồi, Mạnh Thư Quyên vẫn ngồi ủ rũ ở đó. tức mình đến bã cả người, hàng trăm câu bẩn thỉu của bọn người này dồn nén trong lòng. giận mình vô tích , tại sao lúc đó nghĩ ra câu nào hay hơn, có tính sát thương để bắn xả vào mặt chúng nó.

      Các nữ sinh đều bỏ lên gác, vẫn ngồi đó ấm ức. ngồi cho đến khi ánh hoàng hôn tràn vào, bụng đau thắt. Chẳng ai với rằng cơn đau khủng khiếp đó xảy ra. Lẽ ra đó là việc của người mẹ nhưng mẹ vắng mặt. Qua lớp ván sàn nghe được tiếng động bên dưới: Tiếng chơi mạt chược, tiếng đàn tì bà, tiếng rên rỉ tỏ tình; đúng thế bọn điếm quen rên rỉ rồi, có đàn ông đành rên rỉ với đàn bà.

      Trong bóng hoàng hôn ảm đạm, Mạnh Thư Quyên ngồi lắng nghe tiếng súng dai dẳng dứt từ bên ngoài vọng đến. Người Nhật khốn kiếp đưa cuộc chiến đến tận Nam Kinh, chẳng chẳng biết tin gì về ông bà ngoại, bố mẹ và em dám về, bọn Nhật dồn đám đĩ điếm cặn bã đến “mảnh đất hứa cuối cùng” của linh mục Engman. Thư Quyên quá đau đớn, quá căm thù, nghiến răng thù ghét mọi thứ, cuối cùng thù ghét chính mình vì có tấm thân và nội tạng và cả những cơn đau quặn ruột và dòng máu bẩn thỉu y như bọn điếm dưới hầm kia.

      Buổi chiều, linh mục ra khỏi nhà thờ lát. George Trần lái xe đưa ông vào thành nội khoảng hai cây số quay lại. Họ nhận ra Nam Kinh nữa, nhà cửa đổ nát, xác người ngổn ngang đầy đường khiến George Trần lạc đường. con đường dẫn đến Trung Hoa Môn, họ trông thấy lính Nhật giải mấy trăm binh sĩ Trung Quốc đến Vũ Hoa Đài. Họ bèn dừng xe lại. Linh mục Engman đánh liều hỏi thăm viên đội trưởng rằng họ đưa tù binh đâu, sau khi người tùy tùng dịch xong, viên sĩ quan : Đưa họ khai hoang để trồng cây. Nhưng nét mặt y bảo rằng y mong người đối thoại tin lời láo ấy. Engman về đến nhà thờ, bữa tối ăn, ông ngồi mình hàng giờ trong phòng. Sau đó ông cho gọi tất cả nữ sinh đến, ông kể lại tường tận những gì ông trông thấy lúc chiều, ông hiền từ nhìn Fabbi và , sáng nay ông phán đoán quá lạc quan, xem ra Fabbi đúng, trước khi tìm được nguồn lương thực mới, việc đảm bảo sao cho ba chục con người này chết đói chết khát là gánh nặng. Ông bảo George Trần soát lại kho lần nữa xem có thể tìm được cái gì ăn được, quá hạn, hư thối, mốc meo cũng được.

      Linh mục chưa dứt lời cửa bên thò ra mấy cái đầu của bọn điếm. Họ chen chúc trong phòng bên xem sảnh giữa có chuyện gì hay, có phần của họ hay . Thấy đám nữ sinh ủ rũ, họ chẳng thiết phần của mình nữa bèn lủi . Nhưng Fabbi bảo họ quay lại.

      Fabbi : “Từ nay các người phải náu ở nơi của mình, nên lên, nhất là nên đến đây.”

      “Đây là đâu?” ả vẫn cợt nhả.

      “Đây là nơi có học sinh.” Fabbi .

      Engman đột nhiên : “Hình như xưởng xà phòng Vĩnh Gia cháy rồi. Xưởng có nhiều dầu mỡ cháy mới to thế.”

      Mọi người nhìn theo ánh mắt ông, hoàng hôn vừa nãy tối mờ bây giờ lại sáng rực. Thư Quyên và các bạn chạy ra sân, ánh lửa chiếu vào những tấm kính cửa sổ còn sót lại tòa chính, những mảnh kính màu ghép hình Đức Mẹ bế Chúa Dài đồng lấp lánh như châu báu. Các nữ sinh đứng ngây nhìn cảnh tượng lộng lẫy mà rùng rợn.

      Ánh lửa cho mọi người thấy mặt đất và cảnh vật khi chìm khi nổi lên nét.

      A Cố và George Trần đoán ánh lửa từ đâu ra, họ cho rằng ở xưởng xà phòng, cách đây năm con phố. Fabbi bảo các nữ sinh lên gác ngay. Đây là hoàng hôn mà tai họa nổ ra bất kỳ lúc nào.

      Sau khi đám nữ sinh rời , ả điếm Hồng Lăng vẫn loanh quanh ở cửa xưởng, phì phèo điếu thuốc lá.

      định đâu?” Fabbi quát lên.

      Hồng Lăng cúi tìm cái gì giật mình rơi điếu thuốc, ta chổng cái mông tròn căng nhặt lên.

      “Mất đồ cho em tìm hay sao?” ta cười toe toét.

      về chỗ của !” Fabbi cắt ngang: “ tuân thủ kỷ luật tôi mời ra!”

      là Fabbi Dương Châu phải ? A Cố bảo với chúng em thế.”

      “Nghe chưa? về chỗ ngay!” Fabbi chỉ tay về phía nhà bếp.

      “Thế nhờ tìm giúp, tìm được em về chỗ. Nhìn là Tây, nhưng mở miệng ra quê cục.” ta cười rung cả người, toàn thân là con sóng chạy từ xuống dưới.

      Thư Quyên và các bạn đều ở trong căn gác, mười sáu khuôn mặt chen nhau ba ô cửa. Mười lăm khuôn mặt hồn nhiên, chỉ có Thư Quyên ánh mắt khinh ghét nhìn đứa con mạt hạng giả ngây giả ngô, đúng là miếng thịt thái thế nào nằm thế đó.

      Fabbi cũng chả thèm hỏi người ta câu, tìm cái gì.” Hồng Lăng làu bàu.

      “Tìm cái gì?” Fabbi cáu kỉnh.

      “Tìm quân mạt chược. Vừa rồi rơi cả bộ ở đây, nảy lóc cóc khắp nơi còn nhớ chứ? Nhặt lại được ít, thiếu mất năm quân.”

      “Nước mất rồi các người còn đầu óc mà chơi.”

      “Ở đây chúng em có gì chơi, buồn chết được.”

      Hồng Lăng biết các nữ sinh đều xem nó diễn kịch. Nó càng õng ẹo, nó nhếch nhác như khi đến mà chải chuốt bóng bẩy, dải lụa xanh ngọc buộc tóc.

      Trong đám điếm có ả gọi Triệu Ngọc Mặc đến. điếm năm sao trừng mắt từ xa: “Mọc rễ ra ở đó để làm gì? Người ta trang điểm tí chút còn mày định mở xưởng nhuộm hả! Về ngay!” ta to cách vất vả, ràng là người quen quát tháo.

      “Chính các chị bảo em tìm, thiếu quân chơi được là gì!” Hồng Lăng vặc lại.

      “Về đây!” Ngọc Mặc đến quát lên, đồng thời ra tay, nắm cánh tay Hồng Lăng lôi trở về.

      Đột nhiên nó ngẩng đầu nhìn lên gác với đám nữ sinh: “Chúng mày liệu mà trả lại mau!”

      Chẳng ai thèm để ý.

      “Chúng mày lấy năm quân chẳng chơi được, chúng tao thiếu năm quân cũng chơi được.” Thế là Hồng Lăng lôi cả đám nữ sinh vào chuyện. Đám nữ sinh nhìn nhau, bạo dạn nhại lại tiếng Giang Bắc của con bé: “…cũng chơi được…” trận cười vang.

      Fabbi mắng đám học sinh: “Ai lấy trả cho nó!”

      Các nữ sinh nhao nhao: “Ai thèm lấy của nó? Để mà lây bệnh à!”

      Hồng Lăng nghe tức quá, hét lên: “Đúng rồi, người tao đầy mụn giang mai. Mủ ăn vào tận xương rồi, đứa nào ăn cắp của tao, tao truyền bệnh cho nó!”

      Các nữ sinh kêu khiếp, có người nhằm Hồng Lăng nhổ bọt qua cửa sổ nhưng trúng đích.

      Ngọc Mặc lôi Hồng Lăng vào bếp. Nửa thân và hai đùi con bé vặn xoắn lại mà , nó vẫn chưa chịu thua: “Chúng mày có hiểu ? Mấy quân cờ đó tao bôi mủ vào rồi đó, cứ sờ vào !…” Nó khúc khích cười, đột nhiên nó kếu ối, giãy ra khỏi tay Ngọc Mặc, nó chỉ vào với George Trần tò mò đứng nhìn: “Chị này vặn tay em!” Nó õng ẹo cứ như là George Trần bênh nó.

      Các nữ sinh vẫn hăng máu, bất chấp lệnh cấm của Fabbi, các gào theo đám điếm rút: “Lại đây! Hãy còn thứ cho chúng mày đây này!”

      Quả nhiên Hồng Lăng chạy trở lại, cửa sổ và bên dưới, những khuôn mặt thiếu nữ nhang nhác như nhau, nó ngẩng mặt chìa tay: “Trả lại cho tao !”

      nữ sinh tên Từ Tiểu Ngu : “Hãy đợi chút!”

      Triệu Ngọc Mặc nhận ra ác ý của nữ sinh, ta kêu lên: “Hồng Lăng mày khôn lên tí có được ?” Nhưng muộn, từ ba ô cửa sổ đồng thời ném xuống những cây gậy khúc côn cầu. Nếu các bé ném mạnh và chính xác hơn Hồng Lăng bươu đầu vỡ mặt.

      Fabbi quát đám nữ sinh: “Ai làm cái trò này?… Từ Tiểu Ngu là !”

      Nhưng Mạnh Thư Quyên đẩy bạn ra và : “ phải Tiểu Ngu mà là cháu. Cháu làm.”

      Ngọc Mặc nhìn kỹ Thư Quyên đến nỗi bé thấy lạnh sống lưng. Khi bị con ma hoặc con rắn nhìn chằm chằm chắc cảm giác cũng như vậy.

      Hồng Lăng lải nhải đòi Fabbi phải trừng phạt thủ phạm.

      Ngọc Mặc : “Thôi, thôi.”

      Hồng Lăng : “Tại sao lại thôi?!”

      Con bé để lộ ra giọng gốc của mình, ra nó người miền Bắc, vùng Hoài Bắc.

      Ngọc Mặc : “Tại vì người ta cho mày ở nhờ cái hang chuột. Tại vì người ta phải chịu đựng cái đám người như ta, tại vì ta biết điều, biết xấu hổ. Tại vì ta sinh ra bằng người ta, chết cũng chẳng ra ma, đánh cũng đến thế thôi, giày vò cũng đến thế thôi.”

      Con bé sững người. Fabbi ngơ ngác. ta tuy là Fabbi Dương Châu, tuy có thể bằng tiếng Dương Châu, nhưng câu của Ngọc Mặc dùng tư duy của người Dương Châu khó dịch ra. Nhiều năm sau Thư Quyên mới nhận ta rằng Ngọc Mặc chửi đích đáng, ta chửi Hồng Lăng, chửi Fabbi, chửi cả người đời. Để giữ cho các em nữ sinh được trong sạch từ đó làm cho chúng trở nên giỏi giang người đời phải đảm bảo sao cho loại người như Ngọc Mặc luôn luôn phải ở cấp bậc hèn mạt.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      3

      Tối đến, ánh lửa càng sáng hơn, sáng đến mức các bé thể ngủ được, bên cạnh Thư Quyên là Từ Tiểu Ngu, cha của Tiểu Ngu là trong các phú ông lớn nhất của Giang Nam. Buôn bán đến tận Áo Môn, Hồng Công, Singapore, Nhật Bản. Khi Nam Kinh tẩy chay hàng Nhật, bố nó thay đổi toàn bộ nhãn mác hàng Nhật, bán ra như hàng nội, chẳng thiệt xu nào. Buôn rượu với người Bồ Đào Nha, tất cả rượu vang đỏ vang trắng nguyên chất ông ta thay bằng rượu giá rẻ thu mua về. Rượu đỏ nhà thờ Wilson dùng trong lễ Misa đều do ông ta biếu. Đêm 13 tháng mười hai năm 1937, rượu mà đám Tần Hoài uống chính là rượu do bố của Từ Tiểu Ngu hiến tặng.


      Về Từ Trí Nhân, bố của Từ Tiểu Ngu, tôi còn tìm hiểu kỹ hơn tôi, vì ông ta chạy lăng xăng trong câu chuyện tôi viết đây. Bây giờ chưa phải lúc ông ta xuất . Quan hệ của Từ Tiểu Ngu và Thư Quyên rất mong manh, hôm nay thân thiết thế, ngày mai chẳng ai biết ai nữa. Từ Tiểu Ngu là xinh xắn, hình như biết rằng con xinh dễ làm tổn thương người khác, người dễ tổn thương nhất là những bé thích ngắm nghía ta, hâm mộ ta, muốn thân với ta. Thư Quyên chính là bé như thế. Thư Quyên dễ bị Tiểu Ngu làm tổn thương, còn lý do nữa là Thư Quyên ngấm ngầm phục Tiểu Ngu vì học giỏi và cũng xinh, nhưng khi có Tiểu Ngu rồi Thư Quyên nổi lên được nữa. đôi bạn như thế thường có mối quan hệ hành hạ và bị hành hạ, và hai bên luôn luôn đổi vị trí cho nhau.

      Tiểu Ngu gác cánh tay lên eo Thư Quyên thử xem ngủ chưa, Thư Quyên cảm thấy nếu phản ứng ngay thiếu tự trọng, bởi vì hôm qua Tiểu Ngu thân thiết với Sô-phi, hôm nay khi ném gậy vào Hồng Lăng Thư Quyên nhận tội thay cho Tiểu Ngu, chính vì thế mà Tiểu Ngu thay lòng. Thư Quyên tự trách mình về điều ấy. Đúng vậy, cử chỉ đó của Thư Quyên làm cho Tiểu Ngu bị chinh phục. Tiểu Ngu đè mạnh tay xuống, Thư Quyên cựa quậy.

      “Cậu tỉnh rồi à?” Tiểu Ngu thào.

      “Gì thế?” Thư Quyên giả vờ vừa tỉnh dậy.

      Tiểu Ngu ghé sát và tai Thư Quyên: “Cậu bảo ai xinh nhất?”

      Thư Quyên hơi sững người, biết ý Tiểu Ngu hỏi về đám điếm, thực ra chưa nhìn ai trong đám họ cả; cũng chẳng thiết nhìn kỹ, ngoài cái lưng của có cái tên Ngọc Mặc. Nhưng muốn làm Tiểu Ngu cụt hứng, tình thân con rất ngọt ngào tươi mới. “Ý cậu thế nào?” hỏi lại đồng thời lật mình quay lại kề sát mặt Tiểu Ngu.

      “Thế ta phải xem lại.” Tiểu Ngu .

      ra các bé ai cũng vậy, đối với bọn đàn bà hạ đẳng từ thuyền hoa đến, các vừa khinh rẻ vừa háo hức, các nghĩ đến chuyện họ kiếm sống bằng cái bộ phận kín đáo giữa hai đùi mà đỏ mặt thốt lên “eo ơi!” và giấu kín xao động lạ lẫm trong cơ thể mình. Tội lỗi vốn có sức hấp dẫn, những việc làm tội lỗi mà các dám nghĩ dám làm hình như có thể để cho bọn người này thế mạng.

      Hai bé đứng trong sân, quên cả mục đích lẻn chạy ra để làm gì. Hình như là chỉ để xem ngôi nhà gạch đỏ của linh mục Engman còn ở đó hay , lại có vẻ như chỉ để xem ô cửa sổ của Fabbi có sáng ánh nến . Nhưng tiếng đàn tì bà làm họ tỉnh ra.

      Trần của kho ngầm cao đúng đến đùi của Thư Quyên. ra phía sau bếp thấy lỗ thông hơi của nhà kho. Có ba cái lỗ thông hơi, bên chụp cái lưới sắt có lớp gỉ dày cộp. Bây giờ cái lỗ thông hơi là cái lỗ để Thư Quyên và Tiểu Ngu nhìn trộm vào.

      Tiếng đàn tì bà phát ra từ ngón tay Đậu Hoàn. này nhắn xinh xắn, khuôn mặt trái đào, che phần dưới , cặp mắt lúc nào cũng cười rạng rỡ, che phần trông như suốt ngày hậm hực điều gì, cứ như ai đó vay gạo trả thóc cho vậy. Cho dù thế nào Đậu Hoàn là người đẹp, nếu có số phận hèn mạt, có thể làm đảo lộn chúng sinh. Cuộc tuyển chọn người đẹp của hai qua lỗ nhòm trộm có kết quả.

      Cái kho còn là cái kho nữa mà là chiếc thuyền hoa, chăn đệm xanh đỏ, áo lông chồn lông báo trải khắp nơi, các móc dùng để treo xúc xích, giăm bông để trống được bọc bằng giấy bạc bao thuốc lá treo đầy khăn quàng, xu chiêng, nịt bụng… Bốn ả đứng quanh cái thùng xoa mạt chược rào rào. Xem ra, thiếu năm quân làm các ả mất hứng. Trước mặt mỗi người để cái bát đựng rượu vang đỏ.

      “Nan Ni! Để tớ vòng xem nhé?” Đậu Hoàn .

      Nan Ni lấy ngón tay móng đỏ kéo trễ mi mắt xuống. Bộ điệu này trẻ con cũng hiểu: nghĩa là đừng tưởng bở; giương mắt lên mà xem.

      “Trời ơi buồn quá!” Đậu Hoàn rồi cầm bát rượu của Nan Ni tợp ngụm.

      “Thế mày đến linh mục Tây mượn mấy cuốn sách tử tế mà xem.” Ngọc Mặc trêu chọc và cười.

      Đậu Hoàn “Em lên lầu hai nhìn trộm vào trong có gì. Toàn là sách! Fabbi Dương Châu ở sát vách phòng sách.”

      “Tao cũng nhìn thấy. Có thể lấy sách xây tường được!” Ả da đen .

      “Ngọc Sênh cùng với em lên xem đấy.” Hồng Lăng .

      Hai bé nhìn nhau rồi lại nhìn da đen tên là Ngọc Sênh: Đen chùi chũi thế mà cũng “ngọc”!

      “Đọc xong núi sách kinh ấy, chị em mình vào tu viện học lên nhé.”

      “Vào tu viện sướng lắm, ăn no.” Ngọc Mặc .

      “Ngọc Sênh, bụng mày to thế, làm ni ăn cơm tha hồ.” Na Ni .

      “Ni phải có “hòa thượng Tây” tiếng Dương Châu kèm mới đẹp” Hồng Lăng cười tít mắt .

      “Trong tu viện có gọi ni , Ngọc Mặc?”

      “Gọi thế nào cùng vậy thôi, đều ăn chay, ngủ chay.” Ngọc Mặc .

      “Ăn chay cũng được, ngủ chay khó nhỉ, Ngọc Sênh?”

      Mọi người cười ầm. Ngọc Sênh cầm nắm quân mạt chược ném Hồng Lăng. Tiếng cười càng to, bảo hôm nay Hồng Lăng bị trận thứ hai vì mạt chược, sau này thế nào cũng chết dưới quân mạt chược. Trong gian bếp chật chội nó đuổi Hồng Lăng đến kỳ cùng. Nó : “Hồng Lăng, mày đừng có vội, chị mày cưa “hòa thượng Tây” Dương Châu kia, tối mai cho mày ngủ mặn, phải ngủ chay đâu!”

      Hồng Lăng đưa tay làm hiệu gì đó, hai hiểu nhưng lập tức biết rằng đó là thứ mất dạy, bởi vì tất cả cười ầm lên, còn nó cứ xoa cái bụng tròn xoe mà cười.

      Ngọc Mặc dửng dưng nhìn chúng nó đùa nghịch, ngồi mình cái thùng dầu đặt ngang, tay thuốc lá tay rượu.

      Xem hồi lâu, hai bé thay đổi đánh giá ban đầu. Trong đám người này, Ngọc Mặc mỗi lúc đẹp hơn lên, ta phải là tuyệt thế giai nhân nhưng rất ưa nhìn, rất dễ gây ấn tượng. Mái tóc rất dày, khi xổ ra có vẻ rất nặng, khiến khuôn mặt . Khuôn mặt vuông tròn, và ngắn, cằm hơi đưa ra phía trước, cho nên lúc nào cũng hơi có vẻ kênh kiệu, vẻ kênh kiệu “khinh tôi tôi cũng khinh lại”. Đôi mắt đen và to bắt bạn phải ngắm nghía, ta nhìn cái gì đó mà bạn nhìn thấy khiến ta đăm chiêu. Cái miệng là điểm yếu nhất khuôn mặt ta, mỏng mà to, cái miệng tướng khổ và lắm điều, nhưng điều lạ là, người có cái miệng như thế lại quý lời như vàng. Nhìn cái miệng đó, ta phải là người đàn bà cay độc chua ngoa, có thể tàn nhẫn trở mặt như bàn tay. Điểm mạnh nhất là hề có thái độ tự hạ mình, phá phách bất cần đời, có thể nghĩ mệnh phụ cao sang, cũng có thể nghĩ ngôi sao điện ảnh. Khác với khi đến sáng nay, đổi sang mặc chiếc áo dài hoa màu xanh đen, khoác chiếc áo choàng dày bằng len trắng, ngực có hai quả cầu to bằng len. ăn mặc rất hợp thời trang, mảnh đất của các nữ sinh, vẻ phong trần của được trút bỏ sạch sanh. Để mưu sinh hay để tìm kiếm bình đẳng mà ta phải ngụy trang như vậy, Thư Quyên thể biết được.



      4

      Sáng hôm sau, đám đàn bà dưới hầm im phăng phắc. George Trần đưa cháo đến gọi họ tỉnh dậy, đến giờ chiều, họ lục tục lên nhà bếp hỏi tại sao cho họ ăn. Họ đói lả người rồi.

      Fabbi thấy lệnh cấm của mình chẳng ăn thua gì, bèn gọi Ngọc Mặc đến buồng ăn, đánh rắn phải đánh trúng đầu.

      “Lần cuối cùng tôi cảnh cáo các người, còn ra ngoài lung tung các người được chấp nhận nữa.”

      Ngọc Mặc xin lỗi rồi : “Chúng tôi biết chúng tôi được chấp nhận, nhưng họ đói .”

      Đám đàn bà nhớn nhác tụ tập ở cửa buồng ăn để xem đại biểu đàm phán của mình có làm hết trách nhiệm , có cần họ giúp gì . Mười bốn người bọn họ dồn cục lại, mồm mép chân tay đều sẵn sàng.

      “Chuyện ăn uống sau. Trước hết hãy nhắc lại qui định mà tôi với các người” Fabbi .

      ta cố gắng chuyển giọng Dương Châu thành giọng phổ thông khiến mấy mụ hay tếu táo cười phì.

      “Vậy chuyện cái nhà xí trước .” Nan Ni .

      “Chỉ mỗi nhà xí nữ trong đó, khóa rồi. Chúng tôi đành phài đại tiện trong nhà thờ.” Hồng Lăng chỉ vào xưởng đóng sách.

      “Nhà xí đó để các người sử dụng sao? Đó là để cho các ông bà các cậu làm lễ Misa sử dụng! Bây giờ nước xối cũng cạn rồi, thối hoăng lên làm sao?”

      Ánh mắt của Ngọc Mặc trùm lên Fabbi, khi ta nhìn kiểu như thế, khuôn mặt nhắn hầu như chỉ còn lại đôi mắt đen to, có muốn lẩn tránh chúng cũng được. Trái tim đập ba mươi ba năm của Fabbi ngừng lại giây lát. ta biết rằng đàn ông đừng để cho Ngọc Mặc nhìn như thế, bị nhìn là ăn đòn.

      “Ông phó linh mục, bọn họ đều biết tự trọng, nhưng thường thường bị bắt buộc để mất tự trọng” Ngọc Mặc . vạch ra cách rạch ròi ranh giới giữa và đám đồng hoặc chị em đó để cho Fabbi đừng lẫn lộn, lúc thường loại như Fabbi nghèo kiết xác đừng có hòng được nhìn mặt ca kỹ năm sao này.

      Fabbi lại , ràng có chịu hậu quả của cái nhìn chiếu tướng của Ngọc Mặc. ta hạ thấp giọng với Ngọc Mặc như đọc sách, vấn đề nhà xí đúng là phiền phức quá, bảo A Cố giải quyết giúp. Họ cho hai cái thùng kẽm, có nắp các tông, đầy rồi đổ vào hố vệ sinh tạm thời đào trong vườn. Nhưng qui định phải đổ trước năm giờ sáng, tránh gặp các nữ sinh hoặc nhìn thấy Engman.

      “Năm giờ sáng ư?” Hồng Lăng . “Sáng của chúng tôi là bây giờ.”

      Con bé giơ cánh tay nung núc những thịt, lộ ra chiếc đồng hồ đeo tay , kim chỉ rưỡi chiều.

      “Từ nay, mọi người phải tuân thủ thời gian biểu của nhà thờ. Dậy đúng giờ, ăn đúng giờ. Quá giờ ăn xin lỗi, đành chịu. Các học sinh đều chắt bóp sẻ lương thực cho, các ăn, họ chưa chắc chịu để yên.” mãi mãi, Fabbi tự nhủ, lạ tại sao mình lại bình tâm mà tỉ tê với thủ lĩnh ca kỹ này.

      “Ôi thôi, đúng là nhập tu viện rồi!” Hồng Lăng cười. Bọn đàn bà đều biết gốc tích câu này, họ bụm miệng cười. Cái cười của bọn họ vừa nghe biết là có ngụ ý, dù Fabbi chẳng hiểu gì chuyện trai cũng cảm thấy bị xỏ xiên. “Yên nào, tôi chưa hết!” Fabbi thô bạo quát lên, có phần thô bạo với chính mình vì thấy mình hiền lành với họ quá.

      Ngọc Mặc quay đầu nghiêm khắc nhìn đồng nghiệp. Tiếng cười tắt.

      “Mỗi ngày ăn mấy bữa?” Đậu Hoàn hỏi.

      muốn mỗi ngày mấy bữa, thưa ?” ta hất cằm lên. Mi mắt cụp xuống, nhìn bé lùn lại càng lùn.

      “Chúng em quen ăn ngày bốn bữa, đêm lại thêm bữa nữa.” Đậu Hoàn trả lời thà.

      Hồng Lăng vội tiếp lời: “Đêm đơn giản chút cũng được, mấy món , bát súp, ly rượu mạnh là tạm được rồi.” Con bé biết Fabbi tức lắm, trêu tức Fabbi cũng khoái. Theo kinh nghiệm của nó, đàn ông đàn bà đấu đá nhau rất dễ thân nhau, hứng lên là quấn lấy nhau.

      Nan Ni hỏi: “Có được dự lễ ?”

      Hồng Lăng khoái quá vỗ tay: “Ở đây có người muốn cải tà qui chính để làm lại cuộc đời nhưng thực ra là để thăm dò, dự lễ được uống bao nhiêu rượu, đừng mắc bẫy, nó có thể uống cạn thùng rượu của các ông đấy.”

      “Cút mẹ mày !” Nan Ni vờ mắng.

      Ngọc Mặc lập tức khỏa lấp , với Fabbi: “Thưa ông phó linh mục, nếu được các ông tốt bụng thu nhận có thể chúng tôi gặp nạn rồi.” vừa vừa dùng đôi mắt đen thăm thẳm chiếu thẳng vào Fabbi, khiến chàng rơi tõm vào đó và chìm nghỉm. “Thời loạn, được đãi chị em hớp cháo loãng chúng tôi cũng thấy cảm kích lắm rồi, nó thay chúng tôi cám ơn chị em.”

      Có lúc nào đó Fabbi quên béng thân phận của người đàn bà này, ta cảm thấy mình như ở trong công viên hay bên bờ hồ Huyền Vũ, hoặc trong bóng mát của rặng cây ngô đồng Pháp đường Trung Sơn(4), vô tình gặp người con , cần hỏi han cũng biết là con nhà danh gia thế phiệt. Tuy đoan trang có vẻ hơi quá nhưng thanh lịch và hiền hậu là , lời ăn tiếng chững chạc cho dù có chút điệu đà.

      Fabbi vốn định gọn trong vài câu là xong, nhưng ta phát ra mình dẫn Ngọc Mặc ra phía sau nhà thờ. Thấy các ả nghi nghi hoặc hoặc bám theo, ta bèn đứng lại, bảo họ nên nghe lời chút, về chỗ ở dưới tầng hầm. Vừa rồi Fabbi là “xin theo tôi” chứ phải “xin các theo tôi.”

      Phía sau nhà thờ có cái hồ hình chữ nhật, nước dùng để rửa tội. Bể xây bằng đá trắng, đáy hồ đọng lớp lá đào rụng, úa thành màu nâu đỏ. Khi Thượng Hải thất thủ, người ta lo phần xác hơn phần hồn, suốt ba tháng trời có ai rửa tội. Fabbi chỉ vào bể nước ngả màu nước trà và : “Tôi muốn xem cái này. Từ khi các đến, nước cạn mất nửa. Tôi có thể nhờ bảo họ đừng lấy trộm nước giặt quần áo và rửa ráy nữa được ?”

      Fabbi lật tẩy chính mình: Mày chẳng cần phải dẫn ta ra đây mà nhắc nhở. Chẳng qua là mày muốn chuyện trò với ta, muốn ta cứ chiếu tướng mày để mày ngụp lặn trong đôi mắt đen của ta thêm nữa?

      Cặp mắt ấy khiến Fabbi cảm thấy nguy hiểm và đáng sợ hơn cả chiến tranh. Mong sao mối nguy hiểm của cuộc chiến tranh bên ngoài bức tường chấm dứt vào ngày mai hoặc ngày kia, nếu được thế mối nguy hiểm ở trong này có tính hủy diệt hơn kịp nảy sinh.

      “Được, tôi nhất định chuyển lời của ông phó linh mục.” Ngọc Mặc mỉm cười.

      Nụ cười của ta khiến Fabbi sợ chết khiếp. Cái ý nghĩ mà chính ta còn mù mờ ta biết tỏng rồi và dùng nụ cười để an ủi ta: sao đâu, đàn ông mà, điều ấy chỉ lên rằng là con người bằng xương bằng thịt.

      “Nếu trong ba hôm nữa nhà máy nước vẫn làm việc chúng ta chết khát, khô như đám cỏ này.” Fabbi di chân lên đám cỏ mùa đông khô trắng. ta nhận ra giọng mình hơi chua chát, nhưng biết làm sao được, ta định kiểu như thế.

      Ngọc Mặc : “Trước kia ở đây có cái giếng, đúng ?”

      “Năm ấy tuyết rơi rất nhiều, con ngựa non của linh mục Engman bị sa xuống giếng chết. Ông bảo A Cố lấp giếng .”

      Ngọc Mặc : “Có thể đào lại ?”

      biết. Tốn công lắm. Dùng hết nửa hồ nước này lẽ nào vẫn chưa có nước máy?” thầm cảnh báo mình: Đây là câu cuối cùng, xong câu này là được hé răng nữa.

      Ngay cả câu tự cảnh báo phát ra thành lời này của ta Ngọc Mặc cũng nghe được, mỉm cười, khẽ cúi mình và : “ dám phiền ông thêm nữa.”

      “Nếu tình hình cứ tiếp tục xấu , nước về, biết tính sao nữa.” Fabbi thấy câu vớ vẩn của mình giữ được chân Ngọc Mặc lại. ta hy vọng Ngọc Mặc coi đó chỉ là câu buột miệng mình và ta cáo từ nhưng ta lại vin lấy câu ấy để lại có cuộc đối thoại tiếp theo.

      đâu. Nếu vậy gánh nước, khi chạy đến đây chúng tôi thấy có cái ao, ở mạn bắc ngay đây thôi.” .

      “Tại sao mình nhớ có cái ao nhỉ?” ta nghĩ, đây là câu cuối cùng, ta có gì cũng bắt chuyện nữa.

      “Tôi lại nhớ.” ta lại cười tinh quái. Người đàn ông nào cũng muốn gần , huống hồ là chàng đơn này. sớm nhận ra chàng này rất đơn. Chẳng ai chấp nhận ta. ta khác với dân tộc sinh ra mình và khác cả với dân tộc nuôi dưỡng mình.

      Fabbi gật gật đầu nhìn . Miệng ngừng lại rồi nhưng mắt cứ tiếp tục . Điều này chính ta ý thức được. Ngọc Mặc quay mình bước . Fabbi thấy dáng sau ta đẹp , toàn thân đều đẹp.

      mấy bước, Ngọc Mặc dừng chân quay lại: “Tối qua chúng tôi cá nhau rằng, nếu người Trung Quốc và người phương Tây choảng nhau, ông đứng về phía nào.”

      Fabbi : “ nghĩ sao?”

      Ngọc Mặc cười nhìn ta lát rồi bỏ .

      Fabbi đột nhiên tức tối nghĩ: Đồ quỷ cái! Khi bóng dáng Ngọc Mặc khuất, ta tự nhủ được phép để cho đôi mắt ta có cơ hội lôi kéo mình nữa cho dù là nửa giây đồng hồ. Đó là lôi kéo ư? Lôi kéo khó gỡ đến thế ư? Tuy Fabbi là Fabbi Dương Châu, tư duy cũng theo kiểu Dương Châu nhưng ta có dòng máu đa tình lãng mạn Italia chảy trong người, ta đọc những trước tác sân khấu và văn học của thế giới mà cha mẹ là hậu duệ của dân Địa Trung Hải để lại, ta cảm thấy đôi mắt đen đó chỉ lôi kéo người ta mà còn cảm thấy chúng lôi kéo người ta bằng câu chuyện nơi thẳm sâu của chúng.

      Đêm đó có mưa kèm theo tuyết cho nên trời lạnh thêm mấy độ. Linh mục Engman đọc sách ở căn buồng bên cạnh thư phòng có lò sưởi tường mà vẫn cảm thấy rét thấu xương. Tháp chuông bị bắn sập khiến mấy gian buồng tầng 2 hở toang hoác gió lùa lạnh ngăn ngắt, George Trần ngừng bỏ thêm than vẫn lạnh. Khi George Trần định thêm nữa, Engman bảo, bớt chút nào hay chút ấy, than kịp chuyển đến, ở khu an toàn nhiều người già và người bệnh bị chết rét rồi. Về sau ông đọc sách trong buồng ngủ. Nửa đêm ngủ được, ông muốn đến phòng sách lấy mấy quyển về đọc, vừa đến cầu thang nghe tiếng đàn bà trong phòng sách. Ông nghĩ đám bà bà này giống như bệnh dịch, cẩn thận lây khắp nơi. đến phòng đọc, ông thấy Ngọc Mặc, Nan Ni, Hồng Lăng ngồi quanh đống than tàn, ai cũng cầm đồ lót vừa hơ vừa cười đùa.

      Đây là nơi bốn bề xếp kín sách thánh, có cả ảnh Chúa!

      Hai má ông tê cứng lại. Ông nghĩ đám đàn bà này đáng để ông phải quở trách, ông đến phòng ngủ Fabbi Atonado gọi ta dậy.

      “Fabbi, tại sao để những loại người này vào phòng đọc của tôi?!”

      Fabbi vừa thiếp trong hơi rượu nồng nặc, bây giờ lại mượn hơi rượu quát ầm lên: “Cấm đọc! Các người dám đến đây à? Đây là đâu các người có biết ?”

      Hồng Lăng : “Chúng em bị lạnh nổi cả cục cước đây này! Thấy !” Con bé rút chân ra khỏi giày giơ ra cho hai linh mục xem. Thấy Fabbi lùi lại như tránh dịch, Nan Ni cười khục khục, Ngọc Mặc lấy cánh tay hích nó. ta biết phen này rầy rà to rồi, chưa bao giờ thấy vị linh mục già điềm đạm này giận dữ đến thế.

      thôi!” cuốn cái nịt ngực trong tay lại, mặt nóng rát mà sống lưng lạnh buốt.

      “Em ! Ở đây có lửa, tại sao lại để chúng ta chết rét?” Hồng Lăng .

      Con bé quay lưng về phía hai vị linh mục, duỗi cái chân trần về phía vách lò, ngồi giạng ra như ra hiệu.

      “Nếu rời khỏi đây, tôi lập tức mời các người ra khỏi nhà thờ!” Fabbi .

      “Mời cách gì đây?” Hồng Lăng ngoe nguẩy ngón chân, vừa trẻ con vừa đểu cáng.

      Ngọc Mặc đến lôi nó: “Đừng lộn xộn nữa!”

      Hồng Lăng : “Mời ra khỏi nhà thờ, dễ! Đốt cho chậu than nữa .”

      “George Trần!”

      Engman phát thấy có bóng người thập thò góc cầu thang. Đó là George Trần, ta vừa đến đây, thấy chẳng nên dây vào chuyện này, ta láu cá quay ngoắt lủi xuống.

      “Tôi trông thấy rồi! George Trần lại đây!”

      George Trần sợ cứng người, lò dò bước đến. Liếc nhìn cảnh tượng lập tức hiểu ra nhưng ta vờ vẫn hỏi: “Linh mục chưa nghỉ ạ?”

      “Tôi bảo tắt lửa , chưa hiểu à?” Engman chỉ vào cái lò tường.

      “Con định đến để tắt ạ.” George Trần .

      George Trần là trẻ ăn mày Engman nhặt về, đưa học nấu bếp mấy tháng, trở về ta tự đổi thành tên Tây: George.

      ràng bỏ thêm than vào!” Linh mục Engman .

      Hồng Lăng cười mắt sáng lên: “George Trần sợ chúng em chết cóng đúng ?”

      George Trần rất nhanh trừng mắt nhìn con bé. Thấy thế Engman hiểu ngay, ta kiếm chác thân xác ả điếm mũm mĩm này rồi.

      Chú thích:

      (4) Những địa danh nổi tiếng của thành phố Nam Kinh – ND.



      5

      Từ sáng sớm ngày 13 tháng 12 năm 1937, nhà thờ Wilson thực tế mất tính trung lập. Thư Quyên của tôi cùng mười lăm nữ sinh hề nghĩ rằng khi linh mục Engman đón các từ bến sông về nhà thờ, trong khi các mệt rũ người lăn ra ngủ li bì người lính Trung Quốc lén trèo qua tường và trốn trong ngôi mộ của nhà thờ. Người này là thiếu tá hai mươi chín tuổi trung đoàn phó trung đoàn 2 sư đoàn 73 Quốc quân.(5)

      tôi với tôi rằng viên thiếu tá họ Đới là “người lính bẩm sinh”, “làm người lính vì lý tưởng chứ phải vì miếng cơm”. Thiếu tá Đới rất khôi ngô tuấn tú, tôi tưởng tượng thế. Vì lý tưởng khiến người ta có khí chất, khí chất tạo nên vẻ đẹp đàn ông hơn cả mặt mũi. Chất đàn ông đó được đàn bà ưa chuộng, tất nhiên Thư Quyên của tôi, người khao khát được người đàn ông che chở thể thờ ơ. Đơn vị bộ đội mà thiếu tá Đới phục vụ là sư đoàn tinh nhuệ mà Tưởng Giới Thạch dùng để tác chiến với quân Nhật ở Thượng Hải. Tưởng Giới Thạch có ba sư đoàn đều tinh nhuệ như sư đoàn 73, đó là những viên ngọc trong tay ông ta. Tổng cố vấn của ba sư đoàn là tướng Falkenhausen(6), quý tộc Đức hiền hòa, đậm tính cách Đức. Trong tuần hầu như đơn vị của thiếu tá Đới đẩy quân Nhật xuống sông Hoàng Phố.

      Sẩm tối ngày 12, thiếu tá Đới còn muốn cùng nửa tiểu đoàn tử thủ tại các lô cốt đường Trung Sơn. Khi trời tối, rất đông quan binh chạy về phía bờ sông. Từ những câu theo giọng địa phương của họ, hiểu đại khái là: Buổi chiều, tư lệnh Đường triệu tập hội nghị sĩ quan cao cấp quyết định toàn tuyến rút lui về phía bờ sông, lệnh rút lui được truyền đạt giờ đồng hồ trước đây.

      Đới Đào cho rằng thể như thế được. Nhân viên bộ đàm của ta nhận được bất kỳ lệnh rút lui nào. Nếu sư đoàn tinh nhuệ của ta tuân lệnh rút quân đội quân tạp nham tiếng man di làm sao có thể tự ý vứt vũ khí chôn trang bị mà rút lui?

      Tiếp theo là cuộc đàm phán, chửi rủa và bắn nhau xung quanh chuyện rút và rút. Tất nhiên, trong hồ sơ quân đó là chuyện “bắn nhầm”. đại đội trưởng dưới quyền Đới Đào bị đại quân rút lui xô ngã, đại đội trưởng đứng dậy nã phát đạn vào kẻ đẩy ta. Binh lính được lệnh tử thủ lập tức chia rẽ làm hai, phần lớn bị làn sóng người rút lui cuốn . Còn lại hơn hai chục quan quân dựa vào vũ khí của mình bắt đầu nổ súng vào đại quân rút lui, những người vứt hết vũ khí. Bắn đến năm sáu phút, bên rút lui trà trộn lẫn vào xe tăng xe tải, tranh thủ khi đoàn xe bị lính của Đới Đào chặn lại, đám lính trèo lên xe, bị đẩy xuống, trong mấy phút đó, Đới Đào hiểu tường tận câu thua tan tác “ còn mảnh giáp” là thế nào. Đối với ta, người lính con nhà thế gia, ngày tận số của thế giới cũng đen tối đến thế này mà thôi. ta đau đớn ra lệnh ngừng bắn.

      Khi ta và viên phó quan đến bờ sông 10 giờ đêm. Từng tấc đất bãi sông đều chật kín những tấm thân tuyệt vọng đầm đìa máu, mép thuyền nào cũng bâu đầy những bàn tay tuyệt vọng. Đới Đào được viên phó quan dẫn chỗ này chỗ kia, nghe viên phó quan giới thiệu cấp bậc và phiên hiệu đơn vị cũng chẳng ai thèm nhường đường để đến mấy chiếc thuyền cứu sinh cuối cùng. Đến 1 giờ sáng, số người muốn lên thuyền nhiều gấp mấy chục lần sức chở, những bàn tay bám vào mạn thuyền bằng sức lực vượt quá giới hạn con người vẫn cứ bám đó. Chủ thuyền bèn lấy rìu nhằm những ngón tay mà chặt.

      Đới Đào chẳng muốn mất công thêm nữa.

      3 giờ sáng. Lềnh bềnh mặt sông chỉ có ca nô thuyền buồm mà còn cả chậu gỗ, thùng gỗ, bàn giặt(7). Con người tuyệt vọng đến mức này trở nên lẩn thẩn, cái bàn giặt mà được sử dụng để vượt Trường Giang đầy hung hiểm, để đến được bờ bên kia! Đới Đào phỏng đoán những người đầu tiên dùng cách này qua sông bỏ mình dưới lớp sóng cồn ngày đông tháng giá rồi. ta và viên phó quan chen ngược trở lại.

      Khi viên phó quan tách ra khỏi ta 4 giờ sáng. Bờ sông vẫn đông nghịt lính và dân thường. người lính chửi bới om sòm bám chặt lấy chiếc áo vá chằng vá đụp của người dân, người này chân đất, mặt mũi tím tái vì rét cũng chửi bới om sòm giữ chặt chiếc áo nhất định chịu đổi lấy chiếc áo bông quân phục ấm áp. Đới Đào mắng người lính nọ, này như nghe thấy gì. Đới Đào chỉ còn năm viên đạn, giả sử ta tiếc viên người lính định hóa trang thành người bán hàng kia là vật hy sinh của vụ “bắn nhầm” rồi.

      Đới Đào mò mẫm trong ngõ . Những ngôi nhà chưa đổ đều khóa cửa. ngôi nhà có vườn, nhà sập nửa, cửa trước cháy thành than. Đới Đào bước vào, hành lang treo đầy những xâu khoai lang chưa khô hẳn. ta tháo hết xuống nhét vào túi.

      Dựa theo bản đồ thành phố Nam Kinh trong trí nhớ, ta chạy về phía đông. Bọn địch thường từ phía đông đến, nếu ta có thể luồn vào phía sau địch, vào những thôn làng bị chiếm có thể dựa vào hoàn cảnh đất rộng người thưa, địch ở chỗ sáng ta ở chỗ tối mà sống sót được. Ở đó tính tiếp. Làm người lính chỉ dựa vào tri thức và kinh nghiệm mà còn phải dựa vào mệnh trời. Thiếu tá hai mươi chín tuổi là trẻ, về mệnh trời như vậy là lên nhanh so với các bạn tốt nghiệp cùng lứa ở trường quân Bảo Định. ta nghĩ luồn vào phía sau lưng địch là mệnh trời chỉ vẽ cho mình, cho dù đó là ý nghĩ phiêu lưu liều lĩnh.

      Vào khoảng năm giờ sáng Đới Đào gặp tốp lính Nhật phá thành vào đầu tiên. Tốp này có vẻ như vào thành kiếm ăn, nhà nào kiếm được gì chúng đốt. Cứ như thế chúng tiến dần đến khu vườn Đới Đào nấp. Lùi mãi đến cái vườn cuối cùng, phát tốp lính chỉ có bảy, tám tên, ta ngứa ngáy. Có thể giải quyết chúng bằng hai trái lựu đạn. trận có thể đánh được mà đánh là thằng ngu. Đới Đào sờ hai quả lựu đạn gài ở sau lưng do dự, biết có đáng . người lính phải có tri thức, có kinh nghiệm, có mệnh trời phù hộ nhưng cũng phải có tinh thần nữa. Cái máu trả hận trận đánh ở Thượng Hải bốc lên rồi.

      Tim đập thình thình, ta nấp trong ngôi nhà sau vườn. Ngoài cửa sổ là cái ngõ , cửa sổ được ta mở ra, chỉ cần hai giây là vọt ra được. Lúc này ta hăng lắm, cái cục hận mất thành Nam Kinh còn nữa.

      Tốp lính Nhật ra. Đới Đào tay cầm súng lục, răng cắn chốt lựu đạn, giật, đếm nhẩm đến ba, bốn, ta ném ra. ta muốn chút ít thuốc nổ đó được để phí, cho nên lựu đạn phải nổ ở vị trí đích đáng nhất. Vừa ném ta lập tức né mình lao đến ô cửa sổ. Người lính chăm chỉ luyện tập được hưởng thành quả, ta vọt qua ô cửa đến hai giây, nháy mắt rơi xuống chân tường.

      Phải nhận rằng lính Nhật được huấn luyện cũng tồi, hai tên bị thương vong lập tức áp sát cửa sổ. Đạn bắn vào cây vào tường chan chát, lát sau Đới Đào phát tay trái trúng đạn.

      Trước mắt ta là bức tường cao, ánh lửa gần đó hắt lên cây thập tự nóc tòa nhà sau bức tường. ta nhớ ra đây là nhà thờ Mỹ. Đới Đào lập tức quyết định leo lên cây ngô đồng vào nhà thờ, cành cây chi chít vừa chỗ đặt chân nhưng mỗi lần vươn mình vết thương lại tóe máu.

      Leo lên mép tường ta thấy bảy, tám cái giá chữ thập. Đây là khu mộ, mấy cây bách và ít cây đông thanh(8-), ta nhìn thấy ngôi nhà như cái miếu bèn chui nhanh vào cái cổng vòm, ngồi xuống cởi cúc áo, lấy trong túi dết ra gói cứu thương. ta nắn vết thương, đoán chắc là bên trong có đạn, thấy người, bây giờ phải nghĩ chuyện cầm máu. Chiếc áo bông đẫm máu đông cứng như tấm sắt, vừa lạnh vừa nặng.

      Đới Đào băng chặt vết thương, rét quá răng đánh lập cập như muốn vỡ ra. Cái miếu tây là chiếc hầm mộ như đồ chơi làm rất tinh vi. ta nghĩ chết ở đây được hưởng ân huệ của người chết vô thừa nhận.

      Đến sáng, ta mới biết mình ngủ giấc.

      ta nghe thấy tiếng đám con léo nhéo. Tính nhẩm hôm nay là 13 tháng 12 năm 1937. Sao mà ở đây lắm con thế?

      Trời sáng hẳn, Đới Đào quyết định ở trong ngôi mộ để dưỡng thương, có gì ăn nấy.

      ta trốn trong nhà thờ Wilson hai ngày, chẳng ai thấy ta nhưng ta thấy tất cả, chẳng sót ai kể cả Thư Quyên của tôi và các bạn. Ban đêm cũng hề rảnh rỗi, ta lặng lẽ như con mèo rừng thám thính khắp phần đất nhà thờ, ta bám bên ngoài lỗ thông hơi hầm của đám đàn bà Tần Hoài hàng nửa giờ, nhớ kỹ từng khuôn mặt của họ.

      Mấy xâu khoai khô và bể nước rửa tội nuôi sống ta hai ngày. ta hiểu rằng đây là ngôi nhà thờ sơn cùng thủy tận, nếu có mớ khoai sống cái mạng nhặt được trước mũi súng lính Nhật cũng tiêu ma vì đói.

      Chú thích:

      (5) Quân đội của chính phủ Trung Hoa dân quốc, do Quốc Dân Đảng nắm giữ - ND.

      (6) Alexander Ernst Alfred Hermann von Falkenhausen (1878-1966) – ND.

      (7) Tấm gỗ dài rộng vài tấc có khía rãnh, thường gác trong mép chậu giặt để vò xát quần áo – ND.

      (8-) loài cây lá , xanh cả trong mùa đông, thường được tròng làm tường ngăn vườn cảnh – ND.



      6

      Bữa cơm chiều, Đậu Hoàn bước vào phòng ăn. ta cũng biết mình chẳng ra gì, rất biết điều, đôi giày hoa bước sàn gỗ cũ kĩ, cười toe toét: “Có súp kia à!”

      Các bé nhìn ả, họ tin rằng ánh mắt ấy có thể ngăn chặn con người mặt dày nhất đời. Nhưng được.

      “Chúng tôi chỉ có hai cái bánh bao, hay .”

      Chẳng ai thèm chấp. George Trần làm hai thỏi bánh, mười sáu học sinh, hai linh mục và người giúp việc mới được hai thỏi. Được voi đòi tiên, ta tưởng đến đây làm khách chắc?

      “Các người ngày nào cũng ăn bánh bao quen rồi hả? Tôi ăn bánh ta chứ ăn bánh Tây.” Đậu Hoàn nghiêng thùng súp đặt bàn về phía mình và ngó vào, thùng gần như trơ đáy, chỉ còn mấy lá rau cải nấu vàng và mấy sợi mì trương. Đậu Hoàn tiếp tục dày mặt vớ lấy cái muôi đồng, cái muôi có cán thẳng góc, muốn múc phải biết cách, tựa như múc nước giếng, lên xuống thẳng đứng. Múc như ta lần nào cũng đổ lại thùng. Đám nữ sinh coi như ta. Họ thản nhiên ngồi ăn.

      “Ai giúp tôi nào?” Ả mặt dày giơ ra cái lúm đồng tiền.

      : “Ai gọi linh mục Fabbi Atonado giùm.”

      “Gọi rồi.” trả lời.

      Hết cách, ả trề môi: “Chẳng giúp thôi.” Rồi kiễng chân nâng cái muôi lên nhưng tay ngắn, giơ quá đỉnh đầu mà cái muôi vẫn chưa lên đến mép thùng. Ả lại chữa ngượng: “Bàn cao quá.”

      “Quả bí xanh chê bàn cao là đúng rồi.” biết ai xen vào.

      “Có mày là quả bí xanh!” Đậu Hoàn chịu nổi nữa, buông cả muôi rơi tõm vào trong thùng “choang” cái như tiếng chiêng mở màn kịch.

      “Quả bí thối!” .

      Đậu Hoàn trợn mắt: “Có giỏi ra đây chửi!”

      Các muốn “giỏi”, để ý đến đứa mất dạy này coi như đề cao nó, cho nên các im lặng, lại tiếp tục ăn. Nhưng Đậu Hoàn vừa ra đến cửa lại có người : “Quả bí thối tháng sáu.”

      Câu đó là của Từ Tiểu Ngu;

      “Thối đến hạt cũng thối.” Sô-phi .

      Đậu Hoàn quay lại, nhanh như cắt hất bát súp vào Sô-phi. Đậu Hoàn chẳng to hơn bé này bao nhiêu, dốt nát lại non dạ, chỉ có cơ thể sớm đẫy đà thôi. Các bé buồn bực tức tối lâu lúc này mới có dịp xả ra, lập tức lao về phía Đậu Hoàn. đóng sập cửa phòng ăn, tì lưng vào. Đậu Hoàn lúc đầu chỉ phá quấy bây giờ biến thành thù địch của các bé. Cửa bị chặn lại nhưng những câu chửi tục tằn của Đậu Hoàn chặn được, từ rất xa Fabbi nghe thấy. George Trần sợ ta đến chậm bèn : “Chúng nó đánh nhau lúc lâu rồi, chỉ sợ làm sao rồi đó!”

      Mà đúng , cửa mở ra, mặt Đậu Hoàn be bét máu, nắm tóc bị giật . Tay ta sờ lên mảng trụi bằng đồng xu ánh nến chiếu vào trắng nhởn. George Trần vội chạy đến nâng dậy, ta hất tay ra tự bò dậy cứng: “Mấy cái chổi phất trần bị gãy người mẹ chúng mày rồi, tao thèm sợ mấy cái đám trẻ con chúng mày à? Mười mấy đứa đánh , đồ hèn!”

      Các bé bị xúc phạm mặt tái , nước mắt lưng tròng. Mười mấy khăng khăng Đậu Hoàn mở mồm trước, ra tay trước. Các bị tổn thương đến thế nào? Những câu bẩn thỉu đầy dòi bọ chui vào lỗ tai sạch của các , những chuyện nhơ nhuốc giữa đàn ông và đàn bà chưa nghe thấy bao giờ, con này phơi bày hết ra.

      Fabbi bảo George Trần đưa Đậu Hoàn về hầm. Lát sau George Trần quay lại bảo Fabbi, tiểu thư Triệu Ngọc Mặc muốn gặp phó linh mục. Fabbi : “ gặp gỡ gì cả!” giật mình vì chính cái giọng thô lỗ của mình. Hơn nữa George Trần cũng kinh hoàng trước bộ mặt như tấm gương phản chiếu bực bội và khó chịu của Fabbi. Phó linh mục lập tức quay người đến chỗ linh mục Engman, thoăn thoắt, nghĩ bụng: Hừm, cái Triệu Ngọc Mặc này tưởng dùng cặp mắt sai khiến được ta chắc? Ta làm gì để rơi vào bàn tay ta nào? Muốn gặp ta là gặp được ư?… Phải tìm cách tống khứ mụ này , kiên quyết thỉnh nguyện với linh mục Engman, nhét tất cả bọn chúng vào khu an toàn, nhét được cũng nhét, bọn Nhật ngày nào cũng đến khu an toàn lùng , cho bọn Nhật lôi là xong!… Liệu có xong ?

      Fabbi bỗng bước chậm lại, nhận ra rằng mình chẳng đến nỗi cứng rắn lắm.

      Khi Fabbi Atonado lên sáu, đường truyền giáo, bố mẹ Fabbi Atonado chết cùng lúc vì bệnh dịch. Chữ “mẹ” đối với cậu thực ra là bà vú, gọi là bà nhưng chỉ hơn mẹ mấy tuổi, bà chăm ẵm cậu bé từ khi Fabbi mới ra đời. Bầu vú nhão mềm của bà là chốn nương thân ấm áp tuổi ấu thơ của cậu, được nép mình vào đó là cậu ngủ ngon lành. Sau khi bố mẹ chết, người bà của đến Trung Quốc.

      Bà ngoại mặc đồ đen, người cao to, tóc quăn, cậu bé nấp sau bà vú Trung Quốc, làm sao bảo cậu chào bà ngoại của mình được. Bà đến để đưa cậu Mỹ, ông giáo làng khó khăn lắm mới phiên dịch nổi cho hai bà cháu như thế, Fabbi nghe tin dữ co cẳng chạy biến.

      mùa gặt, khắp đồng đâu đâu cũng có những đống rơm để trốn. Đêm đến Fabbi lẻn về ngôi nhà tranh của bà vú lấy mấy thứ đồ ăn bà phơi dưới mái hiên đem về lều rơm của mình. Mười hai con vịt của bà đẻ trứng ở đâu cậu cũng biết. Trước khi bà ra bờ sông thu trứng cậu nhặt trước hút sống rồi. Khi phát ra đồ vật liên tục bị mất, bà biết ngay là do trộm nhà, thế là bà có cách, bà quả phụ muốn giữ Fabbi đâu phải có tính toán cho mình?

      Bà ngoại của Fabbi thanh lý di sản của con và con rể, bán những đồ đạc và quần áo có thể bán được. Chờ Fabbi nửa tháng trời thành công cốc, cuối cùng bà chịu nổi đồ ăn thức uống, chỗ ở, nhà xí và ruồi muỗi vùng nhà quê Giang Bắc Trung Quốc, bà bỏ kế hoạch đón cháu ngoại về nước. Bà với tộc trưởng bà vú rằng, khi tìm thấy Fabbi, nhất định xin ông giáo viên viết thư bằng tiếng cho bà để bà lại đến đón cháu.

      Nhưng bà ngoại Fabbi chẳng bao giờ nhận được bức thư nào từ vùng quê Giang Bắc Trung Quốc. Khi lớn lên, có lần hối hận về lêu lổng của mình hồi bé, đó là khi được linh mục Engman nhận là học sinh của Viện Thần học. Sau khi bà ngoại trở về nước, Fabbi theo bà vú đến ở nhà người quen của bà, người này là bạn của bố mẹ cậu và cũng chính là người giới thiệu cho bố mẹ cậu nhận bà vú làm người giúp việc. Từ khi đưa Fabbi đến nhà ông này bà vú cũng làm luôn việc giặt giũ quét dọn ở đây. Fabbi cũng ăn cùng ở với các cậu ấm nhà này. Năm mười bảy tuổi, Fabbi tốt nghiệp trung học trường giáo hội Dương Châu, đúng vào khi linh mục Engman đến trường giảng dạy, linh mục rất chú ý đến thiếu gia Trung Quốc mang gương mặt người phương Tây, ông chủ động gặp và chuyện với . Khi Engman mỉm cười từ bục giảng bước xuống về phía mình, mới hiểu được nỗi đơn của chàng trai mười bảy tuổi, thể nào là người Trung Quốc được. Phong thái đĩnh đạc nhã nhặn cùng tri thức và tài diễn đạt của linh mục Engman trong giờ thu phục chàng Fabbi trẻ tuổi, khi đó mới ngộ ra rằng chưa bao giờ mình chịu làm người Trung Quốc. hiểu rằng linh mục Engman thân thiết với cũng vì là người phương Tây, linh mục ngầm cho hiểu rằng để sống chung với người Trung Quốc, tiếp tục làm người Trung Quốc là đầy đọa . Engman và Fabbi chuyện với nhau trông như hai con lạc đà đứng giữa bầy ngựa, lại tâm đầu ý hợp như người cũ gặp nhau.

      Khi linh mục rời Dương Châu quay về Nam Kinh, người xách hành lý cho ông chính là Fabbi Atonado.

      Sau khi tốt nghiệp học viện Thần học, Fabbi được linh mục kiêm giáo sư Engman xin cho học bổng Mỹ học thêm ba năm. tìm thấy toàn bộ gia tộc tại Mỹ, lớn bé già trẻ đông đúc. Goerge gặp họ hàng căng thẳng quá, gãi muốn rách cả da đầu như có cả tổ kiến lửa đó. phát ra rằng mình cũng chẳng làm nổi người Mỹ, hàn huyên với người thân ở Mỹ là Fabbi giả nào đó còn Fabbi là ở trong lòng, đếm từng giây từng phút mong sao cuộc hội ngộ họ hàng có tính lịch sử này mau mau chấm dứt.

      nhè gõ cửa nhà linh mục Engman, linh mục mời vào. Ông giữ trọn vẹn quan hệ với Fabbi như lần gặp đầu tiên, hề thân thiết hơn chút nào. Nếu bạn ở cạnh nhà ông lần đầu gặp, ông : “Rất vui được gặp ông!”, nhưng suốt mười năm sau đó, ông vẫn “rất vui được gặp ông!”. Ông có thể khiến cho người quen biết cảm thấy khô khan, thân thiết hơn lên cũng chẳng chết .

      “Có việc gì , Fabbi?” Linh mục mời ngồi khách sáo như mọi khi.

      Fabbi đến để trình báo về cuộc đánh lộn giữa các nữ sinh với Đậu Hoàn và thúc giục ông đưa đám điếm đến khu an toàn. Nhưng bước chân vào phòng khách của Engman mới cảm thấy trong lòng vị linh mục đầy ắp những âu lo, câu chuyện đó là hấp tấp, đúng lúc.

      Linh mục nghe radio nước ngoài đưa tin về tình hình Nam Kinh, ông nhìn Antonado rảo bước đến rồi lại quay lại chiếc radio. Fabbi cùng ông nghe bản tin đầy những tạp xào xạo. đưa mắt nhìn những khung ảnh được gỡ xuống xếp lại để phòng bom làm hỏng vỡ, nhìn bức tường trống trơn, vẫn nhớ như in vị trí và nội dung từng bức tranh vì mấy chục năm nay linh mục Engman hề thay đổi hay dịch chuyển chúng. Trong cái khung hình bầu dục là ảnh của mẹ ông. Lúc đầu tấm ảnh rất được gắn ở mặt sau chiếc đồng hồ bỏ túi mà người cha của ông để lại. Bức ảnh được phóng to và sửa sang vừa là tác phẩm nghệ thuật vừa là tác phẩm khoa học.

      Phía trái bên dưới là bức ảnh toàn thân Engman thời trẻ chụp kỷ niệm ngày tốt nghiệp; bên phải là ảnh Giáo hoàng tiếp kiến Engman.

      Linh mục Engman như với chính mình: “Có vẻ là rồi – họ bí mật tàn sát lính Trung Quốc. Tiếng súng vừa rồi là ở trường bắn bờ sông. Ngay cả phóng viên Nhật và phóng viên Đức cũng kinh hoàng trước tin này.”

      Năm giờ sáng nay, tiếng súng rộ lên phía bờ sông. Tiếng súng máy dồn dập. Khi đó Engman còn ngờ rằng quân đội Trung Quốc chống cự. Nhưng người phụ trách khu an toàn với ông, tất cả lính Trung Quốc kịp rút lui đều bị bắt. Kết hợp tin nghe được radio và tiếng súng sáng nay, Engman với Fabbi: “Nhật Bản đếm xỉa đến luật quốc tế về tù binh, thách thức văn minh và nhân đạo? có tin được ? Đây có phải người Nhật mà tôi được biết hay ?”

      Fabbi : “Phải tìm cách kiếm lương thực và nước. Nếu ngày mai là hết nước ăn rồi.”

      Engman hiểu ý Fabbi: Lúc đầu tưởng rằng nội trong ba ngày, quân chiếm đóng ngừng chém giết, buông lưỡi gươm đao phủ xuống, tiếp nhận thành phố mà chúng thỏa sức chém giết. Giờ đây những hề có mảy may dấu hiệu của vãn hồi trật tự mà giết chóc trở thành thói quen, chẳng biết bao giờ mới ngừng lại. Fabbi còn có ý rằng, gia ân của linh mục đối với mười mấy mụ điếm, để cho họ lấy đồ ăn thức uống của nữ sinh, nay sắp đến lúc mọi người đều chịu chung hậu quả.

      Linh mục : “Ngày mai tôi khu an toàn kiếm chút lương thực, cho dù là ít khoai tây, khoai lang, cũng tạm qua được hai ngày, thể để bọn trẻ đói được.”

      “Sau hai ngày sao? Còn nước nữa, làm thế nào?”

      “Bây giờ chỉ tính được bằng giờ! Sống giờ nào hay giờ ấy!”

      Fabbi nghe ra Engman sắp nổi nóng. Ông nhiều lần bảo Fabbi, ông muốn Fabbi khắc phục kiểu “tấn công tiêu cực”, tranh luận phải sáng sủa, phê phán phải thẳng thắn thoải mái như đại đa số người Mỹ. Kiểu “tấn công tiêu cực” như Fabbi là kiểu Trung Quốc, ông rất ghét.

      Engman : “Về chuyện nước, có đề nghị gì thẳng thắn có tính xây dựng ?”

      “Ngọc Mặc , khi chạy đến đây, họ có qua cái hồ, tôi rất thuộc Nam Kinh mà nhớ rằng gần đây có hồ, nhưng ta bảo ta nhìn thấy, tôi nghĩ bảo A Cố xem thử trước khi trời sáng.”

      “Được, như vậy là rất tốt. thấy chưa, có cách rồi đó.” Engman thưởng cho Fabbi nụ cười, khác hẳn nụ cười thường thấy ở ông, luôn luôn lịch , thiếu sức nóng.

      Fabbi rạo rực cả người, theo ông từng ấy năm, vậy mà chỉ trong mười phút được thấy ông giận dữ và nụ cười bụng. Xem ra có vẻ như xa lạ giữa hai người hàng xóm từng được giữ gìn cẩn thận nhiều năm bị xóa tan.

      Linh mục Engman : “Gọi bọn trẻ đến sảnh lớn.”

      Fabbi : “Chắc là chúng ngủ cả rồi.”

      gọi .”

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      7

      Bọn trẻ lên giường, nghe lời gọi, các bé mò mẫm trong bóng tối mặc quần áo rất nhanh xuống thang gác. Vào đến sảnh lớn, các trông thấy Fabbi ngồi trước đàn phong cầm(9), Engman mặc chiếc áo choàng chủ trì lễ tang. Thấy có chuyện lớn chẳng lành, bất giác các bé nắm lấy tay nhau, thời khắc này mọi xích mích ghét vặt vãnh hàng ngày còn nữa, tất cả là tập thể, gia đình.

      có người đàn phong cầm – người này theo các thầy trò của trường lần lượt rời Nam Kinh, Fabbi phải làm thay hết. Phong cầm loại dựng đứng, thường ngày dùng để cho nữ sinh tập hát, bây giờ phủ lớp thảm cũ, thanh phát ra như người cảm cúm.

      Thư Quyên hiểu rằng ai đó chết, chiếc đàn được bọc thảm là để thanh tang tóc của nó chỉ vang lên trong gian rất .

      Cả gian sảnh lớn chỉ có ba cây nến, mọi cửa sổ đều buông rèm đen. Để phòng , tất cả các tòa nhà của Nam kinh đều dùng rèm này.

      Tiếng đàn của Fabbi khàn khàn, các nữ sinh thầm hát hết bài Khúc cầu siêu. Họ còn chưa biết cầu siêu cho ai, chưa biết mình mất ai cho nên hoang mang của họ về mất mát càng sâu càng rộng.

      Nam Kinh và Giang Nam mất, quyền làm người dân tự do mất, nhưng hình như mất mát chỉ Nam Kinh và Giang Nam, chỉ quyền làm người dân tự do. mất mát hình hài khiến các đứng đó như bầy thỏ non run rẩy bơ vơ trước nguy hiểm tột đỉnh.

      Engman dẫn đầu các bé đọc lời cầu nguyện. Thư Quyên nhìn thấy linh mục Engman và chúa Giêsu đứng đó, người trước người sau. Bóng của Engman đổ lên bức tượng màu của Giêsu và khí chất thánh thần của Giêsu sống động nét mặt vị Linh mục.

      “Các em, lẽ ra tôi muốn quấy rầy các em. Nhưng tôi muốn các em có chuẩn bị, tình hình phát triển theo hướng tốt đẹp.” Bằng giọng nặng nề, ông thuật lại ngắn gọn những điều nghe radio. “Nếu tin tức đó là – hàng ngàn hàng vạn tù binh đồng loạt bị bắn chết, vậy hãy tin tôi, chúng ta quay lại thời trung cổ. Đối với người Trung Quốc, kiện bốn mươi vạn tù binh quân Triệu bị chôn sống có lẽ còn lạ với các em. Đừng hiểu lầm rằng lịch sử tiến lên được nhiều lắm.” Linh mục dừng lại ở đó. Giọng ông mỗi lúc cay đắng, lưỡi như cứng lại.

      Đêm, Thư Quyên nằm cạnh Tiểu Ngu. bé này sụt sịt mãi, Tiểu Ngu hỏi tại sao, Thư Quyên bảo bố tài giỏi tháo vát, chẳng có con đường nào ông qua được thế mà lại ném vào cái nhà thờ chết tiệt này, đói khát, có cả chậu than để sưởi.

      Thư Quyên thầm: “Bố mình bây giờ ở Mỹ uống cà phê, ăn trứng ốp-lết đó!”

      Mấy tháng sau, biết rằng, suốt ngày mẹ sống trong các bản tin vô tuyến điện, cha ở trường về đến nhà là nằm phủ phục bên chiếc radio, nếu hai người nhìn vào mắt nhau, họ hiểu rằng trong đầu họ chỉ có câu: “ biết Thư Quyên giờ này ra sao?”

      Điện thoại điện báo ở Nam Kinh bị cắt đứt, bố của Thư Quyên gặp nhân viên của lãnh quán Trung Quốc, câu trả lời nhận được vô cùng mơ hồ, tình hình Nam Kinh vô cùng tồi tệ, nhưng tin nào được chứng thực. Bố tìm cách gọi điện thoại cho người bạn ở Thượng Hải, người bạn ở tô giới(10), lan truyền tin quân Nhật thực cuộc tàn sát lớn ở Nam Kinh, những tấm ảnh người dân bị bắn chết được phóng viên đem về Thượng Hải. Đúng lúc các oán trách gia đình bố mẹ họ tìm cách mua vé tàu thủy về Trung Quốc, họ bị hối hận và day dứt hành hạ đến rã rời, tâm lý chung của người Trung Quốc là “chết cả nhà cùng chết.”

      “Nếu bố tớ về đón tớ kéo cậu luôn.” Tiểu Ngu bỗng và giật mạnh tay Thư Quyên.

      “Liệu bố cậu có về đón cậu ?”

      “Nhất định đón!” Tiểu Ngu có vẻ vui vì bạn coi thường bố , con người có tiền, có thế lực lại giỏi giang tháo vát.

      “Mai đến tốt.” Thư Quyên mong bố Tiểu Ngu đến đón kém gì bạn. Thân với Tiểu Ngu đúng lúc, có thể ăn theo được để thoát ra khỏi Nam Kinh trong trùng vây của quân Nhật

      “Thế cậu định đâu?” Tiểu Ngu hỏi.

      “Cậu đâu tớ đó.”

      “Nhà tớ Thượng Hải. Tô giới , Pháp, cả tô giới Mỹ nữa có đánh nhau. Thượng Hải hay hơn Hán Khẩu. Hán Khẩu quê chết được, toàn người nội địa.”

      “Được, chúng mình Thượng Hải.” Lúc này Thư Quyên dám phản đối Tiểu Ngu, chẳng may cặp mắt xanh của nó chiếu sang người khác mất ăn, phải ở lại cái thành phố đầy người chết này. Tuy thấy dựa dẫm vào Thư Quyên có hơi mất thể diện nhưng đời còn dài, có lúc lấy lại thể diện, lấy lại gấp nhiều lần.

      Loáng thoáng nghe tiếng chuông cửa. Trong ba giây đồng hồ, các bé đồng loạt nhỏm dậy rồi chen chúc bên cửa sổ. Họ nhìn thấy A Cố và Fabbi chạy qua bên dưới cửa sổ. A Cố cầm đèn lồng chạy trước, Fabbi đuổi theo vẫy mạnh tay ra hiệu tắt đèn nhưng muộn, ánh đèn đến trước người và lọt qua khe cửa ra ngoài.

      “Cầu xin đại nhân, mở cửa cho, đây là đội chôn xác người… người lính này còn sống, đại nhân cứu ta lại bị bọn giặc bắn chết lần nữa!…”

      Fabbi cố tình bằng giọng Tây: “Xin chỗ khác cho, đây là nhà thờ Mỹ, can dự vào chiến tranh Trung - Nhật.”

      “Ông lớn…” Lần này là giọng đẫm nước mắt của người chảy máu quá nhiều: “Xin ông lớn cứu mạng…”

      chỗ khác . Thành xin lỗi.”

      Người đội viên chôn xác to hơn: “Bọn giặc đến bất kỳ lúc nào! Đến ta chết, tôi cũng chết! Xin làm ơn làm phúc! Hãy nhìn vào mặt thượng đế, tôi cũng là giáo dân!”

      “Xin đưa ta đến khu an toàn!”

      “Bọn giặc đến khu an toàn hàng chục lần để tìm lính Trung Quốc và người bị thương! Xin ông!”

      “Rất xin lỗi, tôi có cách nào cả. Xin đừng ép chúng tôi vi phạm lập trường trung lập của nhà thờ.

      Mấy tiếng súng nổ xa.

      “Nhà từ thiện, xin trông cậy ông!…” Tiếng bước chân men chân tường xa dần.

      Fabbi biết làm sao, thể để người lính Trung Quốc chảy máu đến chết hoặc bị hành hình lần nữa, cũng thể lo đến an toàn của mấy chục mạng người trong nhà thờ.

      Linh mục Engman xuất trong bóng đêm, ông vẫn mặc áo tang lễ.

      “Có chuyện gì?”

      “Thưa, bên ngoài có thương binh Trung Quốc, trốn khỏi nơi tàn sát của người Nhật.”

      Linh mục Engman thở dài, nhìn biết ngay trong đầu ông cũng chẳng có cách gì.

      “Xin các ông!” Người thương binh giọng vùng ngoại tỉnh, từng chữ ra trong cơn đau đớn tột cùng.

      “Để ta nằm ngoài cổng cũng được, như vậy càng lôi chúng ta vào cuộc,” Fabbi bằng tiếng .

      Engman nhìn Fabbi, ta phải có lý. Nhưng nhà thờ mất tính trung lập, mất ưu thế bảo vệ nữ sinh, ông thể mạo hiểm được. Ông : “ được. Có thể bảo A Cố đưa ta , đưa đâu đưa.”

      A Cố : “Thế coi như đưa ta đến chỗ chết!”

      Người thương binh bên ngoài cổng rên rỉ tiếng rên phải của con người nữa, nghe cũng biết máu sắp cạn rồi.

      Từ cửa sổ của Thư Quyên nhìn ra, hai vị linh mục áo đen và A Cố như ba quân cờ bàn cờ ở thế giằng co. Điều thôi thúc linh mục Engman có thể là câu “máu sắp chảy cạn kiệt”. Quả nhiên ông cầm lấy chìa khóa từ tay A Cố, “xoạch” cái ông mở ổ khóa Đức, rút chốt, tháo xích. Thế là cánh cửa nặng nề mở ra, các nữ sinh thở phào.

      Nhưng linh mục Engman với động tác nhanh hơn quyết đoán hơn đóng sập cánh cửa lại, để người lính nằm bên ngoài. Ông định khóa cổng lại, nhưng tay ông lẩy bẩy làm được chính xác, Fabbi hỏi mấy lần ông trả lời, cuối cùng cũng khóa xong.

      “Bên ngoài phải mà là hai người! Hai thương binh Trung Quốc.” ràng ông cảm thấy lòng tốt của ông bị người ta giễu cợt.

      Tiếng người chôn xác lại léo nhéo: “Bọn Nhật đến rồi kìa, chúng cưỡi ngựa!…”

      Xem vừa rồi ta giả vờ bỏ , làm như vứt thương binh lại, để mặc đó. Ông “hòa thương Tây” nỡ bỏ đó, hơn nữa nếu có hai thương binh ông càng muốn tiếp nhận. Cái trò đó quả nhiên linh nghiệm, vị linh mục mắc lừa, mở cửa ra.

      “Đúng có tiếng vó ngựa!” A Cố .

      Ngay cả Thư Quyên cũng biết rằng nếu lính Nhật rẽ vào cái phố này tất cả mọi người bên trong hay ngoài cổng đều bị giết sạch.

      “Tại sao ông dám lừa tôi? ràng chỉ thương binh!”, linh mục Engman : “Người Trung Quốc các đến lúc này vẫn còn dối trá?!”

      “Linh mục, cứu người người với trăm người có gì khác nhau đâu?!” Fabbi . Lần đầu tiên xung khắc trực diện với ân sư của mình.

      im mồm .” Ân sư .

      Tuy hiểu điều hai ông Tây với nhau nhưng mấy người bên ngoài đoán là có liên quan đến sống chết của họ. Người chôn xác cuống lên : “Tiếng vó ngựa chạy về phía này rồi!”

      Linh mục Engman cầm chìa khóa theo đường cũ quay về. Vừa được năm sáu bước, bóng đen chặn lại, bóng đen nhanh nhẹn dứt khoát, có thể thấy đây là người lính dày dạn.

      Sô-phi bên cạnh Thư Quyên phát ra tiếng chó con ăng ẳng. Mặt trận lan đến đây rồi, cái sân này sắp thành sa trường rồi.

      “Mở cửa ngay lập tức!” Kẻ đột nhập tiến sát linh mục Engman, tòa nhà cháy xa xa hắt ánh lửa loang loáng xuống sân nhà thờ. Trong ánh sáng các trông thấy quân nhân cầm súng lục chĩa vào ngực linh mục Engman, sau lớp áo choàng đen và lồng ngực khô khốc là trái tim ông đập trước mũi súng. Thư Quyên nghĩ nếu nhạy cảm chút, ta cảm nhận được trái tim ông đập điên loạn, nhịp đập rối loạn từ nòng súng truyền đến tay ta.

      Fabbi giật chìa khóa từ tay linh mục Engman, mở cổng ra, đưa vào nhóm người đen sì, cái xác vớt từ máu ra nằm xe cút kít, người thương binh còn được tay chống cành cây to, người đẩy xe chừng năm mươi tuổi mặc gi-lê đen.

      Cổng đóng được lát mấy kỵ binh Nhật phi đến, chúng hát ê a cười bi bô có vẻ khoái chí lắm.

      Những người bên trong cổng đứng ngây như tượng gỗ theo mọi tư thế chờ cho lính Nhật xa. Người sĩ quan trang bị đầy mình hai tay nâng súng, sẵn sàng cửa mở ra là bắn.

      Khi tiếng vó ngựa xa hẳn mọi người mới trở lại bình thường.

      Thư Quyên với Tiểu Ngu: “Ta xuống xem .”

      được!” Tiểu Ngu kéo lại.

      Thư Quyên mở cửa cầu thang xuống. nghe tiếng Tiểu Ngu với các bạn: “Xem Mạnh Thư Quyên kìa! Rỗi hơi kiếm chuyện!”

      Thư Quyên thích Tiểu Ngu làm vậy. chỉ muốn rủ Tiểu Ngu làm chuyện bí mật vậy mà Tiểu Ngu tố giác . xuống đến xưởng rút chốt, hé cửa ra chỉ đủ để nhìn toàn cảnh. Bất kể trong hoàn cảnh nào cũng muốn người ta giấu điều gì. biết người ta giấu là muốn tốt cho nhưng chịu, kể cả chuyện cha mẹ giấu cho biết ban đêm họ cãi nhau và cãi nhau về chuyện gì. Có lúc thấy mắt mẹ đỏ như trái đào, hỏi có phải mẹ khóc suốt đêm , mẹ còn cười bảo phải, tựa hồ giấu là vô trách nhiệm với .

      Lúc này đứng trước khung cửa hé mở, thấy cuộc chiến ở sân vẫn chưa phân thắng bại. Cái xe cút kít biến thành xe tăng xung trận vào trong sân, người lính cầm súng là đội quân mũi nhọn. Thư Quyên nhìn thấy trước ngực sau lưng người mặc gi-lê đen có dán những miếng vải trắng tròn, đoán là dạng trang phục thống nhất của người chôn xác.

      “A Cố, lấy thuốc cấp cứu ngay, lấy nhiều bông băng vào cho họ cầm .” Ý định của linh mục Engman là ràng, nơi đây tiếp những người khách như thế này.

      Người cầm súng vẫn thay đổi tư thế tấn công, súng vẫn chĩa vào linh mục Engman: “Ông định để cho họ đâu?”

      “Xin ông bỏ súng xuống chuyện với tôi, ông thiếu tá.” Vị linh mục nghiêm nghị.

      Ông nhận ra cấp bậc của người lính, bên vạt quân phục bị sẫm màu, đó là máu đông.

      “Vì cầm súng chuyện mới có người nghe.”

      Linh mục Engman : “Tại sao cầm súng để người Nhật nghe các ?”

      Người lính cứng họng.

      Linh mục lại : “Thưa ông sĩ quan, người cầm súng chuyện được với tôi. Xin ông hạ súng của ông xuống.”

      Viên sĩ quan chúc mũi súng xuống.

      “Xin hỏi ông là ai, vào đây bằng cách nào?” Fabbi hỏi.

      “Nơi đây đâu có khó vào? Tôi vào đây hai ngày rồi. Tôi là Đới Đào, thiếu tá trung đoàn phó trung đoàn 2, sư đoàn 73.”

      Bỗng có tiếng léo nhéo điếc tai, những người đối chọi nhau bị phân tâm. Thư Quyên ngó ra thấy năm sáu ả điếm, dẫn đầu là Hồng Lăng từ phía nhà bếp ra. Mấy ả kêu “buồn chán quá!” nữa. Nhìn thấy đống máu thịt lù lù xe cút kít, họ dừng lại thầm. Đám đàn bà này lần đầu tiên hiểu rằng, cảnh thanh bình mảnh sân này là giả tạo, cảnh họ cười vui vẻ là giả tạo, bên ngoài máu chảy thành sông giờ đây chảy vào phía trong bức tường này rồi.

      “Người Nhật hành hình lúc nào?” Linh mục nhìn người xe cút kít và hỏi.

      “Sáng sớm hôm nay.” Đội viên đội chôn xác trả lời.

      “Người Nhật bắn các bao nhiêu người?”

      “Có đến năm, sáu ngàn.” Người lính chống gậy với giọng bi phẫn và xấu hổ: “Chúng tôi bị lừa! Bọn giặc bảo đưa chúng tôi đến đảo sông để khai hoang trồng trọt, đến bờ sông chẳng thấy có chiếc thuyền nào…”

      “Các ở sư 154 phải ?” Viên thiếu tá đoán.

      “Vâng, ông biết ạ?”

      Viên sĩ quan trả lời. Giọng địa phương của người lính cho ta biết. “Mau chóng tìm chỗ ấm áp băng vết thương cho ta.” Viên thiếu tá , cứ như ta chiếm lĩnh nhà thờ và trở thành chủ nhân rồi.

      Mấy người chuẩn bị linh mục Engman : “Khoan . Ông thiếu tá, lúc nãy tôi cứu các ông lần,” ông chỉ tay ra cổng, “tôi có cách gì cứu các ông lần nữa. Có mười mấy nữ sinh mười tuổi tị nạn trong nhà thờ, để các ông ở lại, người Nhật có cớ vào đây.” Ông tiếng Trung Quốc nghe rất khó khăn.

      “Nếu họ bị bắn lần nữa.” Viên thiếu tá .

      Hồng Lăng chõ vào: “Giết hết bọn người Nhật !… ông sĩ quan, cho họ vào hầm với chúng tôi!”

      được,” linh mục Engman quát to.

      “Thưa Cha, hãy để chọ họ băng vết thương rồi tính sau, được ?” Fabbi .

      Linh mục : “ được. Tình hình bây giờ còn kiểm soát được. nước uống, lương thực. lại thêm ba người nữa… Xin các vị nghĩ xem, tôi có mười sáu nữ sinh, lớn nhất mười bốn tuổi, ở cương vị tôi, các vị làm thế nào? Các vị làm như tôi, đó là cự tuyệt để binh sĩ vào đây. Binh sĩ kéo lính Nhật vào, như vậy có công bằng với các em nữ sinh ?” Tiếng Trung Quốc của ông chính xác đến mức đau khổ.

      Viên thượng sĩ : “ có chúng tôi người Nhật vào hay sao? Chẳng có nơi nào họ dám vào!…”

      Linh mục im lặng lát. phản bác có lý. Dưới con mắt điên cuồng của quân chiếm đóng, hề có vùng cấm, có thần thánh. Ông quay sang viên thiếu tá: “Xin thiếu tá hiểu cho hoàn cảnh của tôi. Đưa họ ra . Thượng đế phù hộ cho các vị đến được khu an toàn. Thượng đế chúc các vị may mắn.”

      “Đẩy xe vào trong kia.” Viên thiếu tá với đội viên đội chôn xác, tay chỉ về phía bếp. “Cho họ uống nước rồi xem xét vết thương cho họ.” Viên thiếu tá như hiểu tiếng Trung Quốc của linh mục.

      “Đứng im!” Engman đứng chặn trước chiếc xe, dang tay áo ra như đôi cánh đen.

      Nòng súng của viên thiếu tá giơ lên.

      “Ông định bắn ư? Bắn nhà thờ là của ông, khi đó ông muốn để họ ở đâu để. Bắn .” Engman quá nửa đời người ở Trung Quốc, sáu mươi là cái tuổi có chết cũng phải tiếc nuối.

      Viên thiếu tá gạt chốt an toàn.

      Fabbi há hốc mồm, nhưng đứng yên, ta sợ cử chỉ bất kỳ làm viên đạn trong nòng súng hoảng sợ bay .

      Người lính xe rên lên tiếng. Ai cũng nghe thấy con người đau khổ sắp chết phát ra tiếng kêu. Tiếng kêu rên nghe nũng nịu, như tiếng của đứa trẻ mười bốn mười lăm vừa vỡ giọng. Người lính trẻ con đau đớn đến thế mà mọi người vẫn cãi nhau bất tận, trước đau đớn như thế, còn gì quá quan trọng ? Cả sống chết cũng còn quan trọng nữa.

      “Nước đun nóng rồi!” George Trần từ đâu lặng lẽ đứng bên can dự vào chuyện đôi co nhưng ta có ý chuẩn bị đón tiếp người bị thương, bây giờ chỗ nước cuối cùng trong bồn rửa tội đun nóng rồi.

      George Trần vội dẫn đường cho chiếc xe, người lính chống gậy theo. Lúc này đám điếm dưới hầm cũng kéo nhau lên nhìn người lính thiếu niên sắp chết và viên thượng sĩ què chân, biết ghen ghét hay sợ hãi, họ đứng hai bên vừa như đón chào lại vừa như đưa đám.

      Viên thiếu tá vừa định theo linh mục gọi lại.

      “Ông thiếu tá, đưa súng cho tôi.”

      Viên sĩ quan cau mày: Lão Tây già này muốn gì đây? Bọn Nhật còn thể bắt ta nộp súng được!

      “Nếu ông muốn được nhà thờ che chở phải bỏ súng xuống. Ưu thế của nhà thờ chính là tính trung lập của nó, khi người có vũ khí bước vào, tính ưu việt đó còn nữa. Vậy cho nên, ông đưa vũ khí cho tôi.”

      Viên thiếu tá nhìn đôi mắt màu nhạt của người khác sắc tộc và : “ được.”

      “Vậy tôi thể để ông ở đây được.”

      “Tôi ở hẳn đây, có thể chỉ nán lại hai ngày.”

      “Ở đây phút cũng phải làm công dân bình thường. Nếu người Nhật phát ông mang súng ở đây tôi thể nào biện hộ cho ông, cũng thể chứng minh địa vị trung lập của nhà thờ.”

      “Nếu người Nhật vào đây mà tôi có súng có nghĩa là để mặc cho họ giết chết.”

      “Bỏ súng xuống ông mới có thể tị nạn ở đây như công dân bình thường. Nếu , ông phải lập tức rời khỏi đây.”

      Viên thiếu tá do dự rồi : “Tôi chỉ ở đêm, hỏi được mấy người lính về tình hình người Nhật tàn sát tù binh rồi tôi .”

      “Tôi rồi, phút cũng được.”

      “Ông thiếu tá nghe lời linh mục .” Fabbi đứng bên . “Vết thương của ông cũng , khỏi đây, ăn, uống, đâu cũng nhan nhản lính Nhật, ông được bao xa? Ít nhất phải dưỡng thương, nghỉ ngơi chút ít mới được.” Giọng Giang Bắc của ta dùng để giảng giải có vẻ rất lọt tai, nghe như khuyên can hai em đánh nhau trong làng.

      Viên thiếu tá chầm chậm khóa khẩu súng, tách tiếng, sau đó quay mũi súng về phía mình, báng súng về phía linh mục.

      Thư Quyên nhận ra miễn cưỡng của ta giống như miễn cưỡng nhượng bộ trước đó của vị linh mục.

      (9) loại đàn hơi dùng nhà thờ, tư thế ngồi đàn tựa như đàn piano – ND.

      (10) Những vùng đất trong thành phố, nhiều nhất là ở Thượng Hải, Quảng Châu cắt ra cho người nước ngoài thuê – ND.



      8

      Viên thượng sĩ tên là Lý Toàn Hữu, cậu lính trẻ con tên là Vương Phố Sinh, đó là điều mà Mạnh Thư Quyên của tôi và các bạn biết được ngay hôm sau. Cậu lính mới có tháng tuổi quân, từ ruộng khoai trước nhà đến thẳng trại quân, mặc vào người bộ quần áo lính. Hôm mặc bộ quần áo lính cũng được phát khẩu súng dài, dây đạn, sau đó bị kéo ra sân phơi lúa, tập vài động tác đâm lê, vài tư thế xạ kích rồi bị lôi đến Nam Kinh. phát đạn cũng chưa được bắn vì chỉ huy đạn quý lắm, để đến lúc ra trận mới bắn. Khi đánh nhau mới nổ được mấy phát bị thương, khi cả đoàn quân lớn đầu hàng cậu ta vẫn chưa biết rằng binh nghiệp của mình kết thúc rồi, cái mạng mười lăm tuổi suýt nữa cũng kết thúc luôn.

      Thượng sĩ Lý Toàn Hữu chân trái bị thương rất nặng, bị bốn nhát kiếm, gân kheo đứt, do đó đây là bộ phận chết sớm nhất cơ thể, còn dùng được và vướng víu cũng phải lôi theo. Hai người bị bắn bị chém thế nào rồi chạy thoát thế nào viên thiếu tá gặng hỏi mãi mới biết. Lúc đầu được hỏi, ta trả lời: “Nhắc lại làm đếch gì, thằng này chưa bao giờ nhục đến thế!”, hoặc: “Quên mẹ nó hết rồi!”. Mãi đến ngày thứ ba, có tí rượu vào ta mới kể đầu đuôi cho viên thiếu tá nghe. Rượu tất nhiên là của nổi trong nhà thờ, các ả kiếm cho mấy người lính, bởi vì khi đó lính và đàn bà đều chung hoạn nạn thành tri kỷ.

      Câu chuyện được viên thiếu tá kể cho Fabbi nghe, Fabbi lại kể cho linh mục. Khi đến tai Thư Quyên của tôi và các bạn bị xén đầu xén đuôi. Khi lớn lên, Thư Quyên gặp lại Fabbi Atonado lại nghe ông kể lại chuyện của Lý Toàn Hữu và Vương Phố Sinh, khi đó câu chuyện dựa theo kí ức, tưởng tượng và biên tập lại của ông, câu chuyện có chỗ liên tục, được ông bổ sung bằng những hiểu biết tổng thể về cuộc chiến tranh qua nhiều năm. Hơn nữa trước khi gặp lại Thư Quyên ông kể cho bao nhiêu người, câu chuyện được gọt giũa và logic hóa cho nên đến những năm 80 câu chuyện Thư Quyên được nghe ông già kể lại khá đầy đặn thậm chí có tính văn học.

      Câu chuyện thế này. Đơn vị bộ đội của Lý Toàn Hữu và Vương Phố Sinh sau khi tuyên thệ: “Người còn, thành phố còn, đánh đến người cuối cùng” được hai hôm mất liên lạc với bộ tổng chỉ huy. Có nghĩa là, chỉ huy của họ biết đánh đâu, đánh thế nào, cũng làm sao biết được hướng tấn công của địch. Chỉ huy đơn vị biết rằng họ bị chỉ huy cấp bán rẻ rồi, trang thiết bị vô tuyến điện tương đối tiên tiến tương đối hoàn thiện của mặt trận bị đưa lên tàu chuyển về hậu phương. Phi đội 300 chiếc máy bay của bộ đội quân là lực lượng chiến đấu duy nhất của tổng thống Tưởng Giới Thạch, nay dùng để chính phủ ông quan sát vị trí của quân địch, vì vậy pháo binh mất phương hướng. Bộ binh được điều đến từ các nơi, còn liên lạc với nhau bằng vô tuyến điện, chẳng ai biết cần phối hợp với ai, tăng viện cho ai. Có đơn vị lẽ ra chặn được địch đánh vào thành phố nhưng thương vong quá nặng nề, đạn dược cạn kiệt mà đơn vị ngay bên cạnh hề biết, bỏ lỡ mất cơ hội tăng viện.

      Lý Toàn Hữu là thượng sĩ tiểu đội trưởng của đơn vị lẽ ra phải tăng viện cho đơn vị khác lại án binh bất động. Khi lính Nhật công phá trận địa của đơn vị bạn, tiến quân ngay bên cạnh họ để vào thành phố, họ mới biết rằng mình là quân cờ chết bàn cờ.

      May mà trời tối, họ và quân Nhật thấy nhau. Đêm đến họ bị chỉ huy trưởng phản bội. Các sĩ quan từ cấp úy trở lên chạy sạch cả. Sáng sớm, chiếc máy bay lên thẳng của Nhật bay đến, có tiếng loa của tên Hán gian: “Các binh sĩ Trung Quốc, quân đội hoàng gia Đại Nhật Bản ưu đãi tù binh! Chỉ cần các bạn hạ vũ khí, đợi các bạn là cơm nóng, trà ngon, cá hộp của quân đội Nhật Hoàng!…” Lính Trung Quốc ba bốn bữa biết đến mùi cơm. Máy bay lượn vòng quanh núi, lính Trung Quốc đứng sườn núi, dưới những cây bách ngửa cổ nhìn lên. Lát sau máy bay vòng lại, tiếng loa Hán gian biến thành giọng của mụ đàn bà Nhật Bản, hát bài hát Trung Quốc, lát sau nữa, máy bay thả bạt ngàn giấy trắng, giấy vàng, giấy hồng. Người biết chữ đọc rồi bảo: “Người Nhật thả truyền đơn, cầu ta đầu hàng!” Người biết nhiều hơn bảo: “Ghi đây, đảm bảo đánh giết, có cơm ăn có chỗ ở, còn chống cự giết sạch. Tất cả quân đội Trung Quốc ở Nam Kinh đầu hàng cả rồi, đều được ưu đãi đây này!” Lại có tờ truyền đơn lịch như vậy, chờ đợi của quân đội Nhật Hoàng phải là vô hạn, đến 5 giờ sáng mai đầu hàng muộn rồi.”

      Đêm đến lính Trung Quốc bàn tán về mọi khả năng. Lý Toàn Hữu là tiểu đội trưởng của liên đội, đề nghị với trung đội trưởng, tranh thủ đêm tối trốn , có trốn thoát hay đành trông vào may rủi. Trung đội trưởng : “Điều nghĩ e rằng người Nhật nghĩ đến rồi.” thượng sĩ tiểu đội trưởng khác : “Ta cầm những tờ truyền đơn này, nếu người Nhật giữ lời, ta đấu lý với họ, bằng chứng giấy trắng mực đen đây! Lại in cả tên sĩ quan tư lệnh của họ, chây ỳ sao được?!”

      Có tờ ghi thể lệ đầu hàng: , xếp vũ khí thành đống. Hai, binh lính xếp hàng theo tiểu đội, trung đội, đại đội, người đầu cầm cờ trắng – vải trải giường trắng, áo sơ mi trắng đều được. Ba, binh lính và sĩ quan giơ hai tay cao quá đầu, ra từ chỗ nấp, quân đội Nhật Bản ưa trật tự, kẻ phá rối bị nghiêm trị.

      Lý Toàn Hữu chẳng còn mẩu lương khô nhưng thuốc hút còn nửa túi. nhồi tẩu hút hết điếu này đến điếu khác, nghĩ ngợi, nên cùng bộ đội đầu hàng hay trốn ở lại, hoặc nhân lúc trời tối lẻn . Nếu còn miếng ăn, ta đầu hàng. Mọi người ai cũng móc thuốc ra hút, hơi thuốc rót vào máu thịt của mấy ngàn con người đói khát, chỉ còn thuốc là khiến người ta dễ chịu chút.

      Họ biết rằng, lúc đó tốp lính Nhật bằng phần mười số quân của họ triền núi nhìn bạt ngàn những đốm lửa thuốc lá mà cảm thấy e ngại: Đây là đơn vị quân đội đông đảo, chẳng may vụ gọi hàng lừa đảo bằng truyền đơn thất bại rất khó đối phó.

      Cuối cùng Lý Toàn Hữu bỏ ý định lẻn và ý định trốn ở lại. Kết quả đầu hàng thế nào rồi, ít nhất truyền đơn của người Nhật cho họ thấy lờ mờ bước sau, còn lẻn hoặc trốn ở lại biết ra sao. Ngoài ra, Lý Toàn Hữu cũng như các chiến hữu, khi chưa biết may rủi thế nào dễ ngả theo quyết định tập thể, can đảm là của mấy ngàn người cộng lại, nguy cơ bị hủy diệt mấy mà ngàn người cùng gánh cũng dễ chịu hơn.

      5 giờ sáng, lá cờ trắng đầu tiên ra. Đó là tấm trải giường lính kèn giơ lên. Tấm vải của trung đoàn trưởng chạy trốn bỏ lại. Tấm vải được xé làm bốn, chia cho bốn trung đoàn. Sương mù dâng lên, khi đến trước mặt binh lính Nhật, các tù binh Trung Quốc mới phát thấy địch ít ta đông, chênh lệch nhiều đến thế. Nếu đêm qua họ phá vây phá được, nhưng họ có máy vô tuyến điện, biết được tình hình của quân đội Trung Quốc toàn mặt trận ra sao. Tình trạng đó bị quân Nhật lợi dụng.

      Trong đơn vị này có người cao số nhất, sống đến những năm 1990, thọ hơn 80 tuổi.

      Người lính già này qua tư liệu lịch sử biết rằng, khi tiến đánh Nam Kinh quân đội Nhật vô sỉ và dối trá, họ vạch sẵn mưu từ rất sớm, chia rẽ quân đội Trung Quốc, đồng thời gọi hàng theo cách lừa đảo từng đơn vị . Ngay từ đầu họ tuân thủ qui ước Geneve về tù binh. Người lính già 80 tuổi nhìn các đoàn du khách Nhật đội mũ lưỡi trai che nắng mà đau thắt ruột.

      Đó là chuyện sau này. Hãy quay lại câu chuyện của Lý Toàn Hữu.

      tốp lính bị thương từ con đường khác đến, trong đó có thiếu niên. Liên đội của Lý Toàn Hữu được lệnh dừng lại ở ngã ba để cho tốp lính bị thương trước, có vẻ như đơn vị quân đội Nhật tiếp nhận đầu hàng nghĩ chu đáo, để cho những người bị thương đến nơi an toàn “có cơm ăn có chỗ ở” trước. Lúc đó Lý Toàn Hữu và chú lính Vương Phố Sinh còn chưa biết nhau.

      Dưới dẫn đường của bốn lá cờ trắng, đoàn tù binh Trung Quốc lặng lẽ đường cái. Cứ mười mét lại có người lính Nhật cầm súng áp giải, có lúc thò ra viên thông ngôn Trung Quốc, với tù binh: “ sát vào! nhanh lên!” Mỗi lần gặp Hán gian, lại có vài người tù binh hỏi: “Người Nhật định đưa chúng tôi đâu?”

      biết.” Hán gian trả lời như vậy, bộ mặt vô hồn y như những người lính áp giải.

      “Phía trước có cơm ăn nước uống ?” tù binh nào đó hỏi.

      “Sao lại ?” Hán gian .

      “Người Nhật đánh giết chứ?”

      giết! nhanh lên!”

      Đúng là có số tù binh chui đầu vào ngõ cụt mà còn giữ mấy tờ truyền đơn, thấy Hán gian lại móc ra cho chúng xem, niềm hy vọng của họ có căn cứ hẳn hoi, phải viển vông, phải cầu người Nhật thực lời .

      Những tù binh chuyện với Hán gian mau chóng trở thành trạm chuyển tiếp: “ giết chứ?”; “Họ giết…”; “Có cơm ăn chứ?”; “Họ có.”

      Truyền mãi truyền mãi, lời cứ theo ý nguyện: “Sắp có cơm ăn rồi! quãng là đến! Người Nhật bao giờ sát hại tù binh!…”

      Lại tiếp thôi, chuyện ăn chuyện ở vẫn mù mịt, mấy phút trước đám tù binh có vẻ tin lắm bây giờ lại thấy chơi vơi thế nào. Họ quay sang thăm dò: “Vừa rồi cậu nghe ai có cơm ăn?” “Cậu chứ ai!”; “Tôi à? Tôi bảo chắc là sắp chia cơm…”, “Thử tìm thông ngôn hỏi lại xem!”.

      Đến hơn 11 giờ trưa, sương mù tan, họ đến khu xưởng bị phá hủy. Viên sĩ quan Nhật và viên thông ngôn trao đổi mấy câu. Viên thông ngôn cầm cái loa sắt tây to với đám tù binh: “Sĩ quan và binh lính, xin tất cả tạm nghỉ chân để chờ lệnh cấp .”

      người lính Trung Quốc đánh bạo hỏi to: “Ăn cơm ở đây à?”

      Viên sĩ quan Nhật ánh mắt như thép lạnh rọi thẳng vào mặt người vừa . Tất cả tù binh Trung Quốc thấy tim mình lạnh ngắt, chẳng có vẻ gì là có cơm ăn có chỗ ở cả.

      Họ thấy thành phố họ qua trước đây hai ngày bây giờ vắng lặng trống rỗng đến rợn người.

      Viên thông ngôn lãnh ý sĩ quan Nhật, lại với các tù binh Trung Quốc: “ ăn cơm tại bờ sông, sau đó có thuyền đưa các vị sang đảo để khai hoang trồng trọt. Từ nay lương thực của quân đội Nhật do các vị cung cấp…”

      Tất cả đều yên tâm trước thông báo đó. Dù sao đó là những điều tin được, ít nhất cũng biết được bước sau của mình, cho dù đói đến mức đứng vững nữa nhưng tinh thần cũng khá hơn. Viên thông ngôn lại : “Trong khi ở đây chấn chỉnh hàng ngũ, tất cả nên chịu đựng chút, phối hợp với sĩ quan và binh lính quân đội Nhật, để cho họ trói tay lại…”

      Tiếng loa vẫn oang oang, binh lính Trung Quốc bắt đầu nghi hoặc: “ yên lành, trói ta lại để làm gì?!”

      “Họ có súng, ta tay , sao lại phải trói?!”

      chịu!”

      Tiếng ồn ào nổi lên.

      viên sĩ quan Nhật hét lên tiếng, tất cả lưỡi lê tuốt trần trong tư thế sẵn sàng đâm giết.

      Binh lính Trung Quốc yên lặng, đội hình co lại chút.

      Cái loa sắt lại truyền đạt ý của viên sĩ quan: “Trói lại vì sợ mọi người tôn trọng kỷ luật, mất kiểm soát, thuyền sông, lộn xộn là rất nguy hiểm, quân đội Nhật hoàng phải đảm bảo cho an toàn của các vị.”

      Giọng tên Hán gian khản đặc lại nhưng vẫn chưa xua tan được mối nghi hoặc trong đám tù binh Trung Quốc.

      tù binh hét lên: “Trói lại đến bờ sông ăn uống thế nào?”

      Viên thông ngôn trả lời được. Tất cả đều bị câu hỏi đó làm thức tỉnh, đúng đấy, người Nhật đến đó ăn cơm kia mà? Tại sao lại trói để lên thuyền có trật tự? Trói tay cầm bát thế nào, dúm lính Nhật thế kia, đủ người để bón cơm cho ta à? Cứ cho là tin họ tin câu nào của họ?

      Viên sĩ quan Nhật đến bên viên thông ngôn hỏi tù binh Trung Quốc lộn xộn cái gì? Viên thông ngôn mỉm cười lại cái kế hoạch trước sau mâu thuẫn của .

      Viên sĩ quan suy nghĩ giây lát, thầm gì đó với viên thông ngôn. Tiếng loa lại vang lên: “Các binh lính Trung Quốc, trung tá thấy các vị có lý, ông ấy nghĩ chưa hết. Bây giờ thế này, mọi người hạ trại ở đây, chờ liên hệ được với bộ phận cung cấp thực phẩm thông báo tiếp để mọi người biết.”

      Lý Toàn Hữu và các chiến hữu bị áp giải đến bãi trống của nhà máy, năm ngàn người nhét chật cứng trong ngoài nhà máy, có muốn vươn vai, ngủ gục chút xíu cũng được. Mệt và đói quá mức khiến họ ngồi mà ngủ thiếp . Khi trời tối, họ lục tục tỉnh giấc, chẳng ai còn sức đứng dậy nữa.

      Lý Toàn Hữu có vị trí sát tường, cách ta xa là chiếc lưỡi lê dài, đưa mắt dần lên phía nhìn, đó là bộ mặt trống rỗng vô hồn. Người lính Nhật mười tám, mười chín tuổi. Lý Toàn Hữu hỏi: “Nước, có nước ?”

      Người lính Nhật nhìn ta như nhìn con lừa hay đồ vật gì đó.

      Lý Toàn Hữu làm động tác uống nước, trong bụng nghĩ, đến cái ghế gỗ cũng khô cứng như người lính này.

      “Uống nước!…” tù binh khác cũng có nhu cầu như Lý Toàn Hữu, vừa ra hiệu vừa chậm hai tiếng Trung Quốc, cứ làm như chữ Trung Quốc đọc chậm ra chữ Nhật vậy.

      Người lính Nhật vẫn câm lặng, đứng im.

      Mấy người tù binh cùng : “Nước! Nước! Nước…”

      Lý Toàn Hữu : “Vờ vịt làm gì, thằng khốn kiếp? Nó hiểu đấy! Cơm cho, nước cũng được hớp!”

      “Nước! Nước!…”

      Thêm nhiều người kêu.

      Viên sĩ quan gầm lên tiếng, súng lên đạn rào rào.

      Tù binh Trung Quốc khẽ với nhau: “Lẽ ra nên chui vào cái nhà máy này, có chơi nhau với chúng phen cũng khó!”

      “Liều nên liều từ sáng rồi, khi đó bụng chưa rỗng như bây giờ!”

      “Biết thế liều từ tối hôm qua, ta bao nhiêu là người, bao nhiêu là súng!”

      “Nên biết rằng người Nhật có dúm này thôi. Mặc kệ truyền đơn! liều là xong!”

      “Thôi , lúc đó liều, bây giờ ân hận làm đếch gì!” Lý Toàn Hữu kết luận.

      Viên thông ngôn lại xuất : “Các binh sĩ Trung Quốc, vì khâu cung cấp hậu cần gặp trắc trở, đành phải chịu đựng chút nữa, qua sông lên đảo ăn cơm.”

      “Chắc có cơm ?”

      “Ngài trung tá bảo đảm với các vị! thỏa thuận với bộ phận hậu cần đảo, chuẩn bị bánh bao cho năm ngàn người ăn!”

      “Bánh bao cho năm ngàn người ăn!” Các tù binh Trung Quốc bàn tán xôn xao. Lúc này con số cụ thể bất kỳ đều tăng thêm độ tin cậy của thông tin.

      biết mỗi người được mấy cái?”

      “Có đủ no ?”

      “Thuyền bao lâu mới đến đảo?”

      Viên thông ngôn : “Cho nên tàu thuyền chờ ở bến rồi, bây giờ xin các vị phối hợp, xếp hàng ngay ngắn ra …”

      Binh lính Trung Quốc hầu như dốc chút sức còn lại để đứng lên, ai cũng phải mất đến ba bốn giây quay qua quay lại mới đứng vững được, ai cũng đầm đìa mồ hôi mặt lưng. Khi họ ra khỏi khu nhà máy đổ nát, viên thông ngôn với vẻ nhõm: “Xin mọi người phối hợp, đưa hai tay cho quân Nhật trói, để đảm bảo lên thuyền trật tự, chỉ xin mọi người nhẫn nhục chút!….”

      Trong ánh hoàng hôn nhìn hàng lưỡi lê có vẻ như dày đặc hơn. Mấy chục chiếc đèn pin rọi loang loáng vào mặt tù binh Trung Quốc. Hán gian vẫn tiếp tục : “Chỉ là phòng xa thôi, có bất trắc xảy ra bị rối loạn, xin mọi người chớ nên hiểu lầm!”

      Lý Toàn Hữu có cảm giác thâm nghiêm của người Nhật và thân thiện của viên thông ngôn có gì đó tương xứng. ta còn đủ sức để suy xét nữa. Cả ngày đói khát, sợ hãi, lo lắng biến ta thành cái ghế gỗ biết .

      Lại hành quân thêm giờ nữa, khi nghe thấy tiếng sóng trăng cũng mọc lên, đội ngũ hàng hai biến thành hàng , dần dần tiến đến bờ sông. Khi những người tù binh cuối cùng đến bờ sông trăng lơ lửng cao, tỏa sáng vằng vặc.

      Các tù binh Trung Quốc bị trói giật cánh khuỷu, đứng ở men sông, có người hỏi: “Tàu đâu? Tại sao chẳng có chiếc tàu nào thế này?”

      Viên thông ngôn biết biến đâu, mọi người đành hỏi nhau: Chắc là lát nữa đến, đây phải là bến tàu, cập bờ được, có thể tàu đỗ ở bến bên cạnh.

      Gió sông cuốn theo những hạt nước li ti quật tơi tả vào năm ngàn tù binh Trung Quốc.

      “Thế ta ở đây làm gì?”

      “Đợi thuyền à?”

      “Sao bảo thuyền đợi ta kia mà?”

      “Ai bảo thế?”

      “Cái tay Hán gian thông ngôn đó.”

      “Nó như cứt! Ở đây có bến, tàu đỗ làm sao? Tất nhiên phải đỗ ở bến bên cạnh, chờ ta sẵn sàng lên mới chạy đến đây.”

      “Thế tại sao để ta lên tàu ở bến?”

      Câu đó làm câm tịt mọi điều tranh luận. Người hỏi câu đó là Lý Toàn Hữu, tiểu đội trưởng, 21 tuổi, biết chút chữ nghĩa và có đầu óc. Thấy nỗi hoảng sợ lên trong mắt trung đội trưởng, vừa đặt chân đến bờ sông tiểu đội trưởng Lý Toàn Hữu quan sát địa hình, đây là bãi sông hình chữ U, chỗ lõm hướng ra mép sông, ba phía có địa thế đất cao bao bọc, con đường từ chỗ đất cao xuống bãi sông rất dốc, lại hẹp, đó là lý do tại sao lính Nhật bắt tù binh Trung Quốc từ hàng hai chuyển sang hàng . Tàu chở đầy người ai lại đỗ ở đây. có chuyện đó được. Tiểu đội trưởng Lý Toàn Hữu nhìn lên ba cao điểm, đó đứng đầy lính Nhật, ánh trăng chiếu vũ khí của của họ, cách quãng lại có khẩu súng máy hạng nặng. “Thế này là thế nào? Còn đợi gì nữa?”

      Chẳng có ai trả lời, có những người đứng nổi nữa, ngồi bệt xuống, đói khát khiến họ quy phục, phó thác tất cả cho ông trời.

      Cứ thế chờ, mặt trăng lơ lửng dần sang phía bên kia vòm trời, vẫn chờ, tàu vẫn thấy đâu. Đôi chân vốn lạnh cóng, tê dại bây giờ như tồn tại nữa.

      “Mẹ nó chứ, biết thế này lẽ ra cho chúng trói!”

      “Đúng thế, nếu tay chưa bị trói, có thể liều phen!”

      truyền đơn có cả tên sĩ quan tư lệnh của họ kia mà!”

      “Đợi đến bao giờ nữa đây? chết rét cũng chết đói!”

      Lý Toàn Hữu nhìn lính Nhật ba cao điểm, có vẻ chúng nó cũng chờ, khẩu đại liên cũng chờ. Nhìn trăng sao đoán bây giờ khoảng canh ba.

      Đến canh tư, trong đám tù binh Trung Quốc có người hóa điên. Thương binh dựa vào nhau mà nằm, có chỗ mấy người đắp chung cái áo cái chăn, nghêu ngao: “Cái rét canh ba cắn thịt cắn da đau nhức nhối, cái rét xé rách thịt rách da. Chỉ có cậu lính trẻ con là ngủ say như chết, đó là Vương Phố Sinh”.

      Vương Phố Sinh nằm cách Lý Toàn Hữu bảy tám người. Thương binh được chút ưu đãi: bị trói.

      Lý Toàn Hữu lại nhìn lên, nền trời sáng hơn chút, chiếu vào bạt ngàn những chiếc mũ sắt sáng xanh. Lý Toàn Hữu vừa quay lại nghe tiếng động rất , đến nỗi ta hiểu có phải ảo giác hay . thanh đó là cái vung tay mạnh của viên sĩ quan cầm kiếm – tiếng lưỡi kiếm cắt đôi luồng gió. Lý Toàn Hữu là người lính khôn ngoan và láu cá, biết đánh đấm và cũng biết lẩn tránh khiến ta đánh nhau đến ba mươi tuổi vẫn còn nguyên râu nguyên tóc.

      Đúng lúc nghe thấy tiếng động , ý nghĩ lóe lên, ta nằm rạp ngay xuống trước tiên. Vậy là ta dựa dẫm ai cả, nhất là trông cậy vào lòng dạ đen tối của địch, ta lờ mờ nhận ra mình cùng năm ngàn em vào cái thòng lọng của người Nhật. Cái thòng lọng chăng ra có mục đích gì ta đoán mãi ra, nhưng ta biết thắt lại. Kẻ chăng thòng lọng tất nhiên thể có ý định tốt lành, vì thế khi nghe tiếng động , ta lập tức nhìn quanh. Lý Toàn Hữu đứng cách mép nước ba bốn chục thước(11), hy vọng thoát theo hướng đó, ta để ý chỗ đất trũng ngay sát bên chân.

      Lúc này ai cũng nghe thấy tiếng cọ xát của sắt thép. Có người hỏi: “Chúng nó làm gì?”

      Trả lời ta là mười mấy khẩu súng đại liên đồng loạt nhả đạn. Còn Lý Toàn Hữu lao mình vào chỗ đất trũng.

      Thân hình chiến hữu đổ xuống đè lên, người giật giật, lập tức lưng Lý Toàn Hữu nhầy nhụa máu và óc. thân người nữa đổ vật xuống, theo mặt dốc lăn về đất trũng, cuối cùng Lý Toàn Hữu cảm thấy bụng dưới mình bị đè quá nặng. Con người sắp chết có sức mạnh kinh khủng, thân người đè lên ta liên tục cong mình lên và lặp lặp lại nhưng thấp dần rồi nằm yên. Lý Toàn Hữu mới hiểu, ra nội tạng con người cũng biết kêu gào, thân người cong rướn lên từ trong nơi sâu thẳm phát ra những thanh thê thảm ghê rợn đến cùng cực.

      Tiếng súng kéo dài rất lâu, những xác người thân Lý Toàn Hữu vẫn liên tiếp bị giết giết lại cách cần thiết. Mỗi khi trúng đạn, cái xác lạnh dần như sống lại, cựa cái, rung động truyền thẳng đến thân thể Lý Toàn Hữu, lan tỏa ra tri giác và hồn phách khiến ta cảm thấy mỗi lần rung lần mình dính đạn.

      Bốn bề yên ắng trở lại, máu chiến hữu người Lý Toàn Hữu và những xác chết đông cứng lại, lính Nhật từ cao điểm xuống. Họ muốn mở lối giữa bãi đầy xác người nhưng rất khó khăn, có những đôi bốt giẫm thẳng lên xác người. Họ càu nhàu chuyện gì đó, có thể vì máu và bùn đất làm hỏng đôi giày. Họ vừa vừa dùng lưỡi lê, mũi giày hất xác binh lính Trung Quốc, những người hôm qua còn tin rằng sắp được ăn bánh bao và cá hộp! Những con em nhà nông Trung Quốc tốt bụng và cả tin bị nhử vào bẫy như thế đó. Những người lính Nhật tán gẫu và ngáp, nhân thể tìm những cái xác còn chút sức sống để xỉa vài nhát. Lý Toàn Hữu nghe thấy chúng vừa chuyện vừa đến.

      Lý Toàn Hữu cảm thấy bên chân lạnh vì gió từ phía sông thổi vào, vậy là nó bị hở ra, mong sao lính Nhật tưởng là chân của cái xác và bỏ qua. Mấy phút sau, người lính Nhật nhìn đúng cái chân lộ thiên đó, “bụp” cái, mũi lê xuyên ngập vào lớp thịt dầy, cơ bắp co giật theo bản năng khiến chiếc lê hơi khó rút ra. Lý Toàn Hữu cắn chặt hàm răng thép làm như cái chân hoàn toàn mất tri giác đó là của xác chết, cựa quậy chút là ăn đạn ngay. Nhát đâm thứ hai ngay sát nhát trước, mũi lê xuyên qua thịt vào đến lớp xương tạo nên thanh chính Lý Toàn Hữu nghe thấy. Toàn thân Lý Toàn Hữu là cái thùng loa, thanh đó vang lên to gấp mấy lần rồi truyền lên não. Tiếng ma sát giữa sắt thép và thể xác con người gây tiếng nổ trong đầu, toàn bộ tri giác, ký ức, tư duy bị xóa sạch chỉ trong khoảnh khắc. đứt đoạn đó khiến vùng sáng trắng trong đầu óc Lý Toàn Hữu xuất và lan dần ra, lan đến toàn thân…

      yên tĩnh tuyệt đối khiến Lý Toàn Hữu tỉnh lại, ta biết mình ngất bao lâu nhưng biết mình còn sống, cơn đói khát qua , sức lực toàn thân được hồi sinh.

      ta chờ cơ hội, chờ cho trời lại tối mới chậm chạp cựa mình. Bình thường thể nào làm được, người lính bãi huấn luyện độ khó cao cũng thể thực được, hai tay bị trói, chân tê liệt, mọi động tác lật mình đều trông cậy vào bên chân.

      Mất khoảng giờ đồng hồ mới có thể từ nằm sấp chuyển thành nằm nghiêng, tư thế này tiện hơn, có thể dùng bên vai bên chân để bò, Lý Toàn Hữu cẩn thận dịch chuyển, cố gắng từng li , vì chắc lính Nhật rời khỏi đây hay chưa. Trời lúc tối đen, dịch chuyển càng chậm vết thương càng đau, Lý Toàn Hữu luôn luôn phải dừng lại lau mồ hôi chảy vào mắt, từ chập tối đến giờ mới bò được năm sáu mét, ta mò ra bờ sông, muốn gì muốn cũng phải uống đầy bụng nước rồi mới tính tiếp.

      Lý Toàn Hữu dừng lại vì nghe thấy tiếng người, toàn thân ta lạnh toát, lẽ nào lính Nhật còn để người lại trông xác? Lý Toàn Hữu dám thở mạnh, lắng nghe, ra tiếng Trung Quốc: “Tôi… là… thương binh Vương Phố Sinh…”

      Lý Toàn Hữu tìm, bốn bề chẳng còn ai sống sót, tiếng lại cất lên nho : “Cứu… tôi…”

      ta nghe ra tiếng trẻ con, nay bắt trẻ con lính rất nhiều. Đứa bé trai tiếng kêu lên như tiếng dế và nghĩ rằng xa mấy dặm cũng nghe thấy.

      Lý Toàn Hữu tìm thấy Vương Phố Sinh, người cũng bị các xác chết đè lên, cậu ta bị nhát đâm vào bụng nếu có cái đùi xác chết gác lên cái bụng vỡ toang rồi. Nhìn đôi môi cậu ta mấp máy sau lớp băng quấn, Lý Toàn Hữu biết rằng cậu ta đau lắm, khóc ra nước mắt bèn : “ được khóc! Khóc tao đưa mày ! Mày phải biết chúng ta cao số lắm, trời thương lắm mới còn sống sót!”

      Cậu lính im tiếng. Lý Toàn Hữu bảo cậu tìm cách cởi trói cho mình. Vất vả đến hơn tiếng đồng hồ, nhiều lần định bỏ cuộc, cuối cùng cũng cởi ra được. Bây giờ có chân hai tay, dễ dàng hơn nhiều. Lý Toàn Hữu bò ra mép sông, xác người tạo thành cái kè chắn, ta phải đẩy xuống nước rồi uống đầy bụng nước sông tanh đến xóc óc, sau đó nhúng đẫm chiếc mũ bông, bò về. ta vắt nước vào miệng Vương Phố Sinh. Như đứa trẻ khát sữa, cậu bé hai tay chộp lấy cái mũ mút lấy mút để.

      Hai người nằm sát vai nhau, mỗi người tẩu thuốc bên mép. Tẩu lúc nào Lý Toàn Hữu cũng có trong người, ta mò xác chết kiếm cho Vương Phố Sinh cái.(12)

      Mười lăm tuổi đời, lần đầu tiên Vương Phố Sinh hút thuốc lấy từ túi thuốc của xác chết. Điều này cậu ta chẳng thể nào tiên liệu được. Muốn được như Lý Toàn Hữu , hút thuốc vào tỉnh táo hơn, cậu ta bắt chước Lý Toàn Hữu hút nhưng vừa hút vừa nhổ.

      Lý Toàn Hữu : “Người ta uống nước ba ngày chết, có đủ nước sống khỏe.”

      Thời gian hút túi thuốc bãi xác người bằng nửa đời người, hút hết túi thuốc Lý Toàn Hữu cảm thấy Vương Phố Sinh là gánh nặng và ta thể bỏ lại, nhưng đem theo người lòi ruột để thoát thân mà bản thân mình cũng lành lặn, điều đó hầu như thể được. Trong khi hút thuốc, Lý Toàn Hữu vẽ ra con đường , bãi sông ba phía đất cao, chỉ có phía có thể bò lên được. Người Nhật chọn nơi này là có tính toán, ở đây dễ xử lý xác chết, đẩy hết xuống sông là xong.

      Lý Toàn Hữu mò được trong túi đại đội trưởng gói thuốc cấp cứu, lôi ra bông băng, ống thuốc kem, đoán là thuốc sát trùng chống viêm, ta bôi thuốc lên bông rồi đắp vào vết thương của Vương Phố Sinh. Cậu bé kêu ối tiếng.

      Lý Toàn Hữu “Nhìn lên trời kìa, máy bay đến!”

      Nước mắt giàn giụa, Vương Phố Sinh nhìn lên trời, đoạn ruột lòi ra của Vương Phố Sinh được Lý Toàn Hữu ấn nhanh vào trong bụng.

      Lần này Vương Phố Sinh kịp kêu ngất lịm .

      Lý Toàn Hữu nghĩ, may mà đói hai ba ngày ruột sạch nhẵn khả năng nhiễm trùng cũng ít hơn. Lý Toàn Hữu ngồi bên cạnh chờ cho Vương Phố Sinh tỉnh dậy dẫn cậu ta . Nếu Vương Phố Sinh tỉnh lại ta mình.

      Hơi thở của Vương Phố Sinh rất yếu, thoi thóp như muốn tắt. mấy lần lấy ngón tay đặt lên miệng cậu ta còn cảm thấy hơi nóng ở phả ra nhưng sờ ngực thấy tim vẫn đập nhè .

      Lý Toàn Hữu biết rằng càng chờ khả năng trốn thoát càng ít, bọn địch đến xử lý mấy ngàn xác chết này, có thể sớm mai chúng đến. Vậy mà cậu lính trẻ này vẫn tỉnh dậy. Lý Toàn Hữu phát đôi tay mình nắm chặt, phải vì đau đớn mà vì sốt ruột.

      Có thể Lý Toàn Hữu dao động, muốn bỏ cậu bé Vương Phố Sinh để đào thoát mình, nhưng khi kể lại cho Đới Đào nghe, ta thừa nhận, ta bảo quyết thể thất đức như vậy được, Vương Phố Sinh giúp cởi trói cho mình, sao có thể bỏ cậu ta lại đó biết sống chết thế nào. ta coi giữ Vương Phố Sinh đến tận lúc trời tờ mờ sáng.

      Cuối cùng Vương Phố Sinh tỉnh lại, đôi mắt đen láy mở ra bộ mặt trắng bệnh như của xác chết. Cậu ta nhìn Lý Toàn Hữu nằm bên cạnh, hai người đắp chung cái áo bông cứng ngắc vì máu đông. Lý Toàn Hữu : “Cậu bé, ta phải thôi.”

      Cậu bé thều thào câu gì, Lý Toàn Hữu nghe .

      “Gì cơ?”

      Vương Phố Sinh lặp lại. Lý Toàn Hữu hiểu rồi, cậu ta bảo thà nằm chết ở đây chứ muốn đau đớn lần nữa.

      “Cậu bắt tôi chờ đêm à?”

      Vương Phố Sinh nài Lý Toàn Hữu chờ lát nữa, khi nào bụng đỡ đau nhất định .

      Nhìn trời mỗi lúc trắng dần, Lý Toàn Hữu khoác cánh tay Vương Phố Sinh lên vai mình, ta được rèn luyện đến nơi đến chốn, có thể bò chân, lưng còn cõng người. Cậu này nặng chưa đến gánh thóc, cũng dễ dàng hơn.

      Sương mù bốc lên từ mặt sông, tựa như đạn khói, lại càng tốt, quá tốt.

      Bò được khoảng tám thước nghe thấy tiếng bước chân. Lý Toàn Hữu nhờ màn sương che khuất vội chen vào giữa hai cái xác, tim vọt lên cổ, tưởng như há miệng nó nhảy ra ngoài.

      Tiếng chân vang lên trong vùng đất trũng ba bên là gò cao. phải tiếng giày lính, lại có tiếng : “…phải đến mấy ngàn người…”

      Tiếng Trung Quốc!

      “Vẫn chưa nhìn , sương mù dày quá, Bọn chó Nhật bắn nhiều lính Trung Quốc đến thế!”

      “Bọn chó Nhật ma quỷ hình!”

      Qua giọng biết rằng đây là mấy người đàn ông địa phương Nam Kinh, tuổi chừng bốn, năm mươi.

      “Ta có mấy người thế này làm bao nhiêu ngày cho xong?”

      “Bọn Nhật chó má!..”

      Than vãn, chửi bới… mấy người từ cao xuống.

      “Quẳng hết xuống sông hay lấp đất lên?”

      “Nhanh tay lên, khéo bọn Nhật đến bây giờ!”

      Mấy người cặm cụi làm như kiến gặm xương. Lý Toàn Hữu nghĩ, để lộ mình ra ngay bây giờ tốt hơn, vì bọn Nhật có thể xuất bất kỳ lúc nào, khi đó có mặt bọn Nhật họ có muốn giúp cũng giúp được.

      Thế là ta kêu lên: “Mấy ông ơi, cứu tôi với!”

      Tiếng im bặt, nghe cả tiếng sóng đập vào những xác người.

      “Cứu tôi với!…”

      người đến, thận trọng đặt chân vào những khoảng trống giữa những xác người chồng chất.

      “Ở đây!” Lý Toàn Hữu chỉ dẫn trong lớp sương dày đặc.

      Có người dẫn đầu, những người còn lại bạo dạn hơn, giữa biển xác người, họ dần đến chỗ hai người. Hầu như họ đồng thời cúi xuống khiêng Lý Toàn Hữu và Vương Phố Sinh lên chỗ đất cao.

      Người khiêng Lý Toàn Hữu “Yên lặng, gì cả! Trước hết phải tìm chỗ giấu các rồi tính sau.”

      Tới đỉnh dốc Lý Toàn Hữu mới nhìn ra, những người mặc đồng loạt quần áo xanh gi-lê đen này là lao công, lính Nhật trưng dụng để xử lý xác chết tù binh Trung Quốc bị giết hại cách bí mật.

      Sau khi làm xong công việc nhọc này, quá nửa số họ cũng bị giết chết, nhưng sáng sớm ngày 15 tháng 12 năm 1937 những đội viên đội chôn xác vẫn chưa biết rằng chờ đợi họ là cái chết thảm thương. Có những người bị giết, vì theo Nhật làm Hán gian loại mạt hạng, hoặc hoàn toàn do may mắn, số khác khôn ngoan hơn, làm với đồng lương khá cao, cảm thấy cái việc này chẳng hay ho gì và đột nhiên biến mất. Tóm lại, cá biệt mấy người trong đội chôn xác còn sống sót kể lại mọi chuyện cho những người như tôi – những người mệt mỏi, quyết truy cứu đến cùng kiện lính Nhật tàn sát dân thành Nam Kinh từ tháng 12 năm 1937 đến mùa xuân năm 1938.

      ngày sau khi mấy người lính xâm nhập nhà thờ, A Cố biến mất.

      Chú thích:

      (11) Tức khoảng hơn mười mét, thước Trung Quốc bằng 0,33 mét – ND.

      (12) Tẩu thuốc của người bình dân Trung Quốc là khúc tre dài độ hai gang tay, đầu tẩu nhỉnh hơn thân chút, khi hút túi thuốc con con vẫn treo lủng lẳng ở thân tẩu, khi nhổi thuốc, người ta cắm đầu tẩu vào túi thuốc và nhồi thuốc trong túi – ND.

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      9

      Sớm tinh mơ A Cố gánh nước, đến khi trời sáng vẫn chưa thấy về.

      Fabbi Atonado xuống hầm hỏi Trương Ngọc Mặc có cho A Cố biết đường đến hồ nước . Trương Ngọc Mặc rất , hơn nữa A Cố còn cũng biết, cái hồ đó thuộc từ đường của nhà giàu, để mùa hè thả sen.

      Fabbi : “A Cố ba tiếng đồng hồ rồi chưa thấy về!”

      Fabbi chọn lấy cái áo mới hơn chút trong hai cái, lấy khăn lau mặt. tìm A Cố, nếu chẳng may A Cố bị người Nhật gây khó dễ mặc thế này giúp có tư thế ăn hơn. thể tìm A Cố, chẳng còn ai gánh nước, trẻ tuổi như George Trần bị người Nhật cho là tù binh lôi bắn hay chém đầu ngay. Hai phóng viên người Mỹ vừa mới rời Nam Kinh rằng, lính Nhật xếp thành dãy những cái đầu lâu người Trung Quốc để chụp ảnh, trưng bày ở đất Nhật như chiến tích.

      Theo chỉ dẫn của Trương Ngọc Mặc, Fabbi theo con đường lên phía bắc, đến ngõ thứ hai rẽ vào, đến tận cuối ngõ. Cảnh tượng phố vẫn như lần trước ta thấy, tường đen nhiều hơn, có nhà còn nữa, bảy tám con chó chạy nhông nhông qua bên cạnh. Bốn ngày nay lũ chó béo lên, lông óng mượt. Cứ thấy lũ chó xúm xít lại chỗ nào là nhìn chỗ khác, vì ở đấy tất phải có cái xác người bị xé tanh bành.

      Fabbi tay xách cái xô, sẵn sàng quật vào lũ chó quen ăn xác chết có thói thích ăn thịt người sống. Ra khỏi ngõ, ta thấy hàng loạt tường đổ. Sau chỗ khuyết nhìn thấy hồ nước lấp lánh dưới nắng sớm. Bên hồ, chẳng thấy người cũng chẳng thấy xác A Cố đâu. Biết đâu ta gặp may bỏ lại ông linh mục già với đồng lương còm mất rồi. Cũng có thể bị người Nhật bắt sung vào đội chôn xác rồi. Xác người ngày càng nhiều, số lượng nhân công xử lý cũng phải tăng lên theo.

      mặt hồ cọng sen khô nổi lềnh bềnh. Đây là bức tranh yên tĩnh và thanh bình mà Fabbi quen mắt từ lâu rồi. vục lấy nửa xô rồi xách về. Tí nước này cho mười mấy người là muối bỏ bể, phải dùng chiếc Ford cổ quí giá của linh mục Engman để chở nước thôi.

      Về đến nhà thờ, Fabbi dỡ ghế ngồi phía sau ra, nhặt nhạnh thùng, chậu, nồi xếp lên đó.

      Chuyến đầu tiên về. George Trần nấu nồi cháo to, mỗi người được chia bát cháo và đĩa dưa muối có mùi của giẻ lau, vị của bã rượu nhưng ai cũng cảm thấy được ăn món ngon hiếm có.

      Đám đàn bà dưới hầm và nữ sinh mấy ngày chưa đánh răng rửa mặt, bây giờ mỗi người cốc nước ngồi dưới mái hiên, nhúng khăn tay rửa mặt, còn lại súc miệng đánh răng.

      Trương Ngọc Mặc dùng chiếc băng buộc tóc nhúng nước cọ sau tai, cổ gáy. Có tí nước, tiếc dám dùng khăn tay, cởi cúc cổ áo, vẫn dùng băng buộc tóc thò sâu vào lau phần ngực. vô tình phát Fabbi nhìn như phát dại. bỗng thấy sởn gai ốc. sợi tình cảm len lỏi bò giữa hai người tựa như nhánh dây leo đội lên từ khe đá biết gốc ở đâu.

      Đến lần thứ ba lấy nước Fabbi mới phát tung tích của A Cố. đại đội lính Nhật đóng quân ngay trước hồ, chính họ bắn chết A Cố. Fabbi đoán đầu đuôi câu chuyện là A Cố gánh đôi thùng đến hồ nước gặp mấy người lính Nhật, họ muốn lấy hai cái thùng nhưng A Cố hiểu họ hò hét cái gì. Lính Nhật cảm thấy để cho người Trung Quốc này hiểu được mất công bèn đòm phát giết chết A Cố. này trúng đạn cắm đầu chạy nhưng thế nào lại chạy ra giữa hồ, hai viên đạn đuổi theo dìm chết ta.

      Cái hồ nước rất nông, Fabbi chở ba chuyến nước, xác của A Cố mới lộ ra trong bùn. Fabbi lội bùn đến đầu gối kéo xác ta vào bờ, kéo mãi kéo mãi, cảm thấy có người nhìn: Hơn chục lính Nhật xuất phía sau từ bao giờ, hơn chục mũi súng lăm lăm chĩa vào . Nhưng Fabbi quay mặt , những mũi súng lần lượt chúc xuống. Bộ mặt người da trắng khiến được đãi ngộ giống với A Cố.

      Lần này xe của Fabbi chở nước mà chở xác A Cố. Con người đen gầy trương lên béo trắng, linh mục Engman làm lễ tang đơn giản cho ta và chôn ở khu mộ sau nhà thờ.

      Bây giờ các nữ sinh biết rằng hai ngày nay uống nước ngâm xác A Cố, rửa bằng nước ngâm xác A Cố, George Trần dùng nước đó nấu cháo nấu mì…

      Thư Quyên cảm thấy ruột gan cuộn lên, hai bên hàm ê ẩm, rồi nôn thốc ra mật xanh mật vàng.

      xuống gác định ra ngoài thở hít khí mát mẻ cho đỡ buồn nôn.

      Bất chợt trông thấy Từ Tiểu Ngu, Tô Mạc, và Lưu An Na đứng trước lỗ thông hơi, bé này là trẻ mồ côi. Từ hôm Từ Tiểu Ngu phản bội Thư Quyên trước mọi người, Thư Quyên xa lánh, đêm nằm quay lưng về phía Từ Tiểu Ngu. Nhưng Từ Tiểu Ngu chẳng thiếu bạn thân, lập tức lấy Lưu An Na thế chỗ. Thư Quyên đoán nếu bây giờ bố Từ Tiểu Ngu đến đón con Từ Tiểu Ngu xin bố đón Lưu An Na chứ phải . Cho dù vậy, Thư Quyên vẫn quyết tâm sắt đá, chịu làm lành trước.

      Thư Quyên phát thấy mấy bạn xem cái gì đó. Từ lỗ thông hơi dài và hẹp cao hơn mặt đất hai thước nhìn xuống hầm kho có thể thấy lưng người đàn ông, tuy chiếc áo len Fabbi cho ta mượn vừa dài vừa rộng, vậy mà cổ và vai vẫn kín. Đây là người đàn ông có thể mặc bất kỳ quần áo gì cũng thành quân phục. Các nữ sinh đều biết viên thiếu tá 29 tuổi tên là Đới Đào, từng tham gia chặn đứng quân Nhật khi chúng tấn công Thượng Hải, suýt nữa đẩy lữ đoàn quân Nhật xuống sông Hoàng Phố. Linh mục Engman biết được điều đó khi chuyện với viên thiếu tá. Đới Đào rất ấm ức và khó hiểu với chuyện rút khỏi Thượng Hải và bỏ rơi Nam Kinh. Khi từ Thượng Hải rút về Nam Kinh, công bê tông cốt thép dựng lên theo chỉ đạo của viên tướng người Đức Falkenhausen được sử dụng lần nào, quân đội cứ thế lếch thếch chạy về Nam Kinh. Nếu cuộc rút lui qui mô lớn của quốc quân(13) là để bảo vệ dân, bảo toàn lực lượng quân đội quyết định của Hội đồng Bảo an về cuộc thương lượng ba ngày đình chiến giữa hai phía Trung Nhật để quốc quân an toàn rút khỏi Nam Kinh, chuyển giao thành phố cách an toàn cho phía Nhật, tại sao gặp phải cự tuyệt của Tưởng Giới Thạch? Kết quả là quân Trung Quốc ra tử thủ cũng chẳng ra rút lui, khiến quân tâm rối loạn. Linh mục Engman và Đới Đào cùng chung mối quan tâm đến đề tài này.

      Chú lính Vương Phố Sinh được các ả điếm choàng cho áo lông báo, băng y tế đủ, họ thay bằng các băng lụa màu. Cậu bé vốn đẹp trai biến thành con , cậu ta dựa vào tấm thảm, bên cạnh là Đậu Hoàn, mỗi người tay cầm nắm quân bài tú-lơ-khơ, tờ tạp chí cũ đặt ở giữa làm bàn chơi.

      Qua lỗ thông hơi nhìn được toàn cảnh nhà kho, ai vào “ống nhòm” các trông thấy người đó. Bây giờ là Trương Ngọc Mặc đến, gì với viên thiếu tá ai nghe thấy, cho dù Thư Quyên của tôi có căng thần kinh ra cũng nghe được gì. hơi thất vọng, thiếu tá Đới Đào lại đầu mày cuối mắt với loại đàn bà như Trương Ngọc Mặc khiến bé Thư Quyên 13 tuổi vô cùng đau khổ.

      Thư Quyên của tôi biết họ gì với nhau, cho nên tôi đành phải dùng trí tưởng tượng để lấp vào chỗ trống. Trong thời khắc quân Nhật say sưa với cuộc tàn sát những câu giữa ả điếm nổi tiếng với chàng sĩ quan trẻ tuổi, có chí lớn phải như thế này:

      “Lần đầu gặp tôi thấy quen quen,”

      “Chắc phải vậy? lại phải người Nam Kinh.”

      cũng phải người Nam Kinh chứ? ở Thượng Hải à?”

      “Ừ, sinh ở Tô Châu, ở Thượng Hải bảy tám năm.”

      “Gần đây Thượng Hải ?”

      “Có đến mấy lần kia.”

      với ai? Có với quân nhân nào ? Vào tháng bảy năm nay?”

      “Đúng là cuối tháng bảy, mùa nóng.”

      “Nhất định là ông sĩ quan đó đưa đến Câu lạc bộ Quân, tôi hay la cà đến Câu lạc bộ đó mà.”

      “Tôi làm sao mà nhớ được?”

      Ngọc Mặc cất tiếng cười, chứng tỏ nhớ rất nhưng được phép thừa nhận, danh dự và hòa thuận gia đình của ông sĩ quan nọ rất quan trọng.

      náo loạn hò hét của Hồng Lăng cắt ngang câu chuyện tâm tình của hai người.

      “Chúng tôi quê mùa lắm, chỉ có Ngọc Mặc Bách Lạc Môn ở Thượng Hải, chị ấy nhảy đẹp lắm.”

      Hồng Lăng trả lời Lý Toàn Hữu khi ta cầu ta nhảy cho xem.

      Tất các các ả đều tán đồng Hồng Lăng: “Ngọc Mặc mà nhảy tượng đất Bồ Tát cũng phải nhảy theo!…”

      “Đâu chỉ có nhảy theo, tượng đất Bồ Tát phải động lòng nữa!”

      “Ngọc Mặc mà nhảy tôi chỉ muốn bế ấy lên giường!”

      Câu ấy là của ả được gọi là hắc tinh tinh.

      Thiếu tá Đới : “Tiểu thư Ngọc Mặc, người em chúng tôi từ cõi chết trở về muốn tiểu thư nhảy cho xem, tiểu thư cũng nên nể tình chút chứ?”

      “Đúng đấy, sống ngày nào biết ngày ấy. Biết đâu tối nay người Nhật đến chúng ta chẳng ai có ngày mai cả.” Hồng Lăng .

      Lý Toàn Hữu cảm thấy mình đủ tầm để chuyện trực tiếp với Ngọc Mặc, ta chỉ vài câu với Hồng Lăng rồi nhe mấy cái răng bàn cuốc ra cười hề hề nhìn Hồng Lăng lại hộ ý của mình.

      “Ai chẳng biết Nam Kinh có Tàng Ngọc Lâu(14), trong đó có cất loại ngọc tên là Ngọc Mặc, mau mau cho các các em no mắt nào!” Hồng Lăng kêu gọi thay cho Lý Toàn Hữu.

      “Người già ngọc úa, làm sao nhảy được nữa!” Ngọc Mặc vậy nhưng vẫn đứng lên.

      Thư Quyên luôn luôn phải dịch người mới xem được Ngọc Mặc múa, lúc đầu chỉ nhìn thấy cái lưng vừa thon vừa dẻo như lưng con chồn nâu uốn éo gây với đôi vai và cặp mông, rồi sau đó thấy cả ngực và cằm, đó là mảng đẹp nhất của ta, hề rẻ tiền chút nào. Mái tóc dày đổ đống vai, khi nhảy, mái tóc điên hơn cả người.

      Thư Quyên phát ra mình ngồi xếp chân vòng tròn từ lúc nào, mông đặt nền đá ẩm lạnh ngắt, người nghiêng sang bên. bé khác béo hơn và cứng hơn chẳng ngồi được như thế. còn phát ra rằng, mấy bạn “xem ống nhòm” ở hai lỗ thông hơi bên cạnh còn ở đó nữa, có thể Từ Tiểu Ngu lôi cho Thư Quyên ở lại trơ trọi mình.

      Cặp mông tròn đầy rắn chắc của Ngọc Mặc nảy lên cuồn cuộn sau lớp áo lụa. Thư Quyên cảm thấy đó là động tác rẻ tiền. Thực ra biết đó là điệu Rumba rất phổ biến trong giao tiếp của lớp người như bố mẹ nhưng Ngọc Mặc múa khó coi. Cặp mắt rực lửa của ả điếm cao cấp cứ xoáy thẳng vào Đới Đào. Lúc đầu viên thiếu tá có nhìn đáp lại nhưng rồi chịu nổi, ánh mắt của chàng trai trẻ lộ ra vẻ xấu hổ và cam chịu đuối thế. Nhưng Ngọc Mặc kéo lại, đúng là cái hồn tinh bên trong lớp da thịt mỡ màng.

      Thư Quyên ngày càng thất vọng với Đới Đào. người đàn ông con nhà tử tế, biết này xuất xứ từ đâu, biết ta múa may quay cuồng chẳng dẫn đến cái gì hay ho mà còn đứng đấy cười cợt? những chẳng nên cười mà phải chỗ khác luôn . Như mẹ Thư Quyên dặn bố Thư Quyên rằng, khi thấy bất kỳ kẻ mạt hạng nào lộ ý đồ chèo kéo là người đàn ông như bố Thư Quyên phải bỏ ngay chút nể nang. Ban đêm Thư Quyên nghe tiếng bố mẹ cãi nhau hầu hết là vì “kẻ mạt hạng” nào đó, nhưng vẫn sao biết được “kẻ mạt hạng” là thư ký của ông, học trò của ông hay ca sĩ nào đó. Mong sao “kẻ mạt hạng” mà hàm răng trắng muốt đều tăm tắp của mẹ nghiền nát rồi nhổ ra đó mạt hạng đến mức như Trương Ngọc Mặc.

      Thư Quyên nhìn phía bên của Ngọc Mặc mà khâm phục: cơ thể con người mà kẻ mạt hạng này vặn được thành tám khúc, trông như con sâu.

      Bây giờ Ngọc Mặc lùi ra xa hơn, Thư Quyên nhìn thấy được toàn thân ta: mi mắt cụp xuống, mặt đỏ như say, mỉm cười chỉ ở đôi môi, giọng hát mượt mà ngân nga ca khúc để phụ cho múa, đôi chỗ hát lạc điệu vì lười biếng hay khê nồng do vừa ngủ dậy. Tóm lại, ca khúc đó khiến người ta liên tưởng đến người ú ớ mơ.

      ta lại lượn đến chàng sĩ quan, liếc nhanh môt cái rồi làn mi lại cụp xuống che cặp mắt sáng rực. Tôi có thể tưởng tượng bộ điệu của Trương Ngọc Mặc lúc đó, chắc phải mặc đồ nhung đen hay chiếc xường xám màu mận chín, làn da thiếu nắng trắng đến mức hắt ra thứ ánh sáng lành lạnh. ta đạt đến bậc ca kỹ năm sao phải có lý do, ta có dáng điệu thục nữ, đĩnh đạc khoan thai và đọc nhiều biết rộng, chỉ khoảnh khắc ánh mắt phóng ra tia sáng chói lóa cũng đủ để người đàn ông cảm nhận được cao sang gợi tình.

      Vậy mà Thư Quyên 13 tuổi của tôi chỉ biết ghen tức: Nhìn kẻ mạt hạng kìa, ưỡn ẹo ra làm sao!

      Ngọc Mặc di chuyển đến trước mặt Lý Toàn Hữu. này quê mùa thô lậu, tấm thân đàn bà lượn qua lượn lại cách có vài gang tay, chỉ được nhìn mà được đụng vào, với ta hành hạ. ta cười hềnh hệch che giấu cơn thèm khát điên dại. Chỉ có Đậu Hoàn vẫn vô tư chơi bài với Vương Phố Sinh, chơi mãi chơi mãi cuối cùng cậu lính trẻ con mới tí tuổi đầu cũng bị vũ điệu của Trương Ngọc Mặc bắt làm tù binh.

      “Ra bài !” Đậu Hoàn nhắc. Quay lại nhìn, ta phát phần khuôn mặt lộ ra bằng bàn tay sau lớp băng lụa sặc sỡ đủ màu hướng về phía Ngọc Mặc, ánh mắt găm thẳng vào ngực vào eo người đàn bà. Đậu Hoàn phát mạnh vào lưng Vương Phố Sinh.

      Cái đêm Lý Toàn Hữu và Vương Phố Sinh được đưa đến đây, Đậu Hoàn nhường đệm của mình cho Vương Phố Sinh. Khi rửa vết thương bụng cậu lính trẻ, Đậu Hoàn thấy Vương Phố Sinh gầy đến mức da bụng mỏng như tờ giấy, rách ra vết dài tấc rưỡi, vết thương như cái miệng đùn bọt đỏ, cái gì mềm mềm màu xám lộ ra. Lý Toàn Hữu kể rằng ta muốn nhét ruột cậu lính vào nhưng hãy còn ít ở ngoài, phải chờ Fabbi Atonado hay linh mục Engman mời bác sĩ ở khu an toàn đến xử lý. Từ hôm đó Đậu Hoàn trở thành hộ lý riêng của Vương Phố Sinh, cho ăn cho uống, dọn cứt dọn đái.

      Vương Phố Sinh bị phát cái, định thần lại nhoẻn miệng cười nhìn ta.

      Theo Thư Quyên tả lại, tôi tưởng tượng Vương Phố Sinh là đứa bé mắt to miệng rộng vùng An Huy, quê cách Nam Kinh hai trăm dặm, từ làm cho nhà giàu, cho nên quân đội đến mộ lính, nhất định những người như cậu ta phải vì chẳng có ai bảo lãnh cả. Tối 16 tháng 12 năm 1937, cậu lính trẻ cười với tên là Đậu Hoàn, mép chui cả vào lớp vải băng. Đậu Hoàn nhìn mà đến thắt ruột. Hai người tuổi sàn sàn nhau, Đậu Hoàn chẳng nhớ mình mang họ gì, hình như họ Thẩm, người Hoài Bắc múa trống kiếm ăn gánh bán cho nhà chứa.

      Bảy tuổi đầu, Đậu Hoàn cực kỳ xinh đẹp, thuộc loại đầu ngu miệng vụng, lại xấu tính, chơi bài thua cáu, thắng đòi tiền. Làm năm, khách toàn loại phu kiệu, đầu bếp, lính tráng. Năm năm đòn roi học được ngón gảy đàn tì bà. Mặc quần áo toàn đồ thừa của chị em, chẳng cái nào vừa lại còn vá víu. Má mì bảo: “Con này chỉ biết ăn.” chẳng thấy động lòng, ngay: “Vâng, em chỉ biết ăn,” được mỗi cái tính là hợp ai hầu hạ người ta hết lòng hết dạ.

      Muốn làm quen với ai, : “Chúng ta là đồng hương mà!” cho nên thiên hạ đều là đồng hương của Đậu Hoàn, muốn nhận quà của khách hay của đồng nghiệp, : “Ôi, quên béng mất, hôm nay là sinh nhật của em!” Cho nên mỗi năm Đậu Hoàn có 365 sinh nhật.

      Đậu Hoàn hỏi: “Tại sao cứ nhìn ấy mãi thế?”

      Vương Phố Sinh cười: “Tại tôi chưa thấy bao giờ cả.”

      “Khi nào cậu khỏi hẳn em đưa đến vũ trường lớn nhất tha hồ xem.”

      Vương Phố Sinh : “Biết đâu ngày mai tôi chết.”

      Đậu Hoàn đập tay vào miệng Vương Phố Sinh và nhổ nước bọt chân di ba lần: “ dại! chết em cũng chết!”

      Câu của Đậu Hoàn bị Hồng Lăng nghe được, ta gào lên: “Kinh , chúng mình ở đây tòi ra Trúc Đài(15)

      Mọi người đều im lặng. Ngọc Sênh hỏi: “Ai đấy?”

      Hồng Lăng , hỏi Vương Phố Sinh: “Vừa rồi Đậu Hoàn với cậu cái gì?”

      Vương Phố Sinh mặt đỏ gay.

      Đậu Hoàn : “Đừng làm khó cho ấy, mới từng ấy tuổi đầu.!”

      Mọi người cười ầm lên vì câu lên mặt bà chị của Đậu Hoàn. Lý Toàn Hữu bảo: “Đậu Hoàn ơi, tại sao biết nó là đứa con trai?”

      Chỉ còn Ngọc Mặc là nhảy, mặt mỗi lúc đỏ thêm, cơn mê dại đắm đuối như tráng thêm lớp phấn cho đôi má.

      Ngay cả tôi 13 tuổi cũng mê mẩn.

      Viết đến đây, trong trí tưởng tượng của tôi, Ngọc Mặc chỉ mê dại đắm đuối mà còn hoài cựu. nhớ đến người đàn ông, người cuối cùng khiến khao khát đàn ông nhưng cũng khiến khao khát đó cạn kiệt, còn nữa. Người đó họ Trương, tên là Quốc Mô, nhưng người ta hay gọi ta là Thế Khiêu. Mấy đời nhà Trương Thế Khiêu đều làm nghề buôn bán, đến đời ông bà nội quyết định cho theo con đường học hành. Thế Khiêu học ở nước ngoài trở về Nam Kinh làm vụ trưởng trong Bộ Giáo dục. Đó là bộ mặt mà gia đình rải tiền ra để phấn đấu cho được. Nếu hôm đó Thế Khiêu tham gia “Đêm Đàn Ông” gặp Triệu Ngọc Mặc, nếu gặp Triệu Ngọc Mặc ta sa đọa. Nếu ta gặp những như Hồng Lăng, Đậu Hoàn chẳng thèm câu nào. Tất nhiên loại như các này làm sao mà vào được vũ trường sang trọng. Vũ trường China ở đường Trung Sơn lớn, biểu diễn Cabbalah đều là những ca thủ vũ công hạng nhất, vé nhảy cũng rất cao. Thường thường các tiểu thư công tử nhà giàu đưa cả nhà đến đó chơi. Đó là nơi Triệu Ngọc Mặc ôm cây đợi thỏ. Hôm đó Triệu Ngọc Mặc cực kỳ trang nhã, đeo chuỗi ngọc trai màu trắng, thoáng nhìn biết ngay là đồ , tay cầm cuốn tạp thi “ đại”. vào vai đến tuổi lấy chồng thậm chí là muộn chồng của đại gia. Hội của Thế Khiêu vừa bước vào thấy tiểu thư ngồi tay vịn thành ghế. Con mồi săn của đàn ông trong “Đêm Đàn Ông” là những tiểu thư loại này, trong đám họ, có người nghĩ chờ các bạn học hoặc đồng , có người lại nghĩ nghỉ chân sau khi nhảy mấy bài. Trương Thế Khiêu nhìn hai bạn đến mời nhảy, cả hai đều bật trở lại vì đụng phải đinh nằm sau nụ cười dịu dàng. Mọi người chọn Trương Thế Khiêu thử vận may.

      Thế Khiêu hỏi có thể ban cho ân huệ cùng uống cà phê, nhìn lên, e lệ nhưng vẫn đứng dậy. đứng thẳng chờ ta giúp cởi áo khoác như rất hiểu phép lịch phương Tây.

      “Quý danh tiểu thư?”

      “Em là Triệu Ngọc Mặc. Còn quý ông?”

      Trương Thế Khiêu tên và nghĩ, rất thanh lịch đàng hoàng. Khi uống cà phê chàng hỏi đọc gì. kể lại điều đọc được tạp chí. Tiêu đề các bài tạp chí “ đại” đều đại, chính trị, kinh tế, lối sống, sức khỏe, chuyện về các ngôi sao điện ảnh. Tuy đoan trang thanh nhã nhưng cảm thấy chỉ có vậy; thỉnh thoảng ánh mắt của lóe lên sáng chói khiến toát mồ hôi, lưỡi cứng lại, tim như phình to ra. Những người con từng bên cạnh Thế Khiêu là những người chưa bao giờ phát ra năng lượng của giống cái, hơn nữa họ rất coi thường những người đàn bà như thế. Theo truyền thống, đàn ông xây dựng gia đình cùng với người đàn bà là người vợ của mình nhưng về tâm lý và thân lý họ đều cảm thấy thiệt thòi quá lớn. Những người đàn ông từng trải hiểu người đàn bà giàu nữ tính đến đâu, lẳng lơ đến đâu khi lấy chồng là họ bóp chết đòi hỏi đáp ứng khát vọng về thể xác. Đưa cái đẹp của nhảy vào con nhà lành là tưởng, nhưng ngược lại đem nết hiền thục choàng lên nhảy để cho ta dùng tính cách hiền thục cư xử với bên ngoài nhưng dùng tính cách nhảy cư xử với riêng lại có thể được. Thí dụ như Triệu Ngọc Mặc. ta là người đàn bà có tính cách rất mạnh mẽ, ta có ít nhất vạn tính khí. Đối với tam giáo cửu lưu, có ngôn ngữ tác phong tam giáo cửu lưu(16). Từ biết mình đầu thai nhầm chỗ, lẽ ra phải là châu báu của gia đình quí phái. So với những cành vàng lá ngọc, còn kém chỗ nào? Tứ thư ngũ kinh(17) đọc, cầm kỳ thi họa thông hiểu, dòng dõi cha mẹ cũng thấp hèn, họ đều thuộc thế hệ đọc nhiều biết rộng, chẳng qua cha là bại gia chi tử mà thôi. Hơn mười tuổi, bị cha cầm cố cho ông chú họ trùm cờ bạc. Chú chết, thím bán vào thuyền hoa(18-).

      14 tuổi, Ngọc Mặc lãnh đủ sóng gió Tần Hoài, lệnh hầu rượu đều là những câu trong cổ thi nhưng nghe và đâu vào đấy. Năm 24 tuổi, gặp Trương Thế Khiêu, tính toán trong đầu: Chưa vội , quyến rũ ta cho quên nhà quên cửa hẵng hay. nhảy siêu hạng 24 tuổi tính kế lâu dài, đời ngắn lắm, chuốc rượu cho khách được mấy chén nữa đâu. Khi kể về thân thế hai người ở trong căn phòng của khách sạn. Thế Khiêu vừa mới biết làm đàn ông, nghĩ, ba mươi năm qua hoàn toàn bỏ phí. Nằm bên cạnh là lý tưởng của : đầy khát vọng thể xác bên trong cái vỏ thục nữ. Khi đó còn chưa biết Triệu Ngọc Mặc là ả điếm cao cấp, xuất sắc, chuyên nghiệp từ đầu đến chân.

      Kể về mình, trộn vào đó nửa dối trá, mười chín tuổi vẫn còn trong trắng, chỉ chuốc rượu, cặp nhảy, cho đến khi gặp kẻ phụ tình. Người ta hứa cưới, mới ngã lòng, mấy năm sau người ta cao chạy xa bay. tháo nhẫn cưới, ốm trận liệt giường tưởng chết. Người đẹp đầm đìa nước mắt ngả vào lòng Thế Khiêu, chẳng ai chịu nổi ánh mắt thấm đẫm những cay đắng cảnh đời, gì đến Trương Thế Khiêu trái tim mềm như bún và sẵn tấm lòng cứu nhân độ thế. Thế Khiêu những ghê sợ những điều Ngọc Mặc thổ lộ mà còn thề non hẹn biển, Trương Thế Khiêu đây quyết phải là người thứ hai phụ tình trong đời Triệu Ngọc Mặc.

      Người lật ra bộ mặt của Triệu Ngọc Mặc là vợ của Thế Khiêu. thấy trong túi áo vét của chồng có danh thiếp của chủ nhà trọ. Nghĩ mãi ra Thế Khiêu đến khách sạn làm gì, nhà thiếu gì buồng, khách sạn hay ho gì? Trương gọi điện cho nhà trọ. Mở đầu hỏi ngay: “Ông Trương Thế Khiêu có đấy ?” Chủ trọ thưa: “ Triệu đấy ạ”. Trương rất nhanh trí đóng luôn vai “ Triệu”.

      “Ừ, ừ…” và gì nữa.

      Chủ trọ : “Ông Trương bảo tôi nhắn với , ông ấy đến vào lúc 4 giờ chiều, trễ tiếng, xin cứ đợi trong buồng.”

      Trương chỉ cần nửa ngày là lật tẩy được Triệu Ngọc Mặc. Khi lật ra con chủ bài cho chồng thấy, Thế Khiêu khăng khăng ta phải điếm. Trương nhờ tất cả bạn bè của Thế Khiêu hộ, mới tin rằng cả Nam Kinh chỉ có Triệu Ngọc Mặc và là ả điếm nổi tiếng ở Tàng Ngọc Lâu sông Tần Hoài. Khi đó quá muộn. Tài ăn và kỹ năng giường chiếu của Triệu Ngọc Mặc khiến Thế Khiêu dính bùa mê. ta bảo Triệu Ngọc Mặc là người con xinh nhất và bất hạnh nhất đời, các kỳ thị ta, căm ghét ta vậy mà các vẫn cho mình là những người thuộc giới trí thức ư?

      Thực ra người đàn ông lãng tử như Trương Thế Khiêu quay đầu cũng chẳng khó gì, thôi cứ cay đắng mà nhấm nháp hậu quả, ấm ức mà chấp nhận thực tế, lòng dạ chăm sóc người già và con cái. Thế Khiêu ở châu Âu sáu năm, đức tính tốt đẹp nhất trong con người là chủ nghĩa nhân đạo, bao giờ làm tổn thương người khác, nhất là kẻ yếu, nhất là kẻ yếu từng bị tổn thương. Trương những dằn lòng chịu đựng mà con ốm lên ốm xuống, thở ngắn than dài, ánh mắt thẫn thờ tuyệt vọng, nhưng câu khiến Thế Khiêu khó xử, kể cả tối tối Thế Khiêu đâu cũng hỏi. Tất cả những cái đó khiến Thế Khiêu thông cảm. Ngọc Mặc vùng vằng giận dỗi, làm mình làm mẩy, trách móc làm cho còn thấy đáng nữa, chán ngán. Các cơ quan chính phủ có điều chuyển, trước đó Thế Khiêu từng chuộc thân cho Ngọc Mặc, mua vé tàu cho để lặng lẽ theo đến Trùng Khánh. Đêm trước hôm xuất phát, Thế Khiêu viết bức thư, bị thương trong trận oanh tạc của máy bay, chưa Trùng Khánh được, vợ đưa về quê miền núi Huy Châu dưỡng thương. Cùng với bức thư, gửi cho Ngọc Mặc hai lượng vàng và năm mươi đồng đại dương(19), bằng kẻ phụ tình trước tặng chiếc nhẫn kim cương. Vị quan chức tin vào điều được dạy rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng này coi Ngọc Mặc bằng hai lượng vàng và năm mươi đồng đại dương.

      Lúc này Thư Quyên của tôi ngộ ra rằng, biết đâu cha mẹ rời khỏi Nam Kinh là để cách ly “kẻ mạt hạng” nào đó rồi bỏ lại , Mỹ. Mẹ cãi nhau với bố mấy tháng, rồi thấy rằng chỉ có cách bỏ mới có thể cắt đứt tơ tình của bố với kẻ mạt hạng, bà bắt bố viết đơn xin cơ hội khảo sát bằng tiền riêng của mình, dù biết rằng cuộc “khảo sát” hoàn toàn vô ích và vô nghĩa. Lúc đó còn nghĩ rằng cuộc sống của bố mẹ có người đàn bà kiểu như Triệu Ngọc Mặc. Nếu có chiến tranh cha mẹ bao giờ để lộ ra trước mặt . Những gì để lộ ra trước kẻ mạt hạng, người đàn ông bao giờ để lộ ra trước mặt vợ con, đó là đức tính và cũng là nhược điểm của họ. Những người đàn bà đẹp sống gửi nhược điểm đó của đàn ông lúc này gây cho Thư Quyên mối thù hận. Lính Nhật chém giết đốt phá bên ngoài bức tường nhà thờ là kẻ thù, nhưng đối với bé 13 tuổi, cho đến lúc này, chúng vẫn là kẻ thù trừu tượng, mà những ả điếm xanh xanh đỏ đỏ dưới hầm kia, đối với Thư Quyên là cụ thể, là thù địch sờ sờ trước mặt. Đến như viên thiếu tá hùng chúng cũng bỏ qua, cũng khai thác nhược điểm của ta.

      Thế là quát vào lỗ thông hơi: “Bọn điếm! biết nhục!”

      Căn hầm bỗng im ắng.

      “Ai ở bên ngoài?” Ngọc Mặc hỏi.

      Thư Quyên né mình khỏi lỗ thông hơi, lưng tựa vào phía ngoài tường nhà bếp.

      “Bọn điếm thối tha! biết nhục!” đổi sang giọng khác. Dù sao bên trong cũng nhìn thấy .

      “Cho dù mày có phải điếm hay , bọn Nhật cũng coi mày là điếm!”

      Thư Quyên nhận ra giọng của Ngọc Sênh da đen.

      “Chúng mày tưởng chúng mày khác điếm à. Tụt quần ra như nhau cả!”

      Đó là giọng Hồng Lăng.

      Thư Quyên lai giả giọng: “Bọn điếm mặt dày!”

      “Chúng mày nghe đây, người Nhật thích điếm trẻ con! Linh mục Engman trông thấy mười mấy tên lính Nhật xếp hàng hiếp đứa bé , ông già cầu xin chúng rủ lòng thương, suýt nữa bị chúng bắn chết! Ai biết nó có phải ngọc ngà châu báu của bố mẹ hay !” Đó là giọng ả điếm có tên là Nan Ni.

      Thư Quyên phát mình hé miệng, lâu quá rồi chưa nuốt nước bọt. Điều Nan Ni ra có ? Nhất định phải, bịa ra như chuyện ma để dọa mình đó.

      “Khu an toàn cũng bị người Nhật lôi ra mười mấy chục đứa bé !” Hồng Lăng hoan hô có vẻ khoái trá.

      Thư Quyên nghĩ, ra cái đáng sợ chỉ là cường bạo mà còn ở chỗ trước cường bạo, đàn bà con đồng loạt như nhau, phân biệt sang hèn; bộ phận riêng tư thầm kín trong trắng nhất hoặc ô uế nhất của đàn bà đều bị coi như nhau, đều phải chịu cực hình.

      bỗng nhiên càng căm ghét lũ điếm này; chúng nó khoái trá chính ở chỗ cường bạo xóa nhòa ranh giới phân biệt cao sang với hèn hạ. Thư Quyên xúc xẻng tro từ phía sau bếp, trong đó còn những đốm than hồng. đến trước lỗ thông hơi, ước lượng: Cứ cho là chỉ nửa chỗ tro này rơi vào trong lỗ có mấy cục than hồng rơi trúng mặt bọn mạt hạng sống bám vào nhược điểm đàn ông, như vậy cũng đủ cho hả dạ và ít nhiều cũng giúp cho các bạn mình trút cơn tức giận. Nếu bọn này vào đây chỗ nước rửa tội đủ để mười sáu đứa sử dụng. Chính vì bọn điếm ăn cắp nước để giặt giũ, để rửa mặt, rửa đít, và các bạn mới phải uống nước ngâm xác A Cố, nếu như đủ nước A Cố phải gánh nước và bị bắn chết… Khi chúng nó leo tường vào, cái nhược điểm đàn ông của A Cố bị chúng nó nắm lấy cho nên ta mới trở giáo, mở cửa cho chúng nó vào.

      Bây giờ đến vị hùng trong mắt , thiếu tá Đới Đào cũng dùng nhược điểm của mình để chiều chuộng chúng, chấp nhận chúng. Thiếu tá buông tuồng suồng sã, ta sẵn sàng chịu đựng đau đớn của vết thương để cho mụ điếm nổi tiếng ôm ấp.

      Thư Quyên phát Ngọc Mặc ôm viên thiếu tá vừa đung đưa vừa thỉnh thoảng nhìn lên lỗ thông hơi, ta biết Thư Quyên chưa khỏi đó, ta như muốn ra oai với bé: Trong lúc mày chửi, Ngọc Mặc tao đây chinh phục tấm thân cao giá. ta cố tình cho Thư Quyên thấy rằng ta cũng có thể làm những trò đê tiện như Hồng Lăng, Đậu Hoàn cho xem. Triệu Ngọc Mặc tì cái cằm đẹp lên bờ vai rộng của viên thiếu tá, đôi tay mềm mại ôm lấy tấm lưng vạm vỡ của ta. Vết thương bị ta ghì chặt, ta đau đớn nhưng đau đớn cách tự nguyện. Đột nhiên ta tặng viên thiếu tá nụ cười tình tứ, chàng đành trơ trẽn đáp lại. Ngọc Mặc cảm thấy ngọn lửa dục vọng của ta bùng cháy, cái cười trơ trẽn của ta với rằng: gây họa rồi đó.

      Mọi người trong hầm đều biết ánh mắt hai người nhìn nhau có nghĩa gì. Họ đều cười khoái trá, chỉ có Vương Phố Sinh hiểu, cậu kéo tay Đậu Hoàn hỏi, họ cười gì. Đậu Hoàn ghé tai : “Chỉ có chú bé trinh trắng như mới hỏi ngớ ngẩn thế!” tưởng mình khẽ nhưng thực ra ai cũng nghe thấy, họ càng cười to.

      Thư Quyên nhìn độ dài chiếc xẻng, nghĩ xem làm sao hắt cho trúng hơn.

      làm gì ở đó?”

      Chiếc xẻng đầy tro rơi xuống. Thư Quyên quay lại nhìn, thấy Fabbi Atonado. “ định làm gì?” ta nhìn đống tro còn lập lòe mấy đốm than hồng.

      Thư Quyên trả lời, chỉ đứng tựa lưng vào tường, có bị giáo phạt cũng đứng thẳng đến thế. Fabbi cao lớn tất nhiên thể nhòm qua lỗ thông hơi được.

      Dưới hầm càng huyên náo hơn, bước nhảy nhanh hơn như muốn trêu tức kẻ vừa chửi họ là “đồ đĩ điếm”.

      Fabbi về phía cửa bếp. Thư Quyên biết ta đến chỗ đám người này để ngăn chặn, nếu ngăn chặn cái nghề làm ăn sông Tần Hoài lan vào nhà thờ. Fabbi vừa quay Thư Quyên lom khom cái lỗ thông hơi.

      Điệu nhảy của ả điếm cao cấp thay đổi, tư thế và thần thái trong xã giao thượng lưu còn nữa, Ngọc Mặc nhảy rất đàng điếm. Đó là điệu nhảy jitterbug(20) rất thích hợp với phóng đãng ma quái của . Nhảy đến gần ai Ngọc Mặc dùng vai hay khuỷu tay hích người đó. Khuỷu tay Ngọc Mặc hích vào Đới Đào, này sướng quên cha quên mẹ bật ra cái cười rất lính tráng. Triệu Ngọc Mặc thèm giữ gìn nữa, muốn khúc ruột cong queo bây giờ duỗi thẳng ra, biết kẻ chửi là đồ đĩ điếm vẫn là khán giả của , thế đàng điếm cho mà xem, cái đàng điếm của có người mua đấy, tất cả đàn ông trong thiên hạ ai cũng muốn mua.

      Thư Quyên thấy trong hầm bỗng im ắng, mọi người đều nhìn lên cửa thông lên bếp. Thư Quyên biết rằng Fabbi bảo mở ra.

      Ngọc Mặc chỉ dừng chút rồi lại nhảy tiếp. biết ai mở nắp hầm cho Fabbi. Khi Fabbi xuống đến hầm, Ngọc Mặc liếc nhìn và cười.

      Linh mục dùng tiếng : “Yên lặng!”

      biết gì, Hồng Lăng bảo: “Xin chào linh mục. Mời em nhảy cho ấm người ạ!”

      Về sau Thư Quyên biết được chính Tiểu Ngu, đưa An-na và Sô-phi mách Fabbi, muốn đến can ngăn những ả điếm “phục vụ bộ đội”.

      Fabbi dùng tiếng Giang Bắc ra lệnh như mọi lần mà chỉ dùng tiếng điệu Giang Bắc, nhắc lại: “ cầu dừng lại.” Da mặt vàng vọt yếu mệt, hoàn toàn vô cảm, tựa như tỏ cho những ả điếm biết rằng nếu có chút giận dữ còn là tôn trọng họ. biểu cao quý thần thánh, thản nhiên như vị thần nhìn đám dòi bọ.

      Quả nhiên, thản nhiên chút biểu cảm của Fabbi khiến mọi người co lại, Ngọc Mặc dừng lại trước tiên, tìm điếu thuốc đàn bà bị vặn cong queo châm vào ngọn nến, hít hơi dài. Đới Đào đến bên mượn thuốc châm điếu của mình.

      “Xin mọi người giữ tự trọng, chỗ này phải Tàng Ngọc Lâu, Mãn Đình Phương” Fabbi .

      “Ôi, thưa ông linh mục, ông rất rành những biển hiệu sông Tần Hoài của chúng em!” Nan Ni biết điều, vẫn còn nỏ mồm.

      Bọn đàn bà cười ầm lên.

      Fabbi đưa mắt về phía Triệu Ngọc Mặc, ý : ra thanh cao trang nhã của chỉ là đồ giả. Bây giờ bản tính của lộ ra, cũng tốt, đừng tiếp tục giả bộ với tôi nữa, và cũng đừng nghĩ chuyện tung mạng nhện ma lên đầu tôi nữa.

      “Xin lỗi, thưa ông linh mục, vừa rồi mọi người lạnh quá mới uống chút rượu nhảy nhót tí chút cho ấm người.” Thiếu tá Đới Đào giữ lòng tự trọng phân bua cho mình và cho mọi người.

      Fabbi : “Tình hình bên ngoài mỗi lúc tồi tệ, khi mới vào thành, lính Nhật chưa dã man đến thế này, bây giờ chúng giết người thèm chớp mắt. Chúng còn sục sạo khắp nơi tìm đàn bà, bắt được là…” nhìn Ngọc Mặc, đưa mắt sang nhìn Hồng Lăng và Nan Ni đầm đìa mồ hôi. bỏ lửng câu , tùy họ hiểu.

      ra đến lối lên, quay lại : “Đừng để người ta các người ‘Thương nữ bất tri vong quốc hận’.”

      Cặp mắt đen láy của Ngọc Mặc lại chiếu thẳng vào vị linh muc trẻ.

      Hồng Lăng tiếp lời bằng giọng Dương Châu: “Cách giang do xướng hậu đình hoa.”(21)

      “Hồng Lăng thêu gối đấy à!” ả cười to: “Trong bụng chỉ có cám bã mà có cả thơ!”

      “Em chỉ biết có hai câu đó.” Hồng Lăng lại cười.

      “Người ta dùng thơ chửi mình, mình phải học thuộc kẻo bị chửi mà biết.”

      Nan Ni : “Tôi chẳng biết gì, Đậu Hoàn chắc chắn cũng biết. Đảm bảo rằng ai chửi nó nó gảy tì bà cho nghe.”

      “Gảy cái con mẹ mày!” Đậu Hoàn .

      Fabbi : “Nếu các người tận mắt nhìn thấy Nam Kinh bây giờ thế nào, nhìn thấy số dân Nam Kinh mỗi phút mỗi giây lại ít dần , các người làm những điều đáng xấu hổ thế này.” xong quay người bước lên bậc thang, thiếu tá Đào thấy vương vướng trong cổ họng.

      Ra đến bên ngoài, Fabbi im lặng phẩy tay bảo Thư Quyên trở về căn gác.

      Chú thích:

      (13) Chỉ quân đội Quốc dân Đảng của Tưởng Giới Thạch – ND.

      (14) Nghĩa là ngồi lầu cất giấu ngọc.

      (15) Nhân vật trong tác phẩm nổi tiếng Lương Sơn Bá – Trúc Đài. Hai người nhau rồi cùng chết bên nhau. Câu chuyện được gọi là Romeo và Juliet của Trung Quốc – ND.

      (16) Tam giáo là Nho, Đạo, Phật; Cửu lưu là nho, đạo, dương, pháo, danh, mặc, tung hoành, tạp, nông. Sau mang nghĩa rộng là các loại tôn giáo, học thuật, các tầng lớp xã hội, các hạng người… - ND.

      (17) Tứ thư: Luận ngữ, Đại học, Trung dung, Mạnh Tử; Ngũ kinh: Chu Dương, Thượng thư, Kinh thi, Lễ ký, Nghi lễ, Xuân Thụ. Sau mang nghĩa rộng là các trước tác kinh điển – ND.

      (18-) Ổ điểm sông, ở đây là sông Tần Hoài – ND.

      (19) Tương đương 4 ngàn tệ bây giờ - ND.

      (20) Điệu nhảy của cao bồi miền Tây nước Mỹ, do lính thủy Mỹ truyền vào Trung Quốc – ND.

      (21) Thương bất tri vong quốc hận

      Cách giang do xướng hậu đìn hoa.

      Hai câu trong bài thơ Bạc Tần Hoài của Đỗ Mục, có nghĩa là: Con hát biết cái hận mất nước, bên kia sông còn hát khúc Hậu Đình Hoa – ND.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :