KẺ TẦM XƯƠNG – Jeffery Deaver(Trinh thám)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221

      [​IMG]


      KẺ TẦM XƯƠNG – Jeffery Deaver


      Copyright © 2012 by Romance Book. All rights reserved.




      Sách do Công ty sách Bách Việt và Nhà xuất bản Văn học hợp tác phát hành. Khuyến khích các bạn mua sách trong điều kiện có thể. Ebook được làm với mục đích phi lợi nhuận.


      Bản quyền ebook © ROMANCE BOOK, 2012.


      Hàng loạt vụ giết người man rợ tại New York. Thủ phạm luôn cố tình để lại dấu vết khó hiểu tại trường để chỉ dẫn cho cảnh sát biết địa điểm xảy ra vụ án mạng tiếp theo.


      Lincoln Rhyme – nhà hình nổi tiếng, người muốn tìm đến cái chết sau khi trở thành kẻ tàn phế sống nhờ vào trợ giúp của máy móc – quyết định vào cuộc, nhưng ai ngờ được lại chính là mục tiêu cuối cùng trong vụ án của tên sát nhân.




      Mục lục




      I


      VUA NGÀY


      II


      NGUYÊN TẮC LOCARD


      III


      CON CỚM TUẦN TRA


      IV


      ĐẾN TẬN XƯƠNG


      V


      KHI TA DI CHUYỂN,


      CHÚNG THỂ BẮT ĐƯỢC TA


      PHỤ LỤC


      GHI CHÚ CỦA TÁC GIẢ


    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      I


      VUA NGÀY


      Thực tại ở New York


      quá hùng mạnh khiến cho quá khứ phải biến mất.


      JOHN JAY CHAPMAN





      10:30 PM thứ Sáu đến 3:30 PM thứ Bảy




      chỉ muốn ngủ.


      Máy bay hạ cánh chậm hai tiếng và hành khách xếp hàng dài dằng dặc để đợi lấy hành lý. Xe phục vụ đưa đón họ về được tiếng. Còn bây giờ họ đợi taxi.


      đứng trong hàng người, thân hình mảnh dẻ nghiêng dưới sức nặng của chiếc máy tính xách tay. John huyên thuyên về lãi suất và những cách thức điều chỉnh hợp đồng, nhưng tất cả những gì có thể nghĩ tới là 10:30 thứ Sáu, mình muốn ráo mồ hôi và ăn uống gì đấy.


      Nhìn vào dòng chảy vô tận của những chiếc Yellow Cab. Có điều gì đó ở màu sắc và giống nhau của những chiếc xe gợi cho nhớ tới bọn côn trùng. rùng mình vì cảm giác bò trườn ghê sợ mà vẫn nhớ từ hồi còn bé ở núi, khi trai nhìn thấy con lửng gan dạ bị giết hay cố kháng cự lại tổ kiến lửa đỏ, nhìn chằm chằm vào khối chân cẳng và thân thể ẩm ướt, quằn quại.


      T.J. Colfax lê chân về phía trước khi chiếc taxi tạt vào lề đường và phanh kít lại.


      Người lái xe mở cốp nhưng vẫn ngồi trong xe. Họ phải tự xếp đồ, việc đó làm John khó chịu. quen được người khác làm cho mọi thứ. Tammie Jean quan tâm; đôi khi vẫn ngạc nhiên vì thấy mình có thư ký đánh máy và lập hồ sơ giúp. ném vali vào cốp xe, đóng lại và trèo vào trong xe.


      John vào sau , sập cửa, nhăn bộ mặt béo phị vào cái đầu hói của ta, cứ như nỗ lực cho cái túi đựng bộ vét của ta vào cốp xe làm ta kiệt sức.


      “Đến Bảy mươi hai Đông trước”, John lầm bầm qua lớp kính chắn.


      “Sau đó đến Upper West Side(1)”, T.J. thêm. Lớp kính chắn Plexi giữa hàng ghế đầu và hàng ghế sau xước xát đến mức gần như thấy người tài xế.


      Chiếc taxi lao bắn khỏi vỉa hè và nhanh chóng chạy đường cao tốc hướng về phía Manhattan.


      “Xem kìa”, John , “kia là lý do tại sao lại đông người đến thế”.


      chỉ vào bảng quảng cáo chào mừng các đoàn đại biểu đến dự hội nghị hoà bình của Liên Hiệp Quốc. có khoảng mười nghìn khách đến thành phố. T.J. ngước nhìn tấm bảng – những người da đen, da trắng và châu Á, vẫy tay và tươi cười. Tuy vậy vẫn có điều gì đó ổn trong bức tranh. Tỷ lệ và màu sắc bị phai. Các khuôn mặt trông có vẻ nhợt nhạt.


      T.J. thầm: “Bọn ba bị.”


      Họ chạy con đường cao tốc rộng rãi, trông bóng loáng và có màu vàng dễ chịu dưới ánh sáng đèn đường. Chạy qua khu Cảng Hải quân cũ, qua những chiếc cầu cảng của Brooklyn.


      Cuối cùng John cũng ngừng , lôi chiếc Texas Instruments ra và bắt đầu gõ. T.J. dựa lưng vào ghế, nhìn sang vỉa hè bốc khói và những khuôn mặt buồn thảm của những người ngồi các bậu cửa đá nâu trông ra đường. Họ hình như bị hôn mê trong cái nóng.


      Trong xe nóng bức nên T.J. thò tay bấm nút mở cửa sổ. ngạc nhiên khi thấy cửa kính xe mở được. vươn qua người John. Cửa sổ bên cũng hỏng. Và đó là lúc nhận thấy xe có khoá cửa.


      Cả tay nắm cửa cũng có.


      Tay lần tìm nút tay nắm cửa. Chẳng có gì – cứ như ai đó cắt nó bằng cưa máy.


      “Gì vậy?” John hỏi.


      “À, cánh cửa… Ta mở cửa thế nào bây giờ?”


      John nhìn từng cánh cửa khi biển hiệu Đường hầm Midtown xuất rồi biến mất.


      “Này!” John gõ vào tấm kính chắn. “Ông lỡ mất chỗ rẽ rồi. Chúng ta đâu thế này?”


      “Có lẽ ông ta định qua Queensboro”, T.J. . Qua cầu đường dài hơn nhưng phải trả phí qua hầm. ngồi dịch lên và gõ nhẫn vào tấm kính Plexi.


      “Ông định qua cầu đấy à?”


      Người lái xe lờ .


      “Này!”


      Ngay sau đó họ qua chỗ rẽ Queensboro.


      “Chết tiệt”, John hét lên. “Ông định đưa chúng tôi đâu? Harlem. Tôi cá là ta định đưa chúng ta đến Harlem.”


      T.J. nhìn ra ngoài cửa sổ. chiếc xe chạy song song với họ và chậm rãi vượt lên. đập mạnh vào cửa sổ.


      “Cứu!” gào to. “Làm ơn …”


      Người lái xe liếc lần, rồi lần nữa, vẻ bằng lòng. ta giảm tốc độ và lùi lại sau họ nhưng chiếc taxi đột ngột quặt vào đường nhánh xuống Queens, vòng vào con phố và chạy dọc theo khu nhà kho trống trải. Có lẽ họ phải chạy với tốc độ hơn sáu mươi dặm(2) giờ.


      “Ông làm cái trò gì thế?”


      T.J. đập vào tấm kính chắn. “Chạy chậm lại. Chúng ta ở đâu?”


      “Ôi, trời ơi, ”, John thầm. “Nhìn kìa.”


      Người tài xế đeo chiếc mặt nạ trượt tuyết.


      “Ông muốn gì?” T.J. hét lên.


      “Tiền à? Chúng tôi đưa tiền cho ông.”


      Nhưng phía trước xe vẫn im lặng.


      T.J. mở tung chiếc túi hiệu Targus của và lôi chiếc máy tính xách tay màu đen ra. ngả người về phía sau và phang góc máy tính vào cửa sổ. Kính vẫn còn nguyên vẹn mặc dù tiếng đập có vẻ làm người tài xế hết hồn. Chiếc taxi đổi hướng và suýt đâm vào bức tường của toà nhà họ vừa chạy qua.


      “Tiền? Bao nhiêu? Tôi đưa cho ông rất nhiều tiền!” John lắp bắp, nước mắt rơi lã chã xuống hai cái má béo phị của ta.


      T.J phang máy tính vào cửa sổ thêm lần nữa. Cú phang mạnh đến nỗi màn hình bắn ra nhưng cửa sổ vẫn y nguyên.


      thử lại lần nữa, thân máy tính mở tung và rơi khỏi tay .


      “Mẹ kiếp…”


      Cả hai lao mạnh về phía trước khi chiếc xe trượt bánh đường và dừng lại ngõ cụt tăm tối, bẩn thỉu.


      Người lái xe chui ra khỏi xe, trong tay khẩu súng lục .


      “Đừng, xin ông”, van xin.


      ta ra phía sau xe và cúi người xuống, nhìn qua lớp kính bị trầy xước. đứng đó khá lâu trong khi và John lùi lại phía sau, dựa vào cánh cửa đối diện, thân thể đầm mồ hôi của họ dán vào nhau. Người tài xế khum tay che ánh đèn đường và nhìn họ gần.


      Bất ngờ có tiếng nổ vang rền trong trung. T.J. co rúm người. John thét lên tiếng.


      Phía xa, đằng sau người lái xe, bầu trời tràn ngập những chấm lửa xanh đỏ. Lại có thêm những tiếng nổ và tiếng rít. ta quay lại và nhìn lên trong khi con nhện khổng lồ màu da cam trải mình phía bên thành phố.


      Pháo hoa, T.J. nhớ lại tờ Thời báo: Món quà của Thị trưởng và Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc cho các đoàn đại biểu, chào mừng họ tới thành phố vĩ đại nhất thế giới.


      Người lái xe quay lại chiếc taxi. ta kéo tay nắm cửa với tiếng động lớn và từ từ mở cửa.


      cuộc gọi nặc danh. Như mọi khi


      Như thế chẳng có cách gì kiểm tra xem người báo tin có định về khu đất hoang nào. Trung tâm gọi đến: “ ta Ba mươi bảy gần Mười . Chỉ có thế thôi.”


      Những người báo tin thường biết hướng tới tượng vụ án.


      toát mồ hôi mặc dù lúc này mới có chín giờ sáng, Amelia Sachs đẩy bệ cỏ cao. tìm theo vạch – cách gọi của những người làm việc tại trường vụ án – sơ đồ hình chữ S. Chẳng có gì. nghiêng đầu vào cái mic kẹp ve bộ đồng phục màu xanh hải quân của .


      “5885. tìm thấy gì, thưa Trung tâm. Các cầu gì thêm ?”


      Người trực tổng đài qua tiếng lẹt xẹt tĩnh điện: “ cần gì tại đó nữa, 5885. Nhưng có điều… người báo tin ta hi vọng nạn nhân chết. Nghe .”


      “Trung tâm, xin nhắc lại.”


      “Người báo tin này ta hi vọng nạn nhân chết. Vì lợi ích của chính nạn nhân. Nghe .”


      “Nghe .”


      Hy vọng nạn nhân chết?


      Sachs leo qua dây xích rũ xuống và tìm khoảng trống khác. có gì.


      muốn bỏ cuộc. Gọi đến 10-90, báo cáo vô căn cứ, và quay trở lại với Deuce, khu tuần tra thường xuyên của . Đầu gối bị đau và nóng như bị hầm trong cái thời tiết tháng Tám tệ hại này. muốn lẻn vào Ban quản lí Cảng, chuyện với các chàng trai và uống hộp trà đá Arizona. Sau đó, lúc 11:30 – chỉ cách đó , hai giờ đồng hồ – có thể dọn dẹp tủ đồ đạc của mình ở Nam Midtown(3) và chuẩn bị tập.


      Nhưng , thể đúng hơn, bỏ qua cuộc gọi này. tiếp tục : dọc theo vỉa hè nóng bức, qua khoảng trống giữa hai khu đất hoang và khu vườn nhiều cây cối khác.


      Ngón tay trỏ rất dài của thọc vào chiếc mũ đồng phục đỉnh phẳng, qua những lớp tóc đỏ dày được búi cao đầu. gãi mạnh khi chạm đến phía dưới chiếc mũ, rồi gãi thêm lúc nữa. Mồ hôi chảy dọc trán buồn buồn và gãi lông mày.


      Suy nghĩ: Hai giờ cuối cùng của mình ngoài phố. Mình chịu được.


      Khi Sachs sâu hơn vào bụi cây, cảm thấy bất ổn đầu tiên trong buổi sáng hôm nay.


      Ai đó nhìn mình.


      Gió nóng thổi xào xạc những bụi cây khô, xe hơi và xe tải ầm ĩ qua lại Đường hầm Lincoln. nghĩ tới điều mà sĩ quan tuần tra thường làm: thành phố này quá ầm ĩ đến mức ai đó có thể lẻn tới sau mình, trong tầm dao, mà mình hề hay biết.


      Hoặc phóng ra những tia nhìn thép chiếu vào lưng mình…


      quay lại nhanh.


      Chẳng có gì ngoài những chiếc lá, những cỗ máy rì rầm và rác rưởi. Trèo lên đống đá, mặt mũi cau có. Amelia Sachs – ba mươi mốt tuổi – gần được ba mươi mốt, mẹ chắc thế – bị viêm khớp. được thừa kế chứng bệnh đó từ ông ngoại, cũng ràng như nhận được thân hình mảnh dẻ từ mẹ, vẻ ngoài xinh đẹp cũng như nghiệp từ cha (màu tóc đỏ tuỳ theo suy đoán của mọi người). Lại thêm cơn đau nhói khi qua bức rèm được tạo thành từ các bụi cây chết khô cao ngất. may mắn dừng lại khi chỉ cách cái vách sâu ba mươi feet(4) đúng bước chân.


      Phía dưới cái khe tối tăm – cắt sâu xuống nền đá của West Side. Chạy qua đó là đường sắt Amtrak cho những đoàn tàu lên phía bắc.


      hé mắt, liếc nhìn đáy khe cách xa nền đường sắt.


      Cái gì thế?


      vòng tròn đất mới lật, nhánh cây cắm bên ? Trông nó giống như…


      Ôi! Lạy chúa!


      cảnh tượng làm rùng mình. Cảm thấy cơn buồn nôn dâng lên, châm vào da của như làn sóng lửa. kìm nén được cái phần nhoi trong , muốn quay chỗ khác và làm ra vẻ như mình chưa hề trông thấy gì.


      ta hi vọng nạn nhân chết. Vì chính nạn nhân.


      chạy theo chiếc cầu thang sắt dẫn tới vỉa hè xuống phía dưới nền đường. vươn tay và định bám vào tay vịn cầu thang nhưng kịp dừng lại. Khốn kiếp. Thủ phạm có thể tẩu thoát theo đường này. Nếu chạm vào đó, có thể xoá mất dấu tay để lại. Được, ta làm cách khó vậy. Thở sâu để nén cơn đau khớp, bắt đầu trèo xuống theo mặt đá, cố lùa đôi giày mới của – đôi giày được đánh bóng như gương cho ngày đầu tiên nhận nhiệm vụ mới – vào những khe đá nứt. nhảy từ độ cao bốn feet xuống nền đường và chạy tới nấm mồ.


      “Ôi, trời…”


      Đó phải là nhánh cây nhô lên khỏi mặt đất mà là cánh tay. Thân thể bị chôn đứng và đất được đắp lên tới cánh tay, cổ tay và bàn tay thò ra ngoài. nhìn chằm chằm vào ngón đeo nhẫn; tất cả thịt bỠbóc sạch và chiếc nhẫn kim cương của phụ nữ có hình ly cocktail được lồng vào đoạn xương máu me, trần trụi.


      Sachs quỳ xuống và bắt đầu đào.


      đào bới làm cho đất bắn tung toé, nhận thấy những ngón tay chưa bị cắt trông xiên xẹo và kéo dãn ngoài mức có thể uốn cong. Điều đó với rằng nạn nhân vẫn còn sống khi bị những xẻng đất cuối cùng hất vào mặt.


      Và có thể vẫn còn sống.


      Sachs giận dữ đào chỗ đất còn tơi, cắt tay vào mảnh chai, máu đen của trộn lẫn với màu đất còn đen hơn. Sau đó, đào đến tóc và vầng trán phía dưới, vầng trán xanh xám lại vì thiếu oxy. Tiếp tục đào cho tới khi có thể nhìn thấy hai con mắt mờ đục và cái miệng bị vặn xoắn thành vẻ mặt kinh hoàng khi nạn nhân cố gắng trong vài giây cuối cùng để ngoi lên khỏi đợt thuỷ triều đất đen.


      phải là phụ nữ. Dù tay đeo chiếc nhẫn. Đó là người đàn ông năm mươi tuổi, đậm người. Chết khi đất vùi kín ta.


      Lùi lại phía sau, thể rời mắt khỏi cái xác chết và suýt vấp phải đường tàu. thể nghĩ được điều gì khác trong gần phút. Ngoài việc nếu bị chết như thế ra sao.


      Sau đó: Nào, em . Em tự dẫn mình đến trường vụ án và em là sĩ quan đầu tiên có mặt tại trường.


      Em biết phải làm gì chứ:

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      ADAPT


      A là Arrest: bắt kẻ tình nghi.


      D là Detain: thẩm tra nhân chứng và vật chứng.


      A là Assess: đánh giá trường vụ án.


      P là….


      P là gì nhỉ?


      nghiêng đầu vào mic. “5885 gọi Trung tâm. Báo cáo tiếp. Tôi gặp 10-29 đường tàu hoả ở Đại lộ Ba mươi tám và Mười . Giết người, nghe . Cần thám tử, CS(5), xe bus, và bác sĩ pháp y. Nghe .”


      , 5885. Nghi phạm bị bắt chưa, nghe ?”


      có nghi phạm.”


      “Năm-tám-tám-năm, nghe


      Sachs nhìn chằm chằm vào ngón tay, ngón tay bị lóc thịt đến tận xương. chiếc nhẫn phù hợp. Hai con mắt. Và vẻ mặt nhăn nhúm… Ôi, cái vẻ mặt nhăn nhúm kinh dị này. Cơn rùng mình chạy dọc cơ thể . Amelia Sachs từng bơi với rắn trong những con sông khi nghỉ hè và từng huênh hoang cách chân thực rằng, có vẫn đề gì khi chơi bungee-jumping(6) từ cây cầu cao trăm feet. Nhưng cứ để nghĩ về giam cầm… nghĩ tới việc bị rơi vào bẫy, hoàn toàn bất động cơn hoảng loạn tóm lấy như bị sốc điện. Đó là lí do vì sao Sachs nhanh và lái xe như chớp.


      Khi ta di chuyển, chúng thể bắt được ta…


      nghe thấy tiếng động và ngẩng đầu.


      Tiếng ầm ầm, sâu và ngày càng lớn hơn.


      Những mẩu giấy vụn bay tung đường ray. Những đám bụi bay quanh như những con ma giận dữ.


      Sau đó là tiếng rền rĩ


      Sĩ quan tuần tra Amelia Sachs, chỉ cao feet chín, thấy mình đứ diện với chiếc đầu máy xe lửa nặng ba mươi tấn của Amtrak, khối sắt đỏ, trắng và xanh lao tới với tốc độ mười dặm giờ.


      “Dừng lại ngay!” hét lên.


      Người kỹ sư lờ .


      Sachs nhảy vào, đứng ngay giữa đường ray, giạng chân, vẫy tay ra hiệu cho ta dừng lại. Chiếc đầu máy kêu rít lên rồi dừng lại. Người kĩ sư thò đầu ra ngoài cửa sổ.


      qua đây được”, với ta.


      ta hỏi ý là gì. nghĩ ta trông quá trẻ để có thể lái đoàn tàu lớn như vậy.


      “Đây là trường vụ án. Vui lòng tắt động cơ.”


      “Thưa quý , tôi hề nhìn thấy trường vụ án nào cả.”


      Nhưng Sachs nghe. nhìn lên khoảng trống trong chuỗi xích bên phía tây của cây cầu tàu phía , gần Đại lộ Mười .


      Chỉ có thể có cách để đưa xác chết đến đây mà bị phát – đỗ xe ở Đại lộ Mười và kéo xác qua con đường hẹp dẫn đến vách đá. Còn Đại lộ Ba mươi bảy, chỗ giao lộ, ta có thể bị phát từ hai tá cửa sổ của các căn hộ.


      “Đoàn tàu này, thưa ngài. Xin cứ để nó đấy.”


      “Tôi thể để nó ở đây được.”


      “Vui lòng tắt động cơ.”


      “Chúng tôi tắt động cơ của những con tàu kiểu này. Lúc nào chúng cũng chạy.”


      “Và hãy gọi điện cho điều phѩ viên. Hay ai đó. cầu họ dừng cả các đoàn tàu về phía nam.”


      “Chúng tôi được làm thế.”


      “Ngay bây giờ. Tôi có thể lấy số của chiếc xe đó, được ?”


      “Chiếc xe?”


      “Tôi khuyên nên làm ngay”, Sachs quát.


      định làm gì, thưa quý ? Gắn phiếu phạt tôi chắc?”


      Nhưng Amelia Sachs lại trèo lên bức tường đá, các khớp xương đáng thương của kêu cót két, môi cảm thấy vị bụi đá vôi, đất sét và mồ hôi của chính mình. chạy về phía con đường vừa nhìn thấy từ dưới kia, sau đó quay lại, nghiên cứu Đại lộ Mười và Trung tâm Javits ở bên kia đường. Gian đại sảnh đầy người – những người đến xem và báo chí. biểu ngữ khổng lồ tuyên bố Chào mừng các đại biểu Liên Hiệp Quốc! Nhưng sáng hôm nay, khi con phố vắng người, tên tội phạm có thể dễ dàng tìm thấy nơi đỗ xe ở đây là kéo cái xác đến đường ray mà bị phát . Sachs chạy tới Đại lộ Mười , nghiên cứu đại lộ sáu làn xe tắc nghẽn.


      Làm thôi!


      khó nhọc vượt qua biển xe hơi, xe tải và chặn làn đường lên phía bắc. Mấy người lái xe cố chạy vớt, phải xé hai phiếu phạt và sau cùng kéo thùng rác ra giữa phố như chiến lũy để đảm bảo những người dân lương thiện thực nghĩa vụ công dân của họ.


      Cuối cùng Sachs cũng nhớ ra quy tắc tiếp theo trong các quy tắc ADAPT của sĩ quan đầu tiên có mặt tại trường vụ án.


      P là Protect: bảo vệ trường vụ án.


      thanh của những chiếc còi xe giận dữ bắt đầu tràn ngập bầu trời buổi sáng mờ sương, sau đó được thay thế bằng những tiếng thét giận dữ hơn của các tài xế. lúc sau, nghe tiếng còi hụ tham gia ầm ĩ khi những chiếc xe khẩn cấp đầu tiên lao tới.


      Bốn mươi phút sau, nơi này tràn ngập cảnh phục và các điều tra viên, có đến vài chục người – đông hơn vụ diễn ra tại Hell’s Kitchen rất nhiều, bất kể là nguyên nhân cái chết có khinh khủng hơn đến mấy. Nhưng Sachs học được từ những cảnh sát khác, đây là vụ nóng, vụ thu hút báo giới – nạn nhân có thể là trong những hành khách đến sân bay JFK(7) đêm trước, bắt taxi vào thành phố. Họ có thể bao giờ về được đến nhà.


      “CNN(8-) theo dõi.” người mặc cảnh phục thầm .


      Vì thế Amelia Sachs ngạc nhiên khi thấy Vince Peretti tóc vàng, giám đốc IRD(9), bộ phận theo dõi đơn vị trường vụ án, trèo qua hàng rào và dừng lại lúc ta phủi bộ vét trị giá cả nghìn đô la của mình.


      ngạc nhiên khi thấy nhận ra và ra hiệu cho , nụ cười giả tạo xuất khuôn mặt sắc nét của ta. nhận ra rằng nhận được cái gật đầu cảm ơn về hành động Cliffhanger(10) vừa rồi. Bảo vệ dấu tay cái cầu thang đó, các chàng trai. Có thể có cả khen ngợi. Trong giờ tuần tra cuối cùng của ngày làm việc cuối cùng ở Đội Tuần tra. Ra với ánh hào quang của vẻ vang.


      ta nhìn từ xuống dưới. “Sĩ quan tuần tra, phải là lính mới, đúng ? Giả định của tôi đúng chứ?”


      “Tôi xin lỗi, thưa ngài?”


      chắc phải lính mới, tôi giả định thế.”


      phải lính mới, tuân theo quy tắc, mặc dù mới có ba năm phục vụ, khác với hầu hết các sĩ quan tuần tra khác ở độ tuổi ; họ có chín hay mười năm phục vụ. Sachs bị lỡ mất mấy năm trước khi vào học viện. “Tôi biết ngài định hỏi gì.”


      ta trông bực tức, nụ cười biến mất khỏi khuôn mặt. “ là sĩ quan đầu tiên có mặt tại trường, đúng vậy ?”


      “Vâng, thưa ngài”


      “Vì sao lại chặn Đại lộ Mười ? nghĩ gì vậy?”


      nhìn dọc theo con phố rộng vẫn bị cái thùng rác chiến lũy của chặn lại. quen với tiếng còi nhưng giờ mới nhận ra là nó rất ồn, dòng xe kéo dài tới vài dặm.


      “Thưa ngaì, nhiệm vụ đầu tiên của sĩ quan là bắt nghi phạm, thẩm vấn mọi nhân chứng, bảo vệ…”


      “Tôi biết quy tắc ADAPT, sĩ quan ạ. chặn phố để bảo vệ trường vụ án à?”


      “Vâng thưa ngài. Tôi nghĩ rằng nghi phạm đỗ xe tại giao lộ. ta có thể dễ dàng bị trông thấy từ các căn hộ kia. Ngài nhìn thấy chứ, kia? Đại lộ Mười có thể là lựa chọn tốt hơn.”


      “Được. Nhưng đó là lựa chọn sai lầm. có dấu chân ở phía bên kia đường ray, và có hai loạt dấu chân lên cầu thang tới Đai lộ Ba mươi bảy.”


      “Tôi chặn cả Đại lộ Ba mươi bảy nữa.”


      “Đó là ý tôi. Đó là tất cả những gì cần chặn. Còn đoàn tàu?” ta hỏi. “Vì sao lại chặn đoàn tàu?”


      “Vâng thưa ngài. Tôi nghĩ rằng đoàn tàu qua trường có thể làm ảnh hưởng đến chứng cứ. Hay cái gì đó.”


      “Hay cái gì đó, sĩ quan?”


      “Tôi diễn đạt ý mình được tốt lắm, thưa ngài. Ý tôi là…”


      “Còn sân bay Newark sao?”


      “Vâng thưa ngài.” nhìn quanh tìm giúp đỡ. Có mấy sĩ quan ở gần đó, nhưng họ bận phớt lờ người bị quở trách. “Chính xác Newark là thế nào?”


      “Sao đóng cửa nó luôn ?”


      Ồ, tuyệt vời. bài học. Đôi môi Julia Roberts của căng lên nhưng vừa phải. “Thưa ngài, theo nhận định của tôi, có thể là…”


      “Xuyên lộ New York cũng có thể là lựa chọn tốt. Jersey Pike và Xxa lộ Long Island. I-70 và các con đường đến St.Louis. Đó cũng có thể là phương cách trốn chạy.”


      hơi cúi đầu và nhìn lại Peretti. Hai người cao bằng nhau dù đế giày của ta cao hơn.


      “Tôi có điện thoại từ ngài chánh thanh tra.” ta tiếp tục. “Từ giám đốc của Ban quản lý Cảng, văn phòng Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, giám đốc triển lãm..” ta hất đầu về phía Trung tâm Javits. “Chúng ta phá hỏng lịch trình hội nghị, bài phát biểu của thượng nghị sĩ Mỹ và toàn bộ giao thông bên West Side. Đường ray cách nạn nhân mười lăm feet còn con phố mà chặn lại cách chỗ đó trăm feet và đó ba mươi feet. Ý tôi là ngay cả Bão Eve cũng ảnh hưởng như vậy tới Hành lang Đông Tây của Amtrak.”


      “Tôi chỉ nghĩ rằng…”


      Peretti cười. Vì Sachs là phụ nữ đẹp – trong những năm tháng “chìm đắm” của trước khi gia nhập Học viện Cảnh sát, có thời gian làm việc thường xuyên cho Công ty Người mẫu Chantelle – nên viên cảnh sát lựa chọn tha thứ cho .


      “Tuần tra viên Sachs” – ta liếc nhìn bảng tên ngực , được dán cách đơn giản chiếc áo chống đạn hiệu American Body Armor – “ bài học. Nhiệm vụ tại trường vụ án là việc đòi hỏi cân bằng. rất tốt nếu chúng ta có thể rào cả thành phố sau mỗi vụ giết người và thẩm vấn ba triệu người. Nhưng chúng ta thể làm điều đó. Tôi điều này là có tính xây dựng. Để khai sáng cho ”.


      thực tế, thưa ngài”, cộc cằn. “Tôi sắp chuyển khỏi Đội Tuần tra. Điều đó có hiệu lực từ trưa hôm nay.”


      ta gật đầu, cười vui vẻ. “Thế đủ rồi. Nhưng để biết thôi, có phải quyết định dừng đoàn tàu và phong tỏa đường phố?”


      “Đúng vậy, thưa ngài”, cách dứt khoát. “ có sai lầm nào trong việc đó cả.”


      ta viết điều này vào cuốn sổ theo dõi màu đen của mình với nét bút mạnh mẽ bằng chiếc bút máy dính đầy mồ hôi.


      Ôi, làm ơn


      “Còn bây giờ, chuyển những thùng rác ấy . điều khiển giao thông đến khi đường thông. có nghe tôi ?”


      “vâng, thưa ngài”, hay “, thưa ngài”, hay bất kỳ khẳng định nào khác, ra Đại lộ Mười và bắt đầu chậm chạp di chuyển những chiếc thùng rác. Người lái xe nào ngang cũng cau có hoặc lẩm bẩm điều gì đó. Sachs nhìn đồng hồ.


      Còn tiếng nữa.


      Mình chịu được.


      HAI




      Với cú vẫy cánh ngắn, con chim ưng đỗ xuống rìa cửa sổ. Ánh sáng bên ngoài, vào giữa buổi sáng, rực rỡ và khí có vẻ nóng dữ dội.


      “Mày đây rồi”, người đàn ông thầm . Sau đó ta ngẩng đầu khi nghe tiếng chuông cửa ở tầng dưới.


      “Có phải ông ta ?” hét về phía cầu thang. “Phải ?”


      Lincoln Rhyme nghe thấy tiếng trả lời và quay lại cửa sổ. Con chim xoay đầu, động tác nhanh, dữ dằn nhưng đối với loài chim ưng nó lại lịch thiệp. Rhyme thấy móng nó dính máu. miếng thịt đung đưa dưới cái mỏ khoằm hình vỏ quả hạch màu đen bị vỡ. Nó vươn cái cổ ngắn và thả lỏng mình trong tổ những cử động khiến ta nhớ tới loài rắn chứ phải loài chim. Con chim ưng thả miếng thịt vào cái miệng ngửa lên của con chim non màu xanh lông lá. Ta nhìn, Rhyme nghĩ, vào tạo vật sống duy nhất ở New York mà có thú săn bắt. Có lẽ ngoại trừ chính Chúa Trời.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      nghe thấy tiếng chân bước chậm chạp lên cầu thang.


      “Có phải ông ta ?” hỏi Thom.


      Người thanh niên trả lời: “.”


      “Ai đó? Chuông cửa vừa kêu, đúng ?”


      Ánh mắt Thorn hướng về cửa sổ. “Con chim quay lại rồi. Nhìn này, có vết máu bậu cửa sổ của . thấy ?”


      Con chim ưng cái dần xuất trong tầm nhìn. Xanh xám như con cá, óng ánh ngũ sắc. Đầu nó ngẩng lên nhìn bầu trời.


      “Chúng luôn cùng nhau. Chúng có kết bạn cả đời nhỉ?” Thom tự hỏi thành tiếng. “Như ngỗng trời ấy?”


      Ánh mắt Rhyme quay lại nhìn Thom, chàng này cúi cái eo lưng trẻ trung, gọn gàng của mình ngắm nhìn cái tổ qua cánh cửa sổ vấy bẩn.


      “Ai thế?” Rhyme nhắc lại. Chàng thanh niên bị kẹt, điều này làm Rhyme khó chịu.


      người khách.”


      người khách? Ha.” Rhyme khịt mũi. cố nhớ lại người khách cuối cùng ở đây. Chắc phải đến ba tháng trước. Đó là ai nhỉ? phóng viên, có thể, hay người họ hàng xa. À, Peter Taylor, trong những chuyên gia cột sống của Rhyme. Và Blaine cũng đến vài lần. Nhưng ấy tất nhiên phải là người-khách.


      “Lạnh quá”, Thom than phiền. Phản ứng của ta là mở cửa sổ. thỏa mãn tức . Tuổi trẻ.


      “Đừng mở cửa sổ”, Rhyme hạ lệnh. “Và cho tôi biết đấy là ai.”


      “Lạnh quá.’


      “Cậu làm phiền con chim đấy. Cậu có thể giảm điều hòa nhiệt độ. Tôi giảm điều hòa.”


      “Chúng ta ở đây trước”, Thom , nâng tiếp cánh cửa sổ to tướng lên. “Con chim chuyển đến khi biết rất về .” Con chim ưng nhìn về phía tiếng ồn, giận dữ. Nhưng chúng luôn luôn nhìn giận dữ như thế. Chúng vẫn đậu thành cửa sổ, làm chủ khoảng đất của mình những ngọn cây bạch quả xanh xao và những người đỗ xe bên kia phố.


      Rhyme nhắc lại. “Ai vậy?”


      “Lon Sellitto”.


      “Lon?”


      ta làm gì ở đây thế?


      Thom nhìn căn phòng. “Chỗ này lộn xộn."


      Rhyme thích phải bận bịu dọn dẹp. thích hối hả, thích tiếng ồn của máy hút bụi – thứ mà cảm thấy thực khó chịu. thấy thoải mái ở đây, thực như vậy. Căn phòng này, gọi là văn phòng của , nằm tầng hai của ngôi nhà theo phong cách gothic ở Upper West Side của thành phố, nhìn ra Công viên Trung tâm. Căn phòng rộng, hai mươi nhân hai mươi, và gần như từng foot vuông của nó đều có đồ. Đôi khi nhắm mắt, chơi trò chơi cố gắng phân biệt mùi của những đồ vật khác nhau trong phòng. Hàng nghìn cuốn sách và tạp chí, xếp thành từng chồng nghiêng như Tháp Pisa, những cái bóng bán dẫn nóng rực trong ti vi. Cái bóng đèn phủ bụi, cái bảng ghim giấy. Mùi của nhựa vinyl, nước oxy già, nhựa mủ và vải bọc ghế.


      Ba loại whisky Scotch dòng thuần mạch nha khác nhau.


      Con chim ưng kia.


      “Tôi muốn gặp ta. với ta tôi bận.”


      “Và cậu cảnh sát trẻ tuổi. Ernie Banks. , ta là cầu thủ bóng chày, đúng ? Thực phải để tôi dọn dẹp. bao giờ nhận ra chỗ có thể bẩn thỉu đến thế nào cho tới khi có người cho hay.”


      cho hay? Trời, nghe có vẻ hoài cổ. Thời Victoria. Điều này nghe thế nào? Bảo với họ biến khỏi đây. Thế nghe có đạo đức hơn ?”


      Lộn xộn…


      Thom về căn phòng nhưng Rhyme lại cho rằng ta ám chỉ cả sếp của mình.


      Tóc Rhyme đen và dày như tóc thanh niên mới hai mươi tuổi – mặc dù gấp đôi – nhưng những lọn tóc lại lộn xộn và bờm xờm, cần được cắt gội. Mặt lởm chởm râu ba ngày chưa cạo, trông bẩn thỉu, và có thể thức giấc với cảm giác buồn buồn ngứa ngáy ngừng trong tai, có nghĩa là lông ở đó cũng cần phải được cắt tỉa. Móng Rhyme dài, cả ở chân lẫn tay, và mặc bộ quần áo suốt tuần – bộ pyjama sọc, xấu kinh khủng. Mắt hẹp, nâu đậm và nằm khuôn mặt mà như Blaine thỉnh thoảng với , trông giàu tình cảm và có thể coi là đẹp trai.


      “Họ muốn chuyện với ”, Thom tiếp tục. “Họ đó là việc rất quan trọng.”


      “Ừ, hoan hô họ.”


      gặp Lon cả năm nay rồi.”


      “Vì sao điều đó lại có nghĩa tôi phải gặp ta lúc này? Cậu có làm cho con chim sợ ? Tôi rất bực nếu cậu làm nó sợ.”


      “Quan trọng đấy, Lincoln.”


      “Rất quan trọng. Tôi nhớ cậu thế. Bác sĩ đâu nhỉ? Ông ta có thể gọi điện đến. Lúc nãy tôi ngủ gật. Còn cậu ở ngoài.”


      tỉnh dậy từ lúc sáu giờ sáng.”


      ”. Rhyme dừng lại. “Tôi có dậy, đúng. Nhưng sau đó tôi lại ngủ gật. Giọng tôi nghe buồn ngủ lắm. Cậu kiểm tra tin nhắn chưa?”


      Thom : “Rồi. Chẳng có gì của ông ta.”


      “Ông ta ông ta đến vào tầm giữa buổi sáng."


      “Bây giờ là mười giờ hơn. Có lẽ chúng ta cũng chưa nên gọi tìm kiếm cứu nạn vội. thấy thế nào?”


      “Cậu có dùng điện thoại ?” Rhyme hỏi bất ngờ. “Có thể ông ta gọi đến khi cậu nghe máy.”


      “Tôi có chuyện với…”


      “Tôi có ?” Rhyme hỏi. “Giờ cậu tức giận rồi. Và tôi có là cậu được dùng điện thoại ? Cậu được dùng chứ. Cậu luôn luôn được dùng. Ý của tôi chỉ là ông ta có thể gọi điện đến khi cậu nghe điện thoại.”


      , ý là sáng hôm nay phải tệ hại.”


      “Lại nữa rồi. Cậu biết , người ta có thứ – gọi là chờ cuộc gọi. Cậu có thể nhận hai cuộc điện thoại lúc. Tôi mong là chúng ta có dịch vụ này. Ông bạn cũ, Lon của tôi muốn gì thế nhỉ? Và bạn của ta nữa, chàng cầu thủ bóng chày ấy mà.”


      “Hỏi họ xem.”


      “Tôi hỏi cậu.”


      “Họ muốn gặp . Tôi chỉ biết thế thôi.”


      “Có điều gì đó r… ất quan… trọng.”


      “Lincoln.” Thom thở dài. Cậu thanh niên đẹp trai vò mớ tóc vàng của mình. Cậu ta mặc quần nâu và áo sơ mi trắng, đeo chiếc ca vát hoa xanh, thắt đẹp chê vào đâu được. Khi thuê Thom năm trước, Rhyme cậu ta có thể mặc áo phông và quần bò nếu cậu ta muốn. Nhưng hằng ngày cậu ta vẫn ăn mặc chỉnh tề, kể từ hồi đó. Rhyme biết vì sao điều đó lại góp phần cho quyết định để cậu ta ở lại, nhưng đúng là có thế . người nào trước Thom làm được quá sáu tuần. Số người tự bỏ việc đúng bằng số người bị đuổi.


      “Được rồi, họ với cậu những gì?”


      “Tôi với họ cho tôi mấy phút để bảo đảm ăn mặc tươm tất khi họ lên. Ngắn gọn thế thôi.”


      “Cậu thế. hỏi ý kiến tôi. Cám ơn rất nhiều.”


      Thom lùi mấy bước và gọi vọng xuống cầu thang dưới tầng . “Lên thôi, thưa các quí ông.”


      “Họ gì đó với cậu, đúng thế ?” Rhyme . “Cậu giấu tôi.”


      Thom trả lời còn Rhyme nhìn hai người lại gần. Khi họ vào phòng, Rhyme trước. với Thom. “Hạ rèm xuống. Cậu chọc giận con chim quá mức rồi đấy.”


      Nhưng điều đó thực ra có nghĩa là thấy quá đủ ánh nắng mặt trời.


      Câm lặng.


      Miếng băng dính hôi hám dán miệng làm thể được, nó làm cảm thấy bất lực còn hơn chiếc còng bó chặt cổ tay . Hơn cả những ngón tay ngắn ngủn, mạnh mẽ của bóp chặt bắp tay .


      Người lái taxi, vẫn đeo mặt nạ trượt tuyết, dẫn theo hành lang ẩm ướt, bụi bặm, dọc theo những hàng ống nước và ống cáp. Họ ở trong tầng hầm của tòa nhà văn phòng. chẳng biết là ở đâu.


      Nếu mình có thể chuyện với


      T.J. Colfax là tay chơi. kẻ gớm ghiếc tầng ba của Morgan Stanley(11). nhà đàm phán.


      Tiền? Mày cần tiền? Tao đưa mày tiền, rất nhiều tiền. Hàng đống tiền. nghĩ tới điều đó hàng chục lần, cố gắng bắt ánh mắt ta, tựa như có thể thực đẩy ngôn ngữ vào đầu óc .


      Làm ơn , thầm van xin và bắt đầu nghĩ đến cách lấy tiền từ quỹ hưu trí của mình để đưa cho . Ôi, làm ơn


      nhớ lại đêm qua: Người đàn ông quay lại nhìn pháo hoa, lôi họ ra khỏi taxi, còng tay họ. ném họ vào cốp và lái xe . Đầu tiên qua đoạn đường sỏi mấp mô và đoạn đường trải nhựa đầy ổ gà, sau đó là đoạn đường êm, rồi lại xóc. nghe thấy tiếng vèo vèo khi xe qua cầu. Lại cua, lại đoạn đường xóc. Cuối cùng, chiếc taxi dừng lại và người tài xế ra khỏi xe, hình như ta mở cánh cổng hay mấy cánh cửa. cho xe vào ga ra, nghĩ thế. Toàn bộ thanh của thành phố bị gián đoạn và tiếng ống xả xe hơi ngày càng lớn hơn, dội lại từ những bức tường xung quanh.


      Rồi cốp xe bật mở và người đàn ông kéo ra. giật chiếc nhẫn kim cương từ ngón tay và đút vào túi. Sau đó, dẫn qua những bức tường có những khuôn mặt ma quái, hình vẽ những con mắt phai nhạt nhìn chằm chằm, tên đồ tể, con tinh, ba đứa trẻ đáng thương – được vẽ lớp vữa nát vụn. Kéo xuống tầng hầm tối và ném xuống sàn. lộp cộp lên gác, bỏ lại trong bóng tối, bao quanh là mùi ghê đến phát ốm – mùi thịt thối, rác rưởi. nằm ở đây hàng giờ, có ngủ được chút, và khóc lóc rất nhiều. bất ngờ tỉnh dậy khi nghe tiếng động lớn. tiếng nổ sắc nhọn. Ngay gần. Rồi lại là giấc ngủ bất an.


      Nửa giờ trước lại đến chỗ . Dẫn ra cốp xe và lái khoảng hai mươi phút. Tới đây. Dù chẳng biết đây là chỗ nào.


      Giờ họ bước trong căn phòng mờ tối dưới tầng hầm. Ở giữa phòng là cái cổng đen dày; còng tay vào đấy, sau đó tóm chân kéo thẳng ra trước, đẩy ngồi dậy. quỳ xuống và trói chân bằng sợi dây mảnh – việc này mất đến vài phút; đeo đôi găng da. Sau đó đứng lên, nhìn rất lâu, cúi xuống và phanh áo . vòng ra sau , và rồi thở gấp, cảm thấy bàn tay vai , dò dẫm, bóp chặt xương bả vai.


      Khóc lóc, van xin qua lớp băng dính.


      Biết được điều gì xảy đến.


      Hai bàn tay xuống dưới cánh tay , sau đó vòng xuống dưới và vòng qua phía trước thân người . Nhưng chạm vào ngực . , khi hai bàn tay đan lưới làn da . chọc và vuốt ve xương sườn . T.J rùng mình cố thoát ra. tóm lấy chặt hơn và săn sóc thêm chút nữa, ấn mạnh, cảm nhận đàn hồi của xương.


      đứng dậy. nghe thấy tiếng chân xa dần. Im lặng lúc lâu, chẳng có gì ngoài tiếng rên rỉ của những chiếc máy điều hòa và thang máy. Rồi thốt ra tiếng làu bàu kinh sợ vì tiếng động ngay phía sau . Tiếng ồn lặp lại. Xoẹt. Xoẹt. Nghe rất quen, nhưng chẳng thể nhận ra. cố quay lại xem định làm gì nhưng được. Cái gì thế nhỉ? Lắng nghe thanh nhịp nhàng, lặp lặp lại. thanh ấy đưa trở lại nhà mẹ .


      Xoẹt. Xoẹt.


      Sáng thứ Bảy, trong căn nhà ở Bedford, Tennessee. Đó là ngày duy nhất mẹ làm và bà dành toàn bộ thời gian để dọn nhà. T.J. thức dậy khi mặt trời chiếu nắng nóng và chạy xuống nhà để giúp mẹ. Xoẹt. khóc khi chợt nhớ tới kỷ niệm này, khi nghe thanh đó và tự hỏi vì sao lại quét nhà cẩn thận với những nhát chổi chính xác và cẩn thận đến vậy.

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      thấy ngạc nhiên và thoải mái khuôn mặt họ.


      Điều mà ta thường xuyên thấy ở những viên cảnh sát điều tra án mạng của Thành phố New York.


      Lon Sellito và chàng trẻ tuổi Banks (Jerry, phải Ernie) ngồi xuống chỗ mà Ryhme vừa dùng cái đầu tổ quạ của ra hiệu cho họ ngồi: chiếc ghế mây bẩn thỉu, thoải mái.


      Ryhme thay đổi rất nhiều từ lần cuối cùng Sellitto đến đây và viên thám tử giấu được cú sốc của mình. Banks có tiêu chí nào để so sánh với những gì ta nhìn thấy, nhưng ta vẫn bị sốc như thường. Căn phòng nhếch nhác, kẻ du mục nghi ngờ nhìn họ. Mùi quá chắc chắn – mùi nội tạng bao quanh tạo vật được gọi là Linconl Ryhme.


      lấy làm tiếc là để họ lên.


      “Sao gọi điện trước hả, Lon?”


      bảo chúng tôi đừng đến.”


      Đúng .


      Thom trèo lên cầu thang. Ryhme chặn trước.


      , Thom, chúng tôi cần đến cậu.” chợt nhớ là chàng thanh niên này luôn hỏi xem khách có muốn ăn uống gì .


      Đồ Martha Stewart(12) chết tiệt.


      Im lặng lúc. Sellitto to lớn, nhăn nhúm – cựu chiến binh hai mươi năm – nhìn vào cái hộp cạnh giường và bắt đầu . Điều ta định lập tức bị chặn lại khi ta nhìn thấy những cái bỉm dành cho người lớn.


      Jerry Banks : “Tôi có đọc sách của ngài, thưa ngài.” Chàng cảnh sát trẻ tuổi này cạo râu kém, rất nhiều vết đứt. Còn vết bò liếm tóc ta trông duyên dáng! Lạy Chúa tôi, ta thể quá mười hai tuổi được. Thế giới càng mệt mỏi, cư dân ở đó trông càng trẻ trung, Rhyme nghĩ.


      “Cuốn nào vậy?”


      “À, hướng dẫn về trường vụ án, tất nhiên rồi ạ. Nhưng ý tôi là cuốn sách ảnh. Cuốn sách khoảng hai năm trước.”


      “Trong đó cũng có cả chữ nữa. Thực ra, chủ yếu là chữ. Cậu có đọc nó ?”


      “Ồ, tất nhiên rồi”, Banks nhanh.


      chồng cao ngất các cuốn sách The Scenes of the Crime(13) còn lại dựa vào bức tường trong phòng.


      “Tôi biết và Lon là bạn bè”, Banks thêm.


      “À, Lon cho cậu xem cuốn kỷ yếu sao? Cho cậu xem mấy bức ảnh? Xắn tay áo và chìa mấy cái sẹo rồi với cậu rằng những vết thương này tôi bị cùng Lincoln Rhyme?”


      Sellitto cười. Được thôi, mình có thể cho ta ít thứ để cười hơn nếu ta muốn. Viên thám tử có thâm niên lục lọi trong chiếc cặp của ta. ta có cái gì trong ấy nhỉ?


      “Các cộng tác bao lâu rồi?” Banks hỏi, tìm cách chuyện.


      “Có động từ cho cậu đấy”, Rhyme và nhìn đồng hồ.


      “Chúng tôi phải cộng của nhau”, Sellito . “Tôi làm ở Ban Án mạng, ta là giám đốc IRD.”


      “Ồ”. Bank mói, tỏ ra bị ấn tượng hơn nữa. Lãnh đạo IRD là trong những công việc uy tín nhất trong sở.


      “Ừ”, Rhyme trong khi nhìn ra ngoài cửa sổ, tựa hồ bác sĩ của tới qua con chim ưng. “Hai người lính ngự lâm”.


      Bằng giọng kiên nhẫn nhưng lại làm cho Rhyme khó chịu. Sellito : “Bảy năm liên tục, chúng tôi làm việc cùng nhau.’


      “Những năm tháng tốt đẹp”, Rhyme nhấn nhá.


      Thom cau có, nhưng Sellitto nhận thấy mỉa mai này. Mà đúng hơn là lờ . ta : “Chúng tôi có vấn đề, Lincoln. Chúng tôi cần giúp đỡ.”


      Soạt. Chồng giấy đổ xuống cái bàn đầu giường.


      “Giúp đỡ?” Tràng cười nổ ran từ chiếc mũi mà Blaine luôn ngờ rằng đó là sản phẩm của phẫu thuật thẩm mỹ, mặc dù phải như vậy. cũng luôn nghĩ rằng đôi môi của quá hoàn hảo (nếu thêm vết sẹo, có lần đùa như vậy khi họ suýt cãi nhau). Mà tại sao hôm nay diện đầy nhục cảm của lại cứ dâng mãi lên như vậy nhỉ, tự hỏi. Buổi sáng thức dậy với ý nghĩ về người vợ cũ của mình và tự nhiên muốn viết cho lá thư, lá thư đó vẫn còn ở màn hình máy tính vào lúc này. lưu nó vào đĩa. im lặng tràn ngập cả căn phòng khi nhập lệnh vào máy tính bằng ngón tay.


      “Lincoln?” Sellitto hỏi.


      “Vâng, thưa ngài. giúp đỡ. Của tôi. Tôi nghe thấy.”


      Banks vẫn giữ nụ cười đúng chỗ mặt ta khi ta ngọ nguậy đầy khó chịu ghế.


      “Tôi sắp có cuộc hẹn, ngay bây giờ”, Rhyme .


      cuộc hẹn.”


      bác sĩ.”


      ?” Banks hỏi, chỉ để cố gắng phá tan im lặng lại vừa tràn ngập căn phòng.


      chắc lắm là cuộc chuyện đến đâu, Sellitto hỏi: “ thế nào?”


      Banks và Sellitto hỏi tới sức khỏe của khi họ tới. Đó là câu hỏi mọi người thường tránh khi họ gặp Lincoln Rhyme. Câu trả lời có thể rất phức tạp, và gần như chắc chắn là khó chịu.


      đơn giản: “Tôi ổn, cám ơn. Còn ? Betty?”


      “Chúng tôi li dị”, Sellitto nhanh.


      “Thế à?”


      ta được ngôi nhà còn tôi nửa đứa con.” Viên cảnh sát lùn, đậm người với giọng vui vẻ giả tạo, cứ như ta đa điều này trước đó, và Rhyme rằng có chuyện đau đớn đằng sau cuộc chia tay. Câu chuyện mà chẳng hề muốn nghe. Tuy vậy, cũng chẳng ngạc nhiên khi thấy cuộc hôn nhân này thất bại. Sellitto là con ngựa thồ. ta là trong khoảng trăm thám tử hạng nhất trong lực lượng và từng giữ vị trí này nhiều năm – ta lên hạng vì có công trạng thực chứ phải chỉ vì thâm niên. ta làm việc tới tám mươi giờ tuần. Rhyme hề biết ta lấy vợ trong mấy tháng đầu tiên họ cùng làm việc.


      “Giờ sống ở đâu?” Rhyme hỏi, hy vọng rằng cuộc chuyện xã giao làm họ kiệt sức và biến .


      “Brooklyn. TạiHeights. Đôi khi tôi bộ làm. biết chế độ ăn kiêng định kỳ của tôi rồi chứ nhỉ? Vấn đề phải ăn kiêng. Mà là tập luyện.”


      ta trông béo hơn hay gầy hơn so với Lon Sellitto ba năm rưỡi trước đây. Hoặc Sellitto cách đây mười lăm năm.


      Banks : “Vậy, đó là bác sĩ. Để cho…”


      dạng điều trị mới à?” Rhyme hoàn thành câu hỏi. “Chính xác.”


      “Chúc may mắn.”


      “Cám ơn cậu rất nhiều”


      Giờ là 11:36. quá nửa buổi sáng từ lâu. Chậm trễ là điều thể tha thứ đối với người làm trong ngành y.


      nhìn thấy Banks ngó chân hai lần. tóm được cậu bé lần thứ hai và ngạc nhiên khi thấy viên thám tử đỏ mặt.


      Rhyme : “Tôi sợ rằng tôi có thời gian để giúp đỡ các .’


      “Nhưng bác sĩ vẫn chưa đến, đúng ?” Lon Sellitto hỏi bằng giọng cứng rắn mà ta thường dùng để xuyên thủng các câu chuyện bịa đặt của những nghi phạm giết người.


      Thom xuất ở cửa với ấm cà phê.


      “Đồ ngốc”, Rhyme buột miệng.


      “Lincoln quên mời các quý vị mấy thứ.”


      “Thom đối xử với tôi như đứa trẻ.”


      “Nếu đúng thế”, chàng trợ lý trả miếng.


      “Được rồi”, Rhyme thủng thẳng. “Mời dùng cà phê. Tôi uống ít sữa mẹ.”


      “Quá sớm, quán vẫn chưa mở cửa.” Thom . Và ta cũng khiến mặt Rhyme ửng đỏ.


      Ánh mắt Banks lại quét lần nữa cơ thể Rhyme. Có thể cậu ta nghĩ chỉ toàn da bọc xương. Nhưng tượng teo cơ chấm dứt lâu sau tai nạn và những nhân viên vật lý trị liệu đầu tiên của làm kiệt sức với các bài tập. Thom cũng là nhân viên vật lý trị liệu tốt, mặc dù đôi khi cậu ta giống như thằng ngốc, nhưng những lần khác lại tỏ ra như con gà mái già. Hằng ngày, cậu ta bắt Rhyme thực các bài tập ROM(14) thụ động. Kỹ càng ghi lại các chỉ số đo góc – thang đo dùng để đo mức độ chuyển động được ta áp dụng vào từng khớp xương trong cơ thể Rhyme. Kiểm tra cẩn thận mức độ suy căng cơ khi cậu ta tập cho chân tay bằng những chu kỳ dang khép cố định. Bài tập ROM phải phép màu nhưng nó tạo ra chút rắn chắc cho cơ bắp, giảm những cơn co cứng làm ta đuối sức và giữ cho máu lưu thông. Với người mà hoạt động cơ bắp chỉ giới hạn ở vai, đầu và ngón đeo nhẫn bên tay trái trong ba năm rưỡi tình trạng của Lincoln Rhyme phải là tệ.


      Viên thám tử trẻ rời mắt khỏi bảng điều khiển ECU(15) màu đen, rắc rối, nằm cạnh ngón tay Rhyme, được nối với những bộ điều khiển khác, những ống dẫn và dây cáp loằng ngoằng, được nối với chiếc máy tính và màn hình treo tường.


      Cuộc đời của chàng bị trói buộc, trước đó rất lâu, nhân viên trị liệu với Rhyme như thế. Ít nhất, đó là những chàng giàu có. Những chàng may mắn.


      Sellitto : “Sáng nay có vụ giết người ở West Side.”


      “Chúng tôi nhận được báo cáo về số người đàn ông, phụ nữ vô gia cư mất tích trong mấy tháng qua”, Banks . “Đầu tiên chúng tôi nghĩ có thể là trong số họ. Nhưng phải vậy”, cậu ta thêm đầy kịch tính. “Nạn nhân là trong những người đêm qua.”


      Rhyme tỏ vẻ trống rỗng trước khuôn mặt lấm chấm của chàng trai. “Những người?”


      ta xem thời ”, Thom . “Nếu cậu về vụ bắt cóc ta chưa nghe đến.”


      xem thời ?” Sellitto cười phá. “Ở SOB(16) đọc bốn tờ báo ngày và ghi lại bản tin địa phương để xem khi làm về. Blaine với tôi đêm gọi ấy là Katie Couric(17) trong khi làm tình.”


      “Giờ tôi chỉ đọc văn học”, Rhyme cách khoa trương, giả dối.


      Thom thêm: “Văn học luôn là tin mới.”


      Rhyme lờ cậu ta .


      Sellitto : “ người đàn ông và phụ nữ công tác từ Bờ Biển về. Lên chiếc Yellow Cab tại sân bay JFK. bao giờ về đến nhà.”


      “Có báo cáo lúc khoảng mười giờ ba mươi. Chiếc taxi chạy theo hướng BQE(18-) tại khu Queens. Hành khách nam và nữ da trắng ngồi ghế sau. Có vẻ họ thử đập cửa sổ. Đập kính. người nào có thẻ ghi hay đeo hình trái tim có lồng ảnh.”


      “Nhân chứng – người nhìn thấy chiếc taxi ấy có nhìn tay tài xế ?”


      ”.


      “Hành khách nữ?”


      có dấu hiệu gì của ta.”


      11:41. Rhyme điên tiết vì bác sĩ William Berger. “Làm ăn chán chết”, lầm bầm cách trống rỗng.


      Sellitto thở dài não nề.


      “Tiếp , tiếp ”, Rhyme .


      ta đeo chiếc nhẫn của ta”, Banks .


      “Ai đeo cái gì?”


      “Nạn nhân. Người ta vừa tìm thấy ta sáng nay. Tay ta đeo chiếc nhẫn của người phụ nữ. Người hành khách kia.”


      “Cậu chắc đấy là nhẫn của ta chứ?”


      “Có tên viết tắt của ta ở mặt trong chiếc nhẫn.”


      “Thế là đối tượng”, Rhyme tiếp tục, “kẻ muốn biết ta bắt được người phụ nữ và ta vẫn còn sống”.


      “Đối tượng gì?” Thom hỏi.


      Sellitto khi Rhyme lại lờ cậu ta : “Đối tượng chưa biết.”


      “Nhưng biết làm thế nào để đeo vừa nó vào ngón tau nạn nhân ?” Banks hỏi, hơi nhướn mắt để thêm ấn tượng với Ryhme. “Cái nhẫn của ta ấy mà?”

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :