Kẻ Nhắc Tuồng - Donato Carrisi(44c)(Trinh thám)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      [​IMG]

      Tên sách: Kẻ Nhắc Tuồng


      Nguyên tác: Il Suggeritore [Mila Vasquez #1]


      Tác giả: Donato Carrisi


      Dịch giả: Hoàng


      Nhà xuất bản: Phụ Nữ


      Số trang: 516


      Trọng lượng: 616 gram


      Hình thức bìa: Mềm


      Kích thước: 15.5 x 23 cm


      Giá bìa: 130.000


      Năm xuất bản: 2013


      ***


      Thực ebook: Hoàng Liêm


      Ngày hoàn thành: 30/01/2014


      Nơi hoàn thành: Hà Nội


      Nguồn: Smart Ebooks



      Nơi hoàn thành: Hà Nội


      Ebook: http://www.dtv-ebook.com






      Giới thiệu nội dung:








      Năm bé gái lần lượt bị mất tích.


      Năm cánh tay trái được tìm thấy trong khu rừng vắng.


      Khi phát hiện ra cánh tay thứ sáu, nhóm điều tra phải nhờ đến sự giúp đỡ của Mila Vasquez, nữ cảnh sát chuyên điều tra các vụ mất tích.


      Số phận của bé gái thứ sáu sẽ ra sao khi hung thủ tỏ ra rất khôn ngoan và luôn trước nhóm điều tra một bước.









      Giới thiệu tác giả:




      [​IMG]








      Donato Carrisi: sinh năm 1973 ở Ý, tốt nghiệp ngành Luật và Tội phạm học trước khi trở thành nhà viết kịch bản phim truyền hình. Kẻ Nhắc Tuồng là tiểu thuyết đầu tay của ông. Tác phẩm giành năm giải thưởng Văn học quốc tế, được dịch ra hơn 30 thứ tiếng, phát hành triệu bản và trở thành tượng Văn học trinh thám châu Âu năm 2010.

      Nhận định về tác phẩm:


      “Đố các bạn đoán trước được đoạn kết”.


      - The Guardian ()





      “Một tên sát nhân giấu mặt. Một bài toán hóc búa. Một thách đố thực sự. Một bức chân dung đầy ám ảnh của xã hội, của bạn và của tôi”.


      - ADGE Boston (Mỹ)





      “Một tác phẩm đã kịp trở thành kinh điển, một Millennium của Italia”.


      - Le Nouvel Observateur (Pháp)





      “Thú vị… câu chuyện hấp dẫn khủng khiếp”.


      - Publishers Weekly (Mỹ)





      “Đầy những lắt léo độc đáo bất ngờ… tác phẩm trinh thám lôi cuốn, thông minh và mê hoặc… biệt đãi thực dành cho những người mến văn học trinh thám”.


      - Waldeckische Landeszeitung (Đức)




    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Nhà tù tối mật, quận xxxx


      Trại giam số 45





      Báo cáo của giám đốc, Alphonse Bérenger


      Ngày 23 tháng 11





      Kính gửi: Văn phòng Chánh biện lý J.B. Marin





      Chủ đề: MẬT





      Thưa ông Marin,


      Tôi mạn phép viết thư này để lưu ý ông về trường hợp kỳ lạ của phạm nhân.


      Đối tượng được đề cập mang số tù RK-357/9. Sau đây chúng tôi xin gọi bằng số hiệu này, do lẽ ta chưa bao giờ chịu tiết lộ danh tính.


      Cảnh sát bắt đối tượng vào đêm 22 tháng 10. lang thang trong đêm mình và mặc quần áo, con lộ gần quận xxxx.


      Đối chiếu dấu vân tay với hồ sơ lưu trữ cho phép loại trừ liên đới của ta với các vi phạm trước đây cũng như với các tội ác chưa được làm sáng tỏ. Tuy nhiên, việc mực từ chối cung cấp danh tính, ngay cả lúc ở trước tòa, khiến đối tượng bị kết án bốn tháng mười tám ngày tù giam.


      Kể từ khi vào tù, phạm nhân RK-357/9 chưa bao giờ tỏ ra vô kỷ luật và luôn tuân thủ các quy định của nhà tù. Thêm vào đó, ta có bản tính độc và ít hòa đồng.


      Có lẽ cũng vì lý do này mà ai để ý đến hành vi lạ lùng của , cho đến gần đây, khi bị trong các quản giáo của chúng tôi nhận ra.


      Phạm nhân RK-357/9 lau chùi mọi đồ vật mà tiếp xúc bằng miếng dạ, nhặt tất cả lông và tóc rụng hàng ngày của mình, rửa kỹ lưỡng các đồ dùng ăn uống và vệ sinh sau mỗi lần sử dụng.


      Như vậy chúng ta gặp phải hoặc là tay cuồng sạch , hoặc rất có thể là kẻ muốn tránh bằng mọi giá việc để lại các “dấu vết sinh học”.


      Do đó, chúng tôi rất nghi ngờ rằng phạm nhân số hiệu RK-357/9 gây ra tội ác cực kỳ nghiêm trọng, và muốn ngăn cản chúng ta lấy mẫu ADN của để đem xác định danh tính.


      Cho đến hôm nay, đối tượng được giam cùng phòng với phạm nhân khác, kẻ chắc chắn giúp tiêu hủy các dấu vết sinh học. Tuy nhiên, xin thông báo để ông được biết, biện pháp xử lý đầu tiên của chúng tôi là đưa đối tượng ra khỏi buồng giam chung và biệt giam .


      Tôi lưu ý trường hợp này với văn phòng của ông để các ông mở cuộc điều tra, và nếu cần, xin các ông cho trát khẩn cấp của tòa án bắt buộc phạm nhân RK-357/9 phải cung cấp mẫu ADN.


      Vấn đề này rất khẩn cấp vì sau khoảng trăm lẻ chín ngày (tức ngày 12 tháng 3), đối tượng mãn hạn tù.





      Trân trọng kính chào,


      Giám đốc


      Alphonse Bérenger







      1








      địa điểm trong vùng phụ cận W., ngày 5 tháng 2.





      Tưởng như ông được con bướm khổng lồ đưa trong đêm tối. Bay dựa theo trí nhớ, nó đập đôi cánh bụi bặm, khéo léo tránh những ngọn núi im lìm như những gã khổng lồ nằm cạnh nhau.


      đầu họ, bầu trời mượt như nhung. Còn phía bên dưới là tán rừng rậm rạp.


      Viên phi công quay sang ông và giơ tay chỉ khoảng trống rộng hoác mặt đất nom như miệng núi lửa.


      Chiếc trực thăng rẽ sang hướng ấy.


      Bảy phút sau, họ hạ cánh xuống bên cạnh quốc lộ. Con đường bị phong tỏa, cảnh sát giám sát khu vực. người đàn ông mặc comlê xanh khom người dưới cánh quạt trực thăng còn quay tít đến đón vị khách vừa đến, nhọc nhằn giữ lấy chiếc càvạt bay phần phật.


      - Giáo sư Gavila, chúng tôi đợi ông. - ta hét toáng lên để át tiếng động cơ.


      Goran Gavila đáp.


      Đặc vụ Stern tiếp:


      - Mời ông theo lối này. đường tôi giải thích.


      Hai người men theo lối mấp mô, bỏ lại tiếng gầm rú của chiếc trực thăng cất cánh rồi mất hút trong màn đêm đen như mực.


      Màn sương mù như tấm vải liệm phủ lên các quả đồi, những mùi hương hỗn độn của khu rừng chung quanh họ được làm dịu bớt bởi làn hơi ẩm ban đêm lạnh lẽo lướt qua da thịt.


      - Bảo đảm với ông vụ này hề đơn giản. Ông cứ nhìn tận mắt rồi thấy.


      Đặc vụ Stern trước giáo sư Goran vài bước để mở đường xuyên qua các lùm cây, miệng vẫn tiếp tục trong khi mắt nhìn xung quanh.


      - Mọi chuyện bắt đầu từ sáng nay, tầm mười giờ. Hai cậu bé dắt chó dạo theo con đường mòn vào rừng. Chúng trèo lên đồi rồi tới trảng đất trống. Con chó giống Labrador, ông biết đấy, giống ấy ưa đào bới... Tự nhiên nó phát cuồng lên vì đánh hơi được thứ gì đó. Nó đào cái hố, và thế là cái đầu tiên xuất .


      Ông Goran tập trung bám theo Stern trong khi hai người sâu vào đám cây cối càng lúc càng rậm rạp sườn đồi cao dần. Ông để ý thấy ống quần của Stern hơi bị xước ở chỗ đầu gối, chứng tỏ hôm nay ta qua lại theo lối này nhiều lần.


      - Dĩ nhiên là bọn trẻ bỏ chạy ngay lập tức và báo cho cảnh sát địa phương. - Stern tiếp lời. - Họ liền đến đây khảo sát vị trí và các ngọn đồi, lùng tìm manh mối, tóm lại là làm theo đúng quy trình. Thế rồi người đề nghị tiếp tục đào bới để xem còn gì khác hay ... và cái thứ hai xuất ! Đến nước này họ phải cầu viện chúng tôi. Bọn tôi có mặt tại đây từ lúc ba giờ đêm. Chúng tôi vẫn chưa biết dưới này có bao nhiêu cả thảy. Đây, ta đến nơi rồi...


      Trước mặt hai người mở ra trảng đất trống được chiếu sáng bởi các luồng đèn rọi. Đúng là miệng núi lửa. Hương rừng đột ngột biến mất, chỉ còn thứ mùi chua nồng đặc trưng xộc thẳng vào mũi hai người. Goran ngẩng đầu, để cho mùi chua tràn vào mũi. Mùi phenol, ông tự nhủ.


      Rồi ông nhìn thấy chúng.


      Những cái hố nằm theo vòng tròn, cùng khoảng ba chục người đàn ông trong bộ áo liền quần màu trắng đào bới dưới ánh đèn halogen ma mị. Họ được trang bị xẻng và cọ để có thể làm sạch bụi đất cách nhàng. Vài người săm soi đám cỏ, trong khi những người khác chụp ảnh và lập danh sách mọi thứ tìm thấy. Những thao tác của họ chính xác, thành thục như bị thôi miên trong im lặng trang nghiêm chỉ thi thoảng bị gián đoạn bởi những tiếng đèn flash.


      Goran nhận ra hai đặc vụ Sarah Rosa và Klaus Boris. Chánh thanh tra Roche nhìn thấy ông và lập tức sải những bước dài tiến lại chào, nhưng chưa kịp mở miệng Goran hỏi độp luôn:


      - Có bao nhiêu cả thảy?


      - Năm. Dài năm mươi, rộng hai mươi, sâu năm mươi centimét... Theo ông, người ta chôn gì trong những cái hố như thế?


      thứ gì đó trong mỗi cái hố. Cùng thứ.


      Nhà tội phạm học nhìn ông ta, chờ đợi.


      Câu trả lời đến ngay lập tức:


      - cánh tay trái.


      Goran quay ra nhìn mấy người mặc đồ bảo hộ trắng lúi húi làm việc giữa cái nghĩa địa lộ thiên quái gở. Lòng đất chỉ cung cấp những mảnh thịt bị phân hủy, nhưng nguồn gốc của thứ tội ác ma quỷ này chắc hẳn phải xảy ra đâu đó trước thời điểm phi thực tế và lửng lơ này.


      - Là chúng à? - Goran hỏi. Nhưng lần này ông biết quá câu trả lời.


      - Theo phân tích mẫu ADN, chủ nhân của các cánh tay là những bé da trắng, tuổi từ chín đến mười ba...


      Những bé .


      Thanh tra Roche huỵch toẹt câu vừa rồi chẳng chút ngập ngừng như thể nhổ bãi nước bọt ngậm quá lâu trong miệng.


      Debby. Anneke. Sabine. Melissa. Caroline.


      Mọi chuyện bắt đầu trước đó hai mươi lăm ngày, khi mục tin vắn của tờ báo địa phương đề cập đến vụ mất tích của nữ sinh trong trường trung học dành cho con nhà giàu. Lúc đó ai cũng tưởng nó chỉ là vụ bỏ nhà bụi. Học sinh nữ mất tích tên là Debby, mười hai tuổi. Các bạn học của em còn nhớ nhìn thấy em ra về sau buổi học. Trong ký túc xá, mọi người chỉ nhận ra vắng mặt của bé vào lúc điểm danh buổi tối. Vụ việc có vẻ giống với những chuyện mà người ta chỉ dành cho vài hàng ở trang trong và lặng lẽ trôi vào quên lãng, trong khi chờ kết cục vui vẻ, dễ đoán.


      Nhưng sau đó, đến lượt vụ mất tích của Anneke.


      Nó xảy ra trong khu làng có những ngôi nhà gỗ và nhà thờ trắng. Anneke mới mười tuổi. Lúc đầu người ta tưởng lạc trong rừng, vì em thường đạp xe dạo trong đó. Toàn bộ dân làng tham gia tìm kiếm, nhưng vô hiệu.


      Trước khi kịp hiểu được chuyện gì thực diễn ra, việc lại tái diễn.


      Nạn nhân thứ ba tên là Sabine, bé nhất, mới lên bảy. Vụ mất tích xảy ra trong thành phố vào tối thứ Bảy. Bố mẹ Sabine dẫn em hội chợ như rất nhiều gia đình khác. Sabine trèo lên vòng xoay ngựa gỗ đầy con nít. Mẹ bé nhìn thấy con mình ở vòng đầu tiên và vẫy tay. Vòng thứ hai, bà lại vẫy tay. Đến vòng quay thứ ba bé biến mất.


      Đến lúc ấy, người ta bắt đầu cho rằng ba bé mất tích trong ba ngày liên tục là điều bình thường.


      Việc tìm kiếm diễn ra rất quy mô. Truyền hình bắt đầu vào cuộc. Mọi người bỗng chốc bàn tán về hay nhiều gã loạn óc, thậm chí cả băng cuồng sát. Nhưng có manh mối nào cho phép thu hẹp đối tượng điều tra. Cảnh sát thiết lập đường dây nóng để tiếp nhận thông tin, kể cả nặc danh. Họ nhận được hàng trăm cuộc gọi và mất hàng mấy tháng trời để xác minh toàn bộ, nhưng vẫn chẳng truy ra được tung tích của các bé . Thêm vào đó, những vụ mất tích xảy ra tại nhiều địa phương khác nhau và các cảnh sát khu vực tài nào thống nhất được phạm vi trách nhiệm điều tra.


      Đơn vị điều tra hình do thanh tra Roche đứng đầu lúc ấy mới vào cuộc. Tìm người mất tích thuộc phạm vi điều tra của họ, nhưng tâm lý hoảng loạn leo thang buộc họ phải đặt ra ngoại lệ.


      Roche và cả đội điều tra thứ tư mất tích.


      Melissa là bé lớn nhất, mười ba tuổi. Cũng như đối với mọi bé ở tuổi ấy, bố mẹ Melissa áp dụng lệnh giới nghiêm vì sợ con mình trở thành nạn nhân của tên cuồng sát làm cả nước lên cơn sốt. Nhưng lệnh cấm lại rơi vào ngày sinh nhật của Melissa, và dĩ nhiên tối hôm đó bé đâu chịu ngồi nhà. Cùng với đám bạn, Melissa bày ra kế hoạch để trốn ra khỏi nhà chơi bowling. Các bạn đều đến nơi cả, chỉ có Melissa là .


      Từ lúc đó, cuộc săn lùng trong náo loạn và tự phát bắt đầu diễn ra. Người ta động viên nhau vào cuộc, sẵn sàng đòi lại công lý. Cảnh sát chặn đường kiểm soát khắp nơi. Việc kiểm tra những cá nhân từng bị kết án hoặc nghi án trong các vụ lạm dụng trẻ em được siết chặt. Các bậc cha mẹ chẳng dám cho con em mình ra khỏi nhà dù là để đến trường. Nhiều trường học phải tạm nghỉ vì thiếu học sinh. Mọi người chỉ ra khỏi nhà khi cần thiết. Sau thời điểm nhất định trong ngày, ngoài đường vắng tanh vắng ngắt.


      Trong vài ngày liền thấy xảy ra vụ mất tích nào nữa. Nhiều người cho rằng các biện pháp để phòng phát huy tác dụng và khiến tên điên loạn kia chùn tay. Nhưng họ nhầm.


      Vụ bắt cóc bé thứ năm là vụ ly kỳ nhất.


      Nạn nhân tên Caroline, mười tuổi. Em bị bắt cóc ngay tại giường khi ngủ trong căn phòng sát phòng bố mẹ mà cả hai hề hay biết.


      Năm bé bị bắt cóc trong vòng tuần. Sau đó là mười bảy ngày có tin tức.


      Cho đến hôm nay.


      Cho đến năm cánh tay chôn dưới đất này.


      Debby. Anneke. Sabine. Melissa. Caroline.


      Goran nhìn vòng những cái hố. vòng tròn ghê rợn được kết bằng những cánh tay. Tưởng như ông có thể nghe thấy điệu nhạc múa vòng.


      - Kể từ lúc này, đây phải là mất tích đơn thuần. - Thanh tra Roche vừa vừa ra hiệu mời mọi người đến để vài lời.


      Như thông lệ, Rosa, Boris và Stern đến nhập hội với hai người, mắt cắm xuống đất, tay chắp sau lưng.


      Thanh tra Roche lên tiếng trước:


      - Tôi nghĩ đến kẻ đưa ta tới đây, tối hôm nay. Kẻ gây ra tất cả chuyện này. Chúng ta có mặt ở đây vì muốn thế, vì hình dung ra như thế. Và bày ra tất cả chuyện này cho chúng ta. Bởi vì, các bạn ạ, tất cả tấn tuồng này là dành cho chúng ta. Chỉ cho chúng ta mà thôi. chuẩn bị nó rất kỹ lưỡng và khoái trá thưởng thức khoảnh khắc này, phản ứng này của chúng ta. Để cho chúng ta phải kinh ngạc, cho chúng ta biết ai “vĩ đại và mạnh mẽ”.


      Mọi người gật gù tán thành.


      Dù là ai, thủ phạm của vụ này cũng chuồn êm ai hay biết.


      Thanh tra Roche, người từ lâu coi Gavila như thành viên của đơn vị, nhận thấy ông có vẻ lơ đãng, mắt đờ ra như thể chìm trong dòng suy nghĩ nào đó.


      - Thế còn ông, thưa tiến sĩ, ông nghĩ sao?


      Goran thoát ra khỏi im lặng và chỉ vỏn vẹn hai từ:


      - Lũ chim.


      Lúc đầu chẳng ai hiểu mô tê gì.


      Ông tiếp tục tỉnh như :


      - Lúc đến đây tôi để ý, giờ mới nhận ra. Lạ lắm. Hãy lắng nghe...


      Tiếng hót của hàng ngàn con chim tràn ngập cả khu rừng.


      - Chúng hót kìa. - Rosa kinh ngạc thốt lên.


      Gora quay về phía , gật gù.


      - Tại mấy cái đèn pha... Lũ chim tưởng là ánh sáng của bình minh. Thế nên chúng hót. - Boris nhận xét.


      - Mọi người có nghĩ điều này mang ý nghĩa nào đó ? - Goran tiếp, đưa mắt nhìn toán cảnh sát. - ra là có đấy... Năm cánh tay bị chôn vùi. Những mảnh thịt. thi thể. Có thể là, tàn nhẫn thực trong tất cả chuyện này. thi thể, có khuôn mặt. có khuôn mặt tức là có cá nhân, thậm chí có con người. Chúng ta chỉ phải tự hỏi những bé ở đâu. Vì các em nằm dưới mấy cái hố này. Chúng ta thể nhìn vào mắt các em. thể nhìn nhận các em như những người bình thường như chúng ta được. Bởi làm gì có con người trong chuyện này. Đó chỉ là những bộ phận... thương hại. cho phép chúng ta có được cảm xúc đó. chỉ dành cho ta sợ hãi. Chúng ta thể thương xót những nạn nhân tuổi này. muốn chúng ta chỉ biết các em chết... Mọi người có thấy chuyện này có ý nghĩa ? Hàng ngàn con chim trong đêm tối, bị dụ cho hót lên chung quanh nguồn sáng kỳ dị. Nhưng đó là sản phẩm của ảo giác. Hãy cảnh giác trước các ảo thuật gia: đôi khi, cái ác lừa mị chúng ta bằng hình thức giản đơn nhất.


      Mọi người lặng thinh. Thêm lần nữa nhà tội phạm học nắm bắt được điều mang tính biểu tượng, dù nhưng lại rất quan trọng. Điều mà những người khác thường thể nhìn thấy, hay trong trường hợp này là cảm thấy. Những chi tiết, đường nét, sắc thái. Bóng tối bao quanh các việc, và cái ác rình rập trong quầng tối.


      Mọi tên sát nhân đều có kế hoạch cụ thể, nhằm mang lại cho chúng thỏa mãn, thậm chí niềm kiêu hãnh. Cái khó nhất là hiểu được thế giới quan của chúng. Chính vì lẽ đó mà Goran có mặt ở đây. Vì lẽ đó mà họ vời ông đến. Để ông xử lý tội ác thể lý giải này bằng các kiến thức khoa học vững vàng của ông.


      Đúng lúc đó, kỹ thuật viên mặc đồ bảo hộ trắng đến gần nhóm người và báo cáo trực tiếp với chánh thanh tra bằng vẻ hoang mang ra mặt:


      - Thưa thanh tra, có vấn đề... Giờ chúng ta có những sáu cánh tay.







      2








      Thầy dạy nhạc lên tiếng.


      Nhưng đó phải là điều khiến chú ý. Đây phải lần đầu tiên. Rất nhiều người độc thành tiếng suy nghĩ của họ những lúc ở trong nhà mình. Ngay cả Mila cũng thỉnh thoảng tự chuyện mình khi ở nhà.


      , điều mới mẻ ở đây là chuyện khác. Nó là phần thưởng cho cả tuần rình rập, ngồi chịu trận trước cái lạnh cắt thịt trong chiếc xe hơi đậu phía trước ngôi nhà màu nâu để theo dõi tình hình trong nhà với cặp ống nhòm xíu. Đối tượng của gã đàn ông trạc bốn mươi tuổi, to béo và trắng trẻo. bình thản lại giữa gian ngăn nắp của mình, lặp lặp lại các cử chỉ ấy, tựa như dệt tấm mạng nhện chỉ mình trông thấy.


      Thầy dạy nhạc lên tiếng, nhưng lần này điều mới mẻ là thốt ra cái tên.


      Mila nhìn thấy nó phát ra từ môi , từng chữ cái . Đó chính là điểm then chốt cho phép len vào trong cái thế giới bí của . Giờ biết.


      Thầy dạy nhạc có người khách.


      Mươi ngày trước đó, Pablo chỉ là cậu bé tám tuổi, tóc nâu và đôi mắt lanh lợi, thích chơi trượt ván trong khu phố nhà mình. Nếu Pablo phải mua đồ cho mẹ hoặc bà, chắc chắn cậu bằng ván trượt có bánh xe. Cậu dành hàng giờ để chạy tới chạy lui đường cùng nó. Đối với những người hàng xóm thường trông thấy cậu phóng qua trước cửa sổ nhà mình, Paplito - cái tên mà mọi người dùng để gọi cậu bé - trở thành phần của quang cảnh khu phố.


      Có lẽ cũng vì điều đó mà ai nhận thấy gì vào buổi sáng ngày thứ Bảy trong tháng Hai ấy, tại khu phố nơi mà ai cũng biết tên tuổi của nhau, nơi mà mọi căn nhà và mọi cảnh đời đều tương tự như nhau. chiếc Volvo màu xanh xuất phố - thầy dạy nhạc hẳn chọn nó vì nó giống với đám xe hơi đậu những con đường . yên lặng của buổi sáng thứ Bảy hoàn toàn bình thường bị phá vỡ bởi tiếng lốp xe nghiến chầm chậm lớp nhựa đường và tiếng lạo xạo mờ nhạt của chiếc ván trượt tăng dần tốc độ... Mất sáu giờ sau mới có người để ý rằng trong những thanh của buổi sáng thứ Bảy thiếu mất điều gì đó. Tiếng lạo xạo. Và vào buổi sáng nắng lạnh tê người ấy, cậu bé Pablo bị nuốt chửng bởi cái bóng ghê rợn nhất quyết nhả cậu ra, chia tách cậu với chiếc ván trượt quý.


      Tấm ván có bốn bánh xe rốt cuộc nằm chỏng chơ giữa toán cảnh sát kéo đến khu vực ngay khi có người báo động.


      Giờ đây, mười ngày sau, có thể quá muộn để cứu Pablo. Quá muộn cho tâm hồn mong manh thơ dại của cậu bé. Quá muộn để đánh thức cậu khỏi cơn ác mộng mà phải chịu ảnh hưởng gì.


      Lúc này tấm ván trượt nằm trong cốp xe của nữ cảnh sát cùng với những món vật dụng khác như đồ chơi và quần áo. Những manh mối mà Mila dùng để tìm kiếm dấu vết và dẫn tới cái sào huyệt sơn màu nâu này. Tới ông thầy giáo dạy nhạc trong trường trung học và chơi organ tại nhà thờ mỗi sáng Chủ nhật, đồng thời là phó chủ tịch hiệp hội nhạc chuyên tổ chức liên hoan nhạc Mozart quy mô hàng năm. người đàn ông độc thân nhút nhát vô danh tiểu tốt, mắt đeo kính, hói đầu bẩm sinh và có đôi bàn tay mềm, ướt mồ hôi.


      Mila quan sát rất cẩn thận. Vì đó là năng khiếu của .


      vào ngành cảnh sát với mục đích ràng và dồn hết tâm huyết của mình cho nghề nghiệp sau khi rời học viện. chẳng hứng thú gì với bọn tội phạm, chưa tới luật pháp. Đó phải là lý do khiến ngừng sục sạo mọi ngóc ngách tối tăm, nơi cuộc sống cứ thế thối rữa ra.


      Khi nhìn thấy môi của tên cai ngục kia mấp máy cái tên Pablo, Mila cảm thấy cơn đau nơi chân phải. Có lẽ đó là do ngồi quá lâu trong xe để chờ đợi dấu hiệu kia. lại thấy đau thêm lần nữa, chắc là vì vết thương nơi bắp đùi mà tự tay băng bó.


      Mình xử lý nó sau, tự hứa với bản thân. Chỉ sau khi xong việc. Trong khi suy nghĩ, Mila nhận thấy mình sẵn sàng để vào trong căn nhà, phá vỡ lớp bùa chú và đặt dấu chấm hết cho cơn ác mộng.


      - Cảnh sát Mila gọi trung tâm: nhận diện được nghi phạm bắt cóc cậu bé Pablo Ramos. Ngôi nhà có màu nâu ở số 27 đại lộ Alberas. Tình huống có thể nguy hiểm.


      - Tốt, cảnh sát Vasquez, chúng tôi cử viện binh đến, nhưng phải mất ít nhất ba mươi phút nữa.


      Quá lâu.


      Mila có nhiều thời gian đến thế. Pablo còn nhiều thời gian.


      Nỗi sợ phải ra hai chữ “quá muộn” khi báo cáo tình hình thôi thúc tiến về phía ngôi nhà.


      Bỏ lại tiếng bộ đàm văng vẳng, súng lục lăm lăm, cánh tay hạ thấp quá trọng tâm cơ thể, mắt nhìn cảnh giác, chân bước những bước nhanh và ngắn, Mila tiến đến hàng rào gỗ sơn màu kem bao quanh căn nhà .


      cây tiêu huyền đồ sộ phủ bóng trùm lên . Những chiếc lá đổi màu trong gió, lấp lánh ánh bạc. Mila dán người vào hàng rào, dỏng tai nghe ngóng. Thinh thoảng tiếng trống của bài hát rock vang đến chỗ , hẳn nó được gió mang đến từ nơi lân cận. Mila nghiêng người qua cánh cổng gỗ và thấy mảnh vườn được cắt tỉa gọn gàng, cái chòi cất dụng cụ, đoạn ống nước màu đỏ chạy dích dắc qua bãi cỏ đến vòi phun, mấy món đồ bằng nhựa và cái lò nướng ga. Tất cả đều rất bình thường. cánh cửa màu hoa cà với lớp kính mờ. Mila vươn tay qua cánh cổng và khéo léo nhấc then. Các bản lề kêu rin rít khi mở hé cánh cổng đủ rộng để lách người qua.


      đóng cổng để ai trong nhà nhận thấy khác biệt khi nhìn ra ngoài. Mọi thứ phải ở nguyên chỗ của nó. Rồi như được huấn luyện, thận trọng đặt từng bước chân lên thảm cỏ - chỉ bằng mũi chân để lưu lại dấu vết - và sẵn sàng bật nhảy khi cần thiết. lát sau, ở bên cạnh cửa hậu, ở phía đổ bóng khi thò đầu nhìn vào trong nhà. Lớp kính mờ khiến thể quan sát bên trong, nhưng nhìn hình dáng của đồ đạc có vẻ như đó là phòng khách. Mila đưa tay tới nắm cửa ở phía bên đối diện, vặn nó xuống. Khóa cửa kêu tách.


      Cửa mở.


      Thầy dạy nhạc chắc hẳn cảm thấy rất an toàn trong hang ổ mà chuẩn bị cho mình và cho tù nhân của mình. Chẳng mấy chốc Mila hiểu tại sao.


      Sàn nhà trải vải nhựa kêu kin kít khi tiếp xúc với đế giày cao su của trong mỗi bước . Mila cố gắng điều chỉnh dáng để gây ra quá nhiều tiếng động, nhưng sau đó đành phải cởi luôn đôi giày thể thao và đặt nó cạnh cái tủ. Bước đôi chân trần, lần đến cuối hành lang và nghe thấy tiếng chuyện của :


      - Tôi cũng muốn đặt gói khăn lau vạn năng. Cùng với sản phẩm tẩy rửa gốm sứ... Đúng rồi, loại ấy đấy... Tiếp theo, mang cho tôi sáu hộp súp gà, đường, tờ chương trình tivi và hộp thuốc lá loại , hiệu như mọi lần...


      Tiếng vọng ra từ trong phòng khách. Thầy dạy nhạc mua hàng qua điện thoại. Quá bận nên thể ra khỏi nhà chăng? Hay là muốn rời xa nó, để có thể kiểm soát nhất cử nhất động của con tin?


      - Phải, số 27 đại lộ Alberas, cám ơn. Vui lòng cầm theo tiền thối cho năm mươi đồng, vì tôi chỉ có tiền loại ấy thôi.


      Mila lần theo giọng ngang qua cái gương cho hình ảnh phản chiếu méo mó giống như ở nhà gương trong hội chợ. Khi đến ngưỡng cửa phòng, giương súng lên, hít hơi rồi đột ngột bước qua cửa. cứ ngỡ mình làm đối phương bất ngờ trong khi đứng cạnh cửa sổ, lưng quay về phía cửa phòng, điện thoại vẫn còn trong tay. mục tiêu hoàn hảo.


      Nhưng chẳng thấy đâu.


      Phòng khách trống , ống nghe gác điện thoại. Khi hiểu ra chẳng có ai gọi điện từ trong phòng này cảm thấy nòng súng lạnh ngắt chạm vào gáy mình.


      ở sau lưng .


      Mila rủa thầm trong bụng, tự gọi mình là con ngốc. Thầy dạy nhạc sửa soạn rất kỹ lưỡng sào huyệt của . Cánh cổng vườn kêu ken két và lớp vải nhựa rin rít chính là lời cảnh báo khi có kẻ đột nhập. Từ đó mới có trò giả vờ gọi điện thoại, thứ mồi nhử để thu hút con mồi. Cái gương dị dạng là để có thể đứng phía sau bị trông thấy. Tất cả là cái bẫy.


      Mila cảm thấy tay vươn đến tước súng của mình. để yên cho làm.


      - Mày có thể bắn tao, nhưng đừng vội mừng. Đồng đội tao sắp đến rồi. Mày thoát được đâu. Tốt hơn là tự nộp mình .


      rằng. Qua khóe mắt, Mila có cảm tưởng như nhìn thấy . cười chăng?


      Thầy dạy nhạc lùi lại, họng súng rời khỏi gáy Mila, nhưng vẫn còn cảm thấy lực hút giữa đầu mình và viên đạn trong nòng. Thế rồi gã đàn ông vòng qua người và bước đến trước mặt. nhìn chòng chọc lúc lâu. Nhìn mà như nhìn. Trong đáy mắt có cái gì đó, tựa như căn buồng tăm tối.


      Thầy dạy nhạc đường hoàng quay lưng lại với . Mila thấy thẳng đến chỗ chiếc đàn piano kê sát tường. Khi đến nơi, ngồi xuống ghế và đưa mắt nhìn các phím đàn. Đặt hai khẩu súng xuống phía bên trái, nâng tay lên rồi lập tức thả những ngón tay xuống các phím đàn.


      Bản dạ khúc số 20 cung Đô thăng thứ của Chopin vang lên tràn ngập căn phòng. Mila hít mạnh. Cơn co cứng lan tỏa khắp các thớ cơ cổ của . Những ngón tay của thầy dạy nhạc lướt phím đàn cách điêu luyện và nhàng. Những nốt nhạc êm dịu khiến Mila bỗng chốc thành người thưởng ngoạn màn biểu diễn, tựa như bị thôi miên.


      Nhưng cương quyết bắt mình phải tỉnh táo lại và lướt về phía sau đôi chân trần, chậm rãi, cho đến khi ra hẳn ngoài hành lang. lấy lại hơi thở, cố kìm hãm nhịp tim của mình, rồi bắt đầu tìm kiếm các căn phòng trong tiếng nhạc riết róng. kiểm tra từng căn : phòng làm việc, phòng tắm, phòng ăn. Rồi đến lượt cánh cửa đóng kín.


      Mila đẩy cửa. Vết thương ở đùi làm nhức nhối, nên dồn toàn lực vào vai. Cánh cửa gỗ bật mở.


      Ánh sáng yếu ớt ngoài hành lang là thứ đầu tiên tràn vào trong căn phòng có các cửa sổ bị bịt kín. Mila bước theo luồng sáng vào trong, và vấp phải đôi mắt ươn ướt nhìn trừng trừng vào như hóa đá. Pablo ngồi giường, co hai chân vào bộ ngực gầy còm. người thằng bé mặc độc cái quần lót và chiếc áo ba lỗ. Nó cố nghĩ xem liệu mình có nên hoảng sợ hay , liệu Mila có phải là phần của cơn ác mộng này . với cậu bé câu quen thuộc mà vẫn luôn mỗi khi tìm ra đứa trẻ.


      - thôi cháu.


      Thằng bé ưng thuận, giơ tay ra nắm lấy đôi tay . Mila vẫn nghe ngóng tiếng nhạc vang lên đầy ám ảnh. sợ bản nhạc đủ dài và hai người có đủ thời gian để ra khỏi ngôi nhà. lại bắt đầu lo lắng đến vấn đề khác. đặt mạng sống của mình và con tin vào vòng nguy hiểm, nên giờ thấy sợ. sợ mình lại mắc sai lầm, sợ làm lỡ cơ hội thoát thân cuối cùng này, sợ là ngôi nhà khép chặt cửa như cái tổ nhớp nhúa, giữ rịt lấy mãi mãi.


      Nhưng cửa mở được, và hai cháu bước ra vùng ánh sáng ban ngày tuy yếu nhưng an lành.


      Khi nhịp tim Mila chậm lại, khi thôi nghĩ đến khẩu súng bỏ lại trong nhà và ôm chặt Pablo, dùng cơ thể mình như cái khiên ấm áp để trấn an nó, thằng bé ghé miệng vào tai thầm:


      - Còn chị ấy, chị ấy ra hở ?


      Đôi chân của Mila như lún xuống đất trước sức nặng đột ngột, lảo đảo, nhưng vẫn giữ được thăng bằng.


      - Chị ấy ở đâu?


      Thằng bé giơ tay chỉ lên tầng của ngôi nhà. Ngôi nhà giương các cửa sổ nhìn hai cháu và cười ngạo nghễ bằng khuôn cửa mở rộng vừa để cả hai thoát ra ngoài.


      Lúc ấy nỗi sợ của hoàn toàn biến mất. Mila chạy nốt quãng đường ngắn ngủi còn lại đến bên chiếc xe hơi của mình, đặt Pablo vào trong xe, rồi bình tĩnh với cậu bé:


      - quay lại ngay.


      Thế rồi quay trở lại ngôi nhà, tự nguyện để mình bị nuốt gọn trong cái miệng toang hoác kia.





      Mila đứng dưới chân cầu thang. nhìn lên phía , tự hỏi mình tìm thấy gì đó. bám lấy lan can cầu thang để trèo lên. Giai điệu của Chopin vẫn hề ngắt quãng, bám theo trong cuộc tìm kiếm. Đôi bàn chân Mila nhấn sâu vào các bậc thang, trong khi hai tay dính vào hàng lan can như muốn níu chặt rời.


      Tiếng nhạc đột ngột chấm dứt.


      Mila sững người, các giác quan căng ra cảnh giác. Tiếp đó là tiếng vang khô khốc của phát súng, tiếng thình và những phím đàn vang lên hỗn loạn dưới trọng lượng cơ thể của thầy dạy nhạc. Mila trèo nhanh lên tầng . thể biết chắc đây có phải là cái bẫy hay . Cầu thang kết thúc và bậc thang cùng nối vào hành lang hẹp trải thảm dày. Cuối hành lang là cái cửa sổ. Còn phía trước nó, là thân người. Dặt dẹo, mong manh, nổi bật nền sáng, trẻ đặt đôi chân chiếc ghế, vươn cổ và hai tay về phía nút thòng lọng từ trần nhà buông xuống. Mila trông thấy tròng đầu vào thòng lọng. thét lên. nhìn thấy Mila và cuống cuồng làm nhanh hơn. Bởi đó là điều mà bảo, điều mà thuộc nằm lòng.


      “Nếu bọn họ đến, con phải tự sát”.


      “Bọn họ”, đó là những người khác, từ thế giới bên ngoài, những kẻ chịu thông hiểu và bao giờ tha thứ.


      Mila lao bổ về phía , tuyệt vọng tìm cách ngăn em lại. Càng đến gần, càng có cảm giác như lao ngược trở về quá khứ.


      Bởi nhiều năm trước, ở trong cuộc sống khác, trẻ này từng là đứa bé.


      Mila còn nhớ như in tấm ảnh của bé. nghiên cứu nó rất tỉ mỉ, từng đường nét , ghi nhớ trong đầu từng nếp nhăn biểu cảm, vừa làm vừa phân loại và lưu giữ mọi dấu hiệu riêng biệt, ngay cả những tì vết nhất da bé.


      Và đôi mắt ấy. Với sắc xanh rực rỡ và sống động. Có thể lưu giữ trọn vẹn ánh chớp của đèn flash. Đôi mắt của mười tuổi, Elisa Gomes. Tấm ảnh được bố bé chụp. khoảnh khắc bất chợt trong ngày lễ, khi bé chuẩn bị mở gói quà. Mila thậm chí hình dung ra bối cảnh của bức ảnh. Bố Elisa cất tiếng gọi con bé để làm nó bất ngờ. Và Elisa quay sang bố, thậm chí chưa kịp ngạc nhiên. nét mặt vĩnh viễn được ghi lại, điều gì đó mà mắt thường thể chộp bắt được. nụ cười tuyệt vời chớm nở đôi môi Elisa ngay trước khi thành hình và khiến đôi mắt của bé sáng lên như ánh sao tân sinh.


      Chính vì lý do đó mà Mila bất ngờ khi bố mẹ Elisa đưa cho bức ảnh này lúc cầu họ cung cấp tấm hình mới chụp của con mình. Đó phải là bức ảnh thích hợp nhất, nét biểu cảm tự nhiên của Elisa khiến cho khó có thể sử dụng nó để thực các thay đổi, chẳng hạn như làm cho khuôn mặt già theo thời gian. Các thành viên khác trong đội điều tra phàn nàn điều này, nhưng đối với Mila, chuyện đó quan trọng, bởi vì trong bức ảnh có cái gì đó, thứ năng lực khác lạ. Đó chính là thứ mà họ cần tìm. phải khuôn mặt như những khuôn mặt khác, đứa trẻ như những đứa trẻ khác. Mà là bé này, với nguồn sáng trong đôi mắt ấy. Mong rằng ai có thể làm ánh sáng đó tắt ...


      Mila ngăn lại vừa kịp lúc. tóm lấy hai chân của trước khi kịp thả người sợi dây thòng lọng. trẻ vùng vẫy, gào thét chống cự.


      - Elisa. - Mila gọi tên nhàng.


      bừng tỉnh.


      Elisa quên mất mình là ai. Những năm tháng bị giam cầm tước nhân thân của , mỗi ngày ít. Cho đến khi tự thuyết phục mình rằng người đàn ông ấy là gia đình của mình, vì những người khác lãng quên . Những người khác bao giờ cứu . Elisa ngạc nhiên nhìn vào mắt Mila, bình tĩnh trở lại và để cho mình được giải cứu.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      3








      Sáu cánh tay. Năm cái tên.


      Cùng với bí đó, nhóm điều tra rời khoảng đất trống giữa rừng để đến trạm nghỉ lưu động đặt cạnh quốc lộ. Cà phê và thức ăn có vẻ thích hợp trong hoàn cảnh này, mặc dù nó giúp tạo ra kiểm soát giả tạo. Dù sao cũng chẳng có ai đụng đến đồ ăn trong cái lạnh buốt của buổi sáng tháng Hai này.


      Stern lấy từ trong túi ra hộp kẹo ngậm bạc hà. lắc lắc hộp kẹo, đổ ra tay vài ba viên rồi tống luôn vào họng. vẫn bảo nó giúp suy nghĩ.


      - Sao có thể xảy ra chuyện này được chứ? - Stern cất tiếng, tự hỏi mình nhiều hơn là hỏi những người khác.


      - Chó… - Boris buột miệng, nhưng đến nỗi ai nghe thấy.


      Rosa tìm kiếm điểm ở bên trong chiếc xe cắm trại để nhìn đăm đăm vào nó. Goran nhận thấy điều đó. Ông rất hiểu, cũng có đứa con trạc tuổi những bé kia. Con cái mình. Đó là điều đầu tiên người ta nghĩ đến trước tội ác đối với trẻ em. Và họ tự hỏi điều gì xảy ra nếu... Nhưng họ dám nghĩ nốt vế sau, vì nó quá tàn nhẫn.


      - cung cấp cho chúng ta từng mảnh thi thể. - Chánh thanh tra Roche lên tiếng.


      - Thế ra đấy là công việc của chúng ta à? Nhặt xác ấy? - Boris hỏi xóc.


      Là con người của hành động, thể chịu nổi khi thấy mình phải làm công việc của phu đào huyệt. muốn truy tìm thủ phạm. Những người khác cũng vậy. Tất cả đều đồng tình với câu của .


      Roche trấn an cả nhóm:


      - Ưu tiên hàng đầu luôn là lùng bắt thủ phạm. Nhưng chúng ta thể miễn cho mình công việc tìm thi thể kinh khủng này được.


      - ràng là có sắp đặt.


      Mọi người đều nhìn vào giáo sư Goran đầy ngạc nhiên.


      - Con chó tìm ra cánh tay và đào đất, đó là phần của “kế hoạch”. biết hai cậu bé đưa con chó dạo trong rừng. Chính vì thế đặt khu nghĩa trang của ngay tại địa điểm đó. ý đồ đơn giản. hoàn tất “công việc” của mình, và cho chúng ta xem. Thế thôi.


      - Ý ông là, phải chúng ta phát ra à? - Boris tức giận hỏi, tài nào tin được chuyện đó.


      - biết hơn tôi những chuyện như thế này diễn ra thế nào mà...


      - Nhưng thực điều đó, đúng sao? lại giết người… - Rosa , chịu chấp nhận. - rất thành công, tiếp tục.


      Rosa muốn nghe lời phản bác, nhưng Goran thể. Và kể cả là có quan điểm về chuyện này, ông cũng biết diễn đạt thế nào cho dễ chấp nhận tàn nhẫn của việc bị giằng xé giữa ý nghĩ về những cái chết thê thảm kia và mong muốn vô tâm rằng kẻ sát nhân ra tay lần nữa. Bởi vì, như mọi người đều biết, khả năng duy nhất để tóm được ngừng việc giết chóc lại.


      Thanh tra Roche lên tiếng:


      - Nếu chúng ta tìm được thi thể của các cháu bé, ít ra gia đình của nạn nhân cũng có thể tiến hành chôn cất cho tử tế.


      Như thường lệ, Roche thường lật lại vấn đề để nhìn nhận nó cách khách quan nhất có thể. Đó là tổng dượt cho điều mà ông với báo chí, để xoa dịu việc tránh ảnh hưởng tới tên tuổi mình. Đầu tiên là tang lễ, đau buồn, để thêm thời gian. Sau đó mới đến cuộc điều tra và các thủ phạm.


      Nhưng Goran thừa biết là chiến thuật đó thành công, cánh nhà báo mổ xẻ vụ án và thêm thắt các chi tiết kinh tởm nhất. Và nhất là, kể từ lúc đó, nhóm điều tra được lượng thứ bất kỳ điều gì. Nhất cử nhất động của họ, mọi lời ăn tiếng của họ được gán cho giá trị của hứa hẹn, lời cam kết long trọng. Roche tin tưởng có thể buộc được giới truyền thông phải tôn trọng mình bằng cách nhả cho họ ít những điều mà họ muốn nghe, và Goran để yên cho ngài chánh thanh tra mặc sức bay bổng với cái ảo tưởng làm chủ tình hình mong manh ấy.


      - Tôi tin rằng ta phải đặt cho gã này cái tên... trước khi báo chí làm chuyện đó. - Roche .


      Goran đồng tình, nhưng phải vì cùng lý do với ngài chánh thanh tra. Giống như mọi nhà tội phạm học làm việc trong ngành cảnh sát, ông có những phương pháp riêng của mình. Trước hết, phải gắn các đặc điểm cho tên tội phạm, để con người hóa hình ảnh vẫn còn rất lờ mờ và sơ sài. thực tế, trước tội ác man rợ và vô cớ đến vậy, người ta có khuynh hướng quên mất rằng thủ phạm chỉ là con người, cũng giống như nạn nhân, có cuộc sống nhiều khi rất bình thường, có công ăn việc làm, và đôi khi còn có cả gia đình nữa. Để củng cố cho giả thiết này, giáo sư Goran Gavila luôn nhắc nhở các sinh viên của mình rằng gần như trong tất cả các vụ, việc bắt giữ tên tội phạm giết người hàng loạt là điều hoàn toàn gây chấn động đối với hàng xóm láng giềng và người thân của .


      “Chúng ta gọi chúng là quái vật, vì chúng ta cảm thấy chúng quá xa lạ với mình, nên chúng ta muốn chúng khác biệt”, giáo sư Goran từng như thế trong bài giảng của mình. “Ngược lại, bọn chúng hoàn toàn khác gì chúng ta. Nhưng ta cứ thích chối bỏ suy nghĩ rằng kẻ đồng loại với mình lại có thể tàn bạo đến thế. Tựa như miễn tội cho bản chất của con người chúng ta. Những nhà nhân loại học gọi đó là ‘ giải thể nhân cách của tội phạm’, và đó thường là trở ngại chính trong việc nhận dạng tên giết người hàng loạt. con người luôn có các điểm yếu và có thể bị bắt. Còn con quỷ ”.


      Để minh họa cho điều này, Goran từng cho treo trong phòng học bức ảnh đen trắng chụp đứa trẻ. cậu bé mũm mĩm, vô hại. Các sinh viên của ông nhìn nó mỗi ngày và trở nên thân thuộc với hình ảnh đó. Cho đến ngày - vào khoảng giữa học kỳ - ai đó đánh bạo hỏi ông cậu bé là ai. Ông thách họ đoán. Những câu trả lời rất đa dạng và đầy liên tưởng. Và rồi ông khoái chí quan sát nét mặt của các sinh viên khi tiết lộ rằng cậu bé đó chính là Adolf Hitler.


      Sau chiến tranh, tên trùm phát xít Đức trở thành con quái vật trong tâm tưởng của mọi người, và trong nhiều năm trời, những quốc gia giành chiến thắng chống lại tất cả những cách nhìn nhận khác về Hitler. Đến mức chẳng ai biết tới những tấm ảnh thời thơ ấu của tên độc tài. con quái vật thể nào từng là đứa trẻ, thể có được tình cảm nào khác ngoài thù hận, và thể nào từng sống cuộc sống tương tự như những đứa trẻ đồng lứa khác, những trẻ em mà sau này trở thành nạn nhân của .


      “Đối với nhiều người, nhân tính hóa Hitler tức là ‘lý giải’ ”, sau đó Goran với cả lớp. “Nhưng xã hội ngụy biện rằng, cái ác tột cùng thể cắt nghĩa hoặc hiểu thấu, vì nếu làm điều đó tức là ta tìm cách bào chữa cho nó”.


      Trong chiếc xe cắm trại cơ động, Boris đề nghị đặt tên “Albert” cho thủ phạm của nghĩa địa cánh tay, như là kỷ niệm về chuyện cũ. Ý kiến của được những người có mặt hồ hởi đón nhận, nên họ quyết định luôn.


      Ngày qua ngày, Albert hoàn chỉnh dần diện mạo. chiếc mũi, hai con mắt, khuôn mặt, cuộc sống. Mỗi người có cách nhìn riêng của mình, và còn là bóng ma lẩn khuất nữa.


      - Albert à? - Khi buổi họp kết thúc, Roche vẫn còn cân nhắc về giá trị truyền thông của cái tên này. Ông lặp lặp lại, nhẩm nha nó. Có lẽ được đây.


      Nhưng điều vẫn còn làm bận lòng ngài chánh thanh tra. Ông với Goran:


      - , tôi đồng tình với Boris. Lạy Chúa! Tôi thể ép người của mình nhặt xác trong khi gã loạn thần kinh biến chúng ta thành cả lũ ngu!


      Goran biết thừa khi Roche đến “người của mình”, chủ yếu ông ta muốn đến chính mình. Chính ông ta mới là người sợ trưng ra được bất cứ kết quả nào. Cũng chính ông ta là người sợ rằng ai đó khui ra năng lực yếu kém của cảnh sát liên bang nếu như họ bắt được thủ phạm.


      Hơn nữa, vẫn còn đó câu hỏi về cánh tay thứ sáu.


      - Tôi nghĩ chúng ta tiết lộ về tồn tại của nạn nhân thứ sáu.


      Goran chưng hửng.


      - Thế làm thế nào chúng ta biết cánh tay đó của ai?


      - Tôi tính hết rồi, ông đừng lo...





      Trong nghiệp của mình, Mila Vasquez giải quyết được tám mươi chín vụ mất tích. nhận được ba huy chương và hàng loạt bằng khen. được coi như chuyên gia trong lĩnh vực này, và mọi người thường tham vấn ý kiến , kể cả từ nước ngoài.


      Chiến dịch buổi sáng hôm ấy giải cứu được Pablo và Elisa, có thể coi đó là chiến thắng tuyệt đối. Mila gì. Nhưng nó làm áy náy. những muốn thừa nhận các sai lầm của chính . Tự mình đột nhập vào hang ổ kẻ thù mà có lực lượng hỗ trợ, đánh giá thấp tình hình và mắc bẫy, đánh liều mạng sống của bản thân và con tin khi để cho kẻ tình nghi tước vũ khí rồi chĩa súng vào gáy mình. Và cuối cùng, ngăn cản được vụ tự sát của thầy giáo dạy nhạc.


      Nhưng tất cả những điều đó được cấp của bỏ qua hết, chẳng những thế họ càng thổi phồng công trạng của trong lúc được cánh báo chí săn ảnh.


      Mila bao giờ xuất trong những bức ảnh đó. Lý do chính thức mà đưa ra là muốn giấu kín danh tính của mình để còn tiếp tục nghiệp điều tra sau này. Nhưng thực là ghét bị chụp ảnh. Thậm chí còn chịu nổi hình ảnh mình trong gương. phải vì đẹp, ngược lại là đằng khác. Nhưng, ở vào cái tuổi ba mươi hai này, những ngày tháng miệt mài trong phòng tập tước mất toàn bộ vẻ nữ tính của . Mọi đường cong, mọi nét mềm mại. Như thể việc làm phụ nữ là điều cần phải xóa bỏ. hay mặc đồ của đàn ông tuy hề nam tính. Đơn giản là chẳng có nét gì tiết lộ giới tính của mình cả. Mà cũng muốn thế. Trang phục của giới nào cũng mặc được. Quần jean quá bó sát, giày thể thao thoải mái, áo khoác da. Chúng chỉ là quần áo, gì hơn. Chức năng của chúng là giữ ấm và che thân. chẳng mất nhiều thời gian để chọn đồ, cứ thế mua và mặc. Thường là mua cùng món nhiều lần. Có quan trọng gì đâu. thích thế.


      Được vô hình giữa những người tàng hình.


      Cũng vì thế mà có thể dùng chung phòng thay đồ với cánh đàn ông.


      Suốt mười phút vừa qua, Mila nhìn cái tủ đựng đồ mở toang của mình trong lúc điểm lại những kiện trong ngày. có việc gì đó phải làm, nhưng tâm trí cứ để đâu đâu. Sau đó, cơn đau nhói ở bắp đùi đưa về thực tại. Vết thương của lại bị mở miệng. cố cầm máu bằng bông băng, nhưng vô ích. Mảnh da quanh vết cắt quá ngắn, khiến thể làm tốt việc khâu vết thương. Chắc là lần này phải khám bác sĩ, nhưng thích bệnh viện. Quá nhiều câu hỏi. quyết định băng chặt hơn, với hy vọng cầm được máu, rồi sau đó thử khâu lại lần nữa. Nhưng dù sao cũng phải dùng kháng sinh để tránh nhiễm trùng. Mila xoáy cho mình toa thuốc rởm, nhờ tay thỉnh thoảng vẫn cung cấp thông tin cho về những kẻ mới đến trong đám người lang thang ngoài ga...


      Những ga tàu.


      Lạ , Mila nghĩ bụng. Trạm trung chuyển của người này, nhưng với người khác lại là nơi để lưu lại và rời nữa. Các nhà ga là dạng phòng chờ của địa ngục, nơi những linh hồn lưu lạc dồn đống lại trong khi đợi ai đó đến hốt .


      Mỗi ngày trung bình có từ hai mươi đến hai nhăm cá nhân biến mất. Mila nắm số liệu thống kê rất . Đùng cái, chẳng có tin tức gì của bọn họ nữa. Họ biến báo trước, cũng mang theo hành lý. Tựa như họ rơi vào cõi hư .


      Mila biết đa phần trong số họ là những kẻ sống ngoài vòng pháp luật, bọn nghiện hút, du thủ du thực, sẵn sàng phạm tội, vào tù ra khám như cơm bữa. Nhưng cũng có những người - thiểu số thôi - mà vào thời điểm trong đời, họ quyết định từ bỏ tất cả. Như là bà mẹ chợ và bao giờ quay về nữa, hoặc là đứa con trai hay thằng nó nhảy lên tàu và bao giờ tới được đích muốn đến.


      Mila nghĩ mỗi người có con đường riêng. con đường đưa chúng ta về nhà, đến chỗ người thân, những người mà chúng ta gắn bó nhất. Thường đó là con đường chúng ta tìm hiểu từ bé và tiếp cho đến cuối cuộc đời. Nhưng cũng có khi con đường đó gián đoạn giữa chừng để rồi tiếp nối ở nơi khác. Hoặc là sau khi theo lộ trình gập ghềnh, nó quay lại điểm đứt đoạn. Hoặc cũng có thể là nó cứ lỡ dở như thế mãi.


      Nhưng đôi khi, nó mất hút vào trong bóng tối.


      Mila biết hằng hơn phân nửa những người mất tích quay về và luôn kể những câu chuyện. số chẳng có gì để kể và quay lại cuộc sống như lúc trước. Những người khác kém may mắn hơn khi chỉ còn là cái xác vô hồn. Và có những người mà ta bao giờ hay biết gì về họ nữa.


      Trong số những người này, thể nào cũng có đứa bé.


      Có những bậc cha mẹ sẵn sàng đánh đổi cả cuộc sống để biết điều gì xảy ra. Họ sai lầm ở chỗ nào. lơ đãng nào dẫn tới thảm kịch câm lặng ấy. Điều gì xảy đến với con họ. Kẻ bắt nó, và lý do của . Có những người cật vấn Chúa trời để biết họ bị trừng phạt vì tội lỗi gì, có người quay quắt tìm câu trả lời trong suốt phần đời còn lại, hoặc chết dần chết mòn trong khi cố giải đáp các câu hỏi. “Ít ra hãy khẳng định với tôi rằng nó chết”, họ như thế. số có thể đến chỗ mong ước chuyện đó, vì họ muốn than khóc, thế thôi. Mong muốn duy nhất của họ phải là bỏ cuộc, mà là khả năng chấm dứt hy vọng. Bởi hy vọng giết chết con người ta chậm rãi hơn.


      Nhưng Mila tin vào thứ “ giúp giải tỏa”. cảm thấy như thế vào lần đầu tiên giải thoát con tin, và lần nữa vào buổi chiều hôm ấy, khi đưa Pablo và Elisa về nhà.


      Chào đón thằng bé, cả khu phố reo mừng, xe hơi bóp còi và tuần hành vui vẻ.


      Nhưng về phần Elisa, khoảng thời gian quá dài trôi qua.


      Sau khi cứu , Mila đưa Elisa đến trung tâm đặc biệt, nơi được các nhân viên cứu trợ xã hội chăm sóc, cho ăn uống và thay quần áo sạch. Mila tự hỏi tại sao mấy thứ quần áo đó bao giờ cũng có vẻ rộng hơn đến hai số. Có lẽ là vì những người được mặc chúng hao gầy trong suốt những năm tháng của quên lãng, để rồi được tìm thấy lại ngay trước khi biến mất hẳn.


      Elisa tiếng nào. chỉ mặc kệ cho người ta chăm sóc mình, chấp nhận tất cả những gì họ làm với . Sau đó, khi nghe Mila thông báo đưa về nhà, Elisa cũng chẳng chẳng rằng.


      Trong khi nhìn đăm đăm chiếc tủ đựng đồ, Mila thể nào xóa khỏi đầu hai gương mặt của cha mẹ Elisa Gomes khi bấm chuông nhà cùng với con họ. Hai ông bà có vẻ bất ngờ và thậm chí có phần hơi khó chịu. Có lẽ họ nghĩ trong đầu rằng người ta trả lại cho họ bé mười tuổi, chứ phải là trẻ mà với , họ hoàn toàn còn điểm chung nào.


      Elisa từng là đứa trẻ thông minh và phát triển sớm. bé biết rất sớm. Từ đầu tiên phát ra từ miệng bé là “May”, tên của con gấu bông. Nhưng mẹ cũng thể quên từ cuối cùng . Đó là từ “mai”, trong câu “Hẹn mẹ ngày mai”. Elisa câu ấy ngưỡng cửa nhà mình, trước khi sang nhà bạn ngủ. Thế nhưng ngày mai ấy đến, và vẫn chưa đến. Ngược lại, “ngày hôm qua” của ngày rất dài và chưa có vẻ gì là muốn kết thúc.


      Trong khoảng thời gian đó, đối với bố mẹ Elisa, tiếp tục là bé mười tuổi, phòng ngủ của đầy búp bê và cạnh lò sưởi là đống quà Giáng sinh. Elisa mãi là như thế trong ký ức của bố mẹ . Đông cứng trong hình ảnh mà họ giữ trong đầu, tựa như tù nhân của lời nguyền.


      Vậy đấy, mặc dù Mila tìm lại được Elisa, nhưng họ vẫn tiếp tục chờ đợi mà họ đánh mất. Để rồi bao giờ thanh thản.


      Sau cái ôm kèm theo nước mắt và xúc động như thông lệ, bà Gomes đưa hai chị em vào nhà, mời trà và bánh quy. Bà đối xử với con mình như với người khách. Có lẽ trong thâm tâm, bà vẫn nuôi hy vọng là lạ hoắc này ra sau chuyến viếng thăm, để lại vợ chồng bà với trống vắng dễ chịu thường khi.


      Mila so sánh nỗi buồn với mấy cái tủ đồ cũ kỹ mà người ta muốn dẹp bỏ nhưng vẫn nằm đó, tỏa thứ mùi đặc trưng ra khắp phòng. Cùng với thời gian, người ta quen dần với nó, và rồi trở nên lệ thuộc vào nó.


      Elisa quay về, và bố mẹ phải phá bỏ đau buồn của họ, gác tất cả những thương hại mà người ta dành cho họ trong những năm vừa qua. Họ đâu còn lý do gì để mà buồn nữa. Nhưng họ phải cần nhiều dũng khí hơn nếu muốn kể cho mọi người nghe về nỗi bất hạnh mới của mình. Nỗi bất hạnh đó là việc có kẻ lạ mặt ở trong nhà!


      Sau giờ thăm hỏi xã giao, Mila cáo từ. Dường như đọc thấy trong mắt của mẹ Elisa lời cầu cứu câm lặng: “Giờ tôi biết làm gì đây?”


      Bản thân Mila cũng có thực tế khác phải đối mặt: việc tìm thấy Elisa hoàn toàn là do tình cờ. Nếu như tên bắt cóc, sau chừng ấy năm trời, nảy ra ý định mở rộng “gia đình” bằng việc bắt Pablo chẳng ai biết chuyện xảy ra. Và Elisa mãi mãi bị giam cầm trong thế giới được cố ý tạo ra cho và cho si mê của kẻ bắt cóc . Đầu tiên xem như con , sau đó như người vợ chung thủy.


      Nghĩ đến đây, Mila đóng tủ đồ cá nhân của mình lại. “Quên , quên nào”, tự nhủ. “Đó là giải pháp duy nhất”.


      Trụ sở vắng dần. Mila muốn về nhà. tắm, mở chai porto và nướng hạt dẻ. Sau đó ngồi nhìn cái cây ngoài cửa sổ phòng khách, và biết đâu, nếu may mắn, ngủ thiếp xa lông. Tuy nhiên, khi chuẩn bị thưởng cho mình buổi tối độc đồng nghiệp thò đầu vào phòng thay đồ.


      Trung sĩ Morexu muốn gặp .





      Làn hơi ẩm phủ trùm lên các con đường trong buổi tối tháng Hai. Giáo sư Goran bước xuống xe taxi. Ông có xe hơi riêng cũng chẳng có bằng lái, nên ông để cho người khác đưa mình đến nơi cần đến. Chẳng phải ông chưa từng thi lấy bằng, ông thi tốt là đằng khác. Nhưng đối với người thường xuyên chìm vào các suy tưởng mông lung, cầm vôlăng là điều nên tránh. Vậy là ông từ bỏ chuyện cầm lái.


      Sau khi trả tiền cho tài xế và đặt đôi chân giày số bốn mươi bốn xuống vỉa hè, ông rút từ áo vest ra điếu thuốc lá thứ ba trong ngày. Ông châm thuốc, rít hai hơi rồi vứt . Ông tập thói quen đó từ khi quyết định bỏ thuốc. kiểu tự thỏa thuận với bản thân để đánh lừa cơn thèm nicotine.


      Ông quan sát hình ảnh mình trong cửa kính, tự kiểm tra trong chốc lát. Bộ râu viền quanh khuôn mặt càng ngày càng mỏi mệt. Mắt thâm quầng, tóc bù xù. Ông nhận ra mình ngó ngàng nhiều đến bản thân. Người thường chăm sóc ông từ lâu rời bỏ bổn phận của mình.


      Điểm nổi bật nhất ở Goran, như lời nhận xét của mọi người, là im lặng dài hơi và bí của ông.


      Cùng với đôi mắt to và xuyên thấu.


      sắp đến giờ ăn tối. Ông chậm rãi leo lên cầu thang, vào trong nhà và nghe ngóng. Nhiều giây liền trôi qua, khi quen với yên tĩnh mới mẻ này, ông nhận ra thanh chào đón quen thuộc của Tommy. Nó chơi trong phòng của mình. Ông vào tìm con, nhưng chỉ quan sát nó từ ngưỡng cửa mà có can đảm làm gián đoạn trò chơi của nó.


      Tommy lên chín, hoàn toàn vô lo. Mái tóc của thằng bé có màu hạt dẻ. Nó thích màu đỏ, thích bóng rổ và ăn kem, kể cả vào mùa đông. Bạn thân nhất của Tommy là Bastian, hai đứa thường tổ chức những chuyến thám hiểm kỳ thú trong vườn trường. Cả hai đều là hướng đạo sinh, hè năm sau chúng cùng nhau cắm trại. Gần đây hai đứa chỉ toàn về chuyện đó.


      Tommy giống mẹ cách đáng kinh ngạc, nhưng thằng bé thừa hưởng từ bố mình đôi mắt to và xuyên thấu.


      Khi nhận ra có mặt của Goran, thằng bé quay lại mỉm cười.


      - Bố về muộn. - Nó trách.


      - Ừ, bố xin lỗi. - Ông biện hộ. - Bà Runa lâu chưa con?


      - Con trai bà ấy đến đón từ nửa tiếng trước rồi ạ.


      Chuyện này làm giáo sư Goran bực mình. Bà Runa giúp việc nhà cho họ vài năm nay. Bà ta hẳn phải biết ông thích để Tommy ở nhà mình. Đôi khi bực dọc này cùng với những thứ khác khiến Goran chẳng thiết sống nữa. mình ông thể lo liệu hết mọi chuyện được. Như thể là người có cái biệt tài lo liệu bí kia quên mất để lại cho ông quyển sách ghi các câu thần chú trước khi ra .


      Ông phải làm mọi chuyện với bà Runa và có lẽ phải tỏ ra cứng rắn hơn chút với bà ta. Lúc nào ông cũng bảo bà ta phải ở lại buổi tối cho đến khi ông về nhà. Chắc là đọc được suy nghĩ của bố, Tommy xịu mặt. Ngay lập tức, Goran thay đổi chủ đề, ông hỏi con:


      - Đói con?


      - Con ăn quả táo, mấy cái bánh quy và uống cốc nước.


      Goran lắc đầu.


      - Ăn tối kiểu gì thế biết.


      - Con mới ăn lót dạ thôi mà. Bây giờ con muốn ăn cái khác cơ...


      - Mì ống nhé?


      Thằng bé tỏ ra thích thú với đề nghị của bố. Goran xoa đầu con.


      Hai bố con cùng nhau nấu ăn và dọn bàn, như cặp đôi hoàn hảo, mỗi người tự làm phần việc của mình mà cần phải hỏi ý kiến người kia. Tommy học nhanh và làm Goran rất tự hào.


      Những tháng vừa qua mọi việc được dễ dàng.


      Cuộc sống của hai bố con có nguy cơ tan rã, và ông cố gắng giữ lại phần nào nếp song cũ của hai bố con, kiên nhẫn hàn gắn lại các mảnh vỡ. Khi vắng mặt, ông đưa ra các mệnh lệnh. Ăn uống đều đặn, giờ giấc chính xác, các thói quen được củng cố. Nhìn từ góc độ này chẳng có gì thay đổi so với lúc trước. Tất cả lặp lặp lại y hệt và khiến Tommy yên tâm.


      Hai bố con cuối cùng cũng biết cách cùng nhau sống với trống vắng này mà chối bỏ thực tại. Ngược lại là khác, khi trong hai người muốn bàn đến thực tế họ trò chuyện cùng nhau.


      Điều duy nhất mà cả hai bao giờ làm, đó là gọi trống vắng này bằng tên của nó. Cái tên ấy ra khỏi từ điển của họ. Họ dùng những biện pháp khác, những cách diễn đạt khác. kỳ lạ, người luôn bận tâm đến việc đặt tên cho những tay giết người hàng loạt mà ông điều tra lại biết phải gọi người từng là vợ ông như thế nào, và để cho con trai mình “giải thể nhân cách” mẹ nó. Như thể bà chỉ là nhân vật trong các truyện ngụ ngôn mà ông đọc cho cậu bé nghe mỗi tối.


      Tommy là đối trọng duy nhất neo giữ Goran lại với trần gian. có thằng bé, ông lập tức rơi tõm xuống cái vực thẳm mà ông thám hiểm hàng ngày.


      Sau bữa tối, Goran vào trong phòng làm việc. Tommy theo sau. Đó là nghi thức buổi tối của hai bố con. Ông ngồi xuống chiếc ghế bành kẽo kẹt, trong khi cậu con trai nằm dán bụng xuống tấm thảm, tiếp tục màn đối thoại tưởng tượng.


      Goran quan sát tủ sách của mình. Những quyển sách về tội phạm học, nhân loại học hình và pháp y đập vào mắt ông. vài quyển được đóng bìa vải có dập chữ mạ vàng. Những quyển khác được đóng cuốn đơn giản. Trong đó là những câu trả lời. Nhưng điều khó khăn nhất - như ông luôn với các học viên của mình - là việc tìm ra câu hỏi. Trong các cuốn sách kia tràn ngập những hình ảnh đáng sợ. Những thân thể đầy thương tích, bị hãm hại, tra tấn, đốt cháy, cắt thành từng mảnh. Tất cả được in nghiêm cẩn những tờ giấy bóng bẩy, kèm theo chú thích tỉ mỉ. Mạng sống của con người được tối giản thành đối tượng nghiên cứu lạnh lùng.


      Vì lý do này mà trước đây lâu, Goran cho phép Tommy vào trong nơi biệt trữ này. Ông sợ rằng vì tò mò thằng bé mở quyển sách và nhận ra cuộc sống có thể tàn bạo đến mức nào. Thế nhưng, lần nọ, Tommy nghe lời ông. Ông phát ra cậu bé nằm giống như hôm nay, tay lần giở trong những quyển sách của ông. Ông vẫn còn nhớ thằng bé dừng lại tại hình ảnh của phụ nữ được vớt lên từ dưới sông, giữa mùa đông. Chị ta lõa thể, da tím tái và có đôi mắt bất động.


      Nhưng Tommy tỏ ra nao núng, nên thay vì mắng mỏ con, Goran chỉ ngồi khoanh chân cạnh cậu bé.


      - Con biết đây là gì ?


      Tommy chờ lúc lâu, khuôn mặt kín như bưng. Sau đó nó trả lời bằng cách liệt kê tỉ mỉ những thứ nhìn thấy. Đôi tay mảnh khảnh, mái tóc bám đầy sương giá, ánh mắt thất thần. Cuối cùng, nó lan man sang nghề nghiệp của người phụ nữ, bạn bè và nơi ở của chị ta. Lúc ấy Goran mới nhận ra rằng, Tommy đọc được mọi điều bức ảnh, ngoại trừ điều. Cái chết.


      Trẻ con nhìn thấy cái chết. Bởi vì cuộc sống của chúng chỉ gói gọn trong ngày, từ lúc thức dậy cho đến khi ngủ.


      Sau lần ấy, Goran hiểu ra rằng, dù có nỗ lực đến đâu, ông cũng bao giờ có thể bảo vệ con trai mình khỏi cái xấu trong đời. Giống như mấy năm sau, ông thể tự giải thoát mình khỏi những gì mà mẹ nó gây ra cho ông.





      Trung sĩ Morexu khác với các cấp khác của Mila. Ông coi khinh danh giá và những tấm ảnh đăng báo. Vì thế, Mila chuẩn bị tinh thần nghe trách mắng vì cách thức hành động ở nhà thầy giáo dạy nhạc.


      Morexu rất mau lẹ trong cung cách và cả trong suy nghĩ. Ông thể giữ nguyên cảm xúc quá vài giây. Vừa mới nổi giận đùng đùng, thoắt cái ông lại tươi cười và tử tế đáng kinh ngạc. Thêm vào đó, để cho tiện, Morexu hay kết hợp các động tác với nhau. Chẳng hạn như, để an ủi người khác, ông vừa đặt tay lên vai người đó vừa đưa ta ra cửa. Hoặc là khi chuyện điện thoại, ông đưa ống nghe lên gãi trán.


      Nhưng lần này Morexu vội.


      Ông để Mila đứng trước bàn làm việc của mình, mời ngồi xuống. Sau đó ông nhìn chăm chú, trong khi duỗi hai chân dưới bàn và dang rộng hai tay.


      - Tôi biết liệu có nhận thức được việc xảy ra hôm nay...


      - Tôi biết, tôi phạm sai lầm. - Mila luôn.


      - phải thế, cứu được ba mạng người.


      Lời tuyên bố khiến Mila sững người lúc lâu.


      - Những ba ạ?


      Morexu ngồi thẳng người lại ghế và đưa mắt nhìn tờ giấy đặt trước mặt.


      - Họ tìm thấy các ghi chú tại nhà của thầy dạy nhạc. Có vẻ như có ý định bắt cóc lần nữa...


      Morexu đưa cho Mila bản chụp của trang sổ tay. Bên dưới dòng ngày tháng có ghi cái tên.


      - Priscilla? - tự hỏi.


      - Priscilla. - Morexu lặp lại.


      - Ai thế ạ?


      - bé may mắn.


      Morexu gì thêm. Vì ông biết gì hơn. có họ, địa chỉ, cũng chẳng có ảnh chụp. có gì. Chỉ vỏn vẹn cái tên Priscilla.


      - Vậy nên đừng có đá thúng đụng nia nữa. Hôm nay tôi quan sát ở buổi họp báo: có vẻ muốn tung hê mẹ nó hết cả. - Morexu thêm trước khi Mila kịp phản ứng.


      - Đúng vậy.


      - Khỉ , Vasquez! Thế nhận ra những người được cứu thoát biết ơn đến mức nào à? Đó là còn chưa đến gia đình của họ!


      Ông chưa thấy mẹ của Elisa Gomes đâu, Mila định vặc lại như thế. Nhưng ngoan ngoãn chấp nhận. Morexu nhìn nét mặt và lắc đầu.


      - Từ khi đến đây, tôi chưa hề nghe ai phàn nàn về .


      - Thế là hay hay dở?


      - Nếu tự biết lấy câu trả lời, có vấn đề đấy, bé ạ... Vì lý do này, tôi quyết định hình thức làm việc theo nhóm có ích cho .


      Nhưng Mila đồng ý.


      - Tại sao? Tôi làm công việc của tôi, đó là điều duy nhất mà tôi quan tâm. nay tôi quen tự mình xoay xở như thế này. Tôi phải điều chỉnh phương pháp của mình cho thích hợp với người khác. Làm thế nào tôi có thể giải thích được...


      - thu xếp hành lý . - Morexu gạt phăng lời phản đối của Mila.


      - Việc gì phải vội thế?


      - Vì lên đường tối nay.


      - Tôi bị phạt hay sao?


      - , nhưng đây cũng phải là kỳ nghỉ. Người ta cần hỗ trợ của chuyên gia. Mà nổi tiếng quá rồi.


      Nữ cảnh sát nghiêm mặt.


      - Có chuyện gì thế ạ?


      - Vụ bắt cóc năm bé .


      Mila có loáng thoáng nghe về vụ này bản tin thời .


      - Sao lại là tôi? - hỏi.


      - Bởi vì hình như có bé thứ sáu, nhưng bọn họ chưa biết được là ai...


      những muốn có thêm các giải thích khác, nhưng Morexu quyết định chấm dứt cuộc chuyện. Ông tỏ ra vội vã và cầm tập hồ sơ rồi chỉ ra cửa.


      - Trong này có cả vé tàu của .


      Mila cầm lấy tập hồ sơ và ra. Nhưng trước khi rời văn phòng, quay lại nhìn ông trung sĩ cảnh sát.


      - Priscilla, hả sếp?


      - Ừ...

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      4








      The Piper at the Gates of Dawn, 1967. A Saucerful of Secrets, 1968. Ummagumma là vào năm 1969, giống như album nhạc phim More. Năm 1971 có đĩa nhạc Meddle. Nhưng trước đó còn đĩa hát khác... Vào năm 1970, chắc chắn điều đó. nhớ ra tựa đề. bìa đĩa có hình ảnh con bò cái. Khỉ , cái đĩa tên là gì nhỉ?


      Mình phải đổ xăng mới được, nghĩ bụng.


      Kim xăng ở mức thấp nhất, đèn báo thôi còn nhấp nháy mà để sáng liên tục màu đỏ nhức nhối.


      Nhưng muốn dừng lại.


      Lúc này lái xe được năm tiếng đồng hồ và được gần sáu trăm cây số. Nhưng dù ở cách xa việc xảy ra đêm qua, vẫn cảm thấy khá hơn. Đôi tay cứng đơ vôlăng. Cơ cổ căng lên khiến đau nhức.


      ngoảnh đầu lại lúc.


      Đừng nghĩ đến nó... đừng nghĩ đến nó...


      làm đầu óc mình bận rộn với việc lục lọi trong trí nhớ những điều quen thuộc, để tự làm mình yên lòng. Trong suốt mười phút vừa qua, tập trung vào các đĩa nhạc của nhóm Pink Floyd. Còn trong bốn tiếng đồng hồ trước đó, điểm lại các tựa phim thích, những cầu thủ chơi cho đội khúc côn cầu mà hâm mộ trong ba mùa giải vừa qua, tên những người bạn học cùng lớp và các thầy giáo của . lần ngược đến tận bà giáo Berger. Bà ấy thế nào rồi nhỉ? muốn gặp lại bà. Cái gì cũng được, miễn là đẩy lùi được suy nghĩ đó. Còn bây giờ, tâm trí mắc kẹt với cái đĩa nhạc đáng nguyền rủa với hình con bò cái bìa!


      Ý nghĩ kia lại xuất .


      Cần phải xua nó lần nữa. Nhét nó trở vào trong góc tâm trí, nơi cầm giữ nó thành công nhiều lần trong đêm nay. Nếu được, lại toát mồ hôi, thỉnh thoảng run bắn lên vì tuyệt vọng, mặc dù chuyện đó kéo dài. Nỗi làm bụng thắt lại, nhưng buộc mình phải tỉnh táo.


      - Atom Heart Mother!


      Phải rồi, đó là tựa đề của đĩa nhạc. Trong lúc, cảm thấy sung sướng. Nhưng tâm trạng đó kéo dài lâu. Ở vào tình thế của làm sao có thể vui vẻ được.


      lại ngoảnh đầu nhìn phía sau.


      Mình phải đổ xăng mới được, lại nghĩ.


      Lâu lâu, mùi khai khẳm từ dưới tấm thảm xe dưới chân lại xộc lên, nhắc nhớ mình tiểu ngay lên đó. Các cơ bắp ở chân nhức nhối, còn cảm nhận được bắp chân của mình nữa. Cơn bão vừa càn quét qua đường cao tốc suốt cả đêm xa dần lên núi. vẫn còn thấy những tia sáng xanh lét ở phía chân trời, trong khi tay phát thanh viên đài đọc bản tin thời tiết đến lần thứ bao nhiêu biết nữa. Trời sắp rạng đến nơi rồi. giờ trước đó rời đường cao tốc và theo quốc lộ. Thậm chí buồn dừng lại để trả phí cầu đường. Lúc này, mục tiêu của xa.


      Và làm theo mệnh lệnh được giao.


      Trong vài phút, thả hồn vơ vẩn nơi khác. Nhưng rồi, thể tránh khỏi, những ký ức đêm qua lại ùa về.


      Sáng hôm qua đến khách sạn Modigliani tầm độ mười giờ. Suốt buổi chiều, làm công việc chào hàng trong thành phố, sau đó dùng bữa tối với khách hàng ở khách sạn, đúng như dự kiến. Quá mười giờ đêm chút, về phòng mình.


      Sau khi khép cửa phòng, bắt đầu tháo càvạt trước gương. Chính lúc đó, hình ảnh trong gương cho thấy bộ mặt quỷ ám thực của , với làn da xâm xấp mồ hôi và đôi mắt vằn đỏ. có diện mạo này những khi bị dục vọng chế ngự.


      Lúc nhìn vào hình ảnh bản thân, ngạc nhiên tự hỏi làm thế nào che giấu những suy nghĩ thực của mình trước các khách hàng tài tình đến thế trong suốt buổi tối. trò chuyện với họ, lắng nghe câu chuyện tào lao nhạt nhẽo của họ về môn golf và đám đàn bà sách, lại còn cười ha hả trước những câu pha trò vô duyên tục tĩu của bọn họ nữa. Nhưng nơi khác. tận hưởng trước cái khoảnh khắc mà được ở trong phòng khách sạn, càvạt nới lỏng, cho phép bụm acid mắc kẹt trong họng được trào ngược lên và bung ra khuôn mặt mình, dưới dạng những giọt mồ hôi, làn hơi thở gấp gáp và tia nhìn hiểm độc.


      Khuôn mặt của bên dưới lớp mặt nạ.


      Trong căn phòng riêng biệt, rốt cuộc cũng có thể thả tự do cho nỗi ham muốn chất chứa trong lồng ngực và trong quần, chỉ chực bùng vỡ. Nhưng . tự kiềm chế được.


      Bởi vì sắp sửa ra ngoài.


      Như mọi khi, thề độc rằng đây là lần cuối. Như thường lệ, lời hứa ấy được lặp lại trước và sau đó. Và cũng bao lần, nó đều bị phá vỡ, để rồi lại được tái lặp ở lần sau.


      rời khách sạn vào tầm nửa đêm trong tình trạng cực kì hưng phấn. lòng vòng vì còn sớm. Lúc ban chiều, giữa hai cuộc hẹn, kiểm tra vị trí để bảo đảm là mọi thứ diễn ra suôn sẻ theo đúng kế hoạch. Từ hai tháng trước, chuẩn bị và ve vãn “nàng bướm” của mình cách thận trọng. chờ đợi chỉ là niềm vui trước mắt của khoái lạc. Và tận hưởng nó. chăm chút cho từng chi tiết, vì các chi tiết luôn tự tiết lộ lẫn nhau. Nhưng với , chuyện đó chưa bao giờ xảy ra. bao giờ xảy ra. Mặc dù bây giờ, sau vụ cảnh sát phát ra nghĩa địa cánh tay, phải cẩn trọng hơn. đường phố có nhiều cảnh sát trong tình trạng báo động, nhưng rất giỏi biến mình thành vô hình. chẳng có gì phải sợ. Chỉ việc thư giãn. Chẳng bao lâu nữa, nhìn thấy nàng bướm của mình đại lộ, tại địa điểm ấn định từ hôm trước. luôn sợ chúng đổi ý vào phút chót. sợ có điều gì nhầm lẫn trong vai trò mà cả hai cùng đóng. Trong trường hợp đó, buồn lắm. Nỗi buồn cay đắng mà người ta phải mất mấy ngày mới tống khứ được, và tệ hơn nữa là họ thể che giấu nó. Nhưng tiếp tục tự nhắc mình rằng lần này mọi thứ cũng diễn ra trôi chảy.


      Nàng bướm đến.


      nhanh chóng đưa nàng lên xe, với thái độ đón tiếp nhã nhặn thường lệ. Điều đó chỉ làm thích thú, mà quan trọng là giúp xua tan những mối nghi ngờ do nỗi sợ gây ra. đưa nàng bướm đến nơi chọn lúc chiều: con đường tách biệt, nơi người ta có thể nhìn thấy hồ.


      Những nàng bướm luôn có mùi hương rất mạnh. Kẹo cao su, giày thể thao. Và mồ hôi. thích thế. Từ giờ, thứ mùi ấy phần của chiếc xe.


      tại cũng thế, ngửi thấy nó, trộn lẫn với mùi nước tiểu. lại khóc. Biết bao nhiêu chuyện xảy ra kể từ khoảnh khắc đó. chuyển đổi từ hạnh phúc và hưng phấn sang thứ ập đến sau đó xảy ra quá đột ngột.


      ngoái nhìn đằng sau.


      Mình phải đổ xăng thôi.


      Nhưng lại quên bẵng ngay, và sau khi hít chút khí xú uế, lại chìm đắm trong hồi ức về chuyện xảy ra sau đó...


      dừng xe đợi bướm. Vầng trăng mờ chốc chốc lại chọc xuyên qua màn mây. Để xua nỗi lo lắng, ôn lại kế hoạch. Đầu tiên, cả hai chuyện. Nhưng nghe là chính. Vì biết những nàng bướm luôn có nhu cầu đón nhận điều tìm thấy ở nơi khác: đó là chú ý. Vai trò này cực kì hợp với . Kiên nhẫn lắng nghe con mồi bé dốc bầu tâm và dần trở nên mềm yếu. Nàng bướm thôi đề phòng và để cho thoải mái vào những lãnh địa sâu kín.


      Gần rãnh nứt của tâm hồn.


      luôn điều gì đó thích hợp. Lần nào cũng thế. Chính nhờ vậy mà làm chủ được những nàng bướm. Dạy người khác về những ham muốn của bản thân họ, giảng giải chi tiết điều họ muốn, chỉ cho họ cách tiến hành. Quan trọng là ở chỗ đó. Trở thành trường đào tạo, thành bãi huấn luyện. Khai sáng về cái được gọi là khoái cảm.


      Trong khi soạn bài học kì diệu cho phép mở toang cánh cửa thân mật ấy, lơ đãng nhìn vào kính chiếu hậu của xe hơi.


      Lúc đó mới trông thấy.


      thứ gì đó hư ảo như bóng ma. Thứ mà người ta hoàn toàn có thể thấy, vì nó ra ngay từ trong tưởng tượng của họ. Và nghĩ ngay đến ảo ảnh.


      Đến khi có cú đấm ấy vào kính cửa xe.


      Cánh cửa bật mở với thanh sắc lạnh. Bàn tay luồn vào trong xe, tóm lấy cổ , rồi siết lại. có cách nào phản ứng. luồng khí lạnh tràn vào trong xe, và còn nhớ mình nghĩ: Mình quên mất cái chốt an toàn rồi! Chốt an toàn! Làm như nó đủ để ngăn chuyện đó lại.


      Gã lạ mặt có sức mạnh khủng khiếp. bị lôi tuột ra khỏi xe chỉ bằng tay của gã. chiếc mũ trùm đầu che mất khuôn mặt của kẻ tấn công. Trong khi bị túm cổ, liền nghĩ tới nàng bướm: con mồi quý giá mà mất bao công sức dụ dỗ thế là tuột mất.


      Và đương nhiên, tại thời điểm đó trở thành con mồi.


      Cái siết cổ lơi ra, bị quẳng xuống đất. Tiếp đó, gã đàn ông bỏ mặc nằm đấy để quay lại chiếc xe. Thôi rồi, nó kiếm vũ khí để kết liễu mình. Thế là, do bản năng sinh tồn thúc đẩy, cố lê lết nền đất ướt lạnh lẽo, mặc dù chỉ cần vài bước thôi là kẻ tấn công đội mũ trùm đầu bắt kịp và hoàn tất công việc.


      Toàn những việc vô ích mà người ta hay làm khi muốn thoát chết, bây giờ ngẫm lại trong khi lái xe. số người đưa bàn tay lên trước nòng súng, chỉ để bị viên đạn xuyên qua. Số khác ném mình qua cửa sổ nhà cao tầng để thoát khỏi đám cháy... Ai cũng muốn tránh điều thể tránh được, và tự biến mình thành trò cười.


      nghĩ mình nằm trong số những người đó. luôn tin chắc có thể đương đầu với cái chết cách đường hoàng. Ít nhất là cho đến đêm hôm ấy, khi bò trườn như con sâu ngớ ngẩn tìm đường thoát thân. Khó nhọc lê lết, được đúng hai mét.


      Rồi ngất .


      Hai cái tát vào mặt làm tỉnh lại. Gã đàn ông bịt mặt quay lại. Gã cúi xuống nhìn bằng đôi mắt mờ đục. Gã hất đầu chỉ chiếc xe và gọn lỏn:


      - , đừng có dừng lại, Alexander.


      Gã đàn ông bịt mặt biết tên .


      Lúc đầu, thấy chuyện đó có vẻ hợp lý. Nhưng về sau nghĩ lại, việc đó càng làm kinh hoàng hơn.


      khỏi chỗ đó. Lúc ấy tin nổi điều mình nghe được. gượng dậy và loạng choạng tiến đến chiếc xe, cố gắng nhanh hết mức có thể vì sợ gã kia đổi ý. ngồi vào ghế lái, mắt vẫn còn nhập nhèm, tay run đến mức thể khởi động xe. Khi nổ máy được cũng là lúc chuyến dài suốt đêm bắt đầu. xa khỏi chỗ đó, càng xa càng tốt...


      Mình phải đổ xăng mới được, nghĩ bụng, quay về thực tế được chút.


      Bình xăng gần cạn. tìm kiếm bảng báo hiệu trạm nghỉ ven đường, trong bụng tự hỏi liệu đây có phải là phần của nhiệm vụ mà nhận được đêm nay hay .


      Đừng dừng lại.


      Cho đến lúc giờ sáng, hai câu hỏi vẫn quay cuồng trong tâm trí . Tại sao gã đàn ông bịt mặt để ? Chuyện gì xảy ra trong lúc bất tỉnh nhân ?


      có câu trả lời khi hồi phục phần nào sáng suốt của mình và nghe thấy tiếng động.


      thanh cọ xát khe khẽ vào thành xe, kèm theo tiếng đập đều đặn - kịch, kịch, kịch. Tiếng động nghe đục và cứ vang lên mãi. Gã làm cái gì đó với chiếc xe. Sớm muộn gì bánh xe cũng long ra khỏi trục, mình mất lái và đâm sầm vào dải phân cách! Nhưng chuyện đó xảy ra. Vì thanh kia phải là trong kết cấu xe phát ra. Mãi sau mới hiểu ra điều đó... Dù đủ tỉnh táo để thừa nhận việc này.


      Đúng lúc ấy, trông thấy tấm bảng chỉ đường, cho biết trạm dừng gần nhất còn cách đầy tám cây số. có thể đến đó, nhưng phải tăng tốc lên.


      Nghĩ đến đây, quay nhìn phía sau lần nữa.


      Nhưng bận tâm đến con đường quốc lộ bỏ lại phía sau, cũng như những chiếc xe hơi chạy theo xe .


      , cái nhìn của dừng lại ở điểm gần hơn thế nhiều.


      Thứ bám theo đường. Nó gần hơn. Nó chính là thứ gây ra tiếng động. thứ mà thể rũ bỏ.


      Nó nằm trong cốp xe của .


      nhìn chằm chằm vào cái cốp xe. Mặc dù cố tình muốn nghĩ đến thứ nằm trong đó. Khi Alexander Bermann quay lại nhìn phía đằng trước quá muộn. Viên cảnh sát đứng bên vệ đường ra hiệu cho dừng xe.







      5








      Mila xuống tàu, gương mặt nhờn bóng và đôi mắt sưng mọng sau đêm ngủ. bước dưới mái che của ga tàu. Nhà ga gồm có tòa nhà chính được xây từ thế kỷ thứ XIX và trung tâm thương mại khổng lồ. Tất cả mọi thứ đều ngăn nắp và sạch . Thế nhưng, chỉ sau vài phút, nhận ra tất cả những góc tối của nó. Những nơi mà sục vào nếu phải tìm bọn trẻ mất tích. Nơi cuộc sống được mua và bán, rình mò hay nấp. Nhưng ở đây phải vì những chuyện đó.


      Sắp tới, ai đó đến đưa xa khỏi nơi này. Hai đồng nghiệp ngồi đợi trong chốt cảnh sát của ga tàu. là nữ, khoảng bốn mươi, béo lùn, nước da vàng nâu, mái tóc cắt ngắn và cái hông rộng, quá rộng so với chiếc quần jean. Người kia là nam giới, tuổi khoảng ba tám, to cao và vạm vỡ. ta khiến nhớ đến đám choai choai lực điền ở thị trấn quê nhà . Hồi học trung học, chơi với hai ba cậu trong đám ấy. Hồi ấy bọn mới vụng về làm sao.


      chàng cảnh sát mỉm cười với Mila, trong khi người đồng nghiệp của ta chỉ nhướng bên mày quan sát . tiến đến để chào họ theo nghi thức. Sarah Rosa chỉ nêu tên và cấp bậc của mình, trong khi chàng cảnh sát chìa tay ra với :


      - Cảnh sát đặc nhiệm Klaus Boris. - , đoạn tỏ ý muốn đỡ hộ cái túi vải dù. - Để đấy, tôi xách cho.


      - cần đâu, cám ơn . Tôi tự xách được rồi. - Mila đáp.


      Nhưng ta cứ nài ép:


      - Có gì đâu mà.


      Qua giọng điệu của chàng cùng với nụ cười dai dẳng, Mila cảm thấy tay cảnh sát Boris này thuộc dạng Don Juan, trong đầu luôn nghĩ mình có thể quyến rũ mọi phụ nữ ta gặp gỡ. thậm chí còn tin rằng ngay từ lúc nhìn thấy ở phía xa, ta quyết định thử vận may.


      Boris đề nghị uống cà phê trước khi lên đường, nhưng Sarah Rosa lườm chàng cái.


      - Có chuyện gì thế? Tôi gì sai à? - ta biện hộ.


      - Ta có thời gian, cậu quên rồi à? - Sarah hỏi lại với giọng cương quyết.


      - Đồng nghiệp của chúng ta phải chặng đường dài, nên tôi nghĩ...


      - cần đâu. - Mila cắt ngang. - Tôi thế này cũng ổn rồi. Cám ơn .


      Mila định chống đối Sarah, mặc dù ta cũng chẳng có vẻ gì là cảm kích trước nhiệt tình của .


      Ba người tiến đến chiếc xe hơi ngoài bãi đậu xe. Boris ngồi vào ghế lái. Rosa chiếm lấy chỗ cạnh chàng. Mila ngồi phía sau, cùng với túi đồ của . Chiếc xe hòa vào dòng xe cộ con đường chạy dọc bờ sông.


      Sarah Rosa có vẻ phật ý vì phải làm nhiệm vụ hộ tống nữ đồng nghiệp. Ngược lại Boris hề bực mình.


      - Chúng ta đâu đây? - Mila rụt rè hỏi.


      Boris nhìn qua gương chiếu hậu.


      - Đến sở. Chánh thanh tra Roche muốn chuyện với . Ông ấy là người chỉ đạo .


      - Chúng tôi cầu bắt bớ gì đâu. - Rosa xẵng giọng. - Chuyện đó để chúng tôi lo. Việc của chỉ là tìm ra tên của bé thứ sáu. Tôi hy vọng là xem hồ sơ...


      Mila phớt lờ điệu chán ngán trong giọng của Rosa, chỉ vì câu của chị ta khiến nhớ lại đêm thức trắng vừa trải qua. Những tấm ảnh chụp các cánh tay bị chôn vùi. Vài thông tin pháp y ít ỏi về tuổi và thời điểm tử vong của các nạn nhân.


      - Chuyện gì xảy ra? Trong rừng ấy? - hỏi.


      - Vụ án lớn nhất trong thời gian qua! - Boris phớt lờ việc lái xe để buông lời bình phẩm, phấn khích như cậu bé. - Tôi chưa bao giờ thấy điều gì tương tự. Theo tôi, vụ này làm nóng đít khối ông lớn đấy. Chính vì thế mà Roche đứng ngồi yên.


      Mila chưa gặp ông chánh thanh tra, nhưng ràng là thuộc cấp của Roche chẳng nể trọng ông ta cho lắm. Boris dám huỵch toẹt như thế trước mặt Sarah Rosa, chứng tỏ ta cũng đồng tình, mặc dù biểu ra. hay rồi. nghĩ bụng. Mặc kệ những lời bình phẩm vừa nghe, định bụng chỉ phán xét thanh tra Roche cung cách làm việc của ông ta thôi.


      Rosa lặp lại câu hỏi, khiến Mila nhận ra ta chuyện với mình.


      - Máu của đấy à?


      Sarah Rosa quay người lại ghế trước, tay chỉ xuống dưới. Mila nhìn vào đùi mình. Quần vệt thẫm màu. Vết thương của lại bị hở miệng. lập tức đặt tay lên chỗ đó và cảm thấy cần phải thanh minh.


      - Tôi bị ngã trong khi chạy thể dục. - dối.


      - hãy để ý đến nó , vết thương của ấy. Chúng tôi muốn máu của dây vào tang chứng đâu.


      Mila tự nhiên cảm thấy khó chịu trước lời phàn nàn vừa rồi, đặc biệt là khi Boris cũng nhìn qua gương chiếu hậu. muốn tiếp chuyện này, nhưng Rosa chưa chịu ngừng lên lớp:


      - Có lần, cậu lính mới phụ trách bảo vệ trường vụ án có yếu tố tình dục sử dụng phòng vệ sinh của nạn nhân. Thế là trong suốt sáu tháng trời, chúng tôi bám theo bóng ma vì tưởng là tên sát nhân quên giật nước.


      Boris bật cười. Mila cố gắng thay đổi chủ đề:


      - Tại sao các chị lại gọi tôi đến? Chẳng lẽ mọi người thể điểm lại các báo cáo mất tích trong tháng vừa rồi để lần ngược ra bé hay sao?


      - Đừng có hỏi chúng tôi... - Rosa với giọng hậm hực.


      Công việc bẩn thỉu, Mila thầm nghĩ. Lý do họ gọi đến quá rồi. Thanh tra Roche muốn giao việc đó cho người ngoài nhóm, quá gần gũi, để có thể đổ trách nhiệm cho người đó nếu như họ tìm được cái xác thứ sáu.


      Debby. Anneke. Sabine. Melissa. Caroline.


      - Thế còn gia đình của năm bé kia? - Mila hỏi.


      - Bọn họ cũng đến sở cảnh sát. Để phân tích ADN.


      Mila nghĩ đến những ông bố bà mẹ khốn khổ buộc phải chơi trò xổ số ADN, để được chắc chắn là con mình bị giết chết và cắt xẻo cách man rợ. Cuộc sống của họ sắp thay đổi mãi mãi.


      - Vậy chúng ta biết gì về con quái vật đó? - hỏi để xua ý nghĩ vừa rồi.


      - Ở đây, chúng tôi dùng chữ “quái vật”. - Boris lưu ý Mila. - Làm như vậy là giải thể nhân cách cho thủ phạm. - chàng vừa vừa nháy mắt với Rosa đầy ngụ ý. - Giáo sư Gavila hài lòng với chuyện ấy.


      - Giáo sư Gavila? - Mila thắc mắc.


      - Rồi được gặp ông ấy.


      Cảm giác khó chịu của tăng dần. ràng là mức độ hiểu biết ít ỏi về vụ án khiến gặp bất lợi so với các đồng nghiệp những người có thể dựa vào đó để chơi khó . Nhưng lần này cũng thế, Mila gì.


      Rosa ràng muốn để cho Mila yên thân. ta dọa bằng giọng kẻ cả:


      - Biết , em, nếu có tắc tị trong vụ này cũng đừng ngạc nhiên. Chắc chắn rất giỏi trong lĩnh vực của mình, nhưng đây là chuyện khác. Các tội ác hàng loạt đều có những nguyên lý khác. Những nạn nhân của chúng cũng thế. Họ chẳng làm gì nên tội cả. Lỗi lầm duy nhất của họ là xuất nơi tệ hại vào thời điểm tệ hại. Hoặc rời khỏi nhà với bộ trang phục màu này mà phải là màu khác. Hay thậm chí, như trường hợp này, ai bảo các bé là con , da trắng, tuổi từ chín đến mười ba làm gì... đừng buồn, chứ chuyện này, thể nào thấu hiểu được đâu. Tôi có ý cá nhân gì đâu nhé.


      Phải, cứ như đúng rồi ấy, Mila nghĩ bụng. Kể từ phút đầu tiên gặp mặt, Rosa biến mọi chủ đề thành chuyện cá nhân.


      - Tôi học nhanh mà. - Mila đáp.


      Rosa quay lại nhìn , ánh mắt nghiêm nghị hơn.


      - có con chứ?


      Mila chưng hửng mất giây.


      - , mà sao vậy? Có liên quan gì ở đây?


      - Bởi vì khi tìm ra bố mẹ của đứa trẻ thứ sáu, phải giải thích cho họ “lý do” khiến con cưng của họ bị hành hạ như thế. Ấy vậy nhưng lại chẳng biết cái quái gì về họ, biết được những hy sinh họ trải qua để nuôi nấng con bé, những đêm trắng khi nó bị sốt, những khoản tiền chắt bóp để cho nó ăn học, bảo đảm tương lai cho nó, những khoảng thời gian dài lê thê họ phải dành ra để ngồi chơi hoặc làm bài tập cùng nó.


      Giọng của Rosa càng lúc càng lạc .


      - Và cũng biết tại sao ba trong số các nạn nhân dùng sơn móng tay bóng, tại sao trong số chúng lại có vết sẹo cũ ở khuỷu tay, có thể là do ngã xe đạp hồi năm tuổi, hay tại sao chúng nó lại xinh xắn và dễ thương đến thế, với những ước mơ và khát vọng của thời thơ ngây mà nay bị vẩn đục! Những chuyện ấy, hiểu được, bởi vì chưa từng làm mẹ.


      - Hollie. - Mila đáp gọn lỏn.


      - Cái gì? - Sarah Rosa nhìn thắc mắc.


      - Nhãn hiệu của sơn móng tay là Hollie. Nó bóng và có màu san hô. Đó là quà khuyến mãi cách đây tháng của tờ tạp chí tuổi ô mai. Chính vì thế mà có đến ba nạn nhân cùng sử dụng: chiêu khuyến mãi đó rất thành công... Ngoài ra, trong số các nạn nhân có đeo chiếc vòng tay may mắn.


      - Chúng tôi có tìm thấy cái vòng tay nào đâu? - Boris . bắt đầu cảm thấy hứng thú với câu chuyện.


      Mila lôi các tấm hình trong hồ sơ ra.


      - bé số hai, Anneke. Làn da nơi cổ tay hơi sáng hơn, cho thấy bé có đeo thứ gì đó. Có lẽ tên giết người tháo nó , hoặc là làm mất nó khi bị bắt cóc hay trong lúc chống cự. Các nạn nhân đều thuận tay phải, trừ số ba. bé có vết mực ở mặt cạnh của ngón trỏ trái, chứng tỏ thuận tay trái.


      Boris ngưỡng mộ ra mặt, Rosa ngỡ ngàng. Mila dừng lại ở đó.


      - điều cuối cùng: nạn nhân số sáu, người mà chúng ta còn chưa biết danh tính, có quen biết nạn nhân đầu tiên, Debby.


      - Làm sao biết được chuyện này? - Rosa hỏi.


      Mila rút ra hai tấm ảnh chụp cánh tay số và số sáu.


      - Điểm màu đỏ đầu của hai ngón trỏ... Hai bé này từng kết nghĩa chị em.





      Ban khoa học hành vi của cảnh sát liên bang chuyên phụ trách những tội ác đặc biệt nghiêm trọng. Roche đứng đầu ban này được tám năm, và kể từ đó, ông làm cuộc cách mạng trong tác phong lẫn phương pháp làm việc. Chính ông là người mở cửa cho những nhân vật phải là cảnh sát như giáo sư Gavila, người được xem như là chuyên gia tội phạm học cách tân nhất giờ.


      Trong đơn vị điều tra, Stern là chuyên viên xử lý thông tin. là người có thâm niên và cấp bậc cao nhất. Công việc của là tập hợp các thông tin dùng để thiết lập các hồ sơ cá nhân và đối chiếu với các vụ án khác. đóng vai trò “bộ nhớ” của nhóm.


      Sarah Rosa phụ trách điều phối và là chuyên gia tin học. dành phần lớn thời gian để cập nhật các công nghệ mới. là người được đào tạo chuyên biệt cho việc lên kế hoạch các chiến dịch của cảnh sát.


      Cuối cùng, Klaus Boris là thẩm vấn viên. Nhiệm vụ của là xét hỏi các cá nhân có liên quan ở nhiều mức độ khác nhau và dồn ép kẻ bị tình nghi đến khi chịu nhận tội. sở hữu nhiều kỹ năng chuyên sâu cho công việc đó. Và chung luôn đạt được mục tiêu.


      Tuy Roche là người điều hành, nhưng ông thực dẫn dắt nhóm, mà để cho trực giác của giáo sư Gavila định hướng các cuộc điều tra. Ngài chánh thanh tra trước hết là chính trị gia, nên các lựa chọn của ông thường bị chi phối bởi những nguyên nhân gắn bó mật thiết với nghiệp chính trị của mình. Đối với những cuộc điều tra kết thúc tốt đẹp, ông luôn ra mặt đón nhận chiến công, còn ngược lại, ông chia trách nhiệm cho các thành viên trong nhóm, hay “đội của Roche”, như cách gọi mà ông hay dùng.


      Đó là chiến thuật khiến cho ông phải chịu thái độ bất bình và thường là khinh bỉ của thuộc cấp.


      Mọi người tụ tập trong phòng họp ở tầng sáu của tòa nhà ngay trung tâm thành phố, nơi ban điều tra đóng đô.


      Mila đứng ngay hàng đầu. xử lý lại vết thương của mình trong buồng vệ sinh và dán nó bằng hai miếng băng gạc. Sau đó thay chiếc quần jean mới, giống hệt chiếc cũ.


      ngồi vào chỗ, đặt túi xuống đất. Ngay lập tức nhận ra người đàn ông bên cạnh mình là thanh tra Roche. Ông trao đổi gì đó rất hăng với người khiêm nhường. Người này dường như có cái quầng lạ lùng màu xám xịt bao quanh. dám cá là ở ngoài đường, ông ta mất hút ngay như bóng ma. Nhưng ở trong này, diện của ông rất quan trọng. còn nghi ngờ gì nữa, đó chính là giáo sư Gavila mà Rosa và Boris nhắc tới ở trong xe.


      Tuy nhiên, ở giáo sư có điều gì đó khiến người ta lập tức quên ngay bộ quần áo nhăn nhúm và mái tóc rối bù.


      Chính là đôi mắt to và xuyên thấu kia.


      Vừa tiếp tục trao đổi với Roche, ông vừa chiếu tướng bằng đôi mắt của mình. Mila khó chịu nhìn hướng khác, và sau lúc giáo sư cũng làm theo, trước khi ngồi xuống cách chỗ xa. Rồi ông hoàn toàn để ý đến nữa, và vài phút sau đó cuộc họp chính thức bắt đầu.


      Roche bước lên bục mở lời với cử chỉ trịnh trọng, như thể chuyện trước cử tọa đông đảo, chứ phải nhóm vẻn vẹn năm người.


      - Tôi vừa gọi cho bên khoa học hình . Tay Albert của chúng ta để lại bất kì dấu vết nào. Gã rất khôn khéo. Tại nơi chôn các cánh tay, hề có vết tích hay dấu vân tay nào. Gã chỉ để lại cho chúng ta sáu bé cần phải tìm ra. Sáu thi thể... và cái tên.


      Sau đó thanh tra nhường lời cho giáo sư Goran, nhưng ông bước lên bục. Ông ngồi tại chỗ, hai tay khoanh lại, chân duỗi dài ra bên dưới hàng ghế phía trước.


      - Ngay từ đầu Albert biết mọi chuyện diễn ra như thế nào. trù tính từng chi tiết nhất. là kẻ dẫn dắt trò chơi. Hơn nữa, sáu con số tròn trịa trong đầu óc của tên giết người hàng loạt.


      - Sáu trăm sáu mươi sáu, con số của quỷ. - Mila xen vào.


      Mọi người quay lại nhìn với thái độ khó chịu.


      - Đừng viện dẫn thứ tầm thường vớ vẩn ấy. - Goran với Mila khiến muối mặt. - Khi chúng ta đến con số tròn trịa, nghĩa là đối tượng hoàn thành hay nhiều chuỗi giết chóc của mình.


      Mila hơi nheo mắt. Đoán chắc chưa hiểu, Goran liền giải thích tiếp:


      - Chúng ta gọi những kẻ giết người ít nhất ba lần với phương thức tương tự nhau là “kẻ sát nhân hàng loạt”.


      - Hai mạng người cấu thành tội “sát nhân nhiều lần”. - Boris thêm vào.


      - Do vậy sáu nạn nhân tạo thành hai chuỗi.


      - dạng quy tắc bất thành văn à? - Mila hỏi.


      - . Nó có nghĩa là khi giết người đến lần thứ ba, dừng lại nữa. - Rosa chen vào để chấm dứt cuộc tranh luận.


      - Những cái phanh hãm bên trong nhả, cảm giác tội lỗi lắng, và kể từ đó tên sát nhân giết chóc cách máy móc. - Goran chốt lại, sau đó quay ra với mọi người. - Nhưng vì sao chúng ta vẫn chưa biết tí gì về thi thể số sáu?


      Roche chen vào:


      - Chúng ta có biết manh mối. Theo những gì tôi được nghe báo cáo, nữ đồng nghiệp nhanh nhạy của chúng ta cung cấp manh mối tôi cho là quan trọng. ấy liên hệ nạn nhân vô danh với Debby Gordon, bé đầu tiên. - Roche cứ như thể công trạng của Mila thuộc về ông ta vậy. - Mời , cảnh sát Vasquez: hãy cho chúng tôi nghe về trực giác của .


      lần nữa Mila là tâm điểm của chú ý. cụp mắt xuống quyển sổ ghi chép để sắp xếp lại các ý tưởng trước khi . Trong lúc đó, Roche ra hiệu cho đứng dậy.


      đứng lên.


      - Debby Gordon và bé số sáu quen biết nhau. Tất nhiên đây vẫn chỉ là giả thiết, nhưng điều này giải thích được lý do tại sao hai đứa có cùng dấu vết nơi ngón trỏ...


      - Nó chính xác là gì vậy? - Goran tò mò hỏi.


      - Ơ... nghi thức chích đầu ngón tay bằng cái kim băng rồi áp hai ngón tay vào nhau để hòa trộn máu: kiểu cắt máu ăn thề của tụi nhóc. Thông thường nó dùng để ghi dấu ấn cho tình bằng hữu.


      Mila cũng từng làm thế với bạn Graciela. Hai đứa dùng cái đinh gỉ nhặt được, vì chúng thấy kim băng là thứ quá con . Kỷ niệm đột ngột về trong đầu Mila. Graciela từng là đồng minh của . Hai đứa biết tường tận các bí mật của nhau, và có lần từng cùng nhau chia sẻ cậu con trai mà đối tượng biết gì. Hai để cho cậu chàng tưởng bở rằng mình có thể bắt cá hai tay mà hai hề hay biết. Graciela thế nào rồi nhỉ? nhiều năm Mila có tin tức gì của ấy. Cả hai đứt liên lạc quá sớm, và chưa bao giờ gặp lại nhau. Vậy nhưng hai đứa cùng thề nguyền tình bạn vĩnh cửu. Sao có thể quên điều đó cách giản đơn đến thế?


      - Nếu đó là thực số sáu cũng trạc tuổi Debby.


      - Phân tích mật độ canxi trong xương của cánh tay số sáu khẳng định giả thiết này: nạn nhân ở độ tuổi mười hai. - Boris chen ngang, chàng nôn nóng muốn ghi điểm cho Mila.


      - Debby Gordon học nội trú trong trường nhà giàu. Loại trừ khả năng chị em kết nghĩa của bé là trong các bạn cùng lớp vì trong các học sinh còn lại ai bị mất tích.


      - Như vậy Debby phải quen bé kia ở bên ngoài trường họ. - Boris lại xen vào.


      Mila gật gù.


      - Debby mới đến ngôi trường này được tám tháng. Chắc hẳn bé cảm thấy rất độc khi phải sống xa nhà. Tôi bảo đảm bé gặp khó khăn trong việc kết bạn. Do vậy tôi cho rằng hai bé quen biết nhau trong những bối cảnh khác.


      - Tôi muốn xem qua phòng của bé ở trường nội trú. - Roche . - Biết đâu tìm được thứ gì đấy.


      - Tôi cũng muốn chuyện với bố mẹ của Debby, nếu có thể.


      - Tất nhiên, cứ làm những gì thấy cần.


      Trước khi ngài chánh thanh tra kịp thêm, có tiếng gõ cửa vang lên. Ba cú gõ nhanh. Họ nhìn thấy chàng thó mặc blouse trắng lao vào đợi được mời. chàng có mái tóc dày và đôi mắt giống hai hạt hạnh nhân.


      - À, bác sĩ Chang. - Thanh tra Roche chào ta.


      Chang là bác sĩ pháp y phụ trách vụ án này. Mila nhanh chóng nhận ra ta phải là người châu Á. Vì đột biến di truyền kỳ lạ, ta bỗng dưng được thừa hưởng những đường nét đặc trưng kia. Tên là Leonard Vross, nhưng từ thuở nào đến giờ mọi người vẫn gọi là Chang.


      Chang đến đứng cạnh Roche. lập tức mở tập hồ sơ mang theo, mặc dù cần phải đọc vì nội dung của nó thuộc nằm lòng.


      - Tôi muốn mọi người chú ý lắng nghe báo cáo của bác sĩ Chang. - Thanh tra Roche . - Mặc dù tôi biết vài điểm có thể khó hiểu đối với số người.


      Ông ta có ý nhắc khéo Mila, chắc chắn như thế.


      Chang rút kính trong túi áo ra đeo lên mắt, rồi hắng giọng tuyên bố:


      - Tình trạng các cánh tay rất tốt dù bị chôn dưới đất.


      Điều này khẳng định giả thiết mà theo đó khoảng thời gian từ lúc các cánh tay bị chôn đến lúc bị phát là khá ngắn. Tiếp theo, bác sĩ Chang thêm vài chi tiết, rồi chuyển sang mô tả cái chết của sáu rào đón gì cả.


      - Thủ phạm giết các nạn nhân bằng cách chặt tay.


      Các vết thương có tiếng của chúng. Khi bác sĩ pháp y giơ tấm ảnh chụp cánh tay lên, lập tức chú ý đến quầng màu hơi đỏ chung quanh vết cắt và vết gãy của xương. thâm nhập của máu vào trong mô là dấu hiệu đầu tiên để kết luận vết thương có gây chết người hay . Nếu nó được gây ra thi thể, khi đó tim ngừng hoạt động, máu chảy dần dần qua các mạch máu bị vỡ mà ăn sâu vào các mô lân cận. Trong trường hợp ngược lại, vết thương được gây ra khi nạn nhân còn sống, huyết áp tiếp tục truyền trong các động mạch và mao mạch, do tim vẫn bơm máu vào các mô tổn thương, trong nỗ lực tuyệt vọng nhằm hàn gắn chúng lại.


      Chang tiếp:


      - Vết thương nằm ở đoạn giữa cơ nhị đầu cánh tay. Xương bị giập gãy, vết cắt rất ngọt. Chắc thủ phạm dùng lưỡi cưa rất bén, vì tìm thấy mạt sắt nơi bờ vết thương. Vết cắt đồng nhất của các mạch máu và các sợi gân cho thấy việc cưa tay được thực với khéo léo mà tôi tin là của dân trong nghề giải phẫu. Nguyên nhân tử vong là do mất máu. Đó là cái chết rất khủng khiếp.


      Nghe đến đây, Mila bất giác cụp mắt xuống như thành kính. Nhưng lập tức nhận ra chỉ có mình làm như thế.


      Chang tiếp tục:


      - Tôi cho rằng thủ phạm kết liễu các nạn nhân ngay lập tức. Gã có lợi gì trong việc duy trì sống cho bọn trẻ lâu hơn mức cần thiết, và gã hề chần chừ. Phương pháp ra tay với các nạn nhân là như nhau. Ngoại trừ bé...


      Câu của Chang lơ lửng trong trung mất lúc, trước khi đổ ập xuống nhóm điều tra như gáo nước lạnh.


      - Nghĩa là sao? - Goran hỏi.


      Chang đẩy lại gọng kính bị tụt xuống chóp mũi, rồi nhìn nhà tội phạm học đăm đăm.


      - Đối với nạn nhân, tình trạng thậm chí còn tệ hại hơn cái chết.


      yên lặng tuyệt đối bao trùm lên căn phòng.


      - Thử nghiệm độc chất học tiết lộ dấu vết của hỗn hợp thuốc diện trong máu và mô. Chính xác chúng gồm có các loại thuốc chống loạn nhịp tim như disopyramide, các chất ức chế men chuyển và atenolol, chất chẹn beta...


      - Gã vừa làm chậm nhịp tim của bé vừa gây hạ huyết áp. - Giáo sư Goran Gavila thêm vào, lúc này ông vỡ lẽ.


      - Tại sao? - Stern hỏi, với mọi chuyện vẫn tối như bưng.


      Đôi môi Chang nhăn nhúm lại thành nụ cười cay nghiệt.


      - Gã làm giảm nhịp tim của nạn nhân để cái chết đến với bé chậm hơn… Gã muốn thưởng thức tấn tuồng.


      - bé nào vậy? - Roche hỏi, mặc dù tất cả đều biết câu trả lời.


      - Số sáu.


      Lần này Mila chẳng cần phải là chuyên gia về giết người hàng loạt để hiểu được tình. Bác sĩ pháp y vừa mới khẳng định rằng tên sát nhân thay đổi cách thức hành động của mình. cách khác, gã chắc ăn hơn về việc mình làm. Gã thử nghiệm trò chơi mới. Và điều đó làm gã thích thú.


      - Gã thay đổi vì gã thấy hài lòng với kết quả. Mọi việc diễn ra ngày càng thuận lợi hơn. - Goran kết luận. - Có vẻ như gã bén mùi.


      cảm xúc lạ lùng xâm chiếm khắp người Mila. Đó là cú lạnh gáy mà cảm thấy mỗi khi đến gần với lời giải của vụ mất tích. điều rất khó lý giải. Thường cảm giác đó kéo dài lâu hơn, nhưng lần này, trước cả khi kịp nghĩ đến, nó bị câu tiếp theo của Chang xua tan.


      - Còn việc nữa... - thêm với Mila. (Chang biết , nhưng là gương mặt lạ duy nhất trong phòng, và chắc hẳn biết nguyên nhân đến đây). - Cha mẹ của các bé nạn nhân ở phòng bên.





      Nhìn từ khung cửa sổ của đồn cảnh sát nằm heo hút trong vùng núi trông ra thành phố, Alexander Bermann có thể thấy toàn bộ bãi đậu xe. Chiếc xe của đậu ở phía cuối bãi, hàng thứ năm. Nhìn từ chỗ nó có vẻ rất xa.


      Mặt trời cao làm mái tôn rực sáng. Sau cơn giông đêm qua, thể nào tưởng tượng nổi hôm nay là ngày đẹp trời đến thế. Thời tiết khá ấm áp khiến người ta ngỡ như trời sang xuân. cơn gió len vào qua ô cửa sổ tạo cảm giác thanh bình. thấy khoan khoái lạ lùng.


      Khi bị chặn kiểm tra xe bên đường lúc tảng sáng, suy sụp, cũng bị nỗi kinh hoàng chế ngự. ngồi yên trong xe cùng với cảm giác ẩm ướt khó chịu giữa hai chân.


      Từ ghế người lái, thấy rất các viên cảnh sát làm nhiệm vụ của họ bên cạnh chiếc xe hơi. người cầm cái bóp đựng giấy tờ của trong tay, và vừa lật ra xem vừa đọc cho người kia các chi tiết để ta thông báo qua điện đàm.


      Chẳng mấy chốc họ mở cốp xe của mình, nghĩ bụng.


      Tay cảnh sát chặn xe có vẻ rất lễ độ. ta trò chuyện về cơn giông dữ dội và tỏ ra thông cảm. ta nghĩ phải lái xe cả đêm trong lúc giông gió như thế.


      - phải người ở đây. - Viên cảnh sát khi nhìn biển sổ xe.


      - , quả thực tôi phải người vùng này. - đáp.


      Mẩu đối thoại dừng lại ở đó. Trong thoáng, định kể hết cho viên cảnh sát, nhưng rồi lại đổi ý. Chưa phải lúc. Sau đó viên cảnh sát tiến về phía người đồng nghiệp. Alexander Bermann chuyện gì sắp diễn ra, nhưng đó là lần đầu tiên bàn tay lơi chút vôlăng. Máu lại bắt đầu tuần hoàn trong đôi tay , trả lại cho chúng sắc diện bình thường.


      lại nghĩ đến lũ bướm.


      Chúng quá mỏng manh, quá vô tư về sức hấp dẫn của mình. làm thời gian ngừng lại đối với chúng, làm cho chúng ý thức được những bí bên trong quyến rũ của mình. Những kẻ khác chỉ dừng lại ở chỗ cuỗm lấy vẻ đẹp của chúng. Còn , nâng niu chúng. Xét cho cùng, người ta có thể kết tội vì điều gì kia chứ?


      Khi nhìn thấy tay cảnh sát tiến lại xe mình lần nữa, những suy nghĩ kia vụt biến mất, và căng thẳng vừa chớm giải tỏa lại tăng gấp bội. Họ mất quá nhiều thời gian, nghĩ bụng. Trong lúc tiến lại gần, viên cảnh sát đặt tay lên hông, ngay gần thắt lưng. Gã biết cử chỉ đó có nghĩa là ta sẵn sàng rút súng. Khi rốt cuộc ta cũng ở bên cạnh gã, ta câu mà gã ngờ đến.


      - Alexander Bermann, mời theo chúng tôi về đồn. Giấy tờ của thiếu bằng lái xe.


      Quái lạ, nghĩ bụng. Mình chắc chắn là có cất bằng lái trong đó mà. Nhưng rồi hiểu ra ngay: gã đàn ông bịt mặt lấy nó trong khi bất tỉnh... Và giờ ở đây, trong cái phòng đợi này, tận hưởng ấm áp khác thường của cơn gió . Cảnh sát nhốt ở đây sau khi tạm giữ chiếc xe hơi. Việc mức phạt hành chính của mình chỉ là mối bận tâm thứ yếu đối với . Bọn họ túm tụm trong văn phòng làm việc, hoàn toàn biết gì, bận ra quyết định về những chuyện còn có chút quan trọng nào với . Làm thế nào để thay đổi thứ tự ưu tiên cho người chẳng còn gì để mất? Đối với bây giờ, điều quan trọng nhất là cơn gió kia tiếp tục mơn trớn dừng lại.


      Trong lúc chờ đợi, quan sát chăm chú bãi đậu xe và các nhân viên cảnh sát ra vào. Chiếc xe hơi của vẫn ở đó, trong tầm mắt của mọi người. Cùng với bí mật nằm trong cốp. Nhưng chưa ai phát được điều gì.


      Trong khi nghĩ đến tình thế khác thường của mình, nhận thấy tốp cảnh sát đường quay lại làm việc sau khi giải lao uống cà phê sáng. Ba nam ba nữ, mặc đồng phục. người trong số đó hình như kể giai thoại gì đấy, vừa vừa làm điệu bộ. Khi ta kể xong, những người kia cười vang. chàng cao to nhất đột ngột dừng lại, để mặc những người kia bước tiếp. ta phát ra điều gì đó.


      Alexander Bermann lập tức nhận ra biểu gương mặt của ta.


      Cái mùi đó, thầm nghĩ. Chắc là ta ngửi thấy nó.


      Vẫn gì với các đồng nghiệp, chàng cảnh sát nhìn chung quanh rồi hít hít khí, như thể tìm kiếm thứ khiến các giác quan của mình báo động trong thoáng. Khi tìm ra, ta liền quay về phía chiếc xe hơi gần đấy. ta bước mấy bước về phía nó, rồi dừng lại ngay chỗ cốp xe đóng.


      Nhìn thấy cảnh đó, Alexander Bermann thở phào cái. thấy người. người vì trùng hợp mang đến đây, vì cơn gió, và vì phải là người mở cái cốp xe quỷ quái kia.


      Cơn gió ngừng vuốt ve da thịt . Alexander Bermann đứng dậy từ chỗ ngồi cạnh cửa sổ và rút điện thoại di động trong túi ra.


      đến lúc gọi cú điện thoại.

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      6








      Debby. Anneke. Sabine. Melissa. Caroline.


      Mila lẩm nhẩm mấy cái tên trong đầu khi quan sát bố mẹ của các nạn nhân được nhận dạng qua lớp kính. Họ được triệu tập đến nhà xác của Viện pháp y. Đó là tòa nhà kiểu gô-tích với nhiều cửa sổ rộng, bao quanh bởi khuôn viên trơ trụi.


      Còn thiếu hai người, Mila thầm nghĩ. ông bố và bà mẹ chưa được tìm ra.


      muốn đặt cái tên cho cánh tay trái số sáu bằng mọi giá. Đó là mà Albert bỏ nhiều công sức nhất với hỗn hợp thuốc kéo dài sống.


      Gã muốn thưởng thức tấn tuồng.


      lại nghĩ đến vụ thầy giáo dạy nhạc, lúc giải thoát cho Pablo và Elisa. “ cứu ba mạng người”, Morexu như thế khi nhắc đến dòng ghi chú trong quyển sổ của tên bắt cóc. Cái tên đó...


      Priscilla.


      Ông sếp của có lý: bé ấy gặp may. Mila để ý đến mối tương quan nghiệt ngã giữa bé và sáu nạn nhân bị chặt tay.


      Priscilla bị tên bắt cóc lựa chọn. trở thành con mồi thuần túy là việc ngẫu nhiên. Bây giờ ở nơi nào? Cuộc sống của em ra sao? Có thể phần trong em, phần sâu kín và bí nhất, cảm thấy mình vừa thoát được cái bẫy kinh hoàng.


      Khi đặt chân lên nhà của thầy dạy nhạc, chính Mila cứu mạng bé. Nhưng bao giờ biết chuyện đó. bao giờ cảm kích trước cuộc sống thứ hai mà mình nhận được.


      Priscilla cũng giống như Debby, Anneke, Sabine, Melissa, Caroline. Số phận của em được định đoạt, nhưng giống với các bé kia.


      Priscilla cũng giống như số sáu. nạn nhân có khuôn mặt, nhưng ít ra bé còn có cái tên.


      Bác sĩ Chang tin đây chỉ là vấn đề thời gian và sớm hay muộn người ta cũng biết được danh tính của nạn nhân số sáu. Tuy nhiên, Mila thấy ít có hy vọng. Ý nghĩ cho rằng mất tích mãi mãi gây trở ngại cho việc xem xét các khả năng khác của .


      Nhưng lúc này, cần phải tỉnh táo. Đến lượt mình rồi, thầm nghĩ trong khi nhìn vào tấm kính ngăn cách với cha mẹ của những nạn nhân có tên. nhìn vào thứ nom như cái bể cá đầy người, quan sát chuyển động của những sinh vật sầu thảm và câm lặng ấy. Chẳng bao lâu nữa, phải vào trong đó để trao cho bố mẹ Debby Gordon cái tin khiến cho nỗi đau buồn của họ lên đến đỉnh điểm.


      Hành lang nhà xác vừa dài vừa tối. Nó nằm ở tầng hầm của tòa nhà. Người ta có thể đến đó bằng cái cầu thang, hoặc sử dụng chiếc thang máy thường xuyên hỏng hóc. Những ô cửa sổ bé tẹo nằm hai bên trần nhà chỉ để chút ánh sáng lọt qua. Lớp gạch men trắng ốp tường tài nào phản xạ được ánh sáng, dường như đó là ý đồ của người lát gạch. Kết quả là tòa nhà luôn tăm tối dù vào ban ngày hay ban đêm và mấy chiếc đèn neon trần luôn phải bật sáng, phả vào khí yên lặng ma quái tiếng ro ro bất tận.


      nơi kinh khủng để đón nhận mất mát của đứa con dấu, Mila nghĩ bụng trong khi quan sát nhóm người nhà các nạn nhân. Để tạo thoải mái cho họ, trong phòng chỉ có hai cái ghế nhựa vô danh cùng với chiếc bàn, đó đặt vài quyển tạp chí với những khuôn mặt tươi cười ở trang bìa.


      Debby. Anneke. Sabine. Melissa. Caroline.


      - Nhìn . - Goran quay lại nhìn Mila. - Em trông thấy gì?


      Lúc nãy, trước diện của những người khác, ông ta làm mất mặt. Thế mà bây giờ lại đòi xưng hô thân mật cơ đấy?


      Mila tiếp tục quan sát lúc lâu.


      - Em thấy đau khổ của họ.


      - Nhìn kỹ vào. Chẳng phải chỉ có thế thôi đâu.


      - Em thấy những bé ấy. Mặc dù chúng có mặt ở đây. Khuôn mặt của chúng là tổng hòa của dung mạo bố mẹ chúng. Do vậy em nhìn thấy các nạn nhân.


      - Còn tôi, tôi nhìn thấy năm tế bào gia đình. Mỗi cái có gốc gác xã hội khác biệt. Với thu nhập và mức sống khác nhau. Tôi thấy những cặp vợ chồng vì nguyên nhân thế này thế khác mà chỉ có độc đứa con. Tôi thấy những người phụ nữ quá bốn mươi và do đó thể hy vọng có con được nữa... Đó là những gì tôi thấy.


      Giáo sư Goran quay lại nhìn .


      - Chính họ mới là nạn nhân. Gã nghiên cứu họ, lựa chọn họ. đứa con độc nhất. Gã muốn tước mất khỏi họ mọi hy vọng khép lại nỗi đau và quên mất mát. Họ phải nhớ điều gã làm với mình cho đến hết đời. Gã làm cho thống khổ của họ tăng lên bội phần khi lấy tương lai của họ. Gã tước đoạt cơ hội lưu truyền hồi ức của bản thân họ cho tương lai, cơ hội trường tồn sau cái chết của chính họ... Gã sống bằng điều đó. Chính nó là tưởng thưởng cho tàn ác của gã, là nguồn khoái lạc của gã.


      Mila nhìn chỗ khác. Ông giáo sư tội phạm học đúng: có cân đối trong tai họa giáng xuống đầu những con người này.


      - kế hoạch. - Goran khẳng định, chỉnh lại những suy nghĩ của .


      Mila lại nghĩ đến bé số sáu. Chưa ai khóc cho em. Đáng lẽ em phải được nhận những giọt nước mắt, giống như những nạn nhân khác. đau đớn có vai trò của nó. Nó giúp hàn gắn mối liên kết giữa những gì còn sống và chết. Nó là thứ ngôn ngữ thế chỗ cho từ ngữ và làm thay đổi cục diện vấn đề. Chính đó là điều mà các bậc cha mẹ ở bên kia lớp kính làm. Cẩn thận xây dựng lại trong nỗi đau chút gì của cuộc đời mất. Đồng thời hòa trộn những ký ức mong manh của họ bằng cách kết các sợi chỉ trắng của quá khứ với đám chỉ tơ mảnh mai của tại.


      Mila thu hết can đảm bước qua ngưỡng cửa. Ngay lập tức mọi cái nhìn của các ông bố bà mẹ đổ dồn vào và cả căn phòng im phăng phắc.


      tiến lại gần mẹ của Debby Gordon. Bà ngồi cạnh chồng, người đặt bàn tay lên vai bà. Tiếng bước chân của vang lên nhức nhối trong khi ngang qua những người còn lại.


      - Ông bà Gordon, tôi cần trò chuyện với hai ông bà lát...


      Mila đưa tay chỉ đường, sau đó để cho hai người trước. Họ tiến đến căn phòng khác, trong có đặt máy pha cà phê và máy bán bánh kẹo. Những vật dụng còn lại trong phòng là cái ghế xa lông cũ mòn kê sát tường, chiếc bàn cùng với mấy cái ghế nhựa màu xanh da trời và sọt rác đầy ly giấy.


      mời cặp vợ chồng ngồi xuống ghế xa lông trong khi mình lấy chiếc ghế nhựa. ngồi xuống, bắt chéo chân, và cảm thấy vết thương ở đùi nhói lên. Nhưng nó còn đau nhiều như trước. Nó bắt đầu lành dần.


      Mila lại thu hết can đảm để tự giới thiệu. về cuộc điều tra nhưng thêm bất cứ chi tiết nào ngoài những gì hai người kia biết. Ý định của là giúp cho cặp vợ chồng thấy thoải mái, trước khi đặt các câu hỏi với họ.


      Hai vợ chồng ông bà Gordon nhìn đăm đăm, như thể có khả năng chấm dứt cơn ác mộng này của họ. Hai người nom khá lịch thiệp. Cả hai đều là luật sư và được trả thù lao theo giờ. Mila hình dung họ ở trong ngôi nhà lý tưởng, chung quanh là những người bạn có chọn lọc và có cuộc sống vàng son. Cũng hợp lý khi họ có thể cho con độc nhất vào ngôi trường tư thục danh giá. biết điều đó: hai vợ chồng là những chuyên gia trong lĩnh vực chuyên môn của mình. Họ là những người biết cách ứng phó trong những tình huống ngặt nghèo nhất, quen với việc nghiền nát đối phương và bao giờ chùn bước trong các cuộc đấu trí. Thế nhưng tại họ có vẻ hoàn toàn chưa hề chuẩn bị cho bi kịch như thế này.


      Khi Mila trình bày xong việc, chuyển sang vấn đề mình quan tâm:


      - Thưa ông bà Gordon, ông bà có tình cờ biết liệu Debby có tình bạn đặc biệt thân thiết với bạn nào ở ngoài trường ạ?


      Hai vợ chồng nhìn nhau như thể tìm kiếm lý do khả dĩ cho câu hỏi trước khi đưa ra câu trả lời. Nhưng họ tìm ra được lý do.


      - , đấy là theo như chúng tôi biết.


      Nhưng Mila chịu hài lòng với câu trả lời cụt lùn đó.


      - Ông bà chắc chắn là Debby chưa bao giờ kể qua điện thoại về bé nào đó phải bạn học chứ?


      Trong khi bà mẹ cố gắng lục tìm trong trí nhớ, Mila quan sát thân hình của bà: cái bụng rất phẳng, đôi chân săn chắc. hiểu ngay quyết định dừng lại ở đứa con được cân nhắc rất kỹ. Người đàn bà này để mình bị phát tướng vì lần mang thai thứ hai. Nhưng dù sao bây giờ cũng quá trễ: tuổi tác gần năm mươi cho phép bà có con nữa. Goran có lý: Albert lựa chọn họ cách ngẫu nhiên…


      - ... nhưng dạo gần đây, điện thoại con bé có vẻ thanh thản hơn trước nhiều. - Bà Gordon đáp.


      - Tôi đoán từng đòi bà đưa về nhà...


      chạm đến điểm nhạy cảm, nhưng thể làm khác được, nếu muốn khám phá . Với giọng điệu lạc vì hối lỗi, bố của Debby thừa nhận:


      - Phải, con bé cảm thấy lạc lõng. Nó nhớ chúng tôi, cả Sting nữa... Con chó của nó ấy mà. - Ông giải thích khi Mila ngẩn ra nhìn họ. - Debby muốn quay về nhà và trường học cũ. ra , con bé chưa bao giờ ra điều đó. Có lẽ nó sợ làm phật lòng chúng tôi, nhưng... Chuyện đó là quá , căn cứ theo giọng điệu của nó.


      Mila biết điều gì sắp sửa diễn ra: hai người mãi mãi tự dằn vặt mình vì thực tâm nguyện muốn được về nhà của con . Nhưng ông bà Gordon đặt tham vọng của họ trước con mình, như thể tham vọng là thứ có thể di truyền được. Suy xét cho kỹ cách cư xử của họ có gì sai. Họ chỉ muốn điều tốt nhất cho con độc nhất của mình. cho cùng, họ chỉ hành động như bao ông bố bà mẹ khác. Nếu như mọi chuyện khác , có lẽ ngày Debby thấy biết ơn họ. Nhưng cái ngày ấy, đáng tiếc thay, bao giờ đến.


      - Thưa ông bà, tôi rất tiếc khi phải thúc ép, tôi hiểu điều này đau đớn như thế nào, nhưng buộc lòng tôi phải cầu ông bà nhớ lại những lần trò chuyện với Debby. Đám bạn bè ngoài trường của bé có thể rất quan trọng cho việc phá án. Tôi xin ông bà nhớ lại kỹ, và nếu như phát được điều gì...


      Hai ông bà Gordon cùng gật đầu, hứa cố gắng nhớ lại. Lúc đó Mila trông thấy bóng người qua lớp kính cửa. Đó là Sarah Rosa. ta cố gắng gây chú ý với . Mila xin lỗi hai vị khách và ra khỏi phòng. Khi hai người đứng đối diện nhau trong hành lang, Sarah Rosa chỉ vẻn vẹn mấy chữ:


      - chuẩn bị , ta phải lên đường. tìm thấy thi thể của .





      Đặc vụ Stern luôn đóng thùng trong bộ comlê, thường là các màu nâu, be, xanh sẫm, kèm với sơmi kẻ sọc nhuyễn. Mila suy ra rằng vợ ta rất câu nệ việc chồng mình phải ăn mặc chỉnh tề khi ra đường. Ngoại hình của Stern được chăm chút kỹ lưỡng. Mái tóc luôn chải lật ra sau và vuốt chút keo. Sáng nào cũng cạo râu, làn da của ngoài khoản nhẵn nhụi còn có vẻ rất mềm mại và thơm tho. Stern thuộc típ người tỉ mẩn. Những người bao giờ thay đổi thói quen, và việc gọn gàng sạch quan trọng hơn nhiều so với hợp thời trang.


      Thêm vào đó có vẻ rất giỏi trong việc thu thập thông tin.


      Trong suốt quãng đường đến nơi phát thi thể nạn nhân, Stern bắt đầu bằng việc ngậm viên kẹo bạc hà, rồi sau đó trình bày nhanh chóng các việc mà họ nắm được cho đến thời điểm tại.


      - Kẻ bị bắt giữ tên là Alexander Bermann, bốn mươi tuổi, nhân viên kinh doanh thiết bị ngành dệt, nhân thân tốt. có vợ và cuộc sống ổn định. rất được mọi người vị nể. Công việc của có vẻ khấm khá: giàu, nhưng cũng ổn.


      - chung là lý lịch sạch . - Rosa đế thêm. - có gì đáng ngờ.


      Khi họ đến đồn cảnh sát giao thông, viên cảnh sát phát ra xác chết ngồi thừ trong cái ghế xa lông cũ của văn phòng. ta bị sốc.


      Cảnh sát địa phương nhường lại phận cho đơn vị điều tra hình . Họ nhanh chóng vào cuộc với hỗ trợ của giáo sư Goran và trong quan sát của Mila. Vai trò của chỉ là kiểm tra xem có hay diện của những thứ hữu ích cho nhiệm vụ của mình, chứ can thiệp cách chủ động. Roche ở lại trong văn phòng, chờ các nhân viên báo cáo tình hình.


      Mila nhận ra Sarah Rosa giữ khoảng cách với . Điều này chỉ càng làm cho hài lòng, mặc dù biết chắc Rosa luôn dò xét và sẵn sàng bắt lỗi .


      trung úy trẻ tuổi lãnh nhiệm vụ đưa họ đến địa điểm chính xác. Cố tỏ ra tự tin, chàng quả quyết rằng mọi thứ hề bị xê dịch. Nhưng mọi thành viên trong nhóm điều tra đều hiểu đây có lẽ là lần đầu tiên đội của ta gặp phải cảnh tượng như thế. Trong nghiệp của cảnh sát tỉnh lẻ, họ ít có dịp nào được tham dự vào vụ án có tính chất man rợ đến vậy.


      đường , viên trung úy trình bày việc cách rất hàm súc. Chắc hẳn chàng chuẩn bị bài diễn thuyết từ trước để tránh bị ngắc ngứ. Quả thực, ta khác gì đọc biên bản báo cáo.


      - Chúng tôi kiểm tra. Nghi phạm Alexander Bermann đến khách sạn ở thị trấn cách đây rất xa vào sáng hôm qua.


      - Cách đây sáu trăm cây số. - Stern bổ sung.


      - Có vẻ như lái xe cả đêm. Chiếc xe gần như cạn sạch xăng. - Viên trung úy .


      - có gặp ai ở khách sạn ? - Boris hỏi.


      - ăn tối cùng với khách hàng. Sau đó rút về phòng... theo như lời khẳng định của những người có mặt trong bữa tối. Nhưng chúng tôi còn kiểm chứng các việc mà họ kể.


      Rosa ghi lại điều đó trong quyển sổ tay, với dòng ghi chú mà Mila liếc nhìn thấy qua vai ta. “Thu thập thông tin về thời gian biểu của khách trọ trong khách sạn”.


      Goran xen vào:


      - Bermann chưa khai gì cả, đúng ?


      - Nghi phạm Alexander Bermann từ chối phát ngôn khi có mặt luật sư.


      Họ đến bãi đỗ xe. Goran nhận thấy chiếc xe của Bermann được quây lại bằng vải bạt trắng để che cảnh tượng chết chóc. Nhưng nó chỉ là biện pháp đề phòng giả tạo. Đứng trước những tội ác kinh hoàng, biểu khó chịu chỉ là lớp mặt nạ bên ngoài của con người. Đó là điều mà giáo sư Gavila nhanh chóng hiểu ra. Cái chết có sức hấp dẫn lạ lùng đối với những người sống, đặc biệt là những cái chết thảm. Gần như tất cả chúng ta đều cảm thấy hiếu kì trước các xác chết. Cái chết có tính quyến rũ rất cao.


      Trước khi tiếp cận trường, toán điều tra đeo túi ni lông bảo vệ giày, đội mũ trùm để che kín tóc, và tất nhiên thể thiếu những đôi găng tay tiệt trùng. Sau đó họ được cung cấp đựng bột long não. Mỗi người lấy ít bôi lên hai lỗ mũi để át mùi.


      Đó là quy trình rất quen thuộc, gần như cần giải thích bằng lời. Nó cũng là cách để tìm lại tập trung. Khi nhận lấy hũ long não từ tay Boris, Mila có cảm giác mình phần của nghi thức lạ lùng này.


      Viên trung úy cảnh sát giao thông được mời trước. Đột nhiên toàn bộ tự tin của chàng biến đâu mất. ta ngần ngừ lúc lâu rồi mới trước dẫn đường.


      Trước khi bước qua ngưỡng của thế giới mới mẻ này, giáo sư Goran nhìn sang Mila. gật đầu, và ông có vẻ bình tĩnh hơn.


      Bước khởi đầu luôn khó khăn nhất. Mila dễ dàng quên được bước chân đầu tiên của mình.


      Nó giống như vào chiều gian khác vậy. Khu vực vài mét vuông, nơi ánh sáng mặt trời bị trộn lẫn với thứ ánh sáng nhân tạo lạnh lùng của các ngọn đèn halogen, gần như tạo nên vũ trụ khác, theo những nguyên lý và định luật hoàn toàn khác với thế giới của chúng ta. Thêm vào ba chiều gian: chiều cao, chiều rộng và chiều sâu, là chiều thứ tư: chiều trống. Mọi nhà tội phạm học đều biết các câu trả lời thường nằm ở những “khoảng trống” của trường. Khi lấp đầy nó bằng diện của nạn nhân hoặc thủ phạm, người ta tái lại tội ác, lý giải được bạo lực, và làm sáng tỏ điều chưa biết. Người ta nới rộng thời gian bằng cách kéo nó ngược về quá khứ, với sức căng luôn luôn tồn tại rất ngắn và bao giờ có lại được. Chính vì thế mà ấn tượng đầu tiên về trường luôn là điều quan trọng nhất.


      Với Mila, nó thuộc về khứu giác.


      bôi long não, mùi của trường vẫn xộc mạnh vào mũi . Thứ mùi của cái chết vừa gây buồn nôn lại vừa dịu ngọt. Rất mâu thuẫn. Đầu tiên, nó ập vào ta như cú đấm vào bụng, sau đó ta phát ra thứ gì đó, rất sâu trong thứ mùi ấy, mà ta chỉ có thể cảm thấy thích thú.


      Các thành viên trong nhóm điều tra nhanh chóng tiến vào vị trí chung quanh chiếc xe hơi của Bermann. Mỗi người chiếm lấy điểm quan sát, tạo thành bốn cực. Như thể mắt họ cùng chia sẻ các thông số của lưới tọa độ bao phủ từng centimét trường, bỏ lọt bất cứ thứ gì.


      Mila theo giáo sư ra phía đuôi xe.


      Cốp xe mở, ở y nguyên trong tình trạng mà viên cảnh sát phát ra xác chết để lại. Giáo sư Goran cúi người quan sát bên trong cốp. Mila cũng làm theo.


      nhìn thấy cái xác, bởi vì trong cốp chỉ có cái túi ni lông đen to, bên trong đựng thứ có hình thù giống thân người.


      Xác của chăng?


      Chiếc túi dính sát vào thi thể, lồi lõm theo những đường nét khuôn mặt. Cái miệng há to trong tiếng thét câm lặng. Tuồng như khí bị hút vào cái hốc đen ngòm ấy.


      Hệt tấm vải liệm.


      Anneke, Debby, Sabine, Melissa, Caroline... hay là số sáu?


      Có thể thấy hốc mắt và khuôn mặt ngửa ra phía sau. Thi thể mềm oặt mà ngược lại, nó ở trong tư thế căng cứng như bị sét đánh. Điều đập vào mắt từ bức tượng bằng xương bằng thịt này là thiếu vắng của cánh tay. Tay trái.


      - Nào, chúng ta bắt đầu phân tích. - Goran .


      Phương pháp của giáo sư tội phạm học là đặt câu hỏi. Kể cả những câu đơn giản và tưởng như vô nghĩa nhất. Cả nhóm cùng nhau tìm lời giải đáp cho các câu hỏi đó. Vụ này cũng thế, mọi ý kiến đều được chấp thuận.


      - Trước tiên, định hướng. - Ông mở lời. - Hãy cho tôi biết, tại sao chúng ta ở đây?


      - Tôi bắt đầu nhé. - Boris xung phong. đứng ở cạnh ghế người lái. - Chúng ta ở đây do vụ điều khiển xe mà có bằng lái.


      - Các chị nghĩ sao về điều này? Liệu giải thích như vậy đủ chưa, theo các chị? - Giáo sư Goran hỏi trong lúc đưa mắt nhìn những người còn lại.


      - Các chốt kiểm soát. - Sarah Rosa đáp. - Từ khi các bé mất tích, có khoảng chục chốt kiểm soát được dựng lên, rải rác nhiều nơi. Điều có thể xảy đến... đến. Chúng ta gặp may.


      Goran lắc đầu. Ông tin vào may rủi.


      - Việc gì phải mạo hiểm di chuyển cùng với tang chứng như thế này?


      - Có thể chỉ đơn thuần muốn vứt bỏ nó. - Stern phỏng đoán. - Hoặc cũng có thể sợ bị chúng ta phát , nên cố gắng tống khứ các dấu vết ra càng xa khỏi càng tốt.


      - Tôi cũng thế. Tôi nghĩ đây là mưu toan đánh lạc hướng. - Boris hùa vào. - Nhưng thành công.


      Mila nhận ra bọn họ khẳng định Alexander Bermann là Albert. Chỉ duy có giáo sư Goran vẫn tỏ ra hơi nghi ngại.


      - Chúng ta vẫn còn phải hiểu cho được kế hoạch của . tại ta chỉ có thi thể nằm trong cốp xe. Nhưng câu hỏi ban đầu là khác kia, và ta vẫn chưa trả lời được: tại sao chúng ta ở đây? Điều gì đưa chúng ta đến đứng quanh chiếc xe này, trước cái xác này? Ngay từ đầu, chúng ta cho rằng thủ phạm rất khôn ngoan. Có thể còn hơn cả chúng ta nữa ấy chứ. cho cùng chơi chúng ta nhiều lần khi bắt cóc thành công các bé mặc cho tình trạng được báo động diện rộng... Vậy , liệu có thể tưởng tượng ra rằng lại để cho mình bị bại lộ chỉ vì cái bằng lái xe ngớ ngẩn hay ?


      Mọi người cùng nghiền ngẫm khả năng đó trong yên lặng.


      Sau đó nhà tội phạm học quay sang phía viên trung úy cảnh sát giao thông, người từ nãy giờ đứng hơi tách biệt, miệng câm như hến, còn da mặt tái xanh như màu chiếc áo sơmi ta mặc bên trong quân phục.


      - Trung úy này, bảo Bermann cầu luật sư, phải nhỉ?


      - Đúng vậy ạ.


      - Có lẽ luật sư được chỉ định là đủ, vì chúng tôi muốn thẩm vấn nghi phạm, để cho ta cơ hội phản bác những kết quả phân tích của chúng tôi sau khi xong việc tại đây.


      - Ông có muốn tôi lo việc này ngay ạ?


      Viên trung úy hy vọng được giáo sư Goran phái chỗ khác. Ông giáo sư sắp sửa chiều lòng ta.


      - Có thể Bermann chuẩn bị trước các lời khai. Tốt hơn nên làm bất ngờ và tìm cách khiến tự mâu thuẫn với bản thân, trước khi học bài quá kỹ càng.


      - Tôi xin mạn phép phỏng chừng rằng trong thời gian này, có lẽ cũng tự vấn lương tâm rất kỹ lưỡng đấy ạ.


      Nghe thấy những lời này của viên trung úy, các thành viên của nhóm điều tra nhìn nhau bán tín bán nghi.


      - Ý là... các để mình? - Goran hỏi.


      Viên trung úy ngơ ngác:


      - Chúng tôi để lại mình, như lệ thường. Sao thế ạ? Có g…


      ta kịp dứt câu. Boris là người đầu tiên hành động. Chỉ bằng cú sải chân, phóng ra khỏi khu vực lập, Stern và Sarah Rosa bám theo bén gót. Họ vừa lao vừa gỡ túi bảo vệ giày để bị trượt chân trong lúc chạy.


      Mila cũng như viên trung úy cảnh sát giao thông có vẻ hiểu chuyện gì diễn ra. Goran đuổi theo những người kia, quăng lại vẻn vẹn câu:


      - Đây là kẻ nguy hiểm, lẽ ra các phải giám sát cẩn mật!


      Lúc đó, Mila và viên trung úy mới hiểu ra nguy cơ mà ông giáo sư muốn .


      Giây lát sau, tất cả mọi người tề tựu trước cánh cửa buồng giam của nghi phạm. Tay cảnh sát canh gác bên ngoài phòng lập tức mở lỗ nhòm khi Boris chìa thẻ ra. Qua lỗ nhòm cửa, chẳng thấy Alexander Bermann đâu cả.


      chọn góc khuất tầm nhìn. Goran thầm nghĩ.


      Khi viên cảnh sát gác cửa mở chiếc khóa to đùng, viên trung úy vẫn còn cố thử trấn an cả nhóm, hay đúng hơn là bản thân ta, bằng cách sống chết bảo đảm rằng quy trình được tuân thủ nghiêm ngặt. Họ lấy đồng hồ, thắt lưng, càvạt, kể cả giây dày của Bermann. chẳng còn thứ gì có thể dùng để tự làm hại bản thân.


      Nhưng cánh cửa mở ra phủ nhận những điều ta .


      Alexander Berman nằm trong góc khuất tầm nhìn của buồng giam.


      Lưng dựa vào tường, tay buông thõng đầu gối, hai chân xoạc ra, miệng đầy máu. Chung quanh cái vũng màu đen.


      Để tự sát, sử dụng biện pháp khác thường.


      Alexander dùng răng xé rách thịt ở cổ tay và để cho máu chảy đến chết.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :