Kẻ Trộm Sách - Markus Zusak(Chiến tranh)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Tên : Kẻ Trộm Sách
      [​IMG]

      Tác Giả: Markus Zusak
      Thể Loại: Tiểu Thuyết, Chiến Tranh, Kinh Dị
      Dịch Giả: Cao Xuân Việt Khương
      Nguồn: vnthuquan.vn

      Giới Thiệu:
      bao giờ bạn đọc, hay được kể cho nghe, câu chuyện mà người kể chuyện là Thần Chết chưa? Kẻ trộm sách câu chuyện như thế.
      Đây là câu chuyện về Kẻ trộm sách, những từ ngữ người chơi đàn xếp, vài gã người Đức cuồng tín, tay đấm Do Thái, và khá nhiều vụ ăn trộm - và được kể bởi Thần Chết. Chỉ có vậy, nhưng câu chuyện về Kẻ trộm sách làm rung động trái tim của hàng triệu triệu độc giả khắp hành tinh.
      Kể câu chuyện về chiến tranh, hẳn ai kể hay hơn Thần Chết (có lẽ đó cũng là lý do Thần Chết được chọn làm người kể chuyện). Xuyên suốt quyển sách này, hình ảnh cái chết vàchiến tranh được nhắc lại nhiều lần. Và cuộc chiến tranh mà chúng ta đến ở đây là Thế chiến II - cuộc chiến mà mức độ tàn phá của nó khiến chính bản thân Thần Chết cũng phải rùng mình. Markus Zusak viết nên câu chuyện đầy ắp những nỗi kinh hoàng cách chân thực và đầy sức mạnh. Nỗi kinh hoàng của chiến tranh trong Kẻ trộm sách phải được thể bằng chiến trường đẫm máu hay những cỗ xe tăng súng đạn chết người, mà bằng quãng thời gian bốn năm của bé tại thị trấn thuộc ngoại ô thành phố Munich, Đức. Với phong cách dễ dàng đến khó tin trong bút pháp và khả năng tưởng tượng tuyệt vời, tác giả dã cho chúng ta thấy làm thế nào mà đứa trẻ có thể sống sót qua trong những giai đoạn kinh hoàng nhất của lịch sử nhân loại.
      Kẻ trộm sách còn là câu chuyện về sức mạnh của từ ngữ. Chính nhờ có từ ngữ mà Hitler gần như thông trị được cả thế giới, nhưng cũng chính nhờ từ ngữ mà bé Liesel mới thoát chết. Từ ngữ trong Kẻ trộm sách được nhắc đến thường xuyên và khó nắm bắt cũng như những nốt nhạc của bản giao hưởng vậy.
      Hơn hết, câu chuyện của Kẻ trộm sách là câu chuyện của những xung đột. Đó là xung đột giữa cá nhân và xã hội: Hans Hubermann, người Đức thuần chủng, giấu trong nhà mình Max Vandenburg, người Do Thái sinh ra đất Đức nhưng bị chính quê hương mình ghẻ lạnh. Chính vì hành động này mà Hans phải sống trong dằn vặt, sợ hãi, vì xã hội ông sống chấp nhận điều đó. Hoặc tinh vi hơn, sâu sắc hơn, là xung đột giữa cái tốt đẹp và cái xấu xa của loài người. Ta có thể thấy lạnh sống lưng khi đọc những đoạn về tàn khốc của chiến tranh, man rợ của bọn phát xít, hay nỗi khốn khổ của những người Do Thái. Nhưng đồng thời, xuyên suốt quyển sách ta vẫn luôn thấy ấm lòng nhờ những nghĩa cử cao đẹp và thắm đượm tình người.
      yếu tố thể bỏ qua làm nên thành công của Kẻ trộm sáchchính là tài năng khắc họa nhân vật của Zusak. Ngòi bút của ông thổi luồng sinh khí vô cùng mạnh mẽ vào từng nhân vật, khiến cho họ - tuy chỉ được biết đến qua những con chữ mặt giấy - vẫn sống động và đầy cá tính, vẫn khiến người đọc phải đau nỗi đau của họ, vui niềm vui của họ, và hồi hộp theo dõi câu chuyện cuộc đời họ cho đến tận trang sách cuối cùng.

      Hy vọng thông điệp đầy sức mạnh và tính nhân văn sâu sắc của Kẻ trộm sách được người đọc thấu hiểu và đón nhận cách nguyên vẹn, dẫu là thông qua bản dịch hẳn còn nhiều khiếm khuyết này.
      Dịch giả: Việt Khương

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CÁI CHẾT VÀ MÀU SÔCÔLA

      Trước hết là màu sắc
      Rồi đến những con người.
      Đó là cách tôi thường nhìn vào việc.
      Hay ít ra, là cách tôi cố gắng nhìn vào việc.

      SAU ĐÂY LÀ THỰC TẾ NHO
      Bạn chết.

      Tôi thực rất cố gắng duy trì thái độ vui vẻ đối với toàn bộ chủ đề này, dù hầu hết mọi người đều khó mà tin được điều đó, mặc cho tôi có cam đoan long trọng thế nào nữa. Làm ơn, hãy tin tôi. ràng là tôi có thể trở nên vui vẻ được chứ. Tôi có thể cư xử nhã nhặn. Dễ chịu. Lịch . Và chỉ trong chừng mực nào đó thôi nhé. Đừng đòi hỏi ở tôi tử tế. Cái tử tế ấy chả có dây mơ rễ má gì đến tôi sất.


      PHẢN ỨNG ĐỐI VỚI THỰC TẾ
      Điều này làm bạn lo lắng?
      Nghe đây - đừng sợ.
      Tôi chẳng là gì hết nếu công bằng.

      Dĩ nhiên rồi, lời giới thiệu.
      khởi đầu.
      Phép lịch của tôi để ở đâu cơ chứ?

      Tôi có thể tự giới thiệu mình cho phải đạo, song quả thực việc đó cần thiết. Bạn biết tôi là ai vào đúng thời điểm thích hợp, điều này phụ thuộc vào rất nhiều chuyện có thể xảy ra. Chỉ cần rằng, đến lúc nào đó tôi ở sát bên cạnh bạn, thân ái hết mức có thể. Linh hồn của bạn rồi yên vị trong vòng tay tôi. sắc màu đọng lại vai tôi. Rồi tôi nhàng đưa bạn .
      Trong cái khoảnh khắc ấy, bạn nằm ngay đơ ở đó (hiếm khi tôi thấy người nào còn đứng được). Bạn bị đóng dính cứng ngắc ngay trong chính thân xác mình. Có thể người ta phát ra bạn; rồi tiếng thét cào xé gian. thanh duy nhất mà tôi nghe được sau đó là tiếng thở của chính mình, rồi đến thanh của mùi, của những bước chân tôi.
      Câu hỏi được đặt ra ở đây là, vạn vật có sắc màu nào trong khoảnh khắc tôi đến rước bạn ? Bầu trời lên điều gì?
      Phần tôi, tôi thích bầu trời màu sô--la. Sẫm, màu sô--la sẫm. Người ta cái màu ấy hợp với tôi. Dẫu vậy, tôi vẫn cố gắng tận hưởng tất cả những sắc màu mà mình nhìn thấy - toàn bộ dải quang phổ màu. Hàng tỉ mùi vị, mùi nào hoàn toàn giống mùi nào, và cả bầu trời mùi vị cho tôi từ từ tận hưởng. Nó khiến căng thẳng tan biến. Nó giúp tôi thư giãn.


      GIẢ THUYẾT NHO
      Con người chỉ quan sát những sắc màu của ngày vào lúc nó bắt đầu và kết thúc, nhưng với tôi,
      ngày trong từng khoảnh khắc trôi qua, ràng là hòa trộn của vô số lần chuyển màu và điệu.
      Chỉ giờ đồng hồ thôi cũng có thể bao gồm hàng ngàn màu sắc khác nhau.
      Màu vàng sáp ong, màu trời xanh trứng sáo.
      Những bóng tối ảm đạm. Trong lối làm việc của mình,
      tôi có lý do để chú ý đến chúng.

      Như , ân điển cứu rỗi duy nhất của tôi là xao lãng.
      Nó giữ cho tôi tỉnh táo. Nó giúp tôi vượt qua được khó khăn xét đến quãng thời gian dài dằng dặc mà tôi dành để làm cái công việc này. Vấn đề là ở chỗ, liệu ai có thể thay thế được tôi cơ chứ? Ai có thể làm công việc của tôi trong lúc tôi nghỉ ngơi thoải mái ở điểm nghỉ mát đạt chuẩn chất lượng nào đó của các bạn, dù nó là khu nghỉ mát nhiệt đới hay khu du lịch trượt tuyết cũng được? Dĩ nhiên câu trả lời là: có ai cả, và điều này khiến tôi đưa ra quyết định hoàn toàn tỉnh táo, có cân nhắc - ấy là xem xao lãng này như kỳ nghỉ của mình. Đến đây chẳng cần chắc bạn cũng hiểu, tôi nghỉ mát trong khi làm việc. Trong những sắc màu.
      Dù vậy, có thể là bạn vẫn còn thắc mắc, Tại sao gã này lại cần đến kỳ nghỉ cơ chứ? Gã cần xao lãng khỏi cái gì?
      Điều đưa tôi đến với điểm dừng tiếp theo của mình.
      Là những người còn lại.
      Những kẻ sống sót.
      Họ là những người mà cứ nhìn thấy họ là tôi lại chịu nổi, dù tôi vẫn thường thất bại trong việc này. Tôi thận trọng tìm kiếm các sắc màu để giữ cho tâm trí mình còn bị họ ám ảnh nữa, nhưng thỉnh thoảng, tôi vẫn phải làm chứng nhân cho những con người còn sót lại, bị sụp đổ giữa trò ghép hình của nhận thức, tuyệt vọng và nỗi kinh ngạc ấy. Họ có những trái tim thủng lỗ chỗ. Họ có những buồng phổi thoi thóp.
      Đổi lại, việc này dẫn dắt tôi đến với chủ đề mà tôi kể lại cho bạn tối nay đây, hay hôm nay đây, vào bất cứ giờ nào và sắc màu nào. Đó là câu chuyện về trong những người còn sống sót cho đến hết đời ấy - bậc thầy trong việc bị bỏ lại đằng sau.
      Cùng với những chuyện khác, đây thực ra chỉ là câu chuyện về:
      - đứa bé
      - 1 vài lời
      - người chơi đàn xếp
      - vài gã người Đức cuồng tín
      - tay đấm Do Thái
      - và khá nhiều vụ ăn trộm.
      Tôi nhìn thấy kẻ trộm sách ba lần.



      BÊN ĐƯỜNG RAY TÀU HỎA

      Trước hết là cái gì đó màu trắng. Trắng lóa cả mắt.
      Vài người trong số các bạn thường cho rằng màu trắng phải là màu sắc thực , và là tất cả những gì vô nghĩa chán ngấy đại loại như thế. Để tôi cho bạn hay, nó đúng là sắc màu đấy. nghi ngờ gì nữa, trắng là sắc màu, và tôi nghĩ là bạn muốn tranh cãi về chuyện đó.

      THÔNG BÁO ĐỂ BẠN VỮNG DẠ HƠN
      Làm ơn, hãy bình tĩnh,
      đừng để ý đến lời đe dọa ban nãy nhé.
      Tôi chỉ hùng hổ thế thôi.
      Tôi bạo lực. Chẳng ác tâm.
      Tôi chỉ là kết cục.

      Đúng, nó màu trắng.
      Dường như cả tinh cầu đều mặc bộ cánh bằng tuyết. Nó khoác bộ cánh này lên cứ như bạn khoác lên mình cái áo vậy. Bên cạnh đường ray, những bước chân ngập tuyết đến tận ống quyển. Đám cây cối trùm tấm mền băng giá.
      Đúng như điều bạn có thể tiên đoán, có người vừa chết.
      Họ thể đơn giản là để thằng bé lại mặt đất được. Bây giờ đó phải là vấn đề gì lớn lắm, nhưng đường ray phía trước rồi sớm được dọn quang, và đoàn tàu cần phải tiếp.
      Có hai nhân viên an ninh.
      người mẹ và đứa con của bà ta.
      cái thây ma.
      Người mẹ, đứa con và cái thây ma ấy cứ lầm lì và yên lặng mãi như thế.
      Nào, mày muốn tao làm gì nữa đây?
      Có hai nhân viên bảo vệ, thấp cao. Gã cao luôn mở miệng trước, dù phải là người chịu trách nhiệm chính. nhìn tên thấp bé, đậm người hơn với vẻ dò hỏi. Thằng này có khuôn mặt đỏ ậng như gấc. Gã đáp:
      Hừ, ta thể cứ để mặc bọn họ thế này, đúng ?
      Gã cao dần mất kiên nhẫn. “Tại sao lại chứ?”
      Thế là gã thấp đậm gần như phát khùng lên. Gã ngước nhìn vào cằm của tên kia và thét, “Spinnst du? Mày bị ngớ ngẩn à!?” Cái vẻ ghê tởm càng lúc càng đôi gò má . Lỗ chân lông da như giãn nở ra. “Coi nào,” vừa vừa lại lại mục đích đám tuyết. “Ta mang cả ba người bọn họ quay về chỗ đoàn tàu nếu buộc phải làm thế. Ta báo trạm dừng kế tiếp.”
      Phần tôi, tôi mắc phải trong những sai lầm sơ đẳng nhất. Tôi thể giải thích cho bạn hiểu được là tôi thất vọng với bản thân mình ghê gớm đến nhường nào đâu. Từ đầu đến giờ, tôi làm đúng mọi việc.
      Tôi quan sát bầu trời mờ mịt tuyết trắng in ô cửa sổ của đoàn tàu chuyển bánh. Tôi gần như hút nó vào, dẫu vậy, tôi lừng khừng. Tôi khởi - tôi trở nên quan tâm đến đứa bé . Thói tò mò khuất phục được tôi, tôi đành ở lại đến chừng nào quỹ thời gian của mình còn cho phép và dõi theo nó.
      Hai mươi ba phút sau, khi đoàn tàu dừng bánh, tôi trèo ra ngoài cùng họ.
      linh hồn bé yên vị trong vòng tay tôi.
      Tôi đứng hơi dịch về mé phải chút.
      Bộ đôi nhân viên an ninh đường sắt năng nổ nọ quay về chỗ người mẹ, đứa bé , và cái thây ma con trai nhắn. Tôi nhớ là hôm ấy tiếng thở của mình rất nặng, đến mức tôi lấy làm ngạc nhiên khi thấy hai nhân viên nọ chẳng hề đoái hoài gì đến tôi trong lúc họ bước ngang qua tôi. Thế gian dường như võng xuống, dưới sức nặng của tất cả số tuyết bên nó.
      Chừng mười mét về bên trái tôi, đứa bé tái xanh tái mét bụng lép kẹp ấy đứng đó, rét run cầm cập.
      Miệng nó đánh bò cạp.
      Đôi cánh tay lạnh giá của đứa bé khép chặt.
      Những giọt nước mắt đóng giá gương mặt của kẻ trộm sách.



      THIÊN THỰC 1

      Kế đến là cái ký hiệu màu đen, để thể những thái cực thay đổi của tôi, nếu bạn muốn. Ấy là khoảnh khắc đen tối nhất trước lúc bình minh.
      Lần này tôi đến để rước người đàn ông khoảng chừng hai mươi tư tuổi. Xét theo khía cạnh nào đó, nó là cảnh tượng đẹp đẽ. Chiếc máy bay vẫn khạc nhổ ầm ĩ. Khói rò ra từ cả hai bên buồng phổi của nó.
      Khi rơi xuống, nó tạo nên ba cái hố sâu hoắm mặt đất. Cánh của nó giờ đây trông như những cánh tay bị cưa đứt. Chúng còn vỗ phành phạch nữa. còn vỗ cánh được nữa rồi, cái con chim sắt bé ấy.

      VÀI THỰC TẾ NHO KHÁC
      Đôi khi tôi đến quá sớm.
      Tôi vội vàng,
      Trong khi có vài kẻ bám víu lấy sống
      dai dẳng hơn mức mong đợi.

      Vài phút sau, đám khói trở nên kiệt sức. Chiếc máy bay chẳng còn biểu gì của sống nữa.
      Đứa bé trai đến nơi trước trong hơi thở đứt quãng, cùng thứ trông có vẻ như là thùng đồ nghề. Run lẩy bẩy, nó tiến gần đến chỗ buồng lái và quan sát viên phi công, đoán xem ta có còn sống , mà vào lúc đó ta vẫn còn sống. Kẻ trộm sách đến nơi chừng ba mươi giây sau đó.
      Nhiều năm trôi qua, nhưng tôi vẫn nhận ra con bé.
      thở hổn hển.
      Từ đống đồ lộn xộn trong thùng đồ nghề, đứa bé trai lấy ra con gấu nhồi bông.
      Nó thò tay qua tấm kính chắn gió nát bấy và đặt món đồ chơi lên ngực người phi công nọ. Con gấu cười ấy ngồi rúc vào cái đống lộn xộn gồm người đàn ông và đám máu me bê bết của ta. Vài phút sau, tôi nắm bắt lấy cơ hội của mình. đến lúc rồi.
      Tôi bước vào, tách linh hồn ra khỏi thân xác người phi công nọ, và nhàng mang nó ra ngoài.
      Tất cả những gì còn lại là cái thây người, mùi khói khét lẹt phai dần, và con gấu bông mỉm cười.
      Khi đám đông đến nơi, dĩ nhiên mọi việc thay đổi. Đường chân trời dần ra như nét vẽ bằng than. Những gì còn sót lại của bóng tối bên giờ chỉ là nét nguệch ngoạc, và nhanh chóng tan biến.
      Còn người đàn ông nọ có thể ví với màu xương. Bộ da màu xương. bộ quân phục nhàu nát. Đôi mắt nâu của ta lạnh ngắt - như đôi vệt cà phê vương vãi - và cái nét nguệch ngoạc ở cùng định hình thành thứ theo tôi có vẻ như là hình dạng kỳ quặc, nhưng lại khá quen thuộc. Đó là ký hiệu.
      Đám đông làm điều mà các đám đông vẫn làm.
      Khi tôi qua, mỗi người đều đứng đó và chơi đùa với câm lặng của riêng mình. Đó là hỗn hợp những cử động rời rạc cua bàn tay, những câu nghẹn ngào, và những cái quay người lặng lẽ, tự chủ.
      Khi tôi liếc nhìn lại chiếc máy bay, cái miệng há ra của ngươi phi công nọ khiến ta trông như cười. trò đùa nhơ bẩn cuối cùng.
      Điểm nút của trò đùa ấy lại là con người khác.
      ta cứ nằm dó, như được liệm trong bộ quân phục của mình trong lúc ánh sáng ảm đạm đánh vật với bầu trời. Cũng như với nhiều người khác, khi tôi bắt đầu rời , dường như lại có bóng tốì ngắn ngủi nữa, khoảnh khắc cuối cùng của thiên thực - chứng nhận rằng vừa có linh hồn nữa ra .
      Bạn thấy đấy, đối với tôi - chỉ trong khoảnh khắc thôi, mặc cho tất cả những sắc màu chạm vào và níu giữ lấy cái mà tôi nhìn thấy thế giới này - tôi thường bắt gặp thiên thực khi có con người lìa bỏ cõi đời.
      Tôi nhìn thấy thiên thực hàng triệu triệu lần.
      Tôi nhìn thấy thiên thực nhiều đến mức tôi thể nhớ nổi.



      LÁ CỜ

      Lần cuối cùng tôi thấy đứa bé ấy là màu đỏ. Bầu trời hôm đó trông như nồi súp sôi sùng sục và đầy bất ổn. Đôi chỗ bị cháy sém. Có những mẩu vụn màu đen và màu muối tiêu đọng thành vệt giữa cái nền màu đỏ ấy.
      Trước đó chưa lâu, bọn trẻ con chơi lò cò ở đây, con đường trông như những trang giấy loang đầy vệt dầu mỡ này. Lúc đến tôi vẫn có thể nghe thấy được những vọng. Tiếng chân chạm mặt đường. Giọng cười của bọn trẻ con, những nụ cười chân , nhưng tất cả đều thối rữa rất nhanh.
      Sau đó, là những quả bom.
      Lần này, mọi thứ đều quá trễ.
      Những hồi còi báo động. Tiếng hú inh ỏi loa phát thanh. Tất cả đều quá trễ.
      Chỉ trong vòng vài phút, rất nhiều bê tông và đất đá chất thành từng đống lớn. Những con đường bị đứt mạch. Máu chảy thành dòng cho đến khi khô mặt đường, và xác người mắc kẹt lại, như những súc gỗ trôi dạt sau cơn lũ.
      Họ bị dán chặt xuống mặt đất, từng người . cái bọc toàn những linh hồn.
      Đó phải chăng là số mệnh?
      Hay tai họa?
      Có phải đó là thứ dán chặt họ xuống đất như vậy ?
      Dĩ nhiên là .
      Đừng có ngốc như thế chứ.
      Hẳn cảnh tượng này có liên quan đến những quả bom dược thả xuống xối xả từ đám người nấp mây kia.
      Trong nhiều giờ, bầu trời vẫn giữ nguyên sắc đỏ hủy hoại, đặc quánh như thế. Cái thị trấn bé của nước Đức này thêm lần nữa bị tàn phá. Những bông tro tàn tung bay trong trung cách đáng đến mức bạn chỉ muốn thè lưỡi ra mà bắt lấy chúng, nhấm nháp mùi vị của chúng. Chỉ có vấn đề là chúng làm môi bạn cháy sém, chúng nấu chín miệng bạn.
      Tôi nhìn thấy cách ràng.
      Tôi chuẩn bị rời rồi, lại thấy nó quỳ gối ở đó. dãy núi toàn gạch đá vỡ được tạo ra, được thiết kế, được dựng lên xung quanh nó. Nó giật lấy quyển sách.
      Hơn hết, kẻ trộm sách rất muốn quay lại căn hầm, để viết, hoặc để đọc lại toàn bộ câu chuyện của con bé lần cuối cùng. Trong tầm ngắm của mình, tôi thấy điều này hiển gương mặt nó. Nó thèm muốn vô cùng an toàn, mái ấm gia đình nó - nhưng nó thể di chuyển được. Ngoài ra, căn hầm còn nữa rồi. Nó trở thành phần của khung cảnh nham nhở ấy.
      lần nữa, tôi rất mong các bạn hãy tin tôi.
      Tôi muốn dừng lại. Để cúi xuống.
      Tôi muốn thế này.
      “Ta rất tiếc, bé ạ.”
      Nhưng điều này là được phép.
      Tôi cúi xuống. Tôi chẳng gì cả.
      Thay vào đó, tôi ngắm nhìn con bé lúc. Khi nó có thể di chuyển được, tôi liền theo nó.
      Cuốn sách tuột rơi khỏi tay.
      Đôi chân nó khuỵu xuống.
      Kẻ trộm sách rống lên khóc.
      Quyển sách của nó bị dẫm lên vài lần khi quá trình dọn dẹp bắt đầu; và dù có lệnh chỉ dọn dẹp những đống bê tông và đất đá thôi, món đồ quý giá nhất của nó vẫn bị ném lên cái xe tải chở rác. Lúc này, tôi thấy mình buộc phải ra tay. Tôi trèo lên xe và nhặt quyển sách, hề nhận thức được rằng tôi đọc câu chuyện của nó đến vài trăm lần trong nhiều năm nữa, trong những chuyến của mình. Tôi để mắt đến những nơi chốn chúng tôi gặp nhau, và kinh ngạc trước những điều đứa bé ấy nhìn thấy cũng như cách mà nó sống sót. Đó là điều tốt nhất mà tôi có thể làm được - khi thấy những điều nó viết ứng với mọi kiện tôi chứng kiến trong suốt thời gian đó.
      Khi nhớ về đứa bé ấy, tôi luôn nhìn thấy bản liệt kê dài những màu sắc khác nhau, nhưng ba sắc màu mà qua đó tôi nhìn thấy nó bằng xương bằng thịt luôn có sức vang mạnh mẽ nhất. Đôi lúc tôi cố gắng tránh xa ba khoảnh khắc đó. Tôi cứ lơ lửng như thế trung, cho đến khi việc trở nên thối rữa và hình thành nên thực ràng.
      Đó là khi tôi thấy chúng cấu thành công thức.


      NHỮNG SẮC MÀU




      Chúng chồng lên nhau. Nét vẽ nguệch ngoạc màu đen, hình cầu mờ mịt màu trắng, cái nền màu đỏ đặc sệt.
      Phải, tôi thường nhớ đến đứa bé ấy, và trong trong rất nhiều hàng túi của mình, tôi lưu giữ câu chuyện của nó để kể lại. Đây chỉ là thứ rất trong nhiều thứ mà tôi mang theo bên mình, mỗi cái đều phi thường theo cách riêng của nó. Mỗi cái đều là cố gắng - nỗ lực tột bực - để chứng tỏ với tôi rằng, bạn, và tồn tại của loài người các bạn cõi đời này, là đáng giá.
      Nó đây. trong số rất nhiều thứ như vậy.
      Chuyện kể trộm sách.
      Nếu bạn thích, hãy đến với tôi. Tôi kể cho bạn nghe câu chuyện.
      Tôi cho bạn thấy thứ.



      PHẦN

      oOo


      SÁCH HƯỚNG DẪN CỦA PHU ĐÀO HUYỆT

      gồm có:
      phố thiên đàng - nghệ thuật chửi đồ con lợn
      - người đàn bà có nắm đấm thép - xin nụ hôn
      - jesse owens - giấy nhám - mùi của tình bạn
      - nhà vô địch hạng nặng - và tổ mẹ của mọi watschen


      ĐẾN PHỐ THIÊN ĐÀNG

      Lần cuối cùng ấy
      Bầu trời đỏ ối ấy...
      Làm sao mà kẻ trộm sách lại phải nhận kết cục là quỳ mọp dưới đất mà gào khóc, sát bên con bé là đống gạch đá vỡ nát, kỳ quặc và nhầy nhụa do con người tạo ra?
      Nhiều năm trước, khởi đầu chỉ có toàn tuyết là tuyết.
      đến lúc người phải ra rồi.

      KHOẢNH KHẮC BI KỊCH ĐẾN TẬN CÙNG
      Đoàn tàu lao rất nhanh.
      Trong đó lèn đầy người.
      đứa bé trai sáu tuổi chết ở toa tàu thứ ba.

      Kẻ trộm sách và em trai nó tàu hỏa đến Munich, nơi cả hai sớm được bàn giao cho bố mẹ nuôi của chúng. Cố nhiên là bây giờ chúng ta biết rằng đứa bé trai sống được cho đến lúc đó.

      ĐIỀU NÀY XẢY RA NHƯ SAU
      cơn ho dữ dội vọt ra.
      Gần như là được truyền cảm hứng để mà bật ho rũ rượi.
      lâu sau - chẳng còn gì nữa hết.

      Khi cơn ho chấm dứt, chẳng còn gì ngoài trống rỗng của cuộc sống lê lết trôi , hay co giật gần như hề phát ra tiếng động. thứ gì đó bất thình lình tìm thấy đường vào đôi môi của thằng bé, đôi môi bợt bạt với lớp da tróc ra từng mảng như sơn cũ. Đôi môi ấy rất cần được tu chỉnh lại.
      Mẹ chúng ngủ.
      Tôi vào bên trong toa tàu.
      Chân tôi bước qua lối hỗn loạn và lòng bàn tay tôi bịt chặt miệng thằng bé chỉ trong nháy mắt.
      ai chú ý cả.
      Đoàn tàu vẫn lăn bánh.
      Ngoại trừ đứa bé .
      Với mắt mở, mắt kia vẫn nhắm mơ màng, kẻ trộm sách - còn được biết đến với cái tên Liesel Meminger - có thể thấy rằng đứa em trai Werner của nó nằm nghiêng sang bên, và chết.
      Đôi mắt xanh của thằng bé nhìn trừng trừng xuống sàn nhà.
      Nhìn vào cõi vô định.
      Trước khi thức dậy, kẻ trộm sách mơ về ngài Quốc trưởng, tức Adolf Hitler. Trong mơ, nó thấy mình được tham dự buổi mít-tinh có ngài đọc diễn văn, và ngắm cái phần màu sọ trắng hếu mái tóc và bộ râu mép đen kịt, vuông chằn chặn của ngài. Nó lắng nghe cách mãn nguyện dòng thác ngôn ngữ xối xả tuôn ra từ miệng ngài. Những câu của ngài bừng sáng lên trong ánh đèn. Trong khắc yên lặng, tưởng như ngài cúi xuống và cười với nó. Nó đáp lại cử chỉ ấy và , “Chúc ngày tốt lành, thưa Quốc trưởng vĩ dại. Ngài có khỏe ?” Nó được lưu loát cho lắm, thậm chí còn biết đọc, vì nó ít tới trường. Lý do của việc này tìm ra vào đúng thời điểm thích hợp.
      Ngay lúc Quốc trưởng sắp sửa trả lời nó tỉnh giấc.
      Đó là vào tháng Giêng năm 1939. Nó chín tuổi, và sắp sửa lên mười.
      Em trai nó chết.
      mắt mở.
      Mắt kia vẫn nhắm mơ màng.
      tốt hơn nếu nó có được giấc mơ trọn vẹn, tôi nghĩ vậy, nhưng tôi thực kiểm soát được chuyện này.
      Con mắt thứ hai bừng tỉnh và nghi ngờ gì nữa, nó bắt quả tang tôi tại trận. Đó là lúc tôi quỳ xuống và hút linh hồn của thằng bé ra, giữ nó hờ hững trong vòng tay căng phồng của mình. Nó ấm lên lâu sau đó, nhung lúc đầu khi tôi tách linh hồn của thằng bé, linh hồn ấy mềm oặt và lạnh ngắt như kem. Nó bắt đầu tan chảy ra trong vòng tay tôi. Sau đó, nó ấm lên hoàn toàn. Bình phục hoàn toàn.
      Phần Liesel Meminger, người nó cứng đờ ra, và những suy nghĩ dữ dội cứ cuồn cuộn chảy trong đầu nó. Es stimmt nitch. Điều này là . Điều này .
      Rồi nó lay gọi.
      Tại sao người ta luôn phải lay họ nhỉ?
      Được, tôi biết, tôi biết rồi, tôi phải thừa nhận rằng hành động này có cái gì đó thuộc về bản năng của con người. Để ngăn chặn dòng chảy của . Lúc ấy, trái tim của đứa bé trơn nhẫy và nóng bỏng, tim nó đập thình thịch rất to, thình thịch thình thịch.
      Tôi nán lại cách ngu ngốc. Tôi quan sát.
      Tiếp theo là mẹ của đứa bé .
      Nó đánh thức bà dậy cũng bằng những cú lay mạnh đến quẫn trí như thế.
      Nếu bạn thể tưởng tượng ra được khung cảnh này, hãy nghĩ đến câm lặng vụng về. Hãy nghĩ đến từng mảnh từng miếng cảm xúc tuyệt vọng trôi nổi trong gian. Và việc bị chết chìm trong đoàn tàu hỏa.
      Tuyết cứ rơi mãi ngừng, và chuyến tàu đến Munich buộc phải dưng lại vì người ta còn phải dọn dẹp đường ray. tàu có ngươi đàn bà than khóc. đứa bé đứng chết lặng bên cạnh bà.
      Trong cơn hoảng loạn, người mẹ mở cửa.
      Bà trèo xuống nền đất ngập tuyết, tay ôm chặt cái thây ma bé .
      Đứa bé còn làm được gì khác ngoài việc theo bà chứ?
      Như bạn được biết, hai nhân viên bảo vệ cũng ra khỏi tàu hỏa. Họ bàn bạc và tranh cãi về điều mà họ phải làm. Tình cảnh này, cho nhàng nhất, cũng là rất đáng ghê tởm. Sau cùng họ quyết định rằng cả ba mẹ con nọ nên được đưa đến thị trấn kế tiếp và giải quyết vấn đề của mình ở dó.
      Lần này tàu hỏa cứ ì ạch chạy qua vùng đất ngập tuyết ấy.
      Nó tập tễnh lết rồi dừng hẳn lại.
      Họ bước vào sân ga, cái thây ma vẫn ở trong vòng tay mẹ nó. Họ đứng đó.
      Thằng bé trở nên nặng dần.
      Liesel biết mình ở đâu. Bốn bề đều trắng xóa, và khi họ đứng ở ga, con bé chỉ có thể nhìn chằm chằm vào những con chữ mờ mịt tấm biển báo trước mặt. Với Liesel, thị trấn này có tên, và đấy là nơi mà đứa em trai Wemer của nó được chôn cất hai ngày sau đó. Những người làm chứng gồm có linh mục và hai phu đào huyệt lúc nào cũng run lên cầm cập vì lạnh.

      QUAN SÁT
      Hai nhân viên đoàn tàu.
      Hai phu đào huyệt.
      Khi đến lúc, người trong số họ đưa ra quyết định,
      người kia làm điều ta được bảo phải làm.
      Câu hỏi đặt ra ở đây là, nếu người kia
      lớn hơn con số rất nhiều sao?

      Sai lầm nối tiếp sai lầm, dường như có những lúc tôi chẳng làm được gì khác ngoài việc mắc sai lầm.
      Trong suốt hai ngày, tôi tiếp tục làm công việc của mình. Tôi vòng quanh Trái đất như thường lệ, chuyển những linh hồn lên cái băng chuyền dẫn đến cõi vĩnh hằng. Tôi nhìn chúng từ từ lăn vào trong cách thụ động. vài lần tôi tự cảnh báo mình rằng, tốt nhất là tôi phải tránh xa buổi chôn cất đứa em trai của Liesel Meminger. Nhưng tôi để ý đến lời khuyên do chính mình đặt ra ấy.
      Từ cách xa nhiều dặm, trong lúc tiến đến gần, tôi có thể thấy nhóm người đứng với vẻ ơ hờ giữa vùng đất hoang phế phủ đầy tuyết trắng. Nghĩa địa đón chào tôi như người bạn thân thiết, và chỉ chốc lát sau, tôi nhập bọn với họ. Tôi cúi đầu.
      Bên trái Liesel, những người phu đào huyệt xoa xoa tay vào nhau, làu bàu về chuyện tuyết, và hoàn cảnh đào huyệt lúc đó. “Đào được qua đám băng này khó khăn lắm đây,” và những chuyện đại loại thế. người trong số họ hẳn chưa quá mười bốn tuổi. cậu học việc. Khi cậu ta khỏi, quyển sách bìa đen tình cờ rơi ra khỏi túi áo khoác mà cậu vẫn chẳng hề hay biết. Lúc ấy cậu xa được chừng hơn hai chục bước rồi.
      Vài phút sau, mẹ của Liesel bắt đầu rời khỏi nghĩa địa cùng với vị linh mục. Bà cảm ơn ông vì làm lễ cho buổi chôn cất thằng bé.
      Dù vậy, đứa bé vẫn nán lại.
      Hai đầu gối của nó quỳ bệt xuống đất. Thời điểm của nó đến.
      vẫn còn chưa tin được những gì xảy ra, nó bắt đầu đào xới. Em ấy thể chết. Em ấy thể chết được. thể thế được.
      Chỉ sau vài giây, da thịt nó bị băng tuyết cắt cho bật máu.
      Máu đông chạy chằng chịt đôi bàn tay nó.
      Đâu đó trong đám tuyết phủ dày đặc ấy, nó có thể nhìn thấy trái tim tan vỡ của mình, trái tim ấy vỡ thành hai mảnh. Mỗi mảnh đều bừng sáng và đập thình thịch dưới đám tuyết trắng xóa. Nó chỉ nhận thức được việc mẹ nó quay lại đón khi cảm thấy có bàn tay gầy guộc chộp lấy vai mình. Nó bị lôi . tiếng thét tức tưởi thoát ra cổ họng nó.

      HÌNH ẢNH
      CÁCH ĐÓ CHỪNG HAI MƯƠI MÉT
      Khi trò lôi kéo chấm dứt, người mẹ
      và đứa con của bà đứng dó và thở hồng hộc.
      Có cái gì đó hình chữ nhật màu đen ngập trong tuyết.
      Chỉ có đứa bé nhìn thấy.
      Con bé cúi xuống và nhặt nó lên,
      rồi giữ chặt lấy trong những ngón tay của mình.
      quyển sách có in chữ màu bạc.

      Họ nắm tay nhau.
      câu vĩnh biệt bi thảm sau cùng được thốt lên thành lời, rồi họ quay người và rời khỏi nghĩa địa, thỉnh thoảng ngoái đầu nhìn lại.
      Phần tôi, tôi nán lại lâu hơn chút.
      Tôi vẫy tay chào tạm biệt.
      Chẳng có ai vẫy tay chào lại cả.
      Người mẹ và đứa con của bà ta bỏ lại sau lưng khu nghĩa địa trống hoác, quay lại ga để đón chuyến tàu kế tiếp đến Munich.
      Cả hai đều gầy ngẳng và xanh mét.
      Cả hai đều có những vết bầm dập môi.
      Liesel nhận thấy điều này khi nhìn vào ô cửa sổ bẩn thỉu và ám đầy sương giá của đoàn tàu, lúc hai mẹ con nó lên tàu trước buổi trưa hôm ấy. Theo những từ ngữ được viết ra bởi bản thân kẻ trộm sách, chuyến lại tiếp tục như mọi việc vẫn xảy ra.
      Khi vào ga Munich, hành khách túa ra khỏi tàu như từ cái bao bị thủng. Có đủ mọi hạng người, nhưng trong số họ đám người nghèo là dễ nhận ra nhất. Những kẻ bần cùng luôn cố gắng dịch chuyển ngừng, cứ như thểviệc thay đổi vị trí có cơ may giúp họ cải thiện phần nào tình thế. Họ thèm chú ý đến thực tế là phiên bản mới của vấn đề cũ rích ấy đợi họ ở cuối cuộc hành trình - như người họ hàng mà bạn phải co rúm người lại mới dám hôn vậy.
      Tôi cho rằng mẹ đứa bé biết điều này rất . Bà đưa con mình đến những nơi tươm tất hơn ở Munich, mà là tìm cho được gia đình nhận con nuôi, và nếu có gì thay đổi gia đình mới này ít nhất cũng có thể cho hai đứa con, trai , của bà ăn uống tốt hơn chút đỉnh, và giáo dục chúng nó cách đàng hoàng.
      Cái thằng bé ấy.
      Liesel chắc rằng mẹ nó vẫn đau đáu trong lòng kỷ niệm về đứa em trai của nó, thằng bé được bà bế xốc vai. Bà làm rơi nó. Bà nhìn thấy đôi cẳng chân, bàn chân và thân người nó đập xuống sàn nhà ga.
      Làm sao mà bà ấy vẫn có thể bước được?
      Làm sao mà bà ấy vẫn có thể di chuyển được cơ chứ?
      Đó là những câu hỏi mà tôi bao giờ trả lời được, hay nhận thức được cho thấu đáo - rằng con người có thể làm được những điều phi thường đến nhường nào.
      Bà xốc cái xác thằng bé dậy và tiếp tục bước , đứa bé nép sát bên người bà.
      Các quyền lợi được thông qua, những câu hỏi được đặt ra về chậm trễ và cái chết của đứa bé trai làm trái tim dễ tổn thương của họ xao động... Liesel vẫn đứng trong góc văn phòng xíu và bụi bặm ấy, trong lúc mẹ nó ngồi chiếc ghế cứng quèo với những suy nghĩ ám ảnh quay cuồng trong đầu.
      Sau đó là hàng loạt những lời chia tay lộn xộn.
      Mái đầu của đứa bé vùi trong cái áo khoác len sờn của mẹ nó. Lại có thêm vài chặp lôi kéo nữa.
      Cách ngoại ô Munich khá xa là thị trấn với cái tên Molching, mà tốt nhất là bạn và tôi có thể đọc từ này là Molking. Đó là nơi họ đưa đứa bé tới, con phố tên là Himmel.

      DỊCH NGHĨA
      Himmel = Thiên Đàng

      Dù người đặt tên cho con phố này là phố Thiên Đàng có là ai chăng nữa, hẳn gã ta phải có khiếu mỉa mai rất sắc sảo. phải vì con phố ấy là địa ngục trần gian. phải thế đâu. Nhưng chắc chắn là nó cũng chẳng phải thiên đàng gì ráo.
      Dù sao nữa cha mẹ nuôi của Liesel cũng đợi.
      Gia đình Hubermann.
      Họ trông đợi đứa bé đứa bé trai, và được trả khoản trợ cấp cho việc nhận nuôi chúng. ai muốn là người báo cho Rosa Hubermann biết rằng đứa bé trai vượt qua được chuyến khắc nghiệt vừa rồi. Thực ra, chẳng ai muốn với bà ta bất cứ điều gì cả. Tính khí của người đàn bà này được dễ chịu cho lắm, dù người ta dành cho bà những nhận xét tốt đẹp trong việc nuôi dạy mấy đứa con nuôi trước đây. Có vẻ như bà giáo dục được vài đứa đến nơi đến chốn.
      Về phía Liesel, đó là chuyến bằng ôtô.
      Trước đây con bé chưa bao giờ ở trong cái ôtô cả.
      Dạ dày nó quặn lên từng chặp, và nó cứ bám víu lấy hy vọng hão huyền là người ta lạc đường hoặc thay đổi ý định. hết, những suy nghĩ của nó khỏi hướng về mẹ nó, ở Bahnhof, chờ để ra lần nữa. Bà run lẩy bẩy. Bà bị gói lại trong cái áo khoác vô dụng ấy. Bà hẳn gặm móng tay, đợi tàu hỏa đến. Ga tàu dài dằng dặc và chẳng dễ chịu chút nào - nó là tấm xi măng lạnh ngắt. Liệu chuyến tàu quay về, bà có còn đủ sức để mở mắt nhìn lại vùng đất mông lung trở thành nơi chôn cất đứa con trai của bà ? Hay bà bị cơn buồn ngủ hoàn toàn đánh gục?
      Xe chuyển bánh, và Liesel khiếp sợ nhìn lại khúc quanh chết chóc tưởng như tận cùng thế giới sau lưng mình.
      Cả ngày hôm đó chỉ có duy nhất màu xám xịt, màu sắc đặc trưng của châu Âu.
      Những tấm màn mưa phủ dày đặc quanh xe.
      “Gần đến nơi rồi.” Người của trại chăm sóc trẻ mồ côi, bà Heinrich, quay lại và mỉm cười với nó. “Dein neues Heim. Nhà mới của cháu đấy.”

      SÁCH HƯỚNG DẪN CỦA PHU ĐÀO HUYỆT
      hướng dẫn gồm mười hai bước
      để đào huyệt thành công
      Xuất bản bởi Hội nghĩa trang Bayern

      Kẻ trộm sách thực phi vụ đầu tiên của mình - và đó là khởi đầu của nghiệp lẫy lừng.


      NUÔI CON LỢN

      Đúng, nghiệp lẫy lừng.
      Dù vậy, tôi phải thừa nhận ngay rằng, có gián đoạn đáng kể giữa quyển sách đầu tiên bị lấy trộm và quyển thứ hai. điểm đáng lưu ý khác là quyển đầu tiên được lấy trộm từ trong tuyết, còn quyển thứ hai là từ lửa. Ấy là chưa đến những quyển khác mà người ta cho nó. Tổng cộng con bé có tất cả mười bốn quyển sách, nhưng nó nhận thấy câu chuyện của mình được tạo nên chủ yếu là nhờ mười quyển trong số này. Trong số mười quyển sách đó, có sáu quyển là do lấy trộm mà có, quyển xuất mặt bàn bếp, hai quyển do người Do Thái luôn phải lẩn trốn làm riêng cho nó, và quyển được mang đến vào buổi chiều nhuộm nắng.
      Khi bắt tay vào viết câu chuyện của mình, nó tự hỏi rằng chính xác là từ lúc nào mà những quyển sách và ngôn từ này chỉ là phần cuộc sống, mà trở nên toàn bộ sinh mệnh nó. Có phải đó là lần đầu tiên, nó nhìn thấy căn phòng toàn sách là sách? Hay đó là khi Max Vandenburg khốn khổ đến được phố Thiên Đàng cùng với quyển sách Mein Kampf (2) của Hitler? Là đọc sách trong những căn hầm tránh bom? Là cuộc diễu hành cuối cùng tới Dachau? (3)Hay đó là quyển Người làm rung chuyển thế giới? Có thể chẳng bao giờ có câu trả lời ràng về thời gian và nơi chốn xảy ra chuyển biến ấy, nhưng dù thế nào nữa đó cũng là những chuyện xảy ra sau này. Trước khi xét đến những chuyện ấy, đầu tiên ta phải dạo qua những khởi đầu của Liesel Meminger tại phố Thiên Đàng, và nghệ thuật chửi đồ con lợn cái .
      Lúc nó đến nơi, bạn vẫn có thể nhìn thấy những vết của tuyết cắt lên da thịt của đôi bàn tay, và máu đông những ngón tay nó.
      Tất cả mọi thứ ở con bé đều toát lên vẻ gì đó thiếu thốn. Hai cẳng chân loẻo khoẻo. Đôi cánh tay gầy guộc như giá treo áo. Nó dễ dàng rặn ra được nụ cười, song lúc con bé cười, nụ cười ấy luôn nhuốm vẻ đói meo đói mốc.
      Mái tóc của nó có màu vàng kiểu Đức vẫn còn nhận ra được, nhưng nó có đôi mắt nguy hiểm. Màu nâu sẫm. Bạn thực muốn mắt mình có màu nâu ở Đức vào thời điểm ấy đâu. Có thể nó thừa hưởng màu mắt ấy từ cha mình, nhưng con bé có cách nào xác minh được giả thuyết này, vì nó nhớ cha nó trông ra sao cả. Nó chỉ thực biết có duy nhất điều về cha mình. Đó là danh hiệu người ta gán cho ông, mà quả là nó chẳng hiểu tí nào.

      DANH TỪ LẠ LÙNG
      Người cộng sản
      nghe thấy từ này vài lần trong những năm qua.

      Có những ngôi nhà trọ được nhồi nhét đầy người, những căn phòng tràn ngập các câu hỏi. Và cái từ ấy. Cái từ lạ lùng ấy luôn lởn vởn đâu đó, giấu mình trong xó xỉnh nào đấy, quan sát mọi thứ từ trong bóng tối. Cái từ đó trong những bộ quần áo, đồng phục. Dù họ có đến đâu, cái từ này cũng ở đó, mỗi lần cha nó được nhắc đến. Khi con bé hỏi me mình điều này có nghĩa là gì, mẹ bảo nó rằng điều ấy quan trọng, rằng nó nên lo lắng vớ vẩn về những việc như vậy. Ở nhà trọ, có người phụ nữ còn tương đối khỏe mạnh cố gắng dạy bọn trẻ con học viết bằng cách dùng than vạch chữ lên tường. Liesel rất muốn hỏi bà ý nghĩa của từ này, nhưng việc đó chẳng bao giờ xảy ra. ngày nọ, người đàn bà ấy bị bắt thẩm vấn. Bà quay về nữa.
      Khi Liesel đến Molching, ít nhất nó cũng có chút ý niệm mơ hồ rằng mình được cứu sống, nhưng đó phải là cảm giác thoải mái dễ chịu cho lắm. Nếu mẹ nó thương nó, tại sao bà lại bỏ mặc nó bậc cửa nhà người khác cơ chứ? Tại sao? Tại sao vậy?
      Tại sao vậy?
      Thực ra nó biết câu trả lời - dù chỉ ở mức độ căn bản nhất - nhưng có vẻ như câu trả lời này hề thỏa đáng chút nào. Mẹ nó ốm đau luôn, và chẳng bao giờ có tiền chữa bệnh. Nó biết điều đó. Nhưng như thế cũng có nghĩa là nó phải chấp nhận điều đó. Dù người ta có bảo nó bao nhiêu lần rằng nó vẫn được thương nữa, cũng chẳng có bằng chứng nào của việc này nằm trong thực tế là người ta bỏ rơi nó. gì có thể thay đổi được việc nó chỉ là đứa bé ốm yếu, lạc lõng tại nơi hoàn toàn xa lạ, với những con người thậm chí còn xa lạ hơn nữa. Nó rất đơn.
      Gia đình Hubermann sống tại trong những căn nhà hộp xíu phố Thiên Đàng. Vài gian phòng, căn bếp, và nhà xí dùng chung với các nhà hàng xóm. Mái nhà phẳng, và ngôi nhà có tầng hầm nông choèn để chứa đồ đạc linh tinh. Đó phải là căn hầm với chiều sâu thỏa đáng. Vào năm 1939, điều này thực ra chẳng có gì đáng . Nhưng sau đó, vào khoảng năm 42 và 43, nó lại trở thành vấn đề. Khi những cuộc oanh kích bằng máy bay bắt đầu, người ta luôn phải nháo nhào chạy ra đường để tìm chỗ trú an toàn hơn thay vì chui xuống hầm.
      Ban đầu, những lời mắng mỏ tục tĩu là thứ tạo nên sức ảnh hưởng lớn nhất. Chúng mãnh liệt, và liên tục được sáng tác ra. Mỗi giây đều có từ kiểu như Saumensch hay Saukerl hay Arschloch (4) được phun ra. Với những người chưa hiểu các từ này lắm, có lẽ tôi nên giải thích chút. Sau, dĩ nhiên là để ám chỉ loài lợn. Trong trường hợp từ Saumensch, nó được dùng để khiển trách, mắng mỏ hay thẳng ra là sỉ nhục người phụ nữ. Saukerl (đọc là Sau-kơ) có ý nghĩa tương tự, nhưng dành cho đàn ông. Arshloch có thể được dịch thẳng ra thành cái lỗ đít. Tuy nhiên từ này phân biệt giới tính nào cả. Nó chỉ đơn giản là cái lỗ đít, thế thôi.
      “Saumensch du dreckigsr!” Mẹ nuôi của Liesel gầm lên như thế vào buổi tối đầu tiên ấy, khi nó chịu tắm. “Cái đồ con lợn bẩn thỉu này! Tại sao mày chịu cởi đồ ra chứ hả?” Bà là người rất giỏi trong việc nổi cơn thịnh nộ. Thực ra bạn hoàn toàn có thể rằng khuôn mặt của Rosa Hubermann được tô điểm bởi những cơn thịnh nộ thường trực. Đó là cách mà những vết nhàu nhĩ hình thành lớp da giống như giấy các-tông của bà ấy.
      Hẳn là Liesel từng phải tắm rửa trong lo sợ. đời nào nó chịu tắm hay lên giường ngủ theo kiểu đó cả. Nó bị ép vào góc của phòng rửa mặt bé tẹo như kho chứa đồ, và bám chặt lấy những cánh tay tưởng tượng của bức tường với hy vọng tìm kiếm được trợ giúp nào đó. Chẳng có gì khác ngoài những lớp sơn khô, những tiếng thở nặng nhọc và hàng tràng xỉ vả của Rosa như tát nước vào mặt con bé.
      “Đừng hành hạ con bé nữa.” Hans Hubermann cắt ngang trận la lối. Giọng nhàng của ông len vào, cứ như nó trượt qua đám đông vậy. “Để đấy cho tôi.”
      Ồng tiến đến gần hơn và ngồi xuống sàn, dựa lưng vào tường. Những tấm đá lát tường lạnh ngắt và chẳng dễ chịu chút nào.
      “Con có biết cách vê điếu thuốc ?” ông hỏi nó, và trong khoảng giờ đồng hồ tiếp theo, họ ngồi trong cái bể đựng bóng tối mỗi lúc đầy lên ấy, chơi với đám lá thuốc và những tờ giấy vê thuốc, rồi sau đó Hans Hubermann châm thuốc hút.
      giờ đồng hồ trôi qua, Liesel có thể vê điếu thuốc tương đối hoàn chỉnh. Nhưng nó vẫn chịu tắm.

      VÀI THÔNG TIN VỀ HANS HUBERMANN
      Ông ấy thích hút thuốc.
      Điều ông ấy thích nhất trong việc hút thuốc
      là công đoạn vê thuôc.
      Ông là thợ sơn theo thời vụ
      người chơi đàn xếp (5).
      Việc này đôi khi cũng có ích,
      nhất là vào mùa đông, khi ông có thể kiếm được ít tiền
      bằng cách chơi nhạc trong các quan rượu ở Molching,
      như quán Knolier chẳng hạn.
      Ông ta lừa được tôi lần trong cuộc thế chiến,
      nhưng sau đó bị lôi vào cuộc thế chiến khác
      (giống như mọt phần thưởng khó chịu, và ngang ngạnh vậy)
      song biết vì sao mà ông
      vẫn tìm cách tránh được tôi lần nữa.

      Với hầu hết mọi người, Hans Hubermann là người đơn giản đến mức trần trụi. tay nhạt nhẽo. Tất nhiên, kỹ năng sơn phết của ông vào loại xuất sắc. Kỹ năng nhạc của ông ở mức trung bình. Dù vậy, làm thế nào đó, và tôi chắc là bạn gặp những người tương tự như vậy rồi, ông có khả năng xuất ở hậu cảnh, ngay cả khi ông đứng ở vị trí đầu tiên của hàng người chăng nữa. Ông luôn ở đúng chỗ đó. dễ nhận thấy. quan trọng hay có giá trị đặc biệt gì cả.
      Chỗ thất bại của cái ngoại hình ấy, như bạn có thể hình dung được, là nó khiến người ta hiểu sai hoàn toàn về ông, hãy như vậy. ràng ông là người có giá trị, và điều này bị Liesel Meminger bỏ qua. (Trẻ con có những lúc khôn ngoan hơn rất nhiều so với những người lớn u mê đần độn đến mức chán ngắt.) Con bé nhận ra giá trị của ông ngay lập tức.
      Trong cách ông cư xử.
      Trong bầu khí tĩnh lặng bao quanh ông.
      Khi ông bật đèn sáng lên trong gian phòng rửa xíu thảm hại vào đêm hôm đó, Liesel quan sát nét lạ lùng trong đôi mắt của người cha nuôi. Chúng được làm từ lòng tốt, và bằng bạc. Như thứ bạc mềm, tan chảy vậy. Lúc nhìn vào đôi mắt ấy Liesel hiểu ngay rằng Hans Hubermann là người vô cùng giá trị.

      VÀI THÔNG TIN VỀ ROSA HUBERMANN

      Bà ấy cao chừng mét rưỡi, mớ tóc mềm màu nâu xám
      của bà được cột thành búi. Để kiếm thêm tiền,
      bà nhận giặt và là quần áo cho năm hộ gia đình khấm khá
      ở Molching. Kỹ năng nấu nướng của bà rất kinh khủng.
      Bà sở hữu khả năng hiếm có trong việc chọc tức
      hầu như bất cứ người nào mà bà gặp.
      Nhưng bà rất thương Liesel Meminger.
      Cách bà thể tình cảm này chỉ hơi lạ lùng mà thôi.
      Thỉnh thoảng bà đánh con bé bằng những cái thìa gỗ,
      và mắng nhiếc nó luôn mồm.

      Rốt cuộc Liesel cũng chịu tắm, sau hai tuần sống tại phố Thiên Đàng, Rosa ôm nó cái chặt, đến phát đau lên được. Gần như là bóp nghẹt con bé, bà , “Đồ con lợn bẩn thỉu này - lẽ ra mày phải tắm từ lâu rồi mới phải!”
      Sau vài tháng, họ còn là ông bà Hubermann nữa. Bằng nắm từ ngữ đặc trưng của mình, Rosa , “Bây giờ nghe đây, Liesel - từ giờ trở mày hãy gọi ta là Mẹ.” Bà ta ngẫm nghĩ lúc. “Mày gọi mẹ ruột của mình là gì?”
      Liesel khẽ trả lời. “Auch Mama - cũng gọi là Mẹ.”
      “Vậy ta là Mẹ thứ hai.” Bà ta nhìn về phía chồng mình. “Còn cái thằng cha kia.” Cứ như thể bà thu thập vốc từ ngữ trong tay mình, vò lại rồi ném mạnh chúng lên khắp mặt bàn vậy. “Cái đồ lợn ấy, đồ con lợn bẩn thỉu ấy - mày hãy gọi gã là Bố, Verstehst? hiểu chưa hả?”
      “Vâng,” Liesel đồng ý ngay chậm trễ. Những câu trả lời mau lẹ luôn được đánh giá cao trong nhà này.
      “Vâng, thưa Mẹ,” Mẹ chỉnh lại lời nó. “Cái đồ con lợn này. Phải gọi ta là Mẹ khi mày chuyện với ta chứ.”
      Khi đó, Hans Hubermann vừa vê xong điếu thuốc, ông liếm miếng giấy và cuộn nó lại. Ông nhìn Liesel rồi nháy mắt. Con bé có vấn đề gì trong việc gọi ông là Bố cả.


      NGƯỜI ĐÀN BÀ CÓ NẮM ĐẤM SẤT

      Những tháng ngày đầu tiên ấy hẳn là quãng thời gian khó khăn nhất.
      Mỗi tối, Liesel đều gặp ác mộng.
      Gương mặt của em trai nó.
      nhìn chằm chằm xuống sàn tàu hỏa.
      Nó thức dậy trong tình trạng quẫy đạp giường của mình, la hét, và chết đuối trong đống vải trải giường. Ở bên kia phòng, cái giường lẽ ra dành cho em trai nó cứ như chiếc xuồng nổi lềnh bềnh trong bóng tối. Dần dần, khi con bé tỉnh táo hơn, chiếc xuồng bắt đầu chìm dần, gần như là chìm xuống sàn nhà. Hình ảnh này thường giải quyết được vấn đề gì cả, và phải mất lúc tiếng la hét của Liesel mới ngừng hẳn.
      Có lẽ điều duy nhất tốt đẹp xảy đến từ những cơn ác mộng ấy, là mang Hans Hubermann, người bố mới của con bé vào trong phòng - để dỗ dành nó, để thương nó.
      Đêm nào ông ấy cũng đến và ngồi bên cạnh nó. Những đêm đầu, ông chỉ đơn giản là có mặt ở đó - có mặt của người lạ để xua tan nỗi đơn. Vài đêm sau, ông bắt đầu thầm vào tai nó, “Suỵt, bố ở ngay đây rồi, sao đâu.” Sau ba tuần ông giữ lấy con bé. tin cậy được hình thành rất nhanh chóng chủ yếu là vì sức mạnh dịu dàng của người đàn ông này, diện của ông. Ngay từ đầu con bé biết rằng ông luôn xuất giữa những tiếng thét, và ông bỏ .

      ĐỊNH NGHĨA CÓ TRONG TỪ ĐIỂN
      bỏ : hành động thể tin cậy
      và tình thương,
      định nghĩa này thường được giải mã bởi cái nhìn của con trẻ.

      Hans Hubermann ngồi giường với cặp mắt ngái ngủ, trong lúc Liesel khóc vùi trong ống tay áo của ông và hít ngửi cái mùi tỏa ra từ người ông. Đêm nào cũng thế, cứ sau quãng hai giờ sáng, nó lại thấy buồn ngủ trong làn hương ấy: hỗn hợp mùi thuốc lá lâu ngày, mùi sơn tích tụ qua mấy chục năm, và mùi da người. Đến gần sáng, ông ngồi cách nó vài mét, người gần như gập làm đôi ghế. Bố bao giờ động đến cái giường kia cả. Liesel trèo ra khỏi giường và khẽ khàng hôn lên má ông rồi sau đó ông tỉnh dậy và nở nụ cười.
      Có những hôm, Bố bảo nó quay về giường và chờ phút, rồi sau đó ông trở lại với cây đàn xếp của mình và chơi đàn cho nó nghe. Liesel ngồi dậy và ngân nga điệu nhạc trong cổ họng, những ngón chân lạnh ngắt của nó co quắp lại cách phấn khởi. Chưa từng có ai chơi nhạc cho nó nghe cả. Nó nở nụ cười ngớ ngẩn, nhìn những đường nét chạy dài khuôn mặt bố nuôi mình và ánh kim loại dịu dàng trong đôi mắt ông - cho đến khi có tiếng chửi vọng lên từ dưới nhà bếp.
      “Có dừng ngay cái tiếng ồn đó lại hả, đồ con lợn kia!”
      Bố luôn cố chơi thêm lúc nữa.
      Ông nháy mắt với con bé và, cách lóng ngóng vụng về, nó nháy mắt đáp lại.
      Có vài lần, chỉ đơn thuần là để chọc cho Mẹ điên tiết hơn, ông mang cây đàn xếp của mình xuống bếp và chơi suốt bữa sáng.
      Miếng bánh mì phết mứt ăn dở của Bố nằm đĩa, có đường cong theo hình miếng cắn, và tiếng nhạc nhìn thẳng vào mặt Liesel. Tôi biết điều này nghe có vẻ lạ lùng, nhưng đó chính là cảm giác của con bé. Tay phải của Bố dạo những phím đàn màu trắng ngà. Tay trái của ông bấm nút. (Nó đặc biệt thích ngắm ông bấm cái nút lấp lánh màu bạc - cung Đô trưởng.) Lớp áo ngoài trầy xước nhưng vẫn ánh lên màu đen bóng, cây đàn cứ đưa tới đưa lui trong khi đôi tay của bố - ông hết nén rồi lại buông cái ống bễ đầy bụi, bắt nó hít khí vào rồi lại nhả khí ra. Vào những buổi sáng như thế, trong căn bếp , Bố làm cho cây đàn xếp sống dậy. Tôi cho rằng điều này ý nghĩa, khi bạn thực nghĩ về nó.
      Làm sao mà bạn biết được cái gì đó còn sống hay chết?
      Bạn kiểm tra xem nó có thở hay .
      thanh của cây đàn xếp, xét về khía cạnh thực tế, cũng là thông điệp của an toàn. Đó là ánh sáng ban ngày. Vào ban ngày con bé thể mơ thấy em trai nó. Nó vẫn hay nhớ đến em và thường khóc thút thít trong căn phòng vệ sinh bé tí nọ, cố gắng im lặng hết mức có thể, nhưng nó vẫn cảm thấy mừng là mình còn thức. Vào cái đêm đầu tiên ở nhà Hubermann, nó giầu mối dây lien kết cuối cùng của nó với đứa em - Sách hướng dẫn của phu đào huyệt - xuống bên dưới nệm, và thỉnh thoảng con bé lại lôi quyển sách đó ra rồi giữ chặt trong tay. Nhìn chăm chú vào những con chữ in bìa sách, rồi chạm vào những hàng chữ bên trong, nhưng nó hiểu ý nghĩa của bất cứ chữ nào cả. Quyển sách về cái gì quả thực quan trọng. Ý nghĩa của nó mới là điều quan trọng hơn cả.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Ý NGHĨA CỦA QUYỂN SÁCH

      1. Lần cuối cùng nó nhìn thấy em nó.

      2. Lần cuối cùng nó nhìn thấy mẹ nó.


      Đôi lúc, nó thầm gọi tiếng Mẹ và nhìn thấy gương mặt mẹ nó dễ đến hàng trăm lần chỉ trong có buổi chiều. Nhưng đấy chỉ là những nỗi khổ sở vặt vãnh khi đem so với những giấc mơ kinh hoàng của con bé. Những lúc như vậy, trong màn đêm chậm chạp trôi , nó thấy mình là trơ trọi.

      Tôi chắc là bạn nhận thấy rằng có đứa trẻ con nào khác trong ngôi nhà này. Gia đình Hubermann có hai người con nhưng họ đều lớn và chuyển ra sống ở ngoài. Hans Junior (tức Hans con) làm việc ở khu trung tâm Munich, còn Trudy làm hầu phòng và trông trẻ. Chẳng bao lâu nữa cả hai tham gia vào cuộc chiến tranh. người làm ra những viên đạn. Người kia bắn chúng .

      Trường học, như bạn có thể hình dung, là nỗi khốn khổ khốn nạn gì tả được.

      Dù được nhà nước quản lý, ngôi trường con bé theo học vẫn chịu ảnh hưởng nặng nề của Thiên Chúa giáo, mà Liesel lại là người theo giáo phái Lu-ti.(6) khởi đầu chẳng có chút nào được gọi là hứa hẹn. Sau đó người ta phát ra rằng nó biết đọc mà cũng chẳng biết viết.

      Nhục nhã thay, nó bị xếp vào cùng lớp với đám con nít tuổi hơn, những đứa chỉ mới bắt đầu học bảng chữ cái. Dù là đứa còi xương và lúc nào cũng xanh mét như tàu lá, con bé vẫn cảm thấy mình to xác khủng khiếp giữa đám trẻ ranh ấy, và nó thường cầu mong mình xanh xao đến mức có thể biến mất hoàn toàn.

      Ngay cả khi ở nhà, nó cũng biết phải làm sao để cải thiện tình hình.

      “Đừng có hỏi lão ta cái gì cả,” Mẹ chỉ tay về phía Bố và . “Cái đồ lợn ấy.” Bố nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ, thói quen cố hữu của ông. “Lão bỏ học từ hồi lớp Bốn.”

      thèm quay đầu lại, Bố đáp bình tĩnh pha lẫn chút cay độc. “Cũng đừng có hỏi bà ấy.” Ông gạt tàn thuốc ra ngoài cửa. “Bà ta chỉ học đến lớp Ba là ngưng rồi.”

      Chẳng có quyển sách nào trong nhà cả (ngoại trừ quyển sách mà con bé bí mật giấu dưới tấm đệm nằm của mình), và điều tốt nhất mà Liesel có thể làm là đọc thầm bảng chữ cái trước khi nó bị nhắc hãy câm mồm cách cộc lốc. Tất cả chỉ là đọc lẩm bẩm trong miệng. Mãi cho đến sau này, khi có vụ tè dầm xảy ra vào giữa cơn ác mộng, chương trình tập đọc thêm ấy mới được bắt đầu. cách chính thức, nó được gọi là lớp học lúc nửa đêm, dù lớp học này thường được bắt đầu vào khoảng hai giờ sáng, đôi khi sớm hơn.

      Vào giữa tháng Hai, Liesel được đưa cho con búp bê cũ có mái tóc vàng và cụt mất chân.

      “Đó là tất cả những gì chúng ta có thể làm,” Bố xin lỗi nó.

      “Ông cái quái gì thế? Nó may lắm mới có được ngần ấy,” Mẹ chỉnh lại Bố.

      Hans tiếp tục kiểm tra cái chân còn lại của con búp bê trong lúc Liesel thử bộ đồng phục mới của nó. Mười tuổi, có nghĩa là nó thuộc đội thiếu niên Hitler. Thiếu niên Hitler có nghĩa là bộ đồng phục màu nâu. Vì là con , nên Liesel được kết nạp vào đội thiếu niên của tổ chức có tên gọi là BDM.


      GIẢI THÍCH TỪ VIẾT TẮT NÀY

      BDM là viết tắt của Bund Deutscher Madchen

      Những bé của nước Đức thống nhất.


      Điều đầu tiên mà tổ chức này làm là đảm bảo bọn nhóc có trục trặc gì với câu Heil Hitler - Hitler vạn tuế. Sau đó chúng được dạy đều bước, cuộn băng cứu thương và may vá quần áo. Chúng cũng được cho hành quân và những hoạt động tương tự khác. Thứ Tư và thứ Bảy là những ngày tập trung được chỉ định trước, diễn ra từ ba giờ đến năm giờ chiều.

      Vào mỗi ngày thứ Tư và thứ Bảy, Bố dắt Liesel đến trụ sở BDM và đón nó hai tiếng đồng hồ sau đó. Họ bao giờ nhiều về việc này. Họ chỉ nắm tay nhau và lắng nghe nhịp bước chân, và Bố thường hút hai điếu thuốc.

      Nỗi lo lắng duy nhất mà Bố mang đến cho nó là việc ông thường xuyên vắng. Có nhiều buổi tối ông bước vào phòng khách (cũng là phòng ngủ của nhà Hubermann), lôi cây đàn xêp từ trong cái tủ ly cũ kỹ ra và chơi đàn từ trong bếp ra đến tận cửa chính.

      Khi ông sải bước phố Thiên Đàng, Mẹ hay mở cửa sổ và gào vọng theo. “Đừng có thò mặt về nhà muộn quá đấy!”

      “Đừng có rống lên thế,” ông quay lại đáp.

      “Đồ lợn! Liếm mông tôi này! Tôi rống to thế nào mặc xác tôi!”

      vọng câu chửi của bà đuổi theo ông suốt con phố. Ông chẳng khi nào nhìn lại, hay ít nhất là cho đến khi ông biết chắc rằng vợ mình ở còn đứng đằng sau nữa. Vào những buổi tối như thế, ở cuối con phố, với hộp đựng đàn xếp trong tay, ông thường quay lại, ngay trước cửa hàng ở góc phố của mụ Diller, rồi nhìn cái dáng người thế vào chỗ vợ ông nơi cửa sổ. Rất nhanh, bàn tay dài thượt giống như bóng ma của ông giơ lên chào, trước khi ông lại quay và chậm chậm bước tiếp. Rồi Liesel lại nhìn thấy ông vào lúc hai giờ sáng, khi ông nhàng đánh thức nó khỏi cơn ác mộng hằng đêm.

      Những buổi tối trong căn bếp ấy luôn vang lên giọng khàn khàn, nhất định là như thế. Rosa Hubermann luôn mồm và khi bà ta “bật đài”, lải nhải ngừng. Bà luôn miệng cãi vã và than phiền. Bà thực cãi nhau với ai cả, nhưng luôn xoay xở cách xuất sắc với mọi cơ hội mà bà có. Bà có thể cãi nhau với cả thế gian trong căn bếp ấy, và hầu như tối nào bà cũng làm việc đó. Mỗi lần họ vừa mới ăn tối xong còn Bố rồi, Liesel với Rosa thường nán lại trong bếp, và Rosa ủi đống quần áo.

      Vài lần tuần, sau khi học về, Liesel sải bước những con phố của Molching cùng mẹ nuôi của nó, thu gom và giao đám đồ giặt ủi ở các khu vực sung túc hơn của thị trấn. Phố Knaupt, phố Heide, vài con phố khác. Mẹ làm việc này với nụ cười đầy trách nhiệm, nhưng ngay lúc mấy cánh cửa nhà khách hàng vừa khép lại, và bà quay , lần nào bà cũng nguyền rủa những con người giàu có này, với tất cả đống tiền bạc và lười biếng của họ.

      “Bọn người này quý phái đến mức giặt nổi đồ của mình cơ đấy”, bà hay như vậy, mặc cho thực tế là bà phải sống dựa vào họ.

      “Cái gã ấy”, bà buộc tội Herr Vogel ở phố Heide, “tất cả số tiền có là từ lão bố. nướng tiền vào gú, rượu chè. Và dĩ nhiên là cả giặt ủi quần áo nữa.”

      Nghe cứ như bài điểm danh những kẻ đáng khinh vậy.

      Herr Vogel, ông bà PlaSelhurver, Helena Schmidt, nhà Weigartner. Tất cả bọn họ đều có tội lỗi nào đó.

      Ngoài cái tật lác nào cũng say túy lúy và thói phóng đãng của mình, Ernst Vogel, theo lời Rosa, luôn gãi gãi mớ tóc đầy chấy rận, sau đó liếm liếm mấy ngón tay, rồi mới chịu đưa tiền. “Ta nên rửa sạch, số tiền này trước khi về nhà” là kết luận của bà.

      Nhà Plaffelhurver luôn xem xét quá chi li đám quần áo được giao tới. “Làm ơn đừng để những cái áo sơ mi này có vết nhàu nào, Rosa nhại giọng họ. “Đừng làm nhăn bộ đồ này đấy nhé. Rồi chúng nó đứng đấy và kiểm tra tất cả mọi thứ, ngay trước mặt ta. Ngay trước mũi ta! lũ rác rưởi, rác rưởi!”

      Nhà Weigartner là những người trông có vẻ đần độn và lúc nào lông mèo con lợn cũng rụng ra từ người họ. “Mày có biết mẹ mày phải mất bao lâu để giũ sạch đám lông đó hử? Lông khắp nơi!”

      Helena Schmidt là bà góa phụ giàu có. “Cái mụ già què quặt ấy - cứ ngồi ỳ ra đó cho đến lúc chết dần chết mòn. Mụ ta chưa từng phải làm việc lấy ngày nào trong đời mà.”

      Dù vậy, khinh bỉ lớn lao nhất của Rosa được dành cho ngôi nhà đường cái số 8. Đó là căn nhà lớn, tọa lạc cao ngọn đồi, ở phần của Molching.

      “Cái nhà này”, bà chỉ cho Liesel trong lần đầu tiên họ đến đó, “là nhà của lão thị trưởng. Cái tên lừa đảo ấy. Vợ lão ngồi lù lù đống trong nhà suốt cả ngày, độc ác đến mức nhóm nổi ngọn lửa - trong đó luôn lạnh đến phát cóng lên dược. Mụ ta điên rồi.” Bà gằn từng tiếng. “ đấy. Hoàn toàn điên rồi.” Ở cổng, bà ra hiệu cho con bé. “Mày vào .”

      Liesel sợ phát khiếp lên được. cánh cửa to đùng màu nâu với tay nắm bằng đồng nằm ở cuối dãy tam cấp đợi nó. “Sao cơ?”

      Mẹ đẩy nó tới trước. “Đừng có đứng đây mà sao với giăng, đồ con lợn. Nhúc nhích .”

      Liesel nhúc nhích. Nó bước theo con đường dẫn vào nhà, trèo lên những bậc cấp, do dự chút, rồi gõ cửa.

      Mở cửa là bộ áo choàng tắm.

      Bên trong bộ áo ấy là người đàn bà đứng trước mặt nó với đôi mắt thảng thốt, mái tóc rối bù như nùi bông, và dáng điệu thất thểu. Bà ta đảo mắt nhìn Mẹ ở chỗ cổng vào rồi đưa cho đứa bé túi đựng quần áo cần giặt. “Cảm ơn bà ” Liesel , nhưng có câu trả lời. Chỉ có cánh cửa đáp lại. Nó đóng sập trước mặt con bé.

      “Mày thấy chưa?” Mẹ lên tiếng khi nó quay lại chỗ cổng. “Đây là cái mà ta phải chịu đựng đấy. Những kẻ giàu có khôn kiếp này, những con lợn lười biếng này...”

      Lúc hai mẹ con rời , Liesel ngoảnh lại, tay ôm túi đồ cần giặt. Nắm đấm bằng đồng cánh cửa nhìn theo nó.

      Khi kết thúc cái công việc nhiếc móc những người mà bà phải làm thuê cho họ, Rosa Hubermann thường chuyển sang chủ đề mắng mỏ ưa thích khác của bà. Ấy là ông chồng bà. Nhìn đám đồ cần giặt giũ và những ngôi nhà xiêu vẹo, bà cứ , mãi ngừng. “Nếu bố mày có tí tài cán gì,” bà luôn với Liesel như thế mỗi lần họ xuyên qua thị trấn Molching, “ ta phải làm cái việc này.” Bà khịt mũi chế nhạo. “ thợ sơn! Sao lại cưới cái hạng lỗ đít ấy chứ? Đó là những gì mà họ với ta - gia đình ta ấy, họ với ta như thế đấy.” Những bước chân của hai mẹ con phát ra tiếng lạo xạo mặt đường. “Và giờ ta sống thế này đây, bộ đường và làm việc quần quật như con ở trong căn bếp của mình, vì cái đồ lợn ấy chả bao giờ kiếm được công việc gì cả. Chả có cái công việc nào ra hồn cả. Chỉ có cái đàn xếp thảm hại trong những cái xó xỉnh bẩn thỉu ấy mỗi đêm mà thôi.”

      “Vâng, thưa Mẹ.”

      “Mày chỉ được có ngần ấy thôi à?” Đôi mắt của Mẹ trông như những miếng giấy rời màu xanh tái, được dán chặt lên mặt bà.

      Họ lại tiếp.

      Liesel phải mang cái túi đựng đồ bẩn.

      Ở nhà, đám quần áo được giặt trong cái nồi nấu cạnh bếp lò được treo ở chỗ lò sưởi trong phòng khách, và sau đó được là ủi trong nhà bếp. Nhà bếp là nơi diễn ra mọi việc.

      Mày có nghe thấy ? Gần như đêm nào Mẹ cũng hỏi nó câu này. Cái bàn ủi là nắm đấm của bà, được nung trong bếp lò. Ánh sáng trong nhà rất mờ mịt, và Liesel, ngồi ở chỗ bàn bếp, thường nhìn chăm chăm vào miệng lò lửa trước mặt nó.

      “Sao?” con bé đáp. “Sao cơ ạ?”

      “Lại là con mẹ Holtzapfel.” Mẹ còn ngồi yên ghế của mình được nữa. “Cái đồ lợn nái ấy lại vừa mới nhổ vào cửa nhà mình nữa đấy.”

      Đó là việc gần như thành truyền thống với Holtzapfel, trong những hàng xóm của họ, là nhổ vào cửa nhà Hubermann mỗi lần bà ta ngang qua. Cửa ra vào chỉ cách cổng vài mét, và chúng ta có thể rằng bà Holtzapfel có những cú nhổ rất xa - và chính xác nữa.

      Cái khạc nhổ này bắt nguồn từ việc bà ta và Rosa Hubermann có cuộc khẩu chiến kéo dài dễ đến cả thập kỷ nay. ai biết nguồn gốc của mối thâm thù này. Hẳn là bản thân hai người đàn bà ấy cũng quên mất rồi.

      Holtzapfel là người đàn bà dẻo dai, và có thái độ hằn học rất ràng. Bà ta chưa bao giờ kết hôn cả, nhưng vẫn có hai ngươi con trai, lớn hơn đứa con đầu lòng nhà Hubermann vài tuổi. Cả hai đều tại ngũ và cả hai đều xuất khá ấn tượng khi câu chuyện gần kết thúc, tôi đảm bảo với các bạn như thế.

      Theo lối hằn học, tôi cũng nên rằng Holtzapfel rất triệt để với cái công việc khạc nhổ của mình. Bà ta bao giờ xao nhãng việc nhổ bọt vào cửa nhà số ba mươi ba và rủa “Đồ lợn!” mỗi lần ngang qua chỗ ấy. Có điều tôi nhận thấy ở người Đức là:

      Có vẻ như họ rất quan tâm đến những con lợn.


      CÂU HỎI VÀ CÂU TRẢ LỜI

      Và bạn nghĩ ai bị bắt phải chùi cái đống nhổ

      cánh cửa ấy mỗi đêm chứ?

      Phải - bạn biết là ai rồi đấy.


      Khi người đàn bà với nắm đấm sắt bảo bạn ra ngoài đó và chùi đống nhổ cửa, bạn phải tuân theo thôi. Đặc biệt là khi cái nắm đấm sắt ấy nóng rẫy.

      Tất cả chỉ là phần của thời gian biểu hằng ngày, thực là như vậy.

      Mỗi đêm, Liesel đều ra ngoài, lau sạch cánh cửa và ngắm nhìn bầu trời. Thường bầu trời trông cứ như bị ai làm đổ - lạnh lẽo và nặng nề, trơn tuột và xám xịt - nhưng thỉnh thoảng cũng có vài ngôi sao có can đảm xuất và tỏa ánh sáng lấp lánh, dù chỉ trong vài phút. Vào những đêm như vậy, con bé ở ngoài lâu hơn chút và chờ đợi.

      “Xin chào, những ngôi sao kia ơi.”

      Chờ đợi.

      Chờ giọng vọng ra từ nhà bếp.

      Hay chờ cho đến khi những ngôi sao kia lại bị nhấn chìm xuống vũng nước đen ngòm của bầu trời nước Đức.



      NỤ HÔN

      ( người ra quyết định thời thơ ấu)


      Như hầu hết những thị trấn khác, Molching có đầy rẫy các nhân vật. Rất nhiều trong số họ sống ở phố Thiên Đàng. Bà Holtzapfel chỉ là vai diễn trong cái đoàn kịch này mà thôi.

      Các diễn viên khác bao gồm những con người đại loại như sau:

      - Rudy Steinner - đứa con trai nhà hàng xóm, thằng này bị ám ảnh bởi vận động viên người Mỹ gốc Phi, Jesse Owens.

      - Mụ Diller - chủ cửa hàng tạp hóa ở góc đường, người Aryan rất kín tiếng.(7)

      - Tommy Muller - thằng nhóc bị thối tai kinh niên. Nó trải qua vài cuộc phẫu thuật, mặt nó có dải da màu hồng như dòng sông vắt ngang qua và luôn có xu hướng co rúm lại.

      - gã được biết đến chủ yếu qua cái tên Pfiffikus, mà thói văng tục của lão ta khiến Rosa Hubermann giống như vị thánh chỉ toàn lời hay ý đẹp.

      Nhìn chung, đó là con phố đầy rẫy những kẻ nghèo khổ, mặc cho trỗi dậy rệt về mặt kinh tế của nước Đức dưới thời Hitler. Những dãy phố nghèo vẫn tồn tại.

      Như đề cập, căn nhà kế bên nhà Hubermann được gia đình họ Steiner thuê lại. Nhà Steiner có sáu đứa con. đứa trong số chúng, thằng Rudy đầy tai tiếng, nhanh chóng trở thành bạn thân nhất của Liesel, sau đó là cộng của con bé và đôi khi lại là yếu tố xúc tác trong những hành vi tội lỗi của hai đứa. Liesel gặp thằng bé đường phố.

      Vài ngày sau lần đầu tiên Liesel chịu tắm, Mẹ cho phép nó ra ngoài chơi với những đứa trẻ khác. Với bọn trẻ sống phố Thiên Đàng, tình bạn luôn được thiết lập ngoài đường dù thời tiết có thế nào nữa. Bọn trẻ hiếm khi ghé chơi nhà nhau vì những căn nhà này thường rất và chẳng có mấy thứ để chơi cả. Thế là chúng bày trò tiêu khiển ưa thích đường phố như những vận động viên chuyên nghiệp. Trò ấy là môn bóng đá. Những đội bóng được chia đều cầu thủ. Những thùng rác được trưng dụng làm khung thành.

      Vì là đứa trẻ mới đến, ngay lập tức Liesel bị nhét vào giữa hai thùng rác như thế. (Sau cùng Tommy Muller cũng được tự do, dù nó là trong những cầu thủ vô dụng nhất mà phố Thiên Đàng từng sản sinh ra.)

      Ban đầu mọi việc đều tốt đẹp cả, cho đến khoảnh khắc định mệnh mà Rudy Steiner bị thằng Tommy Muller vụng về đốn ngã sóng soài xuống mặt đất đầy tuyết.

      “Cái gì?! Tommy hét lên. Mặt nó co rúm lại trong cơn tuyệt vọng. “Tao có làm gì đâu cơ chứ?!”

      Tất cả cầu thủ bên đội của Rudy đều nhất trí rằng đó là mọt quả phạt đền, và thế là lúc này Rudy Steiner đứng đối mặt với con nhóc mới đến, Liesel Meminger.

      Thằng bé đặt quả bóng mô tuyết bẩn thỉu. Nó rất tự tin trước kết quả thường thấy sau những cú phạt đền như vậy- xét cho cùng, Rudy chưa sút hỏng quả nào trong số mười tám quả phạt đền gần đây nhất, mặc dù khi đó đội bạn có lý do chính đáng để đá đít thằng Tommy Muller ra khỏi vị trí thủ môn. Dù bọn kia có thay thằng này bằng đứa nào khác chăng nữa, Rudy vẫn ghi bàn.

      Lúc này bọn trẻ cố buộc Liesel tránh ra cho đứa khác bắt quả phạt. Như bạn có thể hình dung, con bé phản đối, và Rudy đồng ý với điều này.

      “Đừng, sao đâu,” nó cười khẩy. “Cứ để nó bắt quả này.” Thằng nhóc xoa xoa tay.

      Lúc này, tuyết ngừng phủ trắng con phố nhem nhuốc, và mặt đường kịp chằng chịt những dấu chân đầy bùn đất. Rudy lấy đà rồi thực cú sút. Liesel đổ người sang bên và thế nào đó mà làm chệch hướng được quả bóng bằng cùi chỏ của nó. Nó đứng dậy rồi nhoẻn miệng cười toe toét, nhưng thứ đầu tiên nó nhìn thấy lại là qua bóng bằng tuyết được ném thẳng vào mặt. Nửa phần quả bóng tuyết đó là bùn. Liesel đau đến nảy cả đom đóm mắt.

      “May có thích thế ? Thằng nhóc cười toe rồi chạy đuổi theo quả bóng.

      “Đồ lợn,” Liesel lầm bầm trong miệng. Từ ngữ ưa thích trong gia đình mới của nó được lĩnh hội rất nhanh.


      VÀI THÔNG TIN VỀ RUDY STEINER

      Thằng bé lớn hơn Liesel tám tháng tuổi

      và có cặp giò lẻo khoẻo, hàm răng sắc bén,

      đôi mắt xanh biếc và mái tóc màu vàng chanh.

      trong số sáu đứa con nhà Steiner,

      bởi thế nó thường xuyên đói bụng.

      Ở phố Thiên Đàng, nó bị coi là thằng hơi tưng tửng.

      Điều này bắt nguồn từ việc người ta hiếm khi đến,

      nhưng vẫn được công nhận rộng rãi với cái tên

      “Biến cố Jesse Owens”.

      đêm nọ, nó trát đầy than đen lên người

      và chạy cự ly trăm mét ở sân vận động địa phương.


      Dù điên hay , Rudy luôn được an bài để trở thành bạn thân nhất của Liesel. quả bóng tuyết vào mặt bé là khởi đầu hoàn hảo cho tình bạn bền vững.

      Vài ngày sau khi Liesel bắt đầu học, nó đến trường cùng với những đứa trẻ nhà Steiner. Mẹ của Rudy, bà Barbra, bắt thằng nhóc phải hứa là cùng với đứa bé mới chuyển đến, chủ yếu là vì bà nghe kể lại vụ quả bóng tuyết. Phần Rudy, nó hí hửng vâng lời. Nó thuộc týp mấy thằng oắt vẫn ra vẻ ta đây ghét con . Nó rất thích tụi con , và nó thích Liesel (thế nên mới có vụ quả bóng tuyết). Thực ra Rudy Steiner là trong những thằng quỷ con trâng tráo thực mê thích hình ảnh bản thân mình có bọn con vây quanh. Dường như trong mỗi đứa trẻ đều có nông nổi đại loại như thế . Nó là thằng nhóc chẳng hề sợ người khác giới, chỉ vì mọi người đều bám lấy nỗi sợ cá biệt ấy, mà nó thuộc loại ngại phải đưa ra quyết định. Trong trường hợp này, Rudy quyết định rất ràng về Liesel Meminger.

      đường tới trường, nó cố gắng chỉ cho Liesel thấy mấy địa điểm quan trọng trong thành phố, hay ít nhất, nó xoay xở để chêm mấy câu như thế vào đâu đó giữa lúc nạt mấy đứa em nó hãy câm mồm và bị mấy chị nó bảo nó phải câm mồm. Địa điểm đáng chú ý đầu tiên mà nó giới thiệu cho Liesel là ô cửa sổ tầng hai của khối nhà chung cư.

      “Đó là nơi Tommy Muller sống.” Nó nhận thấy rằng Liesel nhớ ra cái thằng Tommy ấy là ai. “Cái thằng nhóc mặt mày rúm ró ấy, cậu nhớ à? Hồi mới năm tuổi, nó bị lạc giữa chợ vào ngày lạnh nhất trong năm. Ba tiếng đồng hồ sau, khi người ta tìm thấy nó, nó lạnh cóng như đá và bị cơn đau tai khủng khiếp vì trời lạnh. thời gian sau, tai nó bị nhiễm trùng bên trong và nó phải phẫu thuật đến ba bốn lần gì đó, các bác sĩ làm nó sợ vãi cả ra quần. Thế là bây giờ nó cứ rúm ró như vậy đấy.”

      Liesel xen vào. “Và nó chơi bóng tệ hết chỗ .”

      “Nó là thằng chơi tệ nhất.”

      Tiếp theo là cửa hàng ở góc đường cuối phố Thiên Đàng. Cửa hàng của Mụ Diller.


      ĐIỀU QUAN TRỌNG CẦN LƯU Ý VỀ MỤ DILLER

      Mụ ta có luật lệ vàng.


      Mụ Diller là mụ đàn bà quắt queo với cặp mắt kính tròn xoe và ánh nhìn hung ác. Mụ hình thành ánh nhìn quỷ dữ này để làm nản lòng cái ý tưởng rất hay ho là lấy trộm hàng hóa từ cửa hàng của mụ. Mụ củng cố thêm yếu tố đáng sợ cho ánh nhìn này bằng dáng điệu trông như quân nhân, giọng lạnh như băng, và thậm chí cả hơi thở của mụ cơ hồ cũng tỏa ra cái mùi Hitler vạn tuế. Ngay cả cửa hàng đó cũng có màu trắng tinh và lạnh ngắt. Ngôi nhà đứng cạnh nó như run lẩy bẩy vì lạnh hơn nhiều so với những ngôi nhà khác phố Thiên Đàng. Mụ Diller điều khiển cảm giác này, trưng nó ra như là vật duy nhất miễn phí trong cơ ngơi của mụ. Mụ sống vì cửa hàng của mình, và cửa hàng đó sống vì Đệ tam Quốc xã (8-). Ngay cả khi chế độ phân phối (9) được ban hành sau đó, người ta vẫn biết là mụ bán lén lút những món đồ hiếm và quyên số tiền kiếm được từ việc này cho đảng Quốc xã. Thường ngự bức tường đằng sau chỗ mụ đứng là chân dung Quốc trưởng được lồng khung trang trọng. Nếu bạn bước vào cửa hàng của mụ mà câu Hitler vạn tuế, bạn mua được gì ở đó cả. Khi hai đứa ngang qua, Rudy chỉ cho Liesel thấy cặp mắt chống đạn đó liếc ngang liếc dọc từ cửa sổ cửa hàng.

      “Hãy câu Vạn tuế ấy khi cậu vào trong đó,” thằng bé nghiêm giọng cảnh báo nó. “Trừ phi cậu muốn mình phải xa hơn chút mới mua được hàng.” Ngay cả khi hai đứa cách cửa hàng quãng khá xa, Liesel ngoái nhìn lại và vẫn thấy đôi mắt như kính hiển vi ấy ở đó, dán chặt vào ô cửa sổ.

      Qua góc đường, phố Munich (con đường chính để vào và ra khỏi Molching) trải đầy bùn loãng.

      Như thường lệ, vài hàng lính diễn tập hành quân rất nhanh phố. Những bộ quân phục của họ di chuyển trong tư thế thẳng đơ và những đôi ủng đen càng làm lớp tuyết bị ô nhiễm hơn nữa. Mặt họ được cố định hướng thẳng về phía trước với tập trung cao độ.

      Khi ngắm những người lính mất hút, bọn nhóc nhà Steiner và Liesel ngang qua vài cửa hàng nữa, tiếp đến là tòa thị chính oai nghiêm và đường bệ, tòa nhà mà vài năm sau đó bị đốn gục và chôn vùi vĩnh viễn. Có vài cửa hàng bị bỏ và vẫn còn được đánh dấu bằng những ngôi sao màu vàng cùng mấy hàng chữ có nội dung bài Do Thái. Xa hơn chút, nóc nhà thờ chĩa thẳng lên trời, có thể nóc nhà thờ ấy là công trình nghiên cứu về những tấm đá lát được ghép lại với nhau. Con phố, nhìn tổng thể, là ống tuýp dài ngoằng xám xịt - hành lang ẩm ướt, người ta co mình trong giá lạnh, và đây đó vọng lên tiếng bì bõm của những bước chân ngập trong nước.

      quãng đường nọ, Rudy lao về phía trước, kéo Liesel theo cùng với nó.

      Thằng bé gõ lên ô cửa sổ của hiệu may.

      Nếu con bé biết đọc, nó biết được rằng cửa hiệu này thuộc về bố của Rudy. Cửa hiệu vẫn chưa mở cửa, nhưng bên trong, người đàn ông chuẩn bị mấy món quần áo sau quầy hàng. Ông ngước lên và vẫy tay chào.

      “Bố tớ đấy,” Rudy giới thiệu cho con bé, và chúng nhanh chóng nhập vào đám đông gồm những đứa Steiner với kích cỡ khác nhau, mỗi đứa đều vẫy tay chào hay hôn gió đáp lại ông bố của chúng, hoặc chỉ đơn giản là đứng yên và gật đầu chào (trong trường hợp đứa lớn nhất), sau đó chúng lại tiếp, về hướng địa điểm quan trọng cuối cùng trước khi đến trường học.


      ĐIỂM DỪNG CHÂN CUỐI CÙNG

      Con phố của những ngôi sao vàng.


      Đó là nơi ai muốn dừng chân và ngắm nghía cả, nhưng hầu như ai cũng làm thế. Với hình thù như cánh tay dài và bị gãy gập, con phố này chỉ có vài ngôi nhà với ô cửa sổ vỡ toang hoác và những bức tường sứt sẹo. Ngôi sao của David (10) được sơn cửa ra vào của những căn nhà. Trông chúng tựa như là đám người hủi. cách nhàng nhất, chúng là những vết lở loét của nước Đức bị thương.

      “Schiller Strasse”(11) Rudy . “Con phố của những ngôi sao vàng.”

      Đằng xa, vài người tới lui. Cơn mưa phùn khiến họ như những bóng ma. Họ trông giống người, mà chỉ là những hình dạng, di chuyển bên dưới những đám mây màu chì.

      “Hai đứa chúng mày nhanh lên nào,” Kurt (thằng con trai cả nhà Steiner) cất tiếng gọi, thế là Rudy và Liesel bước vội về phía nó.

      Ở trường, Rudy luôn để ý tìm kiếm Liesel trong các giờ giải lao. Nó quan tâm đến việc những đứa khác luôn chế nhạo ầm ĩ ngốc nghếch của con bé. Ngay từ ban đầu nó ở bên cạnh con bé, và sau này nó vẫn ở đó, khi thất vọng của Liesel vượt quá giới hạn. Nhưng nó làm điều đó miễn phí.


      ĐIỀU DUY NHẤT TỆ HƠN

      THẰNG NHÓC GHÉT BẠN

      Đó là thằng nhóc bạn.


      Vào ngày cuối tháng Tư, sau khi tan học, Rudy và Liesel đợi phố Thiên Đàng để chơi bóng như thường lệ. Hôm ấy chúng đến hơi sớm chút, và vẫn chưa có đứa nào ở đấy cả. Người duy nhất mà chúng nhìn thấy là lão Pfiffikus.

      “Nhìn kìa,” Ruđy chỉ.

      CHÂN DUNG CỦA PFIFFIKUS

      Lão là bộ khung lỏng lẻo. Tóc lão trắng xóa.

      Lão lúc nào cũng khoác lên người cái áo mưa đen kịt,

      quần dài màu nâu, đôi giày mục nát, và cái miệng - cái miệng ra trò.


      “Ê, Pfiffikus!”

      Khi cái dáng người đằng xa ấy quay lại nhìn, Rudy bắt đầu huýt sáo.

      Lão già lập tức đứng thẳng dậy và bắt đầu văng tục với dữ tợn mà chỉ có thể miêu tả như tài năng bẩm sinh. Hình như chẳng ai biết tên của lão cả, hay ít ra là dù có biết họ cũng chẳng bao giờ dùng đến nó. Người ta gọi lão là Pfiffikus chỉ vì bạn đặt cái tên này cho người nào thích huýt sáo, và Pfiffikus hầu như lúc nào cũng làm thế. Lão thường xuyên huýt sáo điệu hành khúc tên là Radetzky March (12), và mọi đứa trẻ trong vùng đều gọi tên lão rồi sau đó nhái lại y chang giai điệu ấy. Ngay lập tức, Pfiffikus từ bỏ dáng thông thường của mình (chúi người về trước, sải những bước dài, tay chắp đằng sau lưng áo mưa) và đứng thẳng người dậy mà chửi rủa. Đó cũng là lúc bất cứ ấn tượng nào về yên bình cũng đều bị gián đoạn cách thô bạo, vì giọng chửi của lão chứa đầy ắp cuồng nộ.

      Lần này, Liesel bắt chước trò chế nhạo của Rudy, như môt bản sao vậy.

      “Pfiffikus!” nó ngân nga theo, nhanh chóng thừa kế tàn nhẫn thích đáng mà tuổi có thể đạt tới. Tiếng huýt sáo của nó nghe kinh khủng, nhưng nó có thời gian để chỉnh lại cho hay hơn.

      Lão già đuổi theo chúng, vừa đuổi vừa gọi với theo. Lão bắt đầu với câu “Geh scheissen” () và những câu chửi ngày càng nhanh chóng trở nên tồi tệ hơn. Ban đầu lão chỉ chửi rủa thằng bé, nhưng lâu sau đến lượt Liesel.

      “Đồ điếm con!” lão gầm lên. Những từ ngữ ném tới tấp vào lưng con bé. “Tao chưa từng thấy mày trước đây!” Thích thú với việc gọi đứa bé mười tuổi là đồ điếm - đó chỉ có thể là Pfiffikus. Có điều được nhiều người công nhận là lão và bà Holtzapfel hợp thành cặp đôi rất đáng . “Quay lại đây xem nào!” là những từ ngữ cuối cùng mà Liesel và Rudy nghe được khi chúng cắm đầu cắm cổ chuồn mất. Chúng chạy đến tận phố Munich.

      “Nào,” Rudy , khi cả hai lấy lại nhịp thở bình thường. “Hãy tới chỗ này lúc thôi.”

      Nó dẫn con bé đến Hubert Oval, nơi xảy ra Biến cố Jesse Owens, và hai đứa cứ đứng ngây ra ở đó, tay đút túi quần. Con đường trải rộng ra trước mặt chúng. Chỉ có điều có thể xảy đến mà thôi, và Rudy là đứa khơi mào việc đó trước. “Chạy đua cự ly trăm mét, nó khích con bé. “Tớ cuộc là cậu còn khuya mới thắng được tớ.”

      Liesel chẳng thèm để ý đến lời thằng nhóc. “Tớ cuộc với cậu là tớ có thể đấy.”

      “Cậu lấy gì mà cược, hở cái đồ lợn con kia? Cậu làm quái gì có tiền?”

      “Dĩ nhiên là tớ có. Cậu có chắc?”

      .” Nhưng Rudy nảy ra ý. thằng con trai thích chơi trò tình ái trỗi dậy trong nó. “Nếu tớ thắng, tớ được hôn cậu.” Nó cúi xuống và bắt đầu xắn ống quần lên.

      Liesel trở nên cảnh giác, ấy là theo cách nhàng nhất. “Cậu muốn hôn tớ để làm gì? Người tớ hôi lắm.”

      “Tớ cũng thế.” ràng là Rudy thấy chẳng có lý do gì mà tí mùi khó ngửi lại có thể ngăn trở mọi việc. Cũng lâu rồi cả hai đứa chúng nó chưa tắm.

      Con bé vừa nghĩ ngợi về điều này vừa xem xét cặp giò khẳng khiu như hai ống sậy của đối thủ. Chúng trông cũng giống như cặp giò của nó thôi. đời nào thằng đó thắng được mình, con bé nghĩ thầm. Nó gật đầu chấp thuận, cách hoàn toàn nghiêm túc. Đây là vụ làm ăn rồi. “Cậu có thể hôn tớ nếu cậu thắng. Nhưng nếu tớ thắng tớ còn phải làm thủ môn trong mấy trận đá bóng nữa.”

      Rudy ngẫm nghĩ lúc. “Nghe được đấy,” thế là hai đứa bắt tay nhau.

      Tất cả chỉ có bầu trời tối sầm và mù mịt sương, và trận mưa bắt đầu đổ xuống.

      Con đường có nhiều bùn hơn chúng tưởng.

      Cả hai đối thủ đều sẵn sàng vào vị trí.

      Rudy ném hòn đá lên trung thay cho tiếng súng báo hiệu xuất phát. Khi hòn đá rơi xuống đất cả hai có thể bắt đầu chạy.

      “Tớ thậm chí còn nhìn thấy vạch đích đến,” Liesel phàn nàn.

      “Thế tớ nhìn thấy chắc?”

      Hòn đá chạm mặt đất.

      Chúng chạy sát bên nhau, thúc cùi chỏ vào nhau và cố gắng vượt lên trước. Mặt đường trơn trượt phát ra tiếng nhóp nhép dưới mỗi bước chạy của chúng, khiến chúng vấp ngã sóng soài khi chỉ còn cách đích đến chừng hai mươi mét.

      “Lạy các đấng Jesus, Maria và Joseph!” Rudy kêu toáng lên. “Người tớ toàn cứt là cứt đây này!”

      phải cứt đâu,” Liesel chỉnh lại bạn, “bùn đấy”, dù thực lòng con bé cũng có đôi chút nghi ngờ việc này. Cả hai về phía đích đến thêm chừng năm mét nữa. “Vậy là chúng ta hòa nhau phải ?”

      Rudy kiểm tra lại mình, từ hàm răng bén đến cặp mắt xanh biếc của nó. Nửa khuôn mặt nó dính đầy bùn. “Nếu hòa, tớ vẫn được hôn cậu chứ?”

      “Đừng có mơ.” Liesel đứng dậy và rũ bùn bám áo khoác.

      “Tớ bắt cậu làm thủ môn nữa.”

      “Quỷ tha ma bắt cái trò thủ môn của cậu .”

      Khi chúng quay về phố Thiên Đàng, Rudy với con bé bằng giọng cảnh cáo. “ ngày nào đó, Liesel ạ,” thằng bé , “cậu muốn hôn tớ đến chết được.”

      Nhưng Liesel biết.

      thề.

      Đến chừng nào mà nó và Rudy Steiner còn sống cõi đời này, nó bao giờ hôn cái đồ lợn khốn khổ, bẩn thỉu ấy, càng phải ngày hôm nay. Nó còn có những vấn đề quan trọng hơn cần giải quyết. Con bé nhìn xuống bộ quần áo như được làm từ bùn của mình và cách rành rọt.

      “Bà ấy giết tớ thôi.”

      Bà ấy ở đây dĩ nhiên là Rosa Hubermann, ngoài ra bà còn là Mẹ của nó, và bà ấy suýt nữa giết nó . Từ Đồ lợn được phát ra biết bao nhiêu lần trong lúc bà thực thi hình phạt dành cho con bé. Bà nện cho nó trận nên thân.



      BIẾN CỐ JESSE OWENS


      Trong ký ức của Liesel, cứ như thể con bé từng chứng kiến tận mắt hành động trẻ con đáng xấu hổ ấy của Rudy. Thế nào đó mà nó luôn hình dung ra mình chen chúc trong đám khán giả tưởng tượng của thằng bạn. Có thể chỉ đơn giản là nó thấy thích ý nghĩ có thằng nhóc trát than đen kịt hết cả người rồi chạy vòng quanh bãi cỏ mà thôi.

      Đó là vào năm 1936. Năm tổ chức Thế vận hội. Kỳ đại hội của Hitler.

      Jesse Owens vừa hoàn thành chặng đua tiếp sức 4 vòng 100 mét và giành được huy chương vàng thứ tư của mình. Người ta gọi ta là gã chưa tiến hóa hết, vì da màu đen, và việc Hitler từ chối thèm bắt tay lan khắp thế giới. Ngay cả những người Đức phân biệt chủng tộc nhất cũng phải kinh ngạc trước nỗ lực của Owens, và kỳ tích của cứ được lan truyền mãi. ai ấn tượng với điều này hơn Rudy Steiner cả.

      Khi mọi người trong gia đình đều tụ tập đông đủ ở phòng khách, nó chuồn ra ngoài và tìm đường xuống bếp. Nó khều ít than trong bếp lò ra và nắm đầy hai vốc than trong tay. “Lúc này đây,” nó mỉm cười tự nhủ. Nó sẵn sàng.

      Nó trát than lên người, lớp đều và dày, cho đến khi cả người nó được phủ kín than. Ngay cả mái tóc của nó cũng được trát qua lượt.

      Thằng bé cười đến mức gần như điên dại khi nhìn thấy hình ảnh phản chiếu của mình ô cửa sổ, và cứ đánh độc quần đùi với áo may-ô như thế, nó lẳng lặng thó chiếc xe đạp của trai mình và đạp ra phố, hướng về phía sân Hubert Oval. Trong túi áo của mình, nó giấu thêm vài viên than dự trữ, phòng trường hợp lớp than người nó trôi mất.

      Trong hình dung của Liesel, mặt trăng đêm hôm ấy như được thêu đính lên bầu trời, những đám mây được vá víu nhằng nhịt xung quanh nó.

      Rudy để chiếc xe đạp han gỉ lại ở chỗ hàng rào sân Hubert Oval, rồi trèo qua. Nó sang được phía bên kia hàng rào và phóng nước kiệu về chỗ xuất phát của vòng chạy cự ly trăm mét. Rudy khởi động cách vụng về và đầy phấn khởi. Thằng bé còn đào cả những cái lỗ xuất phát mặt đất.

      Trong lúc chờ đến lượt mình, nó chạy vòng quanh, tập trung tinh thần dưới bầu trời tối om, mặt trăng và những đám mây như quan sát từng hành động của nó.

      “Owens trông có vẻ rất ổn,” nó bắt đầu bình luận. “Đây có thể là chiến thắng vĩ đại nhất của ...”

      Nó bắt tay các vận động viên tưởng tượng khác và chúc họ may mắn, dù biết là họ có cơ may chiến thắng nào.

      Tiêng súng lệnh báo cho các vận động viên tiến vào vị trí. đám đông dày đặc phủ kín đên từng xentimét vuông xung quanh sân Hubert Oval. Tất cả đều hô vang câu duy nhất. Họ hô vang tên của Rudy Steiner - và tên của thằng bé này là Jesse Owens.

      Vạn vật chìm trong im lặng.

      Bàn chân trần của nó bấu xuống đất. Nó có thể cảm thấy đất bị kẹp giữa những ngón chân mình.

      Theo hiệu lệnh, nó nâng người chuyển sang tư thế chuẩn bị - rồi tiêng súng lệnh xuất phát ghim lỗ sâu hoắm vào giữa màn đêm.

      phần ba đầu tiên của quãng đường đua, các vận động viên so kè nhau khá sát, nhưng đó chỉ là vấn đề thời gian trước khi chàng Owens đen nhẻm muội than bứt lên và cứ thế phóng về đích.

      “Owens vượt lên trước rồi,” giọng the thé của thằng bé hét toáng lên khi nó chạy con đường trống trước mặt, thẳng về nơi phát ra tiếng vỗ tay ầm ĩ của vinh quang Thế vận hội. Thậm chí nó còn có thể cảm nhận được dải dây căng ngang vạch đích bị ngực nó xé ra làm đôi khi chạy qua chỗ đó. Nó là người chạy nhanh nhất hành tinh.

      Mọi thứ bỗng trở nên hỏng bét trong lúc nó chạy vòng ăn mừng chiến thắng. Giữa đám đông hỗn loạn ở đích đến, cha nó đứng đó như ông Ba Bị. Hay ít nhất là như ông Ba Bị trong bộ com lê. (Như đề cập, bố của Rudy là thợ may. Ông ấy ít khi xuất phố mà khoác lên người bộ quần áo chỉn chu và thắt cà vạt. Lần này ông chỉ mặc cái áo vét-tông và bên trong là áo sơ mi nhếch nhác.)

      “Was ist los?” ông với con trai mình như thế khi thằng bé xuất trong ánh hào quang ám đầy muội than của nó. “Chuyện quái quỷ gì xảy ra ở đây vậy?” Đám đông biến mất. cơn gió lướt qua. “Tao ngủ ghế Kurt là mày biến đâu mất tiêu. Mọi người nháo nhác tìm mày kia kìa.”

      Ông Steiner là người vô cùng lịch trong những hoàn cảnh thông thường. Việc phát ra trong số những đứa con của mình bị muội than phủ kín người vào buổi tối mùa hè phải là điều mà ông xem là hoàn cảnh thông thường. “Thằng bé phát điên rồi,” ông lẩm bẩm, dù ông thừa nhận rằng với sáu đứa con trong nhà, điều gì đó đại loại thế này là thể tránh khỏi, ít nhất đứa trong số chúng phải là quả trứng ung. Ngay lúc này đây, ông nhìn vào quả trứng ung ấy, chờ lời giải thích. “Thế nào?”

      Rudy thở hổn hển, cúi gập người, hai tay chống tay lên đầu gối. “Con là Jesse Owens.” Thằng bé trả lời như thể đó là điều tự nhiên nhất trần đời vậy. Thậm chí trong điệu câu trả lời của nó còn có chút gì đó như muốn , “Chứ còn cái quái gì nữa?” Dù vậy, điệu ấy biến mất ngay khi nó nhận thấy vẻ ngái ngủ trong đôi mắt của bố mình.

      “Jesse Owens?” Ông Steiner thuộc týp người rất vụng về. Giọng của ông luôn thành thực và cộc lốc. Ông có dáng người cao lớn và thô kệch như cây sồi, còn mái tóc ông trông như mớ mảnh vụn bù xù. “Gã ta sao nào?”

      “Bố biết mà, Người có phép thuật đen ấy.”

      “Tao cho mày nếm mùi Phép thuật đen ngay đây.” Ông dùng ngón cái và ngón trỏ bẹo tai thằng con trời đánh phát.

      Rudy nhăn nhó. “ối, đau quá!”

      “Đau hả?” Bố nó có vẻ bận tâm vì lớp than sền sệt dính những ngón tay mình hơn là việc ông làm nó đau. Đúng là nó phủ than lên khắp người, cái thằng bé này, ông ấy nghĩ thầm. Thậm chí trong lỗ tai nó cũng có muội than, lạy Chúa. “ nào.”

      đường về nhà, ông Steiner quyết định chuyện chính trị với thằng bé, theo cách hay nhất mà ông có thể. Đến tận nhiều năm sau đó Rudy mới có thể hiểu được tất cả nội dung câu chuyện - khi quá trễ để nó hiểu ra được cái gì đó.


      MÂU THUẪN VỀ CHÍNH TRỊ CỦA ALEX STEINER

      Điểm : Là thành viên của Đảng Quốc xã, ông ghét người Do Thái, hay bất cứ ai khác.

      Điểm hai: Dù vậy, cách kín đáo, ông vẫn thể kìm được cảm giác khuây khỏa ở mức độ nào đó (hay tệ hơn nữa - cảm thấy vui mừng!) khi những người chủ cửa hàng gốc Do Thái bị buộc phải ngừng công việc làm ăn - cơ quan tuyên truyền cho ông biết rằng chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi đám thợ may Do Thái ôn dịch xuất và cướp hết khách hàng của ông.

      Điểm ba: Nhưng liệu điều đó có đồng nghĩa với việc bọn họ phải được quét sạch hoàn toàn ?

      Điểm bốn: Gia đình ông. Chắc chắn rồi, ông phải làm bất cứ điều gì có thể để chu cấp cho họ. Nếu điều đó có nghĩa là gia nhập Đảng, ông gia nhập Đảng.

      Điểm năm: Đâu đó sâu thẳm bên trong, ông có chỗ ngứa ngáy khó chịu nơi trái tim, nhưng ông quyết định gãi cái chỗ ngứa ấy. Ông sợ thứ bị rò rỉ ra ngoài.


      Họ qua vài góc phố, đến phố Thiên Đàng, và Alex , “Con trai, con thể trát than đen kịt lên người và chạy lòng vòng ngoài đường như vậy được, chưa?”

      Rudy lắng nghe, và cảm thấy bối rối. Mặt trăng sắp lặn, cái tinh cầu ấy cứ tự do chuyển động, trồi lên, lặn xuống rồi từng giọt sóng sánh vàng lên mặt thằng bé, khiến gương mặt ấy trở nên đẹp mà cũng u ám, giống như những suy nghĩ trong đầu nó vậy. “Tại sao vậy hở Bố?”

      “Vì họ bắt con mất.”

      “Tại sao ạ?”

      “Vì con nên muốn trở thành người da đen hay người Do Thái hay bất cứ ai phải là…chúng ta.”

      “Những người Do Thái là ai?”

      “Con có biết khách hàng già nhất của ta, ông Kaufman ? Chỗ mà chúng ta mua đôi giày cho con ấy?”

      “Có ạ.”

      “Ừ, ông ta là người Do Thái đấy.”

      “Con biết điều đó. Người ta có phải trả tiền để được làm người Do Thái ? Người ta có cần bằng chứng nhận gì ạ?”

      , Rudy ạ.” Ông Steiner dắt chiếc xe đạp bằng tay còn tay kia dắt Rudy. Nhưng ông lại gặp rắc rối trong việc dẫn dắt cuộc đối thoại này. Bàn tay ông vẫn chưa buông ra khỏi dái tai của thằng bé. Ông quên khuấy mất. “Cũng giống như việc con là người Đức, hay là tín đồ của Thiên chúa vậy.”

      “Ơ. Thế Jesse Owens có phải là tín đồ của Thiên chúa ?”

      “Ta biết!” Ông vấp phải bên bàn đạp của chiếc xe và thả tai thằng bé ra.

      Họ bước trong im lặng suốt vài phút, cho đến khi Rudy , “Con chỉ ước mình được như Jesse Owens, Bố ạ.”

      Lần này, ông Steiner đặt tay lên đầu Rudy và giảng giải, Bố biết, con trai ạ - nhưng con có mái tóc vàng đẹp và đôi mắt to xanh biếc an toàn. Con nên hạnh phúc với điều ấy, chưa?”

      Nhưng chẳng có gì ràng cả.

      Rudy chẳng hiểu gì hết, và đêm đó là khúc mở màn cho những việc xảy đến trong tương lai. Hai năm rưỡi sau hiệu giày Kaufman chỉ còn là đống kính vỡ nát và tất cả giày đều được ném lên chiếc xe tải trong tình trạng còn nguyên hộp.



      MẶT KIA CỬA TỜ GIẤY NHÁM


      Con người có những khoảnh khắc quyết định trong đời, tôi cho là vậy, đặc biệt khi họ còn là những đứa trẻ. Với vài đứa đó là Biến cố Jesse Owens. Với số khác đó là lúc chúng bị kích động đến độ tè ra giường.

      Khi đó là cuối tháng Năm, năm 1939, và đêm ấy cũng giống như hầu hết các đêm khác. Mẹ dứ dứ nắm đấm thép của bà. Bố vắng. Liesel ra ngoài chùi sạch cửa rồi ngắm nhìn bầu trời phố Thiên Đàng.

      Trước đó, cuộc diễu hành.

      Những thành viên cực đoan vận đồ nâu của NSDAP (còn được biết đến với tên gọi Đảng Quốc xã) diễu hành phố Munich, những tấm biểu ngữ tung bay ngạo nghễ, những khuôn mặt ghếch cao, cứ như thể chúng được dùng que chống lên vậy. Giọng họ ngập tràn lời ca tiếng hát, và lên đến cao trào bằng tiếng gầm rất kệch cỡm câu Deutschland uber Alles. Nước Đức là bá chủ.

      Như thường lệ, họ vỗ tay.

      Họ cứ tiến bước như thế về nơi vô định.

      Người ta đứng phố và ngắm nhìn đoàn diễu hành, vài người thẳng tay chào, những người khác vỗ tay đến rát bỏng cả lên. Cũng có vài người mang vẻ mặt méo xệch vì kiêu hãnh và dương dương tự đắc như mụ Diller, và rải rác những người còn lại, như Alex Steiner chẳng hạn, ông ta đứng đó như khúc gỗ tạc hình người, vỗ tay chậm chạp và đầy miễn cưỡng. Và điều này mới đẹp làm sao. Đó chính là phục tùng.

      Liesel đứng cùng với bố nó và Rudy vỉa hè. Các cơ mặt Hans Hubermann như bị chảy xệ xuống.


      VÀI SỐ LIỆU ĐẦY Ý NGHĨA

      Kể từ năm 1933, chín mươi phần trăm người Đức bày tỏ ủng hộ do dự đối với Adolf Hitler.

      Có nghĩa là còn lại mười phần trăm người ủng hộ.

      Hans Hubermann là trong số mười phần trăm ấy.

      lý do giải thích cho việc này.


      Đêm hôm đó, Liesel mơ như nó vẫn thường mơ. Trước tiên nó mơ thấy cuộc diễu hành của những chiếc áo màu nâu, nhưng lâu sau chúng dẫn dắt con bé đến chỗ đoàn tàu, và cái khám phá thường lệ chờ đợi nó. Em trai nó lại nhìn trừng trừng xuống sàn.

      Khi nó tỉnh dậy và la hét, lập tức Liesel nhận ra rằng lần này có cái gì đó khang khác. mùi tỏa ra từ bên dưới tấm vải trải giường của nó, ấm và hơi tanh. Trước hết, nó cố gắng tự thuyết phục bản thân rằng chẳng có gì xảy ra cả, nhưng khi Bố tiến đến gần hơn và ôm lấy nó, nó bật khóc và thú nhận vào tai ông.

      “Bố ơi,” nó thầm , “Bố ơi,” và chỉ có vậy thôi. Ông ngửi được cái mùi ấy rồi.

      Ông nhàng nhấc nó ra khỏi giường rồi mang nó vào phòng rửa. Việc này xảy ra sau đó vài phút.

      Chúng ta lột tấm vải trải giường ra,” Bố , và khi ông luồn tay xuống dưới và kéo tấm vải lên, có thứ gì đó rơi ra và đập xuống đất đánh “thịch” . Vật bị rơi ra ấy là quyển sách màu đen có bìa in chữ bạc, nó nằm ngay giữa đôi bàn chân của người đàn ông cao lớn ấy.

      Ông nhìn xuống quyển sách.

      Ông nhìn đứa bé , lúc này e dè so vai.

      Rồi ông tập trung và đọc thành tiếng nhan đề quyển sách:

      “Sách hướng dẫn của phu đào huyệt”

      Vậy ra tên sách là như thế, Liesel nghĩ thầm.

      Giữa họ khi ẩy như có bức tường câm lặng chắn ngang qua.. Người đàn ông, đứa bé , quyển sách. Ông nhặt quyển sách lên và , giọng nhàng như vải bông vậy.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CUỘC ĐỐI THOẠI LÚC 2 GIỜ SÁNG

      “Của con đây à?”

      “Vâng, thưa Bố.”

      “Con có muốn đọc nó ?”

      Lại “Vâng, thưa Bố.”

      nụ cười mệt mỏi. Đôi mắt kim loại tan chảy.

      “Tốt hơn là ta nên đọc nó sau.”


      Bốn năm sau, khi con bé bắt đầu viết trong căn hầm dưới nhà, hai ý nghĩ nảy ra trong đầu Liesel về ý nghĩa của việc tè ra giường ấy. Trước hết, nó cảm thấy vô cùng may mắn khi người phát ra quyển sách là Bố. (May thay, khi tấm vải trải giường được giặt xong từ trước đó, Rosa bắt Liesel lột trần cái giường ra và dọn dẹp lần nữa. “Và hãy nhanh lên, đồ con lợn! Mày tưởng ta có cả ngày để làm việc này đấy à?”) Thứ hai, nó ràng là rất tự hào về vai trò của Hans Hubermann trong việc học hành của mình. Bạn nghĩ thế đâu, nó viết, nhưng trường lớp chả giúp được gì nhiều trong việc tôi biết đọc. Mà người đó chính là Bố. Người ta cho rằng ông được khôn ngoan lắm, và đúng là ông đọc được nhanh, nhưng tôi sớm biết rằng chính những từ ngữ và chữ viết từng cứu sống ông lần. Hay ít nhất, là những từ ngữ và người dạy ông chơi đàn xếp...

      “Việc gì quan trọng nhất làm trước,” đêm hôm ấy Hans Huber- mann như thế. Ông giặt tấm vải trải giường và phơi nó lên. “Bây giờ,” ông khi quay lại với con bé. “Hãy bắt đầu lớp học lúc nửa đêm này nào.”

      Bóng đèn vàng đầy bụi được bật sáng.

      Liesel ngồi lớp vải trải giường sạch và lạnh lẽo, đắm chìm trong xấu hổ, nhưng cũng vô cùng hân hoan. Ý nghĩ về việc trót tè dầm khiến nó ngượng, nhưng nó biết đọc. Nó đọc được quyển sách.

      Niềm phấn khích trào dâng trong lòng nó.

      Những viễn cảnh về thiên tài đọc sách mười tuổi đươc thắp bừng lên.

      Nhưng giá như việc này diễn ra dễ dàng.

      với con nhé,” Bố ngay từ đầu, “Bố đọc cũng được tốt lắm đâu.”

      Nhưng việc ông đọc khá chậm cũng chẳng hề chi. Gì gì biết đâu việc ông đọc chậm còn có ích nữa là khác. Có thể nó khiến ông đỡ phiền muộn hơn khi phải đối mặt với kỹ năng đọc sách tệ hại của con bé.

      Dù vậy, lúc đầu có vẻ như Hans vẫn được thoải mái cho lắm lúc ông cầm lấy quyển sách và đọc lướt qua nó.

      Khi ông tiến đến và ngồi xuống giường cạnh con bé, ông ngả người ra đằng sau, đôi cẳng chân duỗi nghiêng theo chiều dài cái giường. Ông kiểm tra lại quyển sách lần nữa và thả nó xuống tấm chăn. “Tại sao đứa bé đáng như con lại muốn đọc thứ như thế này cơ chứ?”

      lần nữa, Liesel nhún vai. Giá như người phu đào huyệt tập nọ đọc tất cả các tác phẩm của Goethe hay bất cứ danh nhân nào khác tầm cỡ như vậy, đó mới là cái nên xuất trước mặt họ. Con bé cố gắng giải thích. “Con - khi mà…quyển sách ngập trong tuyết, và - những từ ngữ được thốt ra nhàng và cứ lần lượt rơi khỏi cạnh giường, rồi trút sạch xuống sàn nhà như bột vậy.

      Dù vậy, Bố vẫn biết phải gì. Ông luôn biết mình phải gì.

      Ông luồn tay vào mớ tóc ngái ngủ của mình và vuốt ngược chúng lên, rồi , “Hãy hứa với bố chuyện, Liesel. Nếu bố có chết sớm, con phải bảo đảm rằng họ chôn cất bố đúng cách đấy nhé.”

      Con bé gật đầu, với chân thành tột bực.

      được bỏ qua Chương Sáu, hay mục thứ Tư trong Chương Chín đấy nhé.” Ông cười, và đứa bé tè dầm cũng cười theo. “Bố mừng là mọi việc đâu vào đấy. Giờ chúng ta có thể bắt đầu đọc quyển sách này được rồi.”

      Ông chỉnh lại tư thế ngồi, xương ông kêu răng rắc như những tấm ván sàn cũ kỹ. “Cuộc vui bắt đầu.”

      Được khuếch đại bởi tĩnh lặng của màn đêm, quyển sách mở ra - kèm cơn gió mạnh.

      ***

      Khi nhớ lại, Liesel có thể chính xác bố nó nghĩ điều gì lúc ông lướt qua trang đầu tiên của quyển Sách hướng dẫn của phu đào huyệt. Khi nhận thức được độ khó của quyển sách, ông hiểu rất ràng rằng thứ như thế này khó có thể trở thành quyển sách tập đọc lý tưởng được. Nó có những từ ngữ mà ngay cả ông cũng thấy khó khăn với chúng. Ấy là chưa đến lành mạnh của chủ đề quyển sách. Phần đứa bé , có khao khát bất chợt được đọc nó mà con bé thậm chí còn thèm cố tìm hiểu nguyên do. Ở mức độ nào đó, có lẽ nó muốn chắc chắn rằng em trai nó được chôn cất đúng cách. Dù lý do ấy có là gì nữa, khao khát được đọc quyển sách của nó cũng mạnh mẽ như bất kỳ con người mười tuổi nào có thể trải nghiệm được.

      Chương có tên là “Bước đầu tiên: Chọn công cụ phù hợp.” Với đoạn giới thiệu ngắn, nó tóm tắt nội dung của hai mươi trang tiếp theo. Những loại xẻng, cuốc chim, găng tay và vân vân được ghi cụ thể thành từng món, cũng như cần thiết phải bảo dưỡng chúng đúng cách. Việc đào huyệt này hoàn toàn nghiêm túc đây.

      Khi Bố lật qua các trang sách, hẳn ông có thể cảm thấy đôi mắt của Liesel chăm chú nhìn mình. Chúng như lồi ra và chờ đợi cái gì đó, bất cứ cái gì, tuôn ra từ khóe môi ông.

      “Đây.” Ông lại đổi tư thế và đưa con bé quyển sách. “Hãy nhìn vào trang này và cho bố nghe xem con có thể đọc được bao nhiêu từ.”

      Con bé nhìn trang sách - và dối.

      “Khoảng nữa.”

      “Đọc vài từ cho bố nghe xem nào,” nhưng dĩ nhiên là con bé thể đọc được. Khi ông bắt nó chỉ ra bất cứ từ nào nó có thể đọc và thực được, và chỉ có ba từ - ba từ quan trọng trong tiếng Đức có nghĩa là “cái”. Cả trang sách ấy hẳn phải có đến hai trăm từ như thế.

      Việc này khó khăn hơn là ta tưởng đây.

      Con bé bắt quả tang bố nó nghĩ như thế, chỉ trong khoảnh khắc thôi.

      Ông ngồi lên, đứng dậy và lại ra ngoài.

      Lần này khi quay lại, ông , “Thực ra, bố có ý này hay hơn.” Trong tay ông là cây cọ sơn dày và tệp giấy nhám. “Hãy bắt đầu từ vạch xuất phát.” Liesel thấy có lý do nào để tranh cãi với ông cả.

      Ở góc bên trái của tờ giấy nhám lật ngược lại, ông vẽ hình vuông cạnh chừng hơn hai phân, rồi viết chữ A hoa vào bên trong hình vuông đó. Ở góc bên kia, ông viết chữ a thường. Cho đến lúc này mọi việc vẫn tốt đẹp.

      “A,” Liesel . “A cho chữ gì?”

      Con bé nhoẻn cười. “Apfel”(Tiếng Đức có nghĩa là “quả táo”.)

      Ông viết từ đó ra với những chữ cái rất to và vẽ quả táo méo mó bên dưới. Dù gì ông cũng chỉ là thợ sơn nhà, chứ phải họa sĩ. Khi vẽ xong, ông nhìn lên và , “Bây giờ đến chữ B.”

      Khi họ cứ tiếp tục như thế đến hết bảng chữ cái, đôi mắt của Liesel mở to dần. Nó làm việc này ở trường, trong lớp mẫu giáo, nhưng lần này quả thực là vui hơn nhiều. Nó là học sinh duy nhất ở đó, và nó to quá khổ. vui khi ngắm bàn tay của Bố lúc ông viết những từ ngữ ra và chầm chậm hoàn thành những bản phác họa thô sơ của mình.

      “Ôi, xem nào, Liesel,” ông kêu lên khi con bé nhún vai sau đó. “ từ gì đó bắt đầu bằng chữ S. Dễ thôi mà. Con làm bố thất vọng quá đấy.”

      Con bé thể nghĩ ra được từ nào như thế cả.

      “Động não xem nào!” Tiếng thầm của ông như đùa cợt với con bé. “Thử nghĩ về Mẹ xem.”

      Đó là lúc mà từ ấy xuất như cái tát thẳng vào mặt nó. nụ cười toe toét như phản chiếu lại lời Bố . “SAUMENSCH!” con bé hét to, và Bố phá lên cười, sau đó lại im lặng.

      “Suỵt, chúng ta phải giữ yên lặng.” Nhưng ông vẫn phá lên cười và viết từ đó ra, hoàn tất nó với trong những bức phác họa của mình.


      TÁC PHẨM NGHỆ THUẬT ĐlỂN HÌNH

      CỦA HANS HUBERMANN


      “Bố ơi!” con bé thào. “Con có mắt!”



      Ông vuốt tóc nó. Con bé rơi vào cái bẫy ông giăng ra. “Với nụ cười như thế,” Hans Hubermann , “con cần cặp mắt nào đâu.” Ông ôm lấy nó, rồi lại nhìn vào bức tranh, khuôn mặt ngập tràn màu bạc ấm áp. “Bây giờ đến chữ T.”

      Khi họ hoàn tất bảng chữ cái, và nghiên cứu nó đến hơn chục lần, Bố mới ngả người ra đằng sau rồi , “Đêm nay thế là đủ rồi đấy nhỉ?”

      “Thêm vài từ nữa thôi Bố nhé?”

      Ông tỏ ra dứt khoát. “Thế là đủ rồi. Khi con thức dậy, bố chơi đàn cho con nghe.”

      “Cảm ơn Bố.”

      “Ngủ ngon nhé.” tiếng cười câm lặng chỉ có tiết bật ra. “Ngủ ngon nhé, đồ con lợn.”

      “Chúc Bô ngủ ngon.”

      Ông tắt đèn, quay lại và ngồi xuống ghế. Trong bóng tối, đôi mắt của Liesel vẫn mở thao láo. Nó ngắm nhìn những từ ngữ.



      MÙI CỦA TÌNH BẠN


      Việc này tiếp tục tái diễn.

      Trong vài tuần kế tiếp, đến tận mùa hè, lớp học lúc nửa đêm ấy luôn được bắt đầu mỗi khi cơn ác mộng chấm dứt. Thêm hai vụ tè dầm nữa xảy ra, nhưng Hans Hubermann chỉ đơn giản là lặp lại hành động dọn dẹp quả cảm trước đây của ông, và tiếp tục đọc từ, phác họa rồi đọc lại từ ấy. Khi trời tang tảng sáng, những tiếng thầm của hai bố con cũng vang rất to.

      Vào ngày thứ Năm nọ, lúc ba giờ sáng, Mẹ bảo Liesel chuẩn bị cùng bà giao vài món đồ giặt ủi xong. Bố lại có ý khác.

      Ông bước vào căn bếp và , “Xin lỗi mẹ nó nhé, hôm nay con bé với bà được đâu.”

      Mẹ thậm chí còn thèm nhìn lên khỏi túi đựng đồ giặt. “Ai hỏi đến ông mà lắm mồm thế hử, đồ lỗ đít? nào, Liesel.”

      “Con bé tập đọc với tôi,” ông . Bố cười với Liesel cái như để trấn an nó, kèm theo cái nháy mắt. “Tôi dạy nó đọc. Chúng tôi ra bờ sông Amper - chỗ thượng nguồn, nơi tôi từng tập chơi đàn xếp.”

      Giờ ông thu hút được chú ý của bà.

      Mẹ đặt túi đồ giặt lên bàn rồi điều chỉnh giọng của mình đến mức độ giễu cợt phù hợp. “Ông cái gì kia?”

      “Tôi nghĩ là bà nghe thấy rồi đó, Rosa à.”

      Mẹ phá lên cười. “Ông dạy cho nó được cái quái gì cơ chứ?” nụ cười toe toét và nhàu nhĩ như giấy các-tông ra gương mặt bà. Từ ngữ túa ra xối xả như những cú đâm móc từ dưới lên. “Làm như ông đọc thông viết thạo lắm ấy, đồ con lợn.”

      Căn bếp lại chìm trong im lặng của chờ đợi. Bố trả đòn. “Hai bố con tôi giao đống đồ giặt ủi cho bà.”

      “Cái đồ lợn hôi...” Mẹ ngừng lại nửa chừng. Những từ ngữ lúng búng trong miệng bà, trong lúc bà cân nhắc lại tình thế. “Hãy về trước khi trời tối đấy.”

      “Chúng con cũng đâu có đọc được lúc trời tối đâu Mẹ,” Liesel .

      “Gì kia, đồ lợn?”

      “ Có gì đâu Mẹ”.

      Bố toét miệng cười và chỉ đứa bé . “Sách, giấy nhám, bút chì,” ông ra lệnh cho nó, “và đừng quên cây đàn xếp!”, lúc này con bé biến rồi. lâu sau, hai bố con sải bước phố Thiên Đàng, mang theo những từ ngữ, nhạc, và đống đồ giặt.

      Khi họ đến chỗ cửa hàng của mụ Diller, cả hai quay lại vài lần xem liệu Mẹ có còn đứng ở cổng và dõi theo họ hay . Bà vẫn ở đó. Có lúc bà còn gọi với theo, “Liesel, hãy giữ đám đồ ủi cho thẳng thớm! Đừng để chúng bị nhàu, nghe chưa!”

      “Vâng, thưa Mẹ!”

      Con bé được vài bước lại nghe: “Liesel, mày vẫn mặc đủ ấm đấy chứ?!”

      “Mẹ gì cơ ạ?”

      “Cái đồ lợn hôi hám bẩn thỉu này, mày chẳng bao giờ nghe thủng được câu nào à! Mày vẫn mặc đủ ấm đấy chứ? Trời có thể trở lạnh đấy!”

      Ở góc đường, Bố khom người xuống để buộc lại dây giày. “Liesel,” ông hỏi, “con có thể vấn cho bố điếu thuốc chứ?”

      Điều này mang đến cho con bé niềm hạnh phúc khôn tả.

      Khi đám đồ giặt ủi được bàn giao xong, hai bố con quay về sông Amper, con sông chạy sát sườn thành phố. Nó cứ hờ hững trôi như thế, về hướng trại tập trung Dachau.

      cây cầu làm bằng những mảnh ván gỗ bắc ngang qua sông.

      Hai bố con ngồi cách cây cầu ấy chừng ba mươi mét, bãi cỏ, viết những từ mới ra giấy rồi đọc to chúng lên thành tiếng, và khi trời nhá nhem tối, Hans lôi cây đàn xếp ra chơi. Liesel ngắm nhìn ông và lắng nghe tiếng đàn, dù khi đó con bé nhận thấy ngay vẻ lúng túng khó hiểu gương mặt Bố, lúc ông chơi đàn vào buổi chiều hôm đó.


      GƯƠNG MẶT CỦA BỐ

      Nó dạo vòng quanh và tự vấn,

      Nhưng chẳng tìm thấy câu trả lời nào cả.

      Đúng hơn là chưa tìm thấy câu trả lời nào cả.


      thay đổi nơi ông. chuyển biến tinh vi.

      Con bé có nhìn thấy, nhưng nhận thức được điều đó cho đến mãi sau này, lúc mọi việc ăn khớp với nhau. Nó thấy ông cứ nhìn xa xăm khi chơi đàn, mà hề biết rằng chứa bên dưới cây đàn xếp của Hans Hubermann là cả câu chuyện dài. Thời gian tới, câu chuyện ấy đến nhà số 33 phố Thiên Đàng lúc trời vừa tảng sáng, mặc áo vét mỏng tang và vai có diềm xếp. Nó mang theo cái vali, quyển sách, và hai câu hỏi. câu chuyện. Chuyện này nối tiếp chuyện kia. Chuyện này lồng vào chuyện kia.

      Bây giờ, Liesel chỉ quan tâm đến thứ, và con bé tận hưởng điều đó.

      Nó nằm ngả lưng xuống bãi cỏ, những ngọn cỏ như vươn tay ra mời gọi.

      Con bé nhắm mắt lại, tai nó lắng nghe tiếng nhạc.

      Dĩ nhiên, cũng có vài rắc rối. Có những lúc mà gần như Bố hét lên với nó. “Coi nào, Liesel,” ông . “Con biết từ này mà, con biết mà!” Ngay lúc mọi việc diễn ra trôi chảy, làm thế nào đó mà chúng lại mắc kẹt vào nhau.

      Khi trời đẹp, hai bố con đến Amper vào buổi chiều. Lúc thời tiết xấu chỗ tập đọc của họ là dưới tầng hầm. Điều này chủ yếu phụ thuộc vào Mẹ. Ban đầu, họ thử học trong nhà bếp, nhưng việc này là bất khả thi.

      “Rosa,” lần nọ Hans với bà. Những từ ngữ của ông thầm lặng cắt ngang trong những câu của bà. “Bà có thể làm giúp tôi việc được ?”

      Mẹ nhìn lên từ chỗ bếp lò. “Cái gì chứ?”

      “Tôi đề nghị bà. Tôi xin bà, bà có thể vui lòng câm mồm lại, dù chỉ trong vòng năm phút thôi được ?”

      Bạn có thể tưởng tượng được phản ứng của Mẹ thế nào rồi đấy.

      Rốt cuộc hai bố con lại phải chui xuống tầng hầm.

      Ở đó có ánh sáng, thế nên họ phải thắp cái đèn dầu lên, và dần dần, giữa trường học và nhà, từ bờ sông đến tầng hầm, từ những ngày đẹp trời cho đến những ngày u ám, Liesel học đọc và viết.

      lâu nữa đâu,” Bố với nó, “thậm chí nhắm mắt con cũng có thể đọc được cái quyển sách kinh khủng về đám huyệt mộ ấy.”

      “Và con thoát khỏi cái lớp học dành cho bọn người lùn đó.”

      Con bé những từ này với giọng điệu khẳng định quyền sở hữu đầy cay nghiệt.

      Vào trong những buổi học dưới tầng hầm của hai người, Bố dẹp đám giấy nhám sang bên (giấy hết rất nhanh) và lôi ra cây cọ sơn. Nhà Hubermann có món đồ xa xỉ nào, nhưng lại rất thừa sơn, và nó trở nên vô cùng hữu ích cho việc học tập của con bé. Bố phát từ ra và con bé phải đánh vần từ đó thành tiếng, rồi sau đó viết bằng sơn lên tường, cho đến khi nó làm đúng thôi. Sau tháng, bức tường này được sơn lại. trang giấy bằng bê-tông mới tinh.

      Có những đêm, sau khi buổi học dưới tầng hầm kết thúc, Liesel ngồi trong nhà tắm và nghe những lời bình luận quen thuộc vọng ra từ căn bếp.

      “Ông thối quá,” Mẹ với Hans. “Như mùi thuốc lá và dầu hỏa ấy.”

      Vừa ngồi ngập trong nước, con bé vừa tưởng tượng ra thứ mùi tỏa ra từ quần áo bố nuôi nó. Hơn hết, đó là mùi của tình bạn, và nó cũng có thể ngửi thấy cái mùi ấy người mình. Liesel cái mùi đó. Con bé thường hít ngửi cánh tay mình, trong lúc làn nước mát cứ bồng bềnh xung quanh.


      NHÀ VÔ ĐỊCH HẠNG NẶNG SÂN TRƯỜNG


      Mùa hè năm 1939 trôi qua rất vội vàng, hay cũng có thể là Liesel vội vàng. Con bé dành thời gian của mình để chơi bóng cùng Rudy và những đứa trẻ khác phố Thiên Đàng (đây quả thực là trò tiêu khiển quanh năm suốt tháng), mang đồ giặt ủi lòng vòng thị trấn với Mẹ, và học thêm những từ ngữ mới. Dường như mùa hè chỉ kéo dài được vài ngày rồi chấm dứt ngay vậy.

      Vào cuối năm ấy, có hai việc xảy ra.


      TỪ THÁNG CHÍN ĐẾN THÁNG MƯỜI , 1939

      1. Thế chiến II bùng nổ.

      2. Liesel Meminger trở thành nhà

      vô địch hạng nặng sân trường.


      Hôm ấy là ngày mát mẻ ở Molching, cái ngày mà cuộc chiến nổ ra và khối lượng công việc của tôi tăng lên.

      Cả thế giới về việc này chán chê rồi.

      Báo chí chè chén no nê với nó rồi.

      Giọng của Quốc trưởng gầm lên những đài phát thanh Đức. Chúng ta bỏ cuộc. Chúng ta ngừng nghỉ. Chúng ta chiến thắng. Thời của dân ta tới rồi.

      Cuộc xâm lăng của người Đức lên đất nước Ba Lan bắt đầu, và đâu đâu người ta cũng đều tập trung lại để lắng nghe tin tức về kiện này. Phố Munich, như mọi con phố lớn khác của Đức, trở nên sống động với chiến tranh. Mùi, giọng . Chế độ phân phối bắt đầu từ vài ngày trước đó - ban đầu chỉ là những dòng chữ tường - bây giờ việc này thành chính thức. và Pháp thể quan điểm của mình về nước Đức. Tôi muốn thuổng câu của Hans Hubermann để về tình cảnh lúc ấy: “Trò vui bắt đầu rồi đây.”

      Ngày công bố điều này, Bố gặp may và được người ta thuê làm việc vặt. đường về nhà, ông nhặt được tờ báo bị ai đó vứt , và thay vì dừng lại để nhét nó vào giữa những thùng sơn chiếc xe đẩy của mình, ông gấp nó lại và luồn nó xuống dưới áo. Lúc ông về đến nhà và cởi áo ra, mồ hôi làm nhòe hết mực in của tờ báo lên da ông. Tờ báo dược đặt xuống mặt bàn, nhưng tin tức tờ báo ấy cứ như được đóng dấu lên ngực ông vậy. hình xăm. Vẫn phanh áo ra, ông nhìn xuống cái hình xăm ấy, trong ánh sáng nhờ nhờ của đèn bếp.

      “Nó gì vậy?” Liesel hỏi ông. Con bé hết nhìn những đường nét màu đen da ông rồi lại nhìn tờ báo mặt bàn.

      “Hitler chiếm được Ba Lan,” ông trả lời, và Hans Hubermann ngồi sụp xuống cái ghế. “Deutschland, uber alles”, ông thầm, giọng hề có vẻ nước chút nào.

      Khuôn mặt ấy lại xuất - khuôn mặt như cây đàn xếp của ông lại xuất .

      Vậy là cuộc chiến bùng nổ.

      Và Liesel sớm rơi vào cuộc chiến khác.

      Gần tháng sau khi học lại, con bé được chuyển lên lớp đúng độ tuổi của nó. Có thể bạn nghĩ rằng việc này là do kỹ năng đọc của con bé được cải thiện, nhưng thực ra phải như vậy. Mặc cho những tiến bộ, con bé vẫn gặp rất nhiều khó khăn trong việc đọc. Những câu chữ vương vãi khắp nơi. Những từ ngữ đánh lừa nó. Lý do nó được lên lớp liên quan nhiều hơn đến việc nó trở nên rất lắm chuyện trong lớp dành cho những đứa hơn. Nó trả lời các câu hỏi được chỉ định cho đứa khác. Có vài lần, nó được ban cho thứ được biết đến với cái tên Watschen (đọc là “va-chen”) trong hành lang.


      ĐỊNH NGHĨA

      Watschen = trận đòn


      Nó bị gọi đứng dậy, tống vào cái ghế nơi góc lớp, rồi giáo - người đồng thời cũng là bà xơ - bảo nó hãy ngồi yên đấy và ngậm miệng lại. Ở đầu bên kia của lớp học, Rudy nhìn con bé và vẫy tay. Liesel vẫy tay đáp lại, cố gắng toét miệng cười.

      n

      n

      Ở nhà, con bé vẫn say mê đọc quyển Sách hướng dẫn của phu đào huyệt với Bố. Họ thường khoanh tròn những từ mà Liesel hiểu, rồi mang nó xuống tầng hầm vào ngày hôm sau. Con bé nghĩ như thế là đủ rồi. Nhưng như thế vẫn đủ.

      Khoảng đầu tháng Mười , người ta tổ chức vài kỳ kiểm tra tiến độ học tập ở trường. trong số này là phần kiểm tra môn tập đọc. Mỗi học sinh đều phải đứng trước lớp và đọc đoạn văn mà giáo viên chỉ định. Ngày hôm ấy là buổi sáng đầy sương giá, nhưng ánh mặt trời vẫn tỏa rạng. Bọn trẻ con nheo tịt mắt lại. vầng hào quang bao quanh vị nữ tu dữ như thần chết cầm lưỡi hái tên là Xơ Maria ấy. (Nhân tiện luôn - tôi rất thích ý tưởng về ông thần chết cầm lưỡi hái. Tôi thích cái lưỡi hái. Nó khiến tôi thấy vui vui.)

      Trong lớp học ngập tràn ánh nắng hôm ấy, những cái tên được phát ra cách ngẫu nhiên, như tiếng mưa rơi: “Waldenheim, Lehman, Steiner.”

      Tất cả đều đứng dậy và đọc, tất cả đều thuộc vào những cấp độ khác nhau. Rudy đọc lưu loát đến mức đáng ngạc nhiên.

      Trong suốt thời gian diễn ra đợt kiểm tra, Liesel ngồi đó với hỗn hợp gồm đề phòng nóng nực và nỗi sợ hãi dằn vặt đau đớn. Con bé rất muốn kiểm tra trình độ của mình, để nhận ra lần và mãi mãi việc học hành của mình tiến bộ đến đâu. Liệu nó có đủ sức làm điều này ? Thậm chí, liệu nó có thể đạt đến gần trình độ của Rudy và những đứa còn lại hay ?

      Mỗi lần Xơ Maria nhìn vào bản danh sách của mình, sợi dây bồn chồn lo lắng như xiết chặt lấy những chiếc xương sườn của Liesel. Cơn đau bắt đầu ở bụng, nhưng sau đó dồn lên . lâu nữa nó thít chặt quanh cổ con bé, sợi dây to đùng như dây thừng vậy.

      Khi Tommy Muller kết thúc phần đọc xoàng xĩnh của mình, con bé nhìn quanh phòng. Mọi người đều đọc cả rồi. Nó là đứa duy nhất còn sót lại.

      “Rất tốt,” Xơ Maria gật đầu, xem kỹ lại bản danh sách. “Vậy là mọi người đều đọc xong rồi.”

      Cái gì kia?

      !”

      giọng gần như thình lình ra ở phía bên kia căn phòng. Kèm theo giọng ấy là thằng bé có mái tóc màu vàng chanh, và hai đầu gối xương xẩu được bọc trong quần dài của nó đương chọc vào mặt dưới bàn. Thằng bé giơ thẳng tay lên và , “Xơ Maria, con nghĩ là Xơ quên gọi Liesel lên đọc rồi.”

      Xơ Maria.

      có ấn tượng tốt đẹp lắm với việc này.

      Bà vứt xoạch tập hồ sơ của mình lên mặt bàn đằng trước, và nắn gân Rudy bằng phản đối ngầm qua ánh mắt. Ánh mắt ấy có vẻ gì đó gần như là u sầu. Tại sao, bà than vãn, mà bà lại phải chịu đựng Rudy Steiner cơ chứ? Thằng bé này thể câm mồm lại được. Tại sao, lạy Chúa, tại sao chứ?

      ,” bà , với vẻ dứt khoát kết thúc vấn đề. Cái bụng xíu chồm về phía trước cùng với phần còn lại của thân người bà. Ta sợ rằng Liesel thể làm được bài kiểm tra này đâu, Rudy. Bà giáo nhìn sang con bé, như để khẳng định lại lời mình . “Trò ấy đọc cho ta nghe sau.”

      Con bé hắng giọng và với bất tuân hết sức nhàng. “Con có thể đọc bây giờ, thưa Xơ.” Hầu hết những đứa trẻ trong lớp đều lặng thinh và quan sát. Vài đứa trong số chúng bật cười, tiếng cười khúc khích tuyệt đẹp của trẻ thơ.

      Việc này là quá sức chịu đựng của bà xơ. “, trò thể!... Trò làm cái gì vậy?”

      Lúc đó Liesel ra khỏi ghế của mình và chầm chậm bước ra trước cả lớp, dáng cứng đơ như khúc gỗ.

      Con bé nhặt quyển sách lên và giở trang ngẫu nhiên ra

      “Thôi được rồi,” Xơ Maria . “Em muốn đọc à? đọc .”

      “Vâng, thưa Xơ.” Sau cái liếc nhanh về phía Rudy, Liesel cụp mắt xuống và kiểm tra trang sách mà nó vừa mở ra.

      Khi con bé nhìn lên lần nữa, căn phòng như bị kéo dãn ra, rồi lại nén trở lại như cũ. Tất cả những đứa trẻ đều bị nghiền nát ngay trước mắt nó, và trong khoảnh khắc phi thường, nó tưởng tượng thấy mình đọc cả trang sách ấy mà hề mắc lỗi, lưu loát như phép màu.


      TỪ KHÓA

      Tưởng tượng


      “Coi nào, Liesel!”

      Rudy phá tan bầu khí im lặng.

      Kẻ trộm sách lại cúi xuống trang giấy dày đặc chữ.

      Máu nó chảy rần rật. Những câu chữ như nhòa .

      Trang giấy trắng bỗng như được viết bằng thứ ngôn ngữ khác, và những giọt lệ kiềm chế được bắt đầu ngân ngấn mắt con bé. Thậm chí nó còn nhìn thấy chữ được nữa.

      Và còn mặt trời nữa chứ. Cái mặt trời kinh khủng ấy. Nó tỏa ánh nắng thiêu đốt xuyên qua các ô cửa sổ - khắp nơi toàn kính là kính - và chiếu rọi thẳng vào con bé vô dụng ấy. Nắng thét vào mặt con bé. “Mày có thể ăn trộm quyển sách, nhưng mày đừng hòng đọc được quyển sách nào!”

      giải pháp lóe lên trong đầu Liesel.

      Hít vào rồi thở ra, con bé bắt đầu đọc, nhưng phải đọc quyển sách trước mặt nó. Đó là đoạn được trích từ Sách hướng dẫn của phu đào huyệt. Chương Ba: “Trong trường hợp có tuyết.” Con bé nhớ lại giọng Bố đọc đoạn ấy.

      “Trong trường hợp có tuyết,” nó bắt đầu , “bạn phải đảm bảo là mình dùng cái xẻng tốt. Bạn phải đào sâu, bạn thể lười biếng được. Bạn thể bỏ qua bước nào cả.” Con bé lại hít vào bụm khí lớn. “Dĩ nhiên, dễ dàng hơn nếu bạn chờ đến khi trời ấm lên, lúc mà...”

      Đủ rồi.

      Quyển sách bị giật ra khỏi tay nó, rồi bà xơ bảo nó, “Liesel, ra hành lang.”

      Lúc Liesel được ban cho cái Watschen nho như thế, nó có thể nghe thấy tiếng mọi người cười trong lớp học, giữa cánh tay chỉ ra ngoài của Xơ Maria. Nó nhìn bọn chúng. Tất cả những đứa trẻ bị nghiền nát ấy. Ban đầu chỉ là những nụ cười mỉm, rồi sau đó là cười phá lên thành tiếng. Tất cả đều cười, trừ Rudy.

      Vào giờ nghỉ giải lao, con bé bị mọi người chế giễu. thằng con trai tên là Ludwig Schmeikl đến chỗ nó với quyển sách trong tay. “Này, Liesel,” thằng này hỏi, “Tao gặp vấn đề với từ nay. May đọc nó hộ tao chứ?” Thăng bé cười - tiếng cười tự mãn của thằng nhóc lên mười “Dummkopf - đồ ngốc.”

      Những đám mây kéo tới, to tướng và thô kệch, và lại có thêm những đứa trẻ khác réo gọi tên nó, nhìn nó chăm chăm, khi nó sôi lên vì giận dữ.

      “Đừng nghe lời chúng nó,” Rudy khuyên.

      “Cậu dễ lắm, cậu có phải đồ ngu đâu.”

      Gần cuối giờ giải lao, những lời bình phẩm về nó lên đến con số mười chín. Đến lần thứ hai mươi nó chịu hết nổi. Lần này lại là Schmeikl. “Coi nào, Liesel.” Nó chọc chọc quyển sách dưới mũi con bé. “Mày giúp tao chứ?”

      Liesel giúp nó tới nơi tới chốn.

      Con bé đứng dậy và giật lấy quyển sách. Và trong lúc thằng kia cười cợt với mấy đứa khác đứng sau lưng, Liesel vứt quyển sách và đá cho thằng bé cú trời giáng vào ngay giữa háng.

      Như bạn có thể hình dung, Ludwig Schmeikl oằn người xuống, và khi oằn xuống như thế, nó bị tống quả vào mang tai. Khi nó lăn ra đất, nó bị ngồi đè lên. Khi nó bị ngồi đè lên, nó bị tát và cào cấu và hủy hoại bởi đứa con hoàn toàn mất trí vì phẫn nộ. Da của thằng bé ấm và mềm mại. Những đốt ngón tay của con bé lại cứng đến ghê người, mặc cho kích thước xíu của chúng. “Đồ lợn.” Ngay cả giọng của con bé cũng có thể làm thằng kia bị thương. “Đồ lỗ đít. Mày đánh vần từ Lỗ đít cho tao nghe xem nào?”

      Ôi, những đám mây loạng choạng và túm tụm lại bầu trời.

      Những đám mây béo ị.

      Xám xịt và phúng phình.

      Chúng va vào nhau. Xin lỗi nhau. Rồi lại tiếp tục trôi và tìm chỗ trống.

      Những đứa con nít kịp ở đó, nhanh như…chà, nhanh như những đứa trẻ đổ về trận đánh nhau vậy. đống hỗn độn những cánh tay và cẳng chân, những tiếng hò hét và cổ vũ, ngày càng phủ dày đặc xung quanh hai đứa. Chúng nhìn Liesel Meminger cho Ludwig Schmeikl trận đòn của cả đời người. “Lạy các đấng Jesus, Maria và Joseph,” đứa bé vừa vừa cau mày vẻ kinh tởm, “nó giết thằng kia mất!”

      Liesel giết nó.

      Nhưng con bé tiến rất gần đến việc ấy rồi.

      Thực ra, điều duy nhất ngăn nó lại hẳn là cái mặt nhăn nhó thảm hại cười toe toét của Tommy Muller. Vẫn còn phừng phừng lửa giận, Liesel bắt gặp Tommy nhăn nhở cười với vẻ ngu xuẩn để đâu cho hết, đến mức con bé lập tức đè cổ thằng này xuống và bắt đầu cho nó trận.

      “Mày làm cái gì vậy?!” thằng bé la hét thảm thiết, và chỉ sau cú tát thứ ba hay thứ tư, khi dòng máu đỏ tươi túa ra từ mũi thằng nhóc, con bé mới chịu dừng lại.

      Vừa quỳ gối, Liesel vừa đớp lấy những ngụm khí và lắng nghe tiếng rên rỉ bên dưới nó. Nó nhìn những gương mặt như cuộn xoáy lại với nhau, bên trái và bên phải nó, rồi dõng dạc tuyên bố, “Tao phải là đồ ngu.”

      ai lên tiếng cãi lại nó cả.

      Ngay lúc đó mọi người lại phải quay vào lớp học, và Xơ Maria nhận thấy ngay tình trạng sống dở chết dở của Ludwig Schmeikl, hậu quả của trận đòn nó vừa phải nhận. Đầu tiên, bà xơ kiểm tra Rudy và vài đứa khác, những đứa thường phải làm đối tượng nghi ngờ cho các vụ việc tương tự trước đây. Bọn này luôn bày trò đánh nhau. “Xòe tay ra,” bà bảo từng đứa nhưng tay của chúng đều rất sạch .

      “Ta thể tin nổi chuyện này,” Xơ Maria lẩm bẩm “ thể được,” và chắc rồi, khi Liesel bước lên phía trước và đưa tay ra, vết tích của Ludwig Schmeikl - khi đó bắt đầu phai màu - vẫn còn đầy rẫy đôi bàn tay nó. “Ra hành lang,” bà tuyên bố, lần thứ hai trong ngày hôm đó, thực ra là lần thứ hai trong cùng giờ đồng hồ.

      Lần này, nó phải là Watschen nho chút nào. Nó cũng phải là cái bình thường. Lần này đích thực là tổ mẹ của mọi cái Watschen nơi hành lang, hai lần liên tiếp bị ăn đòn đến nhói buốt, đến mức Liesel khó có thể ngồi xuống được trong suốt tuần. Và còn tiếng cười nào trong lơp học nữa. Thay vào đó là im lặng của nỗi sợ bị nghe thấy.

      Tan học, Liesel bộ về nhà với Rudy và những đứa trẻ nhà Steiner khac. Đến gần phố Thiên Đàng, trong dòng suy nghĩ vội vã, nỗi khốn khổ tột bực càn quét trong tâm trí nó - đọc lại cách ngớ ngẩn Sách hướng dẫn của phu đào huyệt, sụp đổ của gia đình nó, cơn ác mộng của nó, nỗi nhục nhã của ngày hôm đó – thế là nó ngồi thụp xuống rãnh nước và òa khóc. Tất cả đều dẫn tới chuyện này đây.

      Rudy đứng bên cạnh nó, nhìn xuống.

      Trời bắt đầu đổ mưa nặng hạt, cảnh tượng đẹp.

      Kurt Steiner cất tiếng gọi hai đứa, nhưng đứa nào nhúc nhích cả. đứa ngồi đó trong cơn đau đớn, giữa tiếng mưa rơi tí tách, còn đứa kia đứng bên cạnh và chờ đợi.

      “Tại sao thằng bé lại phải chết?” Liesel hỏi, dù vậy Rudy vẫn làm gì cả, gì cả.

      Sau cùng, khi con bé thôi khóc và tự mình đứng dậy thằng bé mới vòng tay qua người nó, theo đúng kiểu người bạn thân nhất, và chúng lại tiếp. có lời đề nghị cho cái hôn nào. có gì giống như thế cả. Bạn có thể mến Rudy vì điều này, nếu bạn muốn.

      Nhưng mà đừng có đá vào háng tôi đấy nhé.

      Đó chính là điều thằng bé nghĩ, nhưng nó với Liesel. Gần bốn năm sau nó mới tiết lộ thông tin ấy.

      Lúc này đây, Rudy và Liesel cùng về phố Thiên Đàng, trong cơn mưa.

      Thằng bé là đứa điên khùng trát than đen kịt khắp người mình và chiến thắng cả thế giới.

      Con bé là kẻ trộm sách nhưng trộm được chữ nghĩa.

      Tuy nhiên, hãy tin tôi , chữ nghĩa đường đến, và khi chúng đến, Liesel giữ chặt chúng trong tay mình như những đám mây, rồi vắt kiệt chúng ra như những như cơn mưa vậy.




      PHẦN HAI

      ***


      CÁI NHÚN VAI


      Gồm có:

      đứa bé được làm từ bóng tối - niềm vui của những điếu thuốc lá - người phố - những lá thư chết - sinh nhật của hitler - mồ hôi đứa thuần chủng - những cánh cổng của việc ăn trộm - và quyển sách của lửa



      ĐỨA BÉ ĐƯỢC LÀM TỪ BÓNG TỐI


      VÀI THÔNG TIN MANG TÍNH THỐNG KÊ

      Quyển sách lấy trộm đầu tiên: 13 tháng Giêng, 1939

      Quyển sách lấy trộm thứ hai: 20 tháng Tư, 1940

      Khoảng cách giữa hai quyển sách lấy trộm : 463 ngày


      Nếu thẳng ra, bạn cho rằng tất cả những gì con bé cần thực ra chỉ là chút lửa, cùng tiếng người la hét. Bạn rằng đó là tất cả những gì Liesel Meminger cần để hiểu được quyển sách thứ hai mà nó lấy trộm, ngay cả khi quyển sách ấy bốc khói nghi ngút trong tay nó. Ngay cả khi quyển sách ấy ninh chín xương sườn nó.

      Tuy nhiên, vấn đề là ở chỗ:

      Đây phải là lúc để huỵch toẹt ra như thế.

      Đây phải là lúc để len lén trông chừng, quay đầu lại hay kiểm tra bếp lò - vì khi kẻ trộm sách lấy trộm quyển sách thứ hai ấy, chỉ có rất nhiều yếu tố góp phần vào niềm khát khao được làm như vậy của con bé, mà hành động lấy cắp này khởi nguồn cho bước ngoặt then chốt của điều xảy đến sau này. Việc này dẫn dắt con bé đến nơi để tiếp tục ăn trộm các quyển sách khác. Nó truyền cảm hứng cho Hans Hubermann để ông ta có kế hoạch giúp tay đấm Do Thái. Và nó lại cho tôi thấy rằng, cơ hội dẫn dắt trực tiếp đến cơ hội khác, cũng như nguy cơ dẫn đến nhiều nguy cơ khác, lửa dẫn đến nhiều đám lửa khác, và cái chết dẫn đến nhiều cái chết khác.

      Theo cách nào đó đây chính là số phận.

      Bạn biết , người ta có thể với bạn rằng nước Đức Quốc xã được xây dựng nền tảng là tư tưởng bài Xê-mít, nhà lãnh đạo hăng hái thái quá, và đất nước của những niềm tin mù quáng được nuôi dưỡng bằng thù hận, nhưng cái đất nước này thành ra như thế nếu người Đức đặc biệt mê thích hành động - ấy là đốt cháy mọi thứ.

      Người Đức rất thích đốt. Cửa hàng, giáo đường Do Thái, nhà Quốc hội, nhà cửa, những vật dụng cá nhân, thây người chết, và dĩ nhiên là những quyển sách. Họ rất thích đốt sách - điều này mang đến cho những người sách cơ hội chạm tay vào những quyển sách mà bình thường họ có. người có khuynh hướng này, như chúng ta biết, là đứa bé mảnh khảnh tên là Liesel Meminger. Có thể nó phải đợi bốn trăm sáu mươi ba ngày, nhưng chờ đợi này là đáng giá. Vào cuối buổi chiều có rất nhiều nỗi phấn khích, nhiều điều xấu xa đẹp đẽ, mắt cá chân đẫm máu, và cái tát từ bàn tay mà nó vô cùng tin cậy, Liesel Meminger viết nên câu chuyện về thành công thứ hai của mình. Cái nhún vai. Đó là quyển sách màu xanh có chữ đỏ in nổi bìa, bức tranh vẽ chim cúc cu ngay bên dưới nhan đề sách, cũng màu đỏ. Khi nhớ lại, Liesel hề thấy xấu hổ vì ăn trộm quyển sách ấy. Trái lại, cảm giác quặn lên trong dạ dày nó khi ấy giống với tự hào hơn. Và chính cơn giận dữ và lòng thù hận đen tối của Liesel làm bùng lên khao khát ăn trộm quyển sách. Thực ra, vào ngày 20 tháng Tư - sinh nhật Quốc trưởng - lúc giật lấy quyển sách ấy từ bên dưới đống tro tàn vẫn còn nghi ngút khói, Liesel là đứa bé được làm từ bóng tối.

      Dĩ nhiên, câu hỏi được đặt ra ở đây là Tại Sao?

      Con bé giận dữ về chuyện gì?

      Điều gì xảy ra trong vòng bốn, năm tháng trước đó để cuối cùng bùng nổ thành cảm xúc như vậy?

      ngắn gọn, câu trả lời bắt nguồn từ phố Thiên Đàng, đến Quốc trưởng, cho đến cái vị trí xác định được của mẹ ruột nó, và lại quay lại từ đầu.

      Như hầu hết những nỗi khốn khổ khác, câu chuyện khởi đầu với niềm hạnh phúc ràng.



      NIỀM VUI CỦA NHỮNG ĐIẾU THUỐC LÁ


      Đến cuối năm 1939, Liesel hòa nhập khá tốt với cuộc sống ở Molching. Nó vẫn có những cơn ác mộng về em trai và nhớ mẹ ruột nó vô cùng, nhưng giờ đây nó cũng có cả cảm giác thoải mái, dễ chịu nữa.

      bố nuôi của mình, Hans Hubermann, và cả mẹ nuôi nó, dù bà hay bắt nó làm việc quá sức, thường xuyên đánh đập và xỉ vả nó. Nó mến và căm ghét người bạn thân nhất của nó, Rudy Steiner, và điều này là hoàn toàn bình thường. Và nó thực rằng mặc dầu nó học hành bết bát trong lớp, khả năng đọc và viết của nó ràng là được cải thiện và nhanh chóng đạt đến mức độ đáng tôn trọng, ít nhất là tất cả những điều này đều hình thành nên trạng thái hài lòng, và nhanh chóng dẫn đến khái niệm Hạnh phúc.


      NHỮNG CHÌA KHÓA MỞ RA CÁNH CỬA HẠNH PHÚC

      1. Hoàn thành quyển Sách hướng dẫn của phu đào huyệt.

      2. Thoát khỏi những cơn giận dữ của Xơ Maria.

      3. Nhận được hai quyển sách trong ngày lễ Giáng sinh.


      Ngày 17 tháng Mười hai.

      Con bé nhớ rất ngày hôm ấy, vì đó là đúng tuần trước ngày lễ Giáng sinh.

      Như thường lệ, cơn ác mộng hằng đêm làm gián đoạn giấc ngủ của nó, và nó được đánh thức dậy bởi Hans Hubermann.

      Bàn tay ông nắm lấy chiếc áo ngủ ướt đẫm mồ hôi của con bé. “Vẫn là đoàn tàu à?” ông thầm.

      Liesel khẳng định. “Vẫn là đoàn tàu.”

      Con bé thở hổn hển cho đến khi sẵn sàng, sau đó họ bắt đầu đọc từ chương Mười của quyển Sách hướng dẫn của phu đào huyệt. Đến hơn ba giờ sáng, họ đọc xong, và chỉ còn lại chương cuối cùng của quyển sách, chương “Hãy tỏ lòng tôn kính nghĩa trang”. Bố, với cặp mắt màu bạc lồi ra vì mệt mỏi, gấp sách và mong có được phần còn lại của giấc ngủ. Nhưng ông có được nó.

      Đèn chỉ vừa tắt được khoảng phút Liesel với ông trong bóng tối.

      “Bố ơi?”

      “Ja” (Có - tiếng Đức)

      Ông chỉ ậm ừ tiếng, thanh phát ra đâu dó từ trong cổ họng.

      “Bố còn thức vậy, Bố ơi?”

      Con bé chống khuỷu tay nhổm dậy, “Chúng ta hãy đọc nốt quyển sách được Bố, mà?”

      Có tiếng thở dài, tiếng bàn tay quẹt lạo xạo hàm râu quai nón, và sau đó đèn lại được bật sáng. Bố mở sách ra và bắt đầu. “Chương Mười hai: Hãy tỏ lòng tôn kính nghĩa trang.”

      Hai bố con đọc cho đến tận lúc trời gần sáng, khoanh tròn và viết ra những từ mà con bé hiểu, và lần giở những trang sách cho ngày rạng dần lên. Có vài lần Bố gần như ngủ thiếp , cố gắng kháng cự lại đôi mắt mệt mỏi ngứa ngáy và mái đầu uể oải của ông. Lần nào Liesel cũng bắt gặp ông làm thế, nhưng con bé chưa có đủ lòng vị tha để cho phép ông ngủ, cũng như nhận thấy là mình làm khó người khác. Nó là đứa bé có cả ngọn núi phải trèo qua.

      Sau cùng, khi bóng tối bên ngoài bắt đầu tan chút, họ cũng đọc xong quyển sách ấy. Đoạn cuối cùng của quyển sách có nội dung như sau:

      Chúng tôi, những thành viên thuộc Hội liên hiệp nghĩa trang Bayern, hy vọng rằng làm cho bạn hiểu và thấy vui thích với công việc, cũng như những tiêu chuẩn an toàn và nghĩa vụ của việc đào huyệt. Chúng tôi chúc bạn nghiệp thành công trong nghệ thuật tang chế, và hy vọng rằng quyển sách này có ích với bạn theo cách nào đó.

      Khi quyển sách được đóng lại, hai bố con liếc nhìn nhau qua khóe mắt. Bố lên tiếng. “Vậy là xong rồi, phải ?”

      Liesel, nửa người quấn trong chăn, đương săm soi quyển sách bìa đen với hàng chữ bạc tay nó. Con bé gật đầu, miệng khô rang và bụng quặn lên cơn đói lúc hừng đông. Đó là trong những khoảnh khắc của mệt mỏi hoàn mỹ, của việc chinh phục được chỉ công việc trong tay, mà là cả màn đêm phủ kín con đường .

      Bố nắm tay và duỗi thẳng người, mắt nhắm tịt. Buổi sáng hôm ấy là ngày mà ông trời dám đổ mưa. Cả hai cùng đứng lên rồi vào bếp, và qua ô cửa sổ đọng đầy sương giá họ có thể nhìn thấy nhiều dải ánh sáng màu hồng những dãy nóc nhà phủ đầy tuyết phố Thiên Đàng.

      “Hãy nhìn những sắc màu kia mà xem,” Bố . khó để mến con người chỉ chú ý đến những sắc màu, mà còn chúng ra thành lời nữa.

      Liesel vẫn ôm khư khư quyển sách. Con bé càng ghì nó chặt hơn khi tuyết chuyển dần sang màu cam. Nó có thể nhìn thấy đứa bé trai nhắn, ngồi nóc nhà và ngắm nhìn bầu trời. “Tên nó là Werner,” Liesel . Những từ ngữ như được vô tình thốt ra.

      Bố đáp, “Ừ.”

      Trong suốt quãng thời gian đó ở trường, có thêm bài kiểm tra kỹ năng đọc nào khác, nhưng vì dần lấy lại được tự tin, sáng nọ, con bé cầm quyển sách giáo khoa ai đó để quên lên và đọc thử, để xem liệu nó có thể đọc được quyển sách ấy mà gặp rắc rối gì . Liesel có thể đọc được tất cả các từ, nhưng với tốc độ vẫn còn chậm hơn nhiều so với đám bạn cùng lớp. Liesel nhận ra rằng, gần đạt đến cái gì đó dễ hơn nhiều so với thực đạt được nó. Con bé vẫn cần thêm thời gian.

      buổi chiều nọ, nó bị cám dỗ bởi cái ý nghĩ lấy trộm quyển sách từ kệ sách của lớp, nhưng thẳng ra , triển vọng của Watschen nơi hành lang nữa bởi tay của Xơ Maria là rào cản đủ mạnh để ngăn nó thực ý định của mình. hết trong lòng nó khao khát thực để lấy trộm sách của trường. Rất có thể cảm xúc mãnh liệt của thất bại hồi tháng Mười của con bé dẫn đến thái độ hờ hững này nhưng Liesel chắc lắm. Con bé chỉ biết rằng nó có tồn tại.

      Trong lớp, nó chuyện với ai.

      Nó cũng mắc phải nhiều rắc rối như trước nữa.

      Khi mùa đông đến, Liesel còn là nạn nhân của những cơn giận của Xơ Maria nữa, con bé thích thú nhìn những đứa khác nối đuôi nhau ra ngoài hành lang và được ban thưởng phần quà của chúng. thanh vọng vào của đứa học sinh khác vật vã khổ sở ở hành lang phải là điều gì đó đặc biệt đáng vui thích, nhưng cái thực tế rằng đó là đứa khác , nếu muốn cảm giác thoải mái thực cũng là điều làm nó thư giãn.

      Khi trường lớp bị gián đoạn trong thời gian ngắn để nghỉ lễ Weihnachten (Tức lễ Giáng sinh - tiếng Đức), Liesel thậm chí còn được với Xơ Maria câu “Chúc Giáng sinh an lành” trước khi về nhà. Vì nó nhận thức được rằng về cơ bản là nhà Hubermann phá sản, họ vẫn còn phải trả nợ và trả tiền thuê nhà nhanh hơn số tiền họ có thể kiếm được, nên Liesel mong được nhận món quà dưới bất cứ hình thức nào cả. Họa may là chút thức ăn ngon lành hơn thôi. Trước ngạc nhiên của nó, vào đêm Giáng sinh sau khi ngồi trong nhà thờ vào lúc nửa đêm với Mẹ, Bố, Hans Con và Trudy, nó về nhà và thấy có cái gì đó được gói trong giấy báo, đặt dưới chân cây thông Noel.

      “Từ Thánh Niklaus đấy,” Bố , nhưng con bé bị lừa.

      Nó ôm chầm lấy cả bố và mẹ nuôi nó, tuyết vẫn còn vương vai áo.

      Nó mở lớp giấy báo và lôi ra hai quyển sách - Quyển đầu tiên, Chú chó Faust, được viết bởi người tên là Mattheus Otleberg. Con bé đọc quyển sách ấy cả thảy mười ba lần. Vào đêm Giáng sinh, Liesel đọc hai mươi trang đầu tiên ở bàn ăn đặt trong bếp, trong lúc Bố và Hans Con cãi nhau về điều gì đó mà con bé hiểu. Điều gì đó có tên gọi là chính trị.

      Sau đó, hai bố con đọc sách giường, tiếp tục cái công việc thành thông lệ là khoanh tròn những từ Liesel hiểu và viết chúng ra. Chú chó Faust cũng có những bức tranh minh họa - những đường cong và đôi tai đáng , và mấy bức biếm họa vẽ con béc-giê Đức biết , mắc chứng chảy nước dãi dơ hầy.

      Quyển sách thứ hai có nhan đề Ngọn hải đăng và được viết bởi người phụ nữ, tên là Ingrid Rippinstein. Quyển sách này hơi dài hơn quyển kia chút, nên Liesel chỉ đọc nó được tổng cộng có chín lần, tốc độ đọc của con bé tăng lên rất chậm vào cuối những lần đọc nhiều như vậy.

      Vài ngày trước Giáng sinh, con bé hỏi bố nuôi nó câu hỏi về những quyển sách. Khi ấy cả nhà ăn tối trong bếp. Nhìn thìa đầy súp đậu tiến vào mồm của Mẹ, con bé quyết định chuyển hướng quan tâm của mình sang Bố. “Có chuyện mà con thấy cần phải hỏi.”

      Ban đầu, chẳng có câu nào đáp lại lời nó cả.

      “Gì?”

      Đó là Mẹ, mồm bà vẫn lúng búng đầy súp.

      “Con chỉ muốn biết làm sao mà bố mẹ có tiền để mua những quyển sách ấy cho con.”

      Bố khẽ bật cười, mồm vẫn ngậm cái thìa. “Con muốn biết à?”

      “Dĩ nhiên rồi.”

      Từ trong túi mình, Bố lấy phần lá thuốc còn lại ra và bắt đầu vê điếu, đến lúc đó Liesel trở nên mất kiên nhẫn.

      “Bố có chịu con nghe đấy?”

      Bố cười phá lên. “Nhưng bố con nghe đấy thôi, nhóc con.” Ông hoàn tất quá trình tạo ra điếu thuốc, ném nó lên mặt bàn, rồi lại bắt đầu vê điếu khác. “Như thế này đây”. Đó là lúc mà Mẹ kết thúc món súp của mình bằng tiếng ợ đanh gọn và trả lời thay ông. “Cái đồ lợn ấy,” bà . “Mày có biết lão làm gì ? Lão vấn ra đống thuốc lá hôi hám như thế, rồi ra phiên chợ họp phố và bán chúng cho mấy thằng ma cà bông.”

      “Tám điếu thuốc dổi lấy quyển sách.” Bố nhét điếu thuốc vào miệng trong niềm hân hoan. Ông đốt nó lên và đắm chìm trong làn khói. “Hãy cảm ơn Thượng đố vì những điếu thuốc này chứ, mẹ nó?”

      Mẹ chỉ đưa mắt nhìn ông, cái nhìn kinh tởm đặc trưng, tiếp theo là từ được sử dụng nhiều nhất trong vốn từ vựng của bà “Đồ lợn”.

      Liesel len lén nháy mắt với Bố và ăn nốt chỗ súp còn lại của mình. Như thường lệ, trong những quyển sách của con bé ở bên cạnh nó. Nó thể chối bỏ rằng nó cảm thấy còn hơn cả hài lòng trước câu trả lời này. có nhiều người đời này có thể rằng nền giáo dục mà họ có được chi trả là nhờ thuốc lá.

      Mặt khác, Mẹ rằng nếu Hans Hubermann có tí đầu óc nào, ông ta đổi chúng để lấy cái váy mới mà bà rất cần, hay vài đôi giày khả dĩ hơn chút. “Nhưng ...” Bà bỏ lửng câu khi đứng chỗ bồn rửa. “Để mua thứ gì đó cho tôi ông thà hút hết chỗ thuốc ấy còn hơn, có phải ? Hút luôn cả thuốc của nhà hàng xóm nữa.”

      Dù vậy, vài ngày sau đó, Hans Hubermann về nhà với hộp trứng tay. “Xin lỗi Mẹ nó nhé.” Ông đặt cái hộp lên bàn và . “Họ hết giày mất rồi.”

      Mẹ than phiền gì cả.

      Thậm chí bà còn ngân nga hát mình khi nấu món trứng đó, cho đến khi chúng gần như cháy khét. Dường như có niềm vui to lớn trong những điếu thuốc lá, và đó là quãng thời gian hạnh phúc trong gia đình Hubermann.

      Niêm hạnh phúc này chấm dứt vài tuần sau đó.

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      NGƯỜI PHỐ


      Nỗi bất hạnh bắt đầu với đám đồ giặt ủi, và ngày càng trở nên tồi tệ hơn cách nhanh chóng.

      Khi Liesel cùng Rosa Hubermann giao đồ giặt ủi quanh Molching, trong những khách hàng của bà, Ernst Vogel, báo cho họ biết rằng ông ta thể tiếp tục chi trả cho việc giặt ủi quần áo được nữa. “Tình hình là vậy,” ông ta như để thanh minh, “tôi có thể gì bây giờ? Hoàn canh ngày càng phức tạp. Cuộc chiến tranh khiến mọi việc trở nên khó khăn hơn.” Ông nhìn con bé. “Tôi tin là bà nhận được khoản trợ cấp cho việc giữ con bé này trong nhà, phải thế ?”

      Trước bàng hoàng của Liesel, Mẹ được câu nào.

      Bên cạnh bà là cái túi rỗng .

      thôi, Liesel.

      Điều này phải được ra thành tiếng. Nó là cú kéo mạnh bởi bàn tay thô kệch.

      Vogel gọi với theo từ bậc tam cấp cửa nhà ông ta. Ông cao chừng thước tám và mái tóc bết bền bệt của ông lòa xòa trước trán cách hời hợt sức sống. “Tôi xin lỗi, bà Hubermann!”

      Liesel vẫy tay chào ông ta.

      Ông vẫy tay chào lại.

      Mẹ quở nó.

      “Đừng có chào cái lỗ đít ấy,” bà . “Giờ nhanh chân lên.”

      Đêm hôm đó, khi Liesel tắm, Mẹ kỳ cọ cho nó rất mạnh tay, luôn miệng lầm bầm về cái đồ lợn Vogel nọ, và nhại lại lời ông ta cứ mỗi hai phút lần. “Tôi tin là bà nhận được khoản trợ cấp cho việc giữ con bé...” Bà vừa kỳ cọ cho Liesel, vừa mắng nhiếc cái ngực trần trụi của nó. “Mày đáng giá nhiều chừng ấy đâu, đồ con lợn. Mày làm tao giàu lên tí nào đâu, biết chưa hả.”

      Liesel ngồi chết lặng ở đó, nhận hết những câu của bà mẹ nuôi.

      Chưa đầy tuần sau kiện đặc biệt ấy, Rosa kéo nó vào bếp. “Được rồi, Liesel.” Bà bắt nó ngồi xuống chỗ bàn. “Vì mày dành phân nửa thời gian của mày để chơi đá bóng ngoài đường, mày có thể có ích hơn ngoài đó. Để thay đổi.”

      Liesel nhìn chằm chằm vào đôi bàn tay mình. “Có chuyện gì vậy, Mẹ?”

      “Từ giờ trở mày giao và nhận đồ giặt ủi cho tao. Những kẻ giàu có ấy ít cắt việc chúng ta hơn nếu mày là người đứng trước mặt bọn chúng nó. Nếu chúng hỏi mày là tao đâu rồi, hãy bảo chúng nó là tao bị ốm. Và hãy tỏ ra buồn rầu khi mày với chúng nó như thế. Mày đủ ốm yếu xanh xao để có được thương cảm của bọn chúng nó.”

      “Nhưng ông Vogel đâu có thương hại con.”

      “À..” Bà lộ vẻ bối rối. “Những người khác làm như thế. Vậy nên đừng có cãi lời tao.”

      “Vâng thưa Mẹ.”

      Trong khoảnh khắc, có vẻ như mẹ nuôi nó an ủi nó, hay vỗ vào vai nó.

      Nhưng bà ấy làm những điều như vậy.

      Thay vào đó, Rosa đứng dậy, chọn lấy cái thìa gô và dứ dứ nó dưới mũi Liesel. Theo bà điều này là cần thiết. Khi mày làm cái công việc này, mày phải mang đồ đến từng nơi và mang đồ thẳng về nhà, cùng với tiền, ngay cả khi món tiền đó gần như chẳng đáng gì cả. được phép ghé chỗ Bố nếu thằng cha ấy có thực làm việc lấy lần trong đời. được lêu lổng với thằng lợn Rudy Steiner ấy. thẳng về nhà.”

      “Vâng thưa Mẹ.”

      “Và khi mày cầm túi đồ, mày phải cầm nó đúng cách. Mày được vung vẩy nó, đánh rơi nó, làm nhàu nó hay khoác nó qua vai.”

      “Vâng thưa Mẹ.”

      “Vâng, thưa Mẹ.” Rosa Hubermann là người nhại tiếng bậc thầy, và là người rất tha thiết với việc này. “Đồ con lợn, tốt hơn là mày đừng có làm thế. Tao phát ra ngay nếu mày làm thế, mày biết như vậy mà phải ?”

      “Vâng thưa Mẹ.”

      ba từ này, cũng như làm theo những gì mà nó được bảo phải làm, thường là cách tốt nhất để sống sót, và kể từ hôm đó, Liesel những con phố của Molching, từ đầu phố - nơi những người nghèo khổ sống, cho đến nơi những người giàu có hơn, nhận và giao đồ giặt ủi. Ban đầu đây là công việc đơn độc, điều mà nó chưa bao giờ phàn nàn gì cả. Rốt cuộc , ngay lần đầu tiên nó mang cái bao đồ qua phố, nó rẽ sang phố Munich, nhìn trước ngó sau, rồi con bé vung túi đồ phát mạnh, tít - cuộc cách mạng triệt để - rồi sau đó nó bèn kiểm tra đám đồ đạc chứa bên trong. May sao, có chỗ nhàu nào cả. có vết nhăn nhúm nào cả. Chỉ có nụ cười, và lời hứa bao giờ vung vẩy túi lần nữa.

      chung, Liesel thích công việc này. Nó được chia tiền, nhưng nó được ra khỏi nhà, và bản thân việc những con phố mà có Mẹ bên cạnh điều mang lại cảm giác lâng lâng như thiên đàng rồi. ai chỉ ngón tay vào mặt nó hay rủa xả nó. ai nhìn chằm chằm vào hai mẹ con, khi Mẹ mắng mỏ nó vì cầm túi sai quy cách. gì hết ngoài thanh thản.

      Con bé cũng bắt đầu thích thú với những người mà nó gặp:

      - Nhà Plaffehurvers luôn kiểm tra kỹ quần áo và , “Ja, ja, sehr gut, sehr gutr.”(13) Liesel hình dung rằng bất cứ việc gì họ cũng phải làm đến hai lần.

      - Helena Schmidt dịu dàng, đưa tiền với cái tay cong queo vì chứng viêm khớp.

      - Nhà Weigartners, chủ của con mèo hay rụng lông luôn ra mở cửa cùng họ. Goebbels bé , đó là cái tên mà họ đặt cho con mèo - theo tên nhân vật được xem là cánh tay mặt của Hitler.

      - Và bà Hermann, vợ của ngài Thị trưởng, bà đứng đó với mái tóc thưa như tơ và chết cóng bậc cửa lạnh buốt nhà mình. Luôn im lặng. Luôn chỉ có mình. từ nào, dù chỉ lần.

      Đôi lúc, Rudy cùng với nó.

      “Cậu có bao nhiêu tiền đằng đó vậy?” thằng bé hỏi Liesel buổi chiều nọ. Khi ấy trời nhập nhoạng tối và hai đứa phố Thiên Đàng, đoạn vừa qua khỏi cửa hiệu tạp hóa. “Cậu nghe người ta về mụ Diller rồi phải ? Người ta mụ có giấu kẹo que ở đâu đó, và giá rất phải chăng...”

      “Đừng có mơ tới chuyện đó.” Liesel, như thường lệ, nắm chặt lấy mớ tiền của nó. “Với cậu mọi chuyện đến nỗi tồi tệ lắm đâu - cậu đâu có phải đối mặt với mẹ tớ.”

      Rudy nhún vai. “Cũng đáng để thử lắm chứ.”

      Vào giữa tháng Giêng, bài tập ở trường chuyển hướng chú ý của nó sang môn viết chữ. Sau khi học những điều căn bản, mỗi học sinh phải viết hai lá thư, lá gửi cho người bạn và lá gửi cho ai đó học lớp khác.

      Thư của Rudy gửi cho Liesel như sau:

      Gửi đồ con lợn

      Cậu vẫn vô dụng trong môn bóng đá như lần trước chúng ta chơi cùng nhau chứ? Tớ hy vọng là thế. Điều đó có nghĩa là tớ có thể chạy vượt qua cậu lần nữa như Jesse Owens ở kỳ Thế vận hội...

      Khi Xơ Maria phát ra lá thư này, bà ta hỏi thằng bé câu, rất hòa nhã.


      ĐỀ NGHỊ CỦA XƠ MARIA

      “Cậu có hứng thú ra thăm hành lang , cậu Steiner?”


      Chả cần phải , Rudy từ chối, thế là lá thư ấy bị xé và thằng bé phải viết lại. Lần này, lá thư được viết cho ai đó tên là Liesel và hỏi xem sở thích của ta là gì.

      Ở nhà khi hoàn thành lá thư cho phần bài tập về nhà Liesel quyết định rằng viết thư cho Rudy hay đồ con lợn nào khác quả thực là việc làm kỳ quặc. Nó chẳng có ý nghĩa gì cả. Khi con bé viết trong tầng hầm, nó chuyện với Bố, người lại sơn bức tường.

      Cả ông lẫn mùi sơn hăng hắc quay lại. “Was wuistz?” Đó là loại tiếng Đức thô lỗ nhất mà người có thể được, nhưng câu này được ra trong bầu khí của thoải mái hoàn toàn, “Ơi, cái gì?”

      “Con có thể viết lá thư cho mẹ được ?”

      khoảng lặng.

      “Con muôn viết thư cho bà ấy để làm gì? Con phải đương đầu với bà ta mỗi ngày kia mà.” Bố schmumelling - có nghĩa là nở nụ cười ranh mãnh. “Chuyện đó chưa đủ tệ hay sao?” “ phải Mẹ ở đây đâu.” Con bé nuốt nước bọt.

      “Ồ.” Bố quay mặt lại bức tường và tiếp tục sơn “Chắc là được, bố đoán thế. Con có thể gửi nó cho cái bà gì ấy - người mang con đến đây mà lâu lâu lại ghé thăm - cái bà của trại trẻ mồ côi ấy.”

      “Bà Heinrich.”

      “Đúng rồi. Hãy gửi nó cho bà ấy. Có thể bà ấy chuyển được thư đến cho mẹ con.” Ngay cả lúc đó, giọng của bố nghe chẳng thuyết phục chút nào, như thể thực ra ông chẳng bảo cho nó cái gì hết. Tin tức về mẹ nó cũng hiếm khi xuất môi của bà Heinrich trong những chuyến ghé thăm ngắn ngủi của bà ta.

      Thay vì hỏi bố xem có việc gì, Liesel lại bắt đầu viết ngay lập tức, chọn cách lờ linh tính dâng lên rất nhanh trong lòng nó. Nó mất ba giờ đồng hồ và sáu bản nháp để hoàn chỉnh lá thư. Trong thư, nó kể cho mẹ nghe tất cả về Molching, về bố nuôi của nó và cây đàn xếp của ông, cái cung cách lạ lùng nhưng chân của Rudy Steiner, và những thành tích của Rosa Hubermann. Con bé cũng quên giải thích cho mẹ rằng nó cảm thấy tự hào thế nào khi giờ đây nó có thể đọc và viết chút. Ngày hôm sau, con bé gửi lá thư ở chỗ cửa hàng của bà Diller với con tem thuổng từ ngăn kéo nhà bếp. Và nó bắt đầu chờ đợi.

      Cái đêm nó viết lá thư, con bé loáng thoáng nghe thấy cuộc chuyện giữa Hans và Rosa.

      “Con bé làm gì mà viết thư cho mẹ nó vậy?” Tiếng Mẹ . Giọng của bà bình tĩnh cách đáng ngạc nhiên, và đầy vẻ quan tâm. Như bạn có thể hình dung, điều này làm con bé vô cùng lo lắng. Nó thích nghe thấy hai người cãi nhau hơn. Nó khó có thể tự tin được khi nghe người lớn thầm với nhau.

      “Nó hỏi tôi,” Bố trả lời, “và tôi thể từ chối nó được. Làm sao mà tôi làm thế được?”

      “Lạy các đấng Jesus, Maria và Joseph.” Lại tiếng Mẹ thầm. “Tốt hơn là nó nên quên bà ấy . Ai mà biết được là bà ấy ở đâu? Ai mà biết được là người ta làm gì bà ấy?”

      giường, Liesel vòng tay tự ôm lấy mình chặt. Con bé cuộn người lại như quả bóng.

      Nó nghĩ về mẹ ruột của nó và lặp lại những câu hỏi của Rosa Hubermann.

      Mẹ ở đâu?

      Người ta làm gì Mẹ?

      lần cho mãi về sau, thực tế, người ta ở đây là ai cơ chứ?


      NHỮNG LÁ THƯ CHẾT


      thời gian sau, trong tầng hầm, vào tháng Chín năm 1943.

      đứa bé mười bốn tuổi viết gì đó vào quyển sách bìa đen. Đứa bé ấy có vóc người gầy gò nhưng thực ra rất khỏe và nhìn thấy nhiều thứ. Bố nuôi nó ngồi đó, cây đàn xếp đặt dưới chân.

      Ông , “Con biết , Liesel? Bố suýt nữa viết lá thư hồi cho con và ký tên mẹ ruột con.” Ông gại gại chân, chỗ trước đó dính đầy vữa trát tường. “Nhưng bố thể, bố tài nào làm thế được.”

      Có vài lần, trong quãng thời gian còn lại của tháng Giêng và suốt cả tháng Hai, khi Liesel lục lọi hòm thư để tìm lá thư hồi , điều này gần như làm tan nát trái tim của bố nuôi nó. “Bố rất tiếc,” ông thường bảo con bé. “Chắc là thư tới hôm nay đâu nhỉ?” Khi nghĩ lại, con bé thấy toàn bộ những điều nó làm quả thực chẳng đến đâu cả. Nếu mẹ có thể liên lạc với nó, liên lạc với người ở trung tâm trẻ mồ côi, hay liên lạc trực tiếp với Bố, hay liên lạc với gia đình Hubermann rồi. Đàng này lại chẳng có gì hết.

      Như để xát thêm muối vào vết thương, vào giữa tháng Hai, Liesel được khách hàng khác của mẹ nó đưa cho lá thư, đó là nhà Pfaffelhurver sống phố Heide. Hai người họ đứng thẳng người nơi bậc cửa, chào nó bằng giọng buồn “Cái này để gửi cho mẹ của cháu,” người đàn ông vừa đưa cho nó cái phong bì vừa . “Hãy bảo bà ấy là chúng ta rất tiếc. Hãy bảo bà ấy là chúng ta rất tiếc.”

      Đêm ấy phải là đêm vui vẻ gì trong quãng thời gian nó sống ở nhà Hubermann.

      Ngay cả khi Liesel chui xuống tầng hầm để viết lá thư thứ năm gửi cho mẹ nó (ngoại trừ lá thư đầu tiên, tất cả đều chưa được gửi ), con bé vẫn có thể nghe thấy tiếng Rosa chửi thề và lải nhải về hai cái lỗ đít nhà Pfaffelhurver, cũng như thằng cha Ernst Vogel tồi tệ nọ.

      “Feuer solln’s brunzen fur einen Monat!” nó nghe tiếng Mẹ quát to. Dịch nghĩa: “Cầu cho bọn chúng đái ra lửa trong suốt tháng!”

      Liesel lại tiếp tục viết.

      Khi sinh nhật con bé đến gần, nó chẳng nhận được món quà nào cả. có quà vì có tiền, và đúng lúc đó Bố lại hết thuốc lá.

      “Tôi bảo ông rồi mà.” Mẹ chỉ tay vào mặt bố và . “Tôi bảo ông là đừng có đưa cho nó cả hai quyển sách hồi Giáng sinh rồi kia mà. Nhưng mà . Ông có nghe lời tôi ? Dĩ nhiên là !”

      “Tôi biết rồi!” Ông lặng lẽ quay sang nhìn nó. “Bố xin lỗi, Liesel. Chúng ta hết tiền để mua quà cho con rồi.”

      Liesel thấy phiền lòng. Con bé kêu la khóc lóc, cũng dậm chân thình thịch. Nó chỉ đơn giản là nuốt nỗi thất vọng vào trong và đưa ra quyết định nguy hiểm có tính toán - món quà tự nó tặng nó. Con bé tập trung tất cả những lá thư gửi cho mẹ nó lại, nhét chúng vào chung phong bì, và nó chỉ dùng phần trong khoản tiền giặt ủi người ta trả cho mẹ nuôi nó để gửi cái phong bì đó . Sau đó, dĩ nhiên rồi, nó phải nhận cái Watschen, rất có thể là ở trong nhà bếp, và con bé hé răng phàn nàn lấy nửa lời.

      Ba ngày sau, cơ hội thực kế hoạch này đến với nó.

      “Tiền bị thiếu mất ít.” Mẹ đếm số tiền đến lần thứ tư trong lúc Liesel đứng chỗ bếp lò. Nơi đó rất ấm, và khiến cho máu con bé chảy rần rật. “Có chuyện gì vậy, Liesel?”

      dối. “Hẳn là họ đưa cho con ít tiền hơn thường lệ”.

      “Mày có đếm tiền đấy?”

      Con bé đầu hàng. “Mẹ à, con tiêu chỗ tiền ấy rồi.”

      Rosa tiến đến gần hơn. Đây phải là dấu hiệu tốt. Bà ta ở rất gần cái thìa gỗ rồi. “Mày làm gì kia?”

      Trước khi con bé có thể trả lời, cái thìa gỗ trút xuống cơ thể Liesel Meminger như ơn mưa móc của Chúa trời. Những vết sưng đỏ như những dấu chân của Người da nó vậy, và chúng rát bỏng. Từ dưới sàn nhà, khi trận đòn qua , đưa bé ngước nhìn lên rồi giải thích mọi việc.

      Tim nó đập thình thịch cùng ánh đèn vàng. Đôi mắt nó hấp háy. “Con gửi mấy lá thư đó.”

      Điều tiếp theo đến với nó là sàn bếp bụi bặm, cảm giác quần áo như được đặt bên cạnh nó hơn là được mặc người nó, và cái nhận thức bất chợt rằng việc nó làm chẳng giải quyết được cái gì cả - rằng mẹ nó chẳng bao giờ hồi , và bà chẳng bao giờ gặp lại nó nữa. Thực tế phũ phàng này giáng cho con bé cái Watschen thứ hai. Nó làm con bé đau nhói, và cơn buốt nhói ấy kéo dài suốt lúc lâu.

      Phía nó, Rosa như nhòe dần , nhưng con bé nhanh chóng thấy gương mặt nhàu nhĩ như giấy các-tông của bà ra gần hơn. Bà đứng đó với dáng bộ phúng phình và rầu rĩ của mình, tay cầm chiếc thìa gỗ buông thõng xuống như cái gậy. Bà cúi xuống và khẽ. “Mẹ xin lỗi, Liesel.

      Liesel hiểu con người bà đủ để biết rằng lời xin lỗi này phải là vì trận đòn.

      Những vết tấy đỏ ngày càng lớn dần da con bé, trong lúc nó cứ nằm nguyên đó, nơi sàn bếp bẩn thỉu và dưới ánh đèn mờ mịt. Hơi thở của nó bình thường trở lại, và giọt mắt vàng vọt lạc loài chảy dài gương mặt nó. Con bé có thể cảm thấy mình sàn bếp. cái cẳng tay, cái đầu gối. cái cùi chỏ. gò má. bắp chân.

      Sàn bếp lạnh lẽo vô cùng, đặc biệt là chỗ má nó áp xuống, nhưng con bé tài nào cục cựa được.

      chẳng bao giờ gặp lại mẹ nó nữa.

      Trong suốt gần giờ đồng hồ, nó cứ nằm dài dưới bàn bếp, cho đến khi Bố về nhà và chơi đàn xếp cho nó nghe. Chỉ khi đó nó mới chịu ngồi dậy và bắt đầu hồi phục.

      Khi con bé viết lại về buổi tối hôm đó, nó thù oán gì Rosa Hubermann, hay mẹ ruột nó vì việc ấy cả. Đối với nó họ chỉ là những nạn nhân của hoàn cảnh. Ý nghĩ duy nhất ngừng tái trong đầu nó là giọt nước mắt vàng vọt. Nó nhận ra rằng giá như lúc đó trời tối, giọt nước mắt ấy có màu đen rồi.

      “Nhưng lúc đó đúng là trời tối mà,” con bé tự nhủ với mình như thế.

      Dù có cố tưởng tượng ra khung cảnh đó với ánh sáng mà nó biết là tồn tại lúc ấy bao nhiêu lần nữa, con bé vẫn gặp khó khăn trong việc hình dung ra nó. Nó bị đánh trong bóng tối, và nó vẫn nằm ở đó, sàn nhà bếp lạnh lẽo và tối tăm. Ngay cả nhạc mà bố chơi cũng có màu của bóng tối.

      Ngay cả nhạc của Bố.

      Điều lạ là nó cảm thấy mình được xoa dịu cách mơ hồ bởi suy nghĩ này, thay vì cảm thấy đau đớn vì nó.

      Bóng tối, ánh sáng.

      Có gì khác nhau đâu?

      Những cơn ác mộng ngày càng ràng hơn, khi kẻ trộm sách bắt đầu thực hiểu mọi việc diễn ra thế nào, và chúng luôn như vậy ra sao. Lẽ ra có thể tự chuẩn bị. Có thẻ đó là lý do vì sao vào ngày sinh nhật Quốc trương, khi câu tra lời cho nỗi khốn khổ của mẹ nó bộc lộ hoàn toàn, nó có thể phản ứng lại, mặc cho cơn thịnh nộ và bối rối của nó.

      Liesel Meminger sẵn sàng.

      Chúc mừng sinh nhật, Quốc trưởng vĩ đại.

      Nhiều niềm hạnh phúc quay lại với nó.



      SINH NHẬT CỦA HITLER, 1940


      hy vọng, chiều nào Liesel cũng kiểm tra hòm thư, trong suốt tháng Ba và sang đến tận tháng Tư. Dù chuyến ghé thăm của bà Heinrich, theo cầu của Hans, và bà ta giải thích cho nhà Hubermann hiểu rằng trung tâm mất liên lạc hoàn toàn với Paula Meminger. Tuy nhiên, con bé vẫn cứ khăng khăng chịu nghe, và như bạn có thể hình dung khi nó kiểm tra thùng thư hằng ngày, thùng thư vẫn trống .

      Molching, cũng như phần còn lại của nước Đức, hối hả chuẩn bị cho ngày sinh nhật của Hitler. Cái năm đặc biệt ấy với phát triển của chiến tranh và vị trí chiến thắng thời cua Hitler, các đảng viên Quốc xã ở Molching muốn nghi thức chào mừng phải có mức độ đặc biệt tương xứng, cuộc diễu hành. Hành quân. nhạc. Ca hát. đống lửa.

      Khi Liesel những con phố của Molching, giao và nhận đồ giặt ủi, các thành viên đảng Quốc xã thu gom nguyên liệu để đốt. Có vài lần, Liesel tận mắt nhìn thấy những con người, cả đàn ông lẫn đàn bà, gõ cửa từng nhà, hỏi người ta xem họ có bất cứ thứ gì mà họ thấy cần vứt hay phải bị phá hủy . Tờ Tin nhanh Molching của Bố đăng rằng đống lửa chào mừng được thắp lên nơi quảng trường của thị trấn, và tất cả các đơn vị Hitler Thiếu niên trong vùng đều tham dự. Đống lửa là để kỷ niệm chỉ sinh nhật Quốc trưởng, mà còn để chào mừng việc chiến thắng những kẻ thù của ngài, và chiến thắng cả những trở ngại níu bước nước Đức lại kể từ hồi Thế chiến I. “Bất cứ thứ gì,” tờ tin nhanh , “từ những thời điểm như vậy - báo chí, áp phích, sách vở, cờ quạt - và bất cứ sản phẩm tuyên truyền nào từ kẻ thù của chúng ta đều phải được mang đến văn phòng của đảng Quốc xã phố Munich.”

      Ngay cả phố Schiller - con phố của những ngôi sao vàng - con phố vẫn chờ được sửa chữa, cũng bị lục lọi lần cuối cùng, để tìm cho ra cái gì đó, bất cứ cái gì, để mà đốt trụi nhằm vinh danh Quốc trưởng. chẳng có gì đáng ngạc nhiên nếu có những thành viên của đảng cho xuất bản hàng ngàn quyển sách hay áp phích tuyên truyền những điều độc hại, chỉ đơn giản là để đốt chúng ra tro.

      Mọi thứ sẵn sàng để làm cho ngày 20 tháng Tư trở nên ý nghĩa. Đó ngày đầy những trò đốt phá và hò hét.

      Và cả trộm sách nữa.

      Trong gia đình Hubermann buổi sáng hôm đó, tất cả đều rất bình thường.

      “Cái đồ lợn ấy lại nhìn ra cửa nữa rồi,” Rosa Hubermann chửi, “Ngày nào cũng vậy,” bà tiếp. “Lần này ông nhìn cái quái gì thế?”

      “Ồ,” Bố rên lên, cách đầy sung sướng. Lá cờ phủ xuống lưng ông từ chỗ cùng cửa sổ. “Bà nên nhìn nàng này chút .” Ông đánh mắt qua vai và mỉm cười với Liesel. “Tôi ra ngoài đó và đuổi theo ả. nàng hơn đứt bà đấy, mẹ nó ạ.”

      “Đồ lợn!” Mẹ vung vẩy cái thìa gỗ về phía ông.

      Bố lại nhìn ra ngoài cửa sổ, về phía người đan bà tưởng tượng và hành lang rất thực được tạo nên bởi nhưng lá quốc kỳ Đức.

      Hôm ấy, những con phố của Molching, mỗi ô cửa sổ đều được trang hoàng để chúc mừng Quốc trưởng. Ở vài nơi, như cửa hàng của mụ Diller chẳng hạn, cửa kính được lau đến sáng bóng lên, lá cờ sạch như li như lau, và cái chữ thập ngoặc trông như món nữ trang tấm mền đỏ và trắng. những ô cửa sổ khác, những lá cờ ủ rũ như món đồ ướt được hong cho khô.

      Trước đó, tai họa nho . Nhà Hubermann thể tìm thấy lá cờ của họ.

      “Họ đến bắt chúng ta đấy,” Mẹ cảnh báo chồng bà. “Họ đến và bắt chúng ta đấy.” Cả hai đều . “Chúng ta phải tìm cho ra nó!” Có lúc tưởng như Bố phải chạy xuống tầng hầm và vẽ lá cờ trong những tấm vải hứng sơn của ông. May sao, nó xuất , bị che khuất bởi chiếc đàn xếp trong tủ chạn.

      “Cái đàn xếp trời đánh ấy, nó cản tầm nhìn của tôi!” Mẹ . “Liesel!”

      Đứa bé được vinh dự gắn lá cờ lên khung cửa sổ.

      Sau đó, Hans Con và Trudy về nhà để ăn chiều, cũng giống như hồi Giáng sinh, hay lễ Phục sinh. Có vẻ như lúc này thời điểm phù hợp để giới thiệu về họ cách đầy đủ hơn.

      Trudy, như người ta vẫn goi là Trudel, chỉ cao hơn Mẹ có vài phân. có dáng lạch bạch giống mẹ như hệt, nhưng xét các yếu tố còn lại nhàng hơn mẹ mình nhiều. Là người giúp việc trong gia đình giàu có tại Munich, hẳn ngấy bọn trẻ con đến tận cổ, nhưng luôn xoay xở được ít nhất là vài lời kèm theo nụ cười dành cho Liesel. đôi môi mềm. giọng nhàng.

      Hans Con thừa hưởng đôi mắt của bố gã, và cả chiều cao nữa. Dù vậy, màu bạc trong đôi mắt gã chẳng hề ấm áp như mắt Bố chút nào - chúng bị Quốc trưởng hóa rồi. Có nhiều thịt dính xương của gã hơn, gã có mái tóc vàng tua tủa và có màu giống như màu sơn trắng bị xỉn.

      Họ về nhà cùng nhau chuyến tàu từ Munich, và chẳng bao bao lâu những mối căng thẳng cũ lại được khơi lên.


      TÓM TẮT NHỮNG XUNG ĐỘT CŨ GIỮA

      HANS HUBERMANN VÀ CON TRAI ÔNG

      Theo Hans Con, bố gã là phần của nước Đức già nua, đổ nát - đất nước cho phép bất cứ ai nhờ xe trong khi con dân của chính nó lại phải gánh chịu hậu quả. Lớn lên, gã nhận thức được rằng cha mình bị gọi là “der Juden Maler” - thợ sơn Do Thái - vì dám sơn nhà cho những người Do Thái.

      Sau đó xảy ra cố mà tôi trình bày đầy đủ với bạn sớm thôi - ngày mà Hans bùng nổ, khi gã chuẩn bị gia nhập đảng Quốc xã. Ai cũng biết là bạn nên sơn che những câu xấu được viết lên mặt tiền của cửa hàng Do Thái. Những việc làm như vậy là tốt cho nước Đức, và nó tốt cho người làm việc ấy.


      “Vậy họ cho phép bố vào chưa?” Hans Con lại tiếp tục câu chuyện dang dở của họ từ hồi Giáng sinh.

      “Vào cái gì?”

      “Đoán xem nào - vào Đảng ấy.”

      “Chưa, bố nghĩ là họ quên trường hợp của bố rồi.”

      “Thậm chí bố còn thèm thử đăng ký lại nữa phải ? Bố thể cứ ngồi đó và chờ thế giới mới đến đón bố theo cùng được. Bố phải ra ngoài kia và trở thành phần của nó - mặc dù bố mắc phải những sai lầm trong quá khứ.”

      Bố nhìn lên. “Sai lầm ư? Bố mắc phải nhiều sai lầm trong đời mình, nhưng việc gia nhập Đảng Quốc xã phải là trong số chúng. Họ vẫn giữ đơn của bố - con biết điều đó mà - nhưng bố thể quay lại đó và hỏi thăm được. Bố chỉ...”

      Đó là lúc cơn gió lạnh buốt da kéo đến.

      Gió lùa mơn man dạo qua ô cửa sổ. Có thể nó là cơn gió lạnh của Đệ tam Quốc xã, thu thập nguồn sức mạnh thậm chí còn lớn hơn. Hoặc có thể nó chỉ là châu Âu thở. Dù thế nào nữa, nó cũng thổi ngang qua khi những cặp mắt kim loại của hai người va vào nhau loảng xoảng như đám chai lọ trong nhà bếp.

      “Bố chẳng bao giờ quan tâm đến đất nước này,” Hans Con . “Dù thế nào cũng đủ.”

      Đôi mắt của Bố bắt đầu ruỗng ra. Điều này ngăn được Hans Con. Vì lý do nào đó mà gã ta nhìn vào đứa bé . Với ba quyển sách dựng đứng mặt bàn, như thể trò chuyện, Liesel im lặng đọc quyển sách trong số đó. “Còn con ranh này đọc cái thứ rác rưởi gì vậy? Lẽ ra nó phải đọc cuốn Mein Kampf mới phải.”

      Liesel ngước lên.

      “Đừng lo, Liesel,” Bố . “Cứ đọc tiếp . Nó biết mình gì đâu.”

      Nhưng Hans Con vẫn chưa chịu thôi. Gã bước đến gần hơn và , “Hoặc mày tuân theo Quốc trưởng, hoặc chống lại ngài - và tao có thể thấy là mày chống lại ngài. Mày luôn như thế rồi.”

      Liesel nhìn gương mặt của Hans Con, mắt nó ngừng lại nơi đôi môi của gã, và đường nét lởm chởm của hàm răng dưới của gã. “ đáng thương hại - khi người đàn ông chỉ biết đứng đó và chẳng làm gì cả, trong khi cả nước dọn dẹp rác rưởi và làm cho đất nước này trở nên vĩ đại.”

      Trudy và Mẹ ngồi chết điếng ở đó, đầy sợ hãi, và Liesel cũng vậy. Có mùi của súp đậu, cái gì đó cháy, và mùi của đối đầu.

      Tất cả đều chờ đợi những từ ngữ tiếp theo.

      Chúng được phát ra từ miệng gã con trai. Chỉ có hai từ mà thôi.

      “Đồ hèn.” Gã ném thẳng câu này vào mặt Bố mình, rồi lập tức rời khỏi căn bếp, và rời khỏi nhà.

      Trong vô vọng, Bố bước về phía cổng vào và gọi với theo con trai mình. “Đồ hèn ư? Tao là đồ hèn ư?!” Sau đó ông lao ra cổng và chạy theo gã với vẻ nài xin. Mẹ chạy vội đến chỗ cửa, gạt lá cờ sang bên, và mở cửa sổ ra. Bà, Trudy và Liesel đứng túm tụm lại cùng nhau, nhìn người cha bắt kịp con trai ông và giữ chặt lấy gã, nài nỉ gã hãy ngừng lại. Họ nghe được gì cả, nhưng cách mà Hans Con vùng thoát ra đủ lớn tiếng lắm rồi. Cái khung cảnh Bố nhìn gã ta bước cứ như gầm thét với họ từ phía cuối đường.

      “Hansie!” Sau cùng Mẹ cũng kêu lên. Cả Trudy lẫn Liesel đều chùn bước trước giọng của bà. “Hãy quay lại đây!”

      Gã con trai rồi.

      Phải gã con trai rồi, và tôi ước tôi có thể với các bạn rằng mọi việc ổn với chàng Hans Hubermann trẻ tuổi ấy, nhưng phải như thế.

      Khi gã ta biến mất khỏi phố Thiên Đàng ngày hôm ấy, nhân danh Quốc trưởng, gã lăn lóc qua nhiều kiện của câu chuyện khác, mỗi bước đều dẫn dắt gã cách đầy bi kịch đến Nga.

      Đến stalingrad.


      VÀI THÔNG TIN VỀ STALINGRAD

      1. Vào năm 1942 và đầu năm 1943, ở thành phố ấy, mỗi sáng bầu trời đều trắng tinh như tấm vải trải giường được giặt tẩy.

      2. Suốt cả ngày, khi tôi mang những linh hồn ngang qua nó, tấm vải trải giường ấy tung tóe máu, cho đến khi nó nhuốm đầy máu và chìm dần xuống đất.

      3. Vào buổi tối, nó được trải ra và tẩy lại lần nữa,

      sẵn sàng chờ đón bình minh sắp đến.

      4. Và khi ấy việc đánh nhau chỉ xảy ra vào ban ngày mà thôi.


      Khi gã con trai khỏi rồi, Hans Hubermann vẫn đứng nán lại thêm lúc nữa. Con đường trông mới mênh mang làm sao.

      Khi ông xuất lại bên trong nhà, Mẹ nhìn ông chằm chằm, nhưng có lời nào được ra giữa hai người cả. Bà chửi mắng ông chút nào, mà điều này, như bạn biết, là vô cùng bất thường. Có thể bà ta quyết định rằng ông chịu đủ tổn thương rồi, khi bị chính con trai mình mắng là đồ hèn.

      lúc lâu sau, ông vẫn ngồi lặng thinh nơi bàn ăn khi bữa ăn kết thúc. Liệu ông có thực thằng hèn, như con trai ông chỉ ra cách phũ phàng như thế ? Chắc rồi, trong cuộc Thế chiến đầu tiên, ông coi mình là gã như thế. Ông quy cho việc mình sống sót là nhờ hèn nhát. Nhưng sau đó, liệu có phải là hèn nhát hay khi, ông nhạn thức được nỗi sợ hãi? Có hèn nhát nào trong việc cảm thấy vui mừng vì bạn sống sót hay ?

      Những suy nghĩ của ông như những nhát cắt chằng chịt mặt bàn, khi ông nhìn chằm chằm vào nó.

      “Bố ơi?” Liesel hỏi, nhưng ông nhìn nó. “ ta gì vậy? ta có ý gì khi ...

      gì hết,” Bố trả lời. Ông , cách nhàng và bình tĩnh, với cái bàn. “ có gì đâu. Hãy quên ta , Liesel.” Phải mất chừng phút sau ông mới tiếp được. “ phải là con chuẩn bị sao?” Lần này ông nhìn nó. “Chẳng phải là con tham gia vào đêm đốt lửa sao?”

      “Vâng thưa Bố.”

      Kẻ trộm sách thay bộ đồng phục Thiếu niên Hitler vào, và tiếng rưỡi đồng hồ sau, họ rời khỏi nhà, về phía trụ sở BDM. Từ đó bọn trẻ con được đưa đến quảng trường thành phố theo nhóm của chúng.

      Những bài diễn văn được đọc.

      đống lửa được nhen lên.

      quyển sách bị lấy trộm.


      MỒ HÔI ĐỨC THUẦN CHỦNG


      Người ta xếp hàng đường khi tuổi trẻ nước Đức diễu hành về phía tòa thị chính và quảng trường. Có vài lần, Liesel như quên khuấy mất chuyện về mẹ nó và bất cứ rắc rối nào mà nó gặp phải. Ngực nó rung lên khi mọi người cứ ngừng vỗ tay. Có vài đứa trẻ vẫy tay với bố mẹ chúng, nhưng chỉ trong phút chốc thôi - vì người ta hướng dẫn chúng rất ràng là phải diễu hành thẳng hàng và được nhìn hay vẫy tay với đám đông.

      Khi nhóm của Rudy tiến vào quảng trường và được hướng dẫn ngừng lại, trường hợp cá biệt. Tommy Muller. Cả trung đoàn đều đứng lại còn riêng Tommy đâm thẳng vào thằng bé đứng trước nó.

      “Đồ ngốc”, thằng này buột miệng chửi, trước khi quay lên.

      “Tớ xin lỗi,” Tommy , tay xòe ra để bày tỏ ăn năn của mình. Các cơ mặt của nó tự xô vào nhau. “Tớ nghe thấy hiệu lệnh.” Đó chỉ là khoảnh khắc ngắn ngủi, nhưng cũng là điềm báo trước cho những rắc rối sắp sửa xảy đến. Với Tommy. Với Rudy.

      Vào cuối buổi diễu hành, các sư đoàn Thiếu niên Hitler được phép giải tán. Việc giữ chúng tập trung lại với nhau trong khi đống lửa nhảy nhót trong mắt chúng và làm chúng phấn khích là việc làm gần như bất khả thi. Chúng đồng thanh hô vang tiếng Hitler Vạn tuế rồi được phép tự do lòng vòng khắp nơi. Liesel đưa mắt tìm Rudy, nhưng khi đám đông trẻ con ấy túa ra, con bé thấy ngay là mình rơi tõm vào giữa đống đồng phục lộn xộn và những từ ngữ chói lói Bon trẻ réo gọi nhau.

      * * *

      Vào lúc bốn giờ rưỡi, bầu khí mát dịu đáng kể.

      Người ta đùa với nhau là họ cần phải làm ấm người lên “Đó là tất cả những gì có ích mà đống rác này có thể mang lại”.

      Những xe đẩy được trưng dụng để dồn chúng vào thành đống. Cái đống ấy được dựng lên giữa quảng trường thị trấn và được rưới lên bởi thứ gì đấy ngọt ngào. Những quyển sách, giấy má và những thứ khác cứ chực rơi ra hay đổ nhào xuống chỉ để được ném vào đống khác. Từ đằng xa, cái đống ấy trông như ngọn núi lửa sắp phun trào. Hay cái gì đó kỳ cục và lạ lẫm, mà bằng phép thần kỳ nào đó hạ cánh xuống ngay chính giữa quảng trường thị trấn và cần phải được dẹp biến , và dẹp nhanh.

      Mùi của thứ được rưới lên bay về phía đám đông, lúc này họ đứng ở khoảng cách khá xa. Đám đông có đến hơn nghìn người, họ đứng mặt đất, những bậc cấp dẫn lên tòa thị chính, những nóc nhà quanh quảng trường.

      Khi Liesel cố gắng len lỏi qua đám đông, thanh lách tách khiến con bé nghĩ rằng đám lửa được nhóm lên rồi. Nhưng vẫn chưa, tiếng ồn đó là của những con người ngừng động đậy, dòng người trôi , nóng dần lên.

      Họ bắt đầu mà có tôi!

      Dù có điều gì đó sâu thẳm bên trong bảo với con bé rằng đây là tội ác - xét cho cùng, ba quyển sách của nó là những thứ quý giá nhất mà con bé sở hữu - nó vẫn buộc phải thấy đống lửa được nhóm lên. Nó dừng được. Tôi đoán loài người luôn muốn thấy chút gì đó bị phá hủy. Những lâu đài cát, những ngôi nhà được xây bằng lá bài, đó là nơi mà họ bắt đầu. Họ có mọt kỹ năng tuyệt vời là khiến cho mọi thứ ngày càng leo thang để rồi đổ sụp.

      Cái ý nghĩ bỏ lỡ cảnh tượng ấy của con bé nguôi ngoai phần nào khi nó tìm thấy kẽ hở giữa những thân người, và nhìn thấy đống tội lỗi kia, khi đó vẫn còn nguyên vẹn. Cái đống ấy bị người ta chọc vào, tưới xăng vào, thậm chí còn bị nhổ nước bọt vào nữa. Cảnh tượng đó khiến con bé nhớ đến đứa bé rách rưới khổ ải, đau đớn và hoang mang, vô vọng trước số phận mà nó có quyền lựa chọn. ai ưa nó cả. Đầu nó cúi gằm. Hai tay nó đút túi. Vĩnh viễn. Amen.

      Những mảnh những miếng vẫn tiếp tục rơi lả tả xuống cái đống ấy, trong khi Liesel dáo dác khắp nơi tìm Rudy. Cái đồ lợn ấy ở đâu cơ chứ?

      Khi con bé nhìn lên, bầu trời sa xuống.

      đường chân trời toàn những lá cờ và đồng phục Quốc xã lên, che chắn tầm nhìn của nó mỗi khi nó cố gắng kiếm tìm cái đầu trẻ con. Việc này chả có ích gì cả. Đám đông chính là đám đông. thể thống trị được nó, chen lấn nó hay tranh luận với nó. Bạn phải hít thở cùng nó và hát bài hát của nó, Bạn phải chờ đám cháy của nó.

      người đàn ông đứng lên bục và cầu mọi người im lặng. Đồng phục ta có màu nâu lấp lánh, vẫn còn những nếp ủi hằn đó. im lặng bắt đầu.

      Câu đầu tiên của gã là: “Hitler vạn tuế!”

      Hành động đầu tiên của gã là: giơ tay chào mừng Quốc trưởng.

      “Hôm nay là ngày đẹp,” gã tiếp. “Hôm nay chỉ là ngày sinh nhật của Quốc trưởng vĩ đại của chúng ta, mà lần nữa chúng ta làm kẻ thù phải ngừng bước. Ta ngăn cho chúng xâm chiếm tâm trí của chúng ta..”

      Liesel vẫn cố gắng len lỏi qua đám đông.

      “Chúng ta đặt dấu chấm hết cho căn bệnh lây lan toàn nước Đức trong suốt hai mươi năm qua, nếu muốn là từ lâu hơn thế nữa!” Giờ gã này thực nghi thức gọi là Schreierei - bày tỏ tột bực của tiếng la hét đầy đam mê - nó cảnh báo đám đông hãy chú ý, hãy thận trọng, hãy tìm kiếm và tiêu diệt những mưu quỷ dữ muốn làm đất mẹ nhiễm bệnh bằng những phương cách tồi tệ. “Lũ đồi bại! Lũ Cộng sản!” Lại là cái từ đấy. Cái từ cũ rích ấy. Những căn phòng tối om om. Những người đàn ông mặc com lê. “Die Juden - bọn Do Thái!”

      Đến giữa bài phát biểu đó, Liesel đầu hàng. Khi từ “cộng sản” tóm lấy nó, phần còn lại của buổi độc diễn Quốc xã tràn qua, từ cả hai bên, mất hút đâu đó giữa những cái chân Đức xung quanh nó. Những dòng thác của ngôn từ. đứa bé bước nước. Con bé lại nghĩ đến từ đó lần nữa. Cộng sản.

      Cho đến lúc này, ở BDM, bọn nó được bảo rằng người Đức là nòi giống thượng đẳng, nhưng còn ai khác được đến cách cụ thể cả. Dĩ nhiên, ai cũng biết về những người Do Thái, khi bọn họ là những kẻ phá hoại chính lý tưởng của nước Đức. Dù vậy, cho đến hôm nay, chưa lần nào những người cộng sản được nhắc đến.

      Con bé phải thoát ra.

      Trước mặt nó, cái đầu với mái tóc màu vàng thưa thớt và loăn xoăn như đuôi lợn đứng yên đôi vai. Nhìn chằm chằm vào cái đầu ấy, Liesel như quay lại những căn phòng tối om trong quá khứ, và mẹ nó trả lời những câu hỏi được tạo nên bởi từ.

      Con bé nhìn thấy tất cả rất ràng.

      Người mẹ đói rách của nó, người cha mất tích của nó.

      Đứa em trai chết của nó.

      “Và bây giờ, chúng ta lời vĩnh biệt, với thứ rác rưởi này, với chất độc hại này.”

      Ngay trước khi Liesel kinh tởm quay người để thoát ra khỏi đám đông, sinh vật bận áo nâu óng ả ấy về phía chiếc bục. Gã ta nhận lấy ngọn đuốc từ đồng bọn và nhóm lửa vào cái đống làm có vẻ như lại trong mọi tội lỗi của nó. “Hitler vạn tuế.”

      Đám đông: “Hitler vạn tuế.”

      nhóm người bước lên từ nền đất và vây quanh cái đống đó, châm lửa đốt cháy nó, trong hò hét ủng hộ của những người còn lại. Những giọng trèo lổn nhổn qua vai người ta và mùi của mồ hôi nước Đức thuần chủng dội đến đầu tiên sau đó loang ra ngoài. Nó bao phủ hết con phố này đến con phố khác cho đến khi tất cả đều ngụp lặn trong nó. Những từ ngữ, mồ hôi. Và tiếng cười. Đừng quên tiếng cười.

      Tiếp theo là rất nhiều lời vui vẻ, cũng như tràng dữ dội những tiếng Hitler vạn tuế khác. Bạn biết đấy, việc này thực khiến tôi tự hỏi xem liệu có ai đó từng mất con mắt hay bị thương tay, hay bị trặc cổ tay trong cái đám hỗn độn này hay chưa. Bạn chỉ cần phải quay sang nơi phù hợp trong thời điểm thích hợp thôi, hay đứng quá gần người nào đó. Có thể người ta bị thương . Phần tôi, tôi chỉ có thể với bạn là có ai chết trong đó, hay ít nhất, là chết về mặt thể xác. Dĩ nhiên, có vấn đề là tôi phải thu nhặt bốn mươi triệu người vào lúc mà mọi chuyện qua , nhưng điều này trở thành toàn là phép dụ thôi. Hãy cho phép tôi đưa chúng ta quay lại với đống lửa.

      Những ngọn lửa màu cam vẫy tay chào đám đông khi giấy tờ và chữ nghĩa tan rã trong chúng. Những từ ngữ bốc cháy bị tách rời ra khỏi những câu văn chứa chấp chúng.

      Ở bên kia, ngoài cái nóng mờ mịt ấy, có thể nhìn thấy những cái áo màu nâu và chữ thập ngoặc xiết chặt tay nhau. Bạn thể nhìn thấy những con người, chỉ có những bộ đồng phục và ký hiệu mà thôi.

      Chim lượn nhiều vòng bầu trời.

      Trong nỗ lực cố gắng thoát ra của Liesel, giọng tìm đến tai con bé.

      “Liesel!” .

      Giọng ấy len lỏi qua đám đông và con bé nhận ra. phải là giọng của Rudy, nhưng con bé biết giọng đó.

      Con bé vùng thoát khỏi đám đông và lần theo, để tìm ra gương mặt dính chặt vào giọng ấy. Ôi, . Ludwig Schmeikl. Như con bé nghĩ, thằng kia chế nhạo, đùa cợt hay câu nào với nó cả. Tất cả những gì mà thằng này có thể làm là kéo con bé về phía nó và chỉ vào mắt cá chân của mình Nó bị giẫm đạp lên bởi phấn khích và chảy máu, dòng máu tối tăm đáng ngại kịp thấm qua tất của nó. Gương măt nó toát lên vẻ vô vọng bên dưới mái tóc vàng rối mù. con thú. phải là con hươu trong ánh sáng. có gì quá điển hình hay đặc biệt. Nó chỉ là con thú, bị tổn thương giữa đám đồng loại lộn xộn của mình, sớm bị chà đạp bởi đồng loại của mình.

      Làm thế nào đó, con bé giúp nó đứng dậy rồi kéo nó ra đằng sau đám đông, về phía khí trong lành.

      Chúng loạng choạng bước cùng nhau về phía những bậc cấp bên cạnh nhà thờ. Có vài chỗ trống ở đó để chúng nghỉ chân, cả hai đều thở phào nhõm.

      Hơi thở hồng hộc cứ túa ra chạy vào nơi miệng của Schmeikl. khí trườn xuống, qua họng thằng bé. Nó tìm cách chuyện.

      Thằng bé ngồi xuống, nắm lấy mắt cá của mình và tìm thấy gương mặt của Liesel Meminger. “Cảm ơn”, nó , như với miệng của con bé hơn là nhìn vào mắt. Thêm vài ngụm thở nữa. “Và...” Cả hai đều hình dung ra hình ảnh của những trò lố bịch và trận đánh nhau sân trường. “Tớ xin lỗi vì chuyện đó - cậu biết mà.”

      Liesel lại nghe thấy từ đó.

      Cộng sản.

      Dù vậy, con bé chọn cách tập trung vào Ludwig Schmeikl. “Tớ cũng vậy.”

      Sau đó cả hai đều tập trung vào việc hít thở, vì còn gì để và làm với nhau nữa. Mọi mắc mớ của chúng chấm dứt rồi.

      Máu loang ra mắt cá của Ludwig Schmeikl.

      từ duy nhất dựa vào đứa bé . 1

      Bên trái chúng, những ngọn lửa và những quyển sách bị đốt cháy được reo hò, hoan hô như những người hùng.



      NHỮNG CÁNH CỬA CỦA VIỆC ĂN TRỘM


      Con bé ngồi lại những bậc cấp, đợi Bố, nhìn đám tro tàn và thi thể của những quyển sách bị thu gom lại. Mọi thứ đều trông buồn bã. Những cục than màu cam và đỏ trông như những viên kẹo bị từ chối, và hầu hết đám đông tản . Nó nhìn thấy mụ Diller ra về (với vẻ rất thỏa mãn), và Pfiffikus (tóc trắng, bộ đồng phục Quốc xã, vẫn đôi giày cũ rích ấy và tràng huýt sáo đầy hân hoan). Giờ chẳng còn gì khác ngoài công việc dọn dẹp, và lâu nữa, chẳng có ai hình dung được là điều đó xảy ra.

      Nhưng bạn có thể ngửi được nó.

      “Con làm gì thế?”

      Hans Hubermann đến được chỗ mấy bậc cấp nơi nhà thờ và cất tiếng hỏi.

      “Chào Bố.”

      “Lẽ ra con phải ở đằng trước tòa thị chính mới phải chứ?

      “Xin lỗi Bố.”

      Ông ngồi xuống bên cạnh nó, chia đôi chiều dài cơ thể mình những bậc cấp bằng bê tông và mân mê lọn tóc của Liesel. Những ngón tay của ông vén chúng gọn gàng ra sau tai con bé. “Liesel, có chuyện gì vậy?”

      Trong lúc, con bé gì cả. Con bé tính toán, dù biết trước kết quả rồi.


      BỔ SUNG NHO

      Từ cộng sản + đống lửa lớn + bộ sưu tập

      gồm những lá thư chết + những nỗi khốn khổ của mẹ nó + cái chết của em trai nó = Quốc trưởng.


      Quốc trưởng.

      Ông chính là người ta mà Hans và Rosa Hubermann đến vào buổi tối hôm đó khi lần đầu tiên con bé viết thư cho mẹ nó. Con bé biết điều này, nhưng nó vẫn buộc phải hỏi.

      “Mẹ con có phải là người cộng sản ?” cái nhìn chằm chằm. câu hỏi trực diện. “Lúc nào họ cũng tra hỏi bà việc này việc nọ, trước khi con được đưa đến đây.”

      Hans ngồi thẳng dậy chút, ra những câu chữ đầu tiên của lời dối. “Bố cũng biết nữa - bố chưa bao giờ gặp bà ấy.”

      “Có phải Quốc trưởng bắt bà ấy rồi ?”

      Câu hỏi này làm cả hai bố con ngạc nhiên, và nó buộc Bố phải đứng lên. Ông nhìn những người mặc áo nâu xúc đống tro tàn với những cái xẻng. Ông có thể nghe thấy họ xục xẻng vào đó. lời dối khác lớn dần lên trong miệng ông, nhưng ông thấy thể nó ra được. Ông , “Bố cho là có thể ông ta làm như thế đấy.”

      “Con biết điều đó.” Những từ ngữ được ném xuống các bậc cấp và Liesel có thể cảm nhận được cơn giận dữ sôi lên sùng sục trong dạ dày nó. “Con ghét Quốc trưởng,” con bé , “con căm thù ông ta.”

      Còn Hans Hubermann?

      Ông làm gì? Ông gì?

      Ông có cúi xuống và ôm lấy đứa con nuôi của ông, điều mà ông muốn làm khi đó hay ? Ông có với nó là ông rất tiếc về những điều xảy ra cho nó, cho mẹ nó, cho điều xảy ra với em trai nó hay ?

      hẳn.

      Ông nhắm chặt mắt lại. Sau đó mở mắt ra. Ông tát thẳng vào mặt Liesel Meminger.

      “Đừng bao giờ điều đó!” Giọng của ông rất khẽ, nhưng đanh thép.

      Khi con bé khóc rung lên bần bật và nằm gục xuống chỗ bậc cấp ông ngồi xuống cạnh nó, lấy tay ôm mặt. dễ để ta rằng ông là người đàn ông cao lớn ngồi trong tư thế kỳ cục khốn khổ và kiệt sức bậc cấp của nhà thờ, nhưng phải như vậy. Lúc ấy, Liesel hề biết rằng cha nuôi của nó, Hans Hubermann, rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan nguy hiểm thuộc vào loại bậc nhất mà công dân Đức có thể rơi vào. chỉ có vậy, ông ấy phải đối mặt với nó suốt gần năm trời.

      Con bé muốn bỏ chạy nhưng thể. Giờ đôi bàn tay rời khỏi khuôn mặt của Bố khi ông tìm thấy lòng quyết tâm để mở miệng cất tiếng lần nữa.

      “Con có thể điều đó trong nhà của chúng ta,” ông , nhìn chằm chằm vào má của Liesel. “Nhưng con bao giờ được điều đó ngoài đường, ở trường, ở BDM, bao giờ!” Ông đứng trước nó và xốc nách nó lên. Ông lắc người nó. “Con nghe bố chưa?”

      Với đôi mắt mở trừng trừng, Liesel gật đầu ra ý hiểu.

      Việc này, xét thực tế, là bài diễn tập của bài thuyết giảng trong tương lai, khi tất cả những nỗi sợ hãi tệ hại nhất của Hans Hubermann xảy ra ở phố Thiên Đàng vào giai đoạn sau đó trong năm, vào buổi sớm tháng Mười .

      “Tốt.” Ông đặt con bé xuống đất. “Bây giờ, chúng ta hãy thử xem.” Ở bậc thang cuối cùng, Bố đứng thẳng người và giơ tay lên. Chéo bốn mươi lăm độ. “Hitler vạn tuế.”

      Liesel đứng dậy và cũng giơ tay lên. Với khốn khổ đến cùng cực, nó lặp lại câu . “Hitler vạn tuế.” Đó cảnh tượng đáng xem - đứa bé mười tuổi, đứng ở bậc cấp của nhà thờ, cố bật khóc, chào mừng Quốc trưởng khi những giọng qua vai của Bố rơi phịch xuống và va vào bóng tối bức tường đằng sau.

      “Chúng ta vẫn là bạn chứ?”

      Chừng mười lăm phút sau, Bố cầm điếu thuốc tượng trưng cho hòa bình trong lòng bàn tay - mớ giấy gói và lá thuốc mà ông vừa nhận được.

      rằng, Liesel vươn người tới trước cách ủ dột và bắt đầu vê điếu thuốc ấy.

      Hai bố con cứ ngồi cùng nhau như thế lúc lâu.

      Khói trèo lên vai Bố.

      Mười phút sau, những cánh cửa của việc ăn cắp hơi hé mở chút, và Liesel Meminger mở chúng rộng ra chút nữa và lách người qua.


      HAI CÂU HỎI

      Những cánh cửa đóng lại sau lưng con bé chứ?

      Hay liệu chúng có ý tốt, vẫn mở để con bé quay trở ra?


      Như Liesel khám phá ra, việc trở thành tên trộm cừ khôi đòi hỏi rất nhiều yếu tố.

      lén lút. Lòng can đảm. Tốc độ.

      Dù vậy, hơn bất cứ điều gì trong số này, lại là cầu cuối cùng.

      may mắn.

      Thực ra.

      Hãy quên mười phút .

      Những cánh cửa giờ mở rồi.



      QUYỂN SÁCH CỦA LỬA


      Bóng tối phủ xuống từng chút , và với điếu thuốc được hút xong, Liesel và Hans Hubermann bắt đầu về nhà. Để ra khỏi quảng trường, họ cần phải ngang qua chỗ đống lửa và đoạn vỉa hè ngắn nữa mới đến được phố Munich. Nhưng họ xa được đến chừng ấy.

      người thợ mộc luống tuổi tên là Wolfang Edel cất tiếng gọi. Ông là người đóng cái bục cho những nhân vật quan trọng trong đảng Quốc xã đứng trong suốt buổi đốt lửa, và lúc này ông hạ nó xuống. “Hans Hubermann đấy phải ?” Ông có đôi hàng tóc mai kéo dài đến tận gần miệng, và giọng tối tăm. “Hansie!”

      “Chào, Wolfal,” Hans đáp. Ông giới thiệu đứa bé , và câu Hitler vạn tuế. “Tốt lắm, Liesel.”

      Trong vài phút đầu tiên, Liesel ở yên trong vòng bán kính năm mét của cuộc chuyện. Những câu lướt qua tai nó, nhưng con bé để ý đến chúng lắm.

      “Có nhiều việc làm ?”

      , bây giờ cái gì cũng khó khăn cả. biết hoàn cảnh bây giờ thế nào rồi đấy, đặc biệt là khi phải là đảng viên.”

      bảo với tôi là sắp vào Đảng rồi mà, Hansie.”

      “Tôi cố, nhưng tôi phạm sai lầm - tôi nghĩ là họ vẫn còn cân nhắc.”

      Liesel bước vẩn vơ về phía đống tro tàn. Đống tro như cục nam châm, như con quái vật, nó là thứ cám dỗ thể cưỡng lại với những đôi mắt, cũng giống như con phố của những ngôi sao vàng.

      Cũng như với thôi thúc phải nhìn thấy cái đống bùng cháy lên trước đó, con bé thể nhìn chỗ khác được. Chỉ có mình nó, bị ai buộc phải giữ khoản cách an toàn. Cái đống tro ấy hút Liesel về phía mình và con bé bắt đầu vòng quanh.

      cao, bầu trời hoàn thành nốt quy trình tối dần , nhưng đằng xa, sườn núi, vẫn có vệt sáng mờ mịt.

      “Pass auf, Kind,” bộ đồng phục cất tiếng với nó như thế. “Coi chừng đấy, nhóc,” khi ông ta lấy xẻng xúc thêm ít tro tàn lên xe đẩy.

      Phía gần tòa thị chính, dưới cây đèn, có vài bóng người đứng trò chuyện, rất có thể là hả hê vì thành công của đống lửa. Từ chỗ Liesel đứng, giọng của họ chỉ là những thanh. Con bé chẳng thể nghe được từ nào cả.

      Trong vài phút, con bé quan sát người ta lấy xẻng xúc dần đống tro, ban đầu là làm cho nó trông hơn ở phần rìa, để cho nó đổ sụp xuống. Họ cứ tới rồi lại lui từ chỗ chiếc xe tải, và sau ba chuyến quay quay lại như thế, khi cái đống tro ấy được dọn gần tới đáy, phần của thứ gì đó chưa cháy hẳn rơi ra từ bên trong.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :