1. QUY ĐỊNH BOX XUẤT BẢN :

       

    Đặt Title theo mẫu [Tên truyện] [dấu cách] - [dấu cách] [Tác giả] [Số chương]

    ----•Nội dung cần:

    - Hình minh họa (bìa truyện, hình ảnh,etc,...)

    - Tác giả

    - Dịch giả

    - Đơn vị phát hành

    - Số trang ( nên có)

    - Giá bìa (nên có)

    - Ngày xuất bản (nên có)

    --- Quy định

    1 . Thành viên post có thể tự type hoặc copy từ nơi khác (để nguồn)

    2 . Trình bày topic truyện khoa học, bôi đen số chương để dễ nhìn

    3. Cần có trách nhiệm post đến hết truyện. Nếu không thể tiếp tục post liên hệ

    Ad và Mod

  2. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Hoa tư dẫn - Đường Thất Công Tử (Tái bản)

Thảo luận trong 'Sách XB Hoàn'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221


      Hoa Tư Dẫn (Tái bản)


      [​IMG]



      Tác giả: Đường Thất Công Tử







      Dịch giả: Nguyễn Thành Phước







      Giá bìa: 139.000 ₫







      Kích thước: 16 x 24 cm







      Số trang: 560







      Ngày xuất bản: 14-06-2013







      Công ty phát hành: Quảng Văn







      Nhà xuất bản: NXB Văn Học







      Nguồn sách: Thanh Sắc Vi







      Chụp pic: kararoxbee







      Chỉnh sửa, bổ sung, beta: evangelica







      Làm ebook: Dâu Lê


















      Giới thiệu





      Những ngày thành tan nước mất, công chúa Vệ Quốc là Diệp Trăn hi sinh thân mình vì nước, và nhờ viên giao châu nên chết sống lại.


      Khi nàng gảy lên điệu Hoa Tư, có thể dệt lên mộng cảnh, thỏa mãn khát khao trong đáy tim con người.


      Tuy nhiên, khi viên giao châu bị đập vỡ, Diệp Trăn và Tô Dự - người nàng thương cuối cùng cũng vượt qua được vận mệnh như trò đùa…


      Nàng dùng hết sức lực và số mạng để diễn tấu khúc ca cuối cùng, vì ai mà cất lên?


      * * *


      Đây là câu chuyện diễn ra vào thời loạn thế. Những ngày thành tan nước mất, công chúa nước Vệ là Diệp Trăn hy sinh thân mình vì nước, nhờ viên giao châu của Quân sư phụ nên chết sống lại. Nhưng bây giờ nàng có hơi thở, có cảm giác, có trái tim, mặt vẫn còn vết sẹo thể xóa mờ. Từ đó nàng đổi tên thành Quân Phất. Quân sư phụ rằng ông muốn nàng hành thích Trần hầu, kẻ thù của đất nước và vương tộc nàng. Viên giao châu trong lồng ngực Quân Phất phong ấn Hoa Tư dẫn – loại thuật phép thượng cổ. Nếu ai đó uống vào dù chỉ là giọt máu của nàng, Quân Phất có thể tìm ra điệu Hoa Tư (tên điệu nhạc cổ) phù hợp nhất với người đó. Đánh điệu nhạc đó lên có thể tạo ra mộng cảnh, mộng cảnh ấy là tái của quá khứ. Muốn thoát ra khỏi mộng cảnh ấy phải xem người đó có thể thoát khỏi tâm mê của chính mình hay . Quân sư phụ muốn Quân Phất giết Trần hầu theo cách đó.


      "Hoa Tư dẫn" là câu chuyện vô cùng hấp dẫn, đặc sắc và độc đáo. Thực ra chủ đề chính của tác phẩm vẫn là về đề tài tình đôi lứa nhưng lại được xây dựng cực kỳ sáng tạo. Mỗi mối tình, mỗi cuộc đời của nhân vật trong "Hoa Tư dẫn" đều mang ý nghĩa, thông điệp, quan điểm riêng của tác giả về cuộc sống và tình , để lại cho độc giả nhiều điều để suy ngẫm. Đường Thất Công Tử có lối kể chuyện độc đáo, vừa cổ điển lại vừa đại, hài hước. Bên cạnh những câu chữ mang đậm phong vị văn thơ cổ của câu chuyện cổ trang, những lời bình luận và những đoạn đối thoại hài hước, đầy bất ngờ của các nhân vật lại mang đến cho người đọc cảm giác đại rất nét. Điều đó khiến cho những câu chuyện tình buồn trong cuốn truyện này được nhìn nhận dưới góc nhìn khác hơn, đơn thuần là bi kịch như nhiều truyện khác.







      “Hoa tư dẫn” - trang sử kỳ ảo bằng tranh


      (Phương Văn Sơn)


      “Cửu châu[1]” là tên của Trung Quốc cổ đại gọi theo phân chia khu vực địa lý hành chính, thiên hạ có tất cả chín châu(gồm: Ký Châu, Duyễn Châu, Thanh Châu, Từ Châu, Dương Châu, Kinh Châu, Lương Châu, Ung Châu, Dự Châu), đất Cửu Châu là chỉ lãnh thổ Trung Quốc, cửu tộc hướng triều, vạn dân đều phục.


      [1] Cửu Châu là tên Trung Quốc cổ đại, xuất sớm nhất trong cuốn “Vũ Cống”, tương truyền là thời “Đại Vủ trị thủy”. Đại Vũ chính là Tự Văn Mệnh, sau đó có công trị thủy nên được vua Thuấn truyền ngôi cho. Sau này trở thành vị vua huyền thoại ở Trung Quốc cổ đại với việc chống lũ, là vị vua đầu tiên của nhà Hạ, được coi là người sáng lập ra triều đại này. Để thuận lợi cho công việc trị thủy ông chia đất nước thành chín châu.


      Còn theo ghi chép trong “Liệt tử - Hoàng đế”, vua Hoàng buồn phiền vì quốc gia đại loạn, “đêm chiêm bao chu du đến vương quốc Hoa Tư” nhìn thấy vương quốc lý tưởng, khi tỉnh giấc trị vì đất nước theo những gì nhìn thấy trong mộng, khiến thiên hạ thái bình, đất nước phồn vinh, về sau vua Hoàng dựa vào mộng cảnh đó phổ thành khúc nhạc gồm ba trường đoạn gọi là “Hoa Tư điệu”, tương truyền nếu hợp tấu cả ba trường đoạn điên đảo mê ly, có thể nhìn thấy vạn cảnh chúng sinh, mọi ước nguyện đều trở thành thực, cuốn Hoa tư dẫn của Đường Thất Công Tử có điển tích từ đó.


      Có thể thấy với trí tưởng tượng siêu việt của Đường Thất Công Tử, thiên truyện phải là tưởng tượng sáng tạo hư , mà còn thể vốn kiến thức về văn học cổ điển vô cùng sâu rộng, đây cũng là điều nhiều tác giả ngày nay còn thiếu.


      Bốn phần trong thiên truyện đều bội phần tinh tế, trí tưởng tượng phong phú bay bổng, mỗi phần đều giống như khúc ca mang đậm chất Cổ phong[2] Trung Quốc. Ngôn từ như thơ như họa, lúc mềm mại như nét bút lông, uyển chuyển hàm súc đẹp như thơ, lúc phóng khoáng như cuồng thảo, phác họa lịch sử nước nhà. Mỗi dòng mỗi đoạn đều như họa, lại thêm tinh tế truyền thần tài hoa trong đặc tả, các tình tiết của câu truyện dung hòa cuốn hút ma mị, khiến độc giả cảm giác được xem bộ phim giấy, nhìn thấy những trang sử bằng tranh. Đối với tôi, Hoa tư dẫn là thiên truyện gối đầu giường, chỉ cần tiện tay giở trang là nhìn thấy những bức tranh ngôn từ ra trước mắt.


      [2] Cổ phong là thể thơ cổ có từ trước thời nhà Đường. Về sau trở thành tên gọi chung cho tất cả thơ ngũ ngôn, thất ngôn theo niêm luật, hạn chế số câu.







      Mỗi người đều cần lần cải tử hoàn sinh


      (Hứa Thường Đức)


      Có lẽ chỉ có kinh qua cái chết mới thấu hiểu ý nghĩa sống.


      Có lẽ lịch sử cần trải qua thời gian mới có thể tìm thấy giá trị đích thực của mình.


      Trước lời đồn năm 2012 là ngày tận thế, Hoa tư dẫn của Đường Thất Công Tử cho nhân vật nữ chính của thiên truyện cơ hội tái sinh, nữ nhân vật chính qua đời trong bối cảnh lịch sử phong ba bi tráng, từ đó bắt đầu những câu chuyện huyền diệu thông qua bí thuật gọi là Hoa Tư dẫn có thể khiến mộng tưởng trở thành thực, bắt đầu những chuyến phiêu lưu mạo hiểm diệu kỳ!


      Khi Hoa Tư điệu được tấu lên, cả người đánh đàn và người có ước nguyện đều rơi vào mộng cảnh do bí thuật tạo ra.


      Trong mộng cảnh, những hiểu lầm có thể được làm sáng tỏ, sai lầm có thể cứu vãn, những lời muốn cuối cùng cũng có thể ra, cuộc gặp gỡ mong muốn có thể bị lỡ, vậy là tất cả đều hoan hỉ, người người hạnh phúc, cái giá phải trả là tính mạng, từ đó người được toại nguyện mãi mãi đắm mình trong mộng cảnh hạnh phúc đó.


      Nếu là bạn, bạn có muốn ?


      Bạn có sai lầm gì cần dùng tính mạng để đổi lại.


      Nếu xin chúc mừng, phạm sai lầm, làm tổn thương người khác, làm tổn thương chính mình.


      Nếu có cũng xin chúc mừng, phải ai cũng dám dùng tính mạng để chuộc sai lầm, cũng phải ai phạm sai lầm đều muốn đem tính mạng đổi, dám đổi nghĩa là vẫn còn có thể cứu vãn.


      Có lẽ là chỉ khi xuất phát từ lợi ích bản thân, người ta mới có thể nhìn nhận và xử thế công bằng, đọc xong cuốn sách này, cái bạn cần chính là khả năng gạt bỏ cái tôi để bản thân trở nên mới mẻ.







      Đường Thất Công Tử





      Khi trung học đọc sách của Oscar Wilde, trong đó có câu khiến tôi luôn ghi nhớ. Ông , người muốn trở lại tuổi thanh xuân chỉ cần làm lại những việc ngốc nghếch từng làm là đủ rồi. Bây giớ mỗi ngày tôi đều làm những việc ngốc nghếch khiến mình tươi trẻ, nhưng cũng cảm thấy cứ tiếp tục tươi trẻ mãi thế này thực hay.
















      Mục lục





      Lời tựa


      Mở đầu


      1. Công chúa tuẫn tiết


      2. Mất nước


      Phần 1: Tận kiếp phù du


      Chương 1 Chương 2 Chương 3


      Chương 4 Chương 5


      Phần 2: Thập Tam Nguyệt


      Chương 1 Chương 2 Chương 3


      Chương 4 Chương 5 Chương 6


      Ngoại truyện: Khúc chia ly







      Phần 3: Tuyết ở Bối Trung


      Chương 1 Chương 2 Chương 3


      Chương 4 Chương 5 Chương 6


      Phần 4: Trọn đời bình an


      Chương 1 Chương 2 Chương 3


      Chương 4


      Đoạn kết


      Ngoại truyện: Quân cờ


      Ngoại truyện: Khúc trường an


      Phần kết: Hoa tư dẫn



    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Lời tựa



      (Diêu Khiêm)






      Tôi rất ít viết lời tựa cho tác phẩm, bởi tôi biết tôi đủ tư cách, trong sáng tác văn học, tôi chẳng qua là độc giả, học trò , trong mắt tôi, có thể viết ra câu chuyện, áng văn gây xúc động lòng người đều là thành tựu phi phàm, tôi hâm mộ những người tài năng như thế, tôi vui lòng để họ dẫn dắt vào những áng văn, những câu chuyện xúc động đó. Nếu bảo tôi ra cảm nghĩ sau khi đọc, tôi có thể thao thao bất tuyệt, nhưng muốn tôi viết lời tựa quá khó cho tôi. Nhưng lần này hơi khác, bởi vì lên kế hoạch sau khi về hưu viết nhiều chút nên mới làm quen với số nhà xuất bản, vì vậy có cơ duyên được xem trước sáng tác mới Hoa Tư dẫn của Đường Thất Công Tử, do may mắn được đọc trước, nên nén nổi vài câu tâm đắc.



      Trước đó tôi chưa hề đọc tác phẩm của Đường Thất Công Tử, nhưng từng đọc bình luận thấy có người đánh giá như sau: “Những câu chuyện xúc động với văn phong lưu loát, tình tiết, ngôn ngữ đậm chất hài của Đường Thất Công Tử làm rung động bao con tim nam thanh nữ tú, được vinh danh là bạo chúa của trái tim”. Bây giờ do hiếu kỳ mà đọc hết Hoa Tư dẫn, quả nhiên danh bất hư truyền! Những câu chuyện của chị có cấu tứ của điện ảnh, cho dù đây là truyện cổ trang, nhưng có tình tiết giống tiểu thuyết khoa học viễn tưởng. Góc nhìn và tình cảm đượm màu cổ, kim đến nỗi dường như vượt qua giới hạn thời , khiến trí tưởng tượng của người đọc càng thỏa sức tung hoành. Đọc xong Hoa Tư dẫn tôi có hiếu kỳ từ góc độ của độc giả đối với bản thân Đường Thất Công Tử, qua sắp xếp của nhà xuất bản, tôi có cơ hội chuyện điện thoại với chị, giọng nữ trẻ trung trong trẻo ở đầu dây bên kia khác hẳn tác giả thâm trầm trong hình dung của tôi. Tôi đặc biệt hiếu kỳ hỏi chị có xem bộ phim Inception, chị trả lời, những người xem tiểu thuyết này đều hỏi chị như vậy, chị quả thực có xem, nhưng là sau khi viết xong tiểu thuyết này, điều đó khiến tôi bội phần khâm phục trí tưởng tượng siêu phàm của chị.



      Tôi nghĩ chỉ có người trong giới cầm bút, mới có thể bay bổng trong gian tràn đầy sáng tạo như vậy cùng với cây bút của mình, giống như cậu bé Harry Potter cưỡi chiếc chổi của cậu ta. Từ đáy lòng tôi hy vọng chị tiếp tục khiến những người thích văn tài của chị có thêm những chuyến du lịch kỳ thú vượt thời cùng với ngòi bút tài hoa của chị.










      Mở đầu






      1. Công chúa tuẫn tiết






      Các vị tiên sinh kể chuyện trong trà lầu, phàm những người luống tuổi chắc hẳn đều từng nghe câu chuyện xảy ra ở quốc đô nước Vệ sáu mươi bảy năm trước.



      Câu chuyện tình tiết thế nào ngày nay ai được, tuy nhiên hết thảy bình luận cho dù nội dung khác nhau, nhưng phần luận về nhân quả việc lại hoàn toàn thống nhất.



      Đều , Vệ vương những năm trước đắc tội với Trần quốc, bốn năm sau Trần quốc tìm cơ hội thôn tính Vệ quốc. Trần thế tử Tô Dự đích thân xuất chinh, đánh thẳng vào vương thành Vệ quốc, đánh trận Vệ quốc đại bại. Vệ vương yếu hèn lựa chọn quy hàng, công chúa út Diệp Trăn của Vệ quốc quyết chịu nhục, trang điểm đẹp đẽ, đứng tường thành đanh thép chỉ trích, chỉ trích quốc chủ, dưới chỉ trích ba quân, sau đó hướng về vương cung bái biệt ba vái, rồi buông mình ngọc nhảy từ tường thành cao trăm trượng xuống, tuẫn tiết cùng Vệ quốc.



      Các sử quan gọi cố này là truyền kỳ, về sau nhiều bậc đế vương hậu thế phê ngự bút bên lề sách sử, rằng công chúa Diệp Trăn bộc lộ chút hào khí cuối cùng của Vệ quốc, xứng là liệt nữ.



      Sáu mươi bảy năm, Cửu Châu phân hợp, hợp phân, truyện xưa lùi vào dĩ vãng, bá tính mơ hồ nhớ lại nó giống như mơ hồ nhớ lại giai thoại truyền kỳ. Còn nghĩa cử tuẫn tiết của công chúa Diệp Trăn mặc dù gây xúc động mãnh liệt, sau khi lược bỏ sắc màu thần thánh và truyền kỳ, lại khiến thiên hạ nhớ lâu bằng thiên diễm tình ngang trái của nàng với Trần thế tử Tô Dự, mặc dù ai biết thực hư thế nào.



      Sử sách Đại Triều[1] cũng viết về mối tình Tô - Diệp, nhưng nhiều, chỉ ghi lại chuyện , kể rằng khi Trần thế tử Tô Dự tiếp nhận quốc ấn quy hàng của Vệ vương ở triều đường Vệ quốc, hỏi lão Vệ vương: “Nghe đồn Văn Xương công chúa của quý quốc là đệ nhất tài nữ trong thiên hạ, cầm kỳ thi họa rất mực tinh thông, nhất là tài vẽ tranh sơn thủy, Vệ công từng so sánh quốc ấn này với công chúa, biết hôm nay bản cung có được vinh hạnh thỉnh cầu Văn Xương công chúa họa cho bức quạt?”. Công chúa Văn Xương chính là phong hiệu của Diệp Trăn tuẫn tiết, với hàm ý văn đức hưng thịnh.



      [1] Đại Triều chỉ Thiên tử vùng đất Cửu châu rộng lớn.



      Sử sách chỉ sơ lược vài nét như vậy, những người biết chuyện năm xưa sớm về với cát bụi trong thế tình điên đảo sáu mươi bảy năm. Thiên tình sử truyền kỳ bi tráng đó cũng bị phủ bụi thời gian. Dân gian tuy truyền miệng, cũng chẳng qua như đuổi theo cái bóng, biết thực hư thế nào. Muốn lần lại câu chuyện này, phải quay về mùa xuân sáu mươi bảy năm trước.









      2. Mất nước






      Mùa xuân sáu mươi bảy năm trước, khắp dải đất phía bắc sông Trường Giang khô hạn, suốt nửa năm ròng ông trời ban cho nửa giọt mưa. Vệ quốc, trong những chư hầu Đại Triều mặc dù ở ngay bên bờ Đoan Hà, nước cũng chỉ đủ cho muôn dân khỏi chết khát, toàn bộ hoa màu nuôi sống muôn dân đều chết khô. quá hai mùa, nạn đói hoành hành toàn lãnh thổ đại Vệ, biến quang cảnh trở nên vô cùng thê thảm.



      Vệ vương hơn nửa đời vô dụng, kinh động bởi trận thiên tai ác hiểm, lần đầu tiên từ trong đống son phấn hiểu ra, nhanh chóng hạ lệnh quan phủ các nơi mở kho lương thực, cứu tế muôn dân. Quân vương mặc dù nhất thời minh, nhưng tệ nạn hủ bại thâm căn cố đế từ lâu nhất thời có cách nào dẹp được, từng đạo chiếu chỉ ban, kho lương mở, lương thực chia, lương thực của vạn thạch[1] kìn kìn chuyển ra, nhưng đến tay dân chỉ còn miếng cháo loãng. Muôn dân giương mắt nhìn quan phủ bố thí cho miếng cháo, ngờ miếng cháo quả nhiên chỉ được miếng, thấy dính răng, chứ đừng lấy gì để lấp đầy cái bụng rỗng.



      [1] Vạn thạch là từ dùng để thay thế cho ai đó, chức vị nào đó, địa danh nào đó. Ở đây là ý chỉ kho lương của Vệ quốc.



      Mắt thấy bị tuyệt đường sống, trăm họ đành phải vùng lên. Trăm họ nổi loạn bất chấp đạo vua tôi, tất phải có cớ, họ trời lâu ban mưa là do Vệ vương vô đức, khiến ông trời phẫn nộ, để dẹp nộ khí của đấng cao xanh tất phải đuổi Vệ vương vô đức ra khỏi ngôi báu.



      Lời đồn lan tới thâm cung vương đô nhanh như gió, Vệ vương choáng váng bàng hoàng bởi lời kết tội của muôn dân, tức tốc thiết triều lệnh cho quần thần bàn kế dẹp phản. Quần thần quen đạo làm quan, vài câu giả dối, ca tụng thánh chúa minh, coi như xong bổn phận.



      Chỉ có cát sĩ (kẻ sĩ tốt) mới tiếp quản chức vụ của thân phụ, chưa có kinh nghiệm làm quan, thà tâu lên: “Thiên hạ đều Huệ Nhất tiên sinh ở Thanh Ngôn tông núi Nhạn Hồi là bậc đại trí, nếu mời được tiên sinh xuống núi, có lẽ có kế hay, cần động binh”. Thanh Ngôn tông là quốc tông của Vệ quốc, cầu phúc cho Vệ quốc, phù hộ cho quốc mệnh, tông chủ thế hệ này là Huệ Nhất tiên sinh.



      Có lẽ số phận định khí số của Vệ quốc tận, chính trong đêm Vệ công phái sứ giả đến quốc tông mời Huệ Nhất, lão tông chủ tám mươi hai tuổi trút hơi thở cuối cùng. Trước khi tạ thế, Huệ Nhất lưu lại cẩm nang, trong cẩm nang là tờ giấy trắng, viết tám chữ theo lối bạch thoại: “Hội minh phương dĩ, đại họa đông lai[2]”. Vệ công cầm cẩm nang nghiền ngẫm suốt đêm trong thư phòng. Thị giả(người hầu) ngủ gật bên ngoài loáng thoáng nghe thấy tiếng nức nở từ thư phòng vẳng ra.



      [2] Nghĩa là, cần liên minh với các chư hầu, đại họa đến từ phía đông.



      Huệ Nhất phán đoán như thần, vừa qua mồng chín tháng chín, Trần quốc, láng giềng phía đông dấy binh công phạt Vệ quốc. Lý do là năm trước vào dịp chư hầu hội minh, Vệ hầu vương lúc săn cố ý bắn rách nửa góc áo Trần hầu vương, Vệ hầu ngang nhiên coi thường quân uy Trần hầu, hạ nhục Trần quốc. Mười vạn đại quân Trần thế như gió bão, nhất lộ thẳng tiến, hầu như gặp trở ngại, chưa đầy hai tháng đại quân dàn hàng bên ngoài vương thành Vệ quốc.



      Toàn thiên hạ nhìn nhận cuộc chiến này như trò cười, mấy mưu sĩ của Trần hầu thậm chí còn đánh cuộc sau lưng, xem lão Vệ công vô dụng có thể trụ được mấy ngày. Trần thế tử Tô Dự đúng lúc ngang qua, phe phảy chiếc quạt bạch ngọc trong tay: “Muộn nhất là vào giờ ngọ ngày mai”.



      Chính ngọ hôm sau, mặt trời lười biếng trốn sau mây đen, hé ra vòng sáng trắng, vương đô Vệ quốc giống như chiếc hộp đựng dế chọi treo lơ lửng .



      Giờ ngọ ba khắc, lá cờ hàng trắng quả nhiên kéo lên ở phía đầu thành, từ khi được Hoàng đế Đại Triều phong hầu, phúc trạch của Vệ quốc kéo dài tám mươi sáu năm, cuối cùng chấm dứt trong năm đó. Lão quốc vương thân hành rước Tô Dự vào cung, tông thất, quần thần lớn bé nhất loạt quỳ phục trước triều đường, họ đều là những thần tử thông tỏ sách thánh hiền, rất hiểu thời cuộc, chim khôn luôn biết tìm cây tốt nương đậu.



      Sau giờ ngọ, mặt trời trốn hẳn sau tầng mây, hoàn toàn thấy ánh sáng, ông trời hạn hán lâu, nay dường như mới mở mắt, đột nhiên rỏ mấy giọt mưa. Trần thế tử Tô Dự mình khoác áo lông hạc, tay cầm chiếc quạt ngà mười hai nan, đường đường đứng bên ngai vàng triều đường, tiếp nhận quốc ấn do lão Vệ vương trình lên, hỏi vài điều về công chúa Văn Xương, khác chữ so với ghi chép của sử quan.



      Có điều, thế tử Tô Dự vinh hạnh có được bút tích của Diệp Trăn, khi chàng câu đó với lão Vệ vương trước triều đường, Diệp Trăn trèo lên đỉnh vương thành. Cuộc hội ngộ đầu tiên của Tô Dự và Diệp Trăn có sử liệu để tra cứu là trong buổi chiều đúng ngày Vệ quốc diệt vong, cách bức thành cao trăm trượng, giữa hai đầu sinh tử.



      Chàng thậm chí nhìn dung nhan khuynh thành của Diệp Trăn như lời đồn đại, mặc dù chàng nghe đồn từ lâu. Nghe trăm ngày sau khi Diệp Trăn ra đời, Vệ vương chiêm bao thấy trưởng tăng điên điên khùng khùng, trưởng tăng phán rằng, mặc dù xuất thân hoàng tộc, nhưng công chúa là người bạc mệnh vô phúc, vương cung phế khí quá nặng, nếu nuôi dưỡng trong cung nhất định thể sống qua mười sáu tuổi.



      Nghe đồn Vệ vương tin lời trưởng tăng, ngay từ gửi nuôi nàng ở Quốc tông của Vệ quốc để cầu bình an, thề gặp lại trước khi công chúa mười sáu tuổi. Lại nghe đồn hai năm trước, vào ngày đại thọ Vệ công, Diệp Trăn vẽ bức “Sơn Cư Đồ[3]” làm quà mừng thọ phụ thân, được khách tham dự trầm trồ thán phục, Vệ công rất mừng.



      [3] Sơn Cư Đồ là bức tranh sơn thủy, họa lại cảnh non xanh nước biếc, thể dương hài hòa, trường tồn vĩnh cửu.



      Trong màn mưa mênh mang, Tô Dự tay cầm quạt đứng dưới lầu, chợt nhớ tới lời của vương muội Tô Nghi trước lúc chàng xuất chinh: “Nghe đồn Văn Xương công chúa Vệ quốc vô cùng xinh đẹp, lại trí tuệ tài hoa, là giai nhân tài mạo vẹn toàn, huynh xuất chinh lần này khi giương cờ chiến thắng, liệu có đón được Văn Xương công chúa về cung, làm chị dâu của muội?”. Chiếc váy dài của Diệp Trăn bay phấp phới tường thành, đột nhiên bóng người mảnh dẻ từ thành cao trăm trượng lao xuống như con chim trắng, chiếc váy nhuốm đỏ khi nàng nằm đất, trong hàng quân bên dưới ào lên tiếng khóc than của tướng sĩ Vệ quốc.



      Tô Dự nhìn thân hình nhuốm máu phía xa, thẫn thờ hồi lâu mới gập chiếc quạt trong tay, : “Hậu táng theo chế lễ dành cho công chúa”.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Phần 1: Tận kiếp phù du






      hôn mắt chàng, run rẩy chống tay ngồi dậy, ôm mặt chàng, “Em cứu chàng, cho dù phải chết, em cũng cứu chàng”.













      Chương 1






      Tháng tư, sắc xuân ngập tràn núi rừng, Quân sư phụ cuối cùng trở về sau sáu tháng biệt tăm. Có nghĩa là những vết khâu cơ thể tôi lâu nữa có thể cắt chỉ.



      Sáu tháng nay, toàn thân tôi bị băng bó kín. Ban đầu, tôi còn có hứng thú rong ruổi trong đêm tối nhảy ra ngoài dọa đồng môn. Nhưng lâu sau, tôi phát chẳng môn sinh nào sợ hãi khi họ bị dọa lần. Mà tôi lại thể nhận ra những ai từng bị dọa, những ai chưa. Vậy là tôi mất hứng trêu mọi người.



      Hai tháng trôi qua, tôi thấy hơi khó chịu.



      Nhiều đồng môn tưởng tôi chịu đựng nổi hàng ngày mang cơ thể quấn đầy băng, ngâm bốn canh giờ trong bể thuốc. Thực ra, ngâm thuốc như vậy dưỡng thương rất tốt. Chỉ có điều, sau khi ngâm, phải giữ nguyên những lớp băng ướt sũng như vậy ngồi chờ cho đến lúc khô, điều này khiến tôi vô cùng khó chịu. khó chịu càng tăng lên khi thời tiết lạnh dần.



      Về sau, tôi nghĩ phàm những hùng cái thế, đều phải chấp nhận những thử thách rèn luyện đặc biệt hà khắc của sư phụ. Quân sư phụ ắt là muốn giúp tôi rèn luyện bản lĩnh, nghị lực. Vì vậy, dẫu trong những ngày tháng Chạp buốt giá căm căm, tôi cũng cắn răng chịu đựng, quyết bỏ cuộc, cho dù có thể bị nhiễm thương hàn.



      Kiên trì được nửa năm, qua mấy lần cảm thương hàn, quả nhiên khả năng kháng hàn của tôi tăng lên rệt. Tôi chuyện đó với Quân sư phụ, sư phụ trầm tư giây lát, rồi hóm hỉnh trả lời: “À... ta quên bảo con, cạnh nhà tắm có cái lò có thể giúp vải băng người khô nhanh, ha ha...”.



      Quân sư phụ chính là tông chủ Quân Vũ giáo. Quân Vũ giáo lập nghiệp núi Quân Vũ, thuộc địa phận Trần quốc. Nghe , ông tổ khai sơn lập giáo phải họ Quân mà là họ Vương, xuất thân nghèo khó, cha mẹ đặt tên là Vương Tiểu Nhị[1].



      [1] Tiểu nhị: người phụ việc trong các nhà hàng, quán trọ.



      Về sau, Vương Tiểu Nhị được bậc cao nhân truyền võ, sau khi thành tài, lập ra giáo phái núi Quân Vũ. Nhưng chiêu mộ được đệ tử tốt, hỏi ra mới biết, khi nghe danh giáo chủ Quân Vũ là Vương Tiểu Nhị, mọi người đều cho rằng đó là lớp dạy nghề phụ việc, đệ tử học xong phục vụ trong các quán ăn khắp nước.



      Vương Tiểu Nhị đành mời ông thầy đồ gần đó đổi tên cho. Ông thầy xem xét đại thế thiên hạ, rồi phán, các họ lớn như Đông Phương, Tây Môn, Nam Quan, Bắc Đường, Thượng Quan, Mộ Dung đều lập giáo phái riêng; Hai họ Đông Quách và Nam Quách mặc dù chưa lập giáo, song nếu lấy họ này khó khăn trong việc giải thích lai lịch, chi bằng lấy ngay tên địa danh, lập giáo phái núi Quân Vũ, vậy lấy họ Quân Vũ, coi như sáng tạo ra họ kép mới, họ Quân Vũ.



      Nhưng lại nghĩ, tạo ra họ kép phải lập hồ sơ trình quan phủ, thủ tục phức tạp, lại có người tiến cử, chi bằng tốt nhất dùng ngay họ “Quân”, vả lại họ này nghe rất khí thế, rất “quân tử”. Vương Tiểu Nhị thấy có lý, bèn đổi thành họ “Quân” và nghe theo đề nghị của ông thầy, dựa theo cổ dịch trực tiếp hai chữ “Tiểu Nhị” thành Thiếu Song[2], tên đầy đủ là Quân Thiếu Song.



      [2] “Tiểu” là , ít chuyển thành “Thiếu” cũng là ít, “Nhị” là hai chuyển thành “Song” cũng là hai.



      Sau khi Vương Tiểu Nhị đổi tên thành Quân Thiếu Song quả nhiên chiêu mộ được rất nhiều đệ tử tốt. Từ đó thanh thế của Quân Vũ giáo mạnh dần. Quân sư phụ chính là cháu bảy đời của sư tổ Quân Thiếu Song.



      Từ tôi biết Quân sư phụ. Lúc đó tôi còn sống trong Quốc tông của Vệ quốc. Sư phụ đầu tiên của tôi là Huệ Nhất tiên sinh, tuổi tuy cao nhưng vẫn tráng kiện, ăn uống cũng tốt, đến món đậu phộng rang vẫn còn nhai được. Quân sư phụ đưa con trai đến sống gần Thanh Ngôn tông, ở trong căn nhà tranh cách núi Nhạn Hồi hai dặm, thường đến chơi cờ với sư phụ tôi.



      Lúc sư phụ đưa tôi lên núi ngắm mặt trời mọc, thường nghỉ lại ở căn nhà đó của Quân sư phụ. Trong nhà chỉ có chiếc giường. Mỗi lần tôi và sư phụ đến, bao giờ tôi cũng được dành cho chiếc giường đó. Ba người còn lại trải chiếu nằm dưới đất. Điều đó khiến tôi rất khoái trá, vì mỗi lần tới đó, tôi trở thành người đặc biệt.



      Sau này, tôi chuyện đó với Quân Vỹ, con trai của Quân sư phụ. Quân Vỹ : “Như thế chứng tỏ có lẽ muội là công chúa bẩm sinh, chỉ có công chúa mới thích khác người”. Nhưng tôi đồng ý với lý giải của Quân Vỹ, công chúa phải là thích khác người, mà là quen với khác người. Chủ yếu là do ai dám giống công chúa. Giữa thích và quen rất khác nhau. Điều này nhiều năm sau khi phải đối diện với cái chết, tôi mới thấu hiểu sâu sắc.



      Quân Vỹ là người am tường kim cổ, ta biết rất rành về lai lịch những thê thiếp của hoàng đế các triều đại, thậm chí cả những người được hoàng đế ân sủng đêm, chưa kịp rước về.



      Quân Vỹ cho rằng, gia ảnh hưởng quốc , quốc là việc lớn của thiên hạ, mà gia của các bậc đế vương hầu hết là do hậu cung gây ra. Thực ra, chỉ cần các vị hoàng đế quá ham mê nữ sắc, nạp nhiều phi tần là xảy ra chuyện gì. Nhưng nạp thêm phi tần quả là tàn nhẫn đối với hoàng đế, hoàng đế cảm thấy thể tàn nhẫn với bản thân, thế là họ lựa chọn tàn nhẫn với thiên hạ.



      Quan điểm của Quân Vỹ là hòa hợp hậu cung của hoàng đế chính là hòa hợp toàn thiên hạ. Từ đó, cả đời ta tập trung suy nghĩ, làm thế nào để hòa hợp hậu cung của hoàng đế.



      Ngoài đại cả đời đó, Quân Vỹ còn có niềm đam mê khác. Đam mê viết tiểu thuyết. Nhưng Quân sư phụ rất tán thành. Bởi lẽ, sư phụ mong muốn con trai trở thành kiếm khách nổi tiếng thiên hạ. Hễ thấy ta viết tiểu thuyết là tịch thu bản thảo, phạt chép kiếm phổ. Thế là ta đành văn võ kết hợp, lén viết tiểu thuyết trong quá trình chép phạt kiếm phổ.



      Trong những bản kiếm pháp Quân Vỹ chép phạt, thỉnh thoảng có đoạn đại loại như: “Mỗi khi mặt trời chiếu sáng, nàng dùng đôi tay trần cởi từng lớp xiêm y, để tấm thân như men sứ lõa lồ dưới ánh mặt trời. Đó là nơi cực lạnh, nàng ngồi chiếc giường băng lạnh, phát ra tia sáng trắng lạnh người, lạnh, rất lạnh, vô cùng lạnh, nàng cứ ngồi khoanh chân như thế, mặt hướng về bắc, lưng quay về nam. Hơi khí vận hành đủ vòng viên mãn. Nàng hề biết, xa xa cách đó mười trượng, phía sau lớp lớp giậu tường vi mùa đông đôi mắt đen thẫm lần theo từng tấc da thịt nàng”.



      Thực ra ai nghĩ, đó là bốn câu luận về tâm thái trong kiếm pháp: “Lúc trời lạnh nhất, ngồi giường băng, lõa thể mặt hướng về bắc, vận khí đủ tuần chẵn”. Sau này, Quân Vỹ trở thành kiếm khách giỏi viết tiểu thuyết nhất và tiểu thuyết gia kiếm pháp cao cường nhất.



      Bản thân tôi vì lớn lên trong Thanh Ngôn tông phái, tông phái quy định đàn ông được để tóc. Cả tông môn gần hai ngàn người, trừ tôi tất cả đều là đàn ông. Vì vậy, toàn tông môn chỉ có mình tôi để tóc dài. Điều này khiến tôi có những lệch lạc trong nhận thức đầu tiên về giới tính, trong thời gian dài tôi cho là khác biệt lớn nhất giữa đàn ông và đàn bà là đàn bà để tóc dài, đàn ông đầu trọc. Thế là đương nhiên tôi cho rằng Quân sư phụ và Quân Vỹ đều là đàn bà. Cảm giác tương đồng giới tính khiến tôi trở nên thân thiết với họ.



      Rất tự nhiên, sau này tôi cuối cùng cũng vỡ lẽ, cha con họ đều là đàn ông. Nhưng ý nghĩ họ là đàn bà thâm căn cố đế trong tôi, khiến sau này tôi thể nào đối xử với Quân Vỹ theo tình cảm nam nữ. Luôn coi ta là chị em của tôi, câu chuyện vốn là thanh mai trúc mã, bị tôi biến thành chỉ thuần thanh mai.



      Lúc ba tuổi, vì cơ duyên ngẫu nhiên tôi biết mình là công chúa nước Vệ, nhưng tôi thấy chuyện này cũng rất bình thường. Chủ yếu là do lúc đó tôi chẳng hiểu “công chúa” là gì. Quân Vỹ lớn hơn tôi tuổi. Biết hơn tôi chút, ta : “Công chúa thực ra là tầng lớp đặc quyền”. Tôi hỏi: “Đặc quyền nghĩa là gì?”. Quân Vỹ trả lời: “Là mọi điều muội muốn đều có thể làm, những điều thích có thể làm”. Nghe Quân Vỹ vậy, trưa hôm đó tôi dứt khoát chịu rửa bát, buổi tối cũng giặt quần áo, kết quả tôi bị sư phụ phạt quỳ tới nửa đêm.



      Từ đó về sau, tôi thực quên mình là công chúa. Cũng năm đó, sư phụ thấy tôi cũng lớn liền dạy tôi cầm kỳ thi h͡. Sư phụ cho rằng, con người ta sống đời nên có gì đó để gửi gắm nỗi lòng.



      Nếu cầm kỳ thi họa tôi đều tinh thông đương nhiên là tốt nhất, coi như thành nhân tài. Hoặc nếu chỉ giỏi trong tứ tài đó cũng tốt, nhất cũng là chuyên gia. Nếu như cái gì cũng giỏi, cái gì cũng biết ít, bét nhất cũng là tạp gia. Tôi hỏi sư phụ: “Ngộ nhỡ sau này con những giỏi mà còn hoài nghi ý nghĩa những thứ phải học đó sao?”. Sư phụ trầm ngâm rồi trả lời: “Triết gia, dù gì cũng là nhà gì đó...”.



      biết tại sao, Quân Vỹ bái sư phụ tôi làm thầy nhưng lại có thể cùng học với tôi. Sư phụ giải thích là học thuật vốn biên giới, phân biệt sư môn. Quân Vỹ lại bí mật tiết lộ với tôi, đó là do cha ta tặng sư phụ mười cây nhân sâm nghìn tuổi.



      Quả nhiên, học thuật là biên giới, biên giới quốc gia cũng có thể mua được. Học cùng với Quân Vỹ, lúc tập viết chữ còn có thể chịu được, nhưng lúc học đàn tôi thực khó chịu. Lúc mới học đàn, chúng tôi mỗi người cây đàn, ngồi đối diện ở hai đầu phòng, cùng chơi đàn. Nhưng ở cái tuổi này tôi sao hiểu nổi dư của tiếng đàn có thể dai dẳng ba ngày dứt, mà điều đầu tiên tôi hiểu là tại sao tiếng đàn như quỷ ám đó có thể khiến người ta như bị cắn xé, tan nát cõi lòng.



      Chúng tôi ai nấy đều cảm thấy người kia chơi quá tuyệt, làm cho mình đau khổ, lại càng cố tạo ra thanh diệu kỳ khiến người kia càng đau khổ để trả thù. Cây đàn trong ấn tượng của tôi là hung khí, phải nhạc cụ. Điều đó cũng lý giải vì sao tôi học được cách giết người bằng tiếng đàn mà mãi mãi học được cách dùng tiếng đàn để cứu người, đó hoàn toàn là ám ảnh tâm lý Quân Vỹ tạo cho tôi. Nhưng sau khi tôi học được cách giết người bằng tiếng đàn, muốn dùng tiếng đàn để cứu người tất cả chết.



      Lúc mười tuổi, tôi nhặt được con hổ con vừa mở mắt. Con hổ đó theo tôi suốt đời, thể lòng trung thành tột bậc của con dã thú. Mặc dù nghĩ lại hồi đó, tôi và Quân Vỹ nhặt con hổ đó chẳng qua chỉ vì định giết thịt nó. Đúng lúc cha Quân Vỹ bị sư phụ tôi thuyết phục, quyết làm người bảo vệ động vật, khiến Quân Vỹ ba tháng liền biết tới mùi thịt. Còn tôi sống trong tông phái cũng ít ăn thịt, đúng lúc chúng tôi thèm thịt nhất.



      Sau này, ăn thịt con hổ đó hoàn toàn là do chúng tôi thấy có thể nuôi nó lớn hơn chút nữa, như vậy thịt mới có thể làm được nhiều món khác nhau như vừa luộc vừa hấp lại đến hầm đến xào, khéo vẫn còn thừa ấy chứ. Bây giờ nghĩ lại, lúc đó tôi có thể kìm chế cơn thèm, giết Tiểu Hoàng đúng là việc đáng khâm phục. Tiểu Hoàng là tên con hổ đó. Sau này, khi tìm hiểu kỹ tôi phát con hổ đó thuộc loài hổ quý. Tôi và Quân Vỹ đều rất vui, bởi vì bán nó có thể kiếm được món tiền to. Nhưng khổ nỗi tìm được người mua, đành giữ nó lại.



      Đến khi chúng tôi tìm được người mua, cả hai lớn, chúng tôi cũng dần dần có tiền, cần phải trông vào tiền bán hổ nữa. Điều đó khiến chúng tôi khỏi than thở, đời người là vậy, con đường phát tài sao mà gian khổ.



      Số mệnh an bài mỗi lần tôi gặp chuyện lớn đều chỉ có mình, hơn nữa còn bị thương. Sư phụ , “Con nghe chưa, ông trời đặt trọng trách lên vai người nào, trước tiên cũng đều thử gân cốt người đó...”. Tôi có thể tưởng tượng, trọng trách lớn nhất mà ông trời có thể đặt lên vai tôi chắc chắn ngoài khả năng sau khi sư phụ qua đời, tiếp nhận tông y, trở thành tông chủ. Nhưng về sau, Quân Vỹ lén lấy tông quy cho tôi xem, trong đó quy định , nữ nhi và phù thủy được đảm nhận chức vụ trong Quốc tông, thế là giấc mộng của tôi tan thành mây khói.



      Nhiều người sau khi vỡ mộng thường vào tà đạo. Dưới chân núi cũng có thích khách do mưu việc lớn thành mà lưu lạc giang hồ, sau chuyển nghề mổ lợn. Lại có nho sinh do hỏng thi mà chuyển sang viết tiểu thuyết dâm ô, vẽ tranh khiêu dâm. Nhưng trước sau tôi vẫn cho rằng, mơ mộng và lấy vợ cũng gần như nhau, cái cũ chưa qua, cái mới sao đến được, hơn nữa cái mới thường tốt hơn cái cũ, mộng cũ tan vỡ là để xây mộng mới. Đó là việc đáng mừng, có gì đáng chán nản.



      Tôi chia sẻ suy nghĩ này với Quân Vỹ, ta cũng cho là có lý. Thế là buổi chiều ta hăm hở xuống núi an ủi Vương Mục Tượng, người đàn ông vừa mất vợ: “Vợ mất sớm muộn cũng có người đàn bà mới đến với . Vợ mới chắc chắn tốt hơn vợ cũ. Đó là việc đáng mừng. cứ vui lên, việc gì phải đau lòng”. Hậu quả là bị Vương Mục Tượng vác chổi đuổi đánh, Quân Vỹ thể giải thích được gì, thậm chí còn thấy bị tổn thương. Tôi đành an ủi ta: “Người đời thường tỏ ra tức giận khi chân tướng bị bại lộ để che đậy nỗi xấu hổ trong lòng”.



      Trong cái đêm giấc mộng trở thành tông chủ tan vỡ, tôi dự định lúc trời sẩm tối ra ngoài, vào rừng bẫy chim để thay đổi tâm trạng, tìm cảm giác mới mẻ, dệt giấc mơ mới, lấy lại niềm tin. Có thể thấy, tôi thực người theo chủ nghĩa tích cực.



      Ngoài ra, tính cách tích cực đó còn thể trong cuộc sống riêng tư của tôi. Ví dụ, tôi bao giờ hoài nghi, ngày nào sau này tôi có chồng, chẳng may ta mất sớm, tôi ngần ngại thu dọn hành trang ra ngay trong đêm ta tắt thở, tìm người chồng mới.



      Nhưng cho tới cái đêm tôi bị lây cảm cúm từ Quân sư phụ, vẫn quen cho rằng người chồng tương lai của mình là Quân Vỹ, thấy ta vô tư nhảy nhót trước mặt mình, tôi thầm nghĩ: Ôi trời, sao mình có thể lập tức tìm hạnh phúc mới khi con người này vừa tắt thở?



      May mà suy nghĩ đó chỉ kéo dài đến cái đêm giữa hạ khi tôi mười bốn tuổi, đêm dự định xây lại giấc mơ đó.



      Về cái đêm giữa hạ đó, có bao nhiêu mỹ tự để mô tả, nhưng chân thực nhất chính là ba chữ: quá tàn nhẫn. Nghe trong đêm giữa hạ, rắn độc đặc biệt trở nên hung dữ. Trong tông môn có ba người bị rắn độc cắn khi ra ngoài vào ban đêm, mong những người khác cảnh giác, phải biết quý trọng bản thân.



      Khi còn , tôi luôn tin rằng mình là người đặc biệt, giống ba người bất hạnh kia, lần ra ngoài đó mang theo hùng hoàng[3]. Bây giờ nghĩ lại, ba sư huynh chết vì bị rắn độc cắn đó chắc cũng nghĩ rằng mình đặc biệt. Con người ta ai cũng cho rằng mình đặc biệt, thực ra trong mắt người khác chẳng có gì đặc biệt, trong mắt rắn độc lại càng có gì đặc biệt.



      [3] Hùng hoàng là loại đá mà rắn độc rất sợ.



      Có lẽ đối với loài rắn độc, chỉ có người mang theo hùng hoàng mới đặc biệt. Lúc còn , chúng ta thường muốn tỏ ra khác người, lúc trưởng thành lại muốn giống mọi người. Nếu có thể ngược lại, chẳng phải quá tốt hay sao, chí ít tính mạng của ba sư huynh đó cũng được bảo toàn, cho dù trở thành người thực vật. Nhưng tôi lại mang theo hùng hoàng, ràng rắn độc thấy tôi chẳng có gì đặc biệt.



      con rắn xanh, đuôi , mồm có viền trắng đớp vào chân tôi cái, chất độc ngấm vào máu truyền khắp cơ thể. Tôi lảo đảo lúc, dần dần ngã gục, vào lúc ý thức mơ hồ, cuối cùng tôi hiểu ra đạo lý tôi . Tôi lại còn nhớ đến hai bức tranh vẽ ngôi chùa cổ trong núi mà tôi phải vẽ hai ngày mới xong, biết được tô màu hay chưa, sau khi nhớ lại, cảm thấy chẳng có gì lưu luyến, có thể yên tâm nhắm mắt đợi thần chết đến, rồi mở ra được nữa .



      Đúng lúc đó, có tiếng giày đạp lá khô lạo xạo vẳng lại mỗi lúc gần, cuối cùng dừng lại bên tôi, bế tôi lên, thoảng ngửi thấy mùi hương mai thanh lạnh, có thể hình dung ra trong đêm thanh vắng dưới muôn ánh sao xán lạn, hoa mai tháng hai nở đầy các triền núi.



      Lúc tỉnh dậy, cảm thấy huyết dịch sôi sục trong người, chảy xuống tụ ở vùng bụng, tay sờ lên bụng, từng trận đau ỉ. Gót chân chỗ bị rắn cắn tê cứng, chạm vào vật gì mềm mềm ấm, đầu gối hơi co, bắp chân như bị treo . Toàn thân cảm giác kỳ dị như vậy, tôi chịu được, muốn mở mắt xem có chuyện gì. Vừa mở ra, thấy ngay cảnh tượng khủng khiếp. Đó là cảnh trong hang núi, tôi nằm chiếc giường đá, dưới ánh trăng bàng bạc, chân phải bị người đàn ông nắm chặt. Ngón tay mảnh khảnh, trắng muốt, miệng ta ngậm chặt vết thương ở gót chân tôi. Tôi chỉ nhìn được phía đó, phía bên kia bị món tóc xõa che khuất, khiến tôi chỉ muốn vén tóc ta để nhìn cho kỹ. ta biết tôi tỉnh, toàn thân ta y phục đen tuyền, lặng lẽ ngồi cạnh mép giường đá, miệng vẫn ngậm chặt gót chân tôi. Ống tay áo dài rộng trùm chân tôi, cúi đầu, có thể nhìn thấy những đường viền hoa văn cùng màu ở cổ tay.



      Mọi vật xung quanh mờ mờ, thể nhìn . Món tóc đen mướt xõa xuống, chạm vào chân tôi. Trộm nghĩ nếu cả hai ở tư thế kỳ quặc như vậy, hội ngộ giữa thiếu nữ xinh đẹp và chàng công tử hào hoa bay bổng lãng mạn như nét chữ thảo của nhà đại thư pháp. Tự nhiên, tôi cảm thấy bị người ta cợt nhả, liền thuận thế đạp cho ta cái. Cú đạp quá mạnh, khiến máu ở chỗ kín trong người ục ra.



      Tôi và người đó lần đầu gặp nhau, tôi đạp ta cái, hậu quả là bật ra máu tháng đầu tiên.



      ta đương nhiên bị đạp ngã, nhìn thấy tôi ra chân, ta lập tức lùi về sau, có thể thấy ta phản ứng rất nhanh. Còn tôi hoàn toàn nhận ra rút cục ta làm thế nào từ tư thế ngồi chuyển sang tư thế đứng, nhưng tôi thấy thân thủ ta mồn . Tôi nheo mắt nhìn ta, dưới ánh trăng màu bạc rọi vào cửa hang, dáng người ta to cao thẳng tắp, chiếc mặt nạ màu bạc che nửa khuôn mặt bắt đầu từ sống mũi tới trán, phía dưới là đôi môi mỏng lạnh lùng, hàm dưới là đường vòng cung tuyệt đẹp.



      thoáng yên lặng.



      ta lau vết máu dính môi, nhếch mép: “Ghê gớm , tôi cứu , vậy mà lấy oán trả ơn”.



      Nhưng cơ thể ra quá nhiều máu khiến tôi hoảng sợ, thể giải thích được gì, đột nhiên òa khóc. Trong khi khóc, vùng bụng vận động quá mạnh, khiến váy tôi dần dần ướt hết, máu trào từng đợt, càng lúc càng nghiêm trọng. Nhưng tồi tệ nhất là, hôm đó tôi mặc váy trắng. Ánh mắt ta bắt đầu hướng vào chiếc váy của tôi, ngập ngừng lát, ta hỏi: “Nước quỳ[4] à?”.



      [4] Quỳ là tên gọi khác của hoa hướng dương. “Nước quỳ” là cách nho nhã của việc đến tháng của phụ nữ cổ Trung Quốc.



      Tôi nức nở: “Cám ơn, tôi khát. Nhưng có lẽ tôi bị chứng bại huyết, sắp chết rồi”.



      ta tiếp tục chú ý tới chiếc váy của tôi, chặc lưỡi tiếng: “ chết đâu, chỉ là thấy nước quỳ mà thôi”.



      Tôi hiểu: “Nước quỳ là gì?”.



      ta lưỡng lự lát: “Chuyện này mẹ nên với chứ”.



      Tôi : “ à, tôi có mẹ, hãy với tôi ”.



      khó tưởng tượng, tôi nhận được toàn bộ kiến thức về “nước quỳ” từ người đàn ông xa lạ. Nhưng càng khó tưởng tượng nếu sư phụ đích thân với tôi là, “Nước quỳ chính là tử cung xuất huyết có quy luật, theo chu kỳ...”. Ngay ông trời cũng cảm thấy như vậy là làm khó cho ông lão bảy mươi chín tuổi, nên để cho ông phải .



      ta bảo tên ta là Mộ Ngôn. Đương nhiên đó phải là tên . Nếu người đeo mặt nạ, cái tên tất nhiên cũng là tên giả, nếu mất ý nghĩa của việc giấu mặt.



      Tôi với ta tôi tên là Quân Phú Quý, hoàn toàn chỉ là do lo sợ, biết đâu con người này là kẻ thù của cha tôi mà tôi chưa biết mặt. khi biết tôi là con của ông rất có thể giết tôi để rửa hận. Trong lịch sử có những bi kịch như vậy, rất nhiều công chúa bị liên lụy, mất mạng, nếu cũng bị ép gả cho người nào đó, để rồi sống trong hôn nhân bất hạnh.



      Vậy là, chúng tôi ở bốn, năm ngày trong hang núi, uống nước suối bên ngoài, ăn các loài cá dưới suối. Tôi thể về nhà ngay được vì chất độc còn chưa giải hết, bởi vì Mộ Ngôn cho rằng, cứu người phải cứu tới cùng, cũng như tiễn Phật phải tiễn đến tận Tây Thiên, làm nửa vời phải là tính cách của ta.



      Hằng ngày tôi đều phải uống loại thuốc, sau đó chích cổ tay lấy ra nửa cốc máu. Khi tôi chích máu, Mộ Ngôn thường ngồi phiến đá trước giường chơi đàn. Đó là loại đàn bảy dây, dây được làm bằng tơ tằm, mỗi lần gảy phát ra những thanh tròn mượt giống như thuốc giảm đau. Mỗi lần Mộ Ngôn chơi đàn đều khiến tôi nhớ tới Quân Vỹ và trình độ đàn khiến người ta chỉ muốn chết ngay cho xong của ta. Rồi lại thấy tiếc là ta được nghe những thanh tuyệt diệu của người ngồi trước mặt tôi, để ta xấu hổ mà tự sát, dám đầu độc tôi bằng tiếng đàn của mình nữa.



      Trong năm ngày, tôi thực rất muốn lật mặt nạ của Mộ Ngôn, để xem rốt cuộc mặt mũi ta thế nào. Nhưng cứ nghĩ tới làm vậy có thể bị ta chém chết, lại dám động đậy. Cũng chỉ hiếu kỳ mà thôi, có lúc chuyện chẳng liên quan đến mình, nhưng vẫn muốn làm cho , đúng là bới việc ra làm.



      Buổi chiều ngày thứ sáu, vết thương ở chân tôi cũng khá hơn nhiều, có thể lại được. Mộ Ngôn dặn tôi: “ cần phải chích máu nữa, sáng sớm mai tôi đưa về”.



      ngờ lại chia tay nhanh như vậy, quan trọng là tôi vẫn chưa lật được mặt nạ của ta, tôi nhất thời chịu được, đứng chôn chân tại chỗ.



      ta hỏi: “Sao, chưa muốn hả?”.



      Tôi lắc đầu trả lời: “ phải, phải. Nhưng mà, với tôi sao? Cái hang núi này làm gì có nhiều đồ, cũng đâu phải sống mãi ở đây”.



      ta trầm ngâm trả lời: “Tôi được, tôi phải ở lại đây”.



      Tôi : “Nhưng ở lại đây làm gì? mình, ở lại đây chẳng có ai chuyện với , chẳng có ai nghe đàn”.



      ta gục đầu cây đàn: “Tôi phải đợi người, e là nếu tôi , người tôi cần đợi tìm thấy tôi”.



      Tôi lập tức cảm thấy bối rối, nếu tiếp tục hỏi sợ rằng can thiệp quá sâu vào chuyện riêng tư của ta, nhưng nếu hỏi mãi mãi biết câu trả lời. Tôi : “Chuyện này...”.



      ta đứng dậy, cười: “ đến là đến, hôm nay có thể là ngày may mắn”.



      Tôi ngẩng đầu nhìn, cửa hang có tiếng động. biết từ lúc nào, toán người áo đen, bịt mặt đứng ở đó. Lúc tôi ngước nhìn, họ nhất loạt rút binh khí. Động tác cũng đều tăm tắp như trang phục của họ, có thể thấy đây là toán quân có kỷ luật. Điều lạ lùng là động tác của họ giống hệt nhau, từng binh khí sáng loáng rút ra đều tăm tắp.



      Đương nhiên, sau này tôi mới biết binh khí của họ mặc dù trông tựa như lưỡi hái, thực ra gọi là dao quắm. Chỉ khác chút thôi, lưỡi hái dùng để cắt cỏ, dao quắm dùng để chặt đầu.



      Bởi tôi ít khi xuống núi, chưa từng trải, vừa trông thấy mười mấy lưỡi dao trong tay toán người đứng thành hàng phía trước sợ chết khiếp giật lùi lại phía sau. Mộ Ngôn đứng chắn đằng trước, tôi lo lắng hỏi ta: “ có hung khí gì ?”.



      ta chưa kịp trả lời, mười mấy con dao vung lên. ta đẩy tôi ra, vọt người lên, chỉ thấy bóng áo choàng đen tung hoành giữa ánh dao sáng loáng, khiến tôi hoa mắt.



      Động tác của ta nhanh như chớp, tôi dám chớp mắt, cũng chỉ thỉnh thoảng nhìn hai động tác. Ví như, từ đằng sau chộp cổ tay người áo đen, kéo người đó quay nửa vòng, thanh đao tay lập tức chém đứt cổ người áo đen phía sau định đâm ta, máu tươi phun ra. ta còn kịp né sang bên tránh tia máu vọt.



      Trong chốc lát, toán áo đen gần chục người, bị ta giải quyết chỉ còn hai, ba. Cuối cùng khi cảnh tượng khủng khiếp sắp trôi qua lưỡi dao phi thẳng về phía tôi.



      Sư phụ tôi cả đời ghét nhất tụ tập ẩu đả, chưa bao giờ dạy tôi những miếng võ hộ thân. Mắt thấy con dao vù vù lao tới, sắp cắm vào cổ họng mình, tôi kinh hãi đứng im. Quả là tình huống ghê rợn. Thử tưởng tượng, nếu lúc đó tôi sợ nhũn người, đổ sụp xuống, lưỡi dao thẳng đường phi tới bay qua đầu tôi, vậy là tôi có thể tránh được. Nhưng toàn thân tôi cứng đờ, mặc dù sợ đứng tim, chân tôi cũng khụy xuống, trở thành tấm bia sống.



      Đúng lúc tôi tưởng mình chết chắc, bất chợt màu đen tuyền trùm lên tôi, giống như mây tan, trời nắng sau cơn mưa, bầu trời từ cao ép xuống, chân tôi cuối cùng mềm nhũn khụy xuống dưới bóng đen ấy.



      Mộ Ngôn kéo tôi vào lòng, tung người vọt lên đá , lưỡi dao kia bay vút trở lại. “Phập!”. Tiếng dao cắm gọn vào da thịt, người áo đen kinh hoàng lao về phía tôi, phía dưới, chỗ bụng ta chuôi dao thò ra, con dao vừa rồi cắm trúng bụng ta, sâu lút tới chuôi. ta từ từ quỵ xuống. Thiện ác cuối cùng được trả, trời đất luôn vận động theo quy luật luân hồi, nhưng vị đại ca này ràng dám tin mình lại chầu trời nhanh như vậy.



      cảnh chết chóc, Mộ Ngôn : “ hiểu tiểu đệ bất tài của ta hàng ngày dạy các ngươi thế nào. Nếu là ngươi, ta giết ngay khi vừa bước vào hang này, trước tiên phải khiến đối phương bối rối. Cũng may cuối cùng ngươi cũng tỉnh ngộ, nhưng muộn”. Người áo đen đó chưa chết hẳn, đồng tử giãn dần, líu lưỡi : “Ngươi...”.



      Mộ Ngôn cười nhạt: “ tưởng ta biết gì sao, e là quá coi thường đại ca này rồi!”.



      Người áo đen gì nữa, chỉ cúi đầu, tay run run giơ lên, xem ra ta muốn rút con dao khỏi bụng. Mộ Ngôn lấy tay bịt mắt tôi, trong động vang lên tiếng rên khủng khiếp, tôi hỏi: “ ta làm gì vậy?”.



      Mộ Ngôn trả lời: “Nước Trần có truyền thuyết, người chết nếu mang hung khí trong người, kiếp sau vẫn phải theo nghề võ”.



      Tôi : “Vậy có phải ta thích làm văn nhân?”.



      Mộ Ngôn buông tay : “Có thể người ta chỉ thích làm tên phàm phu tục tử”.



      Rất nhiều năm trước, tôi luôn tin rằng, con người ta thể vô duyên cớ làm việc gì đó, mọi là việc gì cũng phải hỏi nguyên do. Ví dụ, đầu bếp nấu cho tôi món ăn tôi thích, tôi chạy hỏi sư huynh bếp trưởng, tại sao làm món khoai tây chiên, tại sao, tại sao, tại sao??? Hỏi hồi như vậy, thông thường, ngay ngày hôm sau bàn ăn của tôi xuất món khoai tây chiên. Điều này dạy cho tôi tầm quan trọng của hiểu biết, phải có hiểu biết mới hạnh phúc và ngược lại. Từ lúc mười bốn tuổi đến mười bảy tuổi, trong ba năm, tôi nhiều lần hồi tưởng suy nghĩ tại sao mình lại thích Mộ Ngôn. Kết luận là bởi vì chàng cứu tôi hai lần trong vòng bảy ngày, khi chúng tôi chẳng quen biết nhau.



      Quân Vỹ cho rằng, phải tôi thích , chỉ là tôi tưởng vậy thôi, còn nếu thích thực cần lý do, phải hỏi tại sao. Nhưng tôi lại thấy, lý do thích người, giống như móng của ngôi lầu, đời có ngôi lầu nào có móng, cũng thích có nguyên do.



      Tình cảm của tôi đối với Mộ Ngôn được xây dựng nền móng hai lần chàng cứu tính mạng tôi, cũng có thể , đời này ngoài tính mệnh của tôi, có gì quan trọng hơn thế nữa. Quân Vỹ thể hiểu logic của tôi, chủ yếu là vì bản thân ta có logic.



      Chịu ơn người ta , báo đáp người ta mười, giờ chịu ơn người ta mười rồi gì có thể báo đáp được, mà đạo lý ở đời, nếu có gì để báo đáp, người ta thường đem thân báo đáp. Nếu lúc ấy tôi ý thức được rằng, tình cảm của mình manh nha, tôi thầm thích Mộ Ngôn ngay từ khi chàng ra tay cứu mạng, nhất định tôi hứa trao gửi thân mình cho chàng. Nhưng chính lúc bàn tay chàng rời khỏi mắt tôi, trái tim tôi đập thình thịch, nhưng tôi hiểu tại sao.



      Tôi hỏi chàng: “Tại sao vừa rồi cứu tôi?”.



      Chàng : “ mới chỉ là , phàm là nam nhi thể thấy chết cứu”.



      Tôi : “Nếu tôi lớn rồi sao?”.



      Chàng quay người kéo tôi vào trong hang, cười: “Vậy càng thể cứu”.



      Tôi vốn có cơ hội tuyệt vời nhưng tôi lại nắm lấy, khốn khổ hơn, lúc sắp mất cơ hội, tôi vẫn biết, tôi chỉ ngây ra nhìn nụ cười nửa miệng của chàng. Tôi bảo chàng: “Tôi chẳng biết trả ơn thế nào, tôi tặng bức tranh được , tôi vẽ cũng được, muốn tôi vẽ gì tặng ?”.



      Lúc đó, ánh sáng trong hang đẹp, chàng nghiêng đầu nhìn tôi: “Sao?”.



      Dáng nghiêng đầu và giọng mới tuyệt làm sao.



      Tôi bất ngờ bị mê hoặc, nén nổi ý nghĩ muốn thể chút với chàng. Tôi tìm khắp nơi, nhưng trong hang chẳng có cái bút nào. Mặc dù có thể đốt cây, lấy than để vẽ, có thể vẽ tranh than giấy bồi[5]. Nhưng trước đó mấy ngày, để tiện tôi cắt chúng thành những mảnh bằng bàn tay, cùng lắm chỉ có thể vẽ trứng gà, muốn vẽ người e rất khó.



      [5] Giấy bồi: loại giấy làm bằng cỏ, rất thô, thường dùng để làm giấy gói hoặc giấy vệ sinh.



      Mộ Ngôn thấy tôi lúi húi tìm kiếm mãi, tay cầm nắm giấy biết làm gì, hình như hiểu ra, chàng đưa cho tôi cành cây, : “Dùng cái này , nếu thực muốn vẽ tranh tặng tôi, vẽ đất cũng được”.



      Tôi cầm cành cây ngẫm nghĩ lát, run run bắt đầu nét đầu tiên. Nhưng giống như nghệ nhân thêu tài hoa, dù khéo léo đến mấy cũng thể dùng que sắt tạo ra hoa văn vải, tôi cũng bối rối như họ.



      Tôi vốn định vẽ tư phong trác việt của Mộ Ngôn khi tung người vọt lên, tay quật ngã hai tên áo đen. Vẽ xong, chàng ngắm nghía hồi lâu rồi : “ vẽ gì vậy? Trông như con khỉ trèo cây hái đào, lại giống như con gấu chó cố với tổ ong...”. Ấn tượng lúc đó tôi để lại cho Mộ Ngôn là như vậy, tự cho là mình vẽ rất được, lại vẽ chàng giống hệt như con khỉ hái quả và con gấu chó trèo cây.



      Bây giờ tôi có thể dùng cây vẽ lên đất những nhân vật sinh động như , nhưng cuối cùng chẳng có cách nào sửa lại ấn tượng của Mộ Ngôn đối với tôi. Quân Vỹ : “Có thể người ta cảm thấy muội vẽ vật có thể giống bất cứ vật gì, như vậy là rất có tài”.



      Quân Vỹ có suy nghĩ như vậy cho thấy ta có tư duy của kiếm khách. Nhưng vẽ tranh và dụng kiếm khác nhau ở chỗ, khi dụng kiếm, trong mắt mọi người, có thể là bất kỳ chiêu nào, đó chính là kiếm thuật xuất chúng. Còn vẽ tranh, nếu vẽ vật mà người xem lại nhìn thành vật khác bức tranh đó chắc chắn bán được.



      Tôi và Mộ Ngôn do số phận run rủi, sống cùng nhau gần sáu ngày. Đêm thứ sáu, trong khi tôi ngủ, chàng rời hang núi. Tôi đợi chàng bốn ngày trong hang. Nhưng chàng quay lại. Bốn ngày sau tôi buộc phải ra , chỉ vì lúc đó là mùa hạ, thi thể những người áo đen bắt đầu phân hủy, ruồi nhặng bu đầy, bốc mùi hôi thối khủng khiếp.



      Nếu tôi và chàng gặp nhau vào mùa đông, lúc tôi vẫn mơ hồ hiểu thế , nhất định tôi tiếp tục chờ đợi cho tới khi tôi tìm ra nguyên do tôi đợi chàng. Tìm ra rồi, tôi lại có lý do đợi tiếp, đợi cho tới ngày chàng quay trở lại, hoặc vĩnh viễn trở lại, nhưng đó lại là chuyện khác.



      Nhưng thực tế, tôi sớm bỏ , mang theo nỗi buồn vô tận. Lúc tôi vẫn nghĩ đợi chàng bốn ngày là để chính thức cáo biệt chàng. Hiển nhiên, đó là cách nghĩ quá đơn thuần, tôi sớm giải phóng tâm hồn để Mộ Ngôn, nhưng lại thể đồng thời giải phóng trí tuệ để nhận thức rằng mình chàng. Đó chính là nguyên nhân tôi để mất chàng.



      Lúc tôi ra khỏi hang núi, được đoạn xa, quay đầu nhìn lại mới phát , hang này ở phía sau núi Nhạn Hồi.



      Hai năm sau đó, núi Nhạn Hồi trở thành nơi tôi thường lui tới. Mà sau khi bị Quân Vỹ bắt đọc cuốn tiểu thuyết diễm tình ta mới sáng tác, cuối cùng tôi hiểu ra tại sao thỉnh thoảng tôi lại nhớ về Mộ Ngôn, tại sao khi chẳng có việc gì cũng ra sau núi lang thang mình. ra tôi giống nhân vật nữ trong tiểu thuyết, tình manh nha. Điểm khác nhau duy nhất giữa nhân vật nữ trong truyện và tôi ở chỗ, khi tình cảm nảy nở, ấy rất hiểu tình lang. Còn tôi khi tôi thầm thích Mộ Ngôn, tôi hề biết chàng ở đâu, chàng bao nhiêu tuổi, có nhà, có ngựa , nhà và ngựa là trả hết hay phân kì ra trả, song thân chàng còn hay mất, chàng có sống chung với họ hay



      Từ khi biết mình Mộ Ngôn, tôi vẫn tìm chàng, nhưng bặt vô tín, dường như đời chưa hề tồn tại con người này, thậm chí tôi còn dựa vào quan hệ của gia tộc để tìm, nhưng cũng thấy.



      Tôi vẫn nghĩ chàng là người Trần quốc, nhưng vào thời đại mà thay đổi quốc tịch còn dễ hơn thay đổi đàn bà có thể hôm nay chàng là người Trần quốc, ngày mai có thể là thần dân Vệ quốc của tôi. Tóm lại, ý nghĩ tìm kiếm chàng từ quốc tịch là thể thực được. Nhưng ngoài thông tin chàng là người nước Trần, tôi có bất kỳ manh mối nào khác. Bây giờ nghĩ lại thời thiếu nữ tuổi mười lăm, mười sáu đẹp nhất của tôi đều nhanh chóng trôi qua trong bôn ba tìm kiếm, nhưng vẫn vô vọng, khiến tôi đến lúc chết vẫn khắc khoải tiếc nuối.



      Rừng phong sau núi hai lần ngả đỏ sắc thu, tôi sống đến năm mười sáu tuổi. Tương truyền trước mười sáu tuổi tôi được phép sống trong cảnh xa hoa nhung lụa, nếu bị chết yểu. Do đó, phụ vương gửi tôi tới Thanh Ngôn tông, hy vọng có thể tránh được kiếp họa đó. Tôi có thể yên ổn sống qua tuổi mười sáu, mọi người đều rất phấn khởi, cảm thấy từ nay phải lo lắng nữa. Ngày hôm sau, lập tức có sứ giả tới đón tôi trở về vương cung.



      Lúc sắp ra , tôi và Quân Vỹ đều rơi lệ, tôi giao chú hổ Tiểu Hoàng cho ta chăm sóc. Vì Tiểu Hoàng cần rừng núi, mà vương cung là cái lồng son. Lúc đó, Quân sư phụ biết tại sao lại rời Quân Vũ giáo đến cư ở gần Thanh Ngôn tông, đưa Quân Vỹ bái tổ quy tông, và tiếp nhận ngôi vị Quân Vũ giáo tông chủ, có nghĩa là với địa vị đó Quân Vỹ có đủ tiền có thể nuôi được Tiểu Hoàng. Tôi và Quân Vỹ hẹn nhau, mỗi tháng ta đưa Tiểu Hoàng đến thăm tôi, lộ phí ta tự lo.



      Phụ vương phong cho tôi là Văn Xương công chúa, để chứng tỏ tôi là vị công chúa có học thức nhất Vệ vương cung. Nhưng thường ngày sư phụ vẫn chê tôi, mặc dù tôi theo học mười bốn năm nhưng mới chỉ học được phần năm học vấn của sư phụ. Xem ra, trình độ văn hóa của tôi như vậy được coi là tương đối cao, chứng tỏ người bình thường hầu như có văn hóa.



      tôi còn có ba ca ca và mười bốn tỷ tỷ. Bọn họ đều là con của những phi tần trong hậu cung của phụ vương. Ba ca ca mỗi người hứng thú khiến phụ vương cảm thấy rất đau đầu, đại ca hứng thú với thơ phú, nhị ca hứng thú với mỹ nhân, tam ca hứng thú với đàn ông. Tóm lại ai có hứng thú trị quốc bình thiên hạ.



      Phụ vương mỗi lần nhìn thấy họ đều ngao ngán, chỉ có những lúc trở về hậu cung vui đùa với tân phi mới cảm thấy được an ủi. Lúc mới về vương cung, cảm giác duy nhất của tôi là, thiên hạ đại loạn, chư hầu phân tranh, quần hùng tranh bá, quốc gia mục rỗng từ trong ra ngoài lại có thể tồn tại đến hôm nay đáng kinh ngạc.



      Giả sử tôi phải người Vệ quốc, tôi khuyên bản triều thôn tính Vệ quốc, bởi thực Vệ quốc rất dễ thôn tính.



      Trước nay tôi tin vào giấc mơ của phụ vương và vị trưởng tăng trong giấc mơ đó. Giả sử vận mệnh con người bị chi phối bởi thế lực hư vô, thế lực hư vô đó ít nhất cũng có sức mạnh thể ra cách cụ thể, ví như tín ngưỡng, quyền lực, chứ phải là mộng cảnh. Số mệnh định tôi phải chết yểu, chuyện này quả muốn tránh cũng thể.



      Tôi chết vào ngày đông hàn năm mười bảy tuổi.



      Năm đó, nước Vệ xảy ra đại hạn, từ thành Hàn Hà phía bắc tới thành Kê phía nam, người chết đói đầy đồng, dân có gì ăn, cả vương quốc như chiếc bánh nướng vàng khè để bờ Đoan Hà chờ có người nhận ra đến lấy . Ngày hôm đó, mười vạn đại quân Trần đứng ngoài kinh đô, chiến giáp đen sì, binh đao sáng loáng, họ đến thôn tính nước Vệ, kết thúc nền thống trị tám mươi sáu năm của họ Diệp đất Vệ.



      Sư phụ tạ thế hai tháng trước đó, lúc lâm chung sư phụ cũng nghĩ ra cách nào cứu nước Vệ. Tôi là đệ tử đích truyền của ông, điều này có nghĩa, tư duy của thầy trò cùng mạch, sư phụ có cách gì, tôi càng có.



      Lúc mới trở về vương cung, tự nghĩ đó là bổn phận của mình, tôi dành thời gian viết tờ biểu “Gián Vệ công sớ[6]”, trình lên triều đình, bày tỏ suy nghĩ của mình đối với chính thể tại, phản hồi duy nhất nhận được là, phụ vương xoa đầu tôi , chữ con rất đẹp, sau đó ra lệnh giam lỏng tôi.



      [6] Gián Vệ công sớ: tờ trình khuyên can Vệ công.



      Chỉ vì Vệ quốc là quốc gia nằm ở bên rìa đại lục, làn gió chính trị ở vương đô của thiên tử thổi triền miên mảnh đất khai phá hàng trăm năm, nhưng dẫu thổi tám mươi sáu năm cũng tới được Vệ quốc, mặc dù ở vương đô có phụ nữ làm quan, nhưng phụ nữ Vệ quốc chưa bao giờ được tham chính, hơn nữa đất nước chúng tôi có phân công ràng đàn ông cày ruộng, đàn bà dệt vải, khiến phụ nữ chỉ có hai chức năng, dệt vải và sinh con.



      Khi sắp mất nước, cuối cùng phụ vương cũng muốn nghe kiến nghị của tôi, nhưng lúc đó tôi chẳng còn kiến nghị gì hết, chỉ có kiến nghị duy nhất là mọi người nên tranh thủ ăn nhiều đồ ăn ngon, đến khi mất nước, tất cả cùng tuẫn tiết, thế là tôi lại bị phụ vương giam lỏng.



      Ông vuốt râu, run run trách tôi: “Tuy lớn lên ở nơi sơn dã, nhưng thân là công chúa, con có chút tình cảm nào với xã tắc ư?”.



      Sau lần răn dạy ấy, tin đồn tôi là người vô cảm lan truyền khắp vương thất. Các ca ca, tỷ tỷ đều than thở: “Trăn Nhi, muội đọc nhiều sách như vậy, nhưng lại hiểu đạo lý sách răn dạy, muội lạnh lùng, vô cảm. Phụ vương thương nhầm muội rồi”.



      Điều này đúng là khó tưởng tượng, khi cần nghiêm túc họ lại nghiêm túc, đến khi xảy ra kết cục tất yếu, họ lại giả bộ nghiêm túc, nếu có thể duy trì nghiêm túc giả dối đó đến phút cuối cùng, cũng coi như đáng khóc, đáng ca ngợi, nhưng ràng họ làm được. Lẽ ra thân mang bổn phận của vương tộc họ phải làm được. Theo cách lý giải của tôi, vương tộc và xã tắc là , khi nước mất, vương tộc cũng tiêu vong.



      Mùng bảy tháng mười , bầu trời ảm đạm thê lương.



      Chưa đến ba ngày bị quân Trần vây thành, phụ vương quyết định đầu hàng, chưa có nước nào diệt vong lại diễn ra lặng lẽ như Vệ quốc. Những ghi chép trong thư tịch cổ về cảnh tượng ngày tàn của các quốc gia cổ đại như hoàng đế tự thiêu, quần thần treo cổ, vương tử, công chúa bỏ trốn, tất cả đều xảy ra. Chỉ có phụ nữ tỏ ra hoảng loạn nhất thời, bởi vì sau khi mất nước, họ thể sống cuộc sống vương giả như trước, nhưng nếu bỏ trốn khỏi vương cung lưu lạc phong trần, nếu bôn ba vất vả thể sinh tồn, huống hồ vương cung hoàn toàn hỗn loạn. Tất cả vẫn bình yên quy củ, hoàn toàn cần thiết bỏ trốn. Họ đắn đo cân nhắc, cuối cùng quyết định chờ đợi.



      Sau khi nội giám truyền tin mới nhất, tôi mặc bộ xiêm y đẹp nhất từ trước tới nay. Tương truyền đó là bộ xiêm y được dệt từ lông của tám mươi mốt con còn trắng, trắng muốt, nhược điểm duy nhất là quá giống tang phục, cho nên bình thường khó có cơ hội mặc nó.



      Giờ Ngọ ba khắc, lá cờ hàng màu trắng rủ nóc vương thành, trời có mưa .



      Nước Vệ hạn hán lâu, cơn hạn châm ngòi cho cái chết của vương quốc này, khi vương quốc diệt vong lại có mưa tống tiễn.



      Tôi bước lên thành lầu mà gặp trở ngại nào. Ba vạn tướng sĩ trong thành đều cởi giáp buông giáo, màu sắc của binh khí xem ra ảm đạm hơn vài phần so với quân Trần. Binh khí là tiếp nối của sĩ khí, nước mất nhà tan, lại thể quyết chiến trận, khiến tướng sĩ sống dở chết dở, mà gươm đao chết hẳn. Bức tường thành cao sừng sững như vậy, quốc vương cho rằng, tường thành cao mang ấn tượng kiên cố chắc chắn, cao là biểu tượng của sức mạnh. Nhưng sức mạnh đầy ấn tượng như vậy địch nổi câu , địch nổi lời của đương kim hoàng thượng Vệ quốc: “Chúng ta đầu hàng ”.



      Phóng tầm mắt ra xa, đất đai Vệ quốc mênh mông, từ đường chân trời mây đen ùn ùn kéo đến, mưa như sợi tơ uốn éo trong gió vương mặt binh sĩ nước Trần trong hàng quân nghiêm chỉnh đứng ngoài thành. Tôi nhìn lần cuối quốc thổ dưới chân mình, đó vốn là vùng đất phì nhiêu, nơi thần dân Vệ quốc bao đời an cư lạc nghiệp.



      Có tiếng bước chân loạng choạng phía sau, giọng phụ vương khản đặc: “Trăn Nhi, con định làm gì?”.



      Chỉ sau đêm, phụ vương già trông thấy. Tuy có tuổi nhưng do bồi bổ tốt, trước đây chúng tôi vẫn giả bộ cho rằng ông vẫn còn rất trẻ. Nhưng lúc này, cũng thể giả bộ được nữa.



      Thực ra tôi có gì để , thể như vậy, cũng vô ích. Phụ vương được nội giám dìu , suy sụp như sắp đổ quỵ. Tôi thầm sắp xếp ý nghĩ trong đầu, với phụ vương: “Phụ vương còn nhớ Thanh Ngôn tông chủ, sư phụ Huệ Nhất của con chứ?”.



      Ông chầm chậm gật đầu.



      Gió thổi ù ù, vạt áo bay phần phật, chỉ cần hơi phân tâm là thể nào nghe , buộc phải to. Người bó chặt trong áo choàng lông hạc trắng muốt, tôi trịnh trọng : “Sư phụ dạy Diệp Trăn đại nghĩa của vương tộc, thường răn rằng vương tộc là tôn nghiêm của xã tắc, tôn nghiêm của vương tộc chính là tôn nghiêm của xã tắc, thể bị chà đạp. Nhưng khi dâng biểu đầu hàng, phụ vương có coi mình là tôn nghiêm của xã tắc? Nếu Diệp Trăn là vua nước, chắc chắn đầu hàng, khiến xã tắc chịu đại nhục. Phụ vương có thể cho rằng làm như vậy là tránh cho trăm họ Vệ quốc thoát khỏi họa binh đao, nhưng hôm nay quân Trần ở ngoài kinh đô, suốt dọc đường từ bờ Đoan Hà đến kinh đô, quân Trần giẫm lên xương cốt thần dân Vệ quốc chúng ta, ba vạn quân sĩ trong thành nhất tề cởi giáp đầu hàng, làm sao xứng với muôn dân Vệ quốc bỏ mạng vì xã tắc? Hôm nay, những người ở đây đều phải là nam nhi của Vệ quốc, những người đó yên nghỉ nơi chín suối. Mặc dù Diệp Trăn từ sống núi nhưng vẫn mang trong người dòng máu hoàng tộc, đại biểu cho tôn nghiêm của xã tắc, phụ vương dẫn cả tông thất đầu hàng Trần quốc, nhưng Diệp Trăn quyết thể. Nếu Diệp Trăn chỉ là người dân bình thường, hôm nay dưới vó ngựa quân Trần đành chịu nhục, nhưng Diệp Trăn lại là công chúa của nước...”.



      Tiếng sấm chớp ầm ầm, mưa trút xuống. Tôi quay người nhìn xuống dưới thành, công tử y phục hoa lệ biết đứng đó từ lúc nào, trông rất giống Mộ Ngôn, vừa chớp mắt, lại nhìn như biến mất trong màn mưa.



      Tiếng phụ vương giục giã: “Con là công chúa sao? Con xuống ...”.



      Trận mưa xối rửa sạch tất cả, nửa năm nay chưa có trận mưa nào như vậy. Vệ quốc diệt vong nhanh chóng như vậy ư? Phải chăng đây là ý trời? Tôi vuốt nước mưa mặt, ngẩng nhìn bầu trời cao vút, lòng chợt lâng lâng niềm cảm khái, có thể khái quát bằng câu: “Xã tắc mất, Diệp Trăn cũng chết, đó vốn là tín ngưỡng của công chúa”.



      Tôi nhảy từ thành xuống, nghĩ tới sư phụ vẫn mong mỏi bồi dưỡng tôi trở thành triết gia. Đúng là lo sợ điều gì, điều đó đến, cuối cùng tôi vẫn trở thành triết gia, nhảy vào vòng xoáy do mình tạo ra, cuối cùng kết thúc bằng cái chết. Điều duy nhất đáng tiếc đời là được gặp lại Mộ Ngôn. Đêm đó, ánh sao vằng vặc, chàng ôm tôi, trong tay áo có mùi hương mai thoang thoảng.



      Chàng : “Ghê gớm , tôi cứu , lại trả ơn tôi như vậy...”.



      Chàng : “Nước quỳ chính là huyết xuất ở tử cung có quy luật, có chu kỳ...”.



      Chàng : “ vẫn còn là đứa trẻ, phàm là nam nhi đều thể thấy chết cứu”.



      Chàng : “ vẽ gì vậy? Vừa giống con khỉ trèo cây hái quả, vừa giống con gấu chó với tổ ong...”.



      Có thể chàng quên tôi từ lâu, thê thiếp hàng đàn, con cái đề huề, nhưng hề biết có vẫn tìm chàng, lúc sắp chết còn nhớ tới chàng.



      Tiếng gió dội lại tiếng nức nở của tướng sĩ, hòa với tiếng mưa sầm sập. Tôi nghe thấy bài quân ca mà các tướng sĩ thường hát, giai điệu thâm trầm, tiếng mưa não nề khiến tiếng hát càng bi thương.



      Tôi nằm mặt đất, mắt nhắm nghiền, cảm nhận rất sinh mệnh từ bỏ mình. Có tiếng chân dừng ngay bên cạnh, bàn tay vuốt lên má tôi, có mùi hương mai thoảng trong gió, nhưng rất khó phân biệt rốt cuộc đây có phải là ảo giác, tôi gắng mở miệng: “Chàng... chàng...”. Bàn tay run run má.



      Tôi được nuôi lớn như công chúa nhưng lại chết như công chúa. Tôi chết vào mùng bảy tháng mười , trong tiếng ai ca tống tiễn nước Vệ: “Trăng thanh sao lặn, cố hương xa xăm, ngày nào hoa mai rụng hãy đưa tôi hồi hương...”.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 2





      Sau khi tôi chết, nghe thế tử Trần quốc là Tô Dự hạ lệnh hậu táng tôi theo lễ chế dành cho công chúa.


      Phụ vương và mẫu phi vốn dĩ ngày hôm sau bị áp giải về Hạo thành, kinh đô nước Trần, nhưng vì tang lễ của tôi nên hoãn lại ngày.


      Lúc khâm liệm, tôn thất vương tộc bắt buộc phải đến xem lễ, để khi về viết bài cảm nhận, ai được vắng mặt. Những người dân ở vương đô còn sống cũng đổ ra đường tiễn biệt công chúa, khiến quãng đường từ vương cung tới vương lăng ngày hôm đó xảy ra cảnh tượng tắc nghẽn chưa từng có trong cả trăm năm qua. Dân chúng ở bên này đường muốn chạy sang bên kia đường ăn bát mỳ cũng có cách nào sang được, mọi người đành bất lực.


      Đương nhiên những chuyện đó tôi hoàn toàn biết, tất cả do Quân sư phụ sau này kể lại. Lúc hay tin kinh thành nước Vệ bị bao vây, ông cùng Quân Vỹ đến Vệ quốc định đưa tôi , nhưng ngờ tôi chết cùng Vệ quốc. Từ nước Trần cách xa vạn dặm tới vương đô Vệ quốc, khi họ đến nơi đúng lúc đưa đám tôi. Lúc đó, tôi nằm trong chiếc quan tài bằng gỗ mun, người chết, phía sau là tiếng kèn thê lương, dưới bầu trời ảm đạm những nắm tiền giấy trắng như tuyết bay lả tả.


      Quân sư phụ : “Trong tám mươi sáu năm Vệ quốc được phong hầu, đây là lần đầu tiên ta thấy cảnh tượng tang lễ công chúa long trọng như vậy”.


      Nhưng tôi nghĩ, đó phải là cảnh tượng tang lễ của tôi mà là cảnh tượng chết yểu của quốc gia, mà cái chết của quốc gia, cho dù long trọng thế nào cũng xứng đáng.


      Quân sư phụ là cao nhân ngoại thế, từ việc ông núi Nhạn Hồi lâu năm như vậy cũng bị dã thú ăn thịt, chúng ta có thể nhận ra điều đó. Núi Nhạn Hồi là khu bảo tồn thiên nhiên động thực vật hoang dã được cả Đại Triều công nhận, nên ở đây thường xuyên bất ngờ xuất dã thú tấn công con người.


      Từ khi tôi quen biết Quân sư phụ, tôi chỉ coi ông là cao nhân bình thường, ngờ ông cao siêu tới mức có thể cải tử hoàn sinh. Điều đó là chính đáng, trái lại với quy luật tự nhiên. Thử hình dung, kẻ thù ta khó khăn lắm mới giết được, vậy mà có thể sống lại làm ta phải tìm cách giết lần nữa bảo ta chịu sao đây. Nhưng chuyện thần kỳ đó cuối cùng lại xảy ra với tôi. Nên đành phải ngừng bình luận về khả năng kỳ lạ đó của Quân sư phụ, vì phủ nhận nó tức là phủ nhận sinh mệnh của tôi.


      Cái ngày tôi được cải tử hoàn sinh, tôi cảm thấy mình ngủ sâu rất lâu, tôi mở mắt tỉnh lại vào đêm đông mịt mù.


      Từ cửa sổ nhìn ra, ánh trăng treo đầu cành cây, chỉ màu vàng nhạt, bốn bề tĩnh mịch, thỉnh thoảng có tiếng chim kêu lạc lõng. Tôi nhớ lại lúc mình nhảy từ tường thành xuống, cao như vậy mà có thể cứu sống, quả là y thuật cao siêu. Quân sư phụ ngồi trước mặt tôi, lật giở quyển sách cổ, Quân Vỹ gục đầu ngủ bàn, ánh đèn mờ ảo, họ dường như chú ý tới tôi.


      Ngước mắt nhìn hình bông hoa sen trắng đỉnh màn, tôi : “Con vẫn còn sống ư?”.


      thoáng im lặng, Quân sư phụ lập tức để cuốn sách xuống án thư, hỏi: “A Trăn, là con phải ?”. Quân Vỹ cũng bị đánh thức, dụi mắt tỉnh dậy.


      Tôi mở miệng, tiếng: “Vâng”.


      Tay Quân Vỹ vẫn dụi mắt, sững người nhìn tôi: “A Trăn hả?”.


      Tôi có thời gian để ý tới ta, vì Quân sư phụ bước ngay đến bên tôi, ông đặt ngón tay trước mũi tôi, cầm tay tôi bắt mạch.


      Khá lâu, ông thốt lên: “Viên giao châu đó quả nhiên là thần kỳ, A Trăn, con có đau ?”.


      Tôi lắc đầu: “ đau”.


      Ông cười đau khổ: “Vết thương nặng thế này mà đau, là ta mang con về, nhưng con chết. Con đau nữa, ta tự ý làm vậy, con có muốn tỉnh lại ?”.


      Tôi nhìn ông, nhoẻn cười, gật đầu: “Con muốn”.


      Đó phải là cải tử hoàn sinh, Diệp Trăn chết.


      Vạn đều có nhân quả, đây chính là nhân quả của tôi.


      Người ta sau khi chết, ý thức dần dần phân tán, cuối cùng tan biến, đó là truyền thuyết của Cửu Châu. Trước đây, tôi vẫn tưởng đó là truyền thuyết, cho tới khi bản thân nếm trải cái chết mới biết truyền thuyết cũng đáng tin cậy.


      Ba ngày sau khi tôi được an táng, nhân lúc đêm khuya, Quân phụ lén vào vương lăng, mang thi thể tôi về núi Quân Vũ. Lúc đó, phần hồn chưa thoát hẳn, vẫn lưu lại trong cơ thể tôi. Ông đưa thần dược của giáo phái vào cơ thể dập nát của tôi, đó là viên giao châu[1] sáng chói, dùng để giữ phần ý thức còn sót lại, để nó mãi mãi thể rời khỏi cơ thể. Về cơ bản, đó chẳng qua là thay đổi trạng thái tử vong, ngoài có thể cử động và suy nghĩ, tôi chẳng khác gì người chết.


      [1] Giao châu: theo truyền thuyết đó là trân châu(ngọc) được hóa thành từ nước mắt của người Giao - mỹ nhân ngư.


      Cơ thể đó thể lớn thêm được nữa, tôi thể thở, mất hẳn khứu giác và vị giác, cũng cần phải ăn để sống, có cảm giác đau đớn. Bên ngực trái, nhịp đập phải là của trái tim nóng hổi mà chỉ là của viên ngọc lặng lẽ nằm đó, rất sáng nhưng lạnh ngắt như khối băng, khiến tôi rất lạnh. Nhưng rút cục, tôi có thể mở mắt ngắm nhìn thế gian là sung sướng lắm rồi.


      Bây giờ tôi còn là công chúa gì nữa, cũng phải gánh vác bổn phận gì hết. Quân sư phụ đặt cho tôi cái tên mới, Quân Phất. Có nghĩa là, cuộc đời tôi như hạt bụi, phủi cái là tan. Tôi nghĩ, đúng là cái tên bi thương mà ý nghĩa.


      Lần tuẫn tiết đó, tôi phải trả giá đắt, mất mạng đành, quan trọng là xương sọ bị vỡ, nội tạng cái xô lệch, cái giập nát, chảy rất nhiều máu. Điều đó có nghĩa từ nay về sau, cơ thể rất yếu, mặc dù có cảm giác đau đớn, nhưng thường xuyên nôn ra máu cũng chẳng phải chuyện dễ chịu gì, khăn tay cũng lười giặt.


      Quân sư phụ dùng giao tiêu[2] chỉnh sửa dung mạo cho tôi, chỉnh xong xinh đẹp hơn trước nhiều, chỉ có điều, vết nứt sọ quả rất lớn, giao tiêu cũng vá được, để lại vết sẹo dài từ giữa lông mày, qua trán xuống tai trái. Lúc đầu nhìn thấy mặt tôi, Quân Vỹ mãi nên lời, lúc lâu sau mới : “Xấu quá, như thế này quá xấu, thanh thoát như cũ tốt hơn sao?”. Tôi : “Tôi nhìn kỹ rồi, ngũ quan có gì thay đổi, chỉ là nhìn hơi kỳ lạ, ma hơn trước chút thôi, sao cả, cứ coi như tôi chỉnh hình thất bại ”.


      [2] Giao tiêu: trong truyền thuyết đó là loại tơ nõn để may trang phục của người Giao - mỹ nhân ngư.


      Nhưng những vết sẹo ấy cuối cùng lại rất chướng mắt, Quân sư phụ dùng ngân bạc(bạc dát mỏng) làm chiếc mặt nạ, che nửa khuôn mặt tôi. Tôi định đề nghị dùng mặt nạ da người, như vậy nhìn tự nhiên hơn, nhưng thấy mặt nạ da người thông hơi rất kém, nên cuối cùng lại thôi.


      Tôi tưởng sau đó, có thể sống những tháng ngày thoải mái tự tại nhưng thực tế như thế. Chỉ là lúc đó nghĩ ra, lại cho là người chết rồi vô lo vô nghĩ, nhưng ưu phiền đến từ tâm tưởng, tâm tưởng vẫn còn sao có thể vô ưu. Quân sư phụ bỏ bao tâm huyết để tôi sống lại. Sư phụ muốn hoàn thành việc, việc này rất khó, chỉ dễ hơn việc bắt Quân Vỹ sinh cho tôi đứa con mà thôi.


      Ông muốn tôi hành thích Trần hầu.


      Ông cấy viên giao châu vào người tôi, kêu gọi linh hồn tôi từ hư trở về. Viên giao châu được thổi vào Hoa Tư dẫn thần bí nhất trong mật la thuật, bí thuật này được đưa vào cơ thể tôi cùng với viên giao châu.


      Nếu có người uống vài giọt máu của tôi, bị nhiễm hơi khí của giao châu trong cơ thể tôi, dù chỉ giọt, cũng khiến tôi lập tức nhìn thấy Hoa Tư điệu phù hợp nhất của họ. Tấu ra khúc nhạc này là có thể dệt mộng cảnh cho người đó. Mộng cảnh này tái thời đoạn của quá khứ, có thể ra khỏi mộng cảnh hay , phải xem người đó có thoát khỏi tâm ma của mình hay . Nhưng đời rất hiếm người thoát khỏi tâm ma của chính mình.


      Quân sư phụ muốn tôi giết chết Trần vương bằng cách đó.


      Về góc độ cá nhân, cho dù nước Trần thôn tính nước Vệ, tôi cũng oán hận Trần vương. Trong thời đại mạng người như cỏ rác, thắng làm vua thua làm giặc, chuyện đó cũng là thường tình. Nhưng tính mạng Trần vương đổi lấy nửa cuộc đời tôi nhân thế, tôi cho rằng rất đáng. Tôi muốn giết ông ta phải vì tôi từng là công chúa Vệ quốc, mà chỉ vì tôi còn lưu luyến thế gian.


      Quân sư phụ : “Chưa vội hành thích Trần vương. Hoa Tư dẫn mới cấy vào cơ thể con chưa lâu, vận dụng chưa thành thục, con cần có thời gian thích nghi”.


      Tôi nghĩ việc này đúng là nên vội.


      Quân sư phụ nhìn thần sắc, dường như đoán được suy nghĩ của tôi. Lại thêm: “Nhưng con cũng nên quá ung dung, Trần hầu sức khỏe yếu, quy thiên cũng là chuyện hai, ba năm tới. Con vẫn nên chớp thời cơ, nếu ông ta chết trước khi con đến hành thích, hay”.


      Tôi : “Vậy tốt quá!”.


      Sư phụ nhìn ra dãy núi phía xa, sắc mặt thâm trầm khó đoán: “Như thế được, vậy báo thù còn có ý nghĩa gì”.


      Thực ra tôi rất muốn thức tỉnh sư phụ, nếu Trần vương bị bệnh tật đau đớn giày vò, rất cần ai đó cho nhát dao, liều độc dược kết thúc mọi đau đớn, tôi giết ông ta lại hóa ra giúp ông ta, như vậy càng chẳng có ý nghĩa gì. Nhưng nghĩ lại, giúp người là tốt, cũng là giúp Quân sư phụ tích đức, tôi liền im lặng.


      Nửa tháng sau, Quân sư phụ đưa Quân Vỹ xuống núi, tìm loại cây thuốc để giúp tôi mau liền các vết thương người. Lúc sắp , Quân Vỹ an ủi tôi: “Bây giờ muội thành ra thế này chắc chắn là ai lấy, sao, ai lấy huynh lấy. Muội tuyệt đối nên buồn phiền mà lấy viên giao châu ra khỏi người, phụ lòng sư phụ và huynh”.


      Tôi : “Nhưng lấy muội họ Quân tuyệt hậu mất”.


      ta lại an ủi: “Sao lại tuyệt hậu? Lấy muội rồi, huynh vẫn phải cưới thêm vài vợ bé nữa chứ. Ha ha ha!”. Kết quả ta bị tôi vác gậy đuổi đánh.


      Thấm thoát sáu tháng trôi qua, những cành cây khẳng khiu nhú mầm non. Tôi đào được hũ rượu hoa mai dưới gốc cây hạnh già trước sân. Quân sư phụ cùng Quân Vỹ trở về, theo sau là Tiểu Hoàng. Trước đó, Tiểu Hoàng ăn nhầm phải con thỏ trắng Quân sư phụ nuôi để dưỡng độc. Con thỏ trắng đó có lẽ là con thỏ độc nhất đại lục này, trong người hội tụ cả trăm loại độc. Ngay Quân sư phụ cũng đành bó tay, đành phải đưa Tiểu Hoàng tới chỗ Thánh dược Bách Lý Việt nhờ giúp đỡ. Mất hơn nửa năm mới giải hết độc trong cơ thể nó.


      Lúc đầu, Tiểu Hoàng nhìn dung nhan kỳ dị của tôi, nó nhận ra, há mồm nhe nanh rất lâu. Tôi lấy thịt thỏ cho nó ăn nó cũng vui. Quân Vỹ vuốt ve tai nó, nhàng vỗ về: “Đây là mẹ con đấy, con thể ở với cha mãi mà nhận ra mẹ, dù sao con cũng là do ấy hoài thai mười tháng sinh ra”. Tiểu Hoàng quả nhiên chạy lại dụi đầu vào tôi rất thân thiết.


      Tôi : “Huynh mới hoài thai mười tháng sinh ra nó, huynh hoài thai mười tháng sinh ra cả họ nhà nó”.


      Quân Vỹ dứ nắm đấm về phía tôi: “Huynh vẫn còn lòng tốt muốn lấy muội đấy”.


      Tôi : “Huynh có thể sinh cho muội chú hổ nữa để chơi ? Nếu sinh được muội xem xét có nên lấy huynh ”.


      ta ngây ra lúc, xấu hổ quay sang Tiểu Hoàng: “Con trai, cắn ta ”.


      Dường như biết là đùa, Tiểu Hoàng càng thân thiết dụi vào tay tôi mạnh hơn.


      Thuốc Quân sư phụ mang về quả nhiên có tác dụng kỳ diệu, nghiền thành bột bôi lên người, ngày bôi ba lần. Năm ngày sau, vết sẹo người đều liền hết. Điều này khiến tôi rất mãn nguyện, tôi liền bôi khắp lên người, cả vết sẹo ở trán. Nhưng vết thương do nứt hộp sọ, cho nên liền lại được, vẫn nhìn rất . Tôi ngắm mình trong chiếc gương đồng, nghĩ tới tám chữ “Kim ngọc kỳ ngoại, bại tự kỳ trung[3]”. Có nghĩa là, có ai ngờ bên trong diện mạo bừng bừng sức sống đó lại là cơ thể mục nát, nếu lấy ra viên giao châu, chưa đầy nửa khắc cả cơ thể lập tức biến thành tro bụi. Nghĩ tới cảnh đó, quả cũng thấy sợ.


      [3] Ý của câu thành ngữ này là: Bề ngoài trông rất đẹp như vàng như ngọc, nhưng bên trong rữa nát. Người ta dùng câu này để chỉ đồ hàng mã, ngoài đẹp trong xấu.


      Sáng sớm ngày thứ sáu, Quân sư phụ tới thăm tôi. Theo sau là Tiểu Hoàng.


      Hai cây đào trước hiên nhà ra hoa đẹp, đầu cành hoa rực rỡ, lá vẫn còn đọng sương long lanh như ngọc. Quân sư phụ dắt Tiểu Hoàng ra sân chơi, cho nó bắt bướm rồi quay đầu hỏi tôi: “Nửa năm nay, Hoa Tư dẫn thế nào?”.


      Tôi thực thà trả lời: “ được thực hành, sao có thể thành thục”.


      Quân sư phụ trầm ngâm hồi, rồi : “A Trăn, con cũng biết viên giao châu này với công lực tự thân của nó chỉ giữ được tính mạng cho con trong ba năm. Công lực của nó được tu luyện do hút giấc mộng đẹp của con người, nếu con muốn sống lâu hơn, chỉ có thể lợi dụng Hoa Tư dẫn dệt ra mộng cảnh hút lấy giấc mộng đẹp của người khác. Con là đứa trẻ lương thiện, e là làm được điều đó, nhưng ta phải nghĩ trăm phương nghìn kế để cứu con, quyết muốn con chỉ sống được thêm ba năm. Ta vậy, con có hiểu ?”.


      Sư phụ sợ tôi hiểu nhưng tôi hiểu ngay từ đầu. Tôi thể chỉ sống ba năm, cũng thể tùy tiện lạm sát, lấy mạng sống của người khác. Nhưng đời có bao nhiêu người hối hận đau khổ vì những người thân khuất, vì những lỗi lầm của mình. Hoa Tư dẫn chỉ có thể dệt ảo mộng tái quá khứ, khiến cho con người có thể sửa chữa lỗi lầm qua, nếu người đó chìm đắm trong ảo mộng muốn thoát ra, cam tâm tình nguyện hiến cho tôi tính mệnh nơi trần thế của họ, như vậy đôi bên đều có thể tu nhân tích đức.


      Tôi hỏi: “Sư phụ tìm giúp con được mối nào rồi sao?”.


      Quân sư phụ mỉm cười gật đầu: “Đúng, sắp tới, con Khương quốc chuyến”.


      Năm ngày sau, tôi mang theo cây đàn thất huyền, cùng Quân Vỹ và Tiểu Hoàng xuất tại trấn gần biên giới Trần quốc. Thực ra, núi Quân Vũ cách biên giới hai nước Khương, Trần xa, bộ ba ngày là tới. Lần đó phải kéo dài thêm hai ngày, chủ yếu là do chúng tôi chỉ có con ngựa. Nếu chỉ thế cũng có vấn đề gì, nhưng phải liên tục canh chừng Tiểu Hoàng kẻo nó ăn thịt con ngựa, chuyện này quả rất vất vả và mất thời gian. Cuối cùng, chúng tôi quyết định làm thịt con ngựa nướng ăn dần, cùng bộ với Tiểu Hoàng. Tất cả được bữa no nê, hành trình trở nên nhanh hơn rất nhiều.


      Biên giới hai nước Khương, Trần là mạch núi chạy dài. Vì dân bản địa thường đào được ngọc bích trong núi nên gọi là Bích sơn. Chúng tôi nghĩ, nếu là nguyên nhân đó tại sao gọi là Ngọc sơn? Hỏi những cư dân trong trấn, mọi người đều đoán là có thể vì chữ “Bích” nhiều nét hơn, nghe có vẻ rất văn hoa.


      Chúng tôi đến đúng vào mùa đông, cả dãy Bích sơn phủ tuyết trắng xóa, ở đây thường xuyên có tuyết lở. Ngoài những thợ săn có kinh nghiệm, hầu như ai dám vượt núi vào mùa đông. Lúc này, chúng tôi men theo những con đường núi, vừa vừa thưởng thức cảnh đẹp hai bên đường, thực là vui tai vui mắt. núi có những con suối chảy róc rách, tôi dùng ống bương cúi xuống định múc nước, chợt dừng lại. Quân Vỹ ngồi bên cạnh vục nước suối rửa mặt, lấy tay áo lau xong, nhìn thần sắc của tôi, thấy lạ hỏi: “Sao thế?”.


      Tôi chỉ tay về phía trước, sau bụi tường vi dại: “Kia kìa, huynh nhìn , nhìn kỹ , xem người ta hoa nguyệt thế nào, tích lấy ít tư liệu mà viết tiểu thuyết”. Quân Vỹ nhíu mày nhìn theo hướng tay tôi.


      Đó là đôi trai thanh đương nồng nàn. Nam vận áo chùng gấm, nữ diện váy vân la[4]. Vì khoảng cách khá xa, nên nhìn mặt, chỉ thấy dáng hình, nam mạnh mẽ như ngọc thụ trước gió, nữ yểu điệu như liễu dưới trăng. Phía sau họ là rừng hoa tên, con ngựa béo tốt buộc dưới gốc cây cổ thụ bên cạnh. Chúng tôi phải để mắt trông chừng Tiểu Hoàng, hai mắt nó sáng quắc, hau háu nhìn con ngựa, quả nhiên nó thèm rỏ dãi, Quân Vỹ chộp gáy nó ấn xuống, nó đành đứng yên. Chàng trai cúi xuống hái bông tường vi đỏ, cài lên tóc . vươn tay ôm lấy chàng, hai người dán vào nhau...


      [4] Vân la là loại lụa mềm mại như mây.


      Quân Vỹ quay đầu, giơ tay che mắt tôi: “Nhìn nhiều mắt mọc gai”. Mắt vẫn rời phía trước, tôi vừa hất tay ta vừa : “Muội cũng phải học hỏi kinh nghiệm chứ”. ta vẫn nhúc nhích, xem ra chưa chắn được tầm mắt tôi quyết thôi, cuối cùng tôi bực mình, đá ta cái.


      Đúng lúc đó, phía trước đột nhiên có biến, tôi hốt hoảng. Quân Vỹ ngoái lại, trố mắt ngạc nhiên: “Sao nhoáng cái chàng bị nàng đè xuống? Ái chà ta cũng quá chủ động, ối, ối, sao thế, sao vừa mới hôn, ta nhảy lên ngựa chạy mất? đương kiểu gì thế?”.


      Tôi : “ đương cái đầu huynh ấy. Huynh thấy ta đâm ta nhát từ phía sau à. Người ta sợ tội chạy trốn rồi”.


      Quân Vỹ : “Sao? Vừa rồi họ còn ôm ôm ấp ấp cơ mà?”.


      Chung quy chỉ là tôi tự tìm rắc rối, tôi và Quân Vỹ khoanh tay đứng nhìn cũng chẳng sao nhưng bóng chàng trai gục xuống như ngọn Bích sơn sụp đổ, đột nhiên khiến tôi nhớ tới người, Mộ Ngôn. Từ sau khi tỉnh lại, lâu lắm rồi tôi nghĩ tới chàng, phải vì tình trong lòng phai, mà chỉ là giả sử lúc này gặp lại, biết thế nào.


      Trước đây tôi rất đỗi kiên cường, bởi vì tôi là người sống, nhưng giờ đây tôi là người chết, hít thở, cảm giác, làm chàng sợ khó rồi, chi những chuyện khác. Thà gặp còn hơn.


      Quân Vỹ xem vết thương của ta, mặc dù nhát dao đâm khá sâu nhưng trúng chỗ hiểm. May mà chúng tôi cứu kịp thời mới giữ được tính mệnh ta. Tôi ngắm nhìn dung mạo con người đó, lông mày đen rậm, sống mũi rất thẳng, đôi môi mỏng nhợt nhạt, khuôn mặt đẹp hiếm có. Máu vẫn chảy chẳng mấy chốc thấm đẫm đám cỏ bên dưới. Quân Vỹ giúp ta cầm máu, cuối cùng quay lại hỏi tôi: “Rốt, tại sao chúng ta phải cứu ta?”.


      Tôi : “Huynh xem ta đẹp thế kia, chúng ta chữa khỏi cho ta rồi bán , chẳng phải kiếm được khoản tiền ư?”. Quân Vỹ bực mình, vẫy tay gọi Tiểu Hoàng: “Con trai, qua đây giúp cha cõng người này”. Tiểu Hoàng ngoẹo đầu. Quân Vỹ lại dỗ dành: “Đến thị trấn, cha mua gà rán cho mà ăn”. Tiểu Hoàng vui sướng chạy đến.


      Chàng công tử đẹp trai đó nằm hai ngày trong y quán của thị trấn tỉnh lại. Ngoài hai tiếng “Tử Yên” gọi trong lúc mê sảng, ta gì khác. Tôi đoán Tử Yên là tên , chưa biết chừng chính là người đâm ta nhát dao đó. Nghĩ lại, từ cổ chí kim đều như vậy, hùng đều khó qua ải mỹ nhân.


      Quân Vỹ : “Người này sao thế nhỉ, dù gì chúng ta cũng cứu ta. Từ lúc tỉnh lại tới giờ, nửa câu cảm ơn cũng thấy”.


      Tôi : “Đẹp trai thế cơ mà, tùy tiện chút cũng dễ hiểu thôi”.


      Quân Vỹ trợn mắt nhìn tôi: “Đẹp trai có thể uống thuốc trả tiền? Đẹp trai có thể mắc nợ ân tình cũng cám ơn?”.


      Tôi : “Ừ”.


      Quân Vỹ ôm ngực, tức tối suýt té xỉu.


      Chúng tôi vẫn nghĩ nhận được chút gì báo đáp khi cứu ta. Nếu nhà ta gần đây, chúng tôi đưa ta về rồi mới tiếp tục hành trình. Nhưng đời luôn như ý, ai ngờ, công tử ăn vận phong lưu như vậy mà trong người lại cắc bạc. Tôi bối rối phân trần: “Đưa huynh từ Bích sơn về đây coi như chúng tôi làm việc thiện đường, nhưng vết thương của huynh , phải dùng rất nhiều loại thuốc tốt, đều do chúng tôi chi trả. Hành trình của chúng tôi còn dài, lại còn mang theo con hổ, chi phí rất nhiều, lưng vốn cũng chẳng có bao nhiêu, huynh xem...”.


      Tôi nghĩ, nếu ta vẫn có phản ứng, tôi cho ta trận.


      Nhưng người đó cho tôi có cơ hội đánh ta.


      Tôi còn chưa xong, ta cướp lời: “Đường xa ư?”. Hàng lông mày rất đẹp hơi nhướn lên, nụ cười thoáng miệng.


      Tôi nghĩ, có phải ta bị vết thương lòng quá nặng ?


      ta tiếp tục: “Nếu đường xa, lại đèo dốc hiểm trở, ắt nhiều nguy hiểm. Tại hạ bất tài, may mắn từng học vài năm kiếm thuật, nương nếu chê, tại hạ xin được hộ tống bảo vệ nương, cũng là để trả ơn cứu mạng”.


      Tôi ngập ngừng: “Nhưng còn tiền thuốc...”.


      ta lập tức rút chiếc nhẫn ngọc lớn tay đưa cho tôi: “Đem cầm chiếc nhẫn này cũng được hai mươi kim thù[5] (gần lượng vàng), những đủ tiền thuốc mà còn đủ tiền lộ phí cho tại hạ theo nương”.


      [5] Thù: đơn vị trọng lượng thời cổ đại, hai mươi tư thù bằng lượng.


      Tôi đón chiếc nhẫn ngọc, nhìn ta: “Huynh cần phải bảo vệ tôi, gần lượng vàng này đủ trả ơn cứu mạng rồi”.


      ta cười nhạt: “Mạng của tại hạ đến nỗi rẻ như vậy”.


      Tôi đắn đo hồi: “Nhưng ngày mai chúng tôi phải lên đường, huynh có được ?”.


      ta khẽ cười tiếng: “Ngày mai ư? hề gì”.


      Quân Vỹ tại sao chàng công tử áo lam đó nhất quyết muốn theo chúng tôi. Nghĩ mãi, cảm thấy chỉ có lý do, chính là ta thích tôi. Tôi vốn lòng nở hoa lúc, nhưng chợt liếc vào gương, thấy dung mạo mình giờ đây khác. Trừ phi ta là người trọng tình nghĩa hiếm có, nếu với nửa khuôn mặt bị bọc chặt trong lớp giấy bạc, tôi có gì đáng quý.


      Quân Vỹ nghe tôi , trầm ngâm: “Nếu phải thế chẳng có lý do nào khác”.


      Tôi giải thích thêm: “ đời đâu phải mọi việc đều có lý, ví như Tiểu Lam, ràng ngời ngời là bậc tài, chắc khiến ít ong bướm si mê. Nhưng kết cục, huynh thấy đó, ta thích lại ngần ngại đâm ta nhát. Nếu gặp chúng ta, bỏ xác ở chốn rừng hoang. Lúc chọn bạn đời ta có mắt, khiến bản thân sống dở chết dở, nếu theo đạo lý sao có thể xảy ra chuyện đó”.


      Quân Vỹ nghĩ lúc, cũng gật gù, lại hỏi tôi: “Tiểu Lam là ai?”.


      Tôi : “Chẳng phải là cái người mặc áo lam chúng ta cứu mấy ngày trước đó thôi?”. rồi, tôi quay người, định xuống bếp xem ấm thuốc sắc. Vừa ngẩng đầu, bắt gặp Tiểu Lam trang phục gọn gàng nhàn tản tì tay vào khung cửa, mắt lạnh lùng nhìn về phía chúng tôi. Bàn tán chuyện riêng của người khác sau lưng họ, quả là khiếm nhã, bị người ta bắt quả tang, tôi rất bối rối, lúc sau mới cười gượng tiếng. ta cũng cười, nhưng ánh mắt nghiêm lạnh, trở gót vào trong.


      Quân Vỹ đến : “Huynh tin là ta thích muội”.


      Tôi quay đầu lại hỏi Quân Vỹ: “Huynh xem, liệu có khả năng ta thích huynh ?”.


      Vừa lúc Tiểu Hoàng qua trước phòng, Quân Vỹ nghiến răng, chỉ vào tôi : “Tiểu Hoàng, cắn ta ”.


      Mười ngày sau, chúng tôi đến Nhạc thành, vương đô của Khương quốc.


      Tiểu Lam , đường núi non hiểm trở, ắt nhiều hiểm nguy. Tôi ngẫm nghĩ, thấy ta có vẻ nhiều kinh nghiệm hơn chúng tôi, hoàn toàn tin lời ta, luôn sẵn sàng đón đợi hiểm nguy. Nhưng suốt mười ngày đều bình an, gặp tên sơn tặc, thổ phỉ nào hết. Quân Vỹ hỏi tôi: “Muội xem khi nào chúng ta gặp thổ phỉ?”. Tôi trả lời: “ biết, cứ đợi xem”. Nhưng đợi mãi, vẫn chẳng thấy tên cướp nào xông ra, khiến chúng tôi rất bực.


      Đêm trước khi vào Nhạc thành, đoàn chúng tôi lại thêm , là hầu nữ kiêm thị vệ của Tiểu Lam, tên là Chấp Túc. Chúng tôi gặp ta khi mua bánh nướng bên đường. Trong ánh tịch dương đỏ rực, ta cưỡi con tuấn mã trắng phi tới.


      Quân Vỹ kéo tôi tránh sang bên đường, ta nhảy xuống ngựa, tay áo trắng phất qua mặt tôi. Tôi và Quân Vỹ còn chưa hiểu có chuyện gì, ta quỳ sụp trước mặt Tiểu Lam. Mắt đỏ hoe nhìn ta nghẹn ngào: “Công tử, cuối cùng Chấp Túc tìm thấy công tử!”.


      Chấp Túc có khuôn mặt vô cùng thanh tú, giữa trán có nốt ruồi son. Việc ta khăng khăng đòi theo chúng tôi, thái độ của Tiểu Lam ràng. Quân Vỹ gật đầu, tỏ ra phấn khởi. Chắc vì Chấp Túc quả là xinh đẹp, khiến ta động lòng trắc . Nhưng trong khi động lòng bởi Chấp Túc, Quân Vỹ lại rất hài lòng với Tiểu Lam, ta ghé tai tôi : “ chàng này đến là phong lưu, ngay hộ vệ cũng là nữ”. Nhưng tôi nghĩ, thể như vậy, khi chúng tôi rời khỏi núi Quân Vũ, Quân sư phụ dặn Quân Vỹ phải chăm sóc cho tôi, cũng có thể coi là hộ vệ của tôi, theo logic đó, chẳng phải tôi cũng rất phong lưu?


      Buổi tối hôm đó, chúng tôi trọ ở quán . Nửa đêm, Tiểu Hoàng cắn tay áo đánh thức tôi, nhờ ánh trăng tôi nhìn kỹ nó, dường như nó muốn tôi với nó. Chúng tôi xuyên qua hành lang dài, chú hổ và người chết, bước chân như bay. Vừa lúc sắp bước vào hậu viên, bất chợt nghe thấy tiếng Chấp Túc: “ đó chẳng có gì đặc biệt, tại sao công tử chịu cùng Chấp Túc về phủ? Công tử có biết, khi công tử vắng, nhị công tử làm bao nhiêu việc rồi ? Chấp Túc biết, Tử Yên nương làm công tử bị tổn thương sâu sắc, nhưng công tử, mong công tử lấy đại làm trọng”.


      Tôi nghĩ, chuyện riêng của họ tôi có nên nghe lén? Cuối cùng đạo đức chiến thắng tính hiếu kỳ, tôi quyết định nghe tiếp nữa. Nhưng tôi chưa kịp bỏ , Tiểu Lam , tiếng rất , theo gió truyền đến tai tôi, giọng nghe rất quen, “Các ngươi...”, ngừng lát “... tìm được Tử Yên rồi?”.


      Tôi kéo Tiểu Hoàng lùi về phía cánh cửa hình bán nguyệt, nghe thấy giọng Chấp Túc: “Công tử đối với Tử Yên nương tình sâu nghĩa nặng, nhưng ta là gian tế của nước Triệu, ta rắp tâm hành thích công tử, ta...”.


      Tiếng dần biến mất sau lưng tôi và Tiểu Hoàng.


      Dưới mái hiên, tôi sực nhớ cảm giác quen thuộc vừa rồi, ngẩn ngơ nhớ lại cái hang núi ba năm trước, Mộ Ngôn ngồi đối diện với tôi, những ngón tay trắng như ngọc gẩy cây cổ cầm, dây bằng tơ tằm, nụ cười môi. ba năm, tôi thực thể nhớ tiếng của chàng, chỉ có thanh từ cây cổ cầm đó thỉnh thoảng lại vẳng bên tai, trầm bổng du dương, là khúc ca ngân mãi trong tôi.


      Ánh trăng trong sáng vằng vặc, tôi đưa tay bịt mắt mình, như chàng từng làm vậy. Nhưng đôi mắt đó bây giờ chết.


      Chuyện này thực biết làm sao.

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 3





      Ba ngày sau, tôi gặp vị khách Quân sư phụ thu xếp cho tôi, Thẩm Tống Thị Tống Ngưng, phu nhân của Khương quốc tướng quân Thẩm Ngạn đồn trấn biên ải. là “khách” cũng chưa thỏa đáng, bởi vì rút cục biết mua giấc mộng đẹp từ tôi, hay tôi mua sinh mệnh từ .


      Đó là biệt viện ở ngoại thành, nghe đồn Thẩm Ngạn tướng quân bất hòa với phu nhân, hai năm trước, Tống Ngưng chuyển tới tĩnh dưỡng ở biệt viện này, sau quay về phủ tướng quân nữa. Trong hai năm, xảy ra khá nhiều biến cố như, Thẩm Ngạn nạp thiếp, Tống Ngưng bị bệnh. Tóm lại, sức khỏe của Tống Ngưng càng tĩnh dưỡng lại càng suy yếu, bây giờ gần như sắp chết.


      Lão bộc ra đón chúng tôi cho biết, phu nhân muốn gặp riêng tôi, ba người Tiểu Lam, Quân Vỹ và Chấp Túc được đưa về nghỉ ở nhà ngang. Tiểu Lam ý kiến gì, Quân Vỹ rất hài lòng, tôi hiểu, ta lo cho an toàn của tôi. Nhưng tôi hiểu, với tình trạng người chết như tôi, như thế nào là bảo đảm an toàn. Mọi người thảo luận rất lâu, quyết định để Tiểu Hoàng cùng tôi. Quân Vỹ xoa đầu Tiểu Hoàng, căn dặn: “Con trai, cố gắng bảo vệ mẹ nuôi tốt”.


      Tôi cũng xoa đầu Tiểu Hoàng, vừa ngẩng lên, bắt gặp ánh mắt của Tiểu Lam, biết ta có ý gì, lại nhìn tôi cười: “Quân nương sớm về sớm”.


      Lão bộc dẫn tôi qua hai dãy hành lang, qua những khu vườn hoa lá tốt tươi, vừa vừa giới thiệu, những loài cây, giống hoa này được chuyển từ đâu tới, có mùi kỳ hương thế nào nhưng tôi chẳng ngửi thấy gì. Vòng qua hồ sen rộng, bước lên ngôi thủy tạ hồ sen đó, bốn bề có rèm chắn gió. Người phụ nữ nằm chiếc giường mây đọc sách ngẩng đầu nhìn tôi.


      Tôi nhìn khuôn mặt của như được in ra từ bức họa. Mặc dù gắng tỏ ra vui vẻ nhưng vẫn trắng bợt, ủ rũ. Cho dù tôi lấy tính mạng của , cũng chẳng sống được bao lâu. Điều này có nghĩa là tôi biết xem tướng mà chỉ là vì trong chuyện này ai có kinh nghiệm bằng tôi, đó là khuôn mặt của người sắp chết.


      Huống hồ, tôi đến đây là để lấy tính mạng của . Trong thời gian ngắn, nếu chết tự nhiên, tôi cũng phải làm cho chết bất ngờ.


      Gió lay bức rèm, bây giờ là tháng năm. Thẩm phu nhân đặt cuốn sách xuống, ho , lặng lẽ nhìn Tiểu Hoàng nằm phục đất, hồi lâu, nhàng : “ chú hổ hiền, lúc chưa xuất giá, ở quê nhà ta cũng nuôi con sói ”. giơ tay, “To bằng ngần này”. Ngón tay như bông hoa lan phác ra hình , dừng lại, khẽ lắc đầu mỉm cười, rồi nhìn tôi, ánh mắt kỳ dị: “ nương chính là Quân Phất? Người mà Quân sư phụ có thể giúp tôi thực tâm nguyện bấy lâu?”.


      Tôi trả lời: “Dạ phải”. Lúc trả lời như vậy, thực tôi chưa nhớ ra Quân Phất là ai. Điều đó chứng tỏ tôi phải là người có mới nới cũ. Tôi là Diệp Trăn được mười bảy năm, tràn đầy tình cảm với cái tên đó, mặc dù đổi tên lâu, cũng thể dễ dàng quên được.


      đặt tay lên mép giường mây, khe khẽ gật đầu, sắc mặt trắng xanh trầm lại dần dần ửng hồng, nhìn lúm đồng tiền rất sâu má. lúc lâu sau, cười: “Quân Phất, tôi muốn có giấc mơ, có biết tôi muốn có giấc mơ thế nào ?”. Tôi ngồi lưng Tiểu Hoàng, trang nghiêm nhìn : “Tôi biết, nhưng phu nhân cần cho tôi biết”. Nghĩ lát lại thêm: “Tuy vậy, phải tôi tới giúp phu nhân, chỉ là đến làm cuộc trao đổi. Tôi cần núi vàng núi bạc, mấy ngày lưu ở Nhạc thành này chỉ xin phu nhân bữa cơm. Tôi có thể cho phu nhân giấc mơ đẹp, phu nhân muốn giấc mơ thế nào, tôi cho phu nhân giấc mơ như thế. Phu nhân có thể tự lựa chọn, ở lại trong giấc mơ đó, hay thoát ra ngoài”.


      tỏ ra rất ngạc nhiên: “Sao?”.


      Tôi gật đầu: “Nếu phu nhân lựa chọn thoát ra khỏi giấc mơ, tôi cần xu tiền công, nhưng nếu phu nhân lựa chọn ở lại trong mơ...”.


      hơi nheo mắt: “Nếu tôi chọn ở lại trong mơ, Quân nương, thế nào?”.


      Tôi nhìn vào mắt : “Nếu phu nhân lựa chọn ở lại trong giấc mơ, hãy trả thù lao cho tôi bằng tính mệnh của phu nhân trần thế, phu nhân thấy thế nào?”.


      Hàng lông mày thanh tú khẽ nhướn, rồi ngoảnh nhìn bầu trời bên ngoài thủy đình, trầm ngâm hồi lâu, đột nhiên mỉm cười: “Được”.


      Ngày hôm đó, tôi sớmsớm như lời dặn của Tiểu Lam, ngồi trong thủy đình rất lâu. Bởi vì Tống Ngưng kể chuyện cho tôi nghe, đó là tâm nguyện của . muốn sửa lại câu chuyện đó, dẫu chỉ trong mơ. Đương nhiên chỉ là tự dối mình. Nhưng hiểu điều đó, nên mới khao khát giấc mơ như vậy.


      Rèm ở bốn phía được kéo lên, phía xa là mặt hồ đầy nắng. uống vài giọt máu của tôi pha với nước trà, huyết dịch kích thích sinh khí trong người tụ lại, hóa thành những nốt nhạc nhảy múa, xếp hàng trước mặt tôi. Tôi ghi nhớ từng nốt , đó là Hoa Tư điệu của Tống Ngưng.


      Trong ánh sáng từ mặt hồ hắt lên, dần dần nhớ lại. Còn tôi nhập tâm Hoa Tư điệu nhảy múa trước mặt, nhìn thấy từng cảnh, từng cảnh quá khứ của . chậm rãi: “Quân nương chắc từng nghe , tuy tôi là phu nhân Khương quốc tướng quân, nhưng lại phải là người Khương quốc. Bảy năm trước, tôi mười bảy, cũng bằng bây giờ, được gả tới Khương quốc, lòng tràn trề tình mãn nguyện, thực là những ngày đẹp như hoa...”.


      Trong những ngày đẹp như hoa đó, Tống Ngưng, em Tống Diễn đại tướng quân Lê quốc tình cờ gặp Thẩm Ngạn chiến trường cuộc chiến giữa hai nước Khương, Lê. Lúc đó, Thẩm Ngạn tướng quân là viên tướng trẻ nhất nước Khương, có cặp mày uy nghiêm, tài năng trác việt, uy danh lẫy lừng bách chiến bách thắng.


      Tống Ngưng xuất thân trong gia đình võ tướng danh giá, từ được dạy dỗ nghiêm khắc như cậu con trai, lúc còn bé tí ngơ ngẩn ngắm nhìn thanh kiếm chuôi có dải lụa hồng, mười bốn tuổi theo huynh trưởng chinh chiến bốn phương.


      Tuổi mười sáu, mười bảy, là lúc các khuê nữ bận rộn chuẩn bị đồ thêu cho ngày xuất giá, còn Tống Ngưng với cây kiếm mang dải lụa hồng lại lập công xuất sắc ngoài trận mạc. Nước Lê từ cổ nhiều nam ít nữ, các vô cùng đắt giá. Mùa xuân năm Lê Trang Công thứ mười bảy, những gia đình danh giá phàm có con đến tuổi cập kê, đều bị các đám dạm hỏi giẫm mòn bậu cửa. Nhưng phủ đệ đại tướng quân danh giá như vậy lại vắng vẻ đìu hiu, vị công tử quý tộc nào dám lấy Tống Ngưng.


      Mọi người đều sợ, cưới vợ như Tống Ngưng, nếu nạp thiếp, với dòng máu con nhà võ bị đánh chết. Lê Trang Công có thiện ý đích thân đứng ra làm mối gả Tống Ngưng cho nhị công tử ở phủ thừa tướng. Nhị công tử vừa nghe chuyện sợ đến nỗi ngã từ lưng ngựa xuống.


      Tống Ngưng ở chiến trường nghe tin đó, đứng trầm ngâm rất lâu bên bờ suối. Tống Diễn tìm thấy , cau mày, : “Muội đừng lo, đó chỉ là những kẻ nhát gan, huynh có cách để nhất định phải lấy muội”.


      Tống Ngưng mỉm cười: “Huynh đừng giận, bọn chúng là những gã công tử ham chơi trói gà chặt, chúng thích muội, huynh tưởng muội thích chúng sao? Tống Ngưng nếu lấy chồng, cũng phải lấy hùng hào kiệt”.


      Vốn tưởng vậy để chứng tỏ Tống Ngưng bận tâm chuyện bị nhị công tử ruồng bỏ. Nhưng sau đó lâu, quả nhiên gặp được vị hùng của đời mình. Chính vào mùa đông năm đó, vị hùng cưỡi con hắc mã, tay cầm thanh kiếm nặng bốn chục cân, họ Thẩm tên Ngạn, tự Bạc Chu.


      Mùa đông năm Lê Trang Công thứ mười bảy, tiết trời giá lạnh khác thường, tuyết phủ trắng khắp nơi, ở biên giới hai nước Lê, Khương bỗng xuất đàn ngựa hoang, hai nước đều muốn nhận là của mình, bên nào nhường bên nào, dẫn tới xích mích, hận thù, cuối cùng gây nên đại chiến. Tống Ngưng từ lâu nghe chiến công hiển hách của Thẩm Ngạn, nhưng thâm tâm phục, luôn muốn tìm cơ hội so tài với chàng.


      Cuối cùng vào ngày, tuyết rơi dày đặc, hai nước giao tranh trước ải Ngọc Lang. Thời cơ hiếm hoi đến, Tống Ngưng, người vốn điềm đạm cẩn trọng, lại bất chấp ánh mắt cảnh báo của đại huynh, quất ngựa xông lên, hét tên mình và gọi: “Tử huy thương Tống Ngưng đến lĩnh giáo cao chiêu của Thẩm tướng quân Thẩm Ngạn”. Gió lạnh ù ù truyền tiếng như vỡ họng của Tống Ngưng tới trận địa quân Trần. Lá cờ bay phần phật, vị tướng trẻ mình vận bạch bào cưỡi ngựa khoan thai tới. Khuôn mặt tuấn lạnh lùng, thanh kiếm lạnh như nước trong tay lóe sáng.


      Trong trận thách đấu đơn phương đó, kiếm pháp của Tống Ngưng chưa bao giờ vụng về đến vậy, chưa đầy năm chiêu, bị ngã ngựa, suốt ngần ấy năm chinh chiến chưa bao giờ thất bại nhanh như vậy, thảm hại như vậy. Nhưng đối phương vẫn đổi sắc mặt, chỉ khi dùng mũi kiếm hất mũ giáp đầu , mới ngạc nhiên thốt lên: “ ra là tiểu thư”.


      Tống Ngưng Thẩm Ngạn vì chàng đánh bại . Đó cũng là nguyên nhân tục đấu võ kén chồng rất thịnh hành sau đó, các mạnh mẽ ngày càng nhiều, các mạnh mẽ khi lựa chọn lang quân đều mang trái tim của Độc Cầu Bại[1].


      [1] Nhân vật trong tiểu thuyết của Kim Dung.


      Muốn có được , trước hết phải đánh bại . Chỉ cần đánh bại , tất có được . Nếu đánh bại , lại muốn có , bắt đầu cuộc tình bi thảm.


      Tóm lại, cây thương buộc dải lụa hồng bị thanh trường kiếm trong tay Thẩm Ngạn đánh bật ra cách đó hai trượng. Chàng ngồi lưng ngựa, hơi cúi xuống, mũi kiếm chớp mắt hất lên cây thương dài đất, tung lên rồi cắm phập bên cạnh Tống Ngưng, giọng dửng dưng: “Cây thương của tiểu thư”. Gió lạnh mang theo tuyết lồng lộn tung hoành, trong mắt chàng là ba vạn hùng binh phía sau , môi nụ cười, trong mắt có chỉ hình bóng chàng.


      Thẩm Ngạn sừng sững uy nghiêm như trái núi trong lòng Tống Ngưng. Con chiến mã đen tuyền, bộ chiến bào lóng lánh như ánh trăng bạc, đường kiếm mau lẹ, chuẩn xác, quyết chịu đớn hèn trong vòng tay đàn bà. nghĩ, đó mới là vị hùng của lòng mình, đáng tiếc, đó lại là vị hùng của phía địch quân.


      Nhưng hùng cũng có lúc thất bại, hơn nữa rồi thất bại. Các bậc hào kiệt trong lịch sử xứng danh hai chữ “danh tướng” đều như vậy, phải thất bại, cũng sắp thất bại.


      Thế là, Thẩm Ngạn gặp Tống Ngưng, từ đó chàng dần dần thất bại... Thực ra, cũng như thế được, như vậy đúng, như thế có vẻ Tống Ngưng quá ưu thế. Thẩm Ngạn bị thua trong trận chiến cánh đồng hoang Thương Lộc quả liên quan đến , các nhà quân phân tích rất lâu, tìm ra lý do đáng tin cậy nhất có lẽ là sao chiếu mệnh của Thẩm Ngạn chỉ ra ngày hôm đó chàng nên xuất hành.


      Trong trận chiến cánh đồng hoang Thương Lộc, Thẩm Ngạn bị thua dưới tay đại tướng quân Lê quốc Tống Diễn, năm vạn tinh binh theo bị tiêu diệt, bản thân chàng cũng trúng mấy mũi tên, suýt mất mạng. Lúc trời vừa rạng, con chim ưng của Tống Diễn bay qua sa mạc, nghiêng cánh chao liệng, rồi đậu xuống tay Tống Ngưng. Tống Ngưng lấy ra ống tre buộc ở chân chim, trong đựng mảnh thư lụa báo tin chiến thắng, tay run run, mảnh thư lụa bằng bàn tay rơi xuống, con chữ nhập nhòa nghiêng ngả. Tống Ngưng thể tin Thẩm Ngạn chết, bởi thâm tâm coi Thẩm Ngạn là vị hùng bất khả chiến bại. Chưa đầy ba ngày, vị hùng bại trận, thể chấp nhận điều đó.


      Tống Ngưng mang theo thuốc, phi ngựa ra khỏi quân doanh. nghĩ, nếu Thẩm Ngạn chưa chết, bất luận thế nào cũng cứu sống chàng. Còn nếu Thẩm Ngạn chết, phải tìm được thi thể, tự tay chôn cất chàng. Thẩm Ngạn thể trở thành bộ xương vô chủ.


      Thẩm Ngạn là người đầu tiên khiến rung động, chàng là người đàn ông đích thực, khác hẳn những gã công tử nhà giàu tầm thường ở nước Lê. Kỳ thực làm sao biết chàng có phải là người đàn ông đích thực hay . cũng chưa từng thử, tất cả đều là tưởng tượng, và trong tưởng tượng lại càng chàng.


      ngày trời u, gió sa mạc sắc như dao, gió xoáy mang theo đá vụn quất vào mình ngựa, làm nó đau đớn hí vang, Tống Ngưng cúi rạp mình lưng ngựa, giữa sa mạc bao la, dùng dải sa trắng quấn ngang che mắt, cố bảo vệ số thuốc quấn trong người, nghiến răng phi ngược chiều gió, tay và mặt bị gió cát quất bỏng rát. liếm vết thương tay, tiếp tục phi ngựa trong gió.


      thầm nghĩ, Thẩm Ngạn đợi ở phía trước. Niềm tin này giúp vượt qua quãng đường rất dài trong thời gian ngắn nhất, đường còn phải tránh đại quân của đại huynh thắng trận trở về quân doanh. Chung quy có lẽ chỉ mình nghĩ như vậy, thực ra, Thẩm Ngạn sao có thể đợi ? Thậm chí chàng chưa hẳn còn nhớ .


      Cánh đồng hoang Thương Lộc ở phía trước, những vũng máu bị gió cát phủ lấp quá nửa, giống như chiến trường bị bỏ quên lâu ngày, chỉ có mùi máu tanh vẫn nồng nặc trong khí nhắc người ta cảnh Tu La trường[2] vừa mới diễn ra. Xác binh sĩ Khương quốc đen ngòm phủ kín cánh đồng Thương Lộc, vừa xuống ngựa vài bước, vấp phải xác người. Tống Ngưng tay lật hơn hai ngàn xác chết. Điều đó có vẻ như và Thẩm Ngạn có duyên với nhau. Nếu có duyên, xác đầu tiên lật thấy là Thẩm Ngạn. Nhưng vẫn kiên trì quyết bỏ cuộc. Có lẽ quyết tâm của cuối cùng động đến trời xanh, khi lật đến xác thứ hai ngàn bảy trăm hai mươi tám, lau hết máu mặt người, nhìn thấy đôi mắt vị hùng, ôm chặt chàng nghẹn ngào: “Thẩm Ngạn”.


      [2] Theo Phật giáo, đây là nơi diễn ra trận đấu giữa A Tu La - trong những vị thần cổ xưa nhất Ấn Độ, quỷ hiếu chiến, ác thần, với Đế Thích.


      Tống Ngưng đoán nhầm, những bậc hùng thường cao số, Thẩm Ngạn vẫn còn sống. ôm xác chàng nghe thấy tiếng rên vô thức của chàng khi bị chạm vào vết thương, lòng như trút được gánh nặng ngàn cân, nước mắt trào ra, chảy dài má: “Em biết mà, em phải đến”. Lúc này, chỉ có hai người giữa ngổn ngang xác chết, Thẩm Ngạn hoàn toàn biết gì. Mặc dù giữa cảnh địa ngục, Tống Ngưng cũng nở nụ cười, ôm mặt khóc, nước mắt đầm đìa.


      Tống Ngưng cứu sống Thẩm Ngạn. Thuở , trong phủ từng học y, chỉ tiếc có năng khiếu về mặt này, khi thành nghề cũng chỉ chữa được bệnh thương hàn . Vết thương của Thẩm Ngạn lại rất nghiêm trọng, có lẽ ngay cả thần y Bách Lý Việt cũng chưa chắc chữa được. Trong tình hình thuốc thang thiếu thốn như vậy, Tống Ngưng lại làm Thẩm Ngạn chết, ngược lại khiến chàng khá dần lên, chỉ có thể , tấm lòng lần nữa thấu tận trời xanh.


      Nhưng đôi mắt Thẩm Ngạn bị gió cát làm tổn thương, tạm thời chưa thể hồi phục. Chàng ngồi trong hang núi tuyết gần cánh đồng hoang Thương Lộc nhàng vuốt thanh kiếm, lạnh lùng với Tống Ngưng: “Xin hỏi, ân nhân cứu mạng là nương hay vị công tử?”.


      Nhưng cuối cùng Tống Ngưng cho Thẩm Ngạn biết là ai. Đại quân nước Lê dẹp bằng cánh đồng Thương Lộc, tiêu diệt năm vạn tinh binh của Thẩm Ngạn, chắc chắn chàng căm hận người Lê đến tận xương tủy, cho nên sao có thể cho chàng biết mình là Tống Ngưng của nước Lê?


      Nhưng ý trời khó đoán, đêm hôm đó, vết thương của Thẩm Ngạn phát tác, chàng sốt rất cao, rét run cầm cập, trong hang đốt bao nhiêu lửa cũng đủ. Tống Ngưng lo lắng bồn chồn, trầm ngâm rất lâu, cuối cùng đành dùng cách được ghi trong sách cổ, cởi bỏ xiêm y, ép người sát vào chàng, ôm chàng chặt.


      Trong động bốn bề là lửa, nóng rừng rực, làm tan cả lớp băng vách động, nước theo kẽ nứt tí tách giọt. Thẩm Ngạn bỗng bừng tỉnh, đẩy mạnh ra, lại ôm chàng chặt hơn, chàng bất lực : “ nương, cần hủy hoại trong trắng vì tại hạ”.


      cười thầm, tay viết lên ngực chàng: “Lương tâm thầy thuốc mà, chớ bận lòng”. Kỳ thực, phải lương tâm nào hết, chỉ là bởi vì đó là người , là vị hùng của , dùng cách gì cứu được chàng cũng rất đáng, dẫu phải đổi mạng cũng cam lòng, huống hồ chỉ là đụng chạm da thịt. Thẩm Ngạn cự tuyệt nữa, nhàng đặt tay lên vai : “Nếu nương chê, khi tại hạ khỏi bệnh, xin đến quý gia cầu hôn nương”. Tống Ngưng run rẩy, gục đầu vào ngực chàng.


      Từ sau đêm đó, tình trạng của Thẩm Ngạn vẫn rất nguy kịch, đêm ngày mê man. Chỗ thuốc đem theo cuối cùng cũng hết, còn cách nào khác, định cõng Thẩm Ngạn vượt qua núi tuyết vào trong trấn tìm lang y. Việc này thực vô cùng nguy hiểm, đầu tiên phải nghĩ tới tình hình thời tiết giá lạnh núi, họ có thể bị chết cóng đường , tiếp nữa, có thể gặp tuyết lở, có thể bị tuyết vùi, cuối cùng là có thể bị chết đói do lạc đường núi. Tóm lại, thực rất gian nan. Nhưng Tống Ngưng nghĩ nghĩ lại, quyết định cứ . Mặc dù ra khỏi hang núi đồng nghĩa với tự tìm cái chết, nhưng ở mãi trong hang cũng là tự tìm cái chết, mạo hiểm để may ra còn tia hy vọng sống. Nhưng chưa từng nghĩ đến chuyện để lại Thẩm Ngạn, mình trở về quân doanh.


      Ba ngày liên tiếp nghỉ, cõng Thẩm Ngạn vượt qua núi tuyết. Khi đến được y quán trong thị trấn, cũng là lúc sức cùng lực kiệt, chân tay trầy xước rớm máu, đặt Thẩm Ngạn xuống rất lâu nhưng Tống Ngưng vẫn thể nào đứng thẳng lên được.


      Thẩm Ngạn vẫn mê man.


      Gần mười ngày trở về quân doanh, Tống Diễn vô cùng lo lắng, phái thuộc hạ tìm khắp nơi. vừa tới thị trấn, liền nhìn thấy thuộc hạ của đại huynh, biết là thể ở lại lâu hơn, liền đập miếng ngọc bội của mình thành hai mảnh. nửa dùng sợi tơ đỏ xuyên qua đeo lên cổ Thẩm Ngạn, nửa mình giữ, coi đó là tín vật về sau. gửi gắm Thẩm Ngạn cho hai ông cháu vị đại phu ở y quán, để lại năm lượng vàng, dặn dò: “Đây là Khương quốc tướng quân của các vị, hãy chữa khỏi cho chàng, nhất định được hậu thưởng xứng đáng”. Vị đại phu có tuổi quỳ sụp trước mặt , đứa cháu bị câm đứng bên đỡ lấy ông, giơ tay ra hiệu điều gì mà Tống Ngưng hiểu.


      Bàn tay vuốt mắt Thẩm Ngạn, khuôn mặt chàng trắng bệch, vẫn hôn mê sâu, chàng hay biết sắp phải rời .


      Tống phu nhân kể cho tôi nghe câu chuyện đó, còn những chuyện có trong ký ức của tôi lại nhìn thấy.


      Ngày thứ ba sau khi Tống Ngưng rời , Thẩm Ngạn tỉnh lại trong đêm mưa, đôi mắt chàng được rửa và tra thuốc, sáng trở lại. Đứa cháu bị câm của vị đại phu ngồi cạnh giường chàng. Chàng chăm chú nhìn , mỉm cười: “ ra trông như thế này, những ngày qua chắc lo cho tôi lắm? Bây giờ chúng ta ở đâu?”.


      Khuôn mặt thanh tú của chợt ửng đỏ, cắn môi, dám nhìn chàng.


      Chàng nhìn quanh hỏi: “Đây là y quán ư? ngồi lại gần đây”.


      câm nhích lại gần chàng. Chàng cau mày: “ được ư?”.


      bẽn lẽn gật đầu. Chàng nắm lấy tay : “Chả trách trước giờ tôi chưa nghe thấy , ra được”.


      khẽ ngước nhìn chàng, lại bối rối cúi đầu, tay vẫn để yên trong tay chàng.


      Năm Lê Trang Công thứ mười tám, Khương quốc thua trận, dâng hai thành ấp biên ải cầu hòa. Lê, Khương kết đồng minh. Đồng minh mới kết chưa lâu, Lê Trang Công nhận Tống Ngưng em Khương quốc đại tướng quân làm nghĩa muội, phong là Kính Võ công chúa, phái sứ giả tới nước Khương yết kiến Khương vương, ngỏ ý muốn tác thành hôn cho Tống Ngưng và Thẩm Ngạn để thắt chặt mối bang giao hữu hảo giữa hai nước.


      Trước đây Tống Ngưng để Thẩm Ngạn biết là ai, do mối quốc thù, sợ Thẩm Ngạn thà chết cũng nhận ân nghĩa của người nước Lê, chịu để cứu sống. Thực ra, chỉ là cả nghĩ, hùng cần biết xuất xứ, nghĩa là khi nhận ơn huệ, hùng thường hỏi xuất xứ của ân nhân.


      Nhưng bây giờ sắp được gả sang nước Khương, gả cho người hùng của lòng mình. còn nhớ, Thẩm Ngạn cầu hôn , cần biết chàng có , muốn chàng thực lời hứa. Đó chính là lý do đàn ông thích hứa hẹn với phụ nữ. Bởi trí nhớ của phụ nữ quá tốt, hơn nữa họ luôn có cách buộc người hứa giữ lời. Tống Ngưng viết bức thư dài, lại đính kèm nửa miếng ngọc bội ngày trước, đưa cho sứ giả nhờ chuyển riêng đến tay Thẩm Ngạn.


      Mãi đến khi đoàn đưa dâu sắp khởi hành, Tống Ngưng vẫn nhận được thư hồi của Thẩm Ngạn. Nhưng chuyện đó cũng có gì quá thất lễ, cùng lắm chỉ là lỗi trong bản hòa ca mà thôi. Cuối cùng Thẩm Ngạn cũng đồng ý hôn Lê Trang Công đưa ra. Tống Ngưng thầm đoán, cảm thấy, thứ nhất, chính miệng Thẩm Ngạn lấy . Thứ hai, chàng cũng đồng ý lấy theo đề nghị của Khương vương, dù chủ động hay bị động, chàng đều bằng lòng, việc này hầu như hoàn toàn viên mãn, thể sai sót.


      ngờ cuối cùng lại xảy ra sai sót, âu cũng là ý trời. Đó là huyền bí, nhưng nếu huyền bí sao có thể chứng tỏ vô tình của số mệnh, giống như với Tống Ngưng, giống như với tôi.


      Đêm động phòng, vầng trăng tròn vành vạnh treo đầu ngọn cây, những áng mây lơ lửng trời, trong phòng ánh nến hỉ chập chùng in bóng hoa. Bao tình cảm ấp ủ trong lòng, Tống Ngưng hồi hộp chờ đợi Thẩm Ngạn lật khăn trùm đầu của , dành cho chàng nụ cười tươi thắm nhất. rất xinh đẹp, các công tử quyền quý ở kinh đô nước Lê, mặc dù tất cả muốn cưới làm vợ, nhưng tất thẩy đều công nhận nhan sắc mỹ lệ của , điều đó ra dễ, nhưng ở khía cạnh khác có thể thấy trình độ thẩm mỹ của họ rất cao, lại khá thống nhất với nhau. Vì trang tuyệt sắc, mà trang tuyệt sắc đó lại mỉm cười, tất khiến thành khuynh. Khi Thẩm Ngưng mở tấm khăn trùm đỏ thêu đôi chim uyên ương, nhìn thấy nụ cười khuynh thành đó, chàng bỗng sững người.


      Tống Ngưng nghiêng đầu nhìn chàng, nụ cười tươi rạng như hoa. Nhưng thần sắc chàng lạnh lùng dửng dưng, là bộ dạng quen thuộc. nghĩ, hạnh phúc đời mình chính là đây. Nhũ mẫu ở nhà dặn , trong đêm tân hôn phải những lời thương, đại loại như: “Phu quân, em trao Tống Ngưng cho chàng, trao hết cho chàng, chàng hãy trân trọng, vân vân…”. định những lời đó, nhưng còn đắn đo, chợt nghe thấy tiếng chàng lạnh lùng: “Chắc biết người ngồi chiếc giường này đêm nay vốn là ai chứ?”.


      hiểu chàng gì, ngẩng đầu hỏi: “Sao?”.


      Đôi mắt chàng vẫn lạnh băng: “Tôi nghe , đại huynh của thỉnh cầu Lê vương, muốn tôi cưới . Tại sao lại là tôi? Chỉ bởi lần tôi từng thắng ở chiến trường ư? Tống Ngưng, lẽ nào trước đây chưa nghe , tôi có vị hôn thê?”.


      Tống Ngưng lắp bắp: “Nhưng chàng muốn lấy tôi”.


      Chàng cười lạnh lùng: “Rút cục tôi cũng chỉ là phận bề tôi, chủ lấy tính mạng ra để ép tôi. Sao tôi có thể nghe. Có điều tôi muốn được gì từ . Cũng phiền đừng cầu gì ở tôi”.


      Tống Ngưng ngước nhìn chàng: “Tôi mong được gì từ chàng, chỉ là...”.


      Chàng ngắt lời : “Vậy tốt”.


      Chàng phảy tay áo bước khỏi phòng tân hôn, mặt đất trước giường đầy ánh trăng vỡ vụn. nhìn theo bóng chàng, thầm nghĩ, tuyệt đối thể như thế. gọi chàng: “Thẩm Ngạn” giống như khi trong địa ngục Tu La chiến trường Thương Lộc, ôm chàng nghẹn ngào, dịu dàng gọi tên chàng. Nhưng chàng dừng bước, khóc, lòng chỉ hoang mang.


      Cả đời chỉ khóc lần duy nhất. Đó là lúc tìm thấy chàng cánh đồng hoang Thương Lộc, phát chàng vẫn sống. cởi áo đỏ đại hỉ, gấp gọn gàng, nằm ngay ngắn giường, hai mắt mở to nhìn đôi nến long phượng cháy gần hết, ngoài cửa sổ ánh trăng buồn vẫn lặng lẽ buông.


      Ngày hôm sau, Tống Ngưng tới thỉnh an phu nhân lão tướng quân, nghe các hầu xì xào, tối qua tướng quân ngủ ở Hà Phong viện. Hà Phong viện là nơi ở của Liễu Thê Thê, Thê Thê nương. Tống Ngưng thầm nghĩ, Thê Thê vừa xanh tươi vừa tràn trề sinh khí, cái tên hay.


      Tống Ngưng nghe chiếc áo Thê Thê khâu cho tướng quân đường kim rất khéo, thêu hình cây trúc rất đẹp, sinh động như nghiêng trong gió. Lại nghe canh phù dung hạt sen Thê Thê hầm cho tướng quân là loại sen thượng hạng, món canh hầm tỏa hương thơm phức.


      Lại nghe , mặc dù Thê Thê được, nhưng luôn làm cho tướng quân vui lòng.


      Tống Ngưng thầm nghĩ, Liễu Thê Thê nên là vợ của Thẩm Ngạn, mình xen vào nhân duyên của họ, tất trở thành người thừa, quả nên so đo với ta. Sau ngày thành hôn, ngoài lần giáp mặt đêm tân hôn, Thẩm Ngạn hầu như xuất trước mặt . Có thể thấy chàng là người rất mực chung tình, quả đáng khâm phục. nghĩ, mình chàng, nhưng thể vậy, đành biến tình thành niềm ngưỡng mộ mà thôi. Bởi chỉ có ngưỡng mộ mới thấy tủi thân, chỉ có ngưỡng mộ mới còn tham vọng.


      thường nghe Liễu Thê Thê thế này, Liễu Thê Thê thế kia.


      Mặc dù suy nghĩ thông suốt, cố gắng tự an ủi “mình chàng, chẳng liên quan đến chàng” nhưng thâm tâm vẫn muốn gặp mặt Liễu Thê Thê. Tuy nhiên, có những việc phải cứ muốn là được. Ngay đến hoàng đế cũng thể muốn có con trai là lập tức có ngay.


      Sinh con trai, con hay sinh ra kẻ ngu đần, dường như là số mệnh. Baoồm cả Tống Ngưng chưa bao giờ có thói quen tản bộ vào mỗi buổi chiều, đột nhiên chiều nọ lại ra tản bộ sau hoa viên. Thế là hôm đó trong hoa viên có chim hót, hoa nở, có liễu rủ ven hồ, thế là bất ngờ gặp Liễu Thê Thê như lời gia nhân đồn đại.


      Mọi đều có nguyên do, khi Tống Ngưng nhặt được miếng ngọc bội trong hoa viên, miếng ngọc bội được viền vàng, rất hoàn hảo, ở giữa còn có vết nứt khá . nhặt miếng ngọc bội, soi rất lâu dưới ánh mặt trời. Nhận ra đó chính là miếng ngọc bội bẻ đôi đưa cho Tống Ngưng vào dịp đông hàn năm ngoái, hai nửa đó được ghép lại, được viền bằng vàng. Bỗng vội vã tới, tay chỉ miếng ngọc bội, tay chỉ vào ngực mình. Tống Ngưng ngẩng đầu, sau khi nhìn mặt Tống Ngưng, sắc mặt đột nhiên trắng bệch. Tống Ngưng thầm nghĩ, mình từng gặp ta ở đâu. Trong làn gió thoảng mùi thuốc thơm dịu, mùi thuốc này khiến chợt nhớ tới y quán phía sau núi tuyết. Tống Ngưng cầm miếng ngọc bội, mỉm cười hỏi : “ cũng ở đây ư? Quả nhiên Thẩm Ngạn phải là người vong ân bội nghĩa, ông đâu rồi?”.


      run lập cập, quay người định bỏ . Tống Ngưng chau mày, nắm tay kéo lại: “Tôi đáng sợ lắm ư? Tại sao lại sợ như vậy?”.


      cố vùng ra, lùi lại phía sau, đột nhiên sau lưng có tiếng Thẩm Ngạn: “Thê Thê”.


      Thê Thê. kinh ngạc, trong tay bị Thẩm Ngạn giằng mất. Chàng đứng chắn trước ta, như cây cổ thụ cao ngất che chở cho thân leo yếu ớt bên cạnh, nét mặt cúi xuống dịu dàng, vẻ âu yếm. Nhưng khi ngẩng đầu nhìn Tống Ngưng, khuôn mặt lại như băng giá, chàng hỏi sẵng: “ làm gì ở đây?”.


      trả lời câu hỏi của chàng, nhìn Thẩm Ngạn ôm trong lòng: “Thê Thê, chính là Thê Thê?”. dám ngẩng đầu.


      Thẩm Ngạn cau mày, ánh mắt dừng lại tay Tống Ngưng, lát sau lạnh lùng hỏi: “Miếng ngọc bội của Thê Thê, tại sao lại có?”.


      sững người, kinh ngạc nhìn chàng: “Của Thê Thê? Cái gì của Thê Thê? Sao lại của Thê Thê?”. bước lên, chìa miếng ngọc bội trước mặt chàng: “Chàng đọc lá thư tôi gửi ư? Chàng quên đó là tín vật tôi trao cho chàng sao? Chàng quên ở trong hang núi gần cánh đồng Thương Lộc, chúng ta ...”.


      định tiếp, Liễu Thê Thê bất chợt nắm tay áo chàng lắc đầu. Mắt chàng đột nhiên lóe sáng, ngắt lời Tống Ngưng: “Trận chiến ở cánh đồng hoang Thương Lộc, năm vạn quân Khương phải bỏ mạng dưới lưỡi đao của quân Lê các người, mặc dù hai nước Khương, Lê có hòa ước, nhưng mối thù đó, ta mãi mãi quên”.


      Chàng cười khẩy: “Trong hang núi tuyết gần Thương Lộc nếu phải Thê Thê cứu ta Thẩm Ngạn hôm nay chỉ còn là hồn ma lang thang chiến trường, sao có thể lấy công chúa Tống Ngưng của nước Lê các người?”.


      Liễu Thê Thê vẫn lắc đầu, nắm tay Thẩm Ngạn, nước mắt tuôn như suối, ướt đầm hai má, làm loang lớp phấn hồng mặt.


      Tống Ngưng tin vào tai mình, hét to: “Sao có thể là ta cứu chàng? Người cứu chàng... ràng là tôi”. tưởng mình ràng, chàng hiểu ra, thực ra đánh giá quá cao khả năng lí giải của chàng. Vì lẽ đời thường như vậy, phải cứ là người khác nghe ra.


      Thẩm Ngạn nhìn vào mắt Tống Ngưng, giọng giễu cợt: “ vớ vẩn gì thế? cứu tôi? Tống Ngưng, tôi chưa từng nghe am hiểu y thuật, người cứu tôi có y thuật rất cao, ấy biết , đó chính là Thê Thê. tưởng rằng Thê Thê được là tôi tin những lời bịa đặt của , giá họa cho ấy ư?”.


      Tống Ngưng biết làm gì để chứng minh, bởi vì ban đầu khi cứu được chàng hoàn toàn là do ông trời đoái thương. Vậy mà hôm nay, ràng ông trời đổi ý, chuyển sang thương Liễu Thê Thê.


      nghĩ, chàng chưa đọc lá thư đó, lá thư thực ra được đưa tới đâu, biết, bây giờ nhắc lại chuyện này cũng chẳng ích gì, chỉ thấy tủi thân, cho dù Thẩm Ngạn , nhưng chuyện này, vẫn phải với chàng, khổ nỗi bây giờ gì chàng cũng tin, rất cố gắng nhưng Thẩm Ngạn cho cơ hội. Đúng là người cố chấp, cố chấp đến bực mình.


      giải thích thêm nữa. Ánh mắt chàng nhìn hoàn toàn băng giá. Lúc đầu Tống Ngưng rất buồn, nhưng khóc được, đêm đêm thường ôm chăn, ngồi đến sáng. Trong những đêm dài, thường hồi nhớ lúc chàng đặt tay lên vai , dịu dàng : “Nếu nương chê, đợi tại hạ khỏi bệnh, đến quý gia cầu hôn nương”. Đó là hồi ức đẹp đẽ duy nhất. Bề ngoài có vẻ cương nghị, nhưng chung quy vẫn là nữ nhi, nữ nhi càng cương nghị càng muốn được trân trọng, quá cương dễ gẫy chính là như vậy.


      Chỉ ngờ, thành hôn chưa được ba tháng, Thẩm Ngạn nạp thiếp.


      Chuyện này cũng có gì lạ, phong tục hết sức bình thường, thậm chí đàn ông nạp nhiều thiếp còn bị coi thường, cũng như các đế vương, quan lại đều thê thiếp bầy đàn. Người này lấy, người kia cũng phải lấy, lấy được. Quân Vỹ thích nghiên cứu chuyện hậu cung các hoàng đế phân tích như vậy, cho rằng hoàng đế lấy thêm thiếp chủ yếu vì hoàng hậu là quốc mẫu, mẫu nghi thiên hạ, là hóa thân của vạn vạn thần dân.


      Thử nghĩ, khi chăn gối cùng quốc mẫu, nhìn khuôn mặt từ bi của bà, lòng rối loạn, ngay cả lúc giường cũng gợi nhớ chính , làm sao chịu nổi, đành phải nạp thiếp.


      Nhưng rút cục thế nào, làm sao chúng ta biết được, có lẽ là do đàn ông ham nữ sắc nên mới ngừng nạp thiếp.


      Có điều Thẩm Ngạn nạp người thiếp này là vì cái gọi là tình , hơn nữa lại là chuyện duy nhất khiến người ta thể chịu được. Người đầu tiên thể chịu được chính là Tống Ngưng.


      Tống Ngưng nhờ vị thân vương của Lê Trang Công ngăn chặn chuyện này. ngồi trong ngôi thủy đình giữa hồ sen, đầy gió và nắng, ven hồ có những cây to tên, màu xanh mát quen thuộc, như trong tranh. Thẩm Ngạn đứng trước mặt , đó là lần gặp mặt thứ ba sau hôn lễ, chàng cau mày cúi nhìn Tống Ngưng hỏi: “Cố tình phá hôn của tôi với Thê Thê, rốt cuộc muốn gì?”.


      đặt cuốn sách tay xuống, ngước nhìn chàng, Tống Ngưng từng luôn mỉm cười sa trường ác liệt, giọng trầm trầm, hai má lúm đồng tiền mê hồn: “Tôi muốn gì ư? Câu hỏi khéo , tôi chẳng muốn gì hết, chỉ là có vài thứ Liễu Thê Thê xứng đáng có”.


      Chàng lạnh lùng: “ chịu nổi Thê Thê, còn tôi chịu nổi ”.


      Lúm đồng tiền má Tống Ngưng càng sâu: “Thẩm Ngạn, chàng thể chấp nhận tôi, bởi hôn ước của chúng ta là minh ước giữa hai nước Lê, Khương”.


      Mặt chàng lộ vẻ phẫn nộ cố nén: “Đêm tân hôn chúng ta giao ước, tôi và liên quan đến nhau”.


      nhìn bàn tay mình, giọng dửng dưng: “Thực ra vốn cũng chẳng có gì, chỉ là thấy hai người ân ái như vậy, mà tôi được gả tới đây, đơn mình, nên rất chạnh lòng”.


      Chàng phẩy tay áo cười khẩy: “Tống Ngưng, còn nhớ ban đầu ai đề nghị hôn này ?”.


      Bóng chàng biến mất ở chỗ rẽ, lúc sau, cúi đầu giở cuốn sách tay, gió lại thổi, những giọt nước mắt rơi sách, ướt nhòe con chữ. giơ tay áo lau nước mắt, lại cúi đầu đọc tiếp, như có chuyện gì.


      lâu sau, ở Hạ quốc cách Khương con sông, quốc vương băng hà, công tử Trang Nghi lên ngôi. Hai tháng sau, Hạ Trang Nghi tân đế nước Hạ xuất binh chinh phạt Khương quốc. Khương vương lệnh cho Thẩm Ngạn xuất chiến.


      Tháng tư, cỏ héo hoa tàn, bầu trời vầng trăng hoang lạnh, Tống Ngưng ngồi tựa bên song, lặng ngắm vầng trăng lùi dần phía cuối trời. Rút cục thể để Thẩm Ngạn ra bỏ mạng ở chiến trường, chàng phải là đấng phu quân như ý, nhưng nửa năm trước vừa gặp, thầm chàng, chàng là vị hùng của lòng . Có những người chưa từng trải, lãng mạn, lần là nhớ suốt trăm năm, đó chính là Tống Ngưng.


      Giờ Dần, lục trong hòm lấy ra bộ chiến giáp mang theo khi xuất giá, tháo tấm bảo vệ trước ngực, váy lê quét đất, mình băng qua hoa viên đến thẳng Chỉ Lan Viện, nơi ở của Thẩm Ngạn. Đám hầu nữ của Chỉ Lan Viện ấp úng hồi lâu, : “Tướng quân, tướng quân... ở trong phòng”.


      Sắc mặt Tống Ngưng nhợt nhạt: “Ở Hà Phong Viện ư?”.


      Đám người hầu cúi gằm dám trả lời. nhét tấm giáp bọc trong mảnh lụa vào tay hầu nữ, : “Chàng có ở đây, vật này nhờ ...”.


      Chưa xong, đám người hầu đột nhiên ngẩng đầu vui sướng: “Tướng quân!”.


      Thẩm Ngạn bước vào cửa viện, trời còn chưa sáng, những chiếc đèn lồng trong sân lờ mờ tỏa sáng, ánh sáng vàng vọt bao trùm bóng chàng. nghe thấy tiếng chàng, ở ngay sau lưng, cứng nhắc: “ làm gì ở đây?”.


      quay lại, đứng sững ra đó, nhìn chàng hồi từ đầu đến chân, mỉm cười. Nụ cười chưa lên mắt, đó chỉ là thói quen của .


      đưa cho chàng bọc lụa trong tay: “ có gì, nghe chàng sắp xuất chinh, tôi đến đưa chàng tấm giáp bảo vệ bằng đá Thanh Tùng, chắc chắn hơn nhiều so với tấm giáp thông thường, nó ít lần cứu tôi thoát chết. Bây giờ tôi ra trận nữa, phiền chàng mang theo ra chiến trường dùng khi cần thiết”.


      Chàng khẽ nhíu mày, nhìn , lúc sau : “Nghe , tấm giáp này là báu vật huynh trưởng tặng ”.


      ngước mắt, nụ cười thoáng : “Ồ, chàng cũng biết? là báu vật bởi vì nó có thể bảo vệ được tính mạng, bảo vệ được cũng chẳng là gì. Cho chàng mượn phải có ý để chàng nợ nần gì tôi. Chàng đúng, chúng ta vốn chẳng liên quan đến nhau, nhưng danh phận định, nếu chàng chết nơi chiến trường, đại gia đình trong Thẩm phủ này do tôi gánh vác, thực là vất vả, trách nhiệm của ai do người đó gánh, chàng thấy có đúng ?”.


      Chàng ngắm kỹ tấm giáp màu ngọc bích trong tay, giống như màu xanh của thảm lá sen trải trước mắt. gật đầu định , chàng kéo lại: “ có thể tái giá”.


      nhìn bàn tay nắm ống tay áo mình, ánh mắt nhích lên, dừng lại ở hình cây trúc thêu sống động như nghiêng trong gió vạt áo chàng, cười tươi như hoa: “Sao cơ?”.


      Chàng buông tay áo : “Nếu tôi chết có thể tái giá”.


      cúi đầu, trầm tư, lúc sau : “À, đúng”.


      ngẩng đầu, hai lúm đồng tiền mê hồn lại má: “Vậy chàng nên chết ngoài chiến trường, đừng trở về nữa, mãi mãi nên trở về nữa”.


      Đám người hầu đứng bên sợ run, nhưng lại mỉm cười, ánh mắt lạnh lùng. Đúng là thể đoán được tâm tư đàn bà, đoán già đoán non, cuối cùng cũng đoán ra.


      đời có kiểu đàn bà câu nào khiến người khác bận tâm, cũng có kiểu đàn bà mỗi câu đều khiến người ta thể suy nghĩ.


      vội vã, cuối cùng để lại cho chàng hình bóng đoan trang, duyên dáng, cũng đầy ngạo mạn thách thức. Chàng nắm chặt tấm giáp màu ngọc, nhìn mãi về phía bóng người vừa khuất, ánh mắt thâm trầm.


      Thẩm Ngạn xa nhà hai tháng.


      Tháng tám, hương quế ngào ngạt, tin vui từ Hà Phong Viện truyền ra, Thê Thê nương có thai, lão tướng quân và phu nhân vui mừng khôn xiết. Liễu Thê Thê có thể coi là khách của Thẩm phủ, khách trong nhà có thai, cũng là hạt giống nhà mình, điều này cũng phải thôi, nhưng khách lại có thai ngay trước mặt con dâu danh chính ngôn thuận, thực tình cũng khiến lão tướng quân và phu nhân khó xử. Lúc Tống Ngưng đến thỉnh an, lão phu nhân mới ướm câu: “Rút cục để cho cốt nhục họ Thẩm lưu lạc bên ngoài cũng hay gì”. Tống Ngưng mỉm cười gật đầu: “Mẹ phải”.


      Cuối tháng, hoa quế nở tràn lan núi Cù ở ngoại thành, Tống Ngưng nhìn về ngọn núi phía xa, với người hầu đem theo khi rời cố quốc: “Hãy mời Thê Thê nương ngày mai lên núi Cù thưởng ngoạn hoa quế”. Người hầu gửi thiệp tới Hà Phong Viện, Liễu Thê Thê nhận lời.


      Ngày hôm sau, Tống Ngưng hành lý đơn giản, chỉ mang theo người hầu. Người hầu tay xách chiếc làn đựng ít đồ điểm tâm, tay khoác bọc hành lý. Trái với Tống Ngưng, Liễu Thê Thê long trọng hơn nhiều, ngồi kiệu bốn người khiêng, lại thêm hai vú già, bốn hầu nữ.


      Tống Ngưng cười: “ ngắm hoa lại mang theo nhiều người như vậy, mất hứng”.


      Vú già cười : “Có lẽ phu nhân biết, tướng quân vừa rồi có thư về, dặn dò chúng nô tỳ chăm sóc chu đáo Thê Thê nương, giờ Thê Thê nương mang cốt nhục của tướng quân, chúng nô tỳ dám sơ suất”.


      Tống Ngưng phe phẩy chiếc quạt, gì. Người hầu của cười khẩy: “Nghe vú già vậy, được sơ suất đối với Thê Thê nương, nghĩa là có thể sơ suất đối với công chúa của chúng tôi ư. câu này hơi khó nghe, nhưng ở Lê quốc chúng tôi, khi công chúa đứng kẻ dưới dám ngồi, khi công chúa ngồi, kẻ dưới nếu chưa được công chúa cho phép vẫn phải quỳ. Đến Khương quốc các vị ngược lại. Công chúa bộ hành lên núi ngắm hoa, vậy mà nương nhà các ngươi lại ngồi kiệu, phải chăng lễ nghĩa của Khương quốc là như vậy?”.


      Vú già nghe thế, quỳ sụp xuống đất, tự tát vào mặt mình.


      Rèm kiệu vén lên, Liễu Thê Thê bước xuống đỡ vú già, đôi tay có mùi thuốc thoang thoảng giơ lên làm những động tác rất duyên dáng, đẹp mắt, vú già lo lắng giải thích: “ nương ngồi kiệu nữa, vừa rồi là hiểu lễ nghĩa, ấy bộ theo hầu phu nhân”.


      Ngọn núi Cù cao sừng sững, suốt ngày vất vả, người mang thai đâu dễ kham nổi. Đêm đó về phủ, Liễu Thê Thê liên tục ra máu. Sáng hôm sau, có tin Liễu Thê Thê bị sảy thai. Người hầu của Tống Ngưng lo lắng: “Nếu tướng quân nổi giận làm thế nào”. Tống Ngưng ngồi đọc sách bên cửa sổ, hoa quế trong vườn nở rộ, hương quế ngào ngạt trong gió. Liễu Thê Thê bị sảy thai, suy cho cùng là do Tống Ngưng, nhưng đứa trẻ đó danh chính ngôn thuận nên lão tướng quân và phu nhân mặc dù có thương xót cũng chẳng biết làm thế nào, chỉ có thể bù đắp vật chất cho Thê Thê, nhân sâm, yến sào, hạt sen... mọi thứ quý bổ đều sai người mang tới Hà Phong viện.


      Chỉ có Liễu Thê Thê vẫn khóc ròng, ăn uống gì. Để khỏi lãng phí đành phải để vú già, người hầu ăn giúp, kết quả là trong thời gian ngắn, ngoài Liễu Thê Thê vẫn giữ được thân hình thon thả, tất cả kẻ ăn người ở của Hà Phong viện đều béo tốt trông thấy, ngay cả hai con chim sẻ làm tổ hốc cửa đình viện cũng béo mẫm vì được hưởng lộc thừa.


      Thời gian này, Tống Ngưng cáo bệnh, chỉ ở trong phòng rất ít ra ngoài, gặp gỡ ai.


      Cuối cùng có người thể gặp. Đó là chòm sao ma quỷ trong số mệnh của . vì chàng cởi bỏ chiến giáp, cài hoa, khoác áo đỏ tân nương, trái tim dịu dàng ăm ắp thương vượt đường trường vạn dặm theo chàng, vậy mà chàng để mắt đến .


      Tháng chín, tin thắng trận truyền về kinh đô, Thẩm Ngạn khải hoàn dẫn quân trở về triều.


      Tống Ngưng ngồi bên hồ thả mồi cho cá, nghĩ ngợi hồi, ngẩng đầu hỏi hầu nữ: “Chàng trở về, ngươi xem, liệu chàng có giết ta?”.


      Cốc trà tay hầu nữ rơi xuống đất.


      Tống Ngưng cười: “Thân thủ của ta bằng chàng, nhưng cũng dễ để chàng lấy mạng, cùng lắm đánh trận, ngươi khỏi lo”.


      Hầu nữ quỳ trước mặt: “Ở đây công chúa sống chẳng vui vẻ gì, nô tỳ cũng thấy người vui. Sao chúng ta trở về nước Lê? Công chúa, chúng ta về nước thôi”.


      Tống Ngưng nhìn đàn cá đớp mồi dưới hồ sen, : “Đây là hôn giữa hai nước, ngươi tưởng muốn được hay sao?”.


      Mọi thể cứu vãn đều bắt đầu từ đêm đó. Tôi như vậy là bởi vì tôi nhìn thấy tất cả, nhìn thấy tính mạng Tống Ngưng bắt đầu từ đêm đó nhích dần đến cái chết. Đẩy tới cõi chết chính là tình của và bàn tay Thẩm Ngạn. Chàng lao đến như mang theo mưa gió, mình vẫn mặc bộ chiến bào màu bạc, giống như lần đầu họ gặp nhau, nhưng trong mắt chàng bừng bừng lửa giận, như vị Tu La đến từ địa ngục.


      Cuối cùng, địch được chàng, chưa đầy hai chiêu, kiếm của chàng chẹn dưới họng . vội vàng dùng tay nắm thanh kiếm, lưỡi kiếm vừa nhích, lướt qua năm ngón tay , sâu tới tận xương. Chắc chắn rất đau nhưng để ý, chỉ nhìn xuống tay mình: “Chàng thực muốn giết tôi ư?”.


      Giọng chàng lạnh lùng: “Tống Ngưng, cái thứ dính tay là tính mệnh con trai tôi. ép Thê Thê lên núi, nghĩ giết chết nó?”.


      ngẩng phắt đầu, lông mày giãn ra, tiếng rất : “Đó phải là lỗi của tôi, tôi chưa từng sinh con làm sao biết được người có thai lại có thể xảy ra chuyện đó, leo núi là có thể bị sẩy thai. Chàng có duyên với đứa bé đó lại đổ lỗi lên đầu tôi, Thẩm Ngạn, chàng làm vậy có phải quá vô lý ?”.


      ra những lời đó phải là lời lòng muốn , chỉ là do bị chàng kích nộ. nhìn khuôn mặt rắn đanh của chàng cảm thấy buồn cười, liền bật cười thành tiếng: “Thẩm Ngạn, chàng biết đấy, ngoài tôi ra, ai đủ tư cách sinh đích tôn cho nhà họ Thẩm”. nghĩ, tình của mình gần như sắp chết, ngày trước nhìn Thẩm Ngạn, chỉ mong mọi việc với chàng đều suôn sẻ. Bây giờ, lúc nào cũng muốn chàng vui. Nhưng chàng vui, cũng thấy vui, giống như con dao hai lưỡi, làm tổn thương người khác, cũng làm tổn thương chính mình.


      Câu vui của lại khiến chàng kích động. nhìn thấy cơn sóng phẫn nộ trong mắt chàng. cảm thấy thanh kiếm của chàng sắp xuyên qua tay đâm vào họng mình. Nhưng phán đoán của côsai. Thanh kiếm của Thẩm Ngạn tiến thêm phân nào nữa, mà rút khỏi tay , dính vệt máu tươi, đầu thanh kiếm áp vào ngực áo , khẽ hất, những chiếc khuy đứt tung.


      Phu quân của đứng trước mặt , dùng thanh kiếm nhuốm máu hất toạc áo ngoài của , sóng hận trong mắt biến thành nụ cười khẩy lạnh lùng môi, giọng giễu cợt ghê người: “Tống Ngưng, tôi chưa gặp người đàn bà nào độc ác như ”.


      Lần động phòng chậm đúng chín tháng.


      vùng vẫy giãy giụa, nếu đối phương là nho sinh, những có thể vùng ra được mà còn đánh cho gã trận. Nhưng đây lại là tướng quân, võ nghệ vào bậc nhất nước Lê, lại có sở trường đánh giáp lá cà, đành bó tay.


      Bức bình phong trước giường vẽ đầm nước, có vầng trăng lạnh dưới có mấy con vịt trời giỡn nước. lạnh run người, hai tay ôm chặt lưng Thẩm Ngạn. Máu rỉ ra từ vết thương ngón tay, nhuộm đỏ vùng da màu kiều mạch lưng chàng, giống như đóa hoa hồng nở kẽ đá cánh đồng hoang. Cuối cùng thể giả bộ cười được nữa, nước mắt chảy dài xuống má. Tiếng bên tai chàng giống như tiếng rên của con thú .


      Từ mồ côi cha mẹ, lớn lên nơi chiến trường, đại huynh cũng có thời gian chăm sóc , ngã tự đứng dậy, đau quá dùng bàn tay tự xoa vết thương, Tống Ngưng chiến trường luôn mỉm cười, bởi vì hiểu, nên để đại huynh lo lắng, lâu dần thành quen, biết khóc bao giờ.


      Trong cuộc đời, đó là lần đầu tiên bật khóc, bản thân cảm thấy hoảng loạn bởi thực thấy đau, đau đến tận tim, mà giống như hồi bé, xoa vài cái là hết. nặng nề thở dốc, mũi đỏ ửng, còn vẻ oai phong như trước, cũng thể can trường như trước.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :