Hàm Cá Mập - Peter Benchley (Kinh Dị)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Hàm Cá Mập
      [​IMG]
      Tác giả: Peter Benchley

      Thể loại: 100 Tiểu thuyết Trinh thám - Kinh dị hay nhất mọi thời đại, Văn học phương Tây

      Dịch giả: Nguyễn Việt Long

      Nguyên bản: Peter Benchley. "JAWS" 1974.

      Dịch theo bản tiếng Nga của I.I.BXAVINA

      Tạp chí: "Inostrannaya literatura" Số 7, 8 -1984.

      Nhà xuất bản: NXB Hội nhà văn - 1998

      Đánh máy: 4DHN, ICT, nguoimedocsach, Michelia

      Chỉnh lý và soát lỗi chính tả: Michelia

      Tạo prc: 4DHN

      Nguồn: e-thuvien.com

      Ebook: http://www.dtv-ebook.com



      Giới thiệu:

      35 năm trước Hàm Cá Mập (Jaws) ra đời và lập tức trở thành trong những cuốn tiểu thuyết ăn khách nhất với hơn 20 triệu bản ấn hành, phút chốc đưa nghiệp của nhà văn kiêm nhà thám hiểm Mỹ - Peter Benchley - vụt sáng và thăng hoa.

      Cuốn sách được ông vua phim giả tưởng và phiêu lưu mạo hiểm, đạo diễn lừng danh Steven Spielberg mà khán giả Việt Nam từng biết đến qua những bộ phim như "Công viên kỷ Jura", "Indiana Jones" hay "Bản danh sách của Schindler", dàn dựng thành phim với cùng tựa đề vào năm 1975. Bộ phim sau đó giành được 3 giải Oscar (cho biên tập, thu và tiếng động), và lập kỷ lục doanh thu tại thị trường Mỹ khi thu về tới hơn 100 triệu USD, thậm chí bộ phim còn tạo nên cơn sốt trong công chúng mà báo chí đặt tên là "Jawsmania".

      Nội dung Hàm Cá Mập kể về con cá mập trắng lớn gây họa cho cộng đồng ven biển của đảo Amity - New England (Mỹ), với những cảnh cá mập tấn công người rất rùng rợn, được miêu tả rất chân thực. Song song với mối họa từ tự nhiên đó, tác giả cũng đồng thời tố cáo mối họa khác, to lớn hơn, tàn ác hơn và lạnh lùng hơn, đó là vô trách nhiệm với tính mạng con người của giới chức địa phương - "những kẻ vì lợi ích xã hội mà chỉ vì lợi lộc cá nhân"- sẵn sàng bưng bít thông tin về hiểm họa để kiếm tiền từ việc đóng cửa bãi tắm nhưng lại chi ra đồng ngân sách nào để bảo vệ người dân. Cuốn sách vì thế chỉ dừng lại ở hấp dẫn ly kỳ của tiểu thuyết kinh dị mà còn lấp lánh giá trị nhân văn, điều khiến độc giả vẫn bị cuốn hút tới trang truyện cuối cùng.

      Cuộc sống của nhà thám hiểm đại dương cộng với những trải nghiệm phong phú của Benchley từ vùng biển miền nam Australia tới những dải san hô tuyệt mỹ của Bahamas đem lại cho ông nhiều tư liệu quý giá, tạo nên phần thành công của Hàm Cá Mập; và điều đặc biệt thú vị là cuốn sách của Peter Benchley, thay vì gieo rắc nỗi kinh hoàng và căm ghét đối với sinh vật ghê gớm này của đại dương, lại làm dấy lên quan tâm sâu sắc và rộng rãi trong cộng đồng về việc bảo tồn loài cá mập

      Mời các bạn đón đọc Hàm Cá Mập của tác giả Peter Benchley.

    2. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      LỜI GIỚI THIỆU
      Ba mươi lăm năm trước "Hàm cá mập" (Jaws) ra đời và lập tức trở thành trong những cuốn tiểu thuyết ăn khách nhất với hơn 20 triệu bản ấn hành, phút chốc đưa nghiệp của nhà văn kiêm nhà thám hiểm Mỹ - Peter Benchley - vụt sáng và thăng hoa. Cuốn sách được ông vua phim giả tưởng và phiêu lưu mạo hiểm, đạo diễn lừng danh Steven Spielberg mà khán giả Việt Nam từng biết đến qua những bộ phim như "Công viên kỷ Jura", "Indiana Jones" hay "Bản danh sách của Schindler", dàn dựng thành phim với cùng tựa đề vào năm 1975. Bộ phim sau đó giành được 3 giải Oscar (cho biên tập, thu và tiếng động), và lập kỷ lục doanh thu tại thị trường Mỹ khi thu về tới hơn 100 triệu USD, thậm chí bộ phim còn tạo nên cơn sốt trong công chúng mà báo chí đặt tên là "Jawsmania".

      Nội dung cuốn sách kể về con cá mập trắng lớn gây họa cho cộng đồng ven biển của đảo Amity - New England (Mỹ), với những cảnh cá mập tấn công người rất rùng rợn, được miêu tả rất chân thực. Song song với mối họa từ tự nhiên đó, tác giả cũng đồng thời tố cáo mối họa khác, to lớn hơn, tàn ác hơn và lạnh lùng hơn, đó là vô trách nhiệm với tính mạng con người của giới chức địa phương - "những kẻ vì lợi ích xã hội mà chỉ vì lợi lộc cá nhân" - sẵn sàng bưng bít thông tin về hiểm họa để kiếm tiền từ việc đóng cửa bãi tắm nhưng lại chi ra đồng ngân sách nào để bảo vệ người dân. Cuốn sách vì thế chỉ dừng lại ở hấp dẫn ly kỳ của tiểu thuyết kinh dị mà còn lấp lánh giá trị nhân văn, điều khiến độc giả vẫn bị cuốn hút tới trang truyện cuối cùng.

      Cuộc sống của nhà thám hiểm đại dương cộng với những trải nghiệm phong phú của Benchley từ vùng biển miền nam Australia tới những dải san hô tuyệt mỹ của Bahamas đem lại cho ông nhiều tư liệu quý giá, tạo nên phần thành công của "Hàm cá mập"; và điều đặc biệt thú vị là cuốn sách của Peter Benchley, thay vì gieo rắc nỗi kinh hoàng và căm ghét đối với sinh vật ghê gớm này của đại dương, lại làm dấy lên quan tâm sâu sắc và rộng rãi trong cộng đồng về việc bảo tồn loài cá mập…

    3. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      1
      Con cá to lớn cắt làn nước đêm cách êm ái và khẽ nguẩy cái đuôi hình lưỡi liềm. Hàm nó hé mở cho những dòng nước tự do trôi qua mang. Thân nó có vẻ như nhúc nhích. Chỉ khẽ nâng lên hay hạ xuống trong các vây ngực là nó dễ dàng đổi hướng bơi, giống như con chim khẽ nâng cánh lên hoặc hạ cánh kia xuống để đổi hướng bay. Mắt nó nhìn thấy gì trong đêm tối, còn các cơ quan cảm giác khác phát tín hiệu cảnh báo nào lên bộ não sơ khai. Có thể tưởng rằng con cá ngủ, nếu như có chuyển động trườn êm ái - bản năng sinh tồn được hun đúc từ biết bao nhiêu triệu năm nay. Vì có bong bóng hơi như vẫn có ở các loài cá khác và có các vây cạnh mang để lùa nước chứa đầy ôxy qua mang, nó buộc phải chuyển động liên tục. Nếu như nó dừng lại chìm xuống dưới đáy và chết vì thiếu ôxy.



      trời trăng lên, nên bờ biển có vẻ cũng tối như mặt nước. Chỉ dải bãi tắm bằng phẳng là sáng. Từ cửa sổ ngôi nhà ở phía sau đụn cát mà cỏ mọc lác đác, những vệt sáng vàng vàng hắt xuống cát.

      Cửa chính của ngôi nhà vừa mở ra, người đàn ông và người đàn bà bước ra hàng hiên gỗ. Họ đứng nhìn đại dương chừng phút, rồi ôm nhau và chạy xuống các bậc lối . Người đàn ông còn chếnh choáng hơi men, ở bậc cuối cùng ta bị vấp. Người đàn bà phá lên cười, nắm lấy tay ta và kéo ra bãi tắm.

      - Trước tiên ta tắm cái , - người đàn bà , - cho đầu óc tỉnh táo ra.

      - Kệ cha cái đầu, - người đàn ông đáp. Vừa cười vừa lăn ra cát, kéo người đàn bà lăn theo. Họ vội vã trút bỏ quần áo và lao vào ôm chầm lấy nhau.

      Sau đó người đàn ông nằm ngửa và nhắm mắt lại. Người đàn bà liếc sang ta rồi mỉm cười.

      - Ta tắm chứ? - ta hỏi.

      - Em cứ . đợi.

      Người đàn bà đứng dậy và ra ven bờ, sóng nước lăn tăn vỗ vào chân. Nước còn lạnh hơn khí buổi đêm, - vào giữa tháng sáu thường là vậy. Người đàn bà quay lại to:

      - có xuống tắm nào?

      nghe thấy tiếng trả lời, người đàn ông ngủ. Người đàn bà toan quay trở lại, nhưng rồi lại chạy xuống nước. ta chạy cách lẹ làng, duyên dáng, cho tới khi những con sóng vỗ lên đầu gối. Người đàn bà lạng , nhưng đứng vững được và bước vào con sóng sau còn cao hơn. Nước bây giờ lên đến đùi. hất những sợi tóc xõa xuống mắt ra phía sau và bước tiếp. Khi nước phủ ngập vai bắt đầu bơi, đầu nhô khỏi nước, cử động mạnh như người bơi chưa thạo.



      Con cá bơi cách bờ trăm yát[1], cảm thấy được thay đổi trong nhịp độ điều hòa của đại dương. Nó trông thấy người đàn bà, ngửi thấy mùi ta, nhưng dọc toàn thân con cá căng dài vô số kênh tín hiệu li ti, chứa đầy chất nhầy, ở đó các tế bào nhạy cảm tóm bắt được những dao động nhất trong nước và phát tín hiệu lên não. Con cá quay hướng bơi vào bờ.



      Người đàn bà vẫn tiếp tục bơi ra xa bờ, thỉnh thoảng ngoái lại nhìn những cửa sổ sáng ánh đèn của ngôi nhà. Dòng chảy yếu nên bị dạt sang bên. Khi thấm mệt, nằm ngửa nghỉ ngơi chút ít rồi quay vào bờ.



      Dao động của nước giờ trở nên mạnh hơn, con cá cảm thấy mồi. Những cái quẫy đuôi tăng mau, thân hình to lớn lao về phía trước với tốc độ đến mức những sinh vật phát ánh lân tinh li ti trong nước sáng rực lên, - tưởng chừng như con cá phóng mình về phía trước trong chiếc áo bào tóe lửa.

      Nó trườn ngang gần chỗ người phụ nữ, cách khoảng mười hai bộ. Người phụ nữ chỉ cảm thấy sức dồn của sóng trồi lên rồi lại thụt xuống. lặng người trong giây lát và nín thở, nhưng phát ra điều gì khác thường cả nên lại bơi tiếp, tay vươn mạnh về phía trước.

      Con cá lúc này cảm thấy được cả mùi người; dao động của nước dồn dập đều, giúp nó định được phương hướng. Nó bắt đầu bơi nổi lên theo vòng tròn. Cái vây lưng của nó thò ra khỏi mặt nước, do những cú quật đuôi mạnh mà mặt nước sôi sục. Toàn thân nó rung lên.

      Bỗng dưng nỗi sợ hãi cơn cớ chụp xuống người đàn bà. Nồng độ ađrênalin trong máu tăng vọt, tay chân cảm thấy luồng ấm bứt rứt, bèn bơi nhanh vào bờ. Đến bờ chỉ còn năm chục bộ. trông thấy cái vệt bọt trắng ở nơi sóng đánh lên cát, nhìn thấy ánh đèn trong ngôi nhà, thậm chí còn có cảm tưởng như có bóng đen thấp thoáng sau cửa sổ. Điều ấy khiến hoạt bát lên.

      Con cá bơi cách người phụ nữ khoảng bốn chục bộ, rồi bỗng quay ngoặt sang trái, lặn sâu xuống và sau khi lấy sức quật mạnh đuôi: nó lao tới người đàn bà.

      Trong khoảnh khắc đầu tiên người đàn bà tưởng rằng chân mình va phải đá hoặc khúc cây. Thoạt đầu thấy đau, chỉ cái chân phải bị giật mạnh. Người đàn bà quyết định sờ thử bàn chân trong khi chân kia vẫn làm việc để giữ người nổi. dùng tay trái quờ quạng trong nước tối om nhưng tìm thấy bàn chân mình, sau đó tay lên cao hơn và chỉ còn thiếu nước ngất . Các ngón tay chạm phải đầu xương lồi ra và những bắp thịt lùng nhùng. hiểu rằng các tia chảy ấm phập phồng mà bàn tay cảm thấy trong nước lạnh chính là máu của mình.

      Khiếp hãi và đau đớn siết lấy . Ngửa đầu ra sau, tuôn ra tiếng rú tuyệt vọng.

      Con cá bơi về bên. Giần giật nuốt xong bàn chân, nó quay trở lại, lúc này bơi theo mùi máu tứa ra từ chân người đàn bà. Đối với con cá đấy là vật định hướng cũng ràng và chính xác y hệt ngọn hải đăng vào những đêm mây mù. Lần này con cá tấn công từ dưới lên. Nó vọt thẳng vào nạn nhân của nó, hàm ngoác rộng. Cái mõm nhọn to tướng đập vào người đàn bà mạnh đến nỗi làm bắn ra khỏi nước. Hai cái hàm hung hãn bập ngay vào thân mình , nghiền xương thịt thành khối nhầy đặc. nhả con mồi ra khỏi hàm, con cá thả bịch người xuống nước, phun vòi gồm bọt, máu và các sinh vật li ti phát sáng. Con cá quay đầu dùng những chiếc răng nhọn hình tam giác cứa đứt các đường gân mình người phụ nữ. Thân bị xẻ làm đôi. Con cá hau háu nuốt những miếng thịt. Các tín hiệu về con mồi ở gần vẫn truyền lên não, nhưng nó chưa thể xác định được nguồn gốc những tín hiệu ấy và lăng xăng lượn hết bên này đến bên kia trong đám mây máu và bọt, quai hàm mở ra đóng vào, quơ liên tiếp mọi thứ. Khi đám mây tan ra, phần lớn thân thể biến đâu mất. số miếng thịt từ từ lắng xuống đáy cát, ở đó dòng nước lay lay chúng cách biếng nhác. Những miếng khác nổi lên ngay mặt nước, và những lớp sóng đẩy chúng dạt vào bờ.



      Người đàn ông tỉnh dậy, run run vì cái lạnh của buổi sớm tinh mơ. Trong đầu ta mọi cái còn hòa trộn lẫn lộn vì uýt-xki và vốtca ngồi uống lúc trước. Mặt trời còn chưa dậy, nhưng những ráng hồng ở chân trời mách với rằng hừng đông gần. Những ngôi sao vẫn còn lấp lánh yếu ớt nền trời ngả màu nhợt nhạt. Người đàn ông đứng dậy và bắt đầu mặc quần áo, vừa mặc vừa bực vì người đàn bà đánh thức mà lại bỏ về nhà mình, nhưng lại thấy lạ là ấy bỏ quần áo lại bãi tắm. thu đồ lại và rảo bước về nhà.

      Rón rén qua hàng hiên, thận trọng mở hé cánh cửa, vì biết rằng nếu mở mạnh, nó kêu cót két... Phòng khách tối người, bàn là những cốc vại chưa uống hết, những cái gạt tàn chứa đầu mẩu thuốc và những chiếc đĩa bẩn. ngang qua phòng khách, rẽ sang phải dọc theo hành lang, bỏ qua hai cánh cửa đóng kín. Cửa vào căn phòng của họ mở ngỏ, cái bàn con đầu giường có ngọn đèn sáng. Cả hai chiếc giường được trải sẵn tinh tươm. ném mớ quần áo của người đàn bà lên chiếc giường rồi quay ra phòng khách bật đèn. Cả hai chiếc -văng cũng người.

      Trong nhà còn có hai phòng ngủ khác. phòng chủ nhà ở, phòng kia có khách thuê - cũng cặp nữa. Cố gây tiếng ồn, người đàn ông khẽ mở hé cửa vào căn phòng khách ở. Ở đây có hai cái giường, mỗi giường chỉ có người nằm. đóng cửa lại và tiến vào căn buồng tiếp theo. Hai vợ chồng chủ nhà ngủ chiếc giường lớn - ai ở chỗ nấy. Người đàn ông khép cửa lại rồi về phòng mình, xem đồng hồ. gần năm giờ.

      ngồi xuống xuống và nhìn chăm chăm vào đống quần áo ở giường bên cạnh. hiểu rằng người đàn bà có trong nhà. Khách khứa khác có tại bữa ăn tối, ấy chẳng thể đâu với ai được, trừ phi gặp ai đó ngoài bãi tắm trong lúc ngủ. Nhưng nếu ấy có , nghĩ, chắc cũng phải lấy ít ra là hai thứ gì trong mớ quần áo chứ.

      Chỉ đến lúc này ý nghĩ về tai nạn mới nảy ra trong đầu . Giả định này chẳng mấy chốc trở thành tin chắc. trở lại phòng ngủ của chủ nhà, đứng phân vân chừng phút ở mạn đầu giường rồi cẩn thận đặt tay lên vai người chủ.

      - Jack ơi, Jack! - gọi.

      Người chủ thở hơi sâu rồi mở mắt ra.

      - Cái gì?

      - Tôi đây, Tom đây. Tôi chẳng muốn đánh thức tí nào, nhưng có vẻ như xảy ra tai ương.

      - bảo cái gì cơ?

      - có thấy Chrissie ?

      - Có thấy nghĩa là thế nào? ấy ở với mà.

      - ấy ở bên tôi nữa, tôi muốn tài nào tìm thấy ấy.

      Jack ngồi dậy bật đèn. Vợ xoay người nằm nghiêng và lấy vải trải giường trùm lên đầu. Jack nhìn đồng hồ.

      - Trời, mới năm giờ sáng mà cậu mất bạn của mình rồi.

      - Ừ, hiểu rồi. Xin lỗi nhé. Lần cuối cùng trông thấy ấy vào lúc nào?

      - Tớ ấy à? Để nhớ xem . ấy bảo là các cậu tắm, thế rồi các cậu kéo nhau ra ngoài hiên. Thế cậu trông thấy ấy lần cuối cùng là vào lúc nào?

      - Ở ngoài bãi tắm. Rồi tôi ngủ thiếp . Thế ra ấy chưa quay về nhà à?

      - Ít ra tớ cũng chưa trông thấy, chúng tớ ngủ quãng giờ.

      - Tôi tìm thấy quần áo của ấy.

      - Ở đâu? Ngoài bãi tắm à?

      - Đúng vậy.

      - Cậu xem ở ngoài phòng khách chưa?

      - Rồi. Cả trong phòng vợ chồng Henkels nữa.

      - Cả trong phòng vợ chồng Henkels nữa?!

      Tom đỏ mặt.

      - Tôi mới quen ấy chưa lâu. Theo những xét đoán của tôi tính khí ấy cũng hơi ẩm ương. Nhà Henkels cũng thế. Tôi muốn là... tôi ám chỉ cái gì đâu. Chẳng qua tôi chỉ quyết định xem xét toàn bộ ngôi nhà, trước khi đánh thức .

      - Vậy cậu nghĩ đến điều gì?

      - Tôi bắt đầu nghĩ là có chuyện gì xảy ra với ấy rồi hay sao ấy. Có lẽ ấy bị chết đuối. - Tom .

      Jack nhìn Tom lát, rồi lại nhìn đồng hồ.

      - Tớ cũng biết đích xác khi nào cảnh sát bắt đầu làm việc, - . - Nhưng tớ cho rằng có thể làm sáng tỏ chuyện này ngay bây giờ.

      2


      Viên cảnh sát Len Hendricks ngồi sau bàn viết trong đồn cảnh sát Amity đọc cuốn truyện trinh thám "Nỡm ơi, em là của ". Vào đúng lúc chuông điện thoại vang lên nữ nhân vật Whistling Dixie của cuốn tiểu thuyết sắp bị bọn mô tô hãm hiếp. Hendricks thèm nhấc điện thoại lên cho tới khi Dixie xỉa dao vào tên đầu tiên xông tới - con dao dùng để cắt linôlêum[2] khéo léo giấu mái tóc.

      Cuối cùng Hendricks cầm lấy ống nghe.

      - Trạm cảnh sát Amity, cảnh sát viên Hendricks nghe đây, - ta . - Tôi có thể giúp gì được đây?

      - Tôi là Jack Foote, sống ở đường Old Mill. Tôi muốn báo là có người vừa mất tích. Hay ít ra theo tôi ấy mất tích.

      - Đề nghị ông nhắc lại, - Hendricks phục vụ ở Việt Nam trong binh chủng thông tin liên lạc nên thích cách kiểu điều lệ.

      - Có đến ở trọ nhà tôi, - Foote . - ta tắm biển quãng giờ đêm. Nhưng đến giờ vẫn chưa về. Cái cậu cùng với ấy tìm thấy quần áo của ấy ngoài bãi tắm.

      Hendricks liền ghi vội vào cuốn sổ.

      - Họ tên?

      - Christine Watkins.

      - Tuổi?

      - Tôi . Đợi chút nhé. Cứ cho là quãng hăm lăm. Cậu bạn ta cũng đoán thế.

      - Chiều cao và cân nặng?

      - Đợi phút nhé, - khoảnh khắc im lặng tiếp theo. - Chúng tôi ước khoảng năm bộ bảy insơ[3]. Cân nặng quãng trăm hai trăm ba pao[4].

      - Màu tóc và mắt?

      - Này, cần gì tất cả những cái đó? Nếu người đàn bà bị chết đuối, ắt hẳn đối với các là người duy nhất, ít ra là trong ngày hôm nay chứ. Hay là ở đây người ta chết đuối hàng mớ?

      - Ông Foote ạ, ai ấy chết đuối? Biết đâu ấy chơi.

      - Cởi trần cởi truồng chơi lúc giờ đêm? nhận được thông báo là có người phụ nữ trần truồng dạo ngoài bãi tắm rồi hay sao?

      Hendricks sung sướng vì được dịp biểu thị điềm tĩnh.

      - , ông Foote ạ, giờ chưa. Nhưng hễ mùa hè bắt đầu có trời mà biết được có chuyện gì. Tháng tám năm ngoái những người theo trường phái tắm truồng tổ chức nhảy cởi truồng ở ngay trước câu lạc bộ của họ. Màu tóc và mắt?

      - Tóc ấy... hình như màu sáng. Đúng hơn là hơi hung hung. Tôi mắt ấy màu gì. Tôi phải hỏi bạn của ấy nhé. , ấy cũng biết. Cứ coi là màu nâu sẫm.

      - Thôi được rồi, ông Foote ạ. Chúng tôi xem xét việc này. Hễ có gì sáng tỏ, chúng tôi liên lạc với ông.

      Hendricks treo ống nghe vào chỗ rồi nhìn đồng hồ. Năm giờ mười. Phải ít ra là tiếng nữa thủ trưởng mới dậy, mà Hendricks muốn sốt sắng đánh thức thủ trưởng chỉ vì mỗi cái chuyện là có ai đó đêm khuya về nhà. Có nhiều khả năng là nàng gặp được chàng nào đó ngoài bãi tắm và bây giờ họ hú hí với nhau trong bụi cây đâu đó ở gần đấy. Còn nếu như thân thể ta bị sóng đánh dềnh lên sao? Thủ trưởng Brody vốn ưa giải quyết nhanh gọn trước khi bà bảo mẫu nào đó họa may chơi với mấy đứa trẻ đụng phải người chết đuối. Chứ dư luận thị trấn phẫn nộ.

      "Có cái nhìn tỉnh táo đối với vật, - nhiều lần thủ trưởng nhắc , - đấy là điều cần thiết trước nhất đối với cảnh sát viên". Nếu muốn làm việc trong ngành cảnh sát phải động não. Chính vì thế mà Hendricks quyết định vào ngành cảnh sát sau khi từ Việt Nam về. Lương bổng cũng khá hậu: thoạt đầu là chín nghìn đô, sau mười lăm năm phục vụ là mười lăm nghìn, cộng với các khoản ưu đãi khác. Phục vụ trong ngành cảnh sát hứa hẹn tương lai bảo đảm, ngày làm việc định chuẩn, thỉnh thoảng lại có cái gì đó hấp dẫn - đâu phải lúc nào cũng nện bọn du côn và tóm cổ áo lũ say rượu, mà còn phải biết gỡ vụ án cướp bóc, biết bắt kẻ hiếp dâm, tức là, biểu thị cách thanh nhã hơn, công vụ này tạo khả năng để có thể trở thành con người được kính trọng trong xã hội. Thêm nữa làm cảnh sát viên ở Amity cũng nguy hiểm lắm, như làm việc trong ngành cảnh sát ở thành phố lớn. Trường hợp bi thảm gần đây nhất với cảnh sát viên ở Amity trong khi thực công vụ xảy ra năm 1957, khi người này toan bắt tay lái xe say rượu lao vun vút đường quốc lộ Montauk. Chiếc ô tô húc vào viên cảnh sát làm ta bắn người vào bức tường đá.

      Hendricks cầm chắc rằng chỉ cần thoát khỏi những giờ trực buồn tẻ này, kéo dài từ nửa đêm đến tám giờ sáng công vụ của thú vị hơn nhiều. giờ nó đơn điệu hết sức. thừa hiểu rằng tại sao người ta lại chỉ định trực đêm như thế này. Brody muốn đưa các cộng trẻ tuổi của mình nhập việc dần dần, cho họ có dịp phát huy những phẩm chất cần cho cảnh sát viên - cái nhìn tỉnh táo đối với vật, chín chắn, điềm tĩnh, tính lịch , - vào thời điểm này của ngày đêm, khi họ bị bận bịu công việc thái quá.

      Trực từ tám giờ sáng đến bốn giờ chiều là căng thẳng nhất, nó đòi hỏi kinh nghiệm và tế nhị. Ca này có sáu người trực. người điều chỉnh giao thông ở ngã tư các phố Main và Water. Hai người tuần các phố bằng xe cảnh sát. Người thứ tư trả lời các chuông điện thoại gọi đến đồn cảnh sát. Người thứ năm lo công việc văn phòng. Còn thủ trưởng tiếp xúc với công chúng: nào các bà đến phàn nàn là họ thể ngủ được vì tiếng ồn thường xuyên - hai quán bar của thị trấn là "Gấu Randy" và "Saxon’s" về đêm cũng đóng cửa, nào các chủ nhà bất bình về việc bãi tắm đầy những bọn ma cà bông đủ loại vi phạm trật tự an ninh; nào các chủ nhà băng, những người môi giới buôn bán và các luật gia nghỉ ở thị trấn - họ đến để về việc làm thế nào giữ Amity ở dạng nguyên khởi và đồng thời bảo đảm cho nó tiếng tăm của nơi nghỉ mát mùa hè tuyệt vời.

      Trực từ bốn giờ chiều đến nửa đêm là vô bổ, đấy là thời gian mà lũ thanh niên vô công rồi nghề của trong các "Hampton"[5] thường tụ tập ở quán "Gấu Randy" và gây đánh nhau hoặc nhậu nhẹt thả cửa đến mức sau đó, khi ngồi vào tay lái, trở thành hiểm họa đường, đó là thời gian mà ( thường xuyên nhưng cũng vẫn xảy ra) bọn cướp từ Queens[6] từng tụi hai ba đứa tấn công khách qua đường trong những hẻm phố tối tăm và cướp bóc họ; cũng vào thời gian này, tháng hai lần, sau khi thu thập được kha khá chứng cớ, cảnh sát lại vây ráp trong những ngôi nhà bên bờ biển để tịch thu marijuana[7]. Sáu người trực từ bốn giờ đến nửa đêm, sáu con người lực lưỡng nhất của cảnh sát, tất cả đều ở quãng tuổi từ ba mươi đến năm mươi.

      Từ nửa đêm đến tám giờ sáng theo lệ thường là yên ả. Nhất là sau khi mùa nghỉ hè kết thúc. kiện lớn nhất vào mùa đông năm ngoái là cơn giông, vì nó mà hệ thống tín hiệu nối bốn mươi tám hộ giàu nhất Amity với đồn cảnh sát bị hỏng. Thông thường vào dịp hè từ nửa đêm đến tám giờ sáng có ba cảnh sát trực. Nhưng giờ trong số đó, chàng thanh niên Dick Angelo, nghỉ phép hai tuần trước khi mùa nghỉ lên đến cao điểm. Còn người kia, Henry Kimble, tại ngũ trong quân đội ba chục năm, giờ thích trực từ nửa đêm đến tám giờ sáng, vì như thế ta có cơ ngủ đẫy giấc trước giờ làm công việc khác - ban ngày ta làm ở quán "Saxon’s". Hendricks cố bắt liên lạc bằng vô tuyến với Kimble, để tay này tuần dọc bãi tắm ven đường Old Mill nhưng, như dự đoán, cố gắng của đem lại kết quả. Kimble, như mọi khi, ngủ say trong chiếc ôtô cảnh sát đậu ở phía sau hiệu thuốc. Bởi thế nên Hendricks nhấc máy và quay số điện thoại nhà ở của thủ trưởng mình.

      Brody ngủ, nhưng đấy là trạng thái thính nhạy nửa ngủ nửa thức, lúc mà các hình ảnh thay đổi kế tiếp nhau và sắp sửa đến lúc tỉnh giấc. Khi hồi chuông điện thoại đầu tiên vang lên Brody mơ thấy mình hồi còn học và xô lấn bé nào đó ô cầu thang. Hồi chuông thứ hai cắt đứt cơn mơ. Brody nhào dậy và nhấc ống nghe lên.

      - Thưa thủ trưởng, Hendricks đây ạ. Tôi rất muốn quấy nhiễu thủ trưởng sớm thế này, nhưng...

      - Mấy giờ rồi?

      - Năm giờ hai mươi ạ.

      - Leonard, chắc là cậu đánh thức mình vì chuyện vớ vẩn chứ?

      - Có lẽ chúng ta phải giải quyết vụ trôi nổi, thủ trưởng ạ.

      - Trôi nổi? Trời ạ, thế là cái đếch gì vậy?

      Từ "trôi nổi" Hendricks lôi từ cuốn tiểu thuyết trinh thám của mình ra.

      - chết đuối, - ta lúng túng giải thích kể cho Brody nghe chuyện cú điện thoại của Foote. - Tôi nghĩ có thể muốn kiểm tra việc này trước khi người ta kéo nhau ra bãi tắm. Có vẻ như hôm nay đẹp trời lắm đấy.

      Brody cố tình thở dài nặng nề.

      - Kimble đâu? - hỏi và lại mau chóng tiếp: - Vả lại, có họa ngốc mới hỏi câu ấy. có lúc đến phải lắp vào cái đài trong chiếc ôtô của ta thiết bị khiến ta thể tắt đài được ấy.

      Hendricks đợi lát rồi tiếp tục :

      - Thưa thủ trưởng, như tôi , tôi rất muốn làm phiền thủ trưởng...

      - Ừ tôi biết rồi, Leonard ạ. Cậu gọi điện thoại thế là đúng. khi tôi tỉnh giấc rồi tôi cũng có thể dậy được. Tôi cạo râu, tắm cái, uống cà phê rồi đường đến đồn, tôi ghé vào bãi tắm ở đường Old Mill và đường Scotch xem cái "trôi nổi" của cậu có tình cờ ló mặt ra . Sau đó, khi nào bắt đầu phiên trực ban ngày, tôi lại nhà chuyện với Foote và bạn của . Thế nhé.

      Brody đặt ống nghe xuống và vươn vai. nhìn vợ nằm cạnh mình chiếc giường đôi. Chuông điện thoại làm chị thức giấc, nhưng khi biết là có chuyện gì đặc biệt chị lại đắm mình vào giấc ngủ.

      Ellen Brody ba mươi sáu tuổi, chị trẻ hơn chồng năm tuổi, nhưng nguyên chuyện nom chị chỉ suýt soát ba mươi gây cho Brody đồng thời cảm giác hãnh diện lẫn bừng bực: hãnh diện bởi vì sắc đẹp và trẻ trung của vợ chứng tỏ người đàn ông có thẩm mỹ và chưa mất hấp dẫn; bừng bực bởi vì chị biết giữ sắc đẹp và trẻ trung, tuy có ba mặt con trai rồi, còn Brody lo lắng về huyết áp và cái bụng bắt đầu phình ra của mình, tuy thực ra chưa thể gọi là béo được, cân nặng mới chỉ hai trăm pao với chiều cao sáu bộ insơ. Thỉnh thoảng vào dịp hè Brody có bắt gặp mình thèm thuồng nhìn những tươi trẻ, chân dài, tung tăng trong thị trấn với vẻ hãnh diện, bộ ngực có gì nịt đỡ rung rung dưới lần vải mỏng. Nhưng chưa bao giờ được khoan khoái nhõm khi nhìn các ấy, bởi lẽ còn bị dằn vặt vì nỗi thấp thỏm là biết Ellen có bị khích động ấy choán lấy trước cảnh những chàng thanh niên cân đối, da rám nắng, bên cạnh những chân dài kia nom rất nổi. Chỉ cần nghĩ tới đó là thấy cụt hứng ngay, bất giác lại cảm nhận được cách sâu sắc rằng ngoại bốn mươi, và phần lớn cuộc đời trôi qua rồi.

      Mùa hè là mùa nặng nề đối với Ellen Brody, cứ hễ đến là những ý nghĩ mà chị vẫn thường xuyên xua đuổi lại ùa đến chi phối chị với sức mạnh mới, - những ý nghĩ về những cơ hội tiêu tan và về cuộc sống mà đáng lẽ chị phải có. Ở đây chị gặp những người cùng khôn lớn với chị: những bạn học cùng lớp, - giờ họ lấy những ông chủ ngân hàng và những người môi giới chứng khoán, mùa hè họ ở Amity, mùa đông ở New York, - những phụ nữ đẹp, tự tin, chơi tennis thanh thoát và thoải mái, những người vẫn đùa cợt với nhau (điều này Ellen còn bán tín bán nghi chút nào) về chị: Ellen Shepherd buộc phải lấy chính cái tay cảnh sát ban cho nó đứa con ở ngay ghế sau của chiếc xe "Ford" đời năm 1948 ấy.

      Nhưng việc hoàn toàn phải như vậy. Ellen vừa bước vào tuổi hăm hai khi làm quen với Brody. còn phải học nốt năm nữa ở Wellesley, đến Amity nghỉ hè với cha mẹ. Sau khi hãng quảng cáo nơi bố làm việc chuyển ông từ Los Angeles lên New York, gia đình vẫn tới đây trong suốt mười năm. Khác với các bạn của mình, Ellen Shepherd vội lấy chồng, tuy cũng loại trừ khả năng là sau khi tốt nghiệp đại học hai năm, tìm cho mình tấm chồng từ cùng môi trường, vị trí xã hội và vật chất như . Nghĩ đến chuyện đó, chẳng cảm thấy hân hoan hay buồn bã gì cả. Cũng như mẹ , thỏa mãn với phong lưu tàm tạm mà bố , người chủ gia đình bảo đảm cho mẹ con . Nhưng chẳng hề ước muốn sống cuộc đời giống hệt như của cha mẹ . Nhiều vấn đề sinh hoạt bình thường mà có dịp chạm phải, gieo vào trong nỗi buồn man mác. Bản tính Ellen là thẳng thắn và cởi mở, vẫn tự hào rằng năm 1953, hồi còn học phổ thông tại Miss Porter’s School, được biểu dương là học trò trung thực nhất và điều đó được ghi vào sổ lớp.

      Họ gặp nhau lần đầu tiên vào lúc Brody thực thi công vụ. giữ lại, đúng hơn là giữ chàng hiệp sĩ của lại, người chở về nhà. Lúc ấy khuya rồi. bạn , sau khi nốc nhiều rượu, phóng xe với tốc độ lớn các phố rất hẹp. cảnh sát ra cản đường xe. trẻ trung, vẻ ngoài dễ chịu và lịch thiệp gây được ấn tượng với Ellen. Sau khi rằng họ vi phạm luật giao thông, cảnh sát giữ chìa khóa xe của họ lại rồi đưa cả hai người ai về nhà nấy.

      Hôm sau Ellen mua sắm trong thị trấn và hoàn toàn tình cờ lại tới ngay cạnh ngôi nhà đóng đồn cảnh sát. Tinh nghịch, bước vào tòa nhà hỏi xem ai trong số cảnh sát viên trực quãng gần nửa đêm hôm qua. Thế rồi khi về nhà, viết mẩu thư cho Brody cám ơn , đồng thời cũng viết cho đồn trưởng cảnh sát khen ngợi chàng thanh niên Martin Brody. Brody gọi điện cho bày tỏ lòng biết ơn.

      Khi mời ăn tối và xem phim, nhận lời mời phần nhiều vì hiếu kỳ. Trước kia, hãn hữu lắm mới có dịp trò chuyện với cảnh sát, còn chuyện hẹn hò với cảnh sát quả là chưa hề có bao giờ. Brody cảm thấy được tự nhiên, nhưng Ellen có vẻ biểu lộ hứng thú chân thành đối với và công việc của đến mức làm trở nên tự tin hơn, ràng thấy thích . Vả lại, Ellen cũng thấy đáng : cường tráng, khiêm nhường, tốt bụng, chân thành. làm cảnh sát sáu năm. Brody bộc bạch rằng mơ ước của là trở thành cảnh sát trưởng Amity, có các con trai để mùa thu dẫn chúng săn vịt, rồi dành dụm được đủ tiền để hai ba năm lần có thể nghỉ ở đâu đó.

      Họ lấy nhau vào tháng mười năm ấy. Bố mẹ Ellen mực bảo hãy học xong đại học , Brody cũng sẵn sàng chờ đến mùa hè sang năm. Nhưng Ellen quyết chịu hiểu rằng thêm năm học nữa có ý nghĩa gì trong đường đời mà chọn cho mình.

      Vào những năm đầu chung sống đôi khi lại nảy ra những tình thế khó xử. Chả là bạn bè Ellen vẫn mời họ đến ăn cơm hoặc picnic bên bờ biển và họ thường nhận lời, nhưng Brody cảm thấy khó chịu, lạc lõng khi nhận thấy thái độ kẻ cả đối với mình. Còn khi hai vợ chồng gặp gỡ với bạn bè của Brody những người này tỏ ra giữ kẽ, như thể sợ lỡ có điều gì đó phải. Dần dà lúng túng cũng mất , quan hệ thân tình được củng cố. Nhưng hai vợ chồng bao giờ xuất trong đám bạn bè cũ của Ellen nữa. Và tuy chị gột bỏ được nhãn hiệu "dân nghỉ" và chiếm được cảm tình của dân gốc Amity, chị cũng khó mà từ bỏ được hết những gì chị quen trước khi lấy chồng. Đôi lúc Ellen có cảm tưởng như là chị chuyển sang ở đất nước khác.

      Ấy thế nhưng mãi đến gần đây đoạn tuyệt với quá khứ bắt đầu gây băn khoăn cho chị. Chị hết sức hạnh phúc và quá bận việc giáo dục con cái để có thể cho phép mình nghĩ nhiều đến các cơ hội mà chị bỏ qua. Nhưng khi cậu con trai út bắt đầu học, bỗng nhiên chị cảm thấy quanh mình nỗi trống rỗng và bắt đầu hay để tâm tư hồi tưởng lại xem giờ trong ngày của mẹ chị được lấp đầy như thế nào khi con cái bắt đầu rời bà: cửa hàng (việc này đem lại khoan khoái vì tiền có đủ để mua mọi thứ chỉ trừ những vật đắt nhất), ăn uống với bạn bè, chơi tennis, tổ chức các buổi cocktail, picnic vào cuối tuần. Và những gì trước kia gieo nỗi buồn man mác vào lòng chị, những gì có vẻ mọn và nhàm chán, trong tâm tưởng của chị bây giờ lại ra như cuộc sống thiên đường.

      Ellen toan nối lại các mối liên hệ với những người bạn mười năm nay chị gặp, nhưng chẳng còn đâu những nỗi niềm quan tâm hứng thú chung nữa. Ellen say sưa kể về xã hội ở đây, những kiện các loại ở thị trấn, về công việc hộ lý của mình ở bệnh viện Southampton - về tất cả những gì mà đám bạn bè cũ của chị, có nhiều người mùa hè nào trong hơn ba chục năm cũng đến Amity, ít biết, vả lại cũng muốn biết. Còn họ về những kiện của đời sống New York, về các bảo tàng tranh, về các họa sĩ và các nhà văn mà họ quen biết. Sau đó họ nhớ lại chuyện gì đó từ thuở hoa niên, nhớ đến những bạn bè cũ - giờ ở đâu nhỉ? Đa số các câu chuyện chấm dứt ở đó. Lần nào khi chia tay, ai nấy đều thề thốt, hứa hẹn gọi điện cho nhau và lại tập họp cùng nhau.

      Thỉnh thoảng Ellen thử bắt quen với những người bạn mới trong khách sạn vãng lai, nhưng những cuộc làm quen này gượng gạo và bền. Lẽ ra những cuộc làm quen ấy có thể tiến triển thành tình bạn, nếu như Ellen ít ngại ngùng về ngôi nhà của mình, về công việc của chồng với đồng lương ít ỏi. Bao giờ chị cũng cho tất cả những người quen mới của mình hay rằng hồi trước khi lấy chồng chị vị trí khác trong xã hội. Chị hiểu rằng đúng ra chị nên làm như vậy, và tự ghét mình về việc đó, vì chị da diết chồng, thương quý con cái và đa số thời gian trong năm chị thấy hoàn toàn hài lòng với số phận của mình.

      Bây giờ chị còn xông xáo vào đám những người nghỉ, cố trở về với cái tôi ngày xưa nữa, nhưng bực dọc và nỗi buồn bã vẫn tan hết. Chị cảm thấy mình bất hạnh và quy tình trạng toại nguyện của mình chủ yếu cho chồng, người hiểu tâm trạng của chị và kiên nhẫn chịu đựng tất cả những làm mình làm mẩy của chị. Hàng năm chị những muốn quên cả mùa hè bằng giấc ngủ say.

      Quãng sáu rưỡi, Brody ngoặt sang đường Old Mill. Mặt trời lên khá cao. Nó đánh mất ráng hồng trước lúc bình minh và chuyển thành màu da cam. trời gợn mây. Chủ các ngôi nhà bên bờ đại dương có quyền cản trở lối giữa các ngôi nhà. Lối ra biển phải được thông tự do. Nhưng trong đa số các trường hợp những lối này bị chiếm giữ hoặc bị chắn bởi các bụi cây râm[8] làm hàng rào. Từ đường cái trông thấy bãi tắm. Brody chỉ có thể trông đỉnh các đụn cát thành thử cứ cách trăm yát lại phải dừng xe và chui ra xem xét bãi tắm.

      Chẳng chỗ nào trông thấy người chết đuối cả. cả khoảng trắng mênh mông có vài mẩu cành cây cong queo, hai lon đồ hộp và dải dài, chiều rộng hơn yát, toàn cỏ lá, rong rêu biển mà ngọn gió nam đưa trôi vào bờ.

      Đại dương yên tĩnh, nếu có thi thể nào nổi mặt ắt phải thấy. "Còn nếu như nó nằm dưới nước, - Brody nghĩ, - chỉ còn cách đợi đến khi nó dạt vào bờ".

      Đến bảy giờ Brody xem xét toàn bộ bãi tắm dọc đường Old Mill và đường Scotch, nhưng chẳng thấy có gì khác thường, chỉ chú ý đến chiếc đĩa giấy có đặt ba cái cốc, miệng hình răng cưa, cắt từ vỏ cam ra, - dấu hiệu chắc chắn của việc vào mùa hè này đám dân đặc biệt thanh lịch đổ đến Amity. Brody ngược trở lại đường Scotch, sau đó quặt vào thị trấn theo con đường Bayberry và tới đồn cảnh sát lúc quá bảy giờ. Khi Brody bước vào, Hendricks viết những dòng nhận xét cuối cùng để giao ban. Dường như ta ngán ngẩm vì Brody lôi về được cái xác nào.

      - may nhỉ, thủ trưởng? - ta hỏi.

      - Điều đó còn phụ thuộc vào việc cái gì cậu cho là may, còn cái gì là may, Leonard ạ. Tôi chưa tìm thấy xác. Kimble ló mặt đến chưa?

      - Chưa ạ.

      - Thôi được. Hy vọng là cậu ta tỉnh ngủ rồi. Tôi mường tượng ra cái cảnh: thiên hạ người ta cửa hàng rồi, mà thằng cha cảnh sát vẫn còn khò khò trong xe.

      - ta vác mặt đến đây vào lúc tám giờ, - Hendricks . - ta bao giờ cũng lái xe đến vào giờ ấy.

      Brody rót cho mình tách cà phê, vào phòng làm việc của và bắt đầu xem các báo buổi sáng - số sớm tinh mơ của "New York Daily News" ("Tin hàng ngày New York") và tờ báo địa phương của Amity "Leader" ("Thủ lĩnh"), mùa đông ra hàng tuần và mùa hè ra hàng ngày.

      Kimble đến lúc tám giờ kém năm. Bộ dạng ta như thể ta để nguyên quân phục mà ngủ. Kimble ngồi xuống cạnh Hendricks và uống cà phê đợi cho hết ca trực. Hendricks được thay ca vào tám giờ, khoác chiếc áo da vào người toan ra về Brody từ phòng làm việc của mình bước ra.

      - Mình đánh xe đến chỗ Foote đây, Leonard, - Brody . - Cậu có hứng nhập bọn với mình ? Cũng chả nhất thiết, nhưng mình nghĩ có lẽ cậu cũng muốn giải quyết đến ngọn ngành cái vụ với... cái "trôi nổi" ấy? - Brody mỉm cười.

      - Tất nhiên là sẵn lòng rồi, - Hendricks . - Hôm nay tôi chả có việc gì nữa, mà ngủ cho đẫy giấc để đến trưa cũng được.

      Họ lên xe của Brody. Khi xe dừng lại trước nhà Foote, Hendricks bảo:

      - Xin cuộc với thủ trưởng là họ còn ngủ. Tôi còn nhớ chuyện hè năm ngoái có phụ nữ gọi điện vào lúc giờ đêm, cầu sáng tôi đến, đến sơm sớm vào, vì chị ta áy náy dường như là phần đồ trang sức quý giá biến đâu mất. Tôi bảo với chị ta là có thể ngay lập tức được, nhưng chị ta đồng ý, là còn ngủ. Tóm lại đúng mười giờ sáng tôi có mặt ở nhà chị ta chị ta ấn tôi ra khỏi cửa. Chị ta kêu: "Tôi có bảo đến vào cái giờ sớm bảnh mắt này đâu".

      - Để rồi xem, - Brody trả lời. - Nếu quả thực họ lo lắng cho tính mạng của tiểu thư kia chưa chắc họ ngủ.

      Cánh cửa mở ra ngay.

      - Chúng tôi vẫn đợi tin của các ông, - người đàn ông trẻ tuổi . - Tôi là Tom Cassidy. Các ông tìm thấy ấy rồi chứ?

      - Tôi là Brody, trưởng đồn cảnh sát. Còn đây là cảnh sát viên Hendricks. Ông Cassidy ạ, chúng tôi chưa tìm ra ấy. Có thể vào được chứ?

      - Ờ được được. Xin lỗi các ông. Các ông vào phòng khách . Để tôi gọi vợ chồng Foote nhé.

      Sau quãng chừng năm phút Brody biết hết tất cả những gì theo ý là cần thiết. Tiếp đó đề nghị cho xem mớ quần áo của người phụ nữ mất tích - phải vì hy vọng khám phá thêm được điều gì mới, mà chẳng qua chỉ muốn biểu thị cho họ biết, những người cảnh sát thực thi trách nhiệm của mình cách tận tâm như thế nào. được dẫn vào phòng ngủ và xem xét đống quần áo để giường.

      - ấy mang theo áo tắm à?

      - , - Cassidy đáp. - Nó còn nằm ở ngăn kéo kia kìa. Tôi xem rồi.

      Brody im lặng trong giây lát để lựa lời, sau đó :

      - Ông Cassidy ạ, tôi muốn tỏ ra bất lịch , nhưng Watkins này có chút tính khí kỳ quặc nào chứ? Chẳng hạn, có thói quen ra khỏi nhà giữa đêm khuya... hoặc chơi mà cởi truồng?

      - , theo chỗ tôi được biết, - Cassidy . - Nhưng tôi cũng biết ấy lắm.

      - rồi, - Brody . - vậy tôi cho rằng chúng ta nên vòng ra bãi tắm lần nữa. Ông cũng chả nhất thiết phải . Tôi với Hendricks là được rồi.

      - Nếu các ông phản đối tôi với các ông.

      - Tôi phản đối đâu. Tôi lại cứ nghĩ có lẽ ông thích .

      Ba người ra bãi tắm. Cassidy chỉ cho hai cảnh sát chỗ ngủ thiếp - cát còn in hình thân - và chỗ để quần áo của người phụ nữ. Brody đưa mắt nhìn bãi tắm lượt. Quãng hơn dặm, cả phía bên này lẫn phía bên kia, bãi tắm vắng tanh, chỉ có những mớ rong biển tụ thành những đốm đen nền cát trắng.

      - Ta dọc đây chút, - đề nghị. - Leonard, cậu sang phía đông, đấy, đến chỗ doi đất kia kìa. Ông Cassidy, tôi với ông về phía tây. Cậu có cầm theo cái còi đấy chứ, Leonard? Để phòng sẵn.

      - Vâng, - Hendricks đáp. - Tôi cởi giày ra được ? như thế cát ẩm dễ hơn, mà giày cũng khỏi bị ướt.

      - Đối với cá nhân mình thế nào chả được, - Brody lên tiếng, - ca trực của cậu hết rồi. Cậu có thể cởi cả quần áo ra, nếu cậu muốn. Nhưng lúc ấy mình bắt phạt cậu vì hành vi đứng đắn.

      Hendricks bước về hướng đông. Cát ẩm mềm cứ lành lạnh dưới chân. Hendricks vừa vừa cúi đầu và cho tay vào túi, mắt nhìn những vỏ ốc và những búi rong rêu. Những loại côn trùng nào đó, giống như những chú nhện đen be bé, bay dưới chân , còn khi sóng dềnh lên trông thấy từ các lỗ con con do giun dế đào dưới cát, lại sủi lên những bọt tăm khí. khoan khoái với cuộc dạo này. Kể cũng lạ, nghĩ, là mình sống ở đây cả đời rồi mà hầu như làm cái việc mà vì nó khách du lịch đến đây, tỉ dụ như lững thững dạo bãi tắm, thả mình xuống tắm ở đại dương. còn nhớ tắm biển lần cuối cùng vào dạo nào. Thậm chí là có còn quần bơi nữa hay đánh mất rồi. Cũng giống như nghe kể về dân New York - đâu như nửa trong số họ chưa bao giờ leo lên mái nhà chọc trời Empire State Building[9], hay chưa lần nào đến bên tượng Nữ thần Tự do.

      Chốc chốc Hendricks lại ngẩng đầu lên xem còn cách xa doi cát . mấy lần quay lại, - nhỡ đâu Brody và Cassidy tìm ra cái gì đó. Họ ở cách quãng nửa dặm. thêm được đoạn nữa, Hendricks trông thấy ở phía trước đống cỏ rả rong rêu có vẻ quá to. Khi còn cách ba chục yát, nghĩ: chỗ rong rêu kia chắc là phải quấn vào cái gì đó. Tới đống rong rêu ấy rồi, Hendricks cúi người xuống để gỡ tí rong rêu ra, bất thình lình sững người lại. nhìn rời mắt trong mấy giây, toàn thân cứng đờ vì khủng khiếp. Sau đó lục trong túi quần ra cái còi, đặt lên môi toan thổi mà tài nào thổi được. Hendricks muốn lộn mửa. lảo đảo rồi khuỵu đầu gối xuống.

      cát, quấn trong mớ rong rêu là cái đầu đàn bà. Còn nguyên cả hai vai, phần tay và khoảng phần ba khúc thân. Khắp da lốm đốm những vết thâm, các bắp thịt lầy nhầy từng nhúm. Trong khi ruột gan Hendricks lộn tùng phèo, nghĩ bụng - và điều này lại gây nên cơn buồn nôn mới, - rằng phần ngực còn lại của người đàn bà phẳng chẳng khác nào bông hoa ép trong sách.

      - Hượm , - Brody vừa vừa với tới tay Cassidy. - Tôi nghe như có tiếng còi ấy.

      Nheo mắt lại vì ánh nắng buổi sáng, dõi nhìn cái đốm sẫm cát, đó ràng là Hendricks, và lại nghe tiếng còi, giờ hơn.

      - Ta chạy nhé, - .

      Hendricks vẫn còn quỳ khom khom khi hai người chạy tới. còn buồn nôn nữa, nhưng đầu cứ ngật ngưỡng vai, miệng ho ra, thở to, đứt quãng. Brody chạy vượt lên trước Cassidy mấy bước.

      - Ông Cassidy, hãy đợi chút nhé, được ? - Brody lên tiếng, sau khi vén lớp rong rêu . Trông thấy đó là cái gì rồi, bắt đầu có cảm giác như cổ họng tắc ứ lại. Brody nuốt nước bọt và nhắm mắt lại. phút sau mới : - Giờ ông có thể xem được rồi, ông Cassidy ạ. Hãy xem có phải ấy nào?

      Cassidy đứng im nhúc nhích. ta lúc nhìn Hendricks kiệt sức trong tư thế quỳ, lúc nhìn đám rong rêu.

      - Đây à? - ta vừa vừa chỉ cái đống bầy nhầy rồi bất giác lùi lại. - Ông muốn là...

      Brody vẫn ra sức nén cảm giác buồn nôn. đáp:

      - Tôi nghĩ rằng đây là tất cả những gì còn lại của ấy.

      Cassidy miễn cưỡng tiến lại gần. Brody vạch lớp rong rêu để ta có thể nhìn khuôn mặt màu xám với cái miệng há hốc.

      - Trời ơi! - Cassidy thốt lên rồi lấy tay áp chặt vào miệng.

      - Có phải ấy ?

      Cassidy gật đầu, mắt vẫn rời bộ mặt người chết. Sau đó ta quay và hỏi:

      - Chuyện gì xảy ra với ấy nhỉ?

      - Tôi cũng biết đích xác, - Brody đáp. - Theo tôi ấy bị cá mập tấn công.

      Đầu gối Cassidy xiêu xiêu, và sau khi bệt người xuống cát, ta lẩm bẩm:

      - Hình như tôi sắp nôn phải. - ta rũ đầu xuống và nôn.

      Brody ngửi thấy mùi nôn mửa, hiểu rằng có cưỡng lại cũng vô ích.

      - Tôi cũng nhập hội với các đây, - vừa xong là nôn thốc ra.

    4. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      3


      Mấy phút sau Brody đứng dậy và tiến lại chiếc ôtô. Phải gọi xe cấp cứu từ bệnh viện Southampton mới được. tiếng sau chiếc xe tới. Thi thể, đúng hơn là phần của nó, được bỏ vào cái bị cao su và được chở .

      Đúng mười giờ Brody ngồi trong phòng làm việc của mình và lập biên bản về vụ tai nạn.

      viết xong hết, chỉ còn điền nốt mục "nguyên nhân chết" nữa thôi, có tiếng chuông điện thoại vang lên.

      - Carl Santos đây, Martin đấy phải ? - Brody nhận ra ngay giọng của điều tra viên tư pháp.

      - Phải, Carl ạ. Ông muốn với tôi cái gì nào?

      - Nếu ông có căn cứ để cho rằng xảy ra vụ giết người, tôi có thể rằng đó là tại cá mập.

      - Giết người ư? - Brody hỏi lại.

      - Cá nhân tôi nghĩ như thế. Nhưng tôi có thể giả định, tuy rất khó tin, rằng kẻ rồ dại nào đó đàn áp nạn nhân bằng rìu và cưa.

      - , đấy phải vụ giết người, Carl ạ. có lý do để giết, có công cụ để gây tội ác, và có kẻ bị tình nghi, nếu xét đoán cách lý trí.

      - Thế là cá mập. Lại phải là đồ to khỏe lắm đấy. Đây cũng phải là chân vịt tàu thủy chuyên tuyến. Phải nó chẻ đôi ra cơ, nhưng đằng này...

      - Đủ rồi, Carl, - Brody cắt ngang. - Ta thảo luận chi tiết. ruột gan tôi lại tùng phèo lên bây giờ.

      - Xin lỗi Martin. Thế tôi ghi là cá mập tấn công. Tôi cho là giả thuyết này hợp với ông nhất, nếu như ông ... có những ý kiến đặc biệt.

      - , - Brody . - Lần này . Cám ơn ông gọi điện, Carl ạ.

      đặt ống nghe xuống, điền vào mục "nguyên nhân chết" mấy chữ "Bị cá mập tấn công" rồi ngả người ra lưng ghế.

      Ý nghĩ rằng trong việc này có thể có những dự kiến đặc biệt trước kia chưa nảy ra trong đầu . Những dự kiến đặc biệt này đôi khi đặt vào những tình thế tế nhị khó xử, khi buộc phải tìm kiếm phương pháp bảo vệ lợi ích chung để khỏi làm hại đến thanh danh cả của mình lẫn của pháp luật.

      Mùa nghỉ chỉ vừa mới bắt đầu, và Brody hiểu rằng: yên ổn của Amity trong suốt cả năm tùy thuộc vào việc ba tháng hè này trôi qua như thế nào. mùa nghỉ thành tựu tạo cho thị trấn khả năng sống đói kém cho đến những tháng hè năm sau. Mùa đông, dân số Amity là nghìn người, còn vào mùa hè tốt đẹp số lượng người tăng đến chục nghìn. Và chín nghìn người nghỉ đảm bảo cho sinh tồn của nghìn dân sở tại trong cả năm.

      Chủ các cửa hàng kim khí, hàng thể thao và chủ hai trạm tiếp xăng, chủ dược phẩm - ai ai cũng trông cậy vào mùa hè lời lãi giúp họ đứng vững được qua mùa đông. Vợ đám thợ mộc, thợ tiện, thợ sửa ống nước đến hè là lại làm phục vụ ăn uống hoặc làm nhân viên các công ty bán bất động sản để nuôi sống gia đình trong mùa đông. Ở Amity chỉ có hai cơ sở có quyền buôn bán rượu quanh năm, cho nên đối với đa số các hiệu ăn và quán bar ba tháng hè có ý nghĩa quyết định. Còn đám dân đánh cá cho thuê tàu thuyền, cần có thời tiết tốt và cắn câu mau mắn, nhưng trước hết là cần có khách hàng.

      Ngay cả sau những dịp hè thuận lợi nhất mùa đông ở Amity cũng vẫn khó khăn. Cứ mười gia đình có ba sống bằng tiền trợ cấp. Nhiều kẻ nam nhi mùa đông buộc phải lên bờ bắc đảo Long Island để gia công các mái chèo con con cốt lĩnh được vài đôla ngày.

      Brody biết rằng: chỉ cần mùa hè ăn nên làm ra là số người sống vào tiền trợ cấp tăng gấp đôi. Nếu tất cả các ngôi nhà được thuê đầy kín, người da đen ở Amity có việc làm, mà vốn nhiều người trong số họ phục vụ tại các khách sạn, được thuê làm người làm vườn, phục dịch các bar. Hai ba mùa hè khốn khó kéo liền nhau - mà điều này ơn Chúa, hai chục năm nay chưa bị - có thể bóp chết thị trấn. Nếu con người ta có tiền để may sắm quần áo, nhiên liệu và thực phẩm, nếu như họ có tiền sửa chữa nhà cửa và các tiện nghi sinh hoạt các nhà buôn và các công ty dịch vụ công cộng thua lỗ và thể trụ đến mùa hè sang năm được. Các cửa hàng đóng cửa, dân chúng Amity phải mua thực phẩm ở các nơi khác. Thu nhập thuế đình lại, các cơ quan hành chính sa sút và bắt đầu tràn lan cuộc bỏ chạy bán xới khỏi thị trấn.

      Thành thử dân chúng Amity phải nâng đỡ lẫn nhau, từng người có nghĩa vụ cống hiến phần mình vào thịnh vượng của thị trấn. Brody sực nhớ chuyện vài năm trước có hai em, hai thanh niên đến Amity và mở xưởng mộc tại đây. em Felix đến vào mùa xuân khi mà công việc có nhiều - người ta sang sửa các nhà ở cho du khách, nên họ niềm nở đón tiếp hai em. Trong công việc hai em này tỏ ra rất thành thạo, thế là nhiều thợ mộc của địa phương san sẻ các đơn đặt hàng với họ.

      Nhưng đến giữa hè bắt đầu lan ra những tin đồn xấu về hai em. Albert Morris, chủ cửa hàng kim khí rằng bọn họ mua đinh thép thường, nhưng sau lại tính tiền như đinh tráng kẽm. Ở Amity khí hậu ẩm ướt, mang tính chất biển, nên đinh thép chỉ sau vài tháng là gỉ. Dick Spitzer chủ hộ vật liệu gỗ, đưa chuyện với ai đó, rằng em nhà Felix đặt mua đợt gỗ chất lượng kém để dùng cho ngôi nhà ở đường Scotch. Các cửa tủ bị vênh gần như ngay sau khi mắc vào bản lề. Có lần trong quán, Felix , tên là Armando huênh hoang trước các bạn rượu của mình rằng khéo léo lừa người đặt hàng ra làm sao: công việc theo hợp đồng chỉ thực hai phần ba mà tiền lĩnh cả. Còn Felix em - người ta gọi gã là Danny và mặt gã đầy trứng cá - thích trưng với bạn bè các cuốn sách khiêu dâm, thế lại còn khoe khoang rằng gã đánh cắp được ở các nhà mà gã đến làm việc.

      Thợ mộc sở tại còn san sẻ đơn đặt hàng với em Felix, nhưng tới lúc này hai em phát tài và có thể ung dung sống qua mùa đông. Chính khi ấy tính đoàn kết của dân chúng Amity thể ra. Thoạt đầu người ta chỉ bóng gió với họ rằng họ ở lại thị trấn hơi lâu rồi đấy. Armando nghe đến đó chỉ ngạo mạn cười khẩy. Chẳng bao lâu sau đủ thứ khó chịu lặt vặt bắt đầu. Tự dưng tất cả các lốp xe của chiếc ô tô tải nhà xì hết hơi, mà khi gọi điện cho trạm bảo dưỡng người ta trả lời là cái máy bơm nén của họ hỏng rồi. Khi cần thay bình hơi các công ty địa phương dây dưa tới những tám ngày. Đơn đặt hàng của đối với vật liệu xây dựng hoặc các vật liệu khác hoặc là tới đúng địa chỉ hoặc là được thực sau cùng. Tại các cửa hàng trước kia vẫn mua khất bây giờ người ta đòi tiền mặt. Đến cuối tháng mười hãng " em Felix" phải cuốn cờ và hai em bỏ .

      Phần đóng góp của Brody vào tình đoàn kết tại của Amity - ngoài việc duy trì pháp chế và thông qua những quyết định tỉnh táo, chín chắn - còn ở chỗ ngăn chặn mọi tin nhảm, mà nếu ở Amity có xảy ra các tai nạn cố gì , sau khi thảo luận với Harry Meadows, chủ bút báo "Leader", phải đưa chúng trong mục "Tin tức" dưới ánh sáng cần thiết.

      Nếu cảnh sát chặn xe của ai đó trong đám nhà giàu nghỉ lái xe trong trạng thái có hơi men trong sổ ghi chép Brody thích nhận xét - ngay lần vi phạm đầu tiên, - rằng lái xe mang theo bằng và ở tờ "Leader" tin ấy được đăng tải ngay. Brody luôn luôn cảnh cáo lái xe rằng lần sau, nếu người đó còn dám lái xe trong trạng thái tỉnh táo họ lập biên bản và đưa ra truy cứu trách nhiệm pháp lý.

      hợp tác giữa Brody và Meadows mang tính chất hết sức tinh tế. Nếu có nhóm thiếu niên nào từ thị trấn lân cận đến gây ra ẩu đả ở Amity Meadows luôn nắm được thông tin đầy đủ: họ tên, tuổi tác và các lời buộc tội kèm theo. Còn nếu chính đám thanh niên của thị trấn Amity lộng hành tờ "Leader" theo lệ thường, chỉ gói gọn mẩu tin có họ tên và địa chỉ, trong đó thông báo với các bạn đọc rằng ở đâu đó đường Old Mill dã xảy ra vụ vi phạm trật tự xã hội, do đó mà cảnh sát được gọi đến.

      Bởi vì vài người nghỉ coi "Leader" là tờ báo lý thú và đặt mua quanh năm, nên vấn đề cướp bóc và trấn lột mùa đông ở các biệt thự thanh vắng đạt tới mức tế nhị đặc biệt. nhiều năm Meadows bỏ qua vấn đề ấy, dành quyền cho Brody chăm lo việc thông báo cho các chủ biệt thự bị cướp, trừng trị những kẻ phạm pháp và loại trừ các thiệt hại. Nhưng mùa đông năm 1963, trong vòng tháng có mười sáu nhà bị cướp. Brody và Meadows đến kết luận rằng tới lúc tiến hành tờ "Leader" chiến dịch rộng rãi chống các hành vi phá hoại xã hội. Kết quả của chiến dịch này là tại bốn mươi tám nhà lắp hệ thống tín hiệu với đồn cảnh sát, và bởi vì bọn côn đồ biết nhà nào có hệ thống tín hiệu, nhà nào nên các vụ cướp gần như chấm dứt. Điều ấy làm gánh công việc cho Brody nhiều lắm và nâng uy tín của Meadows lên.

      Đôi khi giữa Brody và Meadows cũng nảy sinh những bất đồng. Meadows kịch liệt chống bọn ma túy. Thêm nữa ông ta lại có linh cảm nhạy bén khác thường của ký giả, hễ đánh hơi có chuyện gì là ông ta lần theo dấu vết như con chó săn lão luyện, dĩ nhiên là nếu như có "những dự kiến đặc biệt" kèm theo. Mùa hè năm 1971, con nhà giàu ở địa phương khi tìm ra chết. Ở bãi tắm, ngay sát mép nước, gần đường Scotch. Theo quan điểm của Brody có chứng cớ nào về cái chết do bạo hành cả và vì gia đình ta phản đối việc mổ tử thi nên người ta chính thức tuyên bố rằng bị chết đuối.

      Thế nhưng Meadows có cơ sở để cho rằng sử dụng ma túy và số ma túy ấy do con trai chủ nông trại trồng khoai tây cung cấp. Meadows phải mất đến gần hai tháng để gỡ nút vụ này, cuối cùng ông ta đòi được mổ tử thi, và phát ra bị chết đuối sau khi mất tri giác vì liều hêrôin lớn. Ông lần ra kẻ buôn bán hêrôin và cả băng chuyên tung các chất ma túy ra thị trấn. Vụ này làm hại nhiều đến danh tiếng của Amity, còn nặng hơn nữa đến cả bản thân Brody. Kể ra Brody cũng tổ chức hai cuộc bắt bớ, nhưng việc này có dính dáng đến vấn đề vi phạm pháp luật, nên hoàn toàn ém nhẹm được thiếu sót trong công tác của mình. Còn Meadows hai lần được tặng các giải thưởng đặc biệt của các nhà báo.

      Bây giờ đến lượt Brody khăng khăng đòi tờ báo phải đăng chuyện vừa xảy ra. định đóng cửa bãi tắm trong hai ba ngày cho cá mập có thời gian xa khỏi bờ. là sau khi nếm mùi thịt người rồi, cá mập có đâm ra nghiện hay (ở hổ nghe là có), nhưng lòng đầy quyết tâm bảo đảm an toàn tính mạng cho nhân dân. Lần này muốn loan báo công khai, muốn mọi người cảnh giác: phải lo tránh xa mặt nước ra. Brody hiểu rằng phải đụng độ với phái đối lập hùng mạnh chống lại việc đăng báo vụ này. Cũng như các thành thị khác, Amity tiếp tục bị khổ sở vì những hậu quả của suy thoái kinh tế. Đầu mùa giờ còn chưa hứa hẹn tốt đẹp gì. Người thuê nhà nhiều hơn năm ngoái, nhưng chủ yếu là loại "tép riu": những đám thanh niên mươi mười lăm người đoàn từ New York đến và thuê chung nhà. Ít nhất mười hai ngôi nhà bên bờ biển giá từ bảy đến mười nghìn đôla cả mùa và vô vàn những ngôi nhà khác giá quãng năm nghìn đôla cho đến giờ vẫn chưa có khách. Cái tin chấn động về cá mập có thể đưa lại thảm họa cho Amity. Lại nữa, Brody hy vọng rằng trường hợp rủi ro vào giữa tháng sáu, khi làn sóng những người nghỉ còn chưa tràn đến, bị mau chóng quên . Tất nhiên, tai họa ít để lại ấn tượng hơn hai hoặc ba. Rất có thể là cá mập bỏ rồi, nhưng Brody dầu sao vẫn muốn mạo hiểm với tính mạng con người.

      quay số điện của Meadows.

      - Chào Harry, - .. - Hay là ta ăn với nhau nhé?

      - Tôi cũng chờ ông gọi điện đây, - Meadows đáp. - Nhất trí thôi. Ăn ở đằng ông hay đằng tôi nào?

      Brody chợt thấy ngay ra rằng nên chuyện ăn uống vội. Dạ dày vẫn còn sủi réo ùng ục, chỉ nội nghĩ đến ăn là thấy buồn nôn rồi. nhìn tấm lịch tường. Thứ năm. Cũng như tất cả những người quen biết khác sống bằng đồng lương eo hẹp, vợ chồng Brody vẫn mua những thứ bán rẻ vào ngày này ở siêu thị. Thứ hai mua thịt gà, thứ ba thịt cừu và cứ thế mà tiếp, đa dạng duy nhất trong thực đơn của họ là rắn đẻn và cá rô - nếu như ngư dân quen nào đó cho họ. Vào thứ năm bán giá hạ có món bít-tết băm. Nhưng thịt băm hôm nay Brody trông thấy quá đủ rồi.

      - Ở đằng nhà ông nhé, - . - Cứ để cho người ta bưng cho chúng ta món gì đó ở hiệu. Ta ăn trong phòng làm việc của ông.

      - Xong ngay, - Meadows . - Gọi cho ông món gì nào?

      - Xalát với trứng và cốc sữa. Tôi lại đằng ông ngay bây giờ đây. - Brody gọi điện cho Ellen báo về ăn cơm nhà.

      Harry Meadows người mập thù lù, ngay đến hơi thở sâu cũng đòi hỏi ở ông ta ít sức lực đến nỗi những giọt mồ hôi toát ra trán. Ông ta gần năm mươi, ăn rất nhiều, hút xì gà rẻ tiền, uống uýt-xki và như ông bác sĩ , chiếm chỗ hàng đầu trong số các ứng cử viên của bệnh nhồi máu cơ tim lan tràn trong thế giới phương Tây.

      Khi Brody bước vào, Meadows phẩy khăn mặt xua những cụm khói xì gà về phía cửa sổ để ngỏ.

      - Cứ xét theo các món ăn ông gọi cho bữa trưa sức khỏe của ông tồi lắm rồi đấy, - ông ta . - Tôi thông khí căn buồng đây này.

      - Cám ơn săn sóc của ông.

      Brody đưa mắt nhìn cái phòng chất đầy báo chí, giấy má để tìm chỗ có thể ngồi được.

      - Ông cứ hất khỏi ghế cái mớ lăng nhăng này - Meadows . - Toàn báo cáo đủ loại đấy mà. Báo cáo từ quận, báo cáo từ bang, báo cáo của ủy ban đường ô tô và của ủy ban cấp nước. Có dễ tốn đến hàng triệu bạc, mà xét về quan điểm thông tin chẳng được tích gì.

      Brody nhấc chồng giấy đặt lên thiết bị lò sưởi. Sau đó kéo ghế lại bàn viết và ngồi xuống. Meadows rút trong túi giấy lớn ra bao sữa và miếng bánh mì kẹp nhân bọc giấy bóng rồi đẩy lại phía Brody. Sau đó mới lấy phần ăn của mình ra: bốn gói riêng; ông giở chúng ra và tựa như người thợ kim hoàn trưng bày những đồ châu báu hiếm, ông lần lượt bày cách nâng niu trước mình khoai tây rán, thịt viên tẩm nước sốt cà chua, dưa chuột ngâm cỡ như quả bí con và phần tư cái bánh chanh. Ông lôi từ tủ lạnh đặt sau lưng ra lon bia lớn.

      - ra trò, - Meadows vừa nhìn khắp mặt bàn đồ ăn vừa .

      - Tuyệt , - Brody nuốt cái ợ chua rồi . - Tuyệt hết chỗ . Tôi ăn với ông có dễ đến nghìn lần rồi mà vẫn chưa thể quen với cảnh tượng này được, Harry ạ.

      - Mỗi người đều có chỗ yếu của mình, ông bạn ơi, - Meadows vừa vớ lấy miếng bánh mì kẹp nhân vừa . - Có kẻ chạy theo vợ người ta. Có kẻ lại thích rượu nặng. Tôi tìm lạc thú trong việc vỗ béo cho cơ thể mình.

      - Ông nghĩ xem, Dorothy cảm thấy "lạc thú" như thế nào, khi đến ngày kia quả tim ông chịu được nữa phải bảo: vĩnh biệt nhé, chàng phàm ăn tục uống, với tôi thế là đủ rồi!

      - Tôi chuyện này với Dorothy, - sau khi tống đầy mồm, Meadows lên tiếng, - và đến kết luận rằng trong những ưu việt ít ỏi của con người so với các sinh vật khác là ở chỗ ta có thể tự chọn cho mình cái chết. ăn uống có thể giết chết tôi, nhưng nó là cái cho tôi lạc thú ở đời. Vả lại, chết vì tham ăn vẫn còn hơn là chết trong bụng cá mập. Sau cái chuyện xảy ra sáng nay tôi tin rằng ông đồng ý với tôi.

      Brody chưa kịp nhai hết miếng bánh mì, phải nỗ lực lắm mới nuốt nổi.

      - Ông chẳng biết thương người tí nào, - .

      Họ im lặng ăn trong vài phút. Brody ăn hết phần bánh của mình, uống xong sữa, vo giấy lại thành cục rồi nhét nó vào cái cốc con bằng nhựa. Ngả người ra ghế, lấy thuốc hút. Meadows vẫn còn ăn, Brody biết rằng có gì có thể làm mất ngon miệng của bạn mình được. nhớ có lần, Meadows, khi tới nơi xảy ra tai nạn ô tô chết người, vừa hỏi han các cảnh sát và những hành khách còn lành lặn, vừa nhai kẹo.

      - Nhân cái chết của Watkins, - Brody vào đề, - trong đầu tôi mới phác ra những ý nghĩ như thế này, tôi muốn ông nghe tôi. - Meadows gật đầu. - Thứ nhất là về nguyên nhân cái chết, theo cách nhìn của tôi thể có hai ý kiến. Tôi với Santos rồi...

      - Tôi cũng thế.

      - Vậy là ông cũng biết ta nghĩ gì. Đó là do cá mập tấn công. như ban ngày rồi. Nếu như ông có trông thấy thi thể, ông cũng phải như vậy

      - Tôi trông thấy thi thể rồi.

      Brody sửng sốt. lẽ con người hôm nay vừa mới trông thấy cái đống lầy nhầy ấy, bây giờ lại có thể ung dung ngồi mút nhân bánh chanh ở ngón tay?

      - Nghĩa là ông đồng ý với tôi?

      - Ừ. Tôi đồng ý rằng ấy chết vì bị cá mập tấn công. Nhưng có loạt những tình tiết mà tôi chưa .

      - Ví dụ?

      - Ví dụ, tại sao ấy lại tắm vào thời gian ấy. Ông biết nhiệt độ khí lúc nửa đêm là bao nhiêu ? Sáu chục độ[10]. Còn nhiệt độ nước? Quãng năm chục[11], phải là người bình thường mới tắm vào cái lúc lạnh như thế.

      - Hoặc là người say rượu, - Brody đệm vào.

      - Có thể. Ừ, mà có lẽ ông đúng. Tôi cho hỏi rồi: vợ chồng Foote xài marijuana và các loại cây cỏ tương tự. Tôi lo điều khác kia.

      Brody cảm thấy bực dọc.

      - Thôi, Harry ạ, ông chỉ chực đuổi theo những bóng ma thôi. ra thỉnh thoảng con người ta cũng chết vì tai nạn.

      - Tôi chuyện ấy. Chẳng qua khó mà tin được rằng ở chỗ chúng ta đây lại xuất cá mập, nước hãy còn lạnh kia mà.

      - Có thể số cá mập thích nước lạnh. Chúng ta nào biết gì về cá mập?

      - Có loài cá mập Greenland, nhưng chúng chưa bao giờ bơi về phương nam xa đến như vậy, mà nếu có bơi thông thường là chúng động đến người. Chúng ta biết gì về chúng ư? Tôi xin với ông rằng: lúc này đây tôi biết về chúng kỹ hơn nhiều so với ban sáng. Sau khi tôi trông thấy phần thi thể còn sót lại của Watkins, tôi gọi điện cho cậu người quen của tôi tại Viện Hải dương học Woods Hole. Tôi mô tả cái xác cho cậu ấy nghe, cậu ta bảo rằng cứ theo mọi khía cạnh mà suy chỉ có loại cá mập có thể làm được như vậy thôi.

      - Loại nào?

      - Cá mập trắng lớn. Có những loài khác cũng tấn công con người, chẳng hạn cá mập hổ, cá mập búa, và có thể cả cá macô và cá mập xanh lơ, nhưng cái cậu này, cậu Hooper - Matt Hooper - với tôi rằng muốn cắn người phụ nữ làm đôi hàm con cá mập phải nặng thế này này, - Meadows giang tay ra khoảng chừng ba bộ, - mà loài cá mập duy nhất có hàm như thế và tấn công con người là cá mập trắng lớn. Chúng còn được gọi bằng tên khác nữa.

      - Còn tên khác nữa? - Brody bắt đầu mất hứng thú. - Tên gì?

      - Cá ăn thịt người. Những cá mập khác đôi khi cũng tấn công người vì nhiều lý do khác nhau - khi chúng đói hoặc hoảng sợ cái gì đó. Hoặc là chúng đánh hơi thấy máu trong nước. À mà này, cái Watkins kia đêm hôm qua có thấy tháng nhỉ?

      - Tôi làm thế quái nào mà biết được?

      - Tò mò hỏi vậy thôi. Hooper khẳng định rằng trong trường hợp như thế nguy cơ bị cá mập tấn công tăng vọt lên.

      - Tất nhiên rồi.

      - Cậu ấy bảo rằng cá mập trắng bơi trong nước lạnh ung dung lắm. Mấy năm trước cá mập lao vào thằng bé ở bờ biển San Francisco. Nhiệt độ nước là năm mươi độ.

      Brody rít thuốc lá, hơi sâu. :

      - Quả thực ông biết được ít về chúng.

      - Tôi được chỉ đạo bởi... ta gọi đó là ý nghĩ lành mạnh và tôi muốn biết đích xác chuyện gì xảy ra và nó có thể lặp lại hay .

      - Vậy cái mối nguy hiểm ấy nó có lặp lại ?

      - . Gần như tồn tại. Từ đó tôi rút ra kết luận rằng đây là tai họa có hai. Cá mập trắng lớn rất hiếm khi gặp, đấy là cái điều tốt duy nhất mà ta có thể về chúng. Hooper cho là như vậy. Có đầy đủ cơ sở để coi rằng con cá mập tấn công nàng Watkins bỏ lâu rồi. Ở đây có đá ngầm. có nhà máy cá hộp hay lò mổ súc vật để mà có thể làm rơi rớt máu và ném lòng ruột xuống nước. Tóm lại, có cái gì có thể hấp dẫn cá mập. - Meadows im lặng và chăm chú nhìn Brody, chịu đựng được cái nhìn của ông ta. - Cho nên, Martin ạ, tôi cảm thấy có lẽ việc gì phải làm mọi người nhốn nháo vì kiện hầu như chắc chắn là lặp lại nữa.

      - Còn xét xem từ phía nào , Harry ạ. Nếu tai biến vừa rồi khó lòng lặp lại, tại sao cho mọi người hay là nó diễn ra có lần?

      Meadows thở dài.

      - Có thể ông đúng. Nhưng Martin ơi, đây là trong những trường hợp mà chúng ta phải được chỉ đạo phải bằng những quy tắc, mà bằng chăm lo đến mọi người. Tôi nghĩ rằng thông báo kiện này đáp ứng gì cho lợi ích của dân chúng. Tôi ngụ ý dân chúng địa phương. Họ dược biết tin này khá nhanh, nếu còn chưa biết tin. Còn những người đọc báo "Leader" ở New York, Philadelphia, Cleveland kia sao?

      - Ông tự phỉnh bản thân nhỉ.

      - Đừng có ấm ớ nữa, ông hiểu tôi muốn gì rồi. Ông cũng biết thể việc cho thuê nhà của chúng ta hè này ra sao. Chúng ta chính là bên bờ mép của thảm họa, cũng như dân Nantucket, Vineyard và East Hampton ấy. Chả là nhiều người còn chưa quyết định hè nghỉ ở đâu. Họ biết rằng năm nay tha hồ mà chọn. Nhà cho thuê muốn bao nhiêu cũng có. Nếu tôi cho đăng bài báo về chuyện phụ nữ bị con cá mập khổng lồ cắt đứt đôi người ở bờ biển Amity các chủ nhà thể cho thuê được lấy cái biệt thự. Martin này, cá mập cũng chả khác nào bọn cướp, bọn giết người, trong đấy có cái gì đó dã man, độc ác tránh được và người ta phản ứng với cả loại này lẫn loại kia đều như nhau. Nếu chúng ta đăng báo về con cá mập giết người như thế là vĩnh viễn mất hy vọng vào mùa hè lời lãi.

      Brody gật đầu:

      - Tôi khó lòng phản bác ông được, Harry ạ, mà tôi cũng chẳng dễ chịu gì lắm khi phải loan báo với mọi người chuyện bên bờ biển của ta có con cá mập giết người lượn lờ. Nhưng thử đứng vào vị trí của tôi mà xem. Tôi định bác bỏ những lý lẽ của ông. Phần nhiều là ông đúng. Rất có khả năng là con cá mập này bơi khỏi đây hàng trăm dặm rồi và bao giờ ló mặt về nữa. Nhưng Harry này, hãy hình dung lấy phút thôi, rằng ông nhầm. Ta giả sử - chỉ giả sử thôi - là chúng ta ỉm biến cố này và con cá mập lại tấn công người nào đó. Khi đó sao? Tôi phải gánh chịu tất cả. Tôi có nghĩa vụ phải lo cho an ninh của mọi người sống ở đây, và nếu tôi thể bảo vệ họ được ít ra cũng phải cảnh báo về nguy cơ đe dọa họ. Tôi mực cầu ông in chuyện đó. Tôi định đóng cửa các bãi tắm chỉ hai ba ngày để phòng xa thôi. Cũng chả có ai bất tiện gì lớn lắm. Thiên hạ còn chưa kéo đến đây nhiều, với lại nước cũng lạnh. Nếu chúng ta thẳng cho mọi người biết những gì xảy ra và giải thích hành động của chúng ta chỉ có lợi mà thôi.

      Meadows ngả người ra ghế nghĩ ngợi.

      - Tôi biết ông hành động thế nào, chứ còn phần tôi quyết định được quyết rồi.

      - Thế nghĩa là thế nào?

      - mẩu tin nào về vụ này tờ "Leader" hết.

      - Ông nghiêm túc đấy chứ?

      - Khá nghiêm túc. thể là bản thân tôi quyết định như vậy, nhưng chung tôi đồng ý với quyết định này. Tôi là chủ bút và đồng chủ nhiệm tờ báo này, nhưng cổ phần khống chế ở tôi, nên tôi thể đối chọi được với áp lực nhất định nào đó.

      - Áp lực nào?

      - Sáng hôm nay người ta gọi điện cho tôi sáu lần: Năm nơi chuyên thuê đăng quảng cáo - tiệm ăn, khách sạn, hai công ty bán bất động sản và tiệm cà phê, kem. Họ hỏi tôi có định đăng mẩu tin về Watkins này và bằng mọi cách ra sức cho tôi hiểu rằng, theo ý kiến của họ, nếu câu chuyện này lan truyền công khai hay hơn cho Amity. Cú điện thoại thứ sáu là của ông Coleman từ New York, - người nắm trong tay năm mươi lăm phần trăm cổ phần báo "Leader". Hình như ai đó gọi điện cho ông ta. Ông ta tuyên bố với tôi là được có thông báo nào tờ "Leader" hết.

      - biết quyết định của ông ta có bị chi phối bởi kiện là vợ ông ta làm người môi giới của hãng mua bán bất động sản nhỉ? Ông ta có cho ông hay chuyện ấy ?

      - , - Meadows đáp. - Chẳng năng gì cả.

      - Hẳn thế mà lại. Vậy là tình hình như thế nào rồi, Harry? Ông định đăng cái tin ấy vì theo ý kiến của các độc giả có thế lực của tờ "Leader" chẳng có chuyện gì khác thường xảy ra cả. Còn tôi, tôi đóng cửa các bãi tắm và đặt vài biển báo nguy hiểm.

      - Tùy thôi! Martin ạ, đấy là việc của ông. Nhưng xin nhắc ông điều. Ông chức vị được bầu lên đấy chứ nhỉ?

      - Ừ, cũng như tổng thống thôi. nhiệm kỳ bốn năm ròng rã.

      - là chức vị được bầu lên cũng có thể được bầu lại.

      - Đấy là lời đe dọa phải Harry?

      Meadows mỉm cười.

      - Ông biết xếp loại các câu tài hơn. Với lại, tôi là cái thứ gì mà đe dọa? Chẳng qua tôi muốn ông suy nghĩ về những hậu quả của những hành động của mình trước khi dấn thân vào việc chống lại lợi ích của dân chúng Amity, những người bầu ông lên...

      Brody đứng lên:

      - Cám ơn Harry. Tôi nghe nhiều lần: kẻ nào nắm trong tay quyền lực bao giờ cũng độc. Tôi phải trả bữa ăn bao nhiêu cho ông?

      - Chẳng phải trả giá gì cả. Tôi thể lấy tiền của người mà gia đình ta sắp sửa phải nì nèo ăn các phiếu ăn mất tiền.

      - Đừng có trông chờ điều đó. Chẳng lẽ ông biết rằng làm cảnh sát là đảm bảo cho sung túc đó sao? - Brody phá lên cười.

      Brody chưa kịp về đến phòng làm việc của mình người ta thông báo cho qua hệ thống loa: "Thị trưởng ở đây, ông ấy muốn gặp thủ trưởng".

      Brody cười khẩy. Thị trưởng. Chứ phải là Larry[12] Vaughan tạt vào thăm hỏi . phải là Lawrence Vaughan, trong các chủ công ty bán bất động sản "Vaughan & Penrose", ghé vào đây phàn nàn chuyện những người thuê nhà làm ầm ĩ quá. Mà là thị trưởng Lawrence P. Vaughan - đại biểu của dân, người thu được bảy mươi mốt phiếu trong cuộc bầu cử vừa qua.

      - Hãy mời đức ông ấy vào đây - Brody .

      Larry Vaughan là người đàn ông cân đối, đẹp đẽ ngoài năm mươi tí. Màu trắng bạc chỉ mới khẽ chạm vào mái tóc dày. Ông là dân Amity gốc, cùng với năm tháng, trong phong cách của ông xuất điềm tĩnh, tinh tế. Vaughan gom được của cải cho mình bằng việc đầu cơ bất động sản ở Amity và là đồng chủ chính của công ty phát đạt nhất trong thị trấn ( số người cho rằng ông ta là người chủ duy nhất, bởi vì trong văn phòng của Vaughan chưa bao giờ có ai gặp người nào họ Penrose cả). Ông ta ăn mặc trang nhã và giản dị, thiên về các áo vét mốt Ănglê, các loại sơ mi đứng đắn và giầy da mềm. Nếu như Ellen Brody, rơi từ môi trường dân nghỉ vào môi trường dân gốc, thế nhưng vẫn trở thành "người nhà" trong đám dân gốc, Vaughan, vốn gốc Amity, lại dễ dàng, mà mất vẻ đĩnh đạc, vươn lên ngang tầm đám nhà giàu nghỉ. Họ nhìn thấy ở ông kẻ bằng vai phải lứa, dù sao ông cũng chỉ là thương gia địa phương, và chưa bao giờ mời ông về nhà chơi ở New York hay Palm Beach. Nhưng ở Amity, ông giao tiếp thoải mái với tất cả mọi người, trừ những đại diện giàu có và kiểu cách nhất của tầng lớp nghỉ hè, và giao tiếp này tạo điều kiện rất nhiều cho thành công trong nghiệp của ông. Vaughan thường được mời dự các buổi tiếp kiến, và bao giờ ông cũng mình. Trong đám bạn bè của ông ít ai biết rằng ở nhà ông có người vợ chất phác chồng hết mực và phần lớn thời gian dành vào việc may vá bên cái máy thu hình.

      Brody có cảm tình với Vaughan. Mùa hè họ ít gặp nhau nhưng sau ngày lễ lao động[13], khi cơn cao điểm mùa hè lui, Vaughan và vợ thỉnh thoảng vẫn mời Brody đến xơi cơm với họ ở trong những hiệu ăn ngoại ô sang trọng. Những lần ấy khiến Ellen mãn nguyện lắm, và chỉ riêng điều ấy cũng làm Brody thấy hạnh phúc. Có vẻ như Vaughan hiểu Ellen. Với chị, bao giờ ông cũng thân thiện và bao dung.

      Vaughan bước vào phòng làm việc của Brody và ngồi xuống.

      - Tôi vừa mới chuyện với Harry Meadows, - ông ta mở đầu câu chuyện.

      Vaughan ràng là bồn chồn, điều ấy khiến Brody quan tâm. ngờ phản ứng như vậy. :

      - Tôi thấy là Harry bỏ phí thời gian tí nào.

      - định nhận được cho phép đóng cửa các bãi tắm ở đâu?

      - Larry, hỏi tôi với tư cách là thị trưởng hay là chủ công ty bán bất động sản, hay chẳng qua vì chỉ vì tò mò bè bạn?

      Vaughan căng toàn thân lên. Brody thấy ngay là ông ta tự kiềm chế cách khó khăn.

      - Tôi muốn biết là định xin được cho phép ấy ở đâu? Tôi muốn biết điều đó ngay bây giờ.

      - Tôi chắc là mình có phải xin xiếc gì hay , - Brody đáp. - Có những điều khoản nhất định mà chiểu theo đó tôi có thể quyết bất cứ những hành động nào mà tôi xét thấy cần, trong trường hợp nảy sinh những hoàn cảnh khẩn cấp và tôi cho rằng các ủy viên quản trị thị trấn phải tự ban bố tình trạng khẩn cấp. Nhưng tôi có muốn bày ra việc nhiêu khê ấy .

      - Điều ấy bị loại trừ.

      - Được rồi. Nếu cách chính thức đến việc xảy ra, tôi coi trách nhiệm của mình là làm hết sức để bảo đảm an toàn cho những người sống trong thị trấn, và vào thời điểm này, theo ý tôi, muốn thế phải đóng cửa các bãi tắm hai ba ngày. Còn nếu có ai đó vẫn cứ nhất quyết ra tắm, chưa chắc tôi có thể bắt người đó về tội vi phạm điều cấm. Họa chăng, - Brody cười khẩy, - là tôi chỉ có thể quy kết cho người đó tội ngu ngốc đến mức tội ác.

      Nhưng hiển nhiên điều đó làm Vaughan chú ý mấy.

      - Tôi muốn đóng cửa các bãi tắm, - ông ta .

      - Tôi hiểu điều đó.

      - có biết tại sao ? Ngày mồng bốn tháng bảy[14] chẳng còn bao xa nữa, và nhiều cái phụ thuộc vào mấy cái ngày lễ ấy lắm. Chúng ta tự chặt chân mình đấy[15].

      - Tôi hiểu những lý lẽ của , nhưng cũng phải hiểu tại sao tôi lại muốn đóng cửa các bãi tắm.

      - Tôi mưu đồ lợi ích cá nhân nào cả.

      - Phải, ở đây chẳng có chút hơi hướng lợi ích cá nhân nào của cả. Mà ngược lại đúng hơn. Nghe này, Martin, thị trấn ta cần đến cái chuyện giật gân kiểu ấy.

      - Nhưng nó cũng cần những nạn nhân mới.

      - Trời ơi, chẳng có nạn nhân nào nữa hết! Mà đóng cửa các bãi tắm để đạt cái gì? Chỉ tổ làm bu đến đầy bầy phóng viên đâu cũng sục sạo và chọc mũi vào những chỗ nên chọc.

      - Thế sao nào? Nếu bọn họ có đến chăng nữa cũng chẳng tìm thấy cái gì đáng giá và lại kéo nhau . Tôi nghĩ rằng "New York Times" ("Thời báo New York") quan tâm gì lắm đến cuộc picnic dã ngoại hoặc bữa ăn ở câu lạc bộ nào đó.

      - Cái lũ nhà báo ấy chẳng được tích gì hay ho cho ta cả. Nhỡ đâu bọn họ moi móc ra cái gì đó sao? Bọn họ làm rùm beng lên, mà ta cần gì rùm beng ấy?

      - Larry, thế bọn họ có thể moi móc được cái gì nào? Tôi đây chẳng hạn, chẳng có gì phải giấu cả. Còn ?

      - Tôi cũng chẳng có gì phải giấu. Chẳng qua tôi nghĩ là... có thể là... những vụ hiếp dâm ấy, chẳng hạn. Những chuyện xấu xa nào đó.

      - Chuyện vặt, - Brody lên tiếng, - tất cả những cái ấy đều là chuyện từ đời nảo đời nào rồi.

      - Khỉ gió nhà , Martin ạ! - Vaughan ngừng giây lát, cố kìm mình. - Thôi được, chẳng buồn nghe theo tiếng của lý trí gì cả. Thế hãy nghe tôi đây, như nghe người bạn. Tôi bị các bạn hàng gây sức ép ghê gớm. Đối với chúng tôi mọi chuyện có thể xoay ra chiều hướng xấu.

      Brody cả cười:

      - Larry, té ra còn có bạn hàng nữa kia? Lần đầu tiên tôi nghe thấy đấy. Tôi cứ tưởng rằng độc tôn cai quản cái cửa hàng của .

      Vaughan lúng túng như thể ra những lời thừa. Ông ta lại :

      - Công chuyện của tôi đâu phải đơn giản. Có khi chính tôi cũng khó lần. Hãy làm điều tôi cầu nhé, Martin.

      Brody nhìn sang Vaughan cố tìm hiểu xem động cơ của ông ta là gì.

      - Tôi lấy làm tiếc, Larry ạ, nhưng thể. Tôi có những trách nhiệm công vụ và tôi phải thực chúng.

      - Nếu nghe lời tôi loại trừ khả năng là chẳng bao lâu nữa mất cương vị này.

      - Tôi thuộc quyền . thể sa thải được nhân viên cảnh sát nào trong thị trấn cả.

      - có thể tin tôi, nhưng tôi có những thẩm quyền nhất định đối với viên cảnh sát trưởng.

      - Tôi tin điều đó.

      Vaughan rút từ túi áo vét ra bản quy chế chức năng của hội đồng quản trị thị trấn Amity.

      - Tôi nhường cho tự hiểu ra vấn đề, - ông ta vừa vừa lật nhanh quy chế. - Đây này, - ông ta tìm được trang cần xem và chìa cuốn sách qua bàn cho Brody, - ở chỗ này có ràng rằng, tuy cảnh sát trưởng là do dân bầu lên, các ủy viên hội đồng quản trị có quyền truất bỏ ta.

      Brody đọc hết mục Vaughan chỉ cho.

      - cứ giả sử là như vậy , - . - Nhưng tôi muốn được biết đưa ra cái gì làm "lý do xác đáng và có căn cứ"?

      - Tôi mong mỏi rằng phải dùng đến biện pháp đó. Tôi nghĩ là câu chuyện của chúng ta quá xa. Tôi trông cậy vào hiểu biết của , bởi vì ý kiến của tôi và ý kiến của các ủy viên hội đồng quản trị thị trấn biết rồi.

      - Của tất cả các ủy viên?

      - Của đa số.

      - Của ai mới được chứ?

      - Tôi có ý định liệt kê tên họ ra với . Tôi nhất thiết phải làm điều đó. chỉ phải vỡ vạc ra điều: nếu làm theo ý chúng tôi chúng tôi đặt vào vị trí của người khác biết điều hơn.

      Brody chưa bao giờ thấy Vaughan ở trạng thái hung hăng như vậy. lấy làm kinh ngạc với điều đó.

      - Thực tình là cứ khăng khăng đòi như vậy phải , Larry?

      - Phải, - Vaughan cất giọng điềm đạm, khi cảm thấy trước thắng lợi. - Hãy tin tôi , Martin. phải hối tiếc đâu.

      Brody thở dài. :

      - việc thổ tả . Tôi rất thích tất cả những cái đó. Nhưng khi quan trọng đến mức ấy ...

      - Phải, đây là việc quan trọng, - lần đầu tiên trong suốt thời gian chuyện, mới thấy Vaughan mỉm cười. - Cám ơn Martin, - ông ta rồi đứng dậy. - Bây giờ tôi còn sứ mệnh lấy gì làm dễ chịu cho lắm là đến gặp vợ chồng Foote.

      - muốn họ bép xép với tờ "Times" hoặc "News" chứ gì? Hay , định tác động đến họ ra làm sao?

      - Tôi kêu gọi ý thức nghĩa vụ ở họ, - Vaughan , - cũng như kêu gọi ấy.

      - Cái tiết mục này ăn thua đâu.

      - Ở đây có điều có lợi cho chúng ta. Watkins này chẳng qua chỉ là nàng tiện dân lang thang hơn kém. Chẳng có gia đình, bạn bè gần gũi cũng . ta rằng ta đến bờ biển miền Đông từ bang Ohio theo vé tham quan bằng ôtô, chứ chẳng có ai rước đến cả.

      Brody về tới nhà quãng năm giờ. Dạ dày trở lại trạng thái bình thường đến mức có thể uống bia trước bữa tối. Ellen trong đồng phục hộ lý màu hồng làm bếp, tay chị vục trong mớ thịt nghiền.

      - về, - vừa chị vừa chìa má ra để nhận cái hôn. - Chuyện gì xảy ra thế?

      - Em chưa nghe thấy gì à?

      - Chưa. Hôm nay là ngày tắm của các bà già. Em ra khỏi bệnh viện lấy phút nào cả.

      - bị chết ở gần đường Old Mill.

      - Chết vì sao?

      - Cá mập. - Brody sục vào tủ lạnh lấy ra lon bia.

      Ellen ngừng nhào thịt và ngạc nhiên nhìn chồng.

      - Cá mập à?! cả đời em chưa bao giờ nghe đến chuyện ấy cả. Có thể ở đây cũng có người trông thấy cá mập, nhưng chúng có động đến ai dâu.

      - Ừ, biết. Chính cũng bắt gặp việc này lần đầu tiên.

      - Thế định làm gì?

      - Chẳng làm gì cả.

      - Ơ hay? cho thế là đúng à?

      - Tất nhiên, cũng có thể làm được cái gì đó. Xét về hình thức. Nhưng thực chất chịu. Vì bản thân hay em có nghĩ gì về vấn đề này cũng chẳng có nghĩa lý gì cả. Những kẻ quyền thế ở trần gian này lo lắng đến ảnh hưởng của nó đối với Amity kia, chứ đâu như chúng mình chỉ toan lo chuyện con cá mập nào đó tấn công ai đó trong đám người vãng lai nơi đây. Tất cả bọn họ cho rằng tấn công này thuần túy là ngẫu nhiên và đời nào lặp lại nữa, nhưng toàn bộ trách nhiệm bọn họ cứ muốn trút lên .

      - ám chỉ ai là những kẻ quyền thế của trần gian này?

      - Larry Vaughan là người trong bọn họ.

      - Ra thế cơ đấy? Em biết là chuyện với Larry.

      - Ông ta bổ tới chỗ ngay sau khi vừa nghe được cái tin định đóng cửa các bãi tắm. Kể ra ông ta cũng tỏ ra tế nhị cho lắm khi thuyết phục . Ông ta tuyên bố rằng sa thải nếu đóng cửa các bãi tắm.

      - Em thể tin được chuyện ấy, Martin ạ. Larry đâu phải con người như vậy.

      - Trước kia cũng nghĩ thế. À mà này, em có bao giờ nghe đến các bạn hàng của lão ta chưa?

      - Bạn hàng ấy à? Em cho rằng có. Penrose là họ tên thứ hai của ông ta hoặc là cái gì đấy đại loại như thế. chung em nghĩ rằng toàn bộ công ty thuộc về ông ta cả.

      - cũng nghĩ như vậy. Nhưng hiển nhiên là phải thế.

      - bàn soạn với Larry trước khi quyết định như thế là tốt rồi. Ông ấy có tầm nhìn rộng hơn nhiều so với nhiều người trong chúng ta. Ông ấy biết hơn phải hành động như thế nào.

      Brody cảm thấy máu bốc lên đầu.

      - Chuyện dấm dớ, - vừa vừa giật đứt cái quai sắt tây của lon bia rồi ném nó vào thùng rác. Sau đó bước ra phòng khách nghe tin thời buổi tối.

      Từ dưới bếp Ellen với lên:

      - Em quên là lúc nãy người ta gọi điện cho .

      - Ai thế?

      - Người ấy xưng danh. Chỉ cầu nhắn lại với làm việc cừ lắm. ta quý hóa nhỉ, có phải ?

    5. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      4



      Những ngày tiếp theo, thời tiết vẫn sáng sủa và êm lặng. Gió từ hướng tây nam thổi suốt - làn gió hây hẩy làm gợn lăn tăn mặt nước đại dương mà cuốn lên những lớp sóng trắng. tươi mát trong khí chỉ về đêm mới thấy, đất cát sau nhiều ngày nắng chang chang nóng lên.

      Chủ nhật rơi vào ngày hai mươi tháng sáu. Các trường quốc lập còn làm việc tuần nữa, nhưng các trường tư ở New York thả học trò về nghỉ hè. Các gia đình có nhà riêng ở Amity bắt đầu nghỉ từ đầu tháng năm. Những người nghỉ thuê nhà từ mười lăm tháng sáu đến mười lăm tháng chín, dỡ đồ đạc ra, dần dần ổn định ở nơi mới và bắt đầu cảm thấy như ở nhà mình. Đến giữa trưa bãi tắm dọc đường Scotch và đường Old Mill đầy những người là người. Ông bố các gia đình nằm thiu thiu nửa thức nửa ngủ các tấm khăn tắm, lấy sức trước ván tennis và đường về lại New York tuyến tàu tốc hành "Long Island". Các bà vợ ung dung an tọa những chiếc ghế nhôm dài dọc Helen MacInnes, John Cheever và Taylor Caldwell, thỉnh thoảng lại bỏ sách để làm hớp rượu vécmút. Đám thanh thiếu niên nằm thành những dải sít chật. thể xếp đám thanh niên này vào hạng hippi được. Họ tuôn ra những lời cũ mòn về hòa bình hay ô nhiễm môi trường, về công bằng hay cần phải nổi loạn. Họ thừa hưởng các đặc quyền đặc lợi cũng như thừa hưởng các gien di truyền vậy; thẩm mỹ của họ, cách nhìn của họ, cũng như màu mắt họ, được định sẵn bởi các thế hệ trước. Họ mắc bệnh thiếu vitamin, cũng thiếu máu. Hàm răng họ, hiểu tại tự nhiên hay nhờ vào các nha sĩ giỏi giang, thẳng, trắng và đều tăm tắp, thân hình họ dây dây, các bắp thịt rắn chắc - chả là từ năm lên chín họ tập đánh bốc, từ năm mười hai tuổi học cưỡi ngựa và suốt những năm sau chuyên đánh tennis. Người họ luôn luôn bốc ra mùi thơm, kể cả giữa lúc nóng nực. Các luôn tỏa ra hương thoang thoảng của nước hoa, còn các chàng trai đơn thuần là mùi thân thể sạch . Đám thanh niên vàng ấy tuyệt nhiên ngốc nghếch hay hư đốn. Nếu có ai đó thử đo hệ số phát triển trí óc bình quân của họ hẳn là, xét theo những số liệu tự nhiên của mình, họ có thể được xếp vào tầng lớp trí thức tinh hoa chiếm phần mười toàn bộ cư dân trái đất. Họ được đào luyện trong các trường, có dạy đủ các ngành khoa học khác nhau, kể cả nghệ thuật giao tiếp với đại diện các dân tộc thiểu số, các lý luận triết học đa dạng, sách lược chiến tranh chính trị, họ được làm quen với các vấn đề kinh tế, các vấn đề ma túy và dục giới. chung họ biết khá nhiều, nhưng lại thích nhớ đến các kiến thức này. Họ cho rằng (chí ít ở họ cũng có cái cảm giác như thế): đối với những gì diễn ra thế giới, vị tất họ có can hệ gì đến. Quả thực có cái gì khuấy động được cõi lòng của họ: cả những cuộc nổi loạn chủng tộc ở Trenton (bang New Jersey) hay ở Gary (bang Indiana); cả kiện là tại hàng loạt nơi dọc sông Missouri bị ô nhiễm đến mức mặt nước thỉnh thoảng lại bắt lửa bùng lên; cả tham nhũng trong ngành cảnh sát New York; cả mức gia tăng của tội ác ở San Francisco; cả những tố cáo động trời, chẳng hạn trong xúc xích phát thấy các ấu trùng giun sán và chất Hexaclorôphin gây bệnh não. Họ tỏ ra thờ ơ ngay cả với cuộc khủng hoảng kinh tế mà toàn bộ nước Mỹ trải qua. Các dao động thị trường chứng khoán đối với họ chỉ là những trạng huống đáng bực mình để cho các ông bố của họ vin vào mà nhiếc móc họ chuyện tiêu xài phung phí, có thực hay chỉ do bố mẹ họ tưởng tượng ra.

      Đấy là những con người trẻ trung đến Amity mỗi mùa hè. Tổ chức biểu tình, to mồm về các loại chủ đề, túm năm tụm ba ký kiến nghị và thường thường cả mùa hè làm việc ở những cơ quan nào đó có những tên viết tắt khó hiểu là những con người khác kia - trong số đó có cả bọn ma cà bông. Nhưng bởi lẽ bọn họ chung chấp nhận Amity, cùng lắm chỉ hòa nhập với cư dân của nó vào ngày lễ lao động mà thôi, cho nên cũng chẳng ai thèm để mắt đến bọn họ cho lắm...

      Lũ trẻ con chơi bên mép nước, đào hố và ném cát ướt vào nhau, chẳng buồn bận tâm lo nghĩ đến chuyện chúng là ai và cái gì đợi chúng mai sau.

      cậu bé quãng lên sáu ném những mảnh đá dẹt xuống nước hồi lâu - cố cho chúng nảy mặt nước, lúc sau cậu đâm chán. Cậu dọc bãi tắm đến chỗ mẹ cậu nằm và ngồi xuống bên cạnh.

      - Mẹ ơi, nghe con này, - cậu vừa vừa lấy ngón tay vẽ những hình loằng ngoằng cát.

      Mẹ cậu quay lại, lấy tay che mắt cho khỏi chói.

      - Chuyện gì, con?

      - Ở đây con chán lắm rồi.

      - Chán rồi à? Sao mà chóng vậy? Mẹ con ta chỉ vừa mới đến đây thôi mà.

      - Mới mới chứ. Con thấy tẻ. Chả có việc gì làm cả.

      - Con nhìn xem bãi tắm tuyệt chưa kìa, con muốn chơi ở đâu chơi.

      - Vâng, con biết rồi. Nhưng chả có việc gì làm cả. Con thấy tẻ lắm.

      - Thế sao con chơi bóng?

      - Có ai mà chơi? Ở đây chẳng có ai cả.

      - Sao lại có ai? Con tìm gia đình bác Harris chưa? Thế Tommy Converse đâu?

      - Chẳng có ai cả đâu. Họ còn chưa đến. Con thấy tẻ lắm.

      - Này, Alex, sao con cứ lải nhải mãi thế nhỉ.

      - Con tắm có được ?

      - . Nước lạnh đấy.

      - Làm sao mẹ biết?

      - Mẹ biết, có thế thôi. Với lại mẹ thể thả con xuống mình được.

      - Thế mẹ xuống với con à?

      - Xuống tắm ấy ư? Tất nhiên là rồi.

      - mẹ chỉ đứng nhìn thôi cũng được.

      - Alex, mẹ mệt chết đây. Chả lẽ con biết chơi gì nữa hay sao?

      - Thế con bơi cái nệm hơi có được ?

      - Ở đâu?

      - Ở ngay gần bờ thôi mà. Con tắm đâu, chỉ nằm nệm thôi.

      Người mẹ ngồi dậy, đeo kính râm vào và nhìn quanh bãi tắm. Cách họ vài chục yát, người đàn ông đứng đỡ đứa bé vai, nước ngang thắt lưng ta. Người đàn bà nhìn , bất giác lòng chị dấy lên tủi thân: lúc này chị còn có chồng để có thể trút trách nhiệm chơi với con được. Người đàn bà chưa kịp chuyển cái nhìn sang đứa con cậu bé hiểu chị nghĩ gì. Nó :

      - Giá có bố bố cho phép con rồi.

      - Alex, đến lúc con phải hiểu rằng bằng cách ấy con thể bắt mẹ nhượng bộ được đâu.

      Chị lại nhìn quanh bãi tắm. Bãi tắm vắng vẻ, chỉ có vài đôi ở phía xa.

      - Thôi được rồi. , - chị cất tiếng. - Nhưng đừng có bơi xa qua đấy nhé và cũng đừng có bơi nệm đấy.

      Chị nghiêm nghị nhìn cậu bé, thậm chí còn gỡ kính ra để cậu ta thấy được ánh mắt của chị.

      - Vâng, - cậu bé thưa.

      Cậu ta đứng lên, vớ lấy cái nệm cao su và lôi nó xuống nước. Sau đó cậu nâng nó lên, và vừa vươn dài tay bám lấy nó, vừa lội trong nước. Khi nước lên đến thắt lưng cậu cậu nằm lên nệm. Nước xô chiếc nệm và làm nó nổi lên cùng với cậu bé. Cậu bé nằm ung dung nệm, bắt đầu đều đặn dùng cả hai tay thong thả quạt nước. Chân cậu thò ra khỏi nắp nệm đến mắt cá. Cậu bơi được vài yát, quay ngang và bắt đầu quạt nước dọc theo bờ. Dòng nước yếu nhàng đưa cậu ra phía đại dương, nhưng cậu nhận ra.

      Cách bờ năm chục yát đáy biển đột ngột hạ xuống, tuy thình lình thụt xuống, nhưng cũng vát chéo xuống rất dốc. Nơi bắt đầu võng xuống, có độ sâu mười lăm bộ. Xa tí nữa độ sâu đạt đến hai mươi lăm, rồi bốn mươi, sau đó là năm mươi bộ. Ở độ sâu trăm bộ, đáy trở nên bằng phẳng, nó cứ bằng phẳng như thế độ nửa dặm, sau đó cao lên thành đoạn nông cách bờ dặm. Phía ngoài đoạn nông này, đáy biển nhanh chóng hạ xuống tới hai trăm bộ, còn tiếp nữa là những độ sâu thực thụ của đại dương.

      Con cá to lớn chầm chậm bơi, đuôi quẫy ở độ sâu ba mươi lăm bộ. Nó nhìn thấy gì, vì những cơ thể thực vật li ti làm đục làn nước. Con cá bơi dọc theo bờ. Sau đó nó đổi hướng, hơi nghiêng người và nhoi lên mặt nước theo hình tròn. Trong nước bây giờ sáng sủa hơn, nhưng con cá vẫn trông thấy gì.

      Cậu bé nghỉ, tay thả lơ lửng trong nước, cơn sóng dồn đến vỗ vỗ vào hai bàn chân. Cậu nhìn bờ, thông thường người mẹ cho cậu bơi ra xa như thế. Cậu trông thấy mẹ cậu vẫn nằm tấm khăn, còn người đàn ông và đứa con chơi đùa trong những lớp sóng gần bờ. Cậu bé thấy sợ - nước êm lặng, vả lại cậu cũng mới bơi ra cách bờ có bốn chục yát. Thế nhưng cậu vẫn quyết định bơi vào gần hơn, vì nhỡ đâu mẹ cậu trông thấy bắt cậu lên bờ. Cậu trườn khỏi chiếc nệm chút để chân có thể hoạt động được. Tay cậu khua nước gần như phát ra tiếng động, nhưng chân cậu lại khua loạn xạ làm bắn cả bọt nước lên.

      Con cá nghe thấy thanh, nhưng nó xác định được những cơn nước xô mạnh từng hồi do những cú đập chân phát ra. Những tín hiệu hãy còn yếu, nhưng con cá nắm bắt được và hướng tới phía đó. Thoạt đầu nó bơi chậm, nhưng sau đó, mỗi chốc tín hiệu càng trở nên rệt hơn, nên nó nhanh chóng tăng tốc độ.

      Cậu bé dừng lại trong giây lát để nghỉ lấy sức. Những tín hiệu phát ra nữa. Con cá bơi chậm lại, đầu quay hết bên này sang bên kia, để cố bắt lại các tín hiệu. Cậu bé nằm hoàn toàn bất động, còn con cá bơi phía dưới cậu, ở độ sâu lớn. Sau đó nó lại bắt đầu ngoi lên.

      Cậu bé lại bơi. Cậu chỉ đập chân sau hai ba lần quạt nước - hoạt động bằng chân nặng nhọc hơn nhiều so với chèo bằng tay. Những cú đập chân chốc chốc lại lặp lại ấy truyền cho con cá những tín hiệu mới. Nó thu nhận được ngay, bởi vì nó gần như ở ngay phía dưới cậu bé. Con cá lao vọt lên.

      Nó bơi gần như thẳng đứng, bởi cảm thấy những chuyển động nào đó mặt nước. Nó biết chắc cái vật khua khoắng đó có ăn được , nhưng điều đó bây giờ quan trọng. Con cá chuẩn bị tấn công. Nếu cái vật nó sắp nuốt tiêu hóa được đấy tức là đồ ăn, còn nếu ợ ra sau. Ngoác hàm và lần nữa quật cái đuôi hình lưỡi liềm, con cá lao tới nạn nhân.

      Cái cảm giác cuối cùng của cậu bé là đòn giáng mạnh vào bụng. Hơi thở ứ lại, cậu kịp kêu gì cả, mà vả chăng có kịp cũng kêu lên cái gì, bởi lẽ cậu đâu có nhìn thấy con cá. Con cá húc chiếc nệm tung lên . Đầu, tay, vai, gần như toàn bộ khúc thân của cậu bé và phần lớn cái nệm chui tọt vào hàm cá, và quai hàm nó sập lại. Con cá vọt khỏi nước, bay về phía trước rồi đập bụng xuống, hàm nó nghiền thịt, xương, cao su lẫn lộn. Đôi chân cậu bé bị dứt rời khỏi thân, quay chầm chậm và chìm xuống đáy.

      Người đàn ông chơi với đứa con bên mặt nước kêu lên:

      - Ối!

      ta tin vào mắt mình nữa, cứ nhìn mãi ra phía chỉ vừa mới đây vẫn còn cậu bé, rồi đưa mắt lên bờ, nhưng đợt sóng phản hồi mạnh làm phải quay mặt ra ngoài khơi, chỉ có điều chẳng trông thấy gì ngoài những cơn sóng dấy lên và tản thành những vòng tròn.

      - Con có nhìn thấy ? - ta hỏi to. - Con có nhìn thấy ?

      - Cái gì hở bố? - đứa con sợ hãi giương mắt lên nhìn bố.

      - Kia kìa! Cá mập, hoặc cá voi, hoặc cái gì đó nữa? Cái gì đó to lắm!

      Mẹ cậu bé thiu thiu ngủ chiếc khăn mở mắt ra và hơi nheo mắt nhìn người đàn ông. ta vừa cái gì đó với đứa con của vừa chỉ mặt nước, thế là đứa trẻ chạy lên cát tới đống quần áo. Người đàn ông đâm bổ đến chỗ người mẹ của cậu bé. Chị ngồi dậy và mãi vẫn chưa hiểu gì, nhưng cứ chỉ ra mặt nước; và chị lấy tay che mắt rồi nhìn ra đại dương. Chị trông thấy gì cả và thoạt đầu chẳng ngạc nhiên tí nào, nhưng bỗng chị sực nhớ ra: "Alex!"

      *





      Brody ăn trưa: gà rán, khoai tây nghiền nhừ và đậu.

      - Lại khoai tây nghiền, - kêu lên, khi Ellen đặt đĩa trước mặt. - Em làm gì với thế?

      - Em muốn chết đói. Với lại có béo trông mới hợp.

      Chuông điện thoại vang lên.

      - Để em, - Ellen . Nhưng Brody đứng dậy. Bao giờ chả thế. Ellen sắp sửa bước lại máy điện thoại, nhưng người đến đó lại là . Cũng như khi chị quên thứ gì đó dưới bếp. Chị , chẳng hạn là quên khăn ăn và đem ngay lên, nhưng cả hai người đều biết rằng lấy.

      - Thôi, chắc là gọi cho đấy, - Brody .

      Những lời chủ định, biết rằng người ta có thể gọi cho chị lắm chứ.

      Đó là đồn cảnh sát gọi tới.

      - Bixby đây, thưa thủ trưởng.

      - Có việc gì thế, Bixby?

      - Thủ trưởng tới đây nhé, thế tốt hơn.

      - Để làm gì?

      - Thủ trưởng ạ, chả là... - ràng Bixby muốn trình bày chi tiết. ta điều gì đó với người đứng bên cạnh, sau đó lại vào máy: - Ở đồn chúng ta có phụ nữ, thủ trưởng ạ... Chị ta điên lên...

      - Chuyện gì vậy?

      - Đứa con của chị ta. Ở ngoài bãi tắm ấy.

      Tim Brody thót lại.

      - Đứa bé làm sao?

      - Thưa... - Bixby lúng búng, sau đó lào thào: - Hôm thứ năm...

      - Nghe đây, đồ dấm dớ.. - Brody chực nữa những bỗng chững lại ngay. hiểu cả. - Tôi tới bây giờ, - và ngắt máy.

      thấy nôn nao như lên cơn sốt. sợ hãi, ý nghĩ mình có lỗi và cơn giận dữ bất lực - tất cả hòa nhập vào thành cơn đau nhói. bỗng vỡ lẽ rằng bị lừa đảo và bị phản bội, và chính bản thân cũng thấy mình là kẻ lừa đảo và phản bội. Người ta dồn ép vào việc bẩn thỉu. trở thành kẻ bù nhìn bạc nhược. Toàn bộ tội lỗi giờ đổ lên đầu , tuy phải chỉ mình có lỗi. Đó cũng là lỗi của Larry Vaughan và các bạn hàng của ông ta, cho dù thực ra có tồn tại bọn họ hay . muốn hành động tuân theo bổn phận, nhưng người ta cho. có còn là cảnh sát viên nữa , nếu như chịu nhún Vaughan? Lẽ ra phải đóng cửa các bãi tắm.

      Giả sử đóng cửa các bãi tắm. Con cá chắc bỏ tới bờ biển mạn East Hampton chẳng hạn và tấn công người nào đó ở đằng ấy. Nhưng đóng cửa các bãi tắm, thế nên đứa trẻ mới chết. như ban ngày. Nguyên nhân và hậu quả. Brody bỗng thấy ghê tởm chính mình. Nhưng đồng thời lại thấy thương mình.

      - Chuyện gì xảy ra thế? - Ellen hỏi.

      - đứa trẻ vừa mới chết.

      - Chết như thế nào?

      - Lại cái con cá mập đáng nguyền rủa ấy.

      - Trời! Giá như đóng cửa các bãi tắm...

      Chị toan , nhưng lại im bặt.

      - Ừ hiểu.

      Khi Brody lái xe đến, Harry Meadows đợi ở bãi để ôtô đằng sau đồn cảnh sát. Ông ta mở cửa trước cửa ôtô và dúi cả thân hình to lớn của mình vào chỗ ngồi cạnh Brody.

      - Sắp lắm chuyện đây, - Meadows .

      - Ừ. Ai ở đằng kia thế, Harry?

      - chàng ở báo "Times", hai người ở "Newsday", người ở báo tôi. Còn có cả phụ nữ. Và người nữa là người khẳng định rằng dường như ta trông thấy mọi diễn biến.

      - Làm sao mà bọn ở "Times" đánh hơi được?

      - may thôi. chàng của báo "Times" có mặt ở bãi tắm. Với ta còn có tay của "Newsday". Cả hai nghỉ cuối tuần. Cho nên chuyện xảy ra là họ biết ngay.

      - Chuyện xảy ra từ bao giờ?

      Meadows nhìn đồng hồ.

      - Mười lăm, hai mươi phút trước đây. hơn đâu.

      - Họ có biết đến nàng Watkins ?

      - Tôi nghĩ là . chàng ở báo tôi tất nhiên là có biết, nhưng ta khá khôn ngoan để khua môi múa mép bừa bãi. Những người còn lại còn tùy ở việc họ chuyện với những ai. Vị tất họ lần ra. Chẳng qua họ có thời gian.

      - Sớm muộn gì họ cũng lần ra.

      - Tôi hiểu, - Meadows . - Tôi bị đặt vào tình thế khá gay go đây.

      - ấy à?! cứ đùa.

      - Nghiêm túc đấy, Martin ạ. Nếu có ai đó của báo "Times" đánh hơi được và chuyện này được đăng ở số báo ngày mai cùng với tin về vụ tấn công vừa rồi của cá mập, tờ "Leader" khốn đốn đấy. Tôi định sử dụng dịp này cứu lấy danh dự của tờ báo, ngay cả nếu như những người khác buồn bận tâm đến.

      - định sử dụng nó như thế nào, hả Harry? muốn viết gì?

      - giờ tôi chưa . Xin với là tôi ở vào tình thế khá gay go.

      - Thế định kết tội ai là kẻ mưu toan ỉm vụ này ? Larry Vaughan chăng?

      - Chưa hẳn.

      - Tôi chăng?

      - Ấy , đâu. Việc ai ra lệnh ỉm nó chung tôi viết. có mưu mô thông đồng nào cả. Tôi muốn chuyện lại với Carl Santos. Nếu tôi thuyết phục được ta điều cần ta tránh được nhiều phiền toái.

      - Nếu viết ra sao?

      - Cái gì mới được chứ?

      - Nếu viết ra mọi diễn biến sao? Rằng tôi muốn đóng cửa các bãi tắm và cảnh báo cho mọi người biết có nguy hiểm, nhưng các ủy viên tòa thị chính đồng ý, và bởi vì tôi là thằng hèn, giữ vững được ý kiến của mình để thực thi công vụ, nên tôi bị họ dắt mũi. Viết rằng các ông chủ địa phương quyết: có cơ sở để gây hốt hoảng cho mọi người chỉ vì cái việc ở bờ biển Amity xuất con cá mập thích đớp trẻ con.

      - Thôi , Martin. Cậu có lỗi. ai có lỗi cả. Chúng ta quyết định, mạo hiểm và thua cuộc. Cả thảy chỉ có thế.

      - Kinh . Giờ tôi chỉ còn mỗi cách là đến với người mẹ đứa trẻ kia là: chúng tôi rất lấy làm tiếc, nhưng buộc phải hy sinh con trai chị cho trò chơi này như hy sinh quân bài ấy.

      Brody ra khỏi xe và bước lại lối cửa sau vào đồn. Meadows phía sau. Brody dừng lại.

      - Harry này, điều tôi muốn biết là thực tế ai quyết định như vậy? bị phụ thuộc. Tôi bị phụ thuộc. Theo tôi ngay Larry Vaughan cũng tự quyết định được mọi cái. Tôi cho rằng ông ta cũng phụ thuộc vào ai đó.

      - Sao lại nghĩ vậy?

      - Tôi có số căn cứ. có biết gì về những bạn hàng kinh doanh của ông ta ?

      - Ông ta chẳng có bạn hàng nào cả.

      - Điều ấy mới xui tôi suy ngẫm đấy. Thôi được, ta hãy... tạm quên chuyện đó . - Brody bước lên các bậc thang, Meadows theo sau. - nên lối cửa chính hơn, Harry ạ... - Brody .

      Brody qua cửa sau vào phòng làm việc của mình. người phụ nữ ngồi bên bàn, tay vò chiếc khăn mùi soa. Chị ta chân trần, áo choàng ngắn phủ lên bộ quần áo tắm cài khuy. Brody lo âu nhìn chị, trong lòng lại trào lên cảm giác có lỗi. biết chị ta có khóc hay , vì mắt chị bị che bởi chiếc kính râm to. người đàn ông đứng ở phía tường đối diện. Brody hiểu rằng đây chính là người dường như chứng kiến mọi diễn biến. Người đàn ông lơ đãng nhìn những tấm bằng khen của các tổ chức xã hội, những bức ảnh có hình Brody chụp với các vị khách tiếng tăm treo tường. Vị tất những cái đó có thể gây được nhiều hứng thú đối với người khách lớn tuổi, nhưng có phải ai cũng trầm trồ chuyện đó vào lúc này với người phụ nữ mất trí vì đau khổ kia đâu.

      Chưa bao giờ Brody có biệt tài an ủi con người, thế nên chỉ tự giới thiệu và lần lượt ra câu hỏi. Người phụ nữ rằng chị trông thấy cá mập nào cả: cậu bé con trai chị vừa mới bơi nệm, thế mà bỗng dưng mất hút. "Tất cả những gì tôi trông thấy chỉ là những mảnh nệm". Giọng chị , đều đều. Người đàn ông kể rằng ta có trông thấy. Hay là ta chỉ trông gà hóa cuốc mà thôi.

      - Tóm lại thực tế chưa ai nhìn thấy cá mập, - Brody kết luận, đâu đó tận đáy lòng vẫn còn le lói hy vọng.

      - Thế còn có cái gì vào đây được nữa? - người đàn ông hỏi.

      - Thiếu gì cái, - Brody tự dối mình, cũng như dối người. vẫn thầm hy vọng giả thuyết nào đó ít nhiều hợp lý. - Cũng có thể cái nệm bị xì hơi và cậu bé bị chìm.

      - Thằng Alex nhà tôi bơi khá lắm, - người phụ nữ bác lại. - À... nó bơi...

      - Thế còn sóng cồn là nghĩa làm sao? - người đàn ông .

      - Thằng bé có thể vùng vẫy dưới nước.

      - Thế mà nó lại kêu!

      Brody hiểu rằng cái giả thuyết ấy xuôi tai. :

      - Thôi được. Dù thế nào nữa ta cũng sớm biết nguyên nhân thôi.

      - Ông thế là ý thế nào ạ? - người đàn ông hỏi.

      - Những người chết dưới nước thường bị dạt vào bờ. Còn nếu bị cá mập tấn công ngay thôi. - Người phụ nữ rũ vai xuống, khiến Brody tự rủa mình thiếu tế nhị. - Xin lỗi chị, - . Người đàn bà lắc đầu và bật lên tiếng khóc.

      Brody cầu hai người hãy đợi trong phòng làm việc, còn bước ra phòng khách phía ngoài. Meadows đứng ở cửa, lưng tựa vào tường và bị thanh niên cao lớn, cân đối, đứng bên cạnh hỏi tới tấp. Phóng viên tờ "Times" đây, Brody nghĩ bụng. thanh niên đôi xăng đan, mặc quần bơi và khoác chiếc áo cộc tay có in hình cá sấu ngực ở phía bên trái. Biểu trưng ấy gây ngay cho Brody cảm giác khó chịu đối với người phóng viên.

      Thời trẻ, đối với Brody những chiếc áo như thế có vẻ gì đó như là tượng trưng cho giàu có và địa vị cao trong xã hội. Tất cả những người nghỉ đều mặc những chiếc áo ấy. Brody cứ nằng nặc đòi mẹ mãi, cuối cùng, mẹ phải mua cho "cái áo phông hai đôla với hình con thằn lằn sáu đôla", như lời bà . Khi mặc chiếc áo ấy rồi thấy những người nghỉ vẫn thờ ơ bước lướt qua như trước kia, chẳng coi vào đâu cả, cũng thấy bị xúc phạm. giật con cá sấu khỏi túi áo, và đem áo ra để lau chiếc máy cắt cỏ - mùa hè kiếm thêm bằng việc cắt cỏ. Mới đây Ellen mua dăm chiếc áo dài đắt tiền cũng của công ty ấy; vị tất họ dám cho phép mình tiêu tiền vào những con cá sấu nọ, chẳng qua Ellen hy vọng rằng điều đó giúp chị quay trở lại môi trường mà chị vốn xuất thân. Có hôm Brody - bất ngờ ngay cả với chính mình - nhiếc Ellen về chuyện mua "cái áo dài mười đôla với con thằn lằn hai mươi đôla".

      Hai người đàn ông ngồi chiếc ghế dài là phóng viên tờ "Newsday". người mặc quần bơi, người kia mặc áo vét và quần thể thao. Tay phóng viên của Meadows - hình như tên là Nat - ngồi ghé vào mép bàn và tán chuyện với Bixby. Trông thấy Brody, họ ngừng .

      - Tôi có thể giúp gì được các vị? - Brody hỏi.

      thanh niên đàm luận với Meadows bước bước về phía trước và :

      - Tôi là Bill Whitman của "New York Times".

      "Vinh dự biết ngần nào!" - ý nghĩ thoáng trong đầu Brody.

      - Tôi ở ngoài bãi tắm.

      - Vậy ông trông thấy gì ở ngoài đó?

      - Tôi cũng ở ngoài ấy, - trong hai ký giả của tờ "Newsday" chen vào - mà chẳng trông thấy gì cả, trừ cái chàng giờ ngồi trong phòng làm việc của ông. Có lẽ ta có trông thấy cái gì đó.

      - Vâng, có thể , - Brody , - chỉ có điều chính ta cũng đó là cái gì.

      - Ông định viết gì vào biên bản, - cá mập tấn công chăng? - phóng viên "Times" hỏi.

      - giờ tôi chưa định viết gì cả và cũng muốn khuyên các ông đừng vội làm gì cả cho đến khi nào mọi việc sáng tỏ.

      Tay phóng viên "Times" khúc khích cười.

      - Thôi xin đủ, thưa thượng cấp. Ngài muốn gọi đó là mất tích bí hiểm hay sao? cậu bé bị lạc ngoài đại dương?

      Brody cố sức kiềm chế để khỏi đáp lại lời khích bác của tay phóng viên nọ.

      - Ông nghe này, ông Whitman, - họ ông là Whitman, nếu tôi nhầm? - Chúng ta chưa có nhân chứng nào nhìn thấy cái gì, ngoài cơn sóng cồn. Người ngồi trong phòng làm việc của tôi cam đoan rằng ông ấy nhìn thấy vật thể lớn màu bạc và theo ý kiến của ông ấy đó có thể là cá mập. Ông ta rằng trong đời chưa bao giờ trông thấy cá mập cả, cho nên lời ông ta thể là kết luận của chuyên gia được. Chúng ta thấy có thi thể, có bằng chứng về việc cậu bé bị cá mập tấn công... Chúng ta chỉ biết rằng cậu bé mất tích. Có thể cậu ấy bị chết đuối. Biết đâu cậu ta bị chuột rút hay bị lên cơn lên kiếc gì đó. Mà cũng có thể cậu ta bị con cá nào đó, sinh vật nào đó, thậm chí con người nào đó nếu giả định cho đến cùng, tấn công. Mọi chuyện đều có thể xảy ra, nhưng giờ chúng ta chưa nhận được...

      Tiếng bánh xe xiết sỏi ở bãi đỗ xe công cộng trước đồn làm Brody bỏ dở câu . Cửa xe kêu sầm tiếng, và Len Hendricks lao như bay vào đồn. người chỉ độc chiếc quần bơi. Thân lấm tấm dính những hạt cát xám nhạt, đồng màu với cốc cà phê nhựa. ta dừng lại giữa phòng khách.

      - Thưa thủ trưởng...

      - Cậu mới tắm về đấy à, Leonard? - Brody, sửng sốt vì hình dạng ta, bèn hỏi.

      - Lại vụ tấn công nữa! - Hendricks hổn hển thốt ra.

      Tay phóng viên "Times" hoạt bát hẳn lên:

      - Thế vụ đầu tiên là từ bao giờ?

      - Chúng tôi vừa mới bàn đến nó, Leonard ạ, - Brody . - Tôi muốn ai đưa ra những kết luận hấp tấp, trước khi chúng ta có thể nắm chắc là chuyện gì thực xảy ra. Mẹ kiếp, cậu bé có thể chết đuối được lắm chứ.

      - Cậu bé? - Hendricks hỏi lại. - Cậu bé nào? Đây là người đàn ông, cụ già. Vừa mới cách đây năm phút. Ông cụ xuống nước bơi rồi bỗng kêu rú lên, đầu chúi xuống dưới nước, rồi lại nổi lên, ông cụ kêu tiếp tiếng gì đó rồi lại biến mất dưới nước. Nước xung quanh xáo động lên và đỏ màu máu. Con cá mập lùi lại rồi lại lao vào nạn nhân, lại lùi lại rồi lại lao vào. Cả đời tôi chưa trông thấy con cá nào to đến thế, như cái ô tô hòm ấy. Tôi xuống nước tới ngang thắt lưng và cố vươn tay tới cụ già, nhưng con cá vẫn cứ xông vào ông già. - Hendricks ngừng , mắt chăm chăm nhìn xuống sàn. thở cách khó khăn, ngắt quãng. - Cuối cùng nó mới chịu rời ra, chắc là nó bỏ rồi, tôi cũng . Tôi lại gần chỗ cụ già thấy ông cụ nằm sấp mặt xuống nước. Tôi nắm lấy tay ông cụ kéo lên.

      - Rồi sao nữa? - Brody hỏi.

      - Cánh tay còn trơ lại tay tôi. Hình như con cá cắn đứt nó, chỉ còn dính lủng lẳng tí thôi. - Hendricks ngẩng đầu lên. Mắt đỏ lựng vì khủng khiếp và mệt lử.

      - Cậu có bị lợm giọng ? - Brody hỏi.

      - ạ.

      - Cậu gọi xe cấp cứu chưa?

      Hendricks chán nản lắc đầu.

      - Xe cấp cứu à? - chàng phóng viên tờ "Times" ngạc nhiên. - chẳng khác nào mất bò mới lo làm chuồng.

      - Ông im , ông lõi đời ạ,.- Brody lên tiếng. - Bixby, gọi điện ngay đến bệnh viện xem nào. Leonard, tôi có thể trông cậy ở cậu được chứ? - Hendricks gật đầu. - Thế hãy mặc quần áo vào và tìm mấy tấm biển đề chữ "Bãi tắm đóng cửa".

      - Ta cũng có những tấm biển ấy cơ ạ?

      - Tôi . Chắc là nằm ở đâu đấy. Có thể trong kho cạnh các tấm biển "Tài sản riêng. Cảnh sát trông nom". Nếu đành phải làm lấy vài chiếc vậy. Dù thế nào nữa, cũng phải đóng cửa cái bãi tắm chết tiệt kia lại.

      Sáng thứ hai Brody đến làm việc ngay sau bảy giờ.

      - Đem đến chưa? - hỏi Hendricks.

      - Ở bàn thủ trưởng ấy ạ.

      - Có gì ? Thôi được, để tôi xem...

      - Thủ trưởng phải tìm lâu đâu.

      Số báo "New York Times" mới nằm bàn Brody. trang nhất, ở cột cùng bên phải gần như ở tít phía dưới đọc thấy đầu đề:

      "CÁ MẬP ĂN THỊT NGƯỜI. HAI NẠN NHÂN Ở LONG ISLAND".

      Brody chửi tục rồi đọc tiếp:

      "WILLIAM F. WHITMAN, ĐẶC PHÁI VIÊN CỦA "NEW YORK TIMES".

      Amity, Long Island, 20 - 6. cậu bé sáu tuổi và người đàn ông sáu mươi lăm tuổi hôm nay trở thành nạn nhân của cá mập - cả hai vụ diễn ra trong vòng giờ gần bãi tắm của khu nghỉ mát này.

      Tuy chưa tìm thấy thân thể của cậu bé Alexander Kintner, các nhà chức trách tuyên bố rằng còn nghi ngờ gì nữa cậu ta bị cá mập tấn công. Nhân chứng Thomas Daguerre từ New York đến xác nhận rằng dường như trông thấy cái gì đó to lớn màu bạc nhảy lên khỏi mặt nước, lao đến cậu bé cùng chiếc nệm căng phồng của cậu ta và lại đập mình xuống nước.

      Điều tra viên của Amity, Carl Santos thông báo rằng những vết máu phát được các mảnh nệm bắt được sau đó, cho phép kết luận rằng cậu bé chết vì bị bạo hành.

      dưới mười lăm người chứng kiến ông Morris Cater, sáu mươi lăm tuổi, bị tấn công vào hồi hai giờ trưa cách chỗ cậu bé Kintner bị lâm nạn có phần tư dặm.

      Cater bơi hết sức gần bờ bị cá mập bất thình lình tấn công. Ông kêu cứu, nhưng mọi nỗ lực của ông đều đạt kết quả. "Tôi bước xuống nước đến ngang thắt lưng và cố kéo ông già lên, - cảnh sát viên Leonard Hendricks lúc đó có mặt ở bãi tắm, kể, - nhưng con cá cứ xông vào ông già mấy lần".

      Cater, thương nhân bán buôn các đồ kim hoàn, được chở đến bệnh viện Southampton, tại đó cái chết của ông được chính thức ghi nhận. Trong hai thập kỷ vừa qua, đây là những trường hợp cá mập tấn công người ở vùng duyên hải miền Đông duy nhất được chính thức xác nhận.

      Theo lời tiến sĩ David Dieter, nhà ngư học của Trung tâm nuôi cá New York đảo Coney, rất có lý để giả định rằng cả hai vụ tấn công đều do con cá mập thực , tuy khẳng định điều này hoàn toàn chắc chắn rất khó.

      Dieter : "Vào thời gian này trong năm ở vùng nước ấy rất ít cá mập. chung cá mập hiếm khi bơi vào gần bờ như thế. Và xác suất rằng ở bãi tắm gần như đồng thời có hai con cá mập tấn công người là hết sức ".

      Sau khi biết rằng nhân chứng khi mô tả con cá mập tấn công Cater ví: "To như chiếc ô tô hòm ấy", Dieter tuyên bố rằng có lẽ đó là cá mập lớn Carcharodon carcharias. Chúng nổi tiếng thế giới về tính tham lam và hung hãn.

      Năm 1916, - ông tiếp, - cá mập trắng lớn cho sang thế giới bên kia trong ngày bốn người tắm ở bờ biển New Jersey. Đây là trường hợp thứ hai được ghi nhận tại Hoa Kỳ trong thế kỷ này, khi mà con cá mập tấn công đồng thời lúc vài người. Bị cá mập tấn công, Dieter , cũng là tai họa hãn hữu như sét đánh vào nhà. Có nhiều khả năng là cá mập chỉ bơi ngang qua. Ngày hôm đó đẹp trời, người tắm đông mà nó lại ở gần ngay đó. Tất cả việc ấy chỉ là thuần túy ngẫu nhiên".

      Amity là khu nghỉ mùa hè ở ven biển phía Nam Long Island, nằm quãng giữa Bridgehampton và East Hampton dân số khoảng nghìn người. Vào dịp hè số người ở đây lên đến mười nghìn."

      Đọc xong bài báo, Brody đặt tờ báo xuống bàn. ngẫu nhiên, thằng cha Dieter này cho là ngẫu nhiên thuần túy. Ông ta sao, nếu như biết cả đến vụ tấn công đầu tiên? Chả lẽ cũng cứ khẳng định phứa rằng đó là ngẫu nhiên thuần túy? Hay gọi đó là thói vô trách nhiệm, tha thứ được, đến mức tội lỗi? chết mất ba người, mà đáng ra hai người trong số đó hãy còn sống, chỉ cần nếu như ...

      - đọc "Times" chưa? - Meadows hỏi. Ông ta đứng ở cửa.

      - Đọc rồi. Bọn họ chưa biết gì về vụ Watkins cả. Ừ. Kể cũng lạ: chính cậu Len[16] lúc ấy buột miệng ra.

      - Nhưng thế nào cũng phải nhắc đến ta.

      - Đúng rồi. Tôi buộc phải làm vậy. Đây này, - Meadows chìa ra cho Brody số báo "Leader" của Amity.

      Đầu đề chạy suốt tờ báo:

      "HAI NGƯỜI TRỞ THÀNH NẠN NHÂN CỦA CON CÁ MẬP TÁC TÁC QUÁI Ở VEN BIỂN AMITY".

      Phía dưới là đầu đề con với khổ chữ hơn:

      "SỐ NẠN NHÂN CỦA CON CÁ GIẾT NGƯỜI LÊN ĐẾN BA".

      - Quả là cũng biết đưa tin đấy nhỉ, Harry.

      - Hãy đọc .

      Brody bắt đầu đọc:

      "Hôm qua ở Amity hai người nghỉ trở thành nạn nhân của cá mập ăn thịt người. Họ bị tấn công khi nhởn nhơ bơi trong nước lạnh gần đường Scotch.

      Alexander Kintner, 6 tuổi, sống với mẹ ở nhà của Richard Packer là nạn nhân đầu tiên. Cậu bé bơi nệm hơi, và cá mập lao đến cậu ta từ phía dưới. Chưa tìm thấy thi thể của cậu.

      Chưa đầy nửa giờ sau, Morris Cater, 65 tuổi, đến nghỉ cuối tuần ở Amity và sống ở khách sạn "Biểu trưng của Abelard" bị cá mập tấn công khi bơi gần bãi tắm của thị trấn.

      Con cá khổng lồ liên tiếp xông vào Cater, và ông kêu cứu. Cảnh sát viên Len Hendricks, tình cờ có mặt ở bãi tắm ( quyết định tắm cho thỏa thích lần đầu tiên sau năm năm trời), cố gắng đến mức tuyệt vọng để kéo Cater ra, nhưng con cá mập chịu lui. Khi Cater được lôi lên khỏi nước ông chết.

      Trong vòng năm ngày qua đây là trường hợp thứ ba bị cá mập tấn công ở bờ biển Amity dẫn đến thiệt mạng.

      Đêm hôm thứ tư trước đó Christine Watkins, trọ ở gia đình ông bà Foote (đường Old Mill) tắm biển và mất tích. Sáng thứ năm cảnh sát trưởng Martin Brody và cảnh sát viên Hendricks phát thấy thi thể của Watkins. Theo lời tuyên bố của điều tra viên Carl Santos, "nguyên nhân của cái chết là bị cá mập tấn công, thể có ý kiến nào khác được".

      Về câu hỏi tại sao loan báo báo về nguyên nhân cái chết Santos trả lời".

      Brody nhìn lướt mặt báo rồi hỏi:

      - Santos chịu trả lời à?

      - phải. ta bảo rằng chỉ với và với tôi thôi, ta cho rằng mình có quyền tuyên bố công khai mọi chuyện. hiểu đấy, tôi thể hài lòng với câu trả lời kiểu đó được. Vì nếu thế người ta trút tội lên đầu và đầu tôi. Tôi hy vọng là có thể lái ta đại loại như là gia đình Watkins cầu giữ bí mật về nguyên nhân cái chết. Nhưng ta lại muốn. Điều ấy cũng dễ hiểu thôi.

      - Vậy lúc ấy làm gì?

      - Tôi cố gắng liên lạc với Larry Vaughan, nhưng ông ta rời thị trấn nghỉ cuối tuần rồi. Ông ta mới là người trình bày giả thuyết chính thức tốt hơn ai hết.

      - tìm thấy ông ta, làm gì?

      - cứ đọc .

      " điều dễ hiểu là cảnh sát Amity và các nhà chức trách địa phương, xuất phát từ lợi ích của những người sống trong thị trấn quyết định loan báo việc này. "Người ta phản ứng kịch liệt lắm, nếu biết có cá mập tấn công", - trong số các ủy viên tòa thị chính . - Chúng tôi muốn gieo rắc kinh hoàng. Hơn nữa chúng tôi được biết ý kiến của chuyên gia: xác suất lặp lại vụ tấn công là vô cùng ".

      - Cái tay ủy viên tòa thị chính giữ mồm giữ miệng này là ai thế? - Brody hỏi.

      - Là tất cả mà cũng chẳng là ai, - Meadows đáp. - Về thực chất tất cả bọn họ đều ra điều ấy nhưng tất nhiên ta nêu tên họ ra.

      - Vậy tại sao các bãi tắm bị đóng cửa? Có ai vấn đề này ?

      - chứ ai.

      - Tôi?

      "Trả lời câu hỏi, tại sao các bãi tắm bị đóng cửa, khi phát ra cá mập ăn thịt người ở ven biển, cảnh sát trưởng Brody : "Đại Tây Dương lớn lắm, các loài cá dễ thay đổi chỗ ở. Chúng nán lại lâu ở chỗ nào ít thức ăn. Chúng ta phải hành động như thế nào bây giờ? Đóng cửa các bãi tắm ở Amity ư? Lúc ấy người ta kéo đến East Hampton và tắm ở đấy, thế cũng nguy hiểm chả kém gì tắm ở Amity cả".

      Thế nhưng sau những kiện ngày hôm qua, cảnh sát trưởng Brody phát lệnh đóng cửa các bãi tắm cho đến khi nào có chỉ thị đặc biệt".

      - Trời ơi, Harry, - Brody thốt lên, - đổ hết tội lên tôi rồi. trình bày việc như thể rằng tôi cứ khăng khăng cái điều mà thực tế tôi hề khăng khăng tí nào. Rồi làm như là tôi sai và người ta buộc tôi làm cái việc mà chính tôi nhất quyết ủng hộ ngay từ đầu. trò ảo thuật khá bẩn thỉu.

      - Đây phải là ảo thuật. Tôi cần người có lời phát biểu chính thức, mà tại vì Vaughan vắng rồi nên tôi chọn vậy. chẳng đồng ý với quyết định này là gì và như vậy - dù muốn hay - là ủng hộ quyết định ấy. Tôi thấy ý nghĩa của việc đem phơi bày trước thiên hạ toàn bộ những câu chuyện giữa chúng ta với nhau.

      - Có lẽ cũng cần thiết phải làm thế . Dù thế này hay thế khác, đó là việc rồi. Tôi còn phải đọc cái gì nữa đây?

      - Thực tình chẳng còn gì phải đọc nữa. Tôi còn dẫn lời của Matt Hooper, cái chàng ở Woods Hole ấy. ta bảo: ít có khả năng là cá mập tấn công người nào nữa lắm. Nhưng ta được tự tin như lần trước.

      - ta cho rằng gần bờ biển chúng ta chỉ có con cá mập lượn lờ?

      - Ừ ta thiên về ý nghĩ là chỉ có . Và đấy là con cá lớn.

      - Tôi cũng cho là như thế. Tôi muốn rằng nó có màu trắng, màu xanh lá cây hay xanh lơ đối với tôi cũng thế cả, nhưng tôi nghĩ vẫn chỉ có con cá mập ấy thôi.

      - Tại sao?

      - Tôi xin thử giải thích. Trưa hôm qua tôi gọi điện cho lực lượng cảnh vệ bờ biển ở Montauk. Tôi hỏi họ xem thời gian gần đây họ có trông thấy cá mập ở gần bờ . Họ trả lời là . Suốt cả mùa xuân thấy có con nào cả. Điều ấy cũng có gì lạ vì mùa hè chỉ vừa mới bắt đầu. Họ hứa rằng cho canô dọc bờ và báo cho tôi biết nếu họ phát được gì. Nhưng rồi tôi vẫn gọi điện lại cho họ. Họ bảo rằng tuần tra ở khu vực chúng ta khoảng hai tiếng đồng hồ nhưng thấy gì khả nghi cả. Nghĩa là, ở đây ít cá mập. Họ còn rằng nếu có cá mập bơi vào đây đó chủ yếu là cá mập xanh lơ cỡ trung bình - từ năm đến mười bộ - và cá mập cát, thường động đến người. Từ lời kể của Leonard có thể suy ra là ta trông thấy hoàn toàn phải cá mập xanh lơ cỡ trung bình.

      - Hooper rằng chúng ta có thể làm như sau: Bây giờ, khi cho đóng cửa các bãi tắm rồi, chúng ta có thể nhử nó. Chỉ cần ném xuống nước ruột cá và các đồ ngon miệng khác. Nếu con cá bơi gần đấy, ta bảo, theo vào đây ngay.

      - ý nghĩ tuyệt vời, chỉ có điều dử nó vào đây còn chưa đủ. Nếu nó ló mặt vào rồi sao nào? Khi đó ta làm gì?

      - bắt nó.

      - Bắt bằng gì? Bằng cái dây câu quăng gỉ của tôi ư?

      - , ta phóng lao.

      - Phóng lao? Harry ơi, đến các canô tuần tiễu tôi cũng có, chứ đừng đến cái tàu có bộ lao xiên cá.

      - Ở đây dân chài đông vô kể, có thể thuê thuyền của họ.

      - Ừ nhưng tối thiểu trăm năm mươi đôla ngày.

      - Đúng rồi. Nhưng mà... - có tiếng ồn ở phòng ngoài làm cắt ngang lời Meadows.

      Ông ta và Brody nghe tiếng Bixby: "Thưa bà, tôi với bà rằng ông ấy họp". Sau đó giọng phụ nữ vang lên: "Mặc kệ. Tôi đếch cần biết ông ấy làm gì. Thế nào thế tôi vẫn cứ vào".

      Có ai đó chạy ngoài hành lang. Đầu tiên là , sau là hai người. Cửa phòng làm việc của Brody mở toang ra, đứng trong khung cửa là người mẹ của Alexander Kintner - tay nắm chặt tờ báo, những giọt lệ tuôn má bà.

      khoảnh khắc sau đó Bixby xuất ở cửa. ta :

      - Xin lỗi thủ trưởng. Tôi cố gắng ngăn chị ta lại.

      - hề gì, Bixby ạ, - Brody trả lời. - Mời chị Kintner vào đây.

      Meadows đứng dậy chìa ghế cho chị, nhưng người đàn bà tiến thẳng đến chỗ Brody, lúc này đứng sau bàn.

      - Tôi có thể giúp gì...

      Người phụ nữ lấy tờ báo đập vào mặt . Brody đau, nhưng cú đánh này, và nhất là thanh đanh như tiếng súng của nó làm bàng hoàng. Tờ báo rơi xuống đất.

      - Thế này nghĩa là thế nào? - bà Kintner thét lên. - Thế này là thế nào?

      - Chị cái gì cơ? - Brody hỏi.

      - cái chuyện được đăng ở đây này! biết rằng tắm là nguy hiểm, rằng có người bị cá mập xé xác, vậy mà còn giấu?

      Brody thấy khó xử. Điều chị ta , tất cả là , xét theo quan điểm chính thức phủ nhận được, nhưng thể đồng ý với nó, bởi vì đó phải là toàn bộ .

      - hẳn là thế, - đáp. - Tôi muốn : những điều chị , nhưng... xin chị, chị Kintner... - thầm cầu mong chị ta tự chủ lại và lắng nghe .

      - giết thằng Alex! - chị ta kêu lên như xé ruột. Brody đinh ninh rằng tiếng kêu của chị vang tới tận bãi đỗ ôtô, vang ra ngoài phố, tới trung tâm thị trấn, vang khắp Amity. đinh ninh rằng cả vợ , cả con cái đều nghe thấy. Và nhủ thầm: "Phải chặn chị ta lại, khéo chị ta còn kêu nữa". Nhưng cái điều duy nhất thốt ra được lại là: "Su-ỵ-t!".

      - ! giết nó! - chị ta lại gào lên. Nắm tay ghì chặt, chị nghiêng đầu và rướn cả người về phía trước, mỗi lời của chị như con dao găm xuyên vào Brody: - Việc này xong với tôi đâu!

      - Xin chị, chị Kintner, - Brody hạ giọng thào, - hãy bình tĩnh. Hãy để cho tôi giải thích . - chạm tay vào vai chị, định ấn chị ngồi xuống ghế, nhưng chị ta nhảy phắt sang bên.

      - Bỏ cái tay bẩn thỉu của ra! - chị ta lại kêu lên. - biết? biết hết cả, nhưng lại muốn gì. Bây giờ thằng bé của tôi, thằng bé vàng ngọc của tôi, đứa con của tôi... - Toàn thân chị rung lên vì cơn thịnh nộ, còn má những giọt lệ to chảy rân rấn. - biết? Tại sao thông báo? Tại sao? - Chị vòng tay lên vai, như thể chị lúc này phải khoác chiếc áo trói bó người lại, rồi nhìn thẳng vào mắt Brody. - Tại sao?

      - Tại là vì... - Brody bắt đầu cách khó nhọc. - Câu chuyện này dài dòng lắm. - có cảm tưởng như mình bị thương, rằng sắp sửa ngã nhào xuống đất hệt như bị bắn. biết có thể giải thích được gì cho chị ta, thậm chí có thể cất lên được lấy vài lời hay .

      - Tôi thừa biết là nó dài rồi, - người phụ nữ lại . - Ôi, kẻ khủng khiếp. kẻ khủng khiếp, khủng khiếp…

      - Đủ rồi! - Brody kêu lên, vừa sẵng giọng lại vừa cầu khẩn. Người phụ nữ nữa. - Chị Kintner, chị nghe tôi này, chị bị nhầm đấy. Mọi phải như thế. Chị cứ hỏi ông Meadows đây mà xem.

      Meadows, choáng người bởi cảnh tượng này, chỉ im lặng gật đầu.

      - Tất nhiên, ông ta xác nhận. Tội gì ông ta xác nhận? Ông ta là bạn , có phải ? Có thể ông ta còn ủng hộ nữa là khác. - Cơn giận lại bùng lên trong chị ta. - Có lẽ hai người các ông thông đồng quyết định tất cả. Như thế chả dễ hơn mà. Vụ này các ông vớ bẫm chứ?

      - Vụ nào?

      - Các ông nhận được tiền vì máu của con trai tôi? Có kẻ trả cho các ông để các ông giữ im lặng?

      - Trời ơi, chị gì vậy! Dĩ nhiên là có chuyện ấy rồi.

      - Thế tại sao? Hãy cho tôi hay, tại sao các ông im lặng? Tôi trả tiền cho các ông. Chỉ cần các ông cho tôi biết tại sao?

      - Chúng tôi nghĩ rằng việc đó lại có thể xảy ra lần nữa.

      Brody ngạc nhiên với cả chính mình là biết ăn mạch lạc đến thế. Gọi đúng được lý do đích thực.

      Người đàn bà im lặng lúc, để nhận thức ý nghĩa của điều vừa . Hình như chị thầm nhắc lại lời Brody.

      - Trời ơi! - chị ta thốt lên.

      Sức lực như bỗng dưng rời khỏi chị. Chị ngã vật xuống ghế cạnh Meadows rồi khóc òa lên, vừa nức nở nấc lên như động kinh vừa rùng rùng toàn thân.

      Meadows cố gắng dỗ chị, nhưng chị chịu nghe. Brody sai Bixby gọi bác sĩ. Ông bác sĩ bước vào phòng, lắng nghe những lời giải thích của Brody, thử cố dăm lời với Kintner, nhưng chị chẳng có phản ứng gì cả, dường như chị chẳng trông thấy, chẳng nghe thấy gì hết. Bác sĩ tiêm liều an thần, và viên cảnh sát giúp ông đưa Kintner lên xe - chị ta được chở đến bệnh viện.

      Khi họ khỏi, Brody nhìn đồng hồ.

      - Còn chưa đến chín giờ. Chưa bao giờ tôi thèm uống cái gì đó như bây giờ…

      - Nếu phản đối, - Meadows đề nghị, - trong phòng làm việc của có uýt-xki đấy.

      - được. Nếu việc hôm nay cứ diễn biến như thế này, tôi cần có cái đầu tỉnh táo.

      - Xin đừng quá bận lòng đến những lời của chị ta: cơn loạn thần kinh điển hình đấy mà.

      - Tôi biết rồi, Harry ạ. Bất cứ bác sĩ nào cũng chị ta ở trong trạng thái tâm thần bất ổn. Nhưng việc phải ở mấy lời . Những lời ấy có thể khác, nhưng bản chất vẫn thế. Chính tôi nghĩ đến chuyện này.

      - Đừng nghĩ nữa, Martin. biết rồi đấy: đâu phải lỗi tại .

      - Phải, phải lỗi tại tôi. Tôi có thể lên án Larry Vaughan. Hoặc là có thể lên án . Nhưng hai cái chết ngày hôm qua lẽ ra có thể ngăn ngừa được. Tôi có thể ngăn ngừa, nhưng lại làm điều đó. Đầu đuôi là thế đấy.

      Chuông điện thoại réo. Nhưng ở phòng bên người ta trả lời, rồi sau đó loa đàm thoại vang lên: "Ông Vaughan".

      Brody ấn cái nút có đèn sáng, nhấc ống nghe lên và :

      - Chào Larry. Thế nào, nghỉ cuối tuần tốt đẹp chứ?

      - Mọi việc đều tốt đẹp cho đến mười giờ đêm hôm qua, - Vaughan trả lời, - đến cái lúc tôi bật rađiô trong xe đường về nhà. Tôi toan gọi điện thoại ngay cho , nhưng rồi nghĩ rằng có cú điện thoại của tôi cũng ngày vất vả rồi, cho nên tôi mới khua động vào giờ giấc muộn như vậy.

      - Cái quyết định ấy của có lẽ tôi có thể tán thành được.

      - Đừng làm tình làm tội nữa, Martin. Chưa cần làm thế tôi cũng nôn nao khó chịu rồi.

      Brody muốn hỏi: "Thực thế ư, Larry?" những muốn khiến Vaughan phải dằn vặt vì bị lương tâm cắn rứt. Nhưng hiểu là việc đó hoàn toàn công bằng và cũng dễ thực được cho lắm. Thành thử chỉ :

      - Tôi hiểu.

      - Sáng hôm nay tôi hủy hai hợp đồng. Mất khoản tiền lớn. Hợp đồng với những người bề thế. Họ ký rồi, tôi bèn bảo họ là tôi có thể kiện họ đấy. Họ đáp rằng đấy là việc của tôi, rồi kéo nhau ở chỗ khác. Tôi đâm sợ trả lời các hồi chuông điện thoại. Tôi còn hai chục cái nhà nữa chưa có hợp đồng thuê vào tháng tám.

      - Tôi cũng muốn an ủi điều đó, nhưng sợ là còn tồi tệ hơn thế này nữa kia.

      - thế nghĩa là thế nào?

      - Là các bãi tắm đóng cửa.

      - định đóng cửa trong bao lâu?

      - Còn chưa . Để xem cần bao lâu. Năm ngày hoặc hơn.

      - có biết rằng ngày Quốc khánh mồng bốn tháng bảy là vào cuối tuần sau ?

      - Tất nhiên là biết.

      - Hy vọng mùa hè thuận lợi thế là tan tành rồi, nhưng ta còn có thể cứu vãn được, ít ra là vào tháng tám, nếu ngày lễ này trôi qua êm đẹp.

      Brody hiểu là Vaughan chuyện nghiêm túc hay .

      - Thế đề xuất cái gì, hả Larry?

      - Chẳng đề xuất gì cả. Tôi chỉ ý nghĩ của mình lên thành lời thôi. Hoặc, nếu muốn hơn nữa, là cầu nguyện. Vậy là định đóng cửa các bãi tắm trong mấy ngày? Hay là, chung đóng cửa? Làm sao biết được rằng con cá quỷ quái kia bỏ hay chưa?

      - Tôi có thời gian để nghĩ đến tất cả chuyện này. Đến việc tại sao nó lại ở đây tôi cũng biết nữa là. Cho phép tôi hỏi vài chuyện. Chẳng qua vì tò mò mà thôi.

      - Cứ hỏi .

      - Những ai cùng canh ty với ?

      đoạn im lặng kéo dài.

      - Sao lại quan tâm đến chuyện đó? - cuối cùng Vaughan mới cất tiếng. - Cái đó có liên quan gì đến toàn bộ việc vừa xảy ra?

      - Tôi : vì tò mò mà.

      - tò mò hãy dùng cho công việc của , Martin. Xin mạn phép để bản thân tôi tự lo công việc của mình.

      - Dĩ nhiên rồi, Larry. Chớ có bực.

      - Vậy là định làm gì? Chúng ta thể khoanh tay ngồi đợi khi nào con cá nó bỏ . Chúng ta chết vì đói mất, nếu chỉ ngồi mà đợi.

      - Tôi biết. Tôi với Meadows thực ra vừa mới bàn xem có thể làm gì được. chuyên gia về cá, bạn của Harry rằng ta có thể thử bắt con cá mập này. Nếu chỉ vài trăm đôla và thuê thuyền của Ben Gardner hai ngày sao? xem xem thế nào? Tôi bác ta bao giờ đánh cá mập chưa, nhưng có lẽ cũng nên thử?

      - Ở đây mọi việc đều đáng làm, chỉ cốt sao chúng ta thoát khỏi con vật gớm ghiếc ấy. Cứ làm tới . Bảo với bác ta là tôi kiếm ra tiền.

      Brody ngắt máy và quay về phía Meadows:

      - tại sao tôi lại quan tâm đến chuyện này, nhưng tôi sẵn sàng trả giá đắt để biết thêm về những công chuyện làm ăn của ông Vaughan.

      - Để làm gì?

      - Ông ta rất giàu. Cá mập có ở đây lâu hay chóng cũng chả ảnh hưởng gì đến ông ta lắm. Tất nhiên, ông ta chịu thiệt thòi ít nhiều, nhưng ông ta cứ làm ra vẻ như đây là vấn đề sống còn đối với ông ta lắm. phải đối với thị trấn, mà đối với bản thân ông ta ấy.

      - Hay có lẽ chẳng qua là tại lương tâm ông ta thức dậy?

      - Tôi vừa mới chuyện qua điện thoại với ông ta nhưng tôi có cảm tưởng như thế. Cứ tin ở tôi, Harry ạ. Tôi biết thế nào là lương tâm chứ.



      *







      Cách bờ đông của Long Island mười dặm về phía nam, chiếc tàu đánh cá được thuê lững lờ trôi theo dòng. Phía sau đuôi tàu, mặt nước, phủ bởi màng váng mồi, căng dài hai sợi cước kim loại. Trưởng tàu, người đàn ông cao, gầy gò ngồi đài dẫn của tàu và nhìn xuống nước. Hai người đàn ông thuê tàu đọc sách báo trong buồng thủy thủ. người đọc tiểu thuyết, người kia đọc báo "New York Times".

      - Này, bác Quint, - người đàn ông đọc báo gọi to, - bác xem bài báo về cá mập ăn thịt người này chưa?

      - Xem rồi, - trưởng tàu đáp.

      - Bác nghĩ sao, ta có gặp nó ?

      - .

      - Sao bác biết?

      - Tôi biết.

      - Thế còn nếu ta khởi hành tìm nó?

      - Chúng ta khởi hành.

      - Tại sao?

      - Chúng ta rắc mồi khắp ra đây rồi. Ta ở lại đây.

      Người đàn ông lắc đầu, mỉm cười.

      - Mẹ kiếp, bắt cá mập có phải thú nào.

      - Đây phải là cái thú, - trưởng tàu .

      - Amity có xa đây nhỉ?

      - Quá về mạn phía nam ít.

      - Này, nếu như có cá mập ở quanh đâu đây, có khi bác cũng đụng phải đấy.

      - Chúng ta gặp cá mập, đích xác là thế rồi. Nhưng phải hôm nay.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :