Hà Thần:Quỷ Thủy Quái Đàm - Thiên Hạ Bá Xướng [Kinh Dị]

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      [​IMG]
      Tác Giả: Thiên Hạ Bá Xướng

      Thể Loại: Huyền Ảo, Kinh Dị
      Người dịch: SNG7M
      Nguồn: Tàng Thư Viện


      Ebook: Đào Tiểu Vũ's eBook -http://www.dtv-ebook.com

      Giới Thiệu:
      Ai cũng nghe lớp người già trẻ kể chuyện về ''Hà thần'' (Hà Bá). Thủy quái dưới cầu chính là trong những câu chuyện hay nhất liên quan tới Hà thần, nội dung cực kỳ ly kỳ, tình tiết vòng trong bọc lấy vòng ngoài, đọc xong đảm bảo há hốc mồm, nghiền còn hơn cả Bình thư.
      Ngươi hỏi ta vì sao mộ phần nhà Nguỵ gia có quái? Vì sao ngõ lương phòng có ma? Rốt cuộc trong hai trăm lẻ chín phần mộ có bao nhiêu người? Vì sao lão chưởng hàng quan tài lại trong phỏng giấu bảo bối của người chết? Toàn bộ đều có trong ''Quỷ Thuỷ Quái Đàm''.​

      Chuyện kể rằng có tên trộm đặt lưới tuyệt hậu sông, trong lúc vô ý vớt được xác chết của đứa bé. 'Thiết Tam Giác' Quách sư phụ, Đinh Mão, Lý Đại Lăng vất vả tìm...(đoạn này liên quan tới truyện, dịch sau )​

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Giới thiệu của tác giả:

      Ai cũng nghe lớp người già trẻ kể chuyện về 'Hà thần' (Hà Bá). Thủy quái dưới cầu chính là trong những câu chuyện hay nhất liên quan tới Hà thần, nội dung cực kỳ ly kỳ, tình tiết vòng trong bọc lấy vòng ngoài, đọc xong đảm bảo há hốc mồm, nghiền còn hơn cả Bình thư.

      Ngươi hỏi ta vì sao mộ phần nhà Nguỵ gia có quái? Vì sao ngõ lương phòng có ma? Rốt cuộc trong hai trăm lẻ chín phần mộ có bao nhiêu người? Vì sao lão chưởng hàng quan tài lại trong phỏng giấu bảo bối của người chết? Toàn bộ đều có trong 'Quỷ Thuỷ Quái Đàm'.

      Chuyện kể rằng có tên trộm đặt lưới tuyệt hậu sông, trong lúc vô ý vớt được xác chết của đứa bé. 'Thiết Tam Giác' Quách sư phụ, Đinh Mão, Lý Đại Lăng vất vả tìm...(đoạn này liên quan tới truyện, dịch sau =D)

      Chương 1: Đội vớt xác năm sông

      Thành Thiên Tân, chín khúc sông, đôi cầu nổi, ba đường lớn;

      Ngoài cửa Nam gọi Hải Quang Tự, phía cửa Bắc kêu Bắc Đại quan;

      Cửa nam có quân đồn trú, lầu gác, pháo đài ở trung tâm.

      Ba lỗ châu mai, bốn khẩu pháo, tàu điện biển vàng ra quan hải.

      Bài vè này đại ý về phong cảnh trước đây của thành Thiên Tân. Thời Dân quốc ngày đó, phía Nam có bến Thượng Hải, Bắc có thành Thiên Tân, chính là hai nơi phồn hoa nhất. Chuyện kể về Hà thần phần lớn đều xảy ra ở Thiên Tân. Trước tiên, như mọi người đều biết, tôi dám đảm bảo tất cả mọi chuyện đều là , dù sao việc xảy ra cũng lâu, những gì nghe được cũng chỉ là thuật lại, tôi kể mọi người nghe, tin tin mà tin cũng sao, cần truy cứu.

      Những người lớn tuổi mỗi khi nhắc tới Thiên Tân thường xuyên dùng ba chữ “Thiên Tân vệ”, vậy vệ trong Thiên Tân vệ là về cái gì? Yến vương thời Minh đánh ra Bắc, bên người Minh Thành tổ Chu Lệ có Thiên Tân thiết vệ, cũng giống như Cẩm Y vệ thời đó, đều là đơn vị quân đội đồn trú tại địa phương, hoàng đế Đại Minh dẫn theo con em từ quê nhà An Huy tới đóng tại Thiên Tân, phụ trách bảo vệ kinh đô, vậy nên nơi này liền gọi là Thiên Tân vệ. Đến những năm cuối thời nhà Thanh, Thiên Tân trở thành đất “thuê” của chín nước, thành thị phồn vinh chưa từng có, tụ tập đủ hạng người, rồng rắn lẫn lộn, những chuyện hiếm lạ kỳ quái cũng kéo đến ùn ùn.

      Thiên Tân có Bắc dựa Yến sơn, Đông giáp Bột Hải, có hồ Bạch Dương, dưới là vịnh Bột, là điểm giao của muôn khúc sông, thực tế chủ yếu chỉ có năm con sông chính, hằng năm đều có ít người chết đuối. Trước khi nhà Thanh hoàn toàn sụp đổ từng thành lập đội chuyên mò xác, đặc biệt chịu trách nhiệm vớt những xác chết trôi sông. Sau này tới thời Dân quốc, đội vớt xác này nhập vào chung với cảnh sát, gọi riêng là “Đội cảnh sát năm sông”.

      Trong xã hội thời xưa, cục cảnh sát ngang ngửa với cửa nha môn, ban đầu đội mò xác này thuộc về cảnh sát sông mà có hơi hướng tự phát do nhân dân tổ chức, mỗi người đều là kiện tướng bơi lội. Chính vì xác chết trôi sông thường rữa nát bốc mùi, gây ô nhiễm tới nước sông, nhìn vào cũng rất ghê rợn, nên dân chúng trong thành có tiền bỏ tiền, có tiền góp sức, mời những người thông thuộc thủy tính vớt xác trôi sông lên. Thế nhưng muốn đảm đương công việc như này, chỉ dựa vào mỗi chuyện thông thuộc thủy tính thôi chưa đủ, còn cần phải vô cùng gan dạ, biết được cách trấn tà.

      Mỗi năm khắp các con sông có hơn trăm người chết đuối, chủ yếu là do thiếu cẩn thận nhảy xuống sông bơi lội mà chết đuối, lại thêm trầm mình tự vẫn, còn có cả những xác chết lai lịch từ thượng nguồn trôi đến, tục gọi là “chết trôi sông”. Lại còn có nhiều tên hung thủ chịu khó bê xác nạn nhân rồi ném xuống sông hủy thi diệt tích, người chết oan như vậy nhiều đếm xuể, khó tránh khỏi có chuyện ma quái xảy ra. Bất kể tại nhìn nhận những chuyện như vậy thế nào, người xưa đối với chuyện quỷ thần đều vô cùng mê tín, phàm là xác chết trôi vớt từ dưới sông lên thường đều đem đến nghĩa trang chôn cất. Mà trách nhiệm trông xác ban đêm cho đến khi đem ra nghĩa địa mai táng, từ đầu tới cuối đều dồn hết về cho đội mò xác. Những người này ngoại trừ thông thuộc thủy tính và to gan lớn mật ra, còn có số biện pháp riêng có thể khu quỷ trừ tà, bằng chẳng còn ai làm được điều như vậy.

      Dĩ nhiên những chuyện như thế đều là những lời mê tín mà thôi. Từ thời Dân quốc tới nay, đội mò xác trở thành “Đội cảnh sát sông Ngũ Hà”, nhưng mà dân chúng vẫn quen gọi họ là đội mò xác, cũng có khi là đội tuần sông, cho đến sau ngày giải phóng mới sửa thành Công an đường thủy. Quyển sách này của chúng ta về ‘Hà thần’, là để chỉ người, người này họ Quách tên Đắc Hữu, là con thứ trong nhà. Quách nhị gia thủy tính giỏi giang hiếm thấy, mặt sông mùa đông đóng băng cứng ngắc, chỉ cần đục băng ra cũng có thể lặn xuống dưới được. Ông ta chỉ là viên chức của đội cảnh sát năm sông, cả ngày tiếp xúc với xác trôi sông, trong mấy chục năm phá vô số vụ kỳ án mà chỉ nghe qua thôi cũng khiến người ta rợn cả người, cũng cứu mạng rất nhiều người sẩy chân rơi xuống nước, bình sinh kinh nghiệm vô cùng phong phú, lại mang mình sắc thái truyền kỳ. Người Thiên Tân thích đặt tước hiệu cho người khác, đọc qua rất dễ nhớ, dễ ghi, cũng rất thuận tai. Người thời ấy khi nhắc tới Quách sư phụ đều gán thêm chữ ‘Hà thần’, dĩ nhiên là khác hẳn với mấy vị thần linh hay Long vương ở Thủy cung.

      Chuyện về ‘Hà thần’ chỉ là chuyện xưa mà lớp người già hay thuật lại. ‘Thủy quái dưới cầu’ chẳng qua cũng chỉ là phần đặc sắc ở trong đó, nội dung hết sức ly kỳ, tình tiết tầng tầng lớp lớp, nghe qua rất dễ khiến người ta há hốc miệng, so với Bình thư còn nghiền hơn. Chuyện ngoài lề chỉ đến đây, trước tiên bắt đầu từ câu chuyện ‘Thủy quái dưới cầu’.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 2: Thuỷ quái dưới cầu

      Lại về trước Giải phóng, vào mùa xuân năm Dân quốc, thầy cả dẫn dắt đội mò xác gặp cố bỏ mình, Quách sư phụ là người sinh ra và lớn lên tại bản địa, quen thuộc con người, càng quen thuộc thổ nhưỡng, vậy nên phải gánh hết trách nhiệm to lớn của đội mò xác lên vai. Lúc ấy cả đội gom lại cũng được mấy người, toàn bộ đều phải cậy nhờ vào công việc có chút thơm tho này mà kiếm miếng cơm ăn. Mọi người còn chưa được tính là cảnh sát chính thức, so với các loại công việc mang tính chất thời vụ bấy giờ cũng chẳng khác là bao, mỗi tháng kiếm được mấy đồng, tiền thu vào thậm chí còn bằng mấy tên chân thối chuyên tuần tra phố, vậy nên bình thường đều phải tìm việc khác kiếm thêm thu nhập để chu cấp cho gia đình. Mà câu chuyện ‘Thủy quái dưới cầu’ của chúng ta xảy ra vào mùa hè năm sau nữa.

      việc xảy ra ở ngay đập cầu phụ cận. Đập cầu ngày xưa là nhằm đến loại đập nước ở gần ngã ba sông, bên cạnh đập là cây cầu lớn bắc qua, được xây vào những năm cuối thời nhà Thanh, có thể cho người và xe qua lại. thực tế đập là đập, mà cầu chính là cầu, đập nước lớn và cầu lớn là hai cái khác nhau, chẳng qua lại nằm rất sát, cho nên mọi người vẫn quen miệng gộp chung lại thành ‘đập cầu’.

      Khi đó thời tiết nóng nực cứ như trong lò lửa, đập cầu sông cả ngày ngựa xe như nước, người đến người , làm ăn mua bán vô cùng tấp nập. Thành Thiên Tân đích thị là cái tụ bảo bồn, nuôi người nghèo nhưng cũng dưỡng người giàu, mà người giàu càng nhiều trộm cắp càng nhiều hơn. Thời bấy giờ thường thường gộp chung ăn trộm và đạo tặc lại làm , trong xã hội cũ hề phân biệt rạch ròi hai thứ này với nhau. Trộm tức là tới loại hành động chuyên móc túi người qua đường, thuận tay lấy vài thứ trong cửa hàng mà trả tiền cũng là trộm, mà đạo tặc còn chia ra thành nhiều loại phức tạp hơn. Có loại phi tặc lợi hại chẳng khác chi khỉ vượn, trèo tường vượt nóc dễ như bỡn, đột nhập trăm nhà viếng thăm ngàn căn hộ, bẻ cửa cạy khóa đánh cắp tài vật. Lại còn có thứ thổ tặc chuyên nhập địa mà đào mồ tróc mả, kiếm lời thân người chết. loại khác chính là thủy tặc, chỉ nghe qua là đủ biết thể nào rời khỏi nước.

      Phía Tây có tên thủy tặc, người tên họ, chỉ có cái nhũ danh gọi là Ngư Tứ nhi, kẻ này phải là đạo tặc giỏi giang gì cho lắm, theo như chuyện thành Thiên Tân kể lại mà còn bằng bãi phân chim. Thế nhưng cũng có câu: ‘Phân chim mà thành tinh, lão ưng cũng phải tức chết’, Ngư Tứ nhi chính là như vậy, bản lãnh lớn nhưng lòng tham , có tài nghệ nào, chỉ biết dệt ‘lưới tuyệt hậu’.

      Trước tiên ta hãy qua chút xem lưới tuyệt hậu là thứ gì?

      Thông thường khi đánh bắt cá sông, người ta đều phải giăng ra tấm lưới, lưới đánh bắt có vòng trúc làm chài, quăng xuống sông lát sau đó kéo lên vậy là có thể vớt được tôm cá dưới sông. Đôi khi có thể bắt được cá, nhưng cũng có khi có gì, kéo lên chỉ toàn là bùn sình rong rêu rác rưởi dưới đáy cũng là chuyện bình thường. Còn thứ lưới tuyệt hậu mà Ngư Tứ nhi tạo ra, sông rộng bao nhiêu lưới rộng bấy nhiêu, ngăn ở giữa sông xong lại dùng cây trúc đóng cọc, lưới cá quấn quanh gậy trúc đến mấy tầng, dùng lưới tạo thành cái mê cung vây tứ phía, chỉ chừa lại lỗ hổng ở bên ngoài. Cá từ thượng lưu bơi xuống, đến trước lưới bị cản lại nên chỉ còn cách bơi vào trong lỗ hổng được tạo sẵn kia, nhưng bơi vào trong lại bị tầng tầng lớp lớp lưới cứ như là mê hồn trận bao vây chặt chẽ, làm cách nào cũng thoát ra được, hơn nữa mắt lưới này rất , cá đến đâu cũng chui lọt, vì vậy mới có tên gọi là “lưới tuyệt hậu”. Chiêu này thực rất độc, cá dưới sông con này nối tiếp con kia, đến thôi, hễ cứ bơi lại đây bị cái lưới tuyệt hậu này bắt lại.

      Ngư Tứ nhi mỗi đêm lén lút đặt lưới, trời còn chưa sáng liền thu lưới lại, sáng sớm bày hàng ra bán, rao cá buổi đêm vừa đánh được, đủ loại cá tôm lớn có hết, bỏ cả vào trong cái thùng gỗ. Nhà nước cấm cho dùng lưới tuyệt hậu để đánh bắt cá, sông thường xuyên có thuyền qua lại, vướng phải lưới rất dễ gặp chuyện may, Ngư Tứ nhi cũng sợ bị người ta bắt được nên thường xuyên chuyển chỗ lưới cá. Vào đêm mây mờ trăng khuất, đợi tối trời liền đến dưới đập cầu đặt lưới, xong xuôi đâu đó cũng là nửa đêm, liền mình ngồi cạnh cầu hút thuốc lá.

      Lúc này có người kéo xe, mới vừa đưa khách xong nên quay xe trở lại, vừa khéo cũng ngang qua cầu. Người kéo xe này biết Ngư Tứ nhi, hai người là láng giềng lâu năm nên cũng có lòng với : “Dưới đập cầu nước sâu, ban đêm thường xuyên có người nhìn thấy thủy quái dưới chân cầu, hai mắt của nó cứ như là hai ngọn đèn đường vậy. Nghe mấy năm trước có trầm mình xuống sông, tới nay còn chưa tìm thấy xác, ngày thường mọi người cũng dám bơi ngang qua khúc này, ông cẩn thận chút.”

      Ngư Tứ nhi phun nước bọt: “Mẹ ngươi, chớ có hù ông Tứ này, Tứ gia đây lưới cá nhiều năm như vậy, còn chưa từng thấy cái sông này có cái giống gì khác lạ, nếu đánh trúng cái xác con gì đó , Tứ gia cũng ôm luôn về làm vợ trong nhà, ít ra cũng có thể “vui vẻ” chút chứ sao.”

      Người kéo xe kia mượn chuyện tiến tới xin Ngư Tứ nhi điếu thuốc, hai người ở cầu, câu tôi câu, chuyện trò qua lại.

      Ngư Tứ nhi hỏi: “Hôm nay ông làm cái khỉ gió gì mà trễ như vậy mới về? sợ vợ ông ở nhà “ăn vụng” hay sao?”

      mặt người kéo xe lộ ra vẻ đắc ý: “Hôm nay kéo tốt, được khá nhiều tiền, tuy nhiên đường cũng hơi xa nên lúc này mới xong việc.”

      Ngư Tứ nhi tin: “Lấy cái gì mà ra nhiều tiền? Cái xe kéo rách nát của ông mà cũng làm ra tiền được sao?”

      Người kéo xe mắng lại: “Tiên sư thằng trâu bò, cứ làm như ông kiếm được nhiều tiền lắm vậy, lo mà đánh cá của ông .”

      chuyện hồi, Ngư Tứ nhi cũng cảm thấy muốn về nhà chợp mắt, quá nửa đêm lại tới đây thu lưới. Nhưng lúc này lại nghe mặt sông có động, hệt như có người lắc lư mấy cây trúc chống lưới vậy. Hai người liền nghi hoặc, đứng dậy nhìn về phía dưới cầu. Mặt sông dưới cầu tối đen mảng y như mực, chỉ có thể nhìn thấy mấy cây trúc cắm dưới sông ngừng đung đưa, Ngư Tứ nhi mừng quýnh, đúng là tóm được cá lớn rồi, chỉ vùng vẫy thôi mà cũng khiến cả lưới phải rung chuyển, giống này nhất định thể .

      Những năm đầu của thời Dân quốc từng có người bắt được con ba ba lớn hơn cả cái cối xay ở ngay ngã ba sông, Ngư Tứ nhi thầm nghĩ: “Có thể là ba ba lớn dưới sông, nghe đầu ba ba có mụn thịt, đem giã lấy nước rồi dùng để rửa mắt khiến mắt sáng ra, người mù dùng nó liền có thể nhìn thấy đường. đến lúc Tứ gia đổi đời, ngày hôm nay phát tài con mẹ nó rồi!”

      Nghĩ tới đây, vội vàng kêu người kéo xe đến phụ tay. Hai người ở cầu kéo lưới, lúc này trời tối mịt, kéo hết lưới cá lên cầu lớn rồi mà vẫn thấy trong đó bọc lấy cái gì, chỉ biết thứ đó to kềnh cục, nhìn hình dáng phải cá lớn mà cũng chẳng là ba ba gì sất, lại dường như có cả tay lẫn chân, bốc lên mùi hôi thối nồng nặc như cá chết, thể nào ngửi nổi.

      Người kéo xe gan bé, đến lúc này cũng có chút sợ, với Ngư Tứ nhi: “ Tứ, làm gì cứ làm nha, vợ em còn ở nhà đợi cửa chờ em về, trời còn sớm, em xin phép trước bước…”

      Miệng , người quay đầu muốn bỏ chạy.

      Ngư Tứ nhi tặc đảm bao thiên, vung tay tóm lấy người kéo xe, lại thấy trước tay xe kéo có treo chiếc đèn bão, thuận tay vơ luôn rồi : “ đâu? Mượn cái đèn bão của ông, tôi phải nhìn cái xem thử vớt trúng cái gì dưới sông mới được.”

      Người kéo xe vốn muốn cho mượn nhưng lại nhanh tay bằng Ngư Tứ nhi, thế là chẳng còn cách nào khác bèn phải cùng . Hai người mò tới gần, dùng đèn bão soi lên tấm lưới cuốn lấy thứ kia, nhưng ngặt nỗi lưới cá bọc quá kín, mở ra căn bản chẳng thể thấy gì bên trong được. Ngư Tứ nhi cũng dám mở lưới ra hết, chỉ vạch ra chút rồi nhìn vào, vừa thấy, liền sợ hãi kêu lên thất thanh: “Ối cha mẹ ơi, là xác đứa trẻ!”

      Ngư Tứ nhi giăng lưới tuyệt hậu ở ngã ba sông, đêm hôm khuya khoắt đánh lên được xác của đứa bé. Đứa bé này lớn, cả người đen thui, thoạt nhìn giống y chang con khỉ lông dài. Nhưng người kéo xe kia sợ hãi ngớt, đây còn phải là khỉ nước dưới sông Hải Hà hay sao?

      Nghe dưới Hải Hà có khỉ nước, giống quái vật này khi trưởng thành mang hình hài như đứa trẻ, cả người toàn là lông, sau mông còn có cái đuôi, thi thoảng lại lên bờ, rất sợ ánh sáng và những thứ phát sáng, khi ở trong nước rất khỏe, nắm được cổ chân người liền lôi hề lơi tay, khiến nhiều người giỏi bơi lội cũng phải chết đuối.

      Đọc đến đây chớ có lửa làm sao có khói. Tôi là tôi vẫn tin, vẫn cảm thấy Hải Hà thể nào có khỉ nước được. Nếu quả như có cái giống này , vậy lịch sử sinh vật ắt phải viết lại rồi. Tôi còn nghe người thầy làm cảnh sát đường thủy của mình thuật lại chút, mới biết được chuyện này phải là bịa ra cho có, Hải Hà quả có khỉ, nhưng hề giống trong tin đồn chút nào. Lại tới câu cửa miệng: “ có lửa làm sao có khói”, suy xét lại từ đầu, căn nguyên rốt cuộc là xảy ra chuyện gì?

      Cũng phải tới trước thời Giải phóng, quả thực có người phát được thi thể quái vật ở Hải Hà. Cái thi thể ấy mang hình dáng tương tự như đứa trẻ, có tay có chân, toàn thân mọc đầy lông mao, phía sau mông có cái đuôi dài, nhìn vào biết ngay chính là con khỉ. Ai ai cũng , dưới sông chẳng thể nào có khỉ được, dân chúng nghe nhầm đồn bậy, đều gọi quái vật kia là khỉ nước, còn bảo là do trẻ nít chết đuối dưới sông biến thành. đồn mười, mười đồn trăm, câu chuyện về khỉ nước càng lúc càng trở nên quái dị, thậm chí còn có tờ báo đăng lên tấm ảnh chụp, đúng là khiến cho người ta muốn tin cũng xong.

      Thực tế cái thi thể vớt lên được ở Hải Hà kia là khỉ quả sai. Nhưng nó vẻn vẹn chỉ là con khỉ hết sức bình thường mà thôi, chứ chả phải là cái giống khỉ nước phải gió gì cả. Trước đó có gánh xiếc lưu động biểu diễn dọc đường nơi đây, có dắt theo mấy con khỉ diễn trò kiếm ăn, nhưng con trong số ấy biết ăn nhầm cái gì mà đời nhà ma rồi. Đoàn trưởng gánh xiếc bấy giờ mới bảo đem xác nó ra bãi tha ma cho chó ăn, tất nhiên là ai dựng mộ bia cho con khỉ chết được, mà vị nghệ nhân được sai vứt xác khỉ kia cũng là thất đức, vì muốn việc mà ném thẳng xác con khỉ xuống sông. Hai ngày sau, xác con khỉ dưới sông Hải Hà được vớt lên, những người chứng kiến khỏi ngạc nhiên quá độ, chẳng hiểu rốt cuộc cái giống này trôi từ đâu tới, mà cũng chính vì thế nên mới phát sinh ra vô số lời đồn đãi. Sau này cho dù nhà nước giải thích ra sao ra, trình độ dân trí còn kém, người người vẫn cứ tin rằng dưới sông Hải Hà có khỉ nước .

      Người kéo xe vừa nhắc, Ngư Tứ nhi cũng liền nhớ ngay tới tin đồn về khỉ nước, hai thằng sợ tới mức ngay cả đèn bão cũng quăng, giữa đêm khuya mịt mờ mà chạy thẳng đường về nhà. Chạy được nửa đường đụng phải đội cảnh sát tuần đêm, còn bị nghi là trộm cắp nên bắt mất. Nếu phải hạng người làm chuyện xấu lúc nửa đêm, vậy tối mờ tối mịt thế này rồi còn chạy đâu? Cảnh sát tuần tra trước tiên lôi hai tên này ra đánh trận, sau lại ép hỏi cả hai gây án ở chỗ nào? Ngư Tứ nhi kêu cha gọi mẹ, mở mồm xin tha rối rít, lại đem chuyện mình giăng lưới ở ngã ba sông đánh trúng khỉ nước thuật lại lần, người kéo xe có thể làm chứng.

      Cảnh sát hỏi qua tình huống xong, liền lôi hai người trở lại cầu làm , khi ấy trời cũng tờ mờ sáng rồi. Nhờ trời sáng nên mới nhìn ra được thứ nằm trong lưới cá, đúng phải khỉ nước, mà quả thực chính là xác của đứa bé, chẳng qua người nó dính ít rong rêu bùn lầy. Ngư Tứ nhi mới đầu có nhìn nhầm, tất cả chỉ tại tên kéo xe ở bên cạnh gào to mới khiến cho đầu óc mụ mị, vả lại lúc đêm đen nhìn thấy , liền lầm tưởng rằng vớt phải quái vật khỉ nước , suýt chút nữa gan mật cũng bị dọa đến nát bét.

      Đợi đến hừng sáng, mọi người mới thấy đứa trẻ chết sình này, đoán chừng là do bị rong rêu dưới đáy sông quấn chặt nên mới nổi lên được. Thi thể lâu nên chuyển sang màu xanh như rong tảo, mặt mũi khó lòng phân biệt, vẻn vẹn chỉ có mỗi hình dáng là còn nhìn ra được đôi chút, dưới bốc lên mùi hôi tanh khó ngửi, cũng hiểu vì sao còn chưa rữa nát. Cảnh sát nhận định phải do Ngư Tứ nhi và người kéo xe sát hại nên chỉ lấy khẩu cung qua loa, lập hồ sơ vụ án, hạch thêm ít tiền, thấy còn xơ múi được gì mới thả hai người . Xác chết trôi sông Hải Hà quá nhiều, vô số người chết trôi mà có ai tới nhận thân, trong đó có ít xác trẻ em, phần bị sinh non, phần do cha mẹ nó sinh ra nhưng nuôi được. Những chuyện như thế từ bấy tới giờ vẫn là dân bất lực, quan màng truy xét, phía dưới người nào báo án, bên càng mừng rỡ mà giả vờ hồ đồ. Tử thi là vớt lên từ dưới sông nên cứ theo như luật cũ, giao hết cho đội tuần sông xử lý. Chính quyền phái người đến tìm Quách sư phụ ở đội tuần sông, bảo ông ta quấn chiếu cho thi thể đứa , cột dây hai đầu rồi mang ra nghĩa trang lo liệu. Thế nhưng việc vừa tới tay liền nóng hổi, chính vì xảy ra quái rồi!

      Theo như phong tục địa phương chết đuối được nhập đất, chết vì nước thuộc về dạng chết yểu chứ phải chết già nên nhất định phải hỏa thiêu thành tro, gom hết vào trong lọ rồi mới có thể hạ táng. Mà cũng được hỏa táng liền ngay, theo như quy củ phải đặt ở nghĩa trang mấy ngày, lỡ như có người nhà đến báo án nhận xác còn có đường mà xác minh thân phận của người chết. Chẳng qua mùa hè khí trời oi ả khiến tử thi càng bốc mùi nồng nặc, ai chịu nổi, thế là thứ quy tắc này liền trở nên vô dụng.

      Nghĩa trang cũng tương tự như nhà tang lễ bây giờ, nghĩa trang mà đội tuần sông sử dụng gọi là nghĩa trang miếu Hà Long, chỗ này ở ngoài cửa Tây, vị trí tương đối vắng vẻ. Trong miếu có bức tượng Long Vương gia nặn bằng đất, khoác áo vảy kim tuyến, thân người đầu rồng, dân gian vẫn hay gọi là ông Long Ngũ, là Quảng Tế Long Vương chuyên cai quản sông nước Trường Giang và Hoàng Hà. Quảng Tế Long Vương xếp hạng thứ năm trong các Long Vương, chính vì thế người ta mới xưng là ông Long Ngũ. Tại quải Nguyệt Phong Bàn Sơn ở huyện Kế có ngôi Vân Tráo tự, chính là chủ miếu của Quảng Tế Long Vương do hoàng đế sắc phong, nhang khói cực thịnh, truyền thuyết vô số. Long Vương là vị thần phù hộ cho dân gian mưa thuận gió hòa, mà ngôi miếu Long vương ngoài cửa Tây này còn có câu chuyện về Hạn bạt vẫn được lưu truyền trong dân gian.

      Quách sư phụ từng nghe thầy mình kể lại, ngay từ mấy trăm năm trước, thời còn chưa có thành Thiên Tân, nơi đây từng xảy ra trận đại hạn hiếm thấy. Nông dân kiếm cơm từ đất, sợ là sợ trời già ban mưa, năm đó hạn hán khó lường, chín chín tám mươi mốt ngày giọt mưa buông xuống, đất đai cũng nứt nẻ ra rồi, hoa màu khô héo, hạn đến mức cây cối bốc ra khói, sỏi đá phun ra lửa. Các thôn trang xung quanh sầu lo hết cách, thể làm gì khác hơn là mời thầy phong thủy về xem. Thầy phong thủy chỉ cần nghe , cần đến tận nơi quan sát mà cũng biết ngay là do cương thi trong ngôi mộ biến thành Hạn Bạt, vừa mới chạy tới thực địa quan sát, nhìn xuống liền khỏi sợ hãi, nơi này khí quá nặng, quả nhiên trước nay chưa từng thấy qua, có thể đơn giản chỉ là Hạn Bạt như vậy, cương thi biến thành thi ma, ai hàng phục được nữa rồi!

      Thôn dân vì tìm đường sống, đành phải dựng lên ngôi miếu tế bái Hạn ma đại tiên, còn chuẩn bị cả đồng nam đồng nữ để tế sống. Đồng nam đồng nữ là do rút thăm mà ra, con nhà ai bốc trúng xem như là xui xẻo. Trong thôn có bà lão quanh năm ăn chay niệm Phật, cháu bà bất hạnh bị chọn làm vật tế sống, bà lão tuy đành do cháu còn quá , nhưng cũng thể nào tránh khỏi, vì vậy mình ở trong phòng bái Phật cầu thần, khóc đến mù cả mắt. Đến đêm, bỗng nhiên lại mơ thấy người tự xưng là ông Ngũ tìm tới tận cửa nhà, khuyên bọn họ nên dùng đồng nam đồng nữ tế bái Hạn ma đại tiên, ngày mai trận giông tố sấm sét, đó cũng chính là lúc ông ta tới bắt thi ma. Nhưng vẫn biết tay vỗ khó nên kêu, vậy nên có hai chuyện muốn cậy nhờ. Thứ nhất là mượn tiếng chiêng tiếng trống của mọi người mà tăng phần uy thế, thứ hai là, thể giết Hạn ma kia được…, bởi vì máu người con thi ma này có thể truyền dịch bệnh, khi giết thi ma khiến người và vật trong vòng trăm dặm đường sống sót, chỉ có thể dùng dây thừng ở giếng nước đầu thôn nhằm trói gô nó lại. Sợi dây thừng kia vắt qua ròng rọc kéo gàu múc nước, biết dùng bao nhiêu năm, bao nhiêu đời rồi mà chẳng hề sứt mẻ tí nào, thế lại còn tinh tươm hệt như mới, có thể thấy đây chẳng phải vật phàm. Việc họ cần làm là phải tháo dây thừng ra trước, để ông Ngũ cầm dây trói thi ma. xong, người tự xưng là ông Ngũ liền biến mất, còn thấy tăm hơi.

      Bà lão tỉnh giấc, đem chuyện này kể lại cho thôn dân, mọi người bán tín bán nghi, chần chừ luôn mãi, cuối cùng cũng quyết định làm theo lời bà lão . Vừa mới qua ngày hôm sau, tiếng sấm nổ rền rĩ bỗng đột ngột vang lên mà chút dấu hiệu báo trước nào, phòng ốc chấn động, rung lên bần bật, kế đó là cuồng phong gào thét, mưa to tầm tã. Những thôn dân gan to mật lớn thò đầu nhìn lén ra bên ngoài, thấy con rồng trắng dài hơn chục trượng bên trong tầng mây đen phủ kín cả bầu trời, thân rồng quấn lấy con quái vật đầu sừng, toàn thân mọc kín tầng lông đỏ, ngay cả cặp mắt cũng đỏ lòe lòe hệt như hai ngọn đèn lồng. Thôn dân vội vàng khua chiêng gõ trống reo hò trợ uy, đất trời xám xịt, phải qua hơn canh giờ sau, Hạn ma đại tiên mới bị dây thừng trói chặt, lại bị tia sét đánh văng thẳng vào cái giếng khô đầu thôn. Nhưng sau đó đất trời rung chuyển, giếng cạn sụp xuống, bị lấp bằng, bọn họ đến giờ mới nhận ra ông Ngũ phải người thường mà chính là Quảng Tế Long Vương gia hiển linh! Kể từ đó lập miếu Long Vương ngay miệng giếng sập, thay nhau thắp nhang cúng bái, hương hỏa dứt.

      Miếu Hà Long có nguồn gốc từ đây, thuộc về loại truyền thuyết lưu truyền trong dân gian, đến thời Dân quốc hương khói liền tắt, tượng ông Long Ngũ tuy vẫn còn tồn tại nhưng những kiến trúc liên quan đều mất sạch, chỉ còn gian điện thờ lớn là sót lại, chung quanh mọc lên vô số nhà dân. Tới năm 1923, nơi đây trở thành nghĩa trang, đội tuần sông vớt được xác chết trôi phần lớn đều đem tới để, thầy dạy của Quách sư phụ có biết chút ít đạo thuật nên thường xuyên thay người nhà nạn nhân lo việc tang lễ, còn biết xem mồ soi mả, các loại trạch dương trạch, ngoài ra cũng là tay làm đồ vàng mã vô cùng giỏi. Bình thường thầy trò hai người đều ở lại ngôi miếu nát, gian điện trước ngăn ra thành hai phòng làm cửa hàng vàng mã, hậu điện xem như nghĩa trang, sau khi thầy cả già rồi qua đời nơi đây cũng chỉ còn lại mình Quách nhị gia. Thu nhập từ việc vớt xác và trông coi thi thể người chết được nhiều cho lắm, cho nên ngoại trừ những lúc đến đội tuần sông làm việc vặt, ông ta đều trở lại nghĩa trang miếu Hà Long làm vàng mã, tay nghề của Quách sư phụ vô cùng tốt, người giấy ngựa giấy do ông ta làm ra trông cứ như là vậy.

      Ngày đó ở ngã ba cửa sông vớt được thi hài đứa bé, Quách sư phụ vẫn làm như thường lệ, đem thi hài mang về nghĩa trang, khi tối trời liền xảy ra chuyện.

      Câu chuyện mà chúng ta kể đến, thể cho chính xác là vào ngày nào tháng nào năm nào nữa rồi, đại khái chỉ biết là vào khoảng hai mươi tám tháng sáu lịch. Dân gian thường hai mươi tám tháng sáu lịch, lão Lý cụt đuôi về nhà khóc giỗ mẹ. Tương truyền trước kia có người đàn bà họ Lý sinh ra con rắn đen , sau đó đóng cửa cắt mất đuôi rắn. Mà con rắn đen này vốn là rồng đen dưới sông Hắc Long đầu thai, cũng chính là lão Lý cụt đuôi mà mọi người vẫn nhắc, sau khi người đàn bà này mất rồng đen cũng biệt tăm, mỗi năm đến ngày hai mươi tám tháng sáu lịch, lão Lý cụt đuôi mới về khóc thăm mộ mẹ lần. Mấy bữa trước đúng là mưa dầm ngớt, nhưng hôm đó mưa mà sắc trời chỉ u nặng trĩu, sau khi về tới nghĩa trang cũng đến lúc lên đèn.

      Vài ngày nay nghĩa trang có người chết, Quách sư phụ dùng xe đẩy xác đứa bé vào phòng trong, gian phòng này cũng chính là nửa phần sau của đại điện thuộc miếu Hà Long thuở ấy. Thi thể được đặt lên giường đá, chiếu manh mở ra mà trước tiên thắp đèn rồi đốt thêm hai nén nhang ở cạnh đầu. Theo thuyết pháp mê tín dị đoan, quỷ đói ngửi mùi nhang có thể đỡ xót ruột, cho người chết nén nhang cũng tức là cho hồn dùng bữa, ông ta thương cho đứa trẻ chết yểu, lúc thắp nhang còn cố ý đốt thêm nén.

      Bận bịu lo chuyện người chết xong cũng tới lúc người sống dùng cơm rồi. Mọi người vẫn gọi Quách sư phụ là Quách Nhị gia, người ở thành Thiên Tân đặc biệt coi trọng hai chữ Nhị gia, gặp ai quen biết vẫn cứ gọi là Nhị gia hoặc Nhị ca, còn những người vốn quen biết dựa vào ngôi thứ trong nhà mà xưng hô cho tương xứng, từ cả Nhị gia, kế đến là Tam gia, Tứ gia rồi sau nữa.

      Quách sư phụ phải Nhị gia mà chỉ là con thứ trong nhà, cả nhà ông ta ở trong phòng này đây. như vậy có thể khiến cho người ta cảm thấy sợ, như Quách sư phụ chỉ ở nghĩa trang có mình, vậy từ đâu bỗng lòi ra thêm người ? Còn sống hay là chết?

      Thực ra cả của Quách sư phụ chỉ là con búp bê đất sét xíu. Cái gọi là búp bê cả này, theo như phong tục của xã hội cũ, vợ chồng sau khi kết hôn thời gian lâu mà vẫn chưa có con có thể đến miếu Mẹ tổ cầu tự. bàn thờ Thiên Hậu nương nương có rất nhiều búp bê con nít, toàn bộ đều được nung kỹ, tướng mạo giống nhau, có lanh lợi hoạt bát, có ngây thơ đáng , vợ chồng cầu con đưa đủ tiền nhang đèn, chọn xong búp bê rồi buộc dây đỏ lên mang về nhà nuôi như con của mình. Sau này nếu như có thể sinh con, vậy búp bê con nít làm con cả, đứa mới sinh là con thứ, phải gọi búp bê là . Rồi cách vài năm phải tắm rửa cho búp bê con nít lần, sau đó còn phải mời nghệ nhân về thay quần áo cho nó, dung mạo cũng phải thay đổi dần cho hợp tuổi tác, thậm chí còn phải cưới vợ cho cả búp bê, tức là rước thêm em búp bê con nít thuộc nữ giới vào nhà, đặt cùng chỗ, ghép thành cặp. Tại vì con cái trong nhà có hai đứa, nếu như cả còn chưa cưới, em thứ lại thành thân trước hợp với quy củ cho lắm.

      Như thời buổi ngày nay mấy ai tin, nhưng đặt vào xã hội ngày đó lại có rất nhiều, mặt khác, cũng vì năm này nối tháng nọ, cả búp bê do thường xuyên tiếp xúc với khói lửa nhân gian nên khó tránh khỏi làm dấy lên số chuyện lâm ly kỳ quái. Lớp người già khi đó vẫn thích kể về những chuyện đại loại như con búp bê cả mà tôi nuôi ở nhà đấy, nửa đêm nó bật sống dậy ăn vụng cơm …

      Quách sư phụ cũng có vị đại ca búp bê như thế, cha mẹ ở nhà mất sớm, từ xem người búp bê này như ruột, mỗi lần về nhà đều chào em mới về, khi ăn cơm cũng quên đặt cho hai đôi đũa, ban ngày gặp chuyện gì thoải mái hoặc khó xử, phân biệt chuyện tốt hay là xấu, cứ về nhà lại tỉ tê cùng với mình. Hôm nay cũng như thường lệ, cơm nước với trai búp bê xong sắc trời tối mịt, trời đêm oi bức mưa, ông ta dọn bát đũa xong quay người nhìn lại, đột nhiên phát ông búp bê ở bàn biến mất.

      Quách sư phụ lúc ấy tuổi trẻ gan lớn, bản tính nhân nghĩa chính trực, trời sinh bầu nhiệt huyết, làm việc trái với lương tâm nên sợ quỷ tìm đến cửa, nếu sao lại dám mình trông coi nghĩa trang? Lại bữa này đúng là gặp quái , trai búp bê được đặt bàn cơm, dùng xong cơm nước thu dọn bát đũa, vừa tính quay qua loay hoay với mấy món vàng mã tiếp, ấy thế mà ngoắt cái bàn trống . Tuy ngày nào Quách sư phụ cũng chuyện với cả búp bê, nhưng chẳng qua cũng chỉ để giải khuây mà thôi, lẽ chỉ có thế mà búp bê con nít này cũng thành tinh được sao?

      Ông ta nghĩ nghĩ lại, trai búp bê đúng là vẫn được để ở bàn, thể cứ mất là mất liền được. Nhìn ra cửa phòng vẫn đóng kín, dẫu mọc cánh cũng chẳng thể nào bay ra ngoài, vậy nên mới bắt đầu lần mò tìm khắp phòng. Nhưng lật tung các thứ mà mãi chả thấy bóng dáng đâu, ngờ trong lúc vô tình ngẩng đầu lên, bỗng phát giác búp bê con nít nằm sấp nóc tủ, mặt hướng xuống dưới, nhúc nhích.

      Quách sư phụ thầm bực trong lòng, trước giờ chưa từng xảy ra chuyện kỳ quái như này, dù cho búp bê có thành tinh tác quái , nhưng khi trèo lên nóc tủ làm được cái cóc khô gì? Ông ta tự trấn an bản thân, cho rằng phải nhớ lầm cũng là do hoa mắt, nhưng tuy ngoài mặt vậy, còn trong lòng chột dạ, ắt hẳn là phải có duyên cớ chi đây.

      Nhất thời nghĩ mãi ra, lại đặt trai búp bê lên chỗ cao nhất trong phòng, thèm động chạm gì nữa rồi tự nhủ: “ muốn làm gì đó làm.” Xong thắp đèn, ra ngoài dò xét chung quanh nghĩa trang. Khí trời vừa bí vừa nóng, mùi xác thối trong nghĩa trang về đêm càng lúc càng nặng, nặng đến mức bịt mũi rồi vẫn chịu nổi.

      Ông ta lại nghĩ đến chuyện thể đợi đến sáng, khí trời quá oi, nên thiêu hủy thi hài đứa bé này ngay trong đêm. Thế nhưng tử thi được quấn chiếu vẫn ướt nhẹp, nước chảy ròng ròng, có muốn đốt cũng chẳng tài nào cháy. Nghĩa trang có “Luyện nhân hạp”, tức là hộp đồng có hình người, trước đây là đồ trong miếu, đưa tử thi vào hộp rồi bắt đầu thiêu, tuy rằng thể hoàn toàn đốt ra tro, nhưng chỉ cần hóa thành than là có thể cho vào bình đựng tro cốt được rồi. Chẳng qua cái thứ ấy thể nào thiêu xác ướt, cho nên phải đốt chậu than, hong khô thi thể trước cái . Quách sư phụ chuẩn bị chậu than xong xuôi, mới vừa quẹt lên que diêm, từ ngoài cửa bỗng thổi tới cơn gió lạnh, que diêm trong tay liền phụt tắt, lại quẹt thêm que nữa, nhưng làm sao cũng chẳng cháy.

      Diêm que nối tiếp que, nhưng que nào cháy nổi, hình như cái hộp diêm này bị ẩm mất rồi, tay ôi thôi nhóp nhép toàn là nước, ngoài trời u mưa, ấy thế mà lại cảm thấy ẩm thấp lạ kỳ, vách tường xuất từng vệt từng mảng thấm, đưa mắt hướng lên , dường như cả bức tường cũng có thể trào nước ra bất cứ lúc nào. Ngay sau đó, phong bỗng nổi lên tứ phía, luồng gió thổi về hướng nhất định mà chốc thổi về tây, hồi thổi về nam, cứ như là lượn vòng xung quanh nghĩa trang miếu Hà Long vậy.

      Quách sư phụ sởn hết cả tóc gáy, da gà người nổi lên từng đợt, cái lạnh như ngấm từ trong ngấm ra, chuyện nhóm lò than cũng màng nghĩ đến, thầm nhủ: “ lẽ gặp ma rồi?”

      Thầy cả năm đó có để lại bức tranh Quan đế, chính là bức “Quan công đọc kinh Xuân thu”, vẽ Quan công đầu đội mũ khôi màu tía, mình khoác chiến bào, tay cầm kinh Xuân thu, tay vuốt năm chòm râu dài, mắt ánh thần quang, đúng thực là uy phong lẫm liệt. Mà bên cạnh Quan công còn thắp ngọn nến, trái phải hai bên là Quan Bình cầm đại ấn và Chu Thương nâng Thanh Long Yểm Nguyệt đao đứng hầu, sau lưng Quan công còn có con ngựa Xích Thố, bốn vó sinh phong, nóng lòng chờ bôn tẩu. Bức họa sống động y như , lột tả Quan công này vẫn được treo trong nghĩa trang, đối diện với cửa lớn ra vào. Nghe Quan công có thể trấn trạch trừ tà, miếu Hà Long được tu sửa thành nghĩa trang lâu, nhưng vẫn chưa từng phát sinh ra chuyện ma quỷ quấy phá bao giờ.

      Quách sư phụ ngẩng đầu thấy bức tranh Quan công vẫn còn treo chỉn chu giữa phòng, nghĩ bụng: “Đúng lý mà , mình chưa từng làm ra chuyện gì trái với lương tâm, hồn dã quỷ nên tìm tới mình mới phải. Hơn nữa còn có tranh Quan công treo tường để trừ tà, dù có là ma quỷ cũng chẳng dám tiến vào đây. Thấy lạ mà lấy làm lạ, lạ đến đâu cũng chào thua!” Có mê tín hay để sau hẵng , chỉ biết ý nghĩ này vừa xuất trong đầu, ý chí liền trở nên kiên định ít nhiều, cũng dám nghĩ ngợi gì nữa mà ngồi xuống dưới ánh đèn làm người nộm, vừa hát hai câu dân ca để khỏa lấp.

      Từ lúc lên đèn cho tới canh năm trời sáng, ngồi trong nghĩa trang miếu Hà Long đêm, nghe được gà gáy ở phương xa rồi, tảng đá lớn trong lòng Quách sư phụ mới được gỡ xuống. Lại nhìn vết nước thấm ước chừng phải cao hơn đầu người vẫn còn in tường, chăn đệm trong nhà toàn bộ đều ướt nhẹp, cả bức tranh tường cũng mờ nhòe hẳn , đúng là tiếc thay cho bức họa Quan công này.

      Đến giờ ông ta mới chợt hiểu ra, trai búp bê trốn nóc tủ là bởi vì sợ bị ướt, nhưng mà trời mưa dột, làm sao trong nhà lại ướt hết trơn như vậy? Chẳng lẽ đêm qua có ma da dưới sông tìm tới cửa, muốn vào trong phòng nhưng do sợ tranh Quan công nên dám? Mà vấn đề là ma ở đâu ra?

      Đầu óc Quách sư phụ xoay chuyển mau lẹ, ngồi trong phòng bắt đầu suy ngẫm về chuyện này, nhưng càng nghĩ càng thấy hợp lý, cảm thấy quá nửa là có liên quan tới cái xác của đứa bé kia. Trời sáng rồi cũng màng cơm nước mà vội vã ra ngoài, vào thành tìm mấy người của đội tuần sông đến hỗ trợ lặn xuống chân cầu lớn ở ngã ba sông. Ông ta cho rằng dưới sông còn có thứ gì đó, ra chẳng có ai tin, nhưng người trong đội mò xác toàn bộ đều nghe theo lời Quách sư phụ. Mấy người chia ra vịn vào cây sào dài mà lặn xuống dưới sông dò tìm, lần mò thước rồi lại thước sâu, nếu dưới đáy sông có vật gì lạ, chỉ cần dùng tay cảm nhận là cũng có thể biết được. Từ lúc trời vừa rạng sáng cho đến giữa trưa, phát ra thêm xác của ở dưới đáy, nhưng bất kể là ai cũng vớt lên được, người chết cứ như là mọc rễ dưới sông luôn rồi vậy.

      tại là ban ngày, xung quanh đầy rẫy những người rãnh rỗi tò mò tới xem náo nhiệt, dân chúng vừa thấy vớt được xác dưới đáy sông lên liền tranh nhau sang vây xem, người câu tôi lời, bàn tán xôn xao. Trước kia thường xuyên vớt được xác dưới sông Hải Hà, nhưng xác nam vẫn chiếm phần lớn, vì đa phần đều là người bơi bị chết đuối, mà đàn bà con rất ít khi xuống sông bơi lội. Trong xã hội cũ, phụ nữ bơi sông đúng là chả ra cái thể thống gì, chính vì thế xác chết nữ dưới sông Hải Hà mới nhiều lắm. Nhưng nhiều có nghĩa là hề có, khi dưới sông có xác chết nữ nhân thường thường là do giết người vứt xác hoặc là nhảy sông tự vẫn. Những chuyện như vậy lan truyền đặc biệt nhanh, chả mấy chốc mà người ta bu lại chật kín cả bên bờ, người có vóc dáng bé ở phía sau nhìn thấy gấp đến độ cố nhón nhảy cao, thậm chí lại còn có kẻ leo lên cả nóc nhà để quan sát. Các cậu thành Thiên Tân ngày đó thích nhất là ra đường gặp chỗ náo nhiệt, dù trong nhà có việc gấp đến đâu cũng phải xem cho rồi mới thèm về nhà.

      Đội tuần sông có mấy người xuống nước, cầu còn có người dùng dây thừng cột móc thả xuống kéo, tốn sức hơn nửa ngày, cuối cùng mới có thể khiến xác chết nữ này nổi lên mặt nước. Tất cả mọi người, trong đó có cả Quách sư phụ đều cảm thấy kỳ quái, vì sao thi thể dưới sông lại nặng đến như thế?

      Đội tuần sông vớt thi hài của này lên rồi cẩn thận quan sát lượt, khắp thi thể bị rong rêu mọc dài bao phủ, bóc mãi ra, toàn bộ như dính liền làm với cái xác. màu xanh thẫm của rong rêu phủ kín thân da thịt cứng như sắt ở bên dưới, tử thi khô cứng, mặt mũi khó lòng phân biệt, chỉ biết nhìn qua cực kỳ đáng sợ. Càng ghê rợn hơn là, người con này còn bị trói gô, dây chão gân bò thắt nút chết, lại do ngâm nước quá lâu nên càng xiết chặt, có muốn cắt cũng cắt xong, lưng ta còn cột theo khối sắt lớn có hình thù quái dị nên mới chìm sâu ở dưới đáy thể nổi lên . Đội tuần sông buộc phải khiêng cả khối sắt lên cùng.

      Đám người vây xem tận mắt chứng kiến quá trình vớt xác, phàm là người thấy được bộ dáng của này, ai là sợ. Hình dáng kia căn bản nhìn giống như người chết, mà quả thực là quái vật toàn thân phủ lông xanh, chuyện này lại càng rền vang, nhà nhà thắp hương dán bùa cầu an. Những hộ buôn bán giàu có hay làm việc thiện trong thành đều góp tiền mời sư tăng về lập đàn tụng kinh ngay ở đầu cầu. Theo những lời mê tín ngày trước, oan hồn chết đuối thường muốn tìm người thế thân. Ví dụ như có người chết đuối bỏ mình, hồn chết oan thường bất tán, đến được phủ nên trở thành ma da, bị vây khốn ngay tại chỗ chết đuối. Ban ngày bị ánh nắng mặt trời chiếu vào, ma da dưới đáy sông có muốn nhúc nhích cũng được, trời mưa cảm giác như vạn tiễn xuyên thân, gió nổi lên như bị dao găm cắt thịt, tình cảnh cực kỳ thê thảm. Hễ có ai tới sát mép sông, ma da lôi tuột người đó xuống, cho dù người bị ma da kéo có biết bơi cũng bị tóm chặt cổ chân mà lôi thẳng, giãy dụa cũng thoát mà ngộp nước đến chết. Ma da làm như vậy là để tìm người thế chỗ, khi đó nó mới có thể đầu thai, để lại kẻ mới chết ở lại đáy sông chịu tội thay.

      Quan niệm mê tín dị đoan trong xã hội ngày trước ăn vào lòng người rất sâu, cho rằng ma da mỗi năm đều tìm người thế thân nên thường đem chuyện người chết đuối dưới sông mà quy hết vào lý do ấy cả, vậy nên mới chỗ nào có người chết đuối là chỗ đó có ma da, nhưng xác trôi sông khác. Bởi vì biết người chết trôi là chết ở chỗ nào, cho nên mới phải mời sư tăng về niệm chú vãng sinh, siêu độ cho linh hồn này, nếu mai sau dưới chân cầu còn có người phải toi mạng. Mãi cho tới sau Giải phóng những tục lệ như thế mới còn nữa.

      Quách sư phụ thân là cảnh sát sông Ngũ Hà, thấy tình hình ngày đó trong lòng liền biết ngay là hung án giết người, hơn nữa còn là vụ lần hai mạng. Hai mẹ con nhà kia bị giết hại, dìm xác xuống đáy sâu từ mấy năm trước, mãi đến khi có thủy tặc giăng lưới tuyệt hậu mới vô tình vớt được thi thể của đứa trẻ. Nửa đêm hôm qua cả phòng đẫm nước, chừng là do ma da tìm tới cửa đòi con. Chẳng qua loại việc do thứ hồn bất tán này gây ra có gì có thể làm chứng, cũng biết có phải là do sư thầy niệm chú vãng sinh siêu độ cho vong hồn có tác dụng hay , dù sao ngã ba cửa sông cũng còn thấy ma quỷ xuất . Hai xác chết lớn này cấp cũng màng giải quyết, trở thành vụ án treo.

      Vào những năm trước Giải phóng, tại mấy con sông ở thành Thiên Tân, cộng thêm cả những cống rãnh chứa nước bẩn chảy xuôi, mỗi năm phải có hai, ba trăm người chết đuối là ít. Đại đa số người chết là do ngộp nước, mười phần chỉ có là hung án giết người, mà trong số các vụ án này, có thể phá giải được lại quá phần ba. Thực ra mà , tỷ lệ như vậy cũng tính là quá thấp.

      Vụ án dìm xác xuống ngã ba cửa sông làm toàn thành chấn động, người nào có thể giải được vụ này nhất định thăng quan phát tài. Nhưng những kẻ có kinh nghiệm đều biết đây là hung án cách nào phá được, chủ yếu đều là do hai thi thể nằm dưới sông ít năm, tuy thân thể rữa nát, cũng bị cá rỉa thịt, nhưng xác dưới đáy sông biến thành cương thi. Theo lý thể nào giải thích nổi, nhưng theo như thuyết pháp mê tín dị đoan có lẽ là do người chết quá oan, hơn nữa quần áo, giầy dép của người chết cũng bị bùn nước ngâm mục nát hết cả rồi, nhìn ra xuất xứ thân phận, với lại cũng chẳng có ai tới nhận thân. Trong những năm tháng chiến tranh loạn lạc này, mạng người như cỏ rác, người sống còn chưa kể hết, án mạng chưa phá giải được lại càng nhiều như sao trời, chính vì thế quan cũng chẳng thèm ngó ngàng gì cả, cứ chuẩn án xong rồi để đó.

      Cảnh sát sông thường tham gia phá án, cũng cần phải suy nghĩ nhiều, nhưng vụ án treo này với Quách sư phụ mà cũng chẳng khác chi khối sắt cột xác hai mẹ con kia, luôn đè nặng ở trong lòng, trước sau thể nào bỏ xuống được. Ông ta thầm với ai lời mà tự mình tới dưới cầu đốt giấy tiền vàng bạc, sau này rốt cuộc cũng phá được án, dẫn tới đoạn “thôn Ác Cẩu truy nã Liên Hóa Thanh”. Đến khi ấy còn có chuyện còn quái lạ hơn, các bạn cứ ghi nhớ chuyện này trước , rồi sau này chúng ta lại bàn tiếp.

      Trước tiên hãy về lúc phát xác ở ngã ba cửa sông, đám đông vây quanh nghe ngóng đều Quách sư phụ thực như thần, làm sao có thể biết trước dưới sông còn có xác này được? Dĩ nhiên là phải có bản lĩnh quan phong vọng khí rồi, quả nhiên là Hà thần nha! Thầy cả đời nhà Thanh đảm đương đội tuần sông vẫn được bàn dân bách tính tặng cho cái tước hiệu là “Hà thần”, mọi người dựa vào đó mà rỉ tai nhau, cũng xưng Quách sư phụ là “Hà thần” như vậy. Quần chúng mỗi lần nhắc đến là lại hô “Hà thần Quách Đắc Hữu”, từ miệng nhân dân sang tới truyền thanh báo chí, cái tên này được lan truyền vô cùng mau lẹ.

      Quách sư phụ nghe người ta gọi mình là Hà thần, ngay lập tức toàn thân toát mồ hôi lạnh, nhớ tới những lời thầy cả lúc trước vẫn luôn miệng dặn dò: “Mai này nếu có ai gọi là Hà thần chớ có nên nhận, bằng nhất định gặp phải họa chết người!”

      Song vì sao thể gọi là Hà thần thầy cả lại hề nhắc tới, ông ta nhớ đến câu ấy, liền lần lượt bảo lại với những người thân quen, cũng dám xưng thành như thế.

      Về phần búp bê con nít vẫn giữ lại trong nhà như trước. Năm 1949, sau Giải phóng, cả nước bắt tay vào bài trừ mê tín dị đoan, kết quả phần lớn những thứ này đều bị tiêu hủy. cả búp bê của Quách sư phụ khi ấy vô duyên vô cớ bỗng biến đâu mất, lần này mất rồi liền thể nào tìm lại được, chẳng qua Quách sư phụ cũng hề lo lắng chút nào. Ông ta cho rằng vị trai búp bê nhà mình đúng là có linh tính, trốn ra ngoài tị nạn mất rồi!

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 3: Gương trận ở phần mộ Ngụy gia

      Trước năm xảy ra vụ án xác chết ở ngã ba sông từng có trận lũ lụt, theo kinh nghiệm dân gian năm ngoái ngập úng năm nay dễ gặp hạn hán kéo dài, cũng vì thế mà trước hè năm nay khí trời khô hạn, ít mưa, người xuống sông bơi lội cũng nhiều hơn năm ngoái đến mấy lần, liên tiếp xảy ra mấy vụ chết đuối, cơ hồ đều là những đứa trẻ choai choai mới lớn biết nông sâu, tuy đường xuống suối vàng phân biệt già trẻ, nhưng khi chứng kiến cũng khiến người ta phải đau lòng.

      Từ khi vớt được xác người đàn bà bị dìm dưới đáy sông, cả thành đều biết, người xuống sông Hải Hà bơi lội thoáng cái cũng vắng hơn rất nhiều.

      Vụ án dìm xác xảy ra vào khoảng ngày hai mươi tám tháng sáu lịch, là dịp lão Lý cụt đuôi về khóc thăm mộ mẹ, sau đó hơn nửa tháng, Hải Hà lại chết đuối thêm hai người, cả hai đều là người nơi khác mới đến nên biết chuyện. Lẽ ra người chết đuối dưới sông ít đội tuần sông phải vui lên mới đúng, thế nhưng cũng vì vậy mà thu nhập liền giảm khoản đáng kể. Ngày trước, lúc mò xác đều được các nhà từ thiện tặng mấy phân tiền, có việc làm dĩ nhiên cái khoản ấy cũng có.

      Quách sư phụ sống thân mình, trong nhà chỉ có người trai búp bê ăn uống, ngoài ra cũng chả có bà con thân thích gì, nhưng ông ta thường xuyên giúp đỡ em bạn bè, hàng xóm láng giềng những lúc khó khăn cơ nhỡ, vậy nên trong tay trước giờ chẳng dư ra được mấy đồng, mới đó mà thấy hũ gạo trong nhà cạn tới đáy rồi. Cuộc sống càng lúc càng trở nên khó khăn, phải kiếm việc làm thêm, giúp người ta lo việc tang lễ, làm thêm hình nộm, vàng mã, kiếm mấy đồng mà sống tạm.

      Ông có đàn em trong đội tuần sông, họ Đinh, gọi là Đinh Mão, tên nhóc này giỏi giang, thông minh lanh lợi, hơn nữa còn có thể thu xếp chuyện làm thêm ở bên ngoài. ngày nọ, hai người nhận được mối lớn, Lâu gia trang ở thành Nam có vị lão thái gia mới qua đời. Là thân hào địa phương, người ta nhà cao gia nghiệp lớn, muốn cử hành cái tang lễ to hoành tráng, thế nên trước tiên mới phải mời thợ dán giấy giỏi nhất thành về. Có lẽ các bạn đều muốn hỏi, thợ dán giấy là thợ làm cái gì?

      trắng ra chính là làm vàng mã, dựa theo kiến trúc phòng ốc trong nhà mà gấp, dán ra ngôi nhà bằng giấy, tính ra đây cũng là loại tay nghề, là thứ việc mà người ta thể tự làm, cũng thể nhờ tới thợ dán giấy cho được. Trong lúc gấp giấy còn cần phải niệm thêm mấy câu đại loại như: “Gia đình bình an, tài vận ghé nhà…” Cầu an mà, muốn làm ăn như vậy còn phải có hình nộm, vàng mã, nhà cửa bằng giấy, phàm là cái thứ gì đốt cho người chết lúc tang lễ, chỉ cần chủ nhà hô tiếng, thợ dán giấy đều phải gấp được.

      Thầy cả đội tuần sông cũng là tay thạo việc nên hai người Quách sư phụ và Đinh Mão cũng học được ít bản lĩnh, tay nghề tệ, buổi tối ngồi làm hàng mã, ban ngày lại thành chân chạy việc cho người ta.

      Khi phúng điếu, linh đường được bày ra ở giữa phòng, đám con hiền cháu thảo quỳ gối trông linh cữu, bằng hữu thân thích của người quá cố tới thăm viếng ngớt, nườm nượp cứ như đèn kéo quân. Mà những nhà khá giả ngày trước đối với việc tang luôn rất coi trọng, hai bên cửa ra vào dựng hai cái cổng tò vò cao, có hoành phi, bên đề “Thê phong”, bên kia đối lại là “Lãnh nguyệt”, trước cửa còn dựng thêm cái cổng lớn hơn nữa, đề ba chữ "Có đại ". Rồi nào là cơ man các thứ như người giấy ngựa giấy, còn cả hàng dài các nhạc công chuyên chơi nhạc hiếu, người về chịu tang người sang phúng viếng đông kể xiết, thế nên mới có hai người phụ trách đón tiếp chạy việc gọi là "Tín mã". Như hai người bọn Đắc Hữu làm xong các thứ đồ hàng mã, còn phải lo chân "Tín mã" cho người ta.

      Vậy “Tín mã” là gì?

      tại đến tín mã, chắc còn có mấy ai biết được nữa rồi.

      Năm xưa khi những phong tục như vậy còn thịnh hành, những nhà giàu xa hoa đều ở trong những tòa đại viện, kín cổng cao tường lại rộng thênh thang, mà theo như quy củ ngày ấy, lúc phúng điếu phải sắp xếp hai chân chạy việc, để cho hai gã này đứng canh cổng, cổng trong cổng ngoài, người khoác áo xanh cổ tròn, hông đeo đai lưng màu đỏ, mặc quần đỏ vải điều, chân mang ủng mỏng để lại cho mau lẹ, thân còn quấn thêm cây roi mãng tiên, người đầu đội mũ đỏ, người mũ đen. Khi có khách vào cổng lớn, người mang mũ đỏ dẫn đường hô to, giơ tay nhấc chân phải hệt như biểu diễn sân khấu, dắt khách vào cổng trong. Đến đó người đội mũ đen thế chỗ, đưa khách tới bục cúng bái, sau cùng nghi trượng mới chỉ dẫn cho vị này hành lễ dập đầu với bài vị.

      Hai chân chạy việc đội mũ đỏ, mũ đen này còn được gọi là “Tín mã”.

      Thực ra lúc cử hành tang lễ có tín mã hay cũng sao, nhưng càng là người có tiền càng muốn phô trương, an bài tín mã liền cảm thấy như thiếu mấy phần khí phái sang trọng, trước cần phải , đến khi có chuyện lại tìm ra người thích hợp, phải để cho hai tên thợ dán giấy này làm.

      Mà quả thực là còn ai thích hợp hơn hai vị ấy nữa rồi, phép tắc cần phải học, mọi thứ đều thông suốt, tư thế lại càng chuẩn hơn, hai người ra dáng ra vẻ, hò la dẫn đường, bận rộn suốt cả buổi, trừ mấy phân tiền thưởng xứng đáng được nhận, mỗi ngày còn được ăn bữa lỡ ngon, bốn đĩa tám bát cần phải , còn có thể nhân tiện uống thêm mấy hơi rượu Thiêu đao tử. Quách sư phụ và Đinh Mão nhận việc xong chẳng khác nào như được hưởng thụ mỹ cảm còn sướng hơn là thăng thiên.

      Thuở trước, nhà giàu thành Thiên Tân người ta cử hành tang lễ rất chú trọng việc đưa tang, trước đó tất nhiên là phải phúng điếu tiễn người khuất, rồi còn có vô số thứ phong tục mê tín khác nữa, mà khi đưa tang phải khiêng quan tài để cho người chết được dạo qua bốn cổng thành lần cuối. Trong tiếng khóc than từ sớm tinh mơ, đám phu khuân hòm nâng chiếc quan tài lớn rời khỏi nhà, đây còn được gọi là dời linh cữu, đằng trước là người cầm phướn dẫn đường, còn có cả nhạc công, sư tăng hòa thượng niệm kinh, đám con hiền cháu hiếu mặc đồ tang theo ở đằng sau, đoàn người lũ lượt kéo nhau lòng vòng đoạn đường rất dài, sau cùng mới đưa quan tài hạ huyệt nhập thổ. Trong toàn bộ quá trình đưa tang rồi hạ táng, nhất định phải có hai người theo rải tiền phủ. Xin đừng nghĩ chuyện rải tiền là đơn giản, đây cũng là phen công phu chứ chẳng chơi, lề luật trong đó hề ít, người quen ắt hẳn thể nào làm nổi.

      Án theo lệ cũ, trước khi chuyển linh cữu, quan tài ra khỏi nhà phải tung giấy tiền vàng bạc phủ lần, chính là để xua đuổi đám ma cỏ ở bên ngoài, đại loại như các thứ hồn dã quỷ, cho ít tiền để đuổi chúng xa, bám theo đoàn người. đường đưa tang, cứ ngã tư đường, qua sông, rẽ ngoặt, qua cầu, nhất nhất đều phải tung tiền phủ, đây là phí lót đường, để cho các thứ ma quỷ quấn lấy mà lạc lối. Người tung giấy tiền vàng bạc nắm lấy mớ rồi tung lên, trước tiên là phải tung lên cao, vung tay là phải ra đường vòng cung tuyệt đẹp, tung lên nhiều mà tỏa, đến khi rớt xuống mới xòe ra lả tả hệt như “thiên nữ tán hoa”, tán nhưng loạn. Hơn nữa, đám người vây quanh xem náo nhiệt đều phải lớn tiếng khen hay, như thế mới gọi là thành công.

      Quách sư phụ và Đinh Mão thường xuyên lo việc tang lễ, những việc trong đám tang hôm ấy vào tay bọn họ đều xuôi chèo mát mái cả, lại còn giúp thêm luôn chuyện rải tiền. Trước sau là ba ngày bận rộn, nào là dán giấy phết hồ làm vàng mã, nào là chạy chân “tín mã”, tung giấy tiền vàng bạc, tổng cộng được ba phần tiền công, hơn nữa còn được khoản đãi thêm, đây cũng chính là chỗ tốt khi lo việc tang lễ cho người giàu, suốt cả năm e rằng cũng chỉ được dăm ba bận như vậy mà thôi. Theo chân đám đưa tang đến nghĩa địa, hạ quan xong lại trở về thành, xế chiều hôm đó còn kết thúc bằng đại tiệc. Phong tục này đến bây giờ cho vẫn còn tồn tại, bất kể là ma chay hay hôn lễ, xong xuôi đều phải mở tiệc rượu. Ngày cuối cùng luôn cực kỳ thịnh soạn, theo như tập tục truyền thống phải có đủ tám bát.

      Đến xế chiều chủ nhà liền mở tiệc, quả đúng là tiệc tám bát thịnh soạn nhất, tám bát lớn đựng tám món ăn, dĩ nhiên tùy theo đẳng cấp giàu nghèo mà có khác biệt, nhưng nhất định đều phải có tám món còn nóng hổi. Mà tám món ăn do nhà này bày ra cũng coi như là hàng đầu ở thành Thiên Tân rồi, bốn xào bốn hấp, gà vịt thịt cá, hải sâm sò khô tôm hùm, từng bát từng bát bày ra tràn cung mây, bàn tiệc san sát, tha hồ mà ăn.

      Những nhạc công, phu khuân hòm, sư tăng, đạo sĩ cùng với quản gia tôi tớ trong nhà lo việc tang , tất cả ngồi trong rạp lớn trước cửa mà ăn uống no say. Quách sư phụ và Đinh Mão ngày thường chỉ là quan chức ở đội tuần sông, có miếng ăn cũng chẳng phải thứ gì hảo hạng, ngày qua ngày cũng chỉ quanh quẩn lại ở mấy cái bánh ngô và rau cải trắng mà thôi. Nhưng người ở thành Thiên Tân vô cùng sành ăn, ở thành Thiên Tân còn có câu: “ cắm đồ để ăn hải sản, cũng tính là quá tay”. Cái gọi là hải sản, ở thành Thiên Tân chính là để chỉ ba loại: Cua biển, tôm he, cá hoàng hoa. Trước nay quanh năm suốt tháng cũng chỉ có từ dạo tiết Thanh Minh cho đến kỳ Lập Hạ ngoài chợ mới có hải sản, mỗi năm chỉ dịp ấy là mới có để mà ăn, nếu bỏ lỡ phải đợi tới năm sau mới có lại rồi, vậy nên dù có nghèo tới đâu, đến dịp đồ biển rộ hàng, dù có phải cởi hết quần áo người mang ra tiệm cầm đồ cũng phải mua bằng được hai cân hải sản về ăn cho đỡ thèm, người như vậy mới tính là sống ở thành Thiên Tân.

      Hai người bọn họ thi thoảng giúp người ta lo chuyện tang lễ, cũng nắm lấy cơ hội này mà ăn chùa uống chực, tuy lâu lâu được bữa đỡ miệng nhưng dẫu sao cũng vẫn cảm thấy nhạt mồm. Mà Đinh Mão đúng là tuổi có triển vọng, vừa thấy miếng ăn ngon liền nhịn được mà uống nhiều hơn mấy ly, mắt hoa tai nóng rồi miệng mồm cũng tài nào khép lại được, cũng quản có quen biết hay là , cứ rớ phải người là bắt đầu mở mồm như bắn súng liên thanh, đầu lưỡi cứ như thụt mất khúc, cậu chàng quay sang với vị hòa thượng mập ngồi ngay bên cạnh: “Hai ta đúng là người nhà, ngoài lý do nào khác, mà là vì quan hệ của chúng ta vô cùng đặc biệt, cháu của vợ tôi chính là em họ của thầy, mà em họ của thầy phải gọi vợ tôi bằng bác!”

      Hòa thượng béo cũng uống ít, lại bị Đinh Mão quay mòng mòng, nhìn ra cái tên tung tiền phủ này là ai, ngạc nhiên hỏi lại: “A di đà Phật, xét cho cùng thí chủ có quan hệ thế nào với bần tăng?

      Đinh Mão cười : “Tôi chính là cha của thầy chứ là ai nữa.”

      Hòa thượng béo cả giận: “Ông già thất đức chết tiệt nhà ta xanh cỏ từ lâu rồi, thằng nhóc mày là cái thá gì?”

      Quách sư phụ uống khá nhiều, nhưng cũng may là đầu óc vẫn còn hơi tỉnh táo, nghe Đinh Mão ở đó sảng đầu người xuất gia vội vàng khuyên can, tránh gây ra chuyện xấu hổ mất mặt.

      Hòa thượng béo này vốn tên là Lý Đại Lăng, còn có cái pháp hiệu dễ gọi là Viên Thông, thời nay mà nhắc đến cái tên hiệu như vậy, người biết còn hiểu đó là pháp hiệu, kẻ biết cứ ngỡ là đến “chuyển phát nhanh”*, mà gã ta cũng phải là đèn cạn dầu, thuộc dạng hòa thượng “rượu thịt” lai lịch trà trộn vào trong miếu. Thành Thiên Tân mang dáng vẻ phồn vinh, cũng nuôi ít kẻ rảnh rỗi hành nghề bất chính, đều là loại ham ăn biếng làm, lúc bấy giờ nhà cửa có, mảnh đất cắm dùi cũng , gia sản hết thảy chỉ có độc bộ quần áo người. Dạng người như vậy dù nghèo đến cỡ nào nghèo, bộ đồ vía đó chí ít cũng phải ra hình ra dáng tinh tươm, mặc vào ra ngoài dạo gọi là quần áo chơi, từ xuống dưới, toàn bộ đều nhờ vào thứ quần là áo lượt mà lừa thiên hạ, nhà cháy cũng cần lo, chỉ khi nào bị nước bẩn bắn vào làm dơ quần áo người mới đau như đứt từng khúc ruột. Tỷ như Lý Đại Lăng này, có được bộ áo cà sa, cạo cái đầu trọc bóng lưỡng, chấm đó thêm mấy vết nhang, gặp phải việc ma chay đưa đám giả danh hòa thượng tụng kinh cho người ta, kiếm được mấy đồng cũng thuận tiện ăn chùa uống đậu.

      Lý Đại Lăng uống đến đỏ mặt tía tai, còn định phân cao thấp với Đinh Mão lại thấy người bên cạnh khuyên can nhìn có vẻ quen mắt, liền : “Ối chà, đây phải Hà thần Quách Nhị gia đó sao?” Rồi vội vàng đứng dậy, ôm quyền hành lễ.

      Quách sư phụ thầm nghĩ tên này rốt cuộc là hòa thượng kiểu gì? Mặc áo sư mà phàm ăn, lại còn ôm quyền thi lễ, hẳn chính là dạng trà trộn vào trong cái tang lễ này rồi, tức chào lại, cũng thuận miệng hàn huyên thêm mấy câu với hòa thượng béo Lý Đại Lăng.

      Mọi người xung quanh vừa nghe ra là Quách sư phụ ở đội tuần sông, liền rối rít xúm lại mời rượu, đây gọi là “người có tên, cây có bóng”. Mấy ngày trước ở ngã ba sông mò lên được thi thể phụ nữ, người mọc đầy rong rêu xanh thẫm, bị trói chặt vào khối sắt, dìm dưới đáy sông biết bao nhiêu năm, chuyện này lan truyền xôn xao khắp thành, cả đàn bà con nít cũng biết, người có mặt ở đây ai là Quách sư phụ có bản lĩnh, hổ là “Hà thần” phù hộ cho bản xứ bình an.

      Quách sư phụ thường ngày giao tiếp tốt, lời ra dí dỏm hài hước, liền cuốn đến đám người vây quanh nghe ông kể chuyện. Tuy nhiên ông cũng sợ nhất là hai chữ “Hà thần” mà người khác đặt cho mình, nghe xong liên tục khoát tay, dám nhận danh xưng như vậy. Nhìn lại sắc trời còn sớm, ăn uống cũng no nê, nên được khao cũng khao rồi, liền xã giao mấy câu với người cùng bàn, xong kéo Đinh Mão đứng dậy cáo từ. Từ Lâu gia trang về phía thành Tây, nơi cả hai gần, hai người chuếnh choáng hơi men lần mò đường đêm, tối lửa tắt đèn thế nào mà lại nhầm hướng, hề hay biết mà bước lạc vào trong khu nhà rộng lớn. Chỗ này là khu nhà họ Ngụy, hay còn gọi là phần mộ của nhà họ Ngụy, là nơi quái gở nhất ở thành Nam.

      Từ khi nhà Thanh sụp đổ tới nay, nội thành được mở rộng quy mô lớn, hai bên đường lộ phần lớn đều được trồng trụ giăng đèn điện, khu ổ chuột cho dù được thắp sáng đại như vậy, nhưng vẫn có thể nhìn thấy đường. Từng cụm, từng khu nhà bị đường sá và ngõ hẻm chia ngang xẻ dọc, cắt ra thành mảng . Ngoại trừ số ít những căn nhà cổ trong thành nằm ở hướng Bắc mà quay mặt về Nam, nhà dân và đường xá thành Thiên Tân chả còn chỗ nào phân biệt Đông Tây Nam Bắc rạch ròi như thế cả, đường cái và ngõ hẻm nằm xiên vẹo, người biết đường mà vào liền cứ như thể lạc vào giữa mê cung.

      Người khác xứ tới Bắc Kinh hỏi đường, muốn đến đâu, như thế nào, người Bắc Kinh chỉ đường cũng rất dễ, từ Bắc xuống Nam, người hỏi đường chỉ nghe qua là nhớ, điều này cũng liên quan tới bố cục của thành Bắc Kinh. Thành có bốn mặt tường bao, chín cổng lớn, kiến trúc bên trong đều là từ hướng Bắc quay mặt về Nam, ngoại lệ nhiều. Nhưng thành Thiên Tân khác, muốn hỏi đường sao, đừng mơ người Thiên Tân người ta chỉ cho rạch ròi Đông Tây Nam Bắc, chả có mấy người phân biệt cho ràng được đâu. Đường nào cũng phải ra ngoài thành, đường về Nam ra Bắc cũng phải ra ngoài thành, đường sá chạy dọc đường thẳng tắp, ví dụ như đến cung đường nào đó, tùy theo địa danh mà xem xét, đều nhất định phải có tuyến thẳng từ Nam chí Bắc. Nhưng phương hướng ở thành Thiên Tân lại loạn tùng phèo, đường sá trong thành rối rắm còn hơn xa mạng nhện, tất cả đều là do sông ngòi chằng chịt cùng với các nước phân chia tô giới. Những năm Dân quốc, thành Nam còn chưa có nhiều nhà cao tầng, đèn đường cũng hiếm, cũng may là còn có ngõ cụt, bất kể có muốn tới đâu, chỉ cần lạc mất phương hướng bị lạc đường.

      Quách sư phụ và Đinh Mão bữa nay uống rượu, uống từ xế chiều cho đến tận tối đen mới về nhà, chân nặng như đeo chì, bước ba bước loạn cứ như , nửa đường đành phải dừng lại chờ tỉnh rượu. Đợi đến khi tỉnh rượu rồi mới phát ra mình ngồi ở ven đường lớn, đường sá tối om om, ngoại trừ hai người ra chẳng còn ai khác, chung quanh nhà cửa vô số, phòng ốc cao thấp đan xen, bên đường cũng có cây cột điện, cơ mà đèn đóm đều tắt ngúm. Thoạt nhìn vẫn còn ở trong thành, nhưng bốn bề lại tĩnh lặng như tờ, nhà cửa trống , loáng thoáng có thể ngửi thấy mùi hôi thối của xác chết bốc ra từ đâu đó.

      khu nhà lớn như vậy mà toàn bộ đều bị ngắt điện, trong nhà ngoài đường tối thui, chỉ có mỗi ánh trăng mông lung từ trời chiếu xuống. Dưới ánh trăng mờ mịt, phòng ốc, cây cối và cột điện lên từng đường nét đen ngòm, thậm chí cả tiếng côn trùng râm ran cũng có, chỉ ngửi được mùi hôi thối biết từ nơi nào đưa lại, nghe cứ như là mùi xác thối. Thế nhưng nơi này là ở trong thành, lại còn giữa quãng nóng nhất của mùa hè, người dân chung quanh đây lý nào lại để người chết trong nhà đến mức thối um lên như vậy được?

      Hai người khó khăn lắm mới có thể tỉnh táo lại, cẩn thận quan sát cung đường cùng với phòng óc xung quanh, đều cảm thấy vô cùng quen thuộc, vừa nhìn thấy cột mốc ven đường liền nhớ ra, chỗ này chính là khu nhà họ Ngụy. Dân gian có câu: “Ma đưa lối quỷ dẫn đường”, hai em trong lòng thầm nghĩ chẳng biết là do ma quỷ nào dẫn dắt, kết quả lại chạy tới cái khu nhà họ Ngụy này đây.

      Khu nhà họ Ngụy ngày nay là khu dân cư rộng lớn ở ngoài cửa Nam, ở giữa ngoại thành và nội thành, trước đó khoảng hai, ba mươi năm, nơi đây còn được gọi là Ngụy gia lâu hoặc phần mộ nhà họ Ngụy, vốn là cái nghĩa trang lớn. Những năm đó nghĩa trang rất nhiều, cũng có gì là lạ, người chết trong thành đem ra ngoài thành hạ táng, người chết trong thôn đưa ra ngoài thôn chôn cất, bởi vậy ông bà mới có câu: “Chỗ nào có đất chẳng chôn người”, quanh chỗ người sống ở lúc nào mà chẳng có người chết. Mới đầu chôn vòng quanh thành, nghĩa địa mai táng người chết Đông cái, Tây cái, chỗ nào cũng có, rồi vào những năm thời nhà Thanh, việc vận chuyển muối bằng đường thủy vô cùng phát đạt, diện tích thành Thiên Tân cũng ngừng cơi nới thêm, mọc lên vô số nhà cửa, mà những chỗ ấy trước kia hầu hết toàn là nghĩa địa.

      đến khu nhà họ Ngụy là đến Ngụy gia lâu, hồi trước là phần mộ của nhà họ Ngụy, sau khi biến thành khu dân cư, mọi người đều kiêng dám nhắc đến hai chữ “phần mộ” nữa. Lại ở đâu ở, ở ngay phần mộ nhà họ Ngụy làm gì mà có ma cho được? Vậy nên đổi tên thành “Ngụy gia lâu”, thực tế chẳng có cái “lâu” cái lầu nào cả, cực chẳng mới phải đổi lại thành khu nhà họ Ngụy. Mà những người có tuổi chút ở dạo ấy, mỗi lần nghe nhắc đến phần mộ nhà họ Ngụy, thứ nghĩ đến trước tiên thường là “Ma treo cổ”.

      Lại tới chuyện ma treo cổ ở phần mộ nhà họ Ngụy, chuyện này cũng phải là quá đỗi xa xưa, vào những năm cuối thời nhà Thanh, thành Thiên Tân có gia đình họ Ngụy, người nhà ấy sống bằng nghề bán bánh hấp, gia cảnh tầm tầm bậc trung, trong nhà có ba em, người lớn mệnh yểu, mất từ bé, chỉ còn lại người hai và em út chia đều gia sản trong nhà. Người hai kế thừa tổ nghiệp, thường vẫn gánh hàng rao bánh hấp dọc đường. Bánh hấp chính là bánh bao hấp, các loại làm từ bột mì, bột gạo, thuở ấy cũng được gọi là bánh hấp. Còn người em út tâm cao chí lớn, muốn tiếp tục theo nghiệp bán bánh hấp của nhà nên mới đến tiệm vàng học việc, cùng làm đồ trang sức với chủ tiệm. Thợ mộc thợ xây học nghề ba năm là xong, nhưng làm đồ trang sức ít nhất cũng phải học mất sáu năm, sau đó còn phải làm công ba năm cho chủ tiệm, vào thời ấy học việc phải đóng học phí, khi nào học thành nghề ở lại làm công ba năm, xem như là báo đáp ơn thầy.

      Người em út học nghề mười năm, khi học xong các cách làm ăn buôn bán cũng đầy bụng, dựa vào tay nghề mình học được mà tự thân mở cửa hiệu bán đồ trang sức nho , cũng nhờ hàng giá , thành tín đáng tin cậy, kỹ thuật vốn tốt lại còn ngày tốt hơn, dần dà chuyện làm ăn mua bán càng lớn, tiền kiếm được cũng càng nhiều, mấy năm sau liền mở rộng thành tiệm vàng chuyên về đồ trang sức.

      Người hai làm ăn buôn bán cũng tệ, cưới được vợ vô cùng hiền lành, hai vợ chồng tự ăn nên làm ra, sớm về khuya cực khổ dành dụm được ít vốn liếng, trước tiên thuê căn nhà đường gần cổng thành, sau đó mở tiệm buôn bán. Ngoại trừ bánh bao hấp gia truyền ra còn có các loại mì phở điểm tâm, mặt tiền cửa hàng cũng tăng lên sau trước ba gian, việc làm ăn đúng là bận bịu muốn chết, vì thế mới thuê người giúp việc, để tay giúp việc này làm tiểu nhị lo chuyện bán hàng ở trước, còn hai làm bếp ở phía sau. Cửa hàng liền kề với tiệm vàng, trang sức của người em nên cũng dễ bề chiếu cố cho nhau, theo thời gian, cuộc sống cũng ngày trở nên tốt đẹp.

      Ai mà ngờ ngày vui ngắn chẳng tày gang, đến năm Canh tý, quân đội tám nước liên hợp phá tan cửa ngõ Đại * tiến thẳng vào thành Bắc Kinh, thành Thiên Tân đứng mũi chịu sào gặp nạn, loạn binh cướp bóc khắp nơi đường, các cửa hàng lớn đều bị cướp sạch. Tiệm vàng, trang sức của người em cũng bị loạn binh vơ vét còn mảnh, phía trước cửa hàng cũng bị đốt thành đống tan hoang, sập tiệm kể từ đó, tài nào gầy dựng lại được. Hai vợ chồng người em nhất thời quẫn trí, cùng nhau thắt cổ trong phòng, trắng ra là hai vợ chồng nhà này cái chết yên lành, chính là ma treo cổ.

      Lúc ấy tiệm điểm tâm của người hai cũng bị loạn binh cướp bóc, nhưng cũng còn may là chỉ có các thứ thực phẩm điểm tâm nên hao tổn lớn, vay mượn chắp vá lung tung khắp nơi, cuối cùng cũng gom lại được số vốn để mà tu sửa lại gian ngoài cửa tiệm, vẫn còn có thể tiếp tục làm ăn. Đến sau này ăn nên làm ra, có tiền mua nhà mua đất, có thân phận nên cũng thể nào gọi là hai được nữa rồi, mà phải xưng là Nhị gia. Ngụy Nhị gia sau khi giàu có vẫn thường xuyên nhớ đến hai vợ chồng đứa em thắt cổ tự vẫn, chết quá oan khuất của mình.

      Thân là em huynh đệ trong nhà, cũng chả khác chi là thịt gân bó vào xương, vẫn có câu “huynh đệ như tay chân, thê tử như y phục”, quần áo mất rồi còn có thể mua lại, nhưng tay chân đứt lìa rồi dẫu có muốn cũng mọc chẳng ra. Người sống cả đời, ở bên cạnh thể có người thân, cha mẹ chỉ có thể cùng hết nửa đời trước, vợ con nhiều lắm cũng chỉ theo hết nửa đời sau, chỉ có em ruột thịt mới cùng nhau đến suốt cuộc đời, vì thế mới gọi là tình như thủ túc.

      Ngụy Nhị gia tưởng nhớ huynh đệ của mình, kìm được mà rơi lệ, trước sau nhiều lần mời cao tăng đến niệm kinh siêu độ vong hồn, còn ra ngoài thành mua miếng đất có phong thủy tốt về làm nghĩa địa, đem quan quách hai vợ chồng người em cùng với tổ tiên trưởng bối nhà họ Ngụy dời hết cả vào trong mảnh đất này, an táng lại lần nữa.

      Nghĩa trang là nền móng của cả dòng tộc, trước phải có gốc rễ thâm sâu mới mong con cháu ngày sau hưởng đầy phúc lộc, Ngụy Nhị gia mua miếng đất nghĩa địa này tất nhiên là hy vọng cửa nhà bình an, làm ăn thịnh vượng. Năm đó, nghĩa trang của các gia đình giàu có đều mang tính chất thuộc về sở hữu tư nhân, cho nên miếng đất này mới gọi là phần mộ nhà họ Ngụy, trước mộ phần có nhà thờ tổ, gọi là Từ đường Ngụy gia. Trong khu mộ tùng bách chen nhau, cổ thụ cao ngất, sương khói lượn lờ quanh năm suốt tháng, thi thoảng lại mơ hồ truyền ra thanh như rắn động cáo kêu. Khu đất từ Đông sang Tây rộng gần hai dặm, từ Bắc xuống nam dài khoảng ba dặm, là khu đất lớn, cây cối vô cùng rậm rạp. Vùng rìa Tây Nam có địa thế rất thấp, nối liền mảnh với vùng trũng phía Nam, giống như cái đầm lầy mênh mông rộng lớn nhìn thấy điểm cuối, mà trước đó Ngụy Nhị gia có tìm đến Trương Bán Tiên, là thầy phong thủy chuyên xem các loại trạch dương trạch, Trương Bán Tiên nhìn trúng miếng đất nghĩa địa này, cho rằng phong thủy vô cùng tốt, nào biết cổ quái nơi đây còn nhiều hơn.

      Phạm vi mấy dặm nơi phần mộ nhà họ Ngụy mọc đầy cổ thụ, tùng xanh bách rủ, trong rừng có ít hồ ly náu, sói vàng, nhím gai, chồn hoang chó dại chen chúc, ma quái , thế mà theo như lời của tên giả thần giả quỷ chuyên lường gạt như Trương Bán Tiên tất cả đều là do dồi dào linh khí của mảnh đất này mà thành, nếu quả như phong thủy nơi này tốt làm gì có những thứ ấy được? Kết quả là chuyện làm ăn của Ngụy Nhị gia truyền tới đời con lại chọc trúng viên quan lớn, phải bồi thường đến tán gia bại sản, sau lại gặp hồi dịch bệnh tai ương, cuối cùng nhà tan cửa nát mà tuyệt hậu, phần mộ nhà họ Ngụy kể từ đó liền bị bỏ hoang, biến thành phần mộ vô chủ. Sau đến thời Dân quốc, theo mở rộng diện tích của nội thành mà phần mộ nhà họ Ngụy cũng mọc lên vô số mái nhà, địa danh cũng đổi thành Ngụy gia lâu, qua thêm ít năm đổi lại thành khu nhà họ Ngụy, tùng bách rêu phong ngày trước cùng với mộ phần mộ bia cũng còn, chẳng qua mọi người vẫn quen gọi chỗ này là phần mộ nhà họ Ngụy.

      Quách sư phụ và Đinh Mão nhận ra chốn đây chính là khu nhà họ Ngụy, cũng nghe kể hồi đó có chôn ma treo cổ, lại thể là quen thuộc biết bao nhiêu, vì trước kia chỉ mới ghé qua được có mấy lần. Lại đoán chỉ có thể là do uống say nên lỡ bước, hề hay biết mà sa chân vào chỗ này, nơi đây phần lớn chỉ là chúng bình dân, đường sá ngõ hẹp giăng giăng như mạng nhện, trận lũ đầu năm ngoái cũng vùi lấp mất khoảng lớn nhà cửa chỗ này rồi, bấy giờ trừ vài căn làm chốn nương thân cho mấy tên ăn mày cùng những người nhặt rác, số còn lại đều là phòng ốc ẩm dột nghiêm trọng, mặc dù cũng coi như là ở trong thành, nhưng toàn bộ đều bị ngắt điện cắt nước, mãi chưa đập bỏ.

      Quách sư phụ dám để cho người ta gọi ông ta là Hà thần, gọi còn tốt, vừa mới gọi là Hà thần phát liền xui xẻo, lúc đầu thầy cả quả sai, ông ta thể nào tin vào chuyện này được. Người phải cõng theo tên mà sống, đến uống nước cũng bị dắt răng. Khu nhà họ Ngụy và nhà của hai người bọn họ nằm ở hai hướng trái ngược, đêm hôm khuya khoắt làm thế quái nào lạc qua cái chỗ này được?

      Quách sư phụ chỉ muốn về nhà nhanh, liền cùng Đinh Mão nhắm chuẩn hướng rồi theo đường cái mà tới, vẫn cứ cho rằng qua khỏi đoạn đường thuộc khu nhà họ Ngụy là tốt rồi, nào ngờ đường ngang lối tắt ở cái xó này cứ như là quấn cả vào nhau, đông cụt đường, tây cùng hẻm, tới lui rốt cuộc lại vòng vòng lớn rồi quay về chỗ cũ, hai em giờ chẳng khác chi quỷ Tây dương xem kinh kịch - đầu váng mắt hoa.

      Đinh Mão : “, khu nhà họ Ngụy đúng là ma quái, hai ta lâu như vậy, đáng lý là phải ra tới ngoài đường lộ rồi mới đúng, thế mà chẳng hiểu sao còn chưa thoát khỏi chỗ này, lẽ bị oan hồn quấn lấy chân rồi sao?”

      Quách sư phụ : “Thằng em, đêm hôm khuya khoắt, chớ có nên bậy. Đừng nhìn mấy cái nhà này trơ tuênh huếch ra như vậy, trước kia phải là vẫn có người ở đó sao, đào đâu ra ma?”

      Đinh Mão : “Sao lại bậy, phần mộ nhà họ Ngụy chôn hai con ma treo cổ, chuyện này có phải do em tự bịa ra đâu, trong thành ngoài thành chả ai là biết.”

      Quách sư phụ lại bảo: “Phần mộ nhà họ Ngụy chôn hai con ma treo cổ từ thời còn là nước Đại Thanh kia kìa, bây giờ là cái thời nào rồi? Nếu cứ chỗ nào có mả phải có ma, vậy chắc cũng chẳng còn đất nào cho người sống ở. Huống hồ chi người sợ ma ba phần ma quỷ cũng phải khiếp lại người bảy phần, hai em ta lại là người đàng hoàng, cả đời này cũng chưa từng làm chuyện đâm sau lưng kẻ khác bao giờ, đừng là phần mộ nhà họ Ngụy có ma, dù có ma nó cũng phải trốn chẳng dám ra gặp hai đứa mình!”

      Đinh Mão kiếm cơm ở đội mò xác nên cũng chẳng sợ những thứ sạch bao giờ, : “Đại ca, em lại tin, nếu như khu nhà Ngụy gia có ma, vậy mấy cái thứ nóc nhà kia là cái gì?”

      Trời hè nóng nực, ban đêm lại càng oi bức, dù có nằm im bất động toàn thân cũng phải đổ mồ hôi, mà Quách sư phụ khi nghe xong câu ấy cảm thấy sau lưng lạnh toát, lại càng khó hiểu trong lòng, quay sang hỏi: “Thằng em, hơn nửa đêm mà còn mấy cái này, mày thấy sợ hay sao? nóc nhà là mái ngói chứ còn có thể là cái gì được nữa?”

      Đinh Mão : “ tin cứ tự ngẩng đầu lên mà nhìn cái!”

      Quách sư phụ nghe Đinh Mão nóc nhà có thứ gì đó, ông ta liền ngẩng đầu lên xem. nóc nhà chẳng có ma quỷ gì cả, nhưng dưới ánh trăng soi, có thể loáng thoáng nhìn thấy được mấy tấm kính treo mái, mà những căn hộ kế bên cũng có, cũng phải chỉ hai nhà thôi, hễ mười hộ ở đây đến tám, chín là treo gương nóc. Sau khi các hộ gia đình rời hết, những tấm kính này cũng được tháo xuống mà vẫn cứ treo hoài mái nhà như vậy, người dân nơi đây có lý nào lại ăn no rỗi việc đến nỗi dưng lại vô duyên vô cớ bày ra loạt kính trận nhà mình?

      Đinh Mão : “Ông nhìn thấy chưa? Làm gì có ai lại treo kính lên nóc nhà mình ở như vậy? Ngụy gia lâu hồi trước là mảnh đất chôn người chết, mồ mả hỗn loạn, có ma mới là chuyện lạ đó. Sớm biết vậy hồi sáng lúc đưa tang xong giữ lại chút vàng mã còn thừa người tốt rồi, nghe khi có người nào đó bị ma quấn chân, chỉ cần ném ra hai nắm giấy tiền vàng bạc để đuổi chúng là có thể bình an vô .”

      Quách sư phụ từng chứng kiến hai nhà nọ ở trong thành xảy ra tranh chấp, suýt chút nữa gây ra cả án mạng, mà nguyên nhân dẫn đến việc đó là do có nhà treo kính nóc, là do cửa nẻo nhà đối diện xây tốt, hiên nhà cùng với mái nghiêng thẳng về phía cửa chính nhà họ, hủy luôn cả phong thủy của ngôi nhà, thế nên phải treo kính mái để chặn cho tà khí của nhà bên kia quay ngược trở lại, mà cũng chính vì thế nên hai nhà mới gây gổ đánh nhau ít. Nhưng khu nhà họ Ngụy là khu dân cư đông đúc, ngờ nhà nào nhà nấy lại treo kính nóc mới quái gở, loại chuyện kỳ quái này đúng là chưa từng thấy qua, thậm chí cũng chưa nghe bao giờ.

      Ông ta lại phát những tấm kính này đều được dùng dây thép cột chặt vào mái, nhiều năm lau rửa nên mặt vương đầy tro bụi, kính cũng phải bằng đồng mà là loại hết sức bình thường, có lành có vỡ. Dựa theo tình trạng này mà , cho dù dùng để trấn ma trừ tà cũng là loại bố cục phong thủy nào đó.

      Quách sư phụ quay sang với Đinh Mão: “Kính trận chẳng qua cũng để trừ tà hoặc là trợ thế cho phong thủy, bố trí như vậy nhất định là do đề phòng ma quỷ. Huống chi sau trận lũ năm ngoái khu nhà Ngụy gia mới còn ai ở, trước nay cũng chưa từng nghe chỗ này có chuyện gì bất thường, tao thấy em mình tốt nhất đừng nên nghi thần nghi quỷ, đoán mò gì nữa, nếu sau này làm sao còn kiếm cơm ở đội mò xác được cơ chứ?”

      Đinh Mão cho rằng Quách sư phụ như vậy cũng có lý, kính trận mái nhà khu họ Ngụy có lẽ cũng chỉ là loại phong thủy nào đó mà thôi. Nhưng tình huống lúc này còn có chỗ quái dị, ràng. Lúc vừa mới đặt chân vào Ngụy gia lâu này nghe thấy có mùi xác thối, lý nào là do trộm cướp giết người đoạt mạng, vứt xác trong cái khu người ở này, lại thêm khí trời oi bức nên rữa nát bốc mùi rồi chăng? Người qua nơi đây lúc nửa đêm rồi bị lạc đường, thể nào ra ngoài được, nhất định là do oan hồn cản trở.

      Quách sư phụ suy nghĩ chốc, : “Mắt thấy mới tin là , trước tiên cứ qua nhìn xem rồi hãy .”

      Hai người đúng là gan to mật lớn, lần theo mùi hôi thối mà dò tìm, lại thấy bên đường có thứ gì đó trăng trắng khối ngã dựa dưới chân tường, càng tiến lại gần càng cảm thấy thể nào ngửi nổi, đến gần hơn nữa mới phát thứ này lại còn có thể nhúc nhích được.

      Trong khu dân cư này có đèn đường, hai người nhìn ra thứ ở ven đường là cái gì cả, chỉ ngửi được độc mùi xác thối, ở xa nhìn lại đúng là cục trắng nhởn, đến gần lại phát dường như hãy còn cử động. Muốn tiến lại gần hơn thể đưa tay bịt mũi, mùi hôi thối bốc lên quá nồng, bước tới thêm hai bước, chỉ cần đưa tay ra là có thể chạm được, cúi xuống nhìn cho mới thấy đây chính là cái xác rữa nát và nhung nhúc dòi.

      Cả hai vừa nhìn liền cảm thấy là buồn nôn, vì trời nóng cho nên dòi bọ bò lúc nhúc đầy tấm thân của cái xác này rồi. Hai người đều nhịn được mà muốn ói, nhưng lại vội vàng lấy tay bịt miệng, bởi vì nỡ buông tha cho bữa tiệc tám bát, bốn xào bốn hấp, quanh năm suốt tháng cũng ăn được đôi ba lần, phun ra là quá đáng tiếc, liền gồng mình mà nuốt ngược trở lại.

      Mùi thối ngửi thấy trước đó là bốc ra từ cái xác rữa nát ở ven đường này. Chẳng qua đây phải xác người chết mà là thi thể của loài động vật nào đó, nhìn đường nét lớn ở bên ngoài có thể chính là chó hoang, ước chừng thối rữa cũng phải được mấy ngày, ngoài ra cũng chẳng có gì đáng để ý, nhưng ở cách đó xa lại còn có cả hai con mèo chết.

      Người chết ở ven đường được gọi là “đảo ngọa”*, cũng chính là chết đường chết chợ, nếu như ở trong thành, bất kể là có người nhận hay , tóm lại đều có người giàu lòng tốt bụng giúp đỡ đưa xác chôn, nếu như ai thèm động tới cũng có nhà nước phái người đến lo liệu, kể cả các loại động vật, chó mèo… chết ở ven đường cũng có người thu dọn. Nhưng phần mộ nhà họ Ngụy này chỉ là khu phòng đổ nhà nát, chẳng biết khi nào đập bỏ, ai sống, chó mèo phơi xác ngoài đường cũng chẳng có ma nào thèm đoái hoài tới, thế nên thối rữa bốc mùi như vậy cũng có gì là lạ.

      Quách sư phụ và Đinh Mão thấy qua là hiểu ràng chuyện gì xảy ra rồi, cũng thèm để ý tới nữa. Lúc này tầng mây trời tản hết, ánh trăng sáng ngời soi tỏ phòng ốc cùng ngõ hẻm, vừa nhìn là thấy chỉ cần thẳng về phía trước, rẽ thêm lần nữa là có thể ra khỏi khu nhà họ Ngụy. hiểu làm sao khi nãy vòng vèo lâu như vậy mà vẫn ra khỏi chỗ này được?

      Hai người nghĩ đại khái có lẽ là do uống quá chén, hơi rượu còn chưa tan nên đầu óc vẫn cứ mơ mơ hồ hồ, lại thêm mây mù che khuất cả vầng trăng, ven đường có đèn, khó tránh khỏi bị lạc, lúc này tốt nhất là nên thừa dịp trăng sáng mà chạy cho lẹ. Hai em vừa nghĩ vậy liền rảo bước ngay. Nhưng càng , Quách sư phụ càng có cảm giác giống như có thứ gì bám riết theo sau, mạch cùng với cả hai về phía trước, quay đầu nhìn lại chả thấy cái quái gì cả, thầm nghĩ: “Hôm nay mình làm sao thế nhỉ, cứ nghi thần nghi quỷ mãi là thế nào?”

      Đầu óc Quách sư phụ quay mòng mòng, bất tri bất giác chạy tới giao lộ, tới đây xem như là ra khỏi khu nhà họ Ngụy, nhưng vẫn cứ cảm giác như có thứ gì bám mãi phía sau, lạnh hết cả gáy. Bấy giờ cúi nhìn ánh trăng hắt xuống mặt đất, lại thấy ngoại trừ hai cái bóng của ông ta và Đinh Mão ra, phía sau còn có bóng đen rất , Đinh Mão cũng nhìn thấy được, hai người lấy làm kinh hãi, vội quay đầu ngoảnh lại phía sau, chỉ thấy thứ hơn chó to hơn mèo, đuôi dài lông xù “vèo” tiếng, thình lình từ sau lưng Quách sư phụ nhảy vọt lên, men theo chân tường mà bỏ chạy nhanh như chớp, thoáng cái mất dạng.

      Hai người ngây ra tại chỗ, cứ vậy mà trợn mắt há mồm, căn bản đến tột cùng là chuyện gì xảy ra. Sau bọn họ lại tìm mấy người đặc biệt am hiểu những chuyện như thế này, đem chuyện lạc đường lúc nửa đêm ở khu nhà họ Ngụy, thấy chó mèo chết dọc đường, nóc nhà dàn trải kính trận, làm sao đến, thế nào, kể mọi chi tiết từ đầu đến đuôi, lại nghe người ta bảo khu nhà họ Ngụy trước kia chính là nơi chồn cáo tác tác quái. Năm ấy khi nghĩa địa trở thành khu dân cư cũng được yên lành, dân cư sống ở đây hề an ổn, sau nhờ thầy địa lý chỉ điểm, các hộ mới treo kính nóc nhà, kính này phải treo bừa treo bậy, mà mở thành trận pháp đàng hoàng. Những thứ có linh tính lạc vào khu nhà này thường thường lạc mất phương hướng mà làm sao thoát ra được, cuối cùng chết ở bên trong, chính vì vậy mà khu nhà họ Ngụy thường xuyên thấy có chó mèo chết lạc. Năm ngoái xảy ra trận lũ cũng có ít người chết đuối, nghe chính là do bày ra kính trận hiểm ác này mà gặp báo ứng.

      Sau khi nước lũ rút hết, khu nhà họ Ngụy chỉ còn là mảng lớn toàn phòng nhà trống, bình thường bất kể là ngày hay đêm, ai ngang qua cũng gặp phải chuyện, có thể là do Quách sư phụ dạo này bị người ta gọi là “Hà thần” quá nhiều, vậy nên vận rủi cũng đến liên tiếp ngừng. Người sống gặp lúc dương khí thịnh hồn dã quỷ chẳng dám đến gần, nhưng đến khi vận khí suy giảm, ấn đường nhất định chuyển thành màu đen, dương khí cũng vì thế mà suy yếu. Lúc ấy có thể là do con ly miêu hoặc là hồ ly gì đó thấy dương khí người Quách sư phụ và Đinh Mão yếu ớt, liền dùng thuật che mắt để mê hoặc hai người, bám theo sau để trốn ra khỏi khu nhà họ Ngụy. Hay cũng còn có khả năng khác, thứ ấy bị vây ở khu nhà họ Ngụy ra được chính là do số kiếp của nó tận, núp bên người Hà thần Quách sư phụ mới có thể qua khỏi kiếp này.

      Đến cùng là có chuyện như vậy hay cũng khó , Quách sư phụ ngày đó nghĩ mãi ra, chuyện qua rồi cũng quên luôn. Mãi cho đến sau Giải phóng, tầm những năm sáu mươi rồi, có đêm, tan việc xong ông ta mới cưỡi chiếc xe đạp cà tàng về nhà. Khi ấy vào tiết lập thu, gió thổi xào xạc, khí trời lành lạnh cũng giống như là đêm nọ, cũng là vào buổi đêm hôm khuya khoắt, đường sá vắng tanh hề thấy bóng người qua lại.

      Cùng ngày hôm ấy ông ta vớt xác chết trôi ở sông Hải Hà, bận rộn cả ngày, chút nước gạo cũng chưa có để mà dính răng, đói đến mức bụng cũng dính cả vào lưng rồi, lòng chỉ nghĩ tới chạy vội về nhà lấp bụng bằng bát cơm nóng hổi. Khi đạp đến đoạn đường dọc theo bờ sông, đột nhiên con xe đạp cà tàng đạp mãi mà , cứ như thể có thứ gì ở phía sau lôi xe ông ta lại, cho tiến thêm về phía trước.

      Quách sư phụ còn cách nào khác là dừng xe, quay đầu lại nhìn, chỉ thấy ở sau xe có thứ gì đó lông xù chạy vụt , chớp mắt còn thấy đâu nữa, cũng biết là ly miêu ở đâu ra, nhìn có vẻ cũng giống, đường về lại tối đen, nhìn đến tột cùng là thứ gì.

      Lúc này từ đằng sau có thanh niên cũng xe đạp, mặc bộ đồ bảo hộ lao động trong công xưởng, sau xe còn kẹp theo cái cặp lồng, trông có vẻ là công nhân làm ca đêm. Người công nhân trẻ tuổi này đạp xe phóng nhanh, lạng qua bên người Quách sư phụ chỉ để lại cơn gió, trực tiếp phi thẳng về trước.

      Quách sư phụ thầm nhủ trong lòng: “Nhóc con hôi lông, định đầu thai hay sao mà phóng bạt mạng như vậy nha?” Ông ta xem lại chiếc xe cà tàng của mình bị gì cả, đạp lại liền chạy mới leo lên xe tiếp tục tới, chợt nghe đằng trước “rầm” tiếng, giương mắt lên nhìn liền sợ hết cả hồn.

      ra là công nhân trẻ tuổi kia phóng xe nhanh quá, lại tự mình lao thẳng xuống sông. Bờ kè bên sông cao nửa thước, tên này phi quá nhanh, đâm luôn vào kè rồi bắn tung cả người, văng thẳng xuống sông, đầu cắm sâu vào tận đáy bùn.

      Mạng người quan trọng, há phải chuyện thường? Quách sư phụ dám chậm trễ, ngay cả quần áo cũng kịp cởi, quăng cả xe rồi nhảy xuống sông lạnh, liều mạng cứu người công nhân trẻ tuổi này lên bờ. Tai mũi họng chàng này ngập tràn bùn sình, sắc mặt xanh mét, lôi lên tới bờ còn hơi thở, e rằng chỉ chậm thêm nữa phút nữa thôi là khỏi cứu. Quả là mạng lớn mới gặp được Quách sư phụ, đổi là người khác gặp phải tình huống thế này, cho dù có muốn cứu cũng kịp.

      Quách sư phụ đưa người công nhân trẻ tuổi tới bệnh viện, sau khi tình huống ổn định rồi mới hỏi ta xảy ra chuyện gì, đường rộng đến thế, vì sao cứ nhất định phải phóng thẳng xuống sông? Có phải là làm ca đêm quá mệt, vừa đạp xe vừa ngủ gật? quá nguy hiểm.

      Công nhân trẻ tuổi đạp đến đó căn bản thấy sông ngòi gì cả, khi ấy ta thấy trước mặt là đường, chả hiểu vì sao cưỡi xe đạp tới lại rớt xuống sông như vậy.

      Bác sĩ y tá trong bệnh viện nghe thế liền cho là thằng nhóc này sợ quá nên hóa hồ đồ, đèn đường sáng trưng, phải bị quáng gà làm sao có thể nhìn sông thành đường cho được?

      Ai mà ngờ qua thêm vài ngày, lại có công nhân làm ca đêm đạp xe rơi xuống sông, lần này có ai nhìn thấy, đến hừng sáng mới phát mặt sông có hai cái chân thò lên, chân mang giày, chân , hề nhúc nhích. Đợi đến khi vớt được từ dưới sông lên, người này hết cứu.

      số chuyện khi ấy ai dám , nhưng trong lòng mọi người đều hiểu , chừng là chỗ này có ma da cần người thế chỗ, dụ người ta phi thẳng xuống lòng sông. Đêm đó nếu phải xe đạp của Quách sư phụ đột nhiên đạp được, người rơi xuống sông chết đuối chính là ông ta. Dù cho bản lĩnh của ông ta lớn đến đâu, thủy tính có tốt hơn chăng nữa, khi đầu cắm thẳng vào bùn đừng mong mà sống. Mặt khác, lúc xe của Quách sư phụ đạp được, dường như thoáng thấy bóng đen chạy mất, có lẽ là con vật năm đó ông ta cứu được ở phần mộ nhà họ Ngụy vừa quay lại báo ơn

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 4: Thi biến ở nhà ga Lão Long Đầu

      Trở lại chuyện chính, lại đến vụ “Án dìm xác ở ngã ba sông”, thời thế bấy giờ quá loạn những tử án hiếm có phá được đếm cũng hết, nhưng là đại án gây náo loạn khiến cho mọi người chú ý, nhà nước ít nhiều cũng phải có hành động. Đội tuần sông Ngũ Hà vớt được tử thi nhiều vô số kể, nhưng có thể đại án cũng nhiều, theo như Quách sư phụ kể lại, ông ta ở đội cảnh sát sông mấy chục năm, nhưng thực khiến cho cả thành đầu đường cuối ngõ đâu cũng bàn tán xôn xao, lòng người kinh sợ chỉ có 2 bản án, đầu tiên là vụ “xác chết trôi ở sông Hải Hà”, còn lại chính là vụ “Án dìm xác ở ngã ba sông”, đương nhiên còn có những vụ án quái dị có lẽ còn kinh hãi hơn, nhưng được truyền ra ngoài, người ngoài biết được lại càng ít.

      đến đây tiện qua chút về vụ xác chết trôi ở sông Hải Hà, năm đó án xác chết trôi ở sông Hải Hà từng được liệt vào trong dân quốc thập đại án chưa được phá giải. Đó là năm 1911 năm Cách mạng Tân Hợi nổ ra, triều đình Mãn Thanh sụp đổ, cho mãi tận đến năm 1949 khi Trung Quốc được thành lập, trong những năm này xảy ra mười vụ đại án, mỗi vụ đều khiến cho cả nước khiếp sợ, tất cả đều có lời giải đáp, đến cuối cùng đều trở thành án treo, nguyên nhân treo án nhiều lắm, tất nhiên trong đó có những vụ do quan lại cấu kết với thổ phỉ, bao che cho nhau, nhưng cũng có vài vụ thực là phức tạp thể phá giải nổi.

      Ta thể từng bản án vì thập đại huyền án này hợp lại cũng đủ nguyên bộ sách, nhưng cùng lắm ngoài vụ án xác chết trôi ở Hải Hà ra các bản án còn lại liên quan nhiều lắm đến “Hà thần” cho nên mới kỹ càng như vậy. Trong thập đại huyền án có hai vụ xảy ra ở Thiên Tân, là án Đông Lăng quốc bảo mất tích, bọn phản động Tôn Điện nửa đêm lẻn đến Đông Lăng ăn trộm, những bảo vật tùy táng cùng Từ Hi và Càn Long đều bị cuỗm sạch còn thứ gì, nhưng càng về sau phần lớn tung tích của các bảo vật đó đều , tương truyền là Tôn Điện đem bảo vật giấu ở tầng hầm của căn nhà lớn ở đường số 2 Mục Nam, Thiên Tân, sau này căn phòng đá đó hình như cũng bị biến đổi, nghe trong phòng có hai tầng hầm ngầm, có thể sau cùng ai tìm được cửa vào tầng hầm thứ hai, nên thành ra cái cọc án chưa được giải quyết.

      Thêm nữa, trong án xác chết trôi ở Hải Hà, phải đến việc Hải Hà hàng năm có quá nhiều người chết đuối, những năm gần đây nạn đói hoành hành, xác chết trôi cũng vì đó mà nhiều thêm lên, sông ba ngày từ 2 phía đều có xác chết trôi đến, nhưng việc xác chết xuất Hải Hà, vì sao lại bị liệt vào dân quốc thập đại huyền án, ngang hàng với án mất tích bảo vật bồi táng ở Đông Lăng, trong này ắt hẳn phải có điểm gì kinh sợ, bất thường.

      Án xác chết trôi ở Hải Hà thực ra trước sau có đến 2 vụ, vụ xảy ra vào những năm cuối triều Thanh, vụ án này có kết quả, thập đại huyền án được nhắc đến có quan hệ gì đến bản án này cả, có thể quá trình cũng có gì khác biệt lắm. Lúc ấy Hải Hà đột nhiên xuất hơn mười cái xác chết trôi, giữa ban ngày trôi từ thượng du sông vào trong thành, xác chết xuất liên tục, có ai dám mò vớt, khiến cho cả thành đều sợ hãi, người đến vây xem tấp nập, lời đồn nổi lên bốn phía, người là do thổ phỉ, có người lại bảo là có dưới sông tác quái, nếu chỉ cái xác chết cũng thôi, đằng này lại cùng lúc xuất nhiều như vậy, nhất định là điềm may, quan phủ phải ra mặt thu gom những xác chết này, đếm ra là đúng bốn mươi lăm bộ, đấy là còn chưa tính những cái vớt lên được, tìm người khám nghiệm tử thi thấy hầu hết đều chết lâu, thối rữa hết cả, có cái nào là do chết đuối, như thế càng kì quái, ai ăn no rỗi việc mà lôi mấy cái thây trong mộ ra ném xuống sông làm gì, chẳng lẽ người chết lại tự mình từ trong mộ leo ra, nhảy xuống sông bơi lặn chắc?

      Mặt khác trong số những tử thi này có cái nào là đàn bà con , tất cả đều là đàn ông, cũng có trẻ , mặt mũi phần lớn đều còn nhìn ra được, cũng may là án này tương đối nhiều manh mối, đầu tiên là thi hài vẫn còn quần áo, có thể từ đó mà thẩm tra, đối chiếu được thân phận người chết, tiếp nữa là ở thượng du ai trông thấy nhiều xác chết trôi như vậy, giống như là từ dưới đáy nước nổi lên mà trôi vào trong thành vậy. có phương hướng đại khái như vậy, quan phủ liền phái công sai đến khu vực đó thẩm tra, bao lâu án được phá, nguyên là có quán thuốc phiện, bán nha phiến ở địa phương đó, lão chủ quán tham lam, dùng giá thấp mà mua vào lượng nha phiến biến chất cho người ta hút, khách tới đây vào buổi tối hôm đó hút thuốc phiện, hút được mấy hơi liền dậy nổi, sùi bọt mép, chết ngay tại quán, những khách này phần lớn là lén lút đến quán, trong nhà ai hay, lão chủ quán trong lòng biết mắc vào đại họa, mới sai tiểu nhị ra bờ sông đoạn phía dưới chân cầu, đào 1 cái hố to, cả đêm đem mấy cái xác ấy vùi xuống, ngờ rằng chỉ vài ngày sau, thượng du sông Hải Hà đột nhiên mưa lớn, nước tràn lên cuốn trôi lớp đất mặt chôn người chết, những tử thi trong đó đều bị lũ cuốn vào thành, lão chủ quán thuốc phiện cùng tiểu nhị đều bị khép vào tội chết, áp giải vào trong thành mà thi hành án, án xác chết trôi ở sông Hải Hà chấn động mấy năm cuối cả triều Thanh đó được phá giải như vậy.

      Rồi bây giờ mới đến vụ án xác chết trôi ở sông Hải Hà thứ hai, đó là vụ án đến nay vẫn chưa cách nào phá giải nổi, tình bắt đầu vào năm 1936, cũng như vụ trước, Hải Hà đột nhiên xuất rất nhiều xác chết trôi, lần này có đến cả mấy trăm bộ, cũng đều là đàn ông, chủ yếu là thanh niên trai tráng, nhìn bộ dáng hình như tất cả đều là nông dân, hơn nữa đều bị trói hai tay sau lưng, có người địa phương, thân phận có cách nào đối chiếu, án này thực ra lúc ấy cũng phải thể tra, chẳng qua là dám tra xét.

      Lúc ấy Hải Quang tự Thiên Tân vệ là nơi Nhật Bản đóng quân, có người những xác chết sông này là do bọn quỷ Sơn Đông Nhật Bản mò tới trại lính bắt nhân công lao động, xong việc vì bảo vệ bí mật công quân đội, quân Nhật mới dùng dây thừng trói những công nhân đó dìm chết từng người , thi thể đem ném xuống dưới hố ở doanh trại Hải Quang Tự, bên dùng bê tông bịt lại. Tưởng rẳng như thế thần biết, quỷ hay, ngờ rằng đó thực chất là cái động lớn, thông với đường thoát nước của kênh mương, thời điểm mưa to mùa hạ, nước ngầm từ dưới đất dâng lên tràn vào Hải Hà, mấy trăm bộ tử thi theo đó mà trôi vào sông.

      Ngay trước trận càn quét của quân Nhật, giống như điềm báo, vụ án lớn như vậy cuối cùng lại giải quyết được, qua nhiều năm mà có kết luận, trở thành vụ án chết nhiều mạng nhất trong dân quốc thập đại huyền án, về sau khúc sông này lại vô duyên vô cớ xuất xác chết trôi, mọi người mới cất công mời cao tăng Đại Bi Thiền viện đến siêu độ. Đại Bi Thiền viện xây dựng vào những năm đầu triều Thanh, hậu cung thờ Bồ tát Đại Bi, chính là quan nghìn mắt nghìn tay. Theo truyền thuyết số mắt và tay Bồ tát có đến cả tám vạn bốn ngàn, tạc tượng cao tám thước, có 24 cánh tay, 36 con mắt, kim quang lóe lên bốn phía, ngoài ra hai bên còn có điện thờ La Hán, Bồ Tát Địa Tạng , tiền điện thờ Phật Di Lặc cùng tượng Bồ Tát Vi Đà, đều được xây dựng từ rất lâu rồi, nhưng so với việc thờ quan vẫn chỉ là phụ, cho nên mới đặt tên là Đại Bi viện. Ở đây hương khói quanh năm rất thịnh, lại còn thờ cả xương cốt của pháp sư Đường Huyền Trang, trong miếu có rất nhiều cao tăng, về sau khi xảy ra án xác chết trôi sông Hải Hà, tổng hội từ thiện mới phải mời đến cao tăng nội viện, 3 ngày liền cúng bái hành lễ siêu độ cho những vong hồn kia, còn hành lễ cúng bái ra sao là việc của thầy tu, đạo sĩ, chúng ta chẳng thể biết được.

      Án xác chết trôi sông Hải Hà xảy ra vào năm 1936, lúc ấy Quách sư phụ vẫn còn theo sư phụ của ông học nghề ở đội tuần sông, đường sông bấy giờ bị đến mấy trăm xác chết trôi làm tắc nghẽn, tình cảnh quả thực thấy mà giật mình, nhưng toàn bộ bản án thế nào, ông ta cũng lắm, đến vụ án chết trôi ở ngã ba sông, chính là kinh nghiệm ông trải qua, trong đó có rất nhiều điểm ly kỳ, đúng là đến chết cũng quên được, ngay dưới gầm cầu lại phát ra hai cỗ thi hài lớn rêu phủ toàn thây, nhưng tất cả mới chỉ là mở đầu, đoạn sau này mới thực dọa cho người ta chết khiếp.

      Con sông trong vòng năm nay, số người chết so với những năm trước quả ít nhiều, Quách sư phụ cũng chẳng nghĩ đến vụ xác chết trôi ở ngã ba sông nữa, hai cỗ thi thể hỏa thiêu, đem tro cốt chôn ở chùa Lệ Đàn. Thiên Tân có rất nhiều miếu, nhiều am, nhà thờ cũng nhiều, chùa Lệ Đàn nằm trong con phố tên là Lệ Đàn, trong chùa thờ Bồ Tát Địa Tạng, chuyên độ hóa ác quỷ, đem tro cốt đến đó chôn cũng xem như là yên ổn. Vốn tưởng chuyện như thế là xong, ai mà ngờ sau này vẫn còn lắm .

      Lại quay lại chuyện Quách sư phụ cùng Đinh Mão lo việc gấp giấy trong tang lễ của gia chủ, cũng xem như được thêm ít tiền trợ cấp, hôm nay lúc chạng vạng tối, hai em còn loay hoay với mấy cái hình nhân bằng giấy Lý Đại Lăng đột nhiên đến mang theo gói điểm tâm. Đó là những đồ tiến cúng của nhà giàu, sau khi bái thần tế tổ lưu lại. Người giàu có sang trọng chỉ ăn “Cung tiêm nhi”. qua là cúng phẩm thường được bày thành hình bảo tháp, dưa leo, điểm tâm xếp vào bàn, để chung nhau, những đồ ở và ở dưới đều giống nhau, nhưng đồ bày cùng gọi là “cung tiêm nhi”(ngọn tháp). Theo cách trước kia, ăn cung tiêm nhi có thể hưởng thêm phúc, còn lại những cống phẩm bình thường kia đều đem phân phát cho các chùa, miếu, am cho người xuất gia, tại đây coi đó như là cách tích đức hành thiện. Xế chiều hôm đó có người cho hòa thượng béo vác bọc cung tiêm nhi như thế, đây giống như loại điểm tâm làm từ gạo nếp, từng cái từng cái đem xếp thành hình bảo tháp, sau đó phủ mật lên , là đồ chuyên dùng để cúng bái thần phật.

      Quách sư phụ cùng Đinh Mão cũng quá trưa mà chưa ăn uống gì, vừa vặn lại có chỗ đồ ăn này lót dạ. Đinh Mão cầm lấy cái ném vào miệng nếm, bên trong còn có cả mứt táo hãm liêu, mút ngón tay tán thưởng: “ khách sáo quá, mùi vị tệ. Đúng là cúng phẩm hảo hạng, là bảo vật, lại ăn cùng mứt táo, trong số rất nhiều điểm tâm tiến cúng ngon nhất vẫn là mứt táo hãm liêu đấy!”

      Quách sư phó : “Ngươi đúng là cái đồ bán bánh nướng mà mang theo lương khô, ăn sành quá nhỉ, mới có miếng mà biết đây đúng là điểm tâm tiến cúng hảo hạng.”

      Lý Đại Lăng “Hai vị ca ca đều là người trong nghề, ăn miếng điểm tâm mà còn có nhiều điều để như vậy, tại hạ hôm nay xem như được mở rộng tầm mắt rồi, thiện tai, thiện tai.”

      Đinh Mão : “Ngươi bình thường giả mạo hòa thượng đến những nhà giàu có tổ chức pháp , cũng vơ vét được ít điểm tâm trái cây của nhà người ta, ngươi chỉ có ăn mà nghĩ, đương nhiên thể biết được những chuyện này rồi, ngươi có biết lai lịch thứ mật dùng để tiến cúng này ra sao ? Ta cho ngươi biết, năm xưa khi ta còn theo vị sư phụ chuyên làm điểm tâm cúng tiến cho nhà chùa, nghe là truyền nhân của Lỗ Ban, tay nghề phải chuyện đùa, người ta dùng đường để làm mật cúng phẩm, cúng phẩm được xếp thành hình dạng như bảo tháp, ở dưới lớn, bên ngọn dần, từng cái từng cái xếp chồng lên nhau, tháp lại có cửa, từ ngoài có thể nhìn vào trong được, cuối cùng đem đồ lên cho đặc quánh lại, màu hổ phách, trong suốt như thuỷ tinh, quá trình làm mật này là tuyệt đối bí mật, ai được biết. Rất nhiều người còn biết vị sư phụ này cư ngụ ở đâu. Làm điểm tâm tuyệt phẩm mà lai lịch khó tra ra. tại mật cung mà ta vừa ăn chính là của hậu nhân vị sư phụ đó."

      Quách sư phụ : “Nếu thế khác gì nhà nào làm điểm tâm chả có loại tuyệt phẩm? Bánh trung thu Nhất Phẩm Hương, bánh tét Tứ Viễn Hương, bánh nướng Vĩnh Nguyên Trai, bánh Thái Sư ở Thuận Hương, cái nào mà chả có tên tuổi. thế có lấy cả chân lẫn tay ra đếm cũng hết."

      Đinh Mão lại : “Sư huynh, những cửa hàng điểm tâm huynh đúng là đều có tuyệt phẩm cả đấy, có thể bằng đồ cúng chay này nhưng đều là tuyệt phẩm. Nhưng điểm tâm chay này cần ăn, chỉ cần nhắm mắt mà ngửi là có thể phân biệt được, lấy thứ điểm tâm đơn giản nhất ra mà , đừng đến dùng sách hướng dẫn, mà ai cũng có thể làm được, nhưng với những đồ tiến cúng này khác, trứng gà là thứ trứng gà Hà Bắc lớn hơn trứng bình thường, mỡ dùng loại mỡ heo tấm, đường cũng là thứ đường hoa mai, bột mì hết thảy đều là tinh bột, mua ở những nơi uy tín, có nguyên liệu tốt tuyệt nhiên thể làm ra. Những thứ kia liệu có thể so sánh được ?"

      Lý Đại Lăng đột nhiên : “Hơn nửa đêm rồi, ta chuyện khác được sao? Hôm nay ta tới đây phải vì chuyện ăn cơm, là ta chỉ muốn hai vị đại ca có thể cho ta biết chút về cái thây nữ toàn thân phủ lông xanh kia ?"-

      Quách sư phụ thừa biết Lý Đại Lăng này thuộc loại Tỳ Hưu(dã thú; tiếng cổ), chỉ có ăn vào mà biết nhả ra, vô duyên vô cớ lại có lòng tốt đem điểm tâm hảo hạng đến, quả nhiên phải vì chuyện tào lao mà đến, rút cục có chuyện gì?”

      Lý Đại Lăng : “Có chứ, có chứ, nếu có chuyện gì ta chẳng đến đây, đến đây ắt phải có chuyện.”

      Đinh Mão : “Tốt xấu gì cũng còn mang được theo chút điểm tâm đến, còn hơn là tay mà đến, chẳng qua ta nghĩ ra, Lý Đại Lăng ngươi lại quan tâm đến cái xác chết ở ngã ba sông ấy, người đàn bà đó khi còn sống có quan hệ thân thiết với ngươi sao?”

      Lý Đại Lăng vội gạt : “Tiểu ca đừng đùa ta, ta nhát gan lắm. Ngươi xem, bây giờ trời tối rồi, ăn bao nhiêu điểm tâm cũng thể ăn cơm được. Chi bằng để ta làm chủ, mời nhị vị bữa vậy.”

      Đinh Mão : “ là có lòng, vậy ngươi định mời chúng ta ăn cái gì đây?”

      Lý Đại Lăng : “Ta cũng rất chú ý cái này, có câu, xuân ăn cua biển, hạ ăn cua đồng, đông ăn cua tím, nếm qua cua tím, trăm thứ đồ ăn khác đều vô vị, đương nhiên mời hai vị ca ca phải mời cua tím thượng hạng rồi, mùa này cũng phải là có. Nếu đến hiệu ăn Trừng Thắng Lâu, ta mời hai vị ăn tôm lắc, tôm sạch bóc vỏ, Phù Dung Toàn Giải(cua cả con bọc trong lá phù dung), cá trích nướng,..."

      Quách sư phụ và Đinh Mão rất hiếu kỳ, nghĩ ra là tên họ Lý này muốn chuyện gì, lại cũng thèm chén súp dê, ba người vào quán bán súp dê với quà vặt ở khu chợ phía tây đường cái, chỗ này yên ắng, thực khách cũng chỉ thưa thớt vài người, vừa ngồi xuống liền gọi ngay 4 chén súp dê, 1 chồng bánh nướng…, lúc mùa hè nóng bức, chẳng mấy người uống súp dê, nhưng những người tuần sông tối ngày phải ngâm mình dưới nước, tiếp xúc với tử thi, người khí rất nặng, uống chén súp dê nóng hổi có thể bổ khí, lại thêm nhiều ớt nữa, uống xong toàn thân đổ mồ hôi như tắm, khỏe khoắn vô cùng. Chỗ bán súp dê cách nhà thờ lớn xa lắm, nhà thờ này là của những người theo đạo Hồi, thành Thiên Tân có bốn cái nhà thờ đạo Hồi, xung quanh có rất nhiều Hồi dân sinh sống. Có câu “Người Hồi tay hai dao, dao cắt bánh ngọt, dao xẻ thịt dê”, từ đó có thể thấy súp dê ở đây rất nổi tiếng. Quách sư phụ cùng mấy người bằng hữu thường xuyên đến phố này ăn, cha con chủ tiệm thường đẩy xe phố để bán hàng, cửa hàng này chẳng qua cũng chỉ là gánh hàng rong, phải khách quen thể nào tìm nổi.

      Ba người vào chỗ của mình rồi uống súp dê, Quách sư phụ quay ra với Lý Đại Lăng: “Có chuyện gì cứ thẳng ra, cái thây nữ ở ngã ba sông làm sao vậy?”

      Lý Đại Lăng : “Nhị vị đại ca, các vị là người của đội tuần năm sông, thi thể dưới đáy sông ấy là do các vị vớt được, ta chẳng qua chỉ muốn biết, vụ án này có kết quả thế nào?”

      Quách sư phụ : “Nếu như ăn bánh nướng, uống súp dê của hòa thượng nhà ngươi rồi, ngươi hỏi tới chúng ta cũng thể , lúc ấy có rất nhiều người tụ tập đến xem, đều thấy nữ thi thể ấy rêu xanh bám đầy mình, thế lại bị buộc cả cục sắt to tướng sau lưng, toàn thân phủ đầy rêu, cũng biết vì sao lại biến thành như vậy, chính quyền cũng sợ lòng dân bất an, cũng ngày hôm đó liền đem tử thi đưa thiêu hủy, tro cốt đem đến chùa Lệ Đàn chôn cất, kết quả chỉ có thế thôi, nếu ngươi muốn biết thân phận của nữ thi thể ấy chịu thôi, có cách nào tra ra cả, theo ta thấy cái cục sắt ấy han gỉ nhiều lắm rồi, dễ đến ở dưới đáy sông đến mấy trăm năm cũng nên, cho dù liên quan đến mạng người đến bây giờ cũng chẳng thể tra ra được kết quả gì, mà có tra ra cũng chẳng để làm gì, vậy nên quan cũng truy cứu nữa.”

      Lý Đại Lăng kinh hãi: “Trời đất ra cái tử thi kia chìm dưới đáy sông lâu như vậy…”

      Quách sư phụ quay ra Lý Đại Lăng hỏi: “Ngươi nghĩ gì mà lại nghe ngóng chuyện nữ thi thể chết chìm ở ngã ba sông này?”

      Lý Đại Lăng : “Đại ca, huynh biết đó thôi, chuyện này thể hai câu mà được, hãy nghe ta kể từ đầu vậy…”

      từ gốc gác căn nguyên ra, nhưng chúng ta lại phải ràng. Bàn về thành Thiên Tân, giàu có nhất tổng cộng có tám hộ, xưng là Bát đại gia. trong số Bát gia là Thạch gia, có Thạch gia đại viện giữ lại được đến nay, đó đúng là căn nhà cổ lớn, gạch xanh, ngói xanh, rường cột, khí phái phi phàm, lầu diễn Phật đường đủ cả. Tổ tiên Thạch gia có hơn vạn khoanh ruộng tốt vì thế nên có cái tên lóng là 'Thạch vạn khoanh', lại buôn bán trong cả thành, tiền đếm xuể. Về việc tại sao Thạch gia lại phát tài tới nay có vài truyền thuyết.

      Thứ nhất là lúc vào thời Minh mạt, Thanh sơ (cuối Minh đầu nhà Thanh), Sấm vương Lý Tự Thành đánh vào Bắc Kinh, ép hoàng đế Sùng Trinh phải treo cổ Môi Sơn, có cung nữ mang theo món trân bảo trong cung là 'đèn Dạ Quang Như Ý' từ kinh thành trốn , tới ban đêm tới Thạch gia ngủ trọ. Thấy chủ nhân trung hậu chất phác nên nương thân gả cho Thạch gia. Đèn Dạ Quang Như Ý kia vốn là vật báu vô giá trong đại nội hoàng cung nên Thạch gia cưới được bà thần tài kia là lập tức phất nhanh như diều gặp gió.

      Có chuyện khác lại kể rằng, thời Càn Long có vị tham quan Hoà Thân, dùng sưu cao thuế nặng làm tiền tài chống chất như núi, phú khả địch quốc. Tới lúc Hoà Thân bị tịch thu gia sản, định tội, trong đám tiểu thiếp của Hoà Thân có người thừa dịp trốn tới Thạch gia. Người tiểu thiếp này vốn được Hoà Thân sủng ái nên mang theo người ít của báu. Vì phải tị nạn nên người tiểu thiếp đó chấp nhận gả cho tổ tiên Thạch gia, từ đó tổ tiên Thạch gia phất lên.

      tóm lại những truyền thuyết kia cũng khác nhau là mấy, đại loại là tổ tiên Thạch gia gặp vận may, cưới được người vợ có tiền, giống như đem ngọn núi báu rước qua cửa nhà. Tiền nhiều tới mức mấy đời dùng hết. Nhưng tổ tiên có để lại di huấn: Có tiền cũng được vì giàu mà bất nhân, đời đời Thạch gia đều tích đức làm việc thiện, dưới mở hàng cháo, mở tiệm áo bông. Mười mấy năm trước, Thạch gia có vị tiểu thư tư thông với gã mặt trắng hát hí khúc. Hai người có tư tình, tới lúc bụng lớn đúng như câu 'kỹ nữ vô tình, hát xướng vô nghĩa'. Tên hát hí khúc kia vừa biết tiểu thư có bầu, sợ gây ra rắc rối, hơn nữa có con với vợ ở nhà nên trong đêm đó vội vàng bỏ trốn cùng gánh hát. Còn lại tiểu thư mang cái bầu kia mình hoài thai, ta cũng còn mặt mũi nào nên cũng thu dọn đồ bỏ nhà ra . Thạch gia phái người tìm nhiều năm nhưng tới nay vẫn chưa tìm thấy.

      Trong vụ án xác chết ở ngã ba sông vừa mới xảy ra, có người tiểu thư Thạch gia mang thai với tên ở gánh hát làm nhục gia đình. Thạch gia bên ngoài là tiểu thư bỏ nhưng ra là trói tiểu thư vào khối sắt ném xuống đáy xông. Cái này gọi là xác hai mạng người. Thạch tiểu thư bị chết oan, oan tình ai giải được, xác chết lại được đội tuần sông vớt lên, với tiền cao thế lớn của Thạch gia họ dễ dàng thu xếp để ai truy xét nữa. Từ xưa có câu: Miệng người đáng sợ, chuyện tốt ai tin nhưng chuyện xấu ai cũng tin, truyền truyền lại, thêm mắm thêm muối trở thành những lời quả là rất khó nghe. Thạch gia luôn lấy trung hậu chi đạo làm gia truyền, đâu dễ gì chịu được tai tiếng đó.

      Quách sư phụ cùng Đinh Mão vừa hiểu ra chuyện là thế lập tức : "Chúng ta cũng việc nhà Thạch gia thế nào, nhưng án xác chết trôi sông mỗi năm nhiều kể xiết, chưa chắc có quan hệ với tiểu thư Thạch gia."

      Lý Đại Lăng : "Ai biết phải đây? Lời đồn vang lên bốn phía như thể đâm sau lưng người ta. Vụ án xác chết ngã ba sông ngày có kết quả lại thêm ngày bịt được miệng đám người bịa đặt kia."

      Lúc đó, nhà nước căn bản để ý tới vụ án này. Huống hồ những kẻ ngồi lại chỉ biết bóc mẽ, doạ dẫm nhau, có mấy người điều tra. Thạch lão gia cũng tin đám chó săn đấy. Ông ta chỉ tin duy nhất Hà thần Quách Đắc Hữu, mà xác chết lại được Quách sư phụ tìm thấy. Bởi vậy nhà họ nhất quyết mời Quách sư phụ tìm ra chân tướng. Thạch gia hàng năm đều tổ chức trai tịnh, phàm là hoà thượng tới hoá duyên là đều được ăn uống xả láng, sau khi về còn được vài quan tiền hương hoả. Lý Đại Lăng thường xuyên giả làm tăng nhân tới đủ nơi ăn uống. Hai ngày trước, nghe thấy Thạch lão gia nhắc tới chuyện này, Lý Đại Lăng mặt dày tự xưng là em kết nghĩa với Quách sư phụ ở đội tuần sông, nguyên làm người trung gian giúp Thạch lão gia mời Quách sư phụ giúp đỡ. Lý Đại Lăng thay mặt Quách sư phụ đồng ý làm Thạch lão gia mừng rỡ, ông ta còn hứa nếu giải quyết thành công có hậu tạ.

      Quách sư phụ nghe Lý Đại Lăng ngọn ngành cảm giác có chút khó xử. Đội tuần sông ngũ hà thường chỉ phụ trách vớt xác chứ chưa bao giờ tham gia phá án, huống chi thi thể kia bị đốt thành tro chôn xuống đất. Mọi dấu vết giờ xoá sạch, chút manh mối cũng còn, thế tra thế nào đây? Nhưng Quách sư phụ nghe nhà họ Thạch xây cầu trải đường, nhiều đời làm việc thiện đành lòng để cho Thạch lão gia có tiếng xấu, có tâm để giúp nhưng biết giúp thế nào.

      Đinh Mão : " à, đây là chuyện tốt. Tìm ra được kết quả vụ án xác chết ở ngã ba sông, vừa an ủi người khuất, vừa mang lại tiếng tốt cho Thạch gia, chúng ta những được tiền thưởng mà con được tiếng là tích đức."

      Sau trận khuyên bảo thủ thỉ đủ kiểu, Lý Đại Lăng và Đinh Mão cũng khuyên được Quách sư phụ động tâm, đồng ý tìm kiếm dò la tin tức. Mặc dù mưu tại nhân nhưng tới cuối cùng, kết quả thế nào vẫn còn phải xem sắc mặt của ông trời.

      Ba người cùng uống canh dê, thương lượng phương hướng giải quyết. Ít nhất cũng phải điều tra thân phận xác chết kia, bởi vì lý do nào mà bị trói vào tảng sắt dìm ở đáy sông. lại cũng chưa có cái gì ràng cả, mà việc này cũng phải muốn là làm được ngay. Nhất quyết phải có thời gian, tới nhà kho của đội tuần sông, điều tra thêm về tảng sắt mà xác chết kia bị trói vào. Đó chính là manh mối.

      Uống xong canh dê, Lý Đại Lặng về nhà ngay, Quách sư phụ và Đinh Mão nhàn rỗi có việc gì, tản bộ qua miếu Hà Long, chưa về nhà có người tìm tới. Gặp việc lớn, hai người vội vội tới xem. Hoá ra ở cửa sáu nhà ga Lão Long Đầu, đám khuân vác đánh nhau, có ít người chết, nhưng cái quỷ quái ở đây là có người thấy cả xác chết biết ở đó.

      tiếp lại càng thấy việc này cổ quái, nhà ga Lão Long Đầu kia giờ là trạm phía Đông của Thiên Tân, nhà ga ở ngay cạnh Hải Hà. Nếu theo phong thuỷ vị trí này chính là đầu rồng. Trước kia khi chưa có nhà ga, ở đây có ít gia đình cùng lầu Quý Gia, miếu Hoả Thần và bảy thôn. Những năm cuối triều Thanh, người ngoại quốc bắt đầu tu sửa đường xá, xây dựng đường sắt để chở hàng. Lúc ban đầu, đây gọi là nhà ga Lão Long Đầu, về sau gọi là Lão trạm. Đây vốn là tô giới của người Nga. Tới lúc Viên Thế Khải mang quân đóng giữ Thiên Tân, bộ đội cần nhà ga Lão Long Đầu, người Nga đồng ý vì đây là tô giới của người Nga, phải địa bàn của Viên Thế Khải. Lúc đó, đội ngũ của Viên Thế Khải khá lớn nhưng cũng phải hạ súng. Viên Thế Khải ấm ức nhưng lại thể nào trêu vào người Nga mũi to. Nuốt trôi cơn tức, nhất quyết xây trạm khác ở phía Bắc, thèm để ý tới trạm Đông.

      Mặc dù có trạm Bắc nhưng vị trí của nhà ga Lão Long Đầu lại vẫn thuận tiện hơn thành ra tới nay vẫn là trạm chính, là đầu mối quan trọng của đường vận tải biển, đường sắt. Bình thường ai muốn chở hàng bằng đường sắt đều tới để ở kho bãi trạm Đông cả. Mỗi năm, chỉ tính riêng tiêu thụ than đá, nhà ga Lão Long Đầu cũng ngốn tới trăm vạn tấn, đó là còn chưa kể tới các loại hàng hoá tập kết ở đó. Từ đó có thể suy ra kho bãi ở Lão trạm lớn thế nào. Ở kho bãi trạm Đông có tường bao đầy đủ, có tường bao, ban đêm rất dễ bị mất trộm. Ở kho bãi trạm Đông có tám cửa lớn ra vào, đánh số theo thứ tự lần lượt từ Bắc xuống Nam. Xung quanh có đám phu khuân vác cư ngụ, theo các cửa mà chia ra làm tám nhóm người khuân vác, nhiều hơn ngàn, ít cũng phải tới hai ba trăm. Dần dần, nơi đây hình thành ngành độc quyền, người ngoài nhúng tay vào được. Nhưng ai cũng biết đây là khúc thịt béo, thể đỏ con mắt. Dựa vào cái gì mà ngươi ăn được lại để người khác ăn?

      về nghề khuân vác thuê ở Thiên Tân Vệ có từ xưa tới nay. Đây là nơi trung tâm của giao thông đường biển chín khúc sông. Từ thời Tống bắt đầu vận chuyển bằng đường biển các loại mặt hàng như muối... Tới lúc Minh Thành Tổ dời đô về Bắc Kinh, Thiên Tân Vệ vẫn là đường giao thông huyết mạch của triều đình, buôn bán qua lại từ Bắc chí Nam. Nơi đây luôn có kho dự trữ lương khố, muối của triều đình. Từ triều Thanh tới nay, buôn bán muối phát triển, mà nơi này lại từng là kho muối của cả nước thành ra buôn bán ngày càng phát, quân đóng cũng tăng lên nhiều. Tới năm bị cắt đất đền tiền, nước ngoài bắt triều đình Mãn Thanh phải dỡ bỏ tường thành ở Thiên Tân Vệ. Việc làm đó chính là để phá huỷ khả năng phòng ngự của triều Thanh. Từ đó về sau, chín nước chia nhau đặt tô giới ở đây, ngành vận tải tới thời kỳ cường thịnh chưa từng có. Mà nghề vận tải lại cần nhân lực khuân vác, vậy là hình thành nghề khuân vác thuê. Ở ba trăm sáu mươi ngành, nghề khuân vác là ngành cực lớn.

      Mỗi ngành sản xuất đều có quy tắc riêng. Mà với ngành có lịch sử phát triển mấy trăm năm, quy tắc gần như nặng hơn cả vương pháp. Trước tiên là huyện nha định địa giới ở bốn phía trong thành, chỉ định người tới chịu trách nhiệm. Đừng nhìn cái nghề vất vả tới muốn chết này mà nhầm, ai có khả năng đều nhảy cả vào đấy. Tới cả quan cũng tham gia, gọi là 'khuân vác quan'. Tới thời mạt Thanh, bọn đầu đường xó chợ lại nắm giữ trở thành 'khuân vác tư'.

      Nước ngoài xây dựng nhà ga Lão Long Đầu, dỡ bỏ toàn bộ bảy thôn. Khi đó tiền đền bù cũng chẳng đáng bao nhiêu, mà quan phủ cũng quản thành ra những người ở đó bỗng chốc mất nhà. Cuối cùng quan bức dân phản, có người bắt đầu tụ tập biểu tình, nằm ở đường ray chặn xe lửa qua. Quan phủ cách nào cưỡng chế được nhóm người này, cuối cùng phải thành lập ra đội khuân vác tư. Kho hàng trạm Đông được giao cho người khuân vác của bảy thôn này phụ trách, quan phủ phụ trách chia Long phiếu. Long phiếu chẳng khác gì giấy phép hoạt động do chính phủ cấp. Khi đó tình hình mới lắng xuống. Kho hàng trạm Đông có tám cửa, đội khuân vác bảy thôn chia nhau mỗi thôn cửa. Cửa còn lại chia cho bất kỳ thôn nào mà cho dân khuân vác ở bên ngoài. Cửa của mình có việc làm có cái ăn, việc phải chịu đói. Việc này cũng như thể phân chia địa bàn hoạt động, ai được phép vượt qua ranh giới, vượt ranh giới coi như là cướp bát cơm, bắt được là đánh chết, hề sợ giết người đền mạng, mà quan phủ cũng hề truy cứu.

      Từ bên ngoài nhìn vào, cái nghề khuân vác nhìn có vẻ khá ác liệt. Ở trạm Lão Long Đầu thường xuyên có nhóm khuân vác thuê dùng binh khí đánh nhau. Tới cửa số tám cũng có tranh đấu với nhau. Ở xã hội cũ, việc đám khuân vác đánh nhau chết người diễn ra như cơm bữa. giờ, hai bên khuân vác thuê đánh nhau chết hơn trăm người. Tới lúc kiểm kê nhân số, tính tính lại, đếm tới đếm lui, hiểu tại sao lại thừa ra người.

      Việc khuân vác thuê đánh nhau chết người phải cái gì quá lạ. Nhân dân chỉ cần có cơm ăn, phải chết đói dù có khổ nữa, mệt nữa, nhưng bức đến đường cùng cũng ai dám tạo phản. Tất cả những người dám tạo phản đều là bị ép tới thể sống nổi nữa. Từ xưa tới nay đều là như vậy. Nghề khuân vác thuê thuộc vào nghề tận cùng của xã hội. Ở kho hàng trạm Đông, cái áo bông và cái móc là toàn bộ gia sản của người, hề có vật dụng nào khác. Mỗi ngày người phải khiêng cái rương gỗ bốn năm trăm cân qua lại cái ván cao hơn trượng, cẩn thận để ngã chết cũng tàn phế, mồ hôi rơi đất như tắm, ban ngày mệt muốn chết, tới đêm có túp lều để ngủ tồi rồi. Thân nằm đất, người đắp cả trời, dưới đầu gối viên gạch. Ăn cơm chỉ là từ dùng quen mồm, chứ bình thường trộn đủ cả trấu, cải vào. ngày được hai bữa là coi như no đủ. Nhưng tới khi thiên tai nhân hoạ ngừng, các nơi mất mùa, dân tị nạn đổ dồn vào trong thành đám người này cũng chẳng còn việc mà làm. Tới lúc này chỉ có mà làm liều.

      Nếu tính về khả năng côn đồ lưu manh nghề khuân vác này đứng đầu. Qua nhiều đời làm, lúc bình thường có việc gì, cả đám đều đứng khoanh tay ở chỗ đất trống, chờ tiền tới tay. Nghề khuân vác áp dụng cách phân chia từ xưa, làm xong việc được tiền là hơn nửa phải chia cho đám đại ca, đó chẳng khác gì giao tiền bảo kê cho đám đại ca bảo vệ địa bàn, cho người ngoài nhúng tay vào. Đám đại ca khuân vác có luật lệ cực kỳ cay độc. nhóm người khuân vác hoạt động như bang phái, tuân thủ luật lệ là bị đuổi ra thành người ngoài, mà bị đuổi là có nhóm khuân vác thuê nào thu nhận giúp đỡ cả, lại bao giờ cho phép nhận việc mình. Tranh đấu của nhóm khuân vác thuê trắng ra chính là tranh nhau địa bàn khuân vác.

      Lần tranh đấu của hai nhóm khuân vác thuê này, nhóm là Hoả Thần Miếu ở cửa sáu, nhóm là Sơn Đông Câu Tử Bang. Hoả Thần Miếu chính là tên thôn có trước khi nhà ga Lão Long Đầu được xây dựng, về sau cả thôn trở thành người khuân vác ở cửa sáu kho hàng trạm Đông, nhiều đời truyền lại Long phiếu. Đừng nhìn Long phiếu là món đồ chơi thời Thanh, đó chính là vật dụng để ấn định bát cơm từ thời tổ tông để lại cho nhóm người Hoả Thần Miếu. Cướp mảnh đất này cũng khác gì đào mộ tổ tiên nhà họ lên. Sơn Đông Câu Tử Bang là thế lực lớn nhất bên ngoài, chủ yếu là dân chạy nạn, trong đó đều toàn là em ruột cả. Những người này cực kỳ đoàn kết, đánh nhau sống chết. Do bị đám lưu manh châm ngòi nên nhóm này tới cửa sáu đánh nhau để tranh nghề khuân vác.

      Tranh cướp thế nào ư? Đơn giản là lúc đầu chỉ cần thêu dệt số chuyện là xong. Đối với những người khuân vác thuê Hoả Thần Miếu ở cửa sáu loại chuyện này xảy ra thành thói quen rồi. Nếu ai tới tranh, cứ theo luật lệ mà làm. Hai bên ghi tên những người vào đánh, rút thăm được ai người đó lên. Hai bên đấu , hẹn tới ngày dẫn vài trăm người tới cửa sáu kho hàng trạm Đông gặp mặt.

      Tối hôm đó trăng sáng, theo luật lệ cũ, Câu Tử Bang đưa người ra trước, tự chọc dao vào bụng, móc cả dạ dày trắng bóc cho đối phương xem.

      Bên Hoả Thần Miếu cũng chẳng ngạc nhiên, cũng phái ra người còn kinh hơn. Kẻ đó lấy đao thái ra chặt phứt cánh tay của mình , máu chảy như suối cũng chẳng màng, thậm chí cầm cả cánh tay vừa rơi xuống giơ ra cho đám người trước mặt xem: "Tặng các vị phần quà gặp mặt."

      Câu Tử thể yếu thế, bởi vì chỉ cần có chút khiếp hãi từ nay về sau đừng nghĩ tới chuyện lăn lộn ở nơi này nữa nên phái tiếp ra người. Đôi bên làm đủ các trò, ngươi chặt tay ta chặt chân, về sau còn đem lên cả chảo dầu sôi, đợi tới lúc dầu xôi, quăng vào trong đó đống tiền. Hoả Thần Miếu phái ra người, thò tay vào lấy đống tiền, cho dù động tác có nhanh tới mấy cánh tay móc tiền xong cũng chín nhừ, vậy mà mặt hề đổi sắc.

      Câu Tử cũng phái ra kiệu phu đứng trước chảo dầu tính toán làm cách nào thua Hoả Thần Miếu. Gã đại ca của Câu Tử đứng đằng sau đá ra cước làm gã kiệu phu bay thẳng vào chảo dầu.

      Nhóm người khuân vác Hoả Thần Miếu thấy Câu Tử có dũng khí, dám ném người sống vào chảo dầu sôi. Nếu tiếp tục đôi bên phải cùng ném người sống vào chảo dầu sôi. Tên kia vừa bay vào chảo dầu, khói đen bốc lên nghi ngút, chỉ sau ít phút trong chảo chỉ còn lại chút mỡ cặn. Nếu tiếp tục, bằng người ta tức là thua, thua tức là phải nhường địa bàn lại hoặc là cho đối phương chen chân vào.

      Nghĩ mãi, cuối cùng tìm ra được cách gì ác hơn 'ném người sống vào chảo dầu'. Văn phân cao thấp, kế tiếp là so võ. bên đấu bên về tàn nhẫn là đấu văn, hai bên quần ẩu là đấu võ. Bên Hoả Thần Miếu dùng cọc và búa, còn bên Câu Tử dùng móc kéo rương và gậy. Hai bên đánh nhau cạnh bờ sông, sống chết, đánh tới lúc máu thịt tung toé, chết hơn trăm người, đất có hơn hai mươi thi thể mất tay mất chân, cả đám như vũng máu.

      Đánh tới ác liệt vậy nhà nước cũng phải mắt nhắm mắt mở. Bởi vì từ trước tới nay, quan phủ luôn ngầm đồng ý với việc tranh đấu của đám khuân vác thuê. Mặc kệ là chết bao nhiêu người, đôi bên cứ thế mà tự giải quyết. Về sau phía Sơn Đông Câu Tử Bang đỡ nổi, chấp nhận ngừng đánh nhau, đồng ý từ nay về sau nhúng tay vào cửa sáu kho bãi trạm Đông nữa. Sau khi chiến thắng, bên Hoả Thần Miếu cũng lấn tới, chết là do số trời, qua rồi là trả thù nữa, sau đó còn xin bỏ tiền cho Câu Tử mua thuốc trị thương và an táng người chết.

      , cả người đầy bùn đất, giày ướt sũng, như thể vừa lên từ đáy sôngHai nhóm người dừng tay, ai bị thương chữa, chết nhặt xác về. Nhưng tính tính lại, số người chết là hai mươi hai nhưng mặt đất lại có hai mươi ba cái xác. Cho dù chết nhiều, mặt mũi biến dạng, sắc trời cũng u, mây mù che mờ cả trăng sáng, nhìn nhận ra ai, nhưng chết bao nhiêu người đều phải tính ra được. hiểu tại sao lại có hơn xác chết.

      Hoả Thần Miếu nhắc Câu Tử bang: "Quý bang tính nhầm đấy chứ. Có phải quên tính vị lúc nãy nhảy vào chảo dầu ?"

      Câu Tử Bang phải. Người nhảy vào chảo dầu tính. Đôi bên đều tính toán cả rồi, sai thế nào được. Rốt cuộc người mặt đất là ai?

      Kho hàng trạm Đông ở cạnh nhà ga Lão Long Đầu, đối diện với Hải Hà, chỉ có cửa vào, người ngoài thể vào được. Có hơn người nhất định phải là người của đôi bên. Tuy nhiên cả hai bên đều bảo có ai như thế, cuối cùng phải đốt đuốc lên, nhận dạng từng xác chết đất. Sau cùng phát ra xác chết mà ai biết. Người chết này là đàn ông, mặc áo đen quần đen miên hài, quần áo cứng lại như đồng tiền, bàn tay rắn như móc sắt.

      gã trong nhóm khuân vác Hoả Thần Miếu run lẩy bẩy kể lại, trong lúc hai bên tranh đấu kịch liệt thấy có người lên từ sông, ánh trăng mờ ảo nên cũng là ai, còn tưởng là gã nào bị đánh rơi xuống, tới lúc chạy tới nhìn thấy đúng là 'Hà phiêu tử' này.

      Dân gian thường gọi xác chết trôi sông ở Hải Hà là Hà phiêu tử. Xác chết này bò lên từ sông, chẳng phải là hành thi(xác chết biết ) sao? Đám người khuân vác thuê sợ tới ngây người. Lúc trước khi đánh nhau, cắm dao trắng vào rút ra dao đỏ mà mày nhíu, nhưng người xã hội cũ vốn mê tín, thấy hành thi lên từ sông là sợ tới mức biết phải làm thế nào. Trong đám khuân vác Hoả Thần Miếu có lão khá có kiến thức. Theo lời lão , lúc trước khi nhà ga Lão Long Đầu xây dựng, ở hai bên bờ Hải Hà có rất nhiều mộ, lúc đầu có dời mộ ra nơi khác chôn cất, nhưng vài cái chưa kịp dời vẫn để bên khu đất hoang cạnh sông. Tới ngày dọn sạch toàn bộ quan tài bên trong trống , nắp quan tài bị bật ra, xác chết trong quan thấy đâu. Có người là xác hoá thành cương thi chui xuống sông, cũng có người đạo tặc mở quan huỷ thi. Do có chủ nhà mộ phần ở đó thành ra cũng thể nào truy cứu được, cứ để sống chết mặc. chừng, xác chết này chính là con cương thi chui ra từ mộ phần đó, xuống dưới sông, vừa rồi bị máu tanh trong trận đánh hấp dẫn, nó mới bò lên, khi trước có ánh trăng, nhờ khí của trăng mới có thể chuyển động. Lúc này trăng bị mây che nó mới ngã xuống thể động đậy. Hà phiêu tử dễ đốt nên tốt nhất là báo cho đội tuần sông.

      Đám khuân vác thuê vội vàng tìm người thuộc đội tuần sông ngũ hà, còn cái xác kia ai dám động tới, lại sợ chút nữa ánh trăng chiếu xuống, nhỡ nó đứng dậy biết có giết người đây? Tính tính lại vẫn biết phải làm sao, cuối cùng ông lão cầm Long phiếu của tổ tiên ra, đặt viên gạch lên giữ đầu xác chết. Long phiếu đại Thanh có dấu của quan phủ, ngày trước ai đều cho rằng thứ này có thể trấn tà, đặt xác chết là thể động đậy. Hoả Thần Miếu để lại hai người canh xác, còn lại đều hết. Hai kẻ này thấy mây đen tản ra, ánh trăng lại chiếu xuống khỏi sợ tới run đầu.

      Hai gã khuân vác lo lắng đề phòng, dám tới gần, chỉ đứng xa xa canh gác. Thấy con rắn dưới sông bò vào tảng đá, hai gã dùng nhánh cây nghịch để giải buồn. Lúc đó, hai tên còn động viên nhau phải sợ, tốt xấu gì cũng có Long phiếu quan ấn đặt lên đầu Hà phiêu tử, sao có thể xảy ra chuyện gì được?

      như vậy, nhưng do lo sợ, hai người vẫn nhịn được phải quay lại xem, vừa thấy cái xác nằm ngang đất lập tức giật nảy: " ổn rồi!"

      Hoá ra bọn họ quên mất, cái xác chết này toàn là bùn đất, Long phiếu là tờ giấy vàng, có quan ấn ở , giấy kia thể để thấm nước được. biết bao lâu đặt xác chết, tờ giấy sũng cả nước, quan ấn ở cũng gần như mờ hết.

      Long phiếu là vật truyền đời của dân khuân vác cửa sáu nhà ga Lão Long Đầu, có vật này mà muốn sống yên ở đây nhất định phải cần cái mạng để đổi.

      Hai tên khuân vác vội vác con rắn , lao tới bóc Long phiếu ra, nhưng Long phiếu vốn cũ, lại bị ướt nên vừa bóc cái là rách tơi tả. Hai gã thầm kêu khổ trong lòng, lại thấy xác chết đất mở mắt ra.

      Ánh trăng mờ ảo chiếu lên mặt xác chết kia làm vừa nhìn phát run. Hai tên khuân vác hồn phi phách tán, mồm gọi từ cha mẹ tới ông bà, vội vã quay đầu bỏ chạy, nghe thấy tiếng hành thi đuổi đằng sau, cả hai bị doạ tới phát khiếp, tên nào dám quay đầu lại.

      Cửa sáu kho hàng trạm Đông ở ngay cạnh đường sắt, hai tên khuân vác chạy phía trước, hành thi đuổi phía sau, tới lúc qua đường ray đúng lúc tàu qua, hai tên khuân vác mạng lớn chết, còn xác chết đuổi theo bị nghiền nát đường ray. Tới lúc Quách sư phụ và Đinh Mão đội tuần sông tới xác chết bị nghiền gần như nát hết đường ray.

      Quách sư phụ cũng tin lắm vào lời của đám khuân vác, vì dù sao đây cũng chỉ là lời bên, làm sao có thể biết được lúc hai đám người đó đánh nhau, ngộ thương phải người ngoài xong rồi cố ý dùng hành thi dưới sông lên để che giấu? Nhưng dù sao những việc này cũng thuộc chức trách của đội tuần sông mà thuộc về cảnh sát. Lần này, Hoả Thần Miếu đánh nhau với Sơn Đông Câu Tử Bang gây chết quá nhiều người, gần đây cũng mấy khi xảy ra tranh đấu, vì thế cục cảnh sát bắt toán về sở. Quách sư phụ thấy Sơn Đông Câu Tử Bang có gì để sống nên cố giúp họ tìm việc làm bên bến tàu làm cho cả hai nhóm người Hoả Thần Miếu và Câu Tử Bang cảm tạ sâu sắc. Lúc đó, ông ta thấy con rắn bị tảng đá đè lên, lại thấy đâu là loại rắn cắn người nên nhất thời hảo tâm nhấc tảng đá lên, thả con rắn này . Nhưng rốt cuộc có chuyện gì xảy ra với cái đầu của hành thi kia?

      Cương thi bò lên từ sông là câu chuyện được kể nhiều nhất, ngoài ra còn có người rằng, có hung đồ đánh mê gây án, giết gã đồng hương, vốn định vứt xác xuống sông để huỷ thi diệt tích, ngờ người chết chìm xuống, lúc đó lại gặp đám khuân vác cửa sáu trạm Đông đánh nhau nên lập tức nhét xác chết vào trong đó. Kết quả làm cho số người chết của hai bên bị nhiều thêm người. Người nọ lúc đó hoàn toàn tắt thở, sau lúc hôn mê lại tỉnh dậy, tưởng nhầm đám khuân vác kia hãm hại mình nên quyết liều mạng với hai gã đó, cuối cùng bị xe lửa đâm chết. Câu chuyện này có vẻ hợp lý hơn, có điều nhà nước cũng xác thực, về sau tin tức lan nhanh, dân gian truyền truyền lại, rất nhiều người tin là , ai ai cũng cho mình từng nhìn tận mắt. Trước giải phóng, câu chuyện thi biến nhà ga Lão Long Đầu được phát sinh từ đó

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :