1. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Hỏa Ngục - Dan Brown (end)

Thảo luận trong 'Truyện Phương Tây'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      Hỏa Ngục

      Tác giả : Dan Brown

      Công ty phát hành: Bách Việt

      Nhà xuất bản: NXB Thời Đại

      Ngày xuất bản: 03/2014

      Chup pic: Hamy

      Type : Candy Lai, TMT....​

      KÍNH TẶNG CHA MẸ TÔI….

      ++++

      Lời cảm ơn


      Xin gửi lời cảm ơn chân thành và khiêm nhường nhất của tôi tới:

      Đầu tiên và hết là người bạn thân cũng là biên tập viên của tôi, Jason Kaufman, vì tận tâm và tài năng…nhưng chủ yếu là vì khiếu hài hước bất tận của ấy.

      Người vợ tuyệt vời của tôi, Blythe, vì tình và lòng kiên nhẫn của ấy với quá trình viết lách, và cũng vì những bản năng siêu đẳng và vô tư của ấy với tư cách là biên tập viên ở vị trí “tiền tuyến”.

      Đại diện biết mệt mỏi và cũng là người bạn tin cậy của tôi, Heide Lange, vì dẫn dất thành thạo nhiều cuộc trò chuyện ở nhiều quốc gia và về nhiều chủ đề hơn cả những gì tôi biết. Tôi mãi mãi biết ơn những kỹ năng và nghị lực của ấy.

      Xin cảm ơn toàn bộ đội ngũ nhân viên ở Doubleday vì lòng nhiệt thành, sáng tạo và nổ lực đối với các cuốn sách của tôi. Đặc biệt cảm ơn Suzanne Herz (vì phải đảm nhiệm quá nhiều vai trò…và đảm nhận rất thành công), Bill Thomas, Michael Windsor, Judy Jacoby, Joe Gallagher, Rob Bloom, Nora Reichard, Beth Meister, Marta Carella, Lorraine Hyland. Và cũng cảm ơn ủng hộ ngừng của Sonny Mehta, Tony Chirico, Kathy Trager, Anna Mesitte, và Markus Dohle. Cảm ơn những con người phi thường thuộc phòng kinh doanh của Nhà xuất bản Random…Các bạn quả là vô đối.

      Cảm ơn luật sư uyên bác của tôi, Michael Rudell, vì bản năng hoàn hảo tuyệt vời trong giải quyết tất cả các vấn đề, cả lớn và , cũng như vì tình bạn của ấy.

      Cảm ơn trợ lý thế thay thế của tôi, Susan Morehouse, vì thái độ làm việc và bền bỉ của ấy.Thiếu ấy, mọi thứ rơi vào hỗn loạn.

      Xin cảm ơn tất cả bạn bè của tôi ở Transworld, đặc biệt là Bill Scott-Kerr vì sức sáng tạo, ủng hộ và khuyến khích của ấy, và cả Gall Rebuke vì vai trò lãnh đạo siêu việt của ấy.

      Cảm ơn Nhà xuất bản của tôi ở Ý, Mondadori, đặc biệt là Ricky Cavallero, Piera Cusani, Giovanni Dutto, Antonio Franchini, và Claudia Scheu, và Nhà xuất bản ở Thổ Nhĩ Kỳ Altin Kitaplar, đặc biệt là Oya Alpar, Erden Heper, và Batu Bozkurt, vì giúp đỡ đặc biệt liên quan tới các địa danh trong cuốn sách này.

      Cảm ơn các nhà xuất bản tuyệt vời khác khắp thế giới vì tận tụy, chăm chỉ và cam kết của họ.

      Xin cảm ơn Leon Romero, Montalvo và Luciano Guglielmi vì vai trò quản lý rất ấn tượng của họ đối với công việc dịch thuật ở London và Milan.

      Xin gửi lời cảm ơn của tôi tới Tiến sĩ Marta Alvarez Gonzalez vì dành rất nhiều thời gian với chúng tôi ở Florence, và mang sức sống tới cho nghệ thuật và kiến trúc của thành phố.

      Cảm ơn Maurizio Pimponi, con người có hai, vì tất cả những gì ấy làm để trợ giúp chuyến của chúng tôi tới nước Ý.

      Xin chân thành cảm ơn tất cả các nhà sử học, hướng dẫn viên, và các chuyên gia dành nhiều thời gian với tôi ở Florence và Venice, chia kiến thức của họ: Giovanna Rao và Eugenia Antonucci ở Thư viện Medicea Laurenzianna, Serena Pini và đội ngũ nhân viên ở Cung điện Vecchio, Giovanna Giusti ở Phòng trưng bày Uffizi, Barbara Fedeli ở Nhà rửa tội và Il Duôm, Ettore Vito và Massimo Bisson ở Thánh đường St.Mark, Giorgio Tagliaferro ở Cung Doge, Issabella di Lenardo, Elizabeth Carroll Consavari, và Elena Svalduz ở Venice, Annalisa Bruni; và đội ngũ nhân viên ở Thư viện Quốc gia Marcianna, và tới nhiều người mà tôi thể nhắc đến trong bản danh sách ngắn gọn này.

      Cảm ơn Richael Dillon Fried và Stephanie Delman ở Cơ quan Đại diện Sanford J.Greenburger vì tất cả những gì họ làm cả ở Mỹ và ở nước ngoài.

      Xin được cảm ơn những bộ óc phi thường của Tiến sĩ George Abraham, Tiến sĩ John Treanor, và Tiến sĩ Bob Helm vì khoa học chuyên môn của họ.

      Chân thành cảm ơn các độc giả đầu tiên của tôi, những người đưa ra quan điểm của mình: Greg Brown, Dick và Connie Brown, Rebecca Kaufman, Jerry và Olivia Kaufman, John Chaffee.

      Cảm ơn chuyên gia web Alex Cannon, người cùng với nhóm cộng ở Xưởng Truyền thong Sanborn giữ cho mọi thứ hoạt động suôn sẻ trong thế giới trực tuyến.

      Cảm ơn Judd và Kathy Gregg dành cho tôi gian yên tĩnh trong khuôn viên Green Gables để tôi viết những chương cuối của cuốn sách này.

      Cảm ơn những nguồn trực tuyến tuyệt vời của Dự án Princeton Dante, Digital Dante tại Đai học Columnia, và The World of Dante.



      NHỮNG NƠI TĂM TỐI NHẤT CỦA ĐỊA NGỤC DÀNH RIÊNG CHO NHỮNG KẺ GIỮ THÁI ĐỘ TRUNG DUNG TRONG THỜI KỲ KHỦNG HOẢNG ĐẠO ĐỨC.

      +++++++++

      Cơ sở thực tế


      Mọi thông tin tham khảo bằng hình ảnh, minh họa, văn học, khoa học, và lịch sử trong cuốn tiểu thuyết này đều có .

      “Consortium” là tổ chức tư nhân có văn phòng đặt tại bảy quốc gia. Tên của tổ chức được thay đổi vì những lý do an ninh và quyền riêng tư.

      Hỏa ngục (Inferno) là thế giới địa ngục được mô tả trong trường ca Thần Khúc (The Divine Comedy) của Dante Alighieri. Bản trường ca này khắc họa địa ngục như vương quốc có cấu trúc phức tạp, là nơi cư ngụ của những thực thể được cho là “vong linh” – những linh hồn vô hình bị mắc kẹt giữa chốn dương gian và cõi chết.



      Khúc dạo đầu


      Ta là Vong linh

      Qua thành phố buồn đau, ta lẩn tránh.

      Qua nỗi thống khổ vĩnh hằng, ta trốn chạy.

      Ta lê bước dọc bờ song Arno, thở ra hơi…rẽ trái vào Via dei Castellani, lần lên phía bắc, lẩn vào những bóng râm của tòa nhà Uffizi (1) .

      Và chúng vẫn truy lùng ta.

      Giờ nghe bước chân của chúng hơn khi mà chúng quyết tâm săn đuổi đến cùng.

      Chúng săn lùng ta nhiều năm ròng. đeo bám dai dẳng của chúng khiến ta phải ở dưới hầm…buộc ta phải sống trong cõi luyện hồn…quằn quại bên dưới mặt đất như con quái vật phủ.

      Ta là Vong linh.

      mặt đất lúc này, ta nhướng mắt nhìn về phương bắc, nhưng thể tìm thấy con đường thẳng tới cứu rỗi…vì dãy núi Apennine che lấp tia sáng đầu tiên của buổi bình minh.

      Ta qua phía sau tòa nhà có ngọn tháp và những lỗ châu mai và đồng hồ chỉ có kim…lách qua những người bán hàng rong buổi sớm ở Quảng trường San Firenze, tiếng rao khàn khàn của họ còn nồng nặc mùi lampredotto và ô liu nướng. Băng qua trước bảo tàng Bargello 2 , ta cắt sang mé tây vè phía cầu thang xoắn ốc của Tu viện Badia 3 và đến ngay trước cổng sắt ở dưới chân cầu thang.

      Đến đây, phải gạt bỏ sau lưng mọi do dự

      Ta vặn tay nắm và bước vào lối ta biết có đường trở lại. Ta hối thúc đôi chân nặng như chì bước lên dãy cầu thang hẹp…leo lên theo chiều xoắn ốc những bậc thang bằng đá cẩm thạch mềm, lỗ chỗ và sứt mẻ.

      Từ phía dưới vang lên những giọng . van nài.

      Chúng ở phía sau ta, nhượng bộ, xáp lại gần.

      Chúng hiểu chuyện gì sắp đến…cũng như những gì ta làm cho chúng!

      Đúng là mảnh đất bạc bẽo!

      Khi ta leo lên, tầm nhìn trở nên khó khăn… Những thân hình đầy dục vọng quằn quại trong làn mưa dữ dội, các linh hồn tham lam ngoi ngóp trong phân thối, những kẻ xấu xa xảo trá đông cứng trong vòng tay băng giá của quỷ Satan.

      Ta trèo lên mấy bậc thang cuối cùng và lên đến đỉnh, loạng choạng ngã vào bầu khí ẩm ướt buổi sớm. Ta lao tới bức tường cao hơn đầu người, nhìn qua những kẻ hở. Xa phía dưới là thành phố thiêng liêng, nơi ta phải tìm cách trốn tránh những kẻ đày ải ta.

      Những giọng vang lên, xáp lại gần phía sau lưng ta.“Những điều ông vừa làm điên rồ!”

      Điên rồ dung dưỡng điên rồ.

      “Vì tình của Chúa!”, chúng gào lên, “Hãy cho chúng, tôi biết ông giấu nó ở đâu!”.

      Nhưng chính vì tình của Chúa, ta .

      Giờ ta đứng,bị dồn vào chân tường, lưng tựa vào lớp đá lạnh. Chúng nhìn xoáy vào đôi mắt xanh trong veo của ta, và nét mặt chúng sầm lại, còn vẻ phỉnh phờ, mà là hăm dọa. “Ông biết chúng tôi có phương pháp của mình mà. Chúng tôi có thể buộc ông nó ở đâu.”

      Vì lý do đó, ta qua nửa chặng đường lên thiên đàng.

      Chẳng cần báo trước, ta xoay người và rướn lên, bấu những ngón tay vào gờ tường cao, đu mình lên, bò hai gối, rồi đứng dậy…chênh vênh vách tường. Xin hãy dẫn dắt ta, Virgil quý, vượt qua khoảng trống rỗng.

      Chúng ngạc nhiên, nhào tới trước như muốn tóm lấy chân ta, nhưng lại sợ rằng chúng làm ta mất thăng bằng và ngã nhào xuống. Giờ chúng van xin, trong nỗi tuyệt vọng lặng câm, nhưng ta xoay lung lại phía chúng. Ta biết mình phải làm gì.

      Phía dưới ta, xa tít đến chóng mặt, những mái ngói đỏ chạy dài như biển lửa chốn thôn quê, chiếu sáng mảnh đất thanh sạch nơi những người khổng lồ từng dạo bước… Giotto, Donatello, Brunelleschi, Michelangelo, Botticelli.

      Ta nhích từng ngón chân đến mép tường.

      “Xuống đây !”, chúng gào lên. “Vẫn còn chưa quá muộn mà!”

      Ôi, những kẻ ngu dốt nganh ngạnh! Các ngươi nhìn thấy tương lai ư? Các ngươi hiểu thấu vẻ huy hoàng ở các tác phẩm sáng tạo của ta ư? thiết yếu ư?

      Ta vui vẻ thực hy sinh tối thượng này…và bằng việc đó, ta dập tắt hy vọng cuối cùng của các ngươi hòng tìm ra những gì các ngươi lùng kiếm.

      Các ngươi chẳng bao giờ kịp tìm thấy nó đâu.

      Sâu dưới kia hằng trăm mét, quảng trường rải đá cuội như ốc đảo yên bình mời gọi. Ta làm sao đợi thêm được nữa…trong khi thời gian chính là thứ hàng hóa cho dù có bộn tiền ta cũng thể mua được.

      Trong vài giây cuối cùng, ta phóng tầm mắt xuống quảng trường, và nhìn thấy cảnh tượng khiến ta giật mình.

      Ta nhìn thấy gương mặt nàng.

      Từ trong bóng râm, nàng ngước lên nhìn ta.Đôi mắt nàng u sầu, nhưng trong đôi mắt ấy, ta cảm nhận được tôn kính dành cho những gì ta hoàn thành.Nàng hiểu ta còn lựa chọn nào khác.Vì tinh với Nhân loại, ta phải bảo vệ kiệt tác của mình.

      Ngay lúc này nó vẫn phát triển… chờ đợi… ỉ bên dưới làn nước màu đỏ máu của cái đầm chẳng bao giờ phản chiếunhững ánh sao.

      Ta rời mắt khỏi nàng và nhìn về phía chân trời. Phía thế giới đau khổ này, ta lời khẩn cầu cuối cùng.

      Hỡi Chúa kính , con cầu xin thế giới ghi nhớ tên con phải như kẻ tội đồ đáng ghê tởm, mà như vị cứu tinh vẻ vang, người biết là như vậy. Con cầu xin Nhân loại hiểu món quà con để lại phía sau.

      Món quà của con là tương lai.

      Món quà của con là cứu rỗi.

      Món quà của con là Hỏa ngục.

      xong, ta thầm khấn amen… và gieo bước chân cuối cùng vào khoảng thăm thẳm.



      (1) Uffizi Gallery là bảo tang ở Florence, trong những bảo tàng nghệ thuật lâu đời và nổi tiếng nhất. Tòa nhà được Giorgio Vasari xây dựng năm 1560 làm văn phòng cho các quan tòa – vì thế mà thành tên gọi “uffizi” (tức “office” hay “văn phòng”). (chú thích trong sách này là của dịch giả)

      (2) Cung điện Bargello, còn gọi là Cung điện Nhân dân (Palazzo del Popolo) vốn là trại lính và nhà tù, nay là bảo tàng nghệ thuật ở Florence, Ý. Đây là công trình công cộng cổ nhất Florence, được xây dựng năm 1255. Năm 1574, gia tộc Medici cho cảnh sát trưởng (bargello) của Florence đóng trụ sở tại tòa nhà này, vì thế thành tên gọi. Từ năm 1865, Bargello trở thành bảo tàng Quốc gia (Museo Nazionale del Bargello) trưng bày bộ sưu tập lớn nhất về điêu khắc Gothic và Phục hưng ở Ý (thế kỷ XVI - XVII)

      (3 ) Badia Fiorentina là tu viện kiêm nhà thờ phố Via del Proconsolo ở trung tâm Florence. Người ta cho rằng thi hào Dante, tác giả Thần Khúc, lớn lên ngay bên kia phố trong ngôi nhà được xây lại năm 1910 làm Bảo tàng Dante. nay, Badia là giáo đoàn của các tu sĩ và nữ tu dòng Tín hữu Gerusalemme, với các buổi cầu kinh hằng chiều lúc 6 giờ.

      Last edited by a moderator: 20/8/14

    2. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      CHƯƠNG 1
      Chụp pic: Hamy
      Type: Thu


      Ký ức chầm chậm phục hồi… như bong bóng sủi lên từ thẳm sâu của cái giếng đáy.

      phụ nữ che mạng.

      Robert Langdon đăm đăm nhìn người phụ nữ phía bên kia con sông nước đỏ sánh như máu. Ở bờ bên đó, người phụ nữ đứng đối diện , bất động, trang nghiêm, gương mặt dưới tấm mạng che. Tay giữ chặt mảnh vải tainia màu lam, được giơ cao lên để tỏ lòng tôn kính với biển xác chết dưới chân mình. Mùi tử khí nồng nặc khắp nơi.

      Hãy tìm kiếm, người phụ nữ thào. thấy.

      Langdon nghe thấy những từ ấy như thể người phụ nữ ngay trong đầu . “ là ai?”, gọi to, nhưng giọng hề phát thành tiếng.

      Thời gian cạn dần, người ấy thào. Hãy tìm kiếm và thấy.

      Langdon nhích bước về phía sông, nhưng nhìn thấy nước đỏ như máu và quá sâu, thể lội qua. Khi Langdon ngước mắt nhìn lại người phụ nữ che mạng những xác người dưới chân nhân lên vô khối. Giờ có đến cả trăm, có khi hàng nghìn, số vẫn còn sống, quằn quại trong đau đớn, chịu đựng những cái chết dễ gì nghĩ ra được… bị lửa thiêu đốt, bị vùi lấp trông phân thối, xâu xé lẫn nhau. có thể nghe những tiếng kêu thảm thiết của con người vang vọng mặt nước.

      Người phụ nữ tiến về phía , chìa hai cánh tay mảnh mai như thể cầu xin giúp đỡ.

      là ai?”, Langdon lại gọi to.

      Đáp lại, người phụ nữ giơ tay và từ từ gỡ tấm mạng khỏi mặt mình. Bà ấy đẹp mê hồn, nhưng già hơn Langdon hình dung – có lẽ ngoài sáu mươi, oai nghiêm và rắn rỏi, giống như bức tượng nhuốm màu thời gian. Bà ấy có cái cằm cương nghị, đôi mắt sâu thẳm có hồn, và mái tóc bạc dài với những lọn quăn buông xõa xuống bờ vai. Cổ bà ấy đeo miếng bùa bằng lam ngọc hình con rắn quấn quanh cây quyền trượng.

      Langdon có cảm giác mình biết bà ấy… tin tưởng bà. Nhưng bằng cách nào? Tại sao lại như vậy?

      Lúc này bà ấy chỉ tay vào đôi chân giãy giụa, thò ngược lên từ dưới đất, ràng là chân của sinh linh bất hạnh nào đó bị chôn ngược đầu tới tận thắt lưng. Phần đùi tái nhợt của người đó có con chữ duy nhất – viết bằng bùn – R.

      R ư? Langdon ngẫm nghĩ, đầy phân vân. Giống như trong… Robert ư? “ lẽ đó là… mình?”

      Gương mặt người phụ nữ hé lộ gì cả. Hãy tìm và thấy, bà ấy nhắc lại.

      hề báo trước, người bà ấy bắt đầu tỏa ra thứ ánh sáng màu trắng… càng lúc càng sáng hơn. Cả cơ thể bà bắt đầu rung lên dữ dội, và sau đó, kèm theo tiếng nổ lớn, bà vỡ tan thành cả nghìn mảnh ánh sáng.

      Langdon hét lên, choàng tỉnh.

      Căn phòng sáng trưng. Chỉ có mình . Mùi cồn y tế nồng gắt trong khí và đâu đó có tiếng máy phát ra những thanh trùng khớp với nhịp tim của . Langdon cố gắng nhúc nhích cánh tay phải, nhưng cơn đau nhói khiến đành thúc thủ. nhìn xuống phía dưới và thấy ống truyền dính chặt lấy lớp da cánh tay mình.

      Mạch đập rộn, và cỗ máy cũng giữ đúng nhịp, phát ra những tiếng kêu nhanh hơn.

      Mình ở đâu thế nhỉ? Có chuyện gì biết?

      Gáy Langdon nhói lên con đau buốt. Rất cẩn thận, đưa cánh tay còn lại chạm vào mặt mình, cố gắng định vị nguồn gốc cơn đau đầu. Bên dưới mái tóc rối bù, sờ thấy những nốt u cứng ngắt của hàng chục mũi khâu đóng vảy vì máu khô.

      nhắm mắt, cố gắng nhớ lại vụ tai nạn.

      nhớ được gì cả. Trống rỗng hoàn toàn.

      Nghĩ .

      Chỉ có bóng tối mịt mùng.

      người đàn ông mặc đồ thanh trùng bước vội vào, chắc chắn vì thấy màn hình cảnh báo nhịp tim đập nhanh của Langdon. Ông ấy có bộ râu dày, ria cũng rậm, và đôi mắt dịu dàng toát ra vẻ điềm tĩnh ân cần bên dưới đôi lông mày rậm.

      có chuyện.. gì vậy?”, Langdon gắng gượng. “Tôi bị tai nạn à?”

      Người đàn ông râu rặm đưa ngón tay lên môi và sau đó chạy vội ra ngoài, gọi ai đó dưới sảnh.

      Langdon xoay đầu, cử động đó gây ra cơn đau nhói lan khắp người . hít mấy hơi sâu để cơn đau dịu . Sau đó, rất nhàng và cẩn thận, quan sát gian vô trùng xung quanh mình.

      Căn phòng bệnh viện này có giường đơn. hoa hòe gì cả. bảng hiệu, Langdon nhìn thấy quần áo mình chiếc bàn quầy gần đó, gấp gọn trong túi nhựa trong. Tất cả đều dính máu.

      Chúa ơi. Chắc chắn là rất tệ.

      Giờ Langdon chậm rãi xoay đầu về phía ô cửa sổ cạnh giường. Bên ngoài trời tối om. đêm. Tất cả những gì Langdon có thể nhìn thấy kính là hình phản chiếu của kẻ xa lạ nhợt nhạt, xanh xao và mệt mỏi, người đầy ống và dây nhợ, xung quanh là các thiết bị y tế.

      Có tiếng tiến lại gần trong hành lang, và Langdon đưa mắt trở lại căn phòng. Vị bác sĩ quay lại, cùng với người phụ nữ.

      ấy có vẻ như mới ngoài ba mươi chút. mặc bộ đồ thanh trùng màu xanh da trời và buộc gọn mái tóc vàng thành túm đuôi ngựa đung đưa sau gáy theo nhịp chân của .

      “Tôi là bác sĩ Sienna Brooks”, , nhìn Langdon mỉm cười ngay khi vừa bước vào. “Tôi làm việc cùng bác sĩ Marconi tối nay.”

      Langdon yếu ớt gật đầu.

      Cao ráo và uyển chuyển, bác sĩ Brooks di chuyển với dáng vẻ dứt khoát của vận động viên. Ngay cả khi trong bộ đồ thanh trùng kì cục, ở vẫn toát lên vẻ thanh thoát, thướt tha. Mặc dù Langdom có thể thấy hề trang điểm nhưng nước da của vẫn có vẻ mịn màng lạ thường, với khiếm khuyết duy nhất là nốt ruồi duyên xíu ngay phía môi. Đôi mắt , dù có màu hạt dẻ dịu dàng, dường như sắc sảo đến kỳ lạ, như thể chúng từng chứng kiến nhiều trải nghiệm mà người trạc tuổi hiếm có dịp được tao ngộ.

      “Bác sĩ Marconi được nhiều tiếng ”, lên tiếng và ngồi xuống cạnh . “Và ông ấy đề nghị tôi giúp điền mẫu đơn nhập viện cho .” lại mỉm cười.

      “Cảm ơn ”, Langdon rên rĩ.

      “Được rồi”, lên tiếng, giọng toát lên tháo vát ân cần. “Tên là gì nhỉ?”

      phải mất lúc mới trả lời được: ”Robert… Langdon”.

      Co rọi đèn soi vào mắt . “Nghề nghiệp?”

      Thông tin này được đưa ra còn chậm hơn nữa. “Giáo sư. Lịch sử nghệ thuật… và biểu tượng học. Đại học Harvard.”

      Bác sĩ Brooks hạ đèn xuống, vẻ ngạc nhiên. Vị bác sĩ với đôi mày rậm trông cũng bất ngờ kém.

      là… người Mỹ à?”

      Langdon ngơ ngác nhìn .

      “Chỉ là…”, ngập ngừng. “Tối qua lúc đến đây, hề có giấy tờ tùy thân. Lúc ấy mặc đồng phục Harris Tweed và giày lười hiệu Someset, cho nên chúng tôi đoán là người .”

      “Tôi là người Mỹ”, Langdon quả quyết với , nhưng quá mệt thể giải thích được rằng rất chuộng quần áo may đo riêng.

      có thấy đau chỗ nào ?”

      “Ở đầu tôi”, Langdon đáp, cái đầu vẫn nhoi nhói của gặp ánh đèn rọi sáng quắc càng thêm khó chịu. May thay, bác sĩ Brooks bỏ đèn vào túi, cầm lấy cổ tay Langdon và kiểm tra mạch đập.

      “Lúc tỉnh lại, la hét dữ dội”, . “ có nhớ tại sao ?”

      Langdon vụt nhớ lại hình ảnh kỳ quái về người phụ nữ đeo mạng với những xác người quằn quại xung quanh. Hãy tìm và thấy. “Tôi gặp cơn ác mộng.”

      “Như thế nào?”

      Langdon kể lại cho nghe.

      Nét mặt của bác sĩ Brooks vẫn thản nhiên khi ghi chép kẹp hồ sơ. “ có nghĩ được điều gì gợi ra hình ảnh khinh khủng như vậy ?”

      Langdon lục lại ký ức rồi lắc đầu, động tác ấy khiến đau nhói như bị búa nện.

      “Được rồi, Langdon”, , vẫn hý hoáy viết, “Có vài câu hỏi thông thường dành cho . Hôm nay là thứ mấy trong tuần rồi?”.

      Langdon nghĩ lúc. “Thứ bảy. Tôi nhớ lúc sớm hôm nay mình bộ qua khuôn viên,chuẩn bị có loạt tiết giảng buổi chiều… đó là điều cuối cùng tôi nhớ được. Tôi bị ngã phải ?”

      “Chúng ta sau. có biết mình ở đâu ?”

      Langdon cố phán đoán. “Bệnh viện Đa khoa Massachusetts phải ?”

      Bác sĩ Brooks lại ghi chép: “Và chúng tôi có cần gọi ai đó cho ? Vợ? Hoặc con cái?”

      có ai cả”, Langdon đáp lại theo bản năng. luôn thích tĩnh mịch và độc lập mà mình có nhờ lựa chọn cuộc sống độc thân, mặc dù phải thừa nhận rằng, trong tình huống tại, thèm có được gương mặt quen thuộc ở bên cạnh. “Tôi có thể gọi cho vài đồng nghiệp, nhưng tôi ổn mà.”

      Bác sĩ Brooks ngừng ghi chép, và vị bác sĩ lớn tuổi hơn tiến lại gần. Ông ấy vuốt vuốt đôi mày rầm về phía sau, móc từ trong túi chiếc máy ghi và đưa cho bác sĩ Brooks. gật đầu hiểu ý và xoay lại phía bệnh nhân của mình.

      Langdon, tối nay khi đến đây, cứ lẩm bẩm nhắc nhắc lại điều gì đó.” liếc nhìn bác sĩ Marconi giơ chiếc máy ghi kỹ thuật số ra và bấm nút.

      đoạn ghi bắt đầu chạy, và Langdon nghe thấy giọng nhát gừng của minh, lặp lặp lại cùm từ: “Rất… xin lỗi. Rất… xin lỗi.”

      “Theo tôi nghe”, người phụ nữ , “giống như “Rất xin lỗi. Rất xin lỗi”.

      Langdon tán thành, nhưng lại hề nhớ gì về chuyện đó.

      Bác sĩ Brooks đăm đăm nhìn với ánh mắt cực kỳ đáng ngại. “ có ý tưởng gì về lý do tại sao lại câu này ? xin lỗi vì điều gì đó chăng?”

      Khi Langdon lục lại những chỗ tối nhất trong ký ức của mình, lại nhìn thấy người phụ nữ che mạng. Bà ấy đứng bờ con sông đỏ máu với những xác người xung quanh. Mùi tử khí quay trở lại.

      Bỗng nhiên Langdon thấy ngập trong cảm giác rất bản năng về nguy hiểm… chỉ cho chính … mà cho tất cả mọi người. Tiếng máy theo dõi nhịp tim của tăng vọt. Các cơ trong người cứng lại, và gắng ngồi dậy.

      Bác sĩ Brooks vội ấn mạnh tay lên ức Langdon, ép nằm xuống. liếc nhanh về phía vị bác sĩ râu rặm lúc này bước về phía cái bàn quầy kế bên và bắt đầu chuẩn bị thứ gì đó.

      Bác sĩ Brooks ghé sát người xuống Langdon, thào. “ Langdon, tâm lý lo lắng là chuyện rất bình thường với những ca chấn thương não, nhưng cần giữ cho mạch đập giảm xuống. Đừng cử động. Đừng kích động. Hãy nằm yên và nghĩ ngơi. ổn thôi. Trí nhớ của dần dần hồi phục.”

      Giờ vị bác sĩ kia quay lại cùng ống tiêm và trao cho bác sĩ Brooks. bơm toàn bộ số thuốc bên trong vào ống truyền của Langdon.

      “Chỉ là liều an thần để bình tĩnh lại”, giải thích, “Và cũng để giảm đâu nữa”. đứng lên. “ ổn thôi, Langdon. Hãy ngủ . Nếu cần gì, hãy bấm cái nút bên cạnh giường.”

      tắt đèn và rời cùng với bác sĩ râu rậm.

      Trong bóng tối, Langdon cảm nhận chất thuốc ngấm qua cơ thể gần như ngay tức , kéo thân xác chìm trở lại cái giếng sâu mà vừa ngoi lên. cố chống lại cảm giác đó, cố mở to mắt trong bóng tối của căn phòng. gắng ngồi dậy, nhưng có cảm giác cơ thể mình giống như cả khối xi măng.

      Khi nhúc nhích, Langdon lại thấy mình nhìn ra ô cửa sổ. Đèn đóm tắt cả, và trong ô kính tối đen, hình ảnh phản chiếu của biến mất, thay vào đó là đường chân trời sáng lên phía xa.

      Xen giữa những chóp nhọn và mái vòm nhấp nhô, nổi bật trong tầm nhìn của Langdon là mặt nền tráng lệ. Tòa nhà là pháo đài đá rất uy nghi với lan can hình chữ V và ngọn tháp cao đến gần trăm mét phình ra ở gần đỉnh, tạo thành khối đồ sộ có lỗ châu mai.

      Langdon ngồi thẳng dậy giường, cơn đau như nổ tung trong đầu . gắng nén cơn đau giần giật dữ dội và đăm đăm nhìn ngọn tháp.

      Langdon biết rất công trình trung cổ này.

      Nó là thứ độc nhất vô nhị thế giới.

      Tiếc thay, nó còn nằm cách xa Massachusetts tới bốn nghìn dặm.

      Bên ngoài, cửa sổ phòng , kín trong bóng tối của tòa nhà Via Torregalli(4), phụ nữ có vóc dáng khỏe mạnh thong dong đẩy chiếc mô tô BMW tiến tới với tập trung cao độ của con beo rình mồi. Ánh mắt của ả sắc lạnh. Mái tóc cắt ngắn kiểu đầu đinh của ả nổi bật phần cổ áo dựng ngược của bộ đồ lái xe bằng da đen. Ả kiểm tra lại vũ khí giảm thanh của mình, và chăm chú nhìn lên ô cửa sổ nơi ánh đèn Robert Langdon vừa tắt.

      Chập tối nay, nhiệm vụ ban đầu của ả thất bại thảm hại.

      Tiếng gù của con bồ câu lẻ đàn làm thay đổi mọi việc.

      Giờ ả đến để giải quyết mọi thứ cho êm đẹp.



      (4)Biệt thụ Torregalli (hay lâu đài Torre Galli) là phần của hệ thống pháo đài ở vùng Soffiano, thuộc gia tộc Nerli. Đến thế kỷ 17, quyền sở hữu thuộc về gia tộc Galli và đến năm 1868, nơi này trở thành tài sản của Paolo Gentile Farinola, người cho xây lại các phần tường có lỗ châu mai theo phong cách Trung cổ. Năm 1991, nó được công nhận là di tích lịch sử nghệ thuật và nằm trong chế độ công quản.
      Last edited by a moderator: 19/8/14

    3. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      CHƯƠNG 2
      Type: TMT

      Mình ở Florence ư!?

      Đầu Robert Langdon đau như búa bổ. Lúc này ngồi thẳng chiếc giường bệnh, liên tục nhấn nút gọi bác sĩ. Bất chấp số thuốc an thần trong cơ thể, tim vẫn đập rộn.

      Bác sĩ Brooks vội vã chạy vào, túm tóc đuôi ngựa của đung đưa “ ổn chứ?”

      Langdon lắc đầu đầy hoang mang. “Tôi ở…Ý à?”

      “Tốt rồi”, . “ dần nhớ lại.”

      !” Langdon chỉ tay ra ngoài cửa sổ về phía tòa lâu đài uy nghi phía xa. “Tôi nhận ra cung điện Vecchio.”

      Bác sĩ Brooks bật đèn sáng trở lại, và đường chân trời của Florence biến mất. đến bên giường , dịu dàng khẽ. “ Langdon, cần phải lo lắng như vậy. tạm thời bị mất trí nhớ, nhưng bác sĩ Marconi khẳng định chức năng não bộ của vẫn ổn.”

      Vị bác sĩ rậm râu cũng chạy xộc vào, ràng ông cũng nghe thấy tiếng nút gọi. Ông kiểm tra máy theo dõi nhịp tim của Langdon trong khi đó nữ bác sĩ trẻ liến thoắng với ông bằng thứ tiếng Ý rất trôi chảy, hình như về việc Langdon “ kích động “ như thế nào khi biết mình ở Ý …

      Kích động ư? Langdon giận dữ nghĩ thầm. Chết sững đúng hơn! Andrenalin trào dâng trong cơ thể lúc này đối chọi với thuốc an thần. “Có chuyện gì xảy ra với tôi?”, gặng hỏi. “Hôm nay là thứ mấy?”

      “Mọi thứ đều ổn”, đáp. “Mới rạng sáng. Thứ Hai, ngày Mười tám tháng Ba.”

      Thứ hai.

      Langdong cố ép bộ óc đau nhói tua lại những hình ảnh cuối cùng có thể nhớ ra – lạnh lẽo và tăm tối – bước mình qua khuôn viên Harvard để tới buổi giảng bài tối thứ Bảy. Tức là hai ngày trước ư?! cơn đau nhức buốt hơn níu chặt lấy Langdon khi cố nhớ lại bất kỳ chi tiết nào kể từ buổi lên lớp hoặc sau đó. Chẳng nhớ được gì. Tiếng máy theo dõi nhịp tim của tăng nhanh.

      Vị bác sĩ lớn tuổi gãi gãi chòm râu và tiếp tục điều chỉnh thiết bị trong khi bác sĩ Brooks ngồi xuống bên cạnh Langdon.

      ổn thôi”, trấn an , giọng rất dịu dàng. “Chúng tôi chẩn đoán bị suy yếu ký ức cũ, chứng rất phổ biến khi bị chấn thương vùng đầu. Ký ức về vài ngày qua của có thể lộn xộn hoặc biến mất, nhưng hề bị tổn thương nào vĩnh viễn.” ngừng lại. “ có nhớ được tên tôi ? Tôi với lúc tôi mới vào đây.”

      Langdon nghĩ lúc, “Sienna”. Bác sĩ Sienna Brooks.

      mỉm cười. “Thấy ? hình thành trí nhớ mới.”

      Cơn đau đầu khiến Langdon gần như chịu nổi, và tầm nhìn rất gần của vẫn mờ nhòa. “Có chuyện gì…vậy? Làm thế nào tôi đến được đây?”

      “Tôi nghĩ nên nghỉ ngơi, và có lẽ…”

      “Làm sao tôi đến được đây?”, gặng hỏi, máy theo dõi nhịp tim càng nhanh thêm.

      “Được rồi, hãy thở đều nào”, bác sĩ Brooks , trao đổi với đồng nghiệp cái nhìn lo lắng. “Tôi với .” Giọng trở nên nghiêm túc thấy . “ Langdon, ba giờ trước, lảo đảo bước vào phòng cấp cứu, đầu có vết thương chảy máu, và ngã gục ngay lập tức. có người nào biết là ai hay làm cách nào tới được đây. cứ lầm bầm bằng tiếng cho nên bác sĩ Marconi đề nghị tôi hỗ trợ. Tôi từ tới đây nghỉ phép.”

      Langdon cảm thấy như thể mình vừa tỉnh lại trong bức tranh của Max Emst*. Mình làm quái gì ở Ý chứ? Thông thường Langdon vẫn tới đây vào mỗi dịp tháng Sáu để dự hội thảo về nghệ thuật, nhưng giờ mới là tháng Ba.

      (* Max Emst: ( 1891-1976 ) là họa sĩ, nhà điêu khắc và là nhà thơ người Đức. Ông được coi là trong những nhà tiên phong của phong trào Dada và chủ nghĩa siêu thực.)



      Thuốc an thần giờ có tác dụng mạnh hơn, và cảm thấy như thể lực hút trái đất tăng dần lên theo từng giây, ghìm chặt xuống tấm đệm. Langdon cố cưỡng lại, ngẩng cao đầu, gắng giữ tỉnh táo.

      Bác sĩ Brooks nghiêng người về phía , như thiên thần che chắn. “Nào, Langdon”, thầm. “ Chấn thương đầu rất nhạy cảm trong vòng hai mươi tư giờ đầu tiên. cần nghỉ ngơi, hoặc bị chấn thương nghiêm trọng đấy.”

      Đột ngột có tiếng lại xạo vang lên trong hệ thống liên lạc của căn phòng. “Bác sĩ Marconi?”

      Vị bác sĩ có râu nhấn chiếc nút tường và trả lời, “Vâng?”.

      Giọng trong hệ thống liên lạc bằng tiếng Ý rất nhanh. Langdon thể nghe được họ gì, nhưng nhìn thấy hai vị bác sĩ trao đổi cái nhìn đầy ngạc nhiên. Hay báo nguy chăng?

      Chờ chút”, Marconi đáp, kết thúc cuộc trò chuyện.

      “Có chuyện gì vậy?”, Langdon hỏi.

      Đôi mắt của bác sĩ Brooks dường như hơi nheo lại chút. “Nhân viên lễ tân bộ phận chăm sóc đặc biệt ấy mà. Có người tới thăm .”

      tia hi vọng rọi qua trạng thái chếnh chóng của Langdon. “Tin vui đấy! Có lẽ người này biết chuyện gì xảy ra với tôi.”

      Trông Brooks chắc chắn lắm. “Hơi lạ là lại có ai đến đây. Chính chúng tôi còn thể biết tên , và thậm chí còn chưa được đăng kí vào hệ thống.”

      Langdon cố chống chọi lại tác dụng của các loại thuốc giảm đau và loay hoay tìm cách ngồi thẳng lại giường. “Nếu có ai đó biết tôi ở đây, nhất dịnh người đó phải biết có chuyện gì xảy ra!”

      Bác sĩ Brooks liếc nhìn bác sĩ Marconi, ông lập tức lắc đầu và liếc đồng hồ đeo tay. quay lại phía Langdon.

      “Đây là khoa chăm sóc đặc biệt”, giải thích. “ ai được phép vào, sớm nhất cũng phải tới 9 giờ sáng. lát nữa bác sĩ Marconi ra xem vị khách kia là ai và người đó muốn gì.”

      “Thế còn điều tôi muốn sao?”, Langdon vặn hỏi.

      Bác sĩ Brooks kiên nhẫn mỉm cười và hạ giọng, cúi xuống sát hơn. “ Langdon, có vài việc trong tối nay mà chưa biết…liên quan đến chuyện xảy ra với . Và trước khi trò chuyện với bất kỳ ai, tôi nghĩ tốt hơn cả là nên có đầy đủ mọi dữ kiện. Rất tiếc tôi nghĩ là đủ khỏe mạnh để…”

      “Dữ kiện gì cơ?”, Langdon thắc mắc, cố nhỏm dậy thêm. Đường ống truyền dịch cánh tay nhói lên, và cơ thể ngã vật xuống như thể nặng đến vài trăm cân. “Tất cả những gì tôi biết là tôi nằm trong bệnh viện ở Florence và xuất trong khi lặp lặp lại mấy chữ “rất xin lỗi…””

      ý nghĩ đáng sợ vụt ra trong tâm trí .

      “Hay là tôi phải chịu trách nhiệm trong vụ tai nạn xe hơi?”, Langdon hỏi. “Tôi làm ai đó bị thương à?!”

      , ”, bác sĩ Brooks đáp, “Tôi nghĩ vậy!”

      “Vậy chuyện gì đây?”, Langdon cố nài, nhìn cả hai vị bác sĩ đầy giận dữ. “Tôi có quyền được biết chuyện gì xảy ra!”

      Im lặng kéo dài, và cuối cùng bác sĩ Marconi miễn cưỡng gật đầu với đồng nghiệp trẻ trung quyến rũ. Bác sĩ Brooks thở hắt ra và tiến lại sát bên giường của hơn. “Được rồi, để tôi kể lại cho những gì tôi biết…, và cần lắng nghe cách bình tĩnh, được chứ?”

      Langdon gật mạnh khiến cơn đau buốt lan khắp đầu . quan tâm lắm mà chăm chú chờ nghe câu trả lời.

      “Vấn đề đầu tiên là thế này…Vết thương ở đầu phải do vụ tai nạn gây ra.”

      “Tốt quá, cả người.”

      đơn giản thế đâu. Thực tế, vết thương của là do phát đạn.”

      Màn hình theo dõi nhịp tim của Langdon nhảy nhanh hơn, “Xin lỗi tôi nghe !”

      Bác sĩ Brooks điềm tĩnh nhưng nhanh gọn. “ viên đạn sượt qua đỉnh đầu và chắc chắn khiến bị chấn động. Rất may mắn là còn sống. Chỉ thấp xuống phân nữa …” lắc đầu.

      Langdon đăm đăm nhìn vẻ tin. Có ai đó bắn mình ư?

      Phòng đợi vang lên những tiếng đôi co đầy giận dữ. Có vẻ như ai đó thăm Langdon muốn phải chờ đợi. Gần như ngay lập tức, Langdon nghe thấy ở đầu kia hành lang có tiếng cánh cửa nặng nề bật tung. cố nhìn cho tới khi thấy bóng người tiến dần tới trong hành lang.

      Người phụ nữ đó mặc toàn đồ da đen. Dáng ta rắn chắc và khỏe khoắn với kiểu đầu đinh. ta di chuyển rất thư thái, cứ như thể đôi chân hề chạm đất, và ta nhắm thẳng về phía phòng của Langdon.

      chút do dự, bác sĩ Marconi bước qua cửa hành lang để chắn lối của vị khách. “Dừng lại!”, người đàn ông ra lệnh, bàn tay vươn ra như viên cảnh sát.

      Kẻ lạ mặt vẫn hề chùn bước, rút ra khẩu sung giảm thanh. Ả nhắm thẳng vào ngực bác sĩ Marconi và nã đạn.

      Có tiếng gió rít.

      Langdon kinh hãi chứng kiến khi bác sĩ Marconi lảo đảo bước lùi vào phòng, ngã vật xuống sàn, tay ôm chặt lấy ngực, chiếc áo choàng trắng của ông đẫm máu.
      Last edited by a moderator: 19/8/14

    4. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      CHƯƠNG 3
      Type: TMT

      Năm dặm ngoài khơi nước Ý, chiếc du thuyền sang trọng dài hơn bảy mươi mốt mét* mang tên The Mendacium chạy băng băng qua màn sương trước lúc rạng đông xuất những lớp sóng dập dềnh của biền Adriatic. Phần thân thon của con tàu được sơn màu xám chì, khiến nó có khí sắc mấy thân thiện rất đặc trưng của con tàu quân .



      * Trong nguyên tác các đơn vị đều sử dụng theo hệ thống đo lường -Mỹ. Để tiện cho độc giả theo dõi, người dịch chuyển sang hệ đo lường tương ứng thông dụng ở Việt Nam. VD, ở đây là 237 foot, tương đương 71.1m ( 1 foot ~0.3m



      Với giá hơn 300 triệu đô la Mỹ, con tàu tự hào với đầy đủ tiện nghi thông dụng – phòng tắm hơi, bể bơi, rạp chiếu phim, tàu ngầm cá nhân, và cả sân trực thăng. Tuy nhiên, những thứ lặt vặt cần dung hằng ngày của con tàu lại ít được chủ nhân quan tâm. Vị chủ nhân này nhận con tàu năm năm về trước, sau đó lập tức phá bỏ hầu hết tiện nghi này để lắp đặt trung tâm chỉ huy điện tử cấp quân bậc nhất.

      Được kết nối với ba đường truyền vệ tinh chuyên dụng và loạt trạm tiếp sóng mặt đất, phòng điều khiển tàu The Mendacium có đội ngũ nhân viên hơn hai mươi người – gồm kỹ thuật viên, chuyên gia phân tích, chuyên gia điều phối tác chiến – họ sống luôn tàu và giữ liên lạc thường xuyên với nhiều trung tâm tác chiến bộ của tổ chức.

      Bộ phận an ninh thường trực tàu gồm đơn vị binh sĩ tinh anhđược huấn luyện bài bản về quân , hai hệ thống dò tìm tên lửa, và kho vũ khí tối tân. Bộ phận nhân viên hỗ trợ khác – đầu bếp, tạp vụ, và phục vụ - nâng tổng số người tàu lên hơn bốn mươi. Thực tế, tàu The Mendacium chính là tòa văn phòng di động giúp chủ nhân của nó điều hành cả đế chế của mình.

      Được các nhân viên xem như “Thị Trưởng“, chủ nhân con tàu là người đàn ông thó với làn da sạm nắng và cặp mắt sâu hoắm. Vẻ ngoài lấy gì làm đường bệ cùng phong thái bộc trực của ông ta dường như rất hợp với người cực kì giàu có nhờ cung cấp những dịch vụ kín đáo trong thế giới ngầm.

      Ông ta từng được gọi bằng đủ thứ biệt danh – gã đánh thuê vô cảm, kẻ tiếp tay cho tội ác, tên tay sai của quỷ dữ - nhưng ông ta phải là hạng nào trong số này. Đơn giản là Thị trưởng cung cấp cho khách hàng cơ hội để theo đuổi tham vọng và dục vọng của họ bất chấp hậu quả, còn việc vốn dĩ con người ai cũng mắc sai lầm phải vấn đề làm ông ta bận tâm.

      Mặc kệ việc bị người ta chỉ trích và phản đối, kim chỉ nam đạo đức của Thị trưởng là ngôi sao cố định. Ông ta tạo dựng danh tiếng và đế chế của mình dựa hai nguyên tắc vàng.

      bao giờ đưa ra lời hứa nếu thể giữ lời.

      bao giờ dối khách hàng.

      Chưa từng.

      Trong nghiệp của mình, Thị trưởng chưa bao giờ thất hứa hay vi phạm thỏa thuận làm ăn. Lời của ông ta có thể đem thế chấp Ngân hàng được – vật bảo đảm tuyệt đối – và mặc dù chắc chắn có những hợp đồng ông ta lấy làm tiếc vì thực , nhưng nuốt lời trước những hợp đồng đó chưa bao giờ là lựa chọn của ông ta cả.

      Sáng hôm nay, khi bước ra ban công phòng ngủ du thuyền của mình, Thị trưởng phóng tầm mắt về phía mặt biển nổi sóng và cố gắng xua mối băn khoăn cuộn lên trong lòng.

      Những quyết định trong quá khứ chính là các kiến trúc sư cho tại của chúng ta.

      Những quyết định trong quá khứ của Thị trưởng giúp ông ta luôn giành thế chủ động trong bất kì hoàn cảnh khó khăn nào và thoát ra ở thế thượng phong. Tuy nhiên, ngày hôm nay, lúc nhìn qua cửa sổ về phía những ánh đèn của lục địa phía xa, ông ta lại cảm thấy bức bối lạ thường.

      năm trước, cũng chính con thuyền này, ông ta quyết định mà những dây mơ rễ má lằng nhằng của nó giờ đây đe dọa lật tung mọi thứ ông ta từng xây dựng. Ta đồng ý cung cấp dịch vụ cho nhầm người mất rồi. Thời điểm đó, Thị trưởng có cách nào biết được đều ấy, và lúc này việc tính toán sai lần đó kéo theo cả chuỗi thách thức chưa từng có, buộc ông ta phải phái số đặc vụ ngoại tuyến giỏi nhất của mình “vào trận”, với mệnh lệnh “làm bất cứ việc gì cần thiết” để giữ con thuyền chao đảo của ông ta bị lật úp.

      Lúc này, Thị trưởng đợi nghe tin từ đặc vụ rất đặc biệt.

      Vayentha, ông ta nghĩ thầm, nhớ tới hình ảnh chuyên gia đầu đinh rắn rỏi. Vayentha, người luôn phục vụ ông ta đâu ra đấy cho tới sứ mệnh lần này, tối qua ta phạm sai lầm với những hậu quả kinh khủng. Sáu tiếng qua quả là cuộc ganh đua quyết liệt, nỗ lực tuyệt vọng nhằm tái kiểm soát tình hình.

      Vayentha ta phạm lỗi chỉ đơn giản là do may mắn – con chim cất tiếng kêu đúng lúc.

      Tuy nhiên, Thị trưởng tin vào may rủi. Mọi việc ông ta làm đều được sắp xếp để loại bỏ yếu tố ngẫu nhiên và may rủi. Quyền kiểm soát là chuyên môn của Thị trưởng – tiên liệu mọi khả năng, dự đoán mọi phản ứng, và nhào nặn thực tiễn theo đúng kết quả mong muốn. Ông ta có hồ sơ tì vết về những phi vụ thành công và kín tiếng, cùng danh sách khách hàng quen thân đáng nể - những tỷ phú, chính trị gia, tộc trưởng Hồi giáo, và thậm chí các nhân viên Chính phủ.

      Phía đông, quầng sáng nhờ nhờ đầu tiên của buổi sớm bắt đầu nuốt chửng những vì sao thấp nhất ở đường chân trời. Thị trưởng đứng sàn tàu và kiên nhẫn đợi Vayentha thông báo rằng sứ mệnh của ta tiến triển đúng như kế hoạch.
      Last edited by a moderator: 19/8/14

    5. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      CHƯƠNG 4
      Type: TMT


      Trong khoảnh khắc, Langdon cảm thấy như thể thời gian ngừng lại.

      Bác sĩ Marconi nằm bất động sàn, máu tuôn ra từ ngực ông. Langdon cố cưỡng lại tác dụng của thuốc an thần trong cơ thể, ngước mắt nhìn lên kẻ ám sát đầu đinh lúc này vẫn sải bước ngoài hành lang, băng qua nốt mấy thước cuối cùng để tiếp cận khuôn cửa bỏ ngỏ vào phòng . Khi gần đến ngưỡng của, ả nhìn về phía Langdon và lập tức chĩa vũ khí về hướng …nhắm thẳng vào đầu.

      Mình sắp chết, Langdon nhận ra như vậy. Ở đây và ngay lúc này.

      tiếng đập chát chúa vang lên trong phòng bệnh chật hẹp.

      Langdon giật nảy, chắc chắn bị va đập, nhưng tiếng ồn đó phải là tiếng súng của kẻ tấn công. Thay vào đó, tiếng đập ấy là tiếng đóng cảnh của thép nặng nề của phòng bệnh khi bác sĩ Brooks lao người vào cửa và xoay ổ khóa.

      Đôi mắt dại vì sợ hãi, bác sĩ Brooks lập tức thụp xuống bên cạnh người đồng nghiệp đẫm máu của mình, cố gắng bắt mạch. Bác sĩ Marconi thổ ra búng máu, tràn dọc từ má xuống bộ râu dày. Rồi ông lả .

      “Enrico, đừng! Xin !”, kêu lên.

      Bên ngoài, cả loạt đạn nổ chát chúa nhằm vào lớp vỏ kim loại phía ngoài ô cửa. Tiếng chuông báo động vang lên khắp hành lang.

      Bằng cách nào đó, cơ thể Langdon hoạt động trở lại, hoảng hốt và đầy bản năng, lấn át tác dụng của thuốc an thần. Trong lúc long ngóng leo ra khỏi giường, cảm giác đau như phải bỏng xé qua cánh tay phải của . Trong khoảnh khắc, Langdon nghĩ viên đạn xuyên qua cửa và trúng , nhưng khi nhìn xuống, nhận ra cây kim truyền vừa bung khỏi tay mình. Đường ống nhựa thòi ra từ cái lỗ cánh tay, và dòng máu nóng hổi chảy ngược ra khỏi ống.

      Giờ Langdon hoàn toàn tỉnh táo.

      Bác sĩ Brooks vẫn quỳ sụp bên cạnh xác Marconi, cố bắt mạch cho ông, nước mắt ngừng trào ra. Sau đó, như thể có công tắc vừa nhảy bên trong, đứng lên và quay lại phía Langdon. Vẻ mặt biến đổi ngay trước mắt , những nét trẻ trung như đanh lại với tất cả vẻ điềm tĩnh của bác sĩ cấp cứu dày dạn phải xử lý tình huống khủng hoảng.

      “Theo tôi”, ra lệnh.

      Bác sĩ Brooks nắm lấy tay Langdon và kéo băng qua phòng. Tiếng súng và tình trạng hỗn loạn vẫn tiếp tục trong hành lang khi Langdon lảo đảo bước đôi chân còn chưa vững. Đầu óc rất tỉnh táo nhưng cơ thể nặng như đeo đá của lại phản ứng rất chậm. nào! Sàn nhà lát đá hoa lạnh ngắt dưới gan bàn chân, và bộ quần áo bệnh viện mỏng manh đủ dài để che kín thân hình hơn 1m80. có thể cảm nhận được máu trào ra từ cánh tay và chảy xuống bàn tay mình.

      Đạn vẫn tiếp tục bay tới ổ khóa nặng nề, bác sĩ Brooks đẩy vội Langdon vào phòng tắm . định vào theo chợt dừng lại, nhìn xung quanh rồi chạy trở lại phía quầy nhặt lấy chiếc áo hiệu Harris Tweed đẫm máu của .

      Cứ mặc xác cái áo khoác chết tiệt của tôi !

      quay lại, tay khư khư chiếc áo khoác và nhanh nhẹn khóa cửa phòng tắm. Vừa lúc, cánh cửa phòng ngoài bật tung.

      bác sĩ trẻ nắm quyền kiểm soát. bước vội qua gian phòng tắm tới ô cửa thứ hai, giật tung ra và dẫn Langdon vào phòng hồi sức liền kề. Tiếng súng vang lên phía sau họ khi bác sĩ Brooks ghé đầu ra ngoài hành lang, nhanh chóng kéo tay Langdon và lôi băng ngang hành lang lọt vào khu vực cầu thang. Cứ động đột ngột làm Langdon chóng mặt, cảm thấy có thể bất tỉnh bất kỳ lúc nào.

      Mười lăm giây tiếp theo là tình trạng mờ nhòe… xuống cầu thang…trượt chân…ngã. Cơn giật giật trong đầu Langdon gần như thể chịu nổi. Thị lực của lúc này dường như còn mờ nhòe hơn, các cơ bắp rã rời, mỗi cử động đều có cảm giác như phản ứng rất chậm trễ.

      Và lúc này khi trời lạnh hẳn lên.

      Mình ra ngoài.

      Khi bác sĩ Brooks đẩy rời xa khỏi tòa nhà dọc theo con hẻm tối om, Langdon giẫm phải thứ gì đó sắc cạnh và ngã chúi xuống, đập mạnh vào vỉa hè. cố gắng giúp đứng dậy, miệng rủa thành tiếng chuyện vẫn chịu tác động của thuốc an thần.

      Khi họ tới gần cuối hẻm, Langdon lại vấp lần nữa. Lần này để mặc nằm đất, chạy băng ra phố và thét gọi ai đó ở phía xa. Langdon có thể nhận ra ngọn đèn màu xanh lục nhòe nhòe của chiếc taxi đỗ ngay phía trước bệnh viện. Chiếc xe hề di chuyển, ràng người lái xe say ngủ. Bác sĩ Brooks hét to và khua khoắng tay. Cuối cùng, đèn pha taxi bật lên và xe chầm chậm lăn bánh về phía họ.

      Trong hẻm phía sau Langdon, có tiếng cánh cửa bật tung, tiếp theo là tiếng những bước chân tiến đến rất gấp gáp. ngoảnh lại và nhìn thấy cái bóng đem thẫm lao vọt về phía mình. Langdon cố gắng đứng dậy, nhưng bác sĩ ôm lấy , đẩy vào ghế sau của chiếc taxi hiệu Fiat. buông nửa người ghế, nửa sàn xe trong khi bác sĩ Brooks chồm lên, dùng tay giật cho cửa đóng lại.

      Người tài xế ngái ngủ ngoái lại và trợn mắt nhìn cặp đôi kỳ quặc vừa chen lên xe mình – phụ nữ tóc đuôi ngựa trẻ trung mặc quần áo bác sĩ và người đàn ông mặc đồ bệnh nhân với cánh tay chảy máu. ta sắp lên tiếng cầu họ cuốn xéo ra khỏi xe gương bên sườn xe vỡ tan. Người phụ nữa mặc đồ da đen chạy phăm phăm ra khỏi hẻm, tay chĩa súng. Khẩu súng ngắn của ả lại nhả đạn lần nữa vừa lúc bác sĩ Brooks nhấn đầu Langdon xuống. Cửa sổ sau vỡ tan, mảnh kính rơi xuống người họ rào rào.

      Người lái xe cần ai thúc giục thêm. ta đạp mạnh chân ga, chiếc taxi phóng vọt .

      Langdon vẫn trong trạng thái lơ mơ. Ai đó tìm cách giết mình ư?

      Khi họ ngoặt qua góc đường, bác sĩ Brooks ngồi dậy và nắm lấy cánh tay chảy máu của Langdon. Đường ống nhựa thò ra từ cái lỗ da thịt .

      “Nhìn ra ngoài cửa ”, ra lệnh.

      Langdon tuân theo. Bên ngoài, những tấm bia mộ ma quái vùn vụt trôi qua trong bóng tối. Dường như họ băng qua nghĩa địa. Langdon cảm thấy những ngón tay của bác sĩ nhàng nắm lấy ống nhựa và sau đó, hề báo trước, giật mạnh ra.

      cơn đau buốt chạy thẳng lên đầu Langdon. cảm thấy mắt mình mờ , và sau đó mọi thứ tối đen.
      Last edited by a moderator: 19/8/14

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :