1. QUY ĐỊNH BOX XUẤT BẢN :

       

    Đặt Title theo mẫu [Tên truyện] [dấu cách] - [dấu cách] [Tác giả] [Số chương]

    ----•Nội dung cần:

    - Hình minh họa (bìa truyện, hình ảnh,etc,...)

    - Tác giả

    - Dịch giả

    - Đơn vị phát hành

    - Số trang ( nên có)

    - Giá bìa (nên có)

    - Ngày xuất bản (nên có)

    --- Quy định

    1 . Thành viên post có thể tự type hoặc copy từ nơi khác (để nguồn)

    2 . Trình bày topic truyện khoa học, bôi đen số chương để dễ nhìn

    3. Cần có trách nhiệm post đến hết truyện. Nếu không thể tiếp tục post liên hệ

    Ad và Mod

  2. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Hãy Tìm Tôi Giữa Cánh Đồng - Đặng Nguyễn Đông Vy

Thảo luận trong 'Sách XB Hoàn'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. Bebj91

      Bebj91 Well-Known Member

      Bài viết:
      3,524
      Được thích:
      409
      [​IMG]



      Hãy Tìm Tôi Giữa Cánh Đồng

      Tác giả: Đặng Nguyễn Đông Vy

      Công ty phát hành Phương Nam

      Nhà xuất bản NXB Hội Nhà Văn

      Kích thước 14.5x20.5cm

      Số trang 204

      Ngày xuất bản 27-07-2012
      Giới thiệu:

      "Nếu ngày nào đó tìm thấy tôi giữa chốn đô thị bon chen, bạn hãy đến tìm tôi giữa cánh đồng...", Đặng Nguyễn Đông Vy tìm kiếm kỷ niệm của riêng mình giữa cánh đồng với những mảnh ghép của giấc mơ xa.

      Đọc truyện của Đông Vy nhiều bạn đọc có thể tìm được tuổi thơ của chính mình trong đó.

      Mỗi câu chuyện kể như thước phim quay chậm từ từ ra những hiên nhà, góc vườn, xác ve sầu rỗng, trái mãng cầu, cánh đồng mùa gieo hạt và những thân lúa non bị vùi trong cát sau cơn lũ ngập trắng đồng, làm nhớ món ếch om cà bốc hơi nghi ngút dậy mùi thơm ngòn ngọt. Có khi đó là những câu chuyện thôi nhưng thấm đẫm tính thiền dù chẳng chủ tâm: Đá mọc trong vườn, Hãy luôn mở cửa...

      bé trong chuyện cũng lớn dần: từ bé con theo bà mang bánh tét cho các bạn nghèo trong núi chiều cuối năm trở thành thiếu nữ, bắt đầu cũng có bé con của riêng mình.





    2. Bebj91

      Bebj91 Well-Known Member

      Bài viết:
      3,524
      Được thích:
      409
      BỮA ĐIỂM TÂM BẰNG HỒ DÁN

      Tôi còn nhớ đó là buổi sáng tháng Chạp lành lạnh. Tôi dậy sớm, lúc mặt trời vừa ửng lên, khoác áo ấm, giày vớ đủ bộ rồi đĩnh đạc leo hàng rào sang nhà Minh mập. Tôi có hẹn theo ba nó chặt mai.

      Ba mẹ Minh kiếm sống bằng cách trồng đủ thứ khoảnh đất sau vườn: dưa leo, củ kiệu, hành ngò, hoa hồng, hoa cúc... và mang ra chợ bán. Có khi lỗ, có khi lời. Nhưng chặt mai mới là nghề "cha truyền con nối" từ thời ông cố nó. Mỗi năm chỉ được lần, nhưng nhờ đó mà tới chiều 30 mới kiếm được tiền ăn Tết.

      Năm nay, ba Minh bảo cho nó theo để "học nghề". Tôi phải hứa với Minh là chỉ theo cho biết thôi, được chặt cành nào kẻo ba mẹ nó... mất mối. Vì Tết nào ba tôi cũng mua của nhà Minh mập cành mai to nhất, đẹp nhất và đắt tiền nhất.

      Khi tôi thò đầu qua cửa sổ thấy ngay Minh mập và đám em út lau chau ngồi quây quần bên chiếc bàn gỗ thấp, đứa nào cũng áo trắng, quần soọc xanh, cũ kỹ nhưng thẳng thớm, tinh tươm. Cả bọn chụm đầu quanh chiếc nồi gang to đen bóng vì ám khói, bên trong chứa đầy ... hồ dán. Tôi biết nó là hồ dán. Thời đó chưa có những lọ "keo dán" công nghiệp xinh xinh như bây giờ, mỗi khi tôi có môn thủ công ở trường, ba tôi vẫn lấy bột sắn trong kho ra, cho vào xoong nước, bắc lên bếp rồi khuấy đều tay cho tới lúc chất lỏng trắng đục như sữa kia biến thành thứ bột sền sệt, dẻo quánh và trong veo. "Đây là hồ dán"- Ba tuyên bố.

      Vậy mà bây giờ em nhà Minh mập xúm vào nồi, mỗi đứa chiếc muỗng, hăm hở múc hồ dán chấm vào nước mắm... cho vào miệng ăn ngon lành. Nhìn thấy tôi, Minh mập vui ra mặt: "Ăn sáng , mày ?". Tôi nhìn đám em nó mặt mũi dính tèm lem thứ chất dẻo trong veo, buột miệng: "Hồ dán làm sao ăn được, ghê thấy mồ". Minh mập lừ mắt: " ăn thôi, đồ làm phách!"

      May mà nó giận đến nỗi đuổi tôi về nhà, nhưng suốt buổi chặt mai hôm đó, Minh mập đâm ra lầm lì, chẳng thèm với tôi câu nào. Tôi cũng chẳng để ý đến những cành mai xem chúng nhiều hoa hay nhiều nụ, thế đẹp hay đẹp, vì mãi nghĩ đến món ...hồ dán. Thứ bột sắn đó, tôi chỉ thấy bà ngoại trộn với rau băm để cho heo ăn mà thôi.

      Chuyện tôi phát ngôn câu xanh rờn ở nhà Minh mập, hiểu sao ba mẹ tôi lại biết. Sáng hôm sau thức dậy, tôi thấy mẹ đặt lên bàn ăn nồi hồ dán còn bốc khói. Ba xoa xoa bàn tay, tỉnh rụi: "Lạnh quá, lạnh quá! Ăn sáng thôi"

      Đó là lần đầu tiên trong đời tôi ăn... "hồ dán", thứ bột sắn lọc pha với nước rồi khuấy lên cách giản đơn. Ba quấn quanh chiếc đũa, chấm với nước mắm ớt, vừa ăn vừa hít hà. Mẹ múc vào chén, chan nước mắm, vừa ăn vừa cười tủm tỉm. Còn tôi, sau vài phút ngỡ ngàng cũng nếm thử... vì tò mò. Và tôi nhớ mãi... nhớ mãi vị nhạt nhếch của nó.

      Buổi sáng hôm ấy, ba với tôi rằng có gì đủ "kỳ cục" để phân biệt người này với người khác. Rằng đời này có gì đủ "kỳ cục" để con người thấy xa lạ với nhau. Buổi sáng hôm ấy, tôi học được rất nhiều từ món "hồ dán", Để rồi lớn lên, khi có dịp đến những vùng đất lạ, tôi có thể thản nhiên ăn những món lạ lùng hơn thế nữa.

      ...Minh mập bây giờ là ông chủ trang trại trẻ chuyên trồng hoa, vẫn chặt mai mỗi mùa Tết đến và thỉnh thoảng, vẫn khuấy nồi hồ dán để ăn. Nó viết thư với tôi rằng: "Mình lớn lên từ những bữa hồ dán đó". Tôi biết là cả tôi cũng vậy.




      TRẬN ĐÒN MÙA KHOAI MÌ

      Mùa khoai mì luôn là mùa vui nhất trong năm. Ở quê tôi, nhà nào cũng có vài sào rẫy trồng khoai mì. Những ai có đất làm cỏ mì, nhổ mì, gọt mì thuê. Vào mùa thu hoạch, những chiếc xe bò chở lúc lỉu củ mì nối nhau đường, nhà nào cũng chất vài đống to.

      Từ sáng đến chiều, mọi người tập trung quanh đống củ, gọt vỏ bằng những chiếc bào tự tạo hoặc những con dao có kẹp thanh thép uốn. Bên cạnh đó là chiếc bàn xắt để cắt củ mì thành lát rồi đem phơi.

      Tất cả những chuyện vui buồn trời dưới đất, chuyện , chuyện xạo, chuyện khóc, chuyện cười, đều được kể vào mùa khoai mì, khi mọi người mặc những bộ quần áo xấu xí nhất để phải tiếc rẻ khi mủ mì dính vào, và ngồi suốt 10 tiếng đồng hồ chỉ với công việc bào vỏ, xắt lát... Tiếng cười rổn rảng khắp thôn xóm.

      Trẻ con là lực lượng "lao động" đông đúc và ồn ào nhất. Nhưng chỉ gọt được chục củ, hay giỏi lắm cũng hai tiếng đồng hồ là mỏi, chúng tôi len lén lỉnh chơi...

      lần, ba tôi nhặt những củ mì bé tí, những mẫu gãy, và bảo: nếu con chịu khó gọt, xắt phơi, bán được bao nhiêu ba cho con phần tiền đó, để bỏ ống heo. Nghĩ đến cơ hội tự kiếm tiền đầu tiên trong đời, tôi thích chí gật đầu.

      Từ đó, ngày nào cũng vậy, ngoài giờ học, tôi ngồi lì bên đống khoai mì vụn, chăm chỉ gọt gọt, xắt xắt... Ai thấy củ mì nho đều ném qua cho tôi.

      Khi phơi, mọi người thường phơi ngoài sân, ngoài lề đường, còn tôi leo lên mái nhà, là nắng, dưới là mái tôn, mì mau khô, lại sạch ... Ba cho phép tôi phơi ở đó với điều kiện lại nhàng. Sáng phơi lên, chiều gom xuống, sáng mai lại phơi... Vài ba nắng khô. Tôi sung sướng nhận ra những lát khoai tí hon của tôi trắng và sạch nhất.

      Cuối mùa, mẹ kiếm cho tôi cái bao tải, chất mì vào và mang bán... Nhưng rồi, bao nhiêu hy vọng ấp ủ vỡ vụn khi công sức của tôi chỉ thu được khoản tiền , chẳng đáng là bao... Lần đầu tiên, tôi nhận ra điều đơn giản là kiếm tiền chẳng dễ dàng gì. Chưa hết, khi mẹ bảo người ta mua khoai để xuất khẩu, hoặc xay bột như tôi tưởng, những lát mì bé xíu của tôi được bán ngay ngoài chợ để... cho heo ăn, tôi càng buồn thúi ruột.

      Sau mùa thu hoạch, người ta chọn những thân mì mập mạp, tươi tốt nhất, chặt ra thành từng khúc để làm giống cho mùa sau. Bọn trẻ con thường chọn cây mì có hình chữ L để làm gậy rồi đóng giả người tàn tật, ngửa tay xin ăn như những ông lão hành khất chúng tôi thường nhìn thấy đường. Đôi khi, người lớn vẫn cười và còn vặt lá làm tiền bỏ vào nón cho chúng tôi nữa...

      lần lúc cả nhà vui vẻ, tôi cao hứng nhặt thân cây và chơi trò cũ. Mặt ba bỗng dưng tối sầm lại, rồi ba thét tôi vứt cây ngay và quỳ úp mặt vào tường suốt buổi.

      Khi xong việc, ba xách vào chiếc roi bằng cây mì: "Ba đánh con vì hai tội. Thứ nhất, ba mẹ sinh con ra lành lặn, sao con lại muốn làm người tàn tật? Thứ hai, nếu những người tàn tật nhìn thấy họ rất buồn lòng vì cho là con chế giễu họ. Con lấy thiệt thòi của người khác ra để đùa giỡn, có đáng ăn đòn ?" Tôi mếu máo: "Thưa ba, có". Cây mì giòn và có nhiều mắt, đánh vài roi gãy, nhưng cũng kịp đau thấu trời. Mấy vết lằn mông tôi in đậm hơn những lần khác.

      Dù sao, trong ký ức của tôi, mùa khoai mì vẫn luôn là mùa vui nhất. Bây giờ, người dân quê tôi ít ai trồng mì nữa. Họ làm ăn xa, hoặc chuyển sang nuôi tôm xuất khẩu... Còn tôi, tôi nhớ mãi những ngày sôi động ấy. Nhưng tất nhiên, chỉ vì vui nhộn...




      NHỮNG CHIẾC HỘP

      lần tình cờ, tôi phát chiếc hộp sắt tây khóa kín để nóc tủ. Ba , nó đựng di chúc của ông nội. Trong đó viết ông để lại cho tôi cái gì khi ông "về với đất". Tôi chợt nghĩ, nếu mình cũng phải xa, xa xa, mình để lại gì cho những người mình thương .

      Vậy là tôi quyết định mình cũng làm "di chúc". Tôi cũng tìm chiếc hộp có khoá. Trong đó, tôi cất tờ "di chúc" và tất cả... gia tài sản nghiệp của mình.

      Mỗi năm lần vào đêm giao thừa, sau khi quét dọn nhà cửa sạch , tôi ngồi vào bàn và viết. Tất nhiên, chẳng phải là thời điểm bi thảm để nghĩ đến cái chết nên "di chúc" của tôi chỉ là bản kiểm kê và phân chia "tài sản", những gì tôi dành dụm được trong suốt thời gian qua, cho những ai mà tôi gặp và quý.

      Bản di chúc đầu tiên được viết năm tôi tám tuổi, rất ngắn vì gia tài của tôi chẳng có gì nhiều. Tôi "để lại" cho ba tấm ảnh ba bế tôi tay cười toa toét, "để lại" cho mẹ tấm ảnh mẹ dỗ tôi ngay trước nhà thờ Đức Bà. "Để lại" cho hai đứa em trai của tôi những chiếc xe điện mới toanh mà tôi phải dọa dẫm để dành với chúng. "Để lại" cho ông nội cây gậy mà tôi nhặt được ở nhà kho. "Để lại" cho Bảo Vi, đứa bạn thân nhất của tôi chiếc nón vải.

      Rồi tôi lớn lên, dù có ra sao tôi vẫn về nhà vào mỗi đêm giao thừa, ngồi vào chiếc bàn bên cạnh cửa sổ, nhìn ra bầu trời tối đen, mịn màng của đêm ba mươi và viết. Mỗi năm, tôi đến nhiều nơi hơn trong những chuyến du lịch với bạn bè, những chuyến công tác... và những thứ tôi nhặt nhạnh về cũng nhiều hơn: chiếc lược đồi mồi từ Hà Tiên, những nụ hoa ngọc lan khô cong vẫn thơm nồng nàn như khi chúng đánh thức tôi dậy trong đêm rất trong bên cạnh sông Tiền, chiếc vỏ ốc tầm thường dạt vào bãi cát ở Nha Trang, mảnh đá xấu xí văng ra khi tôi ngang qua những người thợ đục đá Non Nước. Và mồi lần nhặt lên, tôi đều nghĩ rằng tôi dành lại chúng cho người nào đó mà tôi gặp. Chúng đánh dấu hữu của tôi thế gian, đánh dấu những bước chân của tôi đặt lên mảnh đất này, miền đất nọ, và đánh dấu tình thương mà tôi dành cho những con người đến rồi trong đời tôi. Mỗi năm, những đồ vật chẳng đáng giá gì mấy cứ chất đầy chiếc hộp, cả quả bàng khô, con ve sầu chưa lột xác còn giữ nguyên màu xanh óng, đến nỗi tôi phải thay chiếc hộp lớn hơn.

      Khi ông nội mất , ba tôi mở hộp ra và đọc cho mọi người nghe tờ di chúc, thứ duy nhất ông để lại là những mảnh đất, chia đều cho tất cả mọi người, đất trồng cây ăn trái, đất trồng khoai sắn và đất trồng lúa. Ông để lại cho tôi tủ sách và rẻo đất rất hình tam giác, nằm cạnh những mảnh ruộng mà ông làm lụng suốt đời đó. mảnh đất đủ để tôi trồng những cây cà chua và những luống rau muống, ông viết vậy, với tất cả tình thương. Trước đây, có lần ông bảo rằng, chỉ với miếng đất bé xíu như thế thôi, người ta chẳng thể nào đói được. Tôi đứng trước rẻo đất ấy và khóc rất nhiều.

      Tôi chợt nhận ra là cuộc sống ngắn ngủi và đầy bất trắc. Tôi cũng nhận ra rằng làm cho những người khác biết mình thương họ ngay lúc này tốt hơn là ấp ủ tình đó cho tới khi ta còn cơ hội để trao nó cho họ nữa. Tôi buồn bã khi nghĩ rằng đáng lý ra, tôi phải cho em tôi những chiếc xe đồ chơi khi điều đó còn làm cho chúng vui sướng, hơn là cất giữ hàng năm trời, cho tới khi chúng bắt đầu mơ về những chiếc xe hơi . Từ đó, tôi viết di chúc nữa, tôi vẫn nhặt nhạnh những đồ vật xinh xinh mà tôi nhìn thấy, nhưng cất mà tặng ngay cho ai đó mỗi khi có dịp.

      Cho đến bây giờ tôi vẫn giữ chiếc hộp trống của tôi, cũng như chiếc hộp sắt tây chỉ đựng tờ di chúc dài hai trang trang giấy của ông nội, vì tôi biết, có thứ vẫn luôn đầy ắp trong chiếc hộp ấy, đó là tình thương ông Nội dành cho tôi, và tình thương tôi dành cho mỗi người tôi gặp, cho cuộc sống này.

    3. Bebj91

      Bebj91 Well-Known Member

      Bài viết:
      3,524
      Được thích:
      409
      CÒN TIẾNG VE SẦU



      Cả tôi và Đăng đều thích ve sầu. Nhưng Đăng thích ve sầu còn sống, còn tôi chỉ thích những cái xác. Chúng tôi cãi nhau mãi về điều đó.

      Đăng bảo: "Còn sống ve sầu mới đẹp, vỏ bóng, cánh còn óng ánh, mắt long lanh, xanh biếc". Tôi nghĩ, khi những con ve còn hát được, phải để chúng hát cho hết cuộc đời ngắn ngủi của chúng. Tại sao tìm những xác ve sầu lột vỏ để giữ chúng lại như lòng biết ơn.

      Ve sống kêu inh ỏi và Đăng biết chúng đậu ở đâu. Còn tôi, suốt mùa hè cứ phải chuyền như vượn những cành cây để tìm nhặt những cái xác rỗng , trong suốt như giấy bóng gói kẹo và giòn tan, dễ vỡ, chỉ động chút là nát như vỏ hạt đậu phộng rang.

      Chúng tôi ve sầu vì chúng bao giờ hát mình. Bạn rất hiếm khi được nghe tiếng ve lẻ loi. Khi thấy ai hoà theo, chúng im bặt và bay tìm chốn khác. Khi con ve cất tiếng, cả đàn ve biết nấp từ đâu trong những vòm lá hòa theo. Với tôi và Đăng, ve là biểu tượng của tình bạn.

      Nhưng tôi thấy ghét Đăng khi nó vác cây sào tre có bôi mủ mít đầu để bắt dính những con ve sầu ra rả hát. Còn Đăng cười nhạo khi nhìn thấy những cái vỏ tội nghiệp, mỏng mảnh và giòn tan mà tôi nâng nIU giữ trong hộp. lần, Đăng lỡ tay bóp vỡ xác ve của tôi, hai đứa giận nhau từ đó.

      Trải qua nhiều chuyến , những cái xác ve tôi mang theo còn nguyên nữa, cái bị nát từ trong vali, cái tự vụn vỡ ra theo thời gian. Nhưng tôi vẫn giữ lại những mảnh vụn. Mỗi khi nhìn chúng, tôi lại nhớ đến ngày chúng còn ca hát, nhớ đến những buổi trưa cùng Đăng nằm dưới vòm cây đoán xem dàn đồng ca kia được tạo nên bởi bao nhiêu "nghệ sĩ ve". Đôi khi, tôi thèm được nhìn thấy lại màu xanh biếc những đôi cánh mỏng.

      Từ quê nhà, Đăng gửi cho tôi con ve sầu ép khô của mùa hè cũ: "Tôi muốn gọi thời gian trở về thời thơ ấu, những ngày tháng đầy niềm vui. Khi còn , chúng ta chưa biết gì về những ganh đua và tham vọng. thương và chơi đùa là tất cả những gì ta biết về cuộc đời. Và những con ve sầu còn tượng trưng cho tình bạn. Tôi biết bạn giận vì tôi cố giữ lấy cho riêng tôi những màu sắc đẹp, những con ve sầu còn ca hát. Nhưng từ khi bạn , bộ sưu tập của tôi vĩnh viễn có thêm con ve sầu nào nữa. Tôi biết mình có lỗi. Nhưng chúng ta cũng đánh mất tình bạn rồi sao? Tôi nhớ bạn."

      Có ai đó viết rằng chúng ta thường qua cuộc đời mà nhận biết khác nhau giữa tình bạn và quen biết. Người quen chỉ là người ta biết tên và thường hay gặp. Ta có thể chia sẻ nơi ở, bàn làm việc, những bữa ăn, kể cả thời gian. Nhưng họ phải là người để ta chia sẻ những khoảnh khắc đặc biệt trong đời. Và ta cũng biết được đâu là những khoảnh khắc quan trọng trong đời họ. Còn bè bạn là những người ta nhớ đến khi nhìn thấy điều gì đó mà ta biết là họ thích, có liên quan đến họ, hay gợi đến những giờ phút chia sẻ cùng nhau. Tình bạn bắt đầu từ đó. Tôi với Đăng cũng vậy.

      Tình bạn đầu tiên ấy, đối với tôi, cũng giống như lần đầu tiên được chiêm ngưỡng cầu vồng sau cơn mưa phùn mùa xuân. Như vẻ đẹp của nụ hôn đầu tiên, của đoá hồng leo lẻ loi tường nhà, của lớp vỏ óng ánh sức sống của con ve sầu còn biết hát. Có những vẻ đẹp bạn nhận ra cho đến khi đánh mất nó, phải như người chia tay, phải như nụ hoa tàn héo, mà như phần cuộc đời bạn, gì thay thế nổi.

      Tôi gửi lại cho Đăng con ve sầu và viết : " nhớ sao, ve sầu tượng trưng cho tình bạn. Nó bao giờ ca hát mình. Ở đây có ve sầu. Hãy để nó trở lại với Đăng, và tôi cũng vậy!"



      KHI TA PHẢI THIÊN TÀI

      Tặng ông Nội của con và ông Nội của Ba

      Ông Nội tôi là người rất đặc biệt. Trong khoảnh khắc tình cờ, tôi mới chợt nhận ra điều đó. Ba gật gù cách nghiêm túc: "Tất cả các ông Nội đều là những người đặc biệt!"

      Hiển nhiên là Ba muốn về ông Nội của Ba, tức ông cố của tôi, người vẫn xuất thường xuyên trong các câu chuyện của ông Nội. Và tôi nhớ nhất là chuyện về người nông dân nghèo sống cạnh sông Gianh trở thành ông chủ trang trại lớn như thế nào. "Tất cả bắt đầu bằng tia sáng loé lên trong suy nghĩ - ông Nội tôi thường như vậy trước khi kể chuyện - nhưng muốn tia sáng loé lên những suy nghĩ phải chuyển động trước ". Ông minh họa bằng cách làm cháy bó rơm khô với hai cục đá nhặt bên lề đường. "Phải có chuyển động mới có những tia sáng, con thấy ?"

      Tất cả bắt đầu từ những tia sáng như thế. Vào ngày nọ, ông cố lúc đó là nông dân tay trắng quyết định đem bán tất cả những tài sản mình có, ra chợ mua con bò gầy giá đồng rưỡi. Đó là thời kỳ khó khăn, mùa màng thất bát, con bò gầy đến nỗi chỉ còn da bọc xương, bước chân loạng choạng vì bị cột lâu ngày. Nó bị bỏ quên góc ở chợ Bò (Đồng Hới, Quảng Bình) vì chẳng ai thèm để ý đến. Nó quá ít thịt đối với những lò mổ, và quá yếu ớt để kéo xe hay cày bừa. Ông cố tôi mang nó về và đưa nó vào tận trong thung lũng. Nơi đó ở xa làng, nhưng có nhiều cỏ non và khí, có những khe nước hiếm hoi bé xíu róc rách chảy xuống từ những vách đá. Ông chăm cho con bò béo lên. Sau vài tháng, con bò gầy thành con bò béo, mông nó đủng đỉnh, bụng nó căng tròn, vì công việc nhàng, lại ăn toàn cỏ tươi và nước ngọt. Ông mang nó ra chợ, bán lại với giá năm đồng, đồng để tiêu xài, còn bốn đồng mua hai con bò gầy, và mang vào thung lũng chăm sóc. Cứ thế, mua bò gầy, bán bò béo, lại mua hai bò gầy... Có khi, ông giữ lại những con khỏe mạnh để cày bừa, hay để sinh con... và bán những con còn lại. Ba năm sau, ông có cả đàn bò cả trăm con, có đất đai, vườn tược, có những người làm thuê khắp các cánh đồng... Ông trở thành ông chủ trang trại giàu có nhất làng.

      Sau hai ba cuộc chiến tranh, ông cố nuốt nước mắt chứng kiến gia tài của mình lần lượt tiêu tan cùng với loạn lạc và ly tán. Cho đến khi cả ông cũng ra . Nhưng câu chuyện về cuộc đời ông vẫn lưu truyền trong gia đình tôi như huyền thoại. Câu chuyện bắt đầu từ tia sáng lóe lên trong suy nghĩ, khi người nông dân nhìn thấy trong chợ những con bò béo giá cao, và những con bò gầy, giá rẻ.

      Khi ông Nội kể câu chuyện đó, mẹ tôi cứ tấm tắc: "Ông cố kinh doanh giỏi !". Nhưng ông Nội nghiêm nghị : "Đó phải là kinh doanh, đó là cuộc sống!" Ý ông muốn , những tia sáng phải loé lên luôn luôn trong mỗi ngày ta sống.

      Kỉ niệm tôi nhớ nhất về ông là cái Tết nóng bức của miền Trung. Đó là những ngày độc địa, cái nóng bất chợt giữa mùa đông đáng sợ, hơi nóng như bốc lên từ mặt đất. Gió táp vào mặt, nước ngọt chỉ còn trong vài cái giếng sâu hơn 15 mét. Ông Nội là người chịu đựng cái nóng giỏi hơn ai hết. Cả buổi trưa, ông cũng lang thang ngoài đường. Chiều 28 Tết, ông trở về với đôi mắt sáng ngời: "Hà hà hà... Tết này nhà ta có tủ lạnh". Mẹ hoảng hốt nhìn ba. Thời đó, điện vẫn còn là thứ xa xỉ, gì đến tivi hay tủ lạnh. Nhưng tủ lạnh của ông Nội giá chỉ có năm nghìn. Tết năm đó, nhà tôi đãi khách bằng cây nhà lá vườn chính cống: Dưa leo, dưa hấu, rau muống, xà lách tươi rói, ổi, mận ướp lạnh... và uống nước chanh dây... với đá lạnh. Ai cũng trầm trồ vì cái "tủ lạnh" độc đáo của Nội tôi. Mùa hè sau đó, ngoài chợ rộ lên cơn sốt mua thùng xốp, loại thùng xốp đựng đá thường thấy ở những quán nước dã chiến lề đường. Giá thùng xốp tăng lên mười nghìn và cả xóm tôi ai cũng có trong nhà "tủ lạnh" tênh, gọn gàng, hữu ích trong mùa nắng nóng. Bên trong có đầy đủ mọi thứ rau quả và...nửa cây nước đá.

      Ông Nội tôi vẫn nhắc nhắc lại rằng, chúng ta phải là thiên tài, vì thế ta phải học mỗi ngày chút. Có vài người sống cuộc đời của mình như thể họ sống mãi mãi. Vài người tranh đấu suốt đời để mưu cầu giàu có về vật chất hay danh vọng. tham lam đẩy họ về phía trước. Nó là chất xúc tác của họ. Còn đối với ông Nội tôi, khôn ngoan chính là của cải mà ông tích luỹ được bao nhiêu năm trong đời. Ông cho rằng, ta chú tâm bao nhiêu, ta học được bao nhiêu, và nhớ được bao nhiêu những kinh nghiệm của mình- đó là điều cốt lõi của tồn tại.

      Cùng với ông, tôi học được rằng tôi lúc này có thể yếu đuối, lúc khác rất quả cảm, đôi khi tôi sợ hãi, nhưng phần lớn thời gian còn lại – tôi tự do. Khi người ta có thể tự do, là khi những suy nghĩ có thể chuyển động muôn phương, và từ đó, lóe lên những tia sáng của sáng tạo. Với tâm hồn tự do và trí óc rộng mở, thế giới luôn mới mẻ và bao giờ quá bất ngờ đến nỗi ta thể thích nghi. Tôi rất nhớ câu của nhân vật Laura trong phim Men in Black II : "Từ khi ta còn bé, lúc được mọi người bảo cho biết ta phải nghĩ gì, tin gì, trái tim ta với ta rằng ở ngoài kia còn có nhiều hơn thế!". Và trái tim chỉ có thể được điều đó khi trái tim mở rộng và luôn luôn chuyển động.



      KÝ ỨC ĐỒNG GIAO

      Cá rô cá rạch/ Gặp trận mưa rào/ Mày chẳng ở ao/ Mày lên rãnh nước/ Nước xuôi mây ngược/ Mày thích ra sông/ Thoả chí vẫy vùng...

      Bài đồng dao này tôi nghe mẹ hát vào chiều mưa, khi con cá rô xíu lạc theo dòng chảy lách tách rơi vào sân nhà tôi. Mẹ bắt nó thả vào thau nước, để ngày mai tôi đem thả nó về lại ruộng đồng.

      Ấu thơ tôi lớn lên cùng đồng dao. Những câu hát ngô nghê dù có nghĩa hay vô nghĩa cũng chứa đựng tâm hồn trong trẻo, cái nhìn hồn nhiên trước cuộc đời. Những chiều mưa dầm ngồi trước hiên nhà nhìn bong bóng mưa lần lượt vỡ tan ra, tôi lại lẩm nhẩm: Lạy trời mưa xuống/Lấy nước tôi uống/Lấy ruộng tôi cày/Lấy đầy bát cơm/Lấy rơm đun bếp.

      Những đêm trăng sáng, chúng tôi thường tập trung bãi cát để chơi trò "Rồng rắn lên mây, có cây lúc lắc..." hay túm tụm lại và thay nhau đọc từng câu: Ông trăng xuống chơi cây cau cau cho mo/Ông trăng xuống chơi học trò học trò cho bút/Ông trăng xuống chơi ông Bụt ông Bụt cho chùa/Ông trăng xuống chơi nhà vua nhà vua cho lính, cho đến khi tìm ra người bạn nào cho ông trăng nữa thôi. Rồi trò Chi chi chành chành/ Cái đanh thổi lửa/ Con ngựa chết trương/ Ba vương ngũ đế. Cả những trò chơi đơn giản nhất cũng có câu hát : Tập tầm vông tay nào , tay nào có? Tập tầm vó, tay nào có, tay nào ?

      ... Lâu rồi nghe ai hát đồng dao. Cả những đứa trẻ ở miền quê xa cũng bắt nhịp được với cuộc đua của những con số trong sổ điểm. Bây giờ, những đứa trẻ sinh ra đều phải là thiên tài. Khi tôi lớn lên, "trẻ con" xa lạ với "thiên tài". Những đứa trẻ quanh tôi chỉ quen với những bài đồng dao mỗi sáng và mỗi tối, với đất đai và cỏ cây. Bây giờ, mười lăm năm sau, những đứa trẻ ấy học tiến sĩ ở nước ngoài, khi chưa đầy 30 tuồi. Bây giờ, những đứa trẻ ấy là kiến trúc sư, giảng viên đại học, nhà báo và nhạc sĩ, vẫn sống hạnh phúc với mỗi ngày đến và những câu đồng dao trong kí ức.

      Cũng như tôi, họ vẫn nhớ bài đồng dao về chiếc đồng hồ: Lúc la lúc lắc/Tích ta tích tắc/Ngày ngày đêm đêm/Chỉ giờ chỉ khắc/ Người đời nhờ tôi/ Lúc làm lúc chơi/ Có giờ có giấc/ Ngày thức đêm ngơi (nghỉ)

      Khi nhìn vào chiếc đồng hồ, bạn nhìn kim nào trước? Kim giờ hay kim phút? Tôi nhìn kim giây. Tôi thích những chiếc đồng hồ có kim giây. Khi chiếc đồng hồ còn chạy tốt, đó là chiếc kim duy nhất chuyển động bất cứ lúc nào ta nhìn vào mặt đồng hồ. Nó báo hiệu sống. Bây giờ, người ta ngày càng thích giản đơn, và những nhà sản xuất đồng hồ nhiều lúc bỏ quên mất chiếc kim giây.

      Tôi thấy buồn vì người ta bỏ quên những khúc đồng dao đâu mất, loại chúng khỏi cuộc sống của trẻ con, xoá chúng khỏi ký ức của người lớn. Khi người ta còn nhớ về tuổi thơ, là người ta còn có thể sống tốt đẹp. Trở về với đồng dao, là trái tim ta trở về với niềm hứng khởi nguyên sơ và ngời sáng. Tình cuộc sống bỗng trỗi dậy và được thanh lọc khỏi những bộn bề rác rưởi của bao nhiêu năm tháng bon chen.

      Cuộc đời bắt đầu từ những điều bé, thời gian bắt đầu từ giây. Và nhân loại, chẳng phải bắt đầu từ trẻ con đó sao?!

    4. Bebj91

      Bebj91 Well-Known Member

      Bài viết:
      3,524
      Được thích:
      409
      LÁ CUỐI NĂM

      Đó là buổi chiều đẹp nhất của năm. Ông ngoại tôi bảo vậy. Chiều 30 Tết. Có rất nhiều công việc nhưng đến chiều Ba mươi, tất cả phải hoàn tất. Bánh chưng gói xong, bắc lên bếp.

      Nhà cửa dọn dẹp sạch . Điều mà ngoại bắt buộc mọi người phải làm vào chiều cuối năm là gom hết lá khô vào góc sân, đốt lên, và cả gia đình ngồi quây quần quanh đó để... chẳng làm gì cả.

      Đó là buổi chiều những người xa trở về, những người khuất quay trở lại trong những câu chuyện. Những người lớn trầm ngâm. Bọn trẻ con bấm nhau cười khúc khích trước vẻ nghiêm trang mà theo chúng hình như là vô lý.

      Gió và se lạnh. Lửa ấm áp nổ tí tách. Và khói có mùi thơm của lá khô. Vườn nhà ngoại rộng lắm và có đủ thứ cây: xoài, mít, ổi, mận, măng cầu... Cái thú của chúng tôi bên đống lửa là hít hà và đoán xem đó là mùi của lá nào. Lá xoài cháy hăng hăng. Lá ổi thơm nồng nồng. Và lá của những loài cây dại bên rào chẳng thể biết tên.

      "Vòm cây thay đổi, nhưng những chiếc lá thay đổi. đó còn chiếc lá nào của năm trước, phải con?" Mỗi năm, ông lại chỉ lên tán lá xanh đầu và hỏi đứa cháu vừa lớn lên chút.

      Lúc , tôi vẫn nghĩ câu hỏi chiều ba mươi Tết của ông buồn cười. Những chiếc lá và vòm cây có gì liên quan đến buổi chiều cuối năm? Ngày hôm sau là Tết, mọi người rộn ràng và vui vẻ. Chúng tôi mặc đồ đẹp và xúng xính thăm nhau, chơi lô tô ngoài chợ, lấy tiền lì xì mua vô số những quả bóng bay...

      Cho đến ngày ông hấp hối, tôi đứng cuối chân giường và khóc. Ông vẫy tôi lại, thều thào: "Này con, những chiếc lá thay đổi, nhưng vòm cây vẫn thay đổi. Phải ?". Tôi mếu máo gật đầu, và trong khoảnh khắc đó tôi hiểu ra tất cả. có chiếc lá nào xanh trọn 365 ngày trong đời lá. Nhưng có bao giờ ta tự hỏi tại sao vòm cây ta nhìn thấy vẫn xanh như ngày xưa.

      Đời người cũng giống như chiếc lá. Mỗi năm Tết lại đến lần. Trái Đất mỗi ngày đông nhưng có những người thân của ta còn nữa. Những chiếc lá khô và rụng xuống sau thời xanh, nhưng vòm cây vẫn giữ nguyên vẻ mát xanh vững chãi. Bởi thế hãy bình tâm sau mỗi lần mất mát. Chỉ những chiếc lá ở cạnh nhau mới thấy đau với khoảng trống khi chiếc lá ngay cạnh mình rơi xuống. Bởi thế, hãy quan tâm đến những người xung quanh. Mặt trời vẫn mọc mỗi ngày và mọi người vẫn mặc những bộ quần áo cũ, những câu cũ, có nghĩa là người ta buồn hơn, vui hơn, tổn thương hay trưởng thành hơn.

      Từ khi ông mất , những chiều cuối năm còn ai ngồi quanh đống lửa, nhưng dù đâu, chúng tôi vẫn luôn quay về góc vườn cũ, thăm lại những hàng cây. Bao nhiêu lớp lá khô rơi tan thành tro bụi, vậy mà vòm lá vẫn xanh và rì rầm trong gió. Nhưng tôi biết rằng: trong vòm cây nguyên lành như chưa bao giờ biến đổi kia, có chiếc lá rơi và để lại khoảng trống trong tôi gì bù đắp nổi. Chiếc lá ấy vẫn trở về trong trái tim những chiếc lá khác - vào mỗi buổi chiều cuối năm.



      LÚC LẮC TRÍ OC

      Ông lão xuất trong sân trường với bộ quần áo cũ kỹ và hàng ria mép đen vểnh lên như lão phù thủy trong truyện Aladin. yên sau của chiếc xe đạp là chiếc thùng gỗ chứa đầy những điều kỳ diệu.

      thằng bạn tôi sau khi đưa cho ông đồng bạc mới được ghé mắt vào hai lỗ thành thùng gỗ, cái miệng nó há ra đầy kinh ngạc và khoái trá. Rồi nó tung tăng chạy về lớp, kéo theo dây những đứa tò mò như tôi: "Có gì trong đó hả mày?". may, đó lại là thằng dở văn nhất lớp, nó chỉ có thể cười ngất ngây: "Đẹp... kinh dị luôn. Đẹp lắm! Y như xi nê". Hết.

      Tôi gần như điên lên vì tò mò. Giờ ra chơi, bao giờ tôi cũng là đứa đầu tiên chạy như bay đến bên cạnh ông, nhưng ngay sau đó, bị đẩy bật ra bởi những đứa có tiền: "Ông ơi, cháu coi "Người đẹp và quái vật", cháu coi "Gullivơ phiêu lưu ký", cháu coi "Bạch Tuyết bảy chú lùn"...

      Rồi tôi cũng nghĩ ra cách kiếm tiền để coi cổ tích. Sắp đến mùa hoa lê-ki-ma rụng đầy gốc, xanh biếc, óng ánh như ngọc. Tôi nhặt đầy bụng áo, buổi trưa bỏ cơm ngồi lui cui xỏ chỉ, xâu hoa... làm thành những sợi dây chuyền, vòng đeo tay, nhẫn, vương miện rồi mang lên trường, bán cho những con bé lớp dưới. Khấp khởi đếm những đồng tiền lẻ, tôi chạy ngay đến chỗ ông lão : "Cháu muốn coi..."

      Ông lão, vốn quan sát tôi ngồi bán cả buổi chiều, tủm tỉm gật đầu: "Được rồi... để xem nào... Bạch Tuyết nhé".

      Tôi ghé mắt vào hai lỗ thành thùng gỗ, dõi theo những tấm slide hình ảnh lên màu rực rỡ khi được ánh sáng chiếu qua trong thùng tối. Những hình ảnh tôi vẫn tưởng tượng lên trước mắt tôi rực rỡ và đầy màu sắc. Giọng thầm của ông lão như đưa tôi trôi vào giấc mơ, lạc vào cánh rừng đầy hoa cỏ, với công chúa xinh đẹp và những chú lùn đáng , Khi những hình ảnh cuối cùng biến mất, tôi ngẩng lên, ngơ ngẩn vì tiếc nuối.

      "Cháu muốn xem nữa ?" "Nhưng cháu... hết tiền rồi! Để mai ạ!" và tôi tự hỏi ngày mai lũ nhóc lớp dưới có còn thích những chuỗi hạt Lê-ki-ma nữa hay ? Ông lão nhanh: "Ngày mai ông nơi khác rồi!". Tôi thấy nước mắt trào lên mi, còn bao nhiêu chuyện cổ tích nữa tôi chưa được xem. Ông lão bối rối . "Thôi đừng khóc cháu, ông cho cháu xem hết những phim ông có".

      Và chiều đó, bên gốc dương liễu sần sùi trong sân trường, với trái tim hầu như ngừng đập vì vui sướng, tôi nhón chân dán mặt vào vách thùng gỗ, xem tất cả những cuốn phim mà tôi từng mơ ước.

      Khi xem xong tất cả, tôi lại thẫn thờ vì tiếc nuối, mai ông lão đến những ngôi trường khác, với những đứa học trò khác và mang theo chiếc thùng gỗ kỳ diệu của mình. Bỗng ông lục trong chiếc thùng và lấy ra cho tôi vật rất kỳ lạ, chiếc kính vạn hoa. Tôi sững sờ khi nhìn những bông hoa ánh sáng trong đó, và càng sững sờ hơn khi phát ra mỗi lần tôi lúc lắc cái ống, những bông hoa khác lại ra, muôn hình muôn vẻ. Ông lão âu yếm nhìn tôi trước khi đạp xe : "Nếu cháu chịu khó "lúc lắc trí óc" cháu làm nên nhiều điều kỳ diệu giống như cái kính vạn hoa này vậy".

      Đó là những gì ông lão lang bạt với chiếc thùng gỗ kỳ diệu với tôi từ thời thơ ấu, chẳng ai có thể mang điều kỳ diệu của bạn, chỉ là bạn có chịu "lúc lắc trí óc" để nhìn thấy nó mà thôi.




      NHỮNG CHIẾC BÁNH TÉT CON

      Những năm cậu học xa, mẹ cho tôi đến ở với bà để nhà đỡ quạnh. Mọi việc trong nhà được chúng tôi phân định rạch ròi: bà việc lớn, cháu việc . Chẳng hạn như mỗi sáng thức dậy, bà quét sân, tôi quét nhà.

      Bà bằm rau nấu cháo cho heo, tôi xúc tấm cho gà ăn. Bà chợ, còn tôi ngồi đợi. Bà dọn mâm, tôi sắp chén. Cuộc sống trở nên ngắn nắp ràng, và... ai được tị nạnh ai – bà vậy.

      Dưới con mắt của tôi tất cả các hoạt động của bà đều hướng đến cái đích duy nhất: Tết! Tưới rau, để Tết. Nuôi gà, để Tết. Trồng cây dong riềng, để Tết! Chuẩn bị cho Tết với bà là cả quá trình, lặp lại mỗi năm. Và quan trọng nhất là nuôi heo, nguồn thu nhập chính để ăn Tết. Đầu năm, bà nuôi con heo mẹ. Vỗ béo cho đến đêm bà gọi tôi dậy giữa khuya, khi heo kêu rống lên đau đớn. Nó sắp sinh con.

      Dưới ánh sáng chập chờn của cây đèn dầu, tôi đứng bên cạnh đợi bà đỡ từng con heo con đỏ hỏn, bé xíu, lau rửa sạch , dùng kềm bấm răng nanh rồi đưa cho tôi đặt vào máng ổ bên cạnh được bà lót bằng vải sạch và rơm từ mấy ngày trước. Có những con bé xíu, vặt vẹo tưởng chết. Bà bĩnh tĩnh thổi hơi rồi nhúng chúng vào nước ấm. Tôi reo lên nho khi thấy chúng khẽ cựa mình và mở mắt ra. Hai bà cháu tiếp tục nâng nIU chăm bẵm cho lũ heo con mau lớn. Bà lo phần heo mẹ, còn tôi chịu trách nhiệm canh chừng lũ heo con khi chúng bú, để những con mạnh khỏe háu ăn được tranh giành vú mẹ với những con gầy yếu.

      Gần Tết, bà kêu lái đến cân hết heo mẹ heo con, chỉ để lại vài con khỏe. Số tiền đó dùng để mua sắm cho Tết, và chủ yếu là để làm bánh Tét. Bà mua về nhiều thịt, đậu xanh, nếp và hành. Lá chuối và lá dong sẵn sau vườn. Mỗi năm bà gói rất nhiều bánh Tét, cho cả gia đình các dì, cậu... Tôi gói được, vì tay tôi chưa đủ mạnh để ém chặt bánh và xiết những sợi lạt. Tôi chỉ phụ trách phần lau lá.

      Khi chỉ còn ít nguyên liệu, bà thường ngẫu hứng làm cho tôi cái bánh Tét con, xíu xinh xinh. Tôi sung sướng vô bờ, nâng nIU như trứng, ngồi đợi canh cánh suốt đêm để chờ nó chín. Rồi sáng mai đem khoe khắp xóm. Những đứa trẻ khác tha hồ ghen tị. Chúng cũng thèm những cái bánh Tét dành cho riêng mình.

      Chiều 30 Tết, bà xếp bánh vào giỏ rồi mang đâu đó. Tôi hỏi : "Đem biếu những người nghèo, những người có bánh Tét để ăn Tết, có gì cả!" Tôi lại hỏi: "Họ có con nít ?" Bà trả lời "Có!" rồi dừng lại nhìn tôi, tia sáng ấm áp lóe lên trong ánh mắt. Tôi thẽ thọt: "Vậy năm sau bà làm cho con nhiều nhiều bánh Tét con!" "Để làm gì?"Tôi cười sung sướng "Bí mật!". À, bí mật của tôi. Bà cười: "Rứa à ?" Nhưng bà cũng làm. Tết năm sau, tôi hầu như quên béng đề nghị của mình, còn bà vẫn nhớ.

      Khi dì và mẹ tôi về nhà bà lấy bánh thấy giàn bếp treo hai dãy bánh Tét, dãy dài những cặp bánh Tét to đùng, và bên dưới là dãy mười hai cặp bánh Tét con ngộ nghĩnh. Tôi chỉ: "Ở là của bà, ở dưới là của con". Mọi người nhìn bánh Tét, nhìn bà và tôi hớn hở, rồi nhìn nhau than: "Trời ạ, cả bà lẫn cháu đều trẻ con như nhau".

      Chiều ba mươi Tết năm đó, bà xếp bánh vào giỏ. Tôi cũng vậy. Rồi bà cháu dắt nhau sâu vào phía núi. Bà xách giỏ lớn đựng bánh Tét to, tôi xách giỏ đựng bánh Tét . Chúng tôi im lặng , ghé vào những ngôi nhà xập xệ, xiêu vẹo, với những người lớn đăm chiêu và những đứa trẻ gầy còm, dơ bẩn. Ai cũng hồ hởi chào đón bà. Bà để lại nhà này cặp, nhà kia hai cặp bánh. Còn tôi rộng rãi hơn, mỗi đứa cái bánh Tét con, lớn như nhau.

      Giao thừa. Ở nhà chỉ còn hai cái bánh lớn và còn chiếc bánh Tét con nào cho tôi cả. Nhìn tôi buồn buồn, bà : "Con nít hơi đông, hè !". Tôi gật gù: "Năm tới phải làm nhiều hơn bà ạ". Bà im lặng xoa đầu tôi.

      Nhưng năm sau, Tết chưa đến mất. Tôi vẫn chưa tự mình gói bánh được, cả đến bây giờ, khi tốt nghiệp đại học. Nhưng Tết nào về quê tôi cũng lại con đường từng với bà, tay là hai chiếc giỏ cũ, đựng bánh mứt, đựng đồ chơi và những cuốn truyện cổ tích. cho người lớn, cho trẻ con. vì tấm lòng bà yên giấc cỏ, cho tuổi thơ tôi xa tít tắp...

      Bao giờ cũng vậy, con đường hẹp gập ghềnh vào núi, tôi lại cảm nhận trọn vẹn niềm hạnh phúc đơn sơ từng làm tim tôi rung động từ ngày xa xưa ấy: niềm hạnh phúc được cho, từ những cái bánh Tét con, bé nhưng chứa đựng tình thương sâu xa của bà.

    5. Bebj91

      Bebj91 Well-Known Member

      Bài viết:
      3,524
      Được thích:
      409
      MƯA ĐẦU MÙA, NHỚ ẾCH OM!

      Bỗng thèm có trận mưa

      Ào ào trút xuống như chưa bao giờ

      Để rồi lên ruộng xuống bờ

      Soi đèn bắt ếch đầu mùa cả đêm


      Mùa này Sài Gòn nắng lắm. Tôi như mê giữa trưa, nắng bao vây tứ phía. Mê đến nỗi chợt nghe tiếng ếch kêu đâu đó giữa phố xá đông người. Có lẽ là do tôi thèm cơn mưa, mưa rào đầu mùa như những ngày xa xăm nào đó. Bỗng dưng tôi thèm thịt ếch, món ếch om cà thơm ngon của bà ngoại.

      Ấy là những ngày hè, khi cơn mưa đầu tiên bắt đầu đổ xuống, cũng là lúc ếch bắt đầu vào mùa kết duyên. Nhà tôi ở gần ruộng. Sau mỗi cơn mưa lại nghe ếch gọi bạn tình inh ỏi. Lúc đó tôi còn lắm, nhưng vẫn thường nghe cậu kể chuyện bắt ếch. Tạnh mưa, đêm xuống, ếch cái nghe tiếng gọi người nên bò ra bờ ruộng... làm mồi cho những tay câu ếch tuổi choai choai. Chỉ cần rọi đèn pin vào từng gốc rạ, bắt gặp ngay những cặp ếch ôm nhau chặt riết. quá say sưa trong men tình, các chị ếch cứ nằm im đờ ra đó, giương mắt nhìn ánh sáng lạ lẫm. Chỉ cần chộp cả đôi cho vào giỏ là xong. từ chập tối cho đến gần sáng mới về, có khi được vài chục con, đem về nhốt vào thùng đặt cạnh sàn nước để dành.

      Tôi nhớ hoài ông lão xóm cũng hay câu ếch. Những ngày đó, khoảng 5 giờ sáng, khi trời còn nhập nhoạng, bà tôi đều ra quét sân sớm như có ý đợi. Ông lão ngang đó, chỉ đứng ngoài rào chứ bao giờ vào sân. Vai vác sào tre, đeo cái giỏ tre, tay cầm mấy xâu ếch. Ông câu ếch suốt đêm, sau cơn mưa đầu mùa. Bà tôi đó cũng là thời điểm mà ếch ngon nhất, vì chúng tích luỹ dưỡng chất cho mùa sinh sản. Tôi biết từ bao giờ, nhưng từ khi tôi biết nhớ, tôi thấy ông lão bên ngoài rào trao xâu ếch cho bà tôi đứng bên trong rào, hỏi chuyện mấy câu rồi . Những món ếch mà tôi được ăn đều làm từ những xâu ếch mà ông lão biếu. Cũng như bà, tôi đặc biệt thích ếch, xương ít, thịt chắc ngọt, mềm và thơm hơn cả thịt gà. Lại có mỡ. Bà tôi làm nhiều món: ếch chiên bột, ếch xào lăn, ếch rôti, cháo ếch, chả ếch... Nhưng tôi vẫn mê nhất món ếch om cà.

      Ếch còn sống, chặt chân, rạch sống lưng, lột da bỏ ruột rồi rửa sạch. Sau đó ướp gia vị khoảng 15 phút. Tôi lãnh phần xắt cà tím, băm hành tỏi, thái lá lốt. Sau đó, tôi đứng xem bà đun mỡ nóng, phi thơm hành tỏi, cho thịt ếch và cả da ếch vào xào săn rồi múc ra. Cho cà vào đảo đều, thêm nước nghệ, nước mắm, xào cho đến khi chín trộn lại với ếch rồi nêm. Để lửa lIU rIU lát nữa cho thấm mùi thấm vị rồi cho ra đĩa. Đĩa ếch om cà bốc hơi nghi ngút, dậy mùi thơm. Ếch có màu sánh vàng hấp dẫn của nghệ. Da ếch lấm tấm hoa và dòn ngọt. Ăn với cơm nóng. Ngon ơi là ngon.

      Bây giờ ở Sài Gòn, tôi thèm thịt ếch. Nhưng ra chợ chỉ thấy khay ếch đông lạnh, chỉ toàn đùi là đùi, trơ trọi và vô duyên làm sao. Vào siêu thị cũng thấy khay đùi ếch lột da đông lạnh... Thỉnh thoảng, tôi cũng mua về chế biến món ếch om cà, công thức giống hệt ngày xưa, nhưng vẫn bao giờ ngon như ngày cũ. Thịt bở và thơm. Phải chăng vì tươi, vì thiếu vị dòn ngọt của da ếch, hay bởi vì Sài Gòn có ếch quanh năm, nên thể ngon như những xâu ếch đầu mùa mưa của ông lão xóm ngày nào?



      THƯƠNG TRÁI MÃNG CẦU BỞ

      Vườn nhà ngoại có hai cây mãng cầu, mãng cầu bở, mãng cầu dai. Bà ngoại xưa nay chẳng ai thích mãng cầu bở, vì nó ít cơm, nhiều hạt. Chỉ trừ ông ngoại. Mà lạ, ông ngoại bị rụng gần hết răng từ hồi mới bốn mươi tuổi, đến khi già chỉ còn hai hàm lợi, miệng móm mém, nhưng cứ khăng khăng đòi ăn mãng cầu bở.

      Cây mãng cầu bở mọc ngay bên cửa sổ. Mỗi mùa trái chín, bà lại ngồi chăm chú, cần mẫn bẻ quả mãng cầu làm đôi, dùng thìa xắn xắn, lấy ra từng cái hạt đen nhánh, để riêng phần cơm ít ỏi vào cái đĩa cho ông ăn.

      Ông mất rồi, chẳng còn ai ăn mãng cầu bở. Cả đến chim và dơi cũng thèm ăn. Trong khi cây mãng cầu dai ở góc vườn đông khách viếng thăm, bà ngoại, cậu, rồi mẹ và các chị tôi thay phiên nhau ra thăm suốt ngày. Hễ thấy có trái nào vừa già, gai vừa nở to là hái mang ngay vào nhà vì sợ để chín cây chim ăn mất, đến lượt người. Bên cửa sổ, cây mãng cầu bở mọc chơ vơ, lá cứ dần, cành cứ khẳng khIU dần, trái chín rồi rụng xuống. Họa hoằn lắm, mới có buổi sáng thấy vỏ và hạt đen rơi đầy mặt đất, phía cao treo lủng lẳng quả mãng cầu bị chim mổ gần nửa. Cậu : "Chặt quách nó cho rồi". Tôi nghe xót lòng, liền thầm với ngoại, "Đừng chặt, ngoại à. Con thích ăn mãng cầu bở thôi!" Bà ngoại cười, lắc đầu: "Cha mi , răng giống ông mi rứa, thích chi mà lạ lùng. Thôi, bà nỏ chặt mô!"

      Từ đó tôi cần mẫn hết mấy mùa với mãng cầu bở, vừa ăn vừa nghịch hạt trong miệng, phải tập cả tính kiên nhẫn, giống như ăn hạt dưa mà dùng tay, lừa lừa, cắn cắn, đôi khi vẫn tách được lớp cơm mãng cầu mỏng tang bọc quanh cái hạt đen nhánh. Tôi nhớ lời con chồn trong Hoàng tử bé (Saint Exupéry): "Khi thuần dưỡng nó rồi, nó thuộc về ta, và ta phải có trách nhiệm với nó". Cứ mỗi lần cầm trái mãng cầu dai ngon lành tôi lại thấy có lỗi với cây mãng cầu bở mọc buồn bên cửa sổ. Cây cũng như người, ra hoa kết trái có cầu chi đâu, chỉ mong dâng cho đời chút gì thơm thảo, cũng đâu phải tự nó muốn mình sinh ra làm giống mãng cầu ít cơm nhiều hạt, rời rạc lỏng bỏng như vậy, chẳng làm hại ai sao lại hất hủi nó . Chắc chắn trời phải có gì bất công, giống như sinh người xấu lại sinh người đẹp, sinh người thông minh lại sinh người ngờ nghệch, sinh người tài năng lại sinh người kém trí... Giống như câu chuyện nào đó mà ông ngoại từng kể cho tôi nghe, trong đó rằng vạn đồng tiền bố thí của người giàu cũng bằng mấy đồng lẻ chắt chIU chia sẻ của bà goá. Tôi nghĩ có lẽ xưa ông cũng nghĩ vậy, khi ăn mãng cầu bở, vì thương.

      Tháng tư, đường Sài Gòn thấy người ta đẩy từng xe chất ngất ngưỡng những quả mãng cầu to bán. Tôi dừng lại hỏi theo thói quen: "Mãng cầu dai hay bở hả chị?". Người bán hàng giở nón lên, quệt tay lau mồ hôi trán, nhìn tôi mà cười khoan dung như với kẻ khờ : "Làm gì có bở. Toàn mãng cầu dai!" Cũng dễ hiểu thôi, cái giống mãng cầu bở ăn bắt mỏi miệng. Theo quan điểm "ưu sinh" làm sao tiệt chủng cho được. Tôi cầm lên trái mãng cầu, mềm mà chắc tay, bóp vào thấy rời từng hạt, vỏ mỏng tươi, gai nở to. Chắc chắn là mãng cầu dai rồi. Tự nhiên thấy buồn, tự nhiên thấy nhớ cây mãng cầu bở của ông ngoại. Tuổi tôi với tấm lòng trong trẻo cố ngồi ăn cho hết mấy mùa mãng cầu bở, để đến lớn, lại theo thuyết "ưu sinh" của người khôn ngoan chọn mãng cầu dai để ăn.

      Tôi gọi điện thoại về nhà. Hỏi mẹ cây mãng cầu ra sao. Mẹ , nhớ con nên chặt. Nhớ ngày xưa ngày nào con cũng leo lên đó. Tới mùa ngày nào cũng ra thăm, gặp trái chín rút ngay cùi vứt , rồi vắt vẻo ăn ngay cành, cả chim cũng giành được... Bây giờ nó ra trái nữa, nếu có chỉ còi cọc, chẳng ai buồn ăn. Ba cứ tỉa bớt cành, chỉ còn gốc và những cành , nhưng được cái mỗi mùa mưa, nấm mèo mọc nhiều lắm. Cũng lạ, những cây khác chẳng thấy mọc nấm mèo, chỉ có nó, sau mỗi ngày mưa, sáng ra nấm mèo nở đầy gốc. Tôi cười, ứa nước mắt. Ôi cây mãng cầu của tôi, cảm ơn mày vẫn cố sống, cám ơn những thơm thảo từ giọt nhựa chắt chIU mày vẫn cố mang đến cho cuộc đời này, dù phải vay mượn từ những cơn mưa.




      NHÀ CÓ CỬA HÔNG

      Vừa nhận được thư bạn, và ảnh nữa. Bạn kể rằng mình mới tậu được căn nhà dạng mobile home, có phòng khách, hai phòng ngủ, nhà kho, bếp và có tới hai toilet. Đó là loại nhà lưu động, mặc dù nay bạn vẫn phải thuê mảnh đất trong khuôn viên của ông bác họ với giá 400 đô mỗi tháng... để căn nhà tọa lạc, và để bạn có thể trồng hoa ở quanh nhà.

      Ảnh chụp bạn cười tươi, đứng cạnh căn nhà bằng gỗ sơn trắng. Bạn viết, "thú vị lắm nhé, những căn nhà mobile home này có đặc điểm là có cửa trước, tất cả cửa ra vào đều đặt ở bên hông. Đó là trong những lý do khiến mình thích nó, bởi vì, nó có vẻ thân thiện."

      Bạn khiến tôi hoài niệm cửa hông.

      Cửa hông phải là cửa chính, tất nhiên. Nhưng nó là cửa chính đối với riêng tôi. Suốt tuổi thơ, số lần tôi ra vào nhà qua cửa chính có thể đếm được đầu ngón tay. Cửa chính là nơi ông ngoại án ngữ, đọc sách và tiếp khách khứa. Những chạy nhảy, la hét của bọn trẻ con thường bị cấm đoán. Thế nên tôi nhất là cửa hông nhà. Cửa mở ra khoảng sân sạch , có hai cây đinh lăng mọc hai bên bậc thềm, cạnh hàng rào là cây xoài cổ thụ nghiêng lá che bóng râm. Buổi trưa, những đốm nắng xuyên qua tán lá nhảy nhót mặt đất, bên bậc thềm xi măng trông ngộ nghĩnh với những hình thù gợi nhiều tưởng tượng...Gió từ những vòm cây lùa vào mát rượi.

      Ai cho tôi bày đồ chơi ngay ngạch cửa, nếu phải là cửa hông?

      Ai cho tôi nằm ngủ trưa cạnh cửa, để đón gió mát ngoài vườn, nếu phải là cửa hông?

      Cửa hông là nơi tôi ngồi đợi bà chợ về. Xách chiếc giỏ lát cũ kỹ, trong đó luôn có món quà vặt cho tôi, bao giờ bà cũng vòng qua cửa hông để vào nhà. Đó cũng là nơi tôi ngồi nhổ tóc sâu cho bà. Bà ngồi bậc dưới, tôi ngồi bậc . Hai mươi sợi được viên kẹo bột!

      Cửa hông là nơi tôi luôn nhìn vào đường từ trường về, qua hàng rào chùm rụm thấp, thấy bà ngồi đợi ở đó, chải tóc với dầu dừa bằng chiếc lược dày, hoặc vừa têm trầu vừa chuyện trò rôm rả với cụ bà hàng xóm ở bên kia rào chùm rụm. Tôi vẫn nhớ hoài những buổi chiều êm, tôi và bà ngồi đó, đan những con ốc gạo xíu làm mành. Vỏ ốc gạo ngâm rửa cho sạch, phơi nắng cho khô rồi đục lỗ và xâu lại. Suốt hàng tháng trời, sau giấc ngủ trưa ngắn, hai bà cháu lại cần mẫn đan mành ốc. ngày nọ, khi những chiếc mành hoàn tất, chúng tôi treo lên tất cả các cửa sổ, treo cả ở cửa chính và cửa hông. Mành được vén sang hai bên và cột lại, khi có người ra vào tiếng ốc khua nghe rất vui tai. Thế nhưng chỉ được hai ngày, chiếc mành ở cửa hông bị tháo xuống, vì đột nhiên cả nhà nhận ra rằng chiếc mành ốc dường như quá vướng víu và ngăn cách cả thế giới.

      Đó là khung cửa thân thiện. Bởi thế mà nó cần được mở toang. Đôi khi, bạn có thể đến nhà tôi và thấy cánh cửa chính được đóng kín trong khi cổng vẫn mở. Ấy là dấu hiệu, được ngầm hiều rằng "nhà có việc bận nên tiếp khách lạ, còn khách quen cứ vòng ra... cửa hông". Chợt nhớ ý trong cuốn sách viết về Thiền học của Takashina Rosen tựa là A Tongue-tip Taste of Zen (Vị thiền nơi đầu lưỡi), rằng ở buổi sơ giao bao giờ người khách cũng phải vào nhà bằng cửa chính, với những nghi lễ cần thiết mới được chấp nhận của gia đình chủ nhân. Và chỉ khi thân thiện với gia đình ấy rồi mình mới có thể tự do vào bằng cửa sau hoặc cửa hông mà gây quan ngại cho cả chủ lẫn khách.

      Đó là ở nhà quê, còn với Sài Gòn, nơi tôi sống cửa hông là thứ xa xỉ. May mắn thay, nhà tôi lại có con hẻm chung rộng chừng 80cm nằm giữa hai nhà. Đó là nơi má chồng tôi thường ngồi trò chuyện với nhà hàng xóm. Có miếng ngon thường mời nhau. Đó là nơi mấy má con ngồi quây quần cắt kiệu ngày giáp Tết. Con trai hai tuổi của tôi thập thò gọi cậu bạn ở nhà bên. Phía đầu là dải trời xanh rất hẹp, nhưng đủ để nắng len lỏi vào nhảy nhót sàn nhà, và gió len qua những mái nhà luồn vào cánh cửa, khiến căn nhà luôn có hơi thở thiên nhiên. Đứng ở cửa hông đó mỗi chiều, tôi hạnh phúc chỉ cho con thấy những chùm hoa tigon dịu dàng rủ xuống từ mái nhà bên cạnh.

      Ở thành phố bận bịu này, tôi chẳng mấy khi có dịp qua thăm hàng xóm bằng cửa trước, để những chuyện thân mật và tầm phào. Vả chăng, bước ra khỏi cửa là phải mặc quần áo tề chỉnh, tóc tai gọn ghẽ. Chỉ điều đó cũng khiến ta e ngại. Trong khi, có thể thản nhiên ngồi ở cái cửa hông này, tóc rối bù, mặt đầy mồ hôi, tạp dề còn mang ngực, vẫn có thể thoải mái hỏi thăm dăm câu, kể vài mẩu chuyện thường ngày. Những cuộc giao tiếp thân thiện và mối thân tình chỉ có cơ may phát triển bên cánh cửa hẹp, nơi nhà bên này có thể ngó thấy bếp của nhà bên kia.

      Chỉ con hẻm bên hông nhà, chỉ là cánh cửa gỗ kéo qua kéo lại, nhưng có ý nghĩa biết bao. Nó có tác dụng ra vào nhà, nhưng là cánh cửa giao tiếp. Nó còn là nơi hứng lấy nắng và gió. Nó khiến tôi đỡ nhớ quê và cảm thấy ít cách biệt hơn với thế giới bên ngoài, sau khi bước vào cánh cổng nhà đóng kín.

      Vì vậy tôi hiểu bạn, tôi hiểu vì sao bạn lại có vẻ thích thú với cánh cửa hông của Mobile Home ở xứ người như vậy. Nó bất chợt khiến bạn nhớ lại ngày mới lớn, những buổi chiều ngồi mơ mộng xa xôi bên cửa hông nhà và ngóng đợi bóng ai thấp thoáng bên nhà hàng xóm. Tôi hiểu, bởi vì rất nhiều khi, tôi cũng tự nhủ với mình như vậy:

      "Ồ hay quá, nhà mình có cửa hông!"

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :