Giếng Thở Than - Montague Rhodes James [Kinh dị]

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Giếng Thở Than

      [​IMG]

      Tác giả: Montague Rhodes James

      Dịch giả: Lê Nguyệt Áng

      Nhà xuất bản: Văn học

      Số trang: 646

      Kích thước: 13 x 20,5 cm

      Ngày phát hành: 10-10-2010

      ***************************

      Giới thiệu sách

      Giếng thở than là tập truyện ngắn kinh dị của M.R James bao gồm 30 tác phẩm. Các tác phẩm này được chọn lọc từ nhiều tập truyện khác nhau của nhà văn như Những truyện ma của những nhà khảo cổ, Thêm truyện ma nữa, con ma gầy và những truyện khác... Những câu chuyện kì bí, rùng rợn và hấp dẫn trong bối cảnh cuộc sống đời thường chủ yếu được nhân vật xưng “tôi” kể lại bằng giọng điệu khách quan và có lời bình luận. Các tác phẩm như “Còi ơi, ta đến với mi, chú bé của ta”, Quăng các chữ Runes, Phòng số mười ba, Vườn hồng… là những truyện ngắn nổi tiếng của tác giả.

      Đó là cái giếng hoang nằm giữa cánh đồng cỏ suốt hơn 10 năm chẳng có bóng người hoặc con vật nào dám tới gần. Vì dưới giếng thường có tiếng than thở nỉ non vọng lên vào đêm đêm. Ngay ban ngày, thỉnh thoảng, những người chăn cừu bạo gan thấy bóng của bốn người: đàn ông và ba phụ nữ, khi khi , lảng vảng quanh giếng. Họ xuất thường sau bốn giờ chiều và theo bốn con đường mòn uốn lượn quanh các bụi cây gai dẫn đến vài gò nho có lùm cây cao phủ lên miệng giếng. Gió rì rào như đưa họ là đà hổng đất đến gặp nhau. Họ gì chẳng ai nghe ai hiểu. Xa xa văng vẳng lại tiếng khóc, mà có lẽ, vọng lên cùng lúc với nước mắt của họ. Họ khóc vì những chuyện may gặp phải ngày còn sống? Nơi họ đứng được cậu Stanley quan sát từ đỉnh đồi cao, lúc cậu nghỉ hè, cắm trại và tắm nắng; nhưng cậu chỉ thấy cái gò ở xa xa chứ thấy họ. Cậu càng tò mò hơn khi các hướng đạo sinh trong đoàn của cậu được cảnh báo phải tuyệt đối đến khu vực giếng và cậu lén mình để thử gặp bốn linh hồn kia. vắng mặt của Stanley khiến Hope Jones, Wilfred, Algernon, Wilcox phải lặn lội đến "vùng cấm" để tìm và tất cả thấy các bóng ma ban ngày. cuộc đối mặt với những người của thế giới bên kia diễn ra bất ngờ. Cuối cùng chuyện gì xảy đến? Stanley gia nhập hẳn vào thế giới của "những linh hồn chết"? Và "tôi nghe dân ở giếng thở than gồm ba phụ nữ, đàn ông và thêm cậu bé".​

    2. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 1 Lời giới thiệu

      Montague Rhodes James (1862-1936), hiệu trưởng Đại học Hoàng gia ở Cambridge, là học giả nổi tiếng về thời Trung cổ, ông cũng là nhà khảo cổ và là chuyên gia về các tác phẩm ngụy tác Kinh thánh. M.R.James cũng là tác giả của những tập truyện ma kinh điển nổi tiếng nhất và có ảnh hưởng nhất trong văn học viết bằng tiếng . Về những truyện ma, M.R.James viết chừng bốn mươi truyện (trong đó có nhiều truyện chưa hoàn chỉnh) và in trong các tập như: Những truyện ma của nhà khảo cổ (1904), Thêm truyện ma nữa (1911), con ma gày và những kẻ khác (1919), Cảnh cáo cho kẻ tò mò (1925) và Tuyển tập truyện ma của M.R.James (1931). Trong số đó có những truyện rất nổi tiếng như Quãng các chữ Runes và Còi ơi, ta đến với mi, Chú bé của ta. James cũng víết các truyện thần tiên cho trẻ em, như cuốn Năm cái bình (1922).

      M.R.James sinh tại Goodnestone Parsonage ở Kent năm 1862, địa phận mà cha của ông làm phó giám mục. Từ khi còn tuổi, James có thiên hướng mê thích sách vở và thường miệt mài nghiền ngẫm những tập sách cổ giá thư viện hơn là chơi đùa với những lũ trẻ khác. Khi lên sáu, James ốm nặng vì bị viêm phế quản và, trong khi dưỡng bệnh, cậu mong ước được xem cuốn kinh thánh thế kỷ mười bảy bằng tiếng Đức của người bạn cha cậu, giám mục Ryle. Cuốn sách được gửi đến cho cậu và cậu, như được kể lại, nhỏm dậy giường bệnh, say mê lật giở hết trang này đến trang khác.

      Mặc dù là học giả rất lớn của thời bấy giờ, song nay chính nhờ những truyện ma mà M.R.James được nhớ đến nhiều nhất.

      M.R.James được đánh giá là cha đẻ của các thể loại Truyện ma đại, ngay cả những tên tuổi lừng lẫy như J.Sheridan Lefanu hay L.P.Hartley cũng phải xếp đàng sau. có hẳn những tạp chí như Ghosts & Scholars Magazine (Tạp chí Ma và Học giả) chuyên đăng truyện và khuyến khích các học giả nghiên cứu về những tác phẩm của M.R.James.

      Chương 2: Quyển sách dán ảnh của tu sĩ Alberic

      St Bertrand De Comminges là thị trấn hoang tàn những đỉnh nhọn của dãy núi Pyrénées, xa Toulouse là bao, và càng gần Bagnères-de-Luchon. Cho tới Cách mạng, nó vẫn là địa phận của giám mục và có nhà thờ được số khách du lịch tới thăm. Vào mùa xuân năm 1883, người tới cái nơi thuộc thế giới xưa cũ này – tôi khó lòng đồng nhất nó với cái tên "thành phố" vì nó chỉ có chưa đến ngàn dân. Chàng là người của bảo tàng đại học Cambridge, nay đến Toulouse chỉ để thăm nhà thờ St Bertrand và để lại tại khách sạn Toulouse hai người bạn kém say mê khảo cổ học hơn chàng, hẹn họ sáng sớm hôm sau tới gặp chàng. Đối với họ chỉ nửa giờ ở nhà thờ là đủ rồi, sau đó cả ba có thể tiếp tục cuộc du hành theo hướng Auch. Nhưng hôm đó chàng người của chúng ta đến khá sớm, dự định ghi đầy cuốn vở ghi chép của mình và chụp hàng chục tấm ảnh để mô tả tất cả các góc của ngôi nhà thờ kỳ diệu cao sừng sững nổi bật ngọn đồi Comminges. Để thực đầy đủ ý định đây, cần phải độc quyền người giữ nhà thờ suốt ngày mới được! Người giữ nhà thờ, cách khác, người cai quản giáo đường (tôi thích cách gọi sau này hơn cho dù nó chưa chính xác lắm) được bà chủ khá thô lỗ của quán Chapeau Rouge gửi tới; khi ông ta đến nơi chàng người của chúng ta thấy ngay đây là đối tượng nghiên cứu thú vị bất ngờ. phải là từ vẻ bề ngoài của ông già bé , khô khan, mặt mày nhăn nheo, bởi ông ta giống hêt như những người giữ nhà thờ khác ở Pháp, cái hay là ở chỗ ông ta có cái vẻ gì lén lút quái lạ, đúng hơn, như thể bị săn đuổi, bị áp chế, cưỡng bức, lúc nào cũng cứ liếc nhìn phía sau, các bắp thịt ở lưng và vai còng lại, có lẽ chúng liên tục co rút vì bồn chồn, tựa như lo sợ bất cứ lúc nào cũng có thể bị kẻ thù tóm được. Chàng người hiểu nên xếp ông ta vào loại người bị ảo tưởng ám ảnh hoặc lương tâm tội lỗi cắn rứt, hoặc ông chồng sợ vợ? Có vẻ như là khả năng cuối cùng, nhưng người ta có cảm giác ông ta sợ kẻ khủng bố kinh hoàng đúng hơn là sợ bà vợ gây gỗ, lăng loàn.

      Tuy nhiên, chàng người (ta hãy gọi chàng là Dennistoun) chẳng mấy chốc chìm đắm trong việc ghi chép và bận rộn với chiếc máy ánh, thỉnh thoảng lắm mới liếc nhìn người giữ nhà thờ. Mỗi lần nhìn ông ta, chàng lại thấy ông ta ở xa chàng là mấy, nép người vào sát tường hoặc thu mình chiếc ghế hoa mỹ chỗ hát kinh. Sau lúc Dennistoun đâm sốt ruột, nghi ngại mình làm ông già mất bữa cơm trưa, hoặc giả ông ta sợ mình xoáy mất cái gậy phép bằng ngà của giám mục nhà thờ St Bertrand này chăng, hay có thể ăn cắp mất con cá sấu nhồi bông bám đầy bụi treo phía bình đựng nước thánh? Những nỗi nghi ngại này giày vò chàng.

      Cuối cùng chàng :

      "Ông về ăn cơm ạ? Tôi hầu như có thể hoàn thành các ghi chép này mình, ông cứ khoá tôi lại trong nhà thờ này cũng được. Ít nhất tôi cần thêm hai giờ nữa, ông lạnh đấy".

      "Trời ơi!" Người đàn ông bé , lời đề nghị hình như đưa ông ta đến chỗ sợ hãi tả xiết "ai mà dám nghĩ đến chuyện ấy cơ chứ? Để ông ở lại trong nhà thờ này mình ấy ạ? , , hai giờ hay ba giờ đối với tôi cũng thế mà thôi. Tôi ăn sáng, tôi lạnh đâu ạ, xin cám ơn ông".

      "Vâng, thưa ông thế được" và Dennistoun mình "Tôi báo trước, nay hậu quả thế nào ông chịu lấy".

      Chưa hết hai giờ đồng hồ, cái ghế ngồi ở chỗ hát kinh, cây đàn organ to tướng long, gãy hết cả, bình phong ngăn nơi ngồi của đội hợp xướng nhà thờ với giám mục John de Mauléon, những tàn tích của thuỷtinh, của thảm cũng như mọi vật trong phòng chứa các của quý được xem xét kỹ càng, ông già giữ nhà thờ theo Dennistoun sát gót, thỉnh thoảng lại chạy lung tung như bị cái gì châm đốt mỗi khi nghe thấy những tiếng động lạ phá tan yên tĩnh của cả toà nhà rộng lớn trống rỗng; đôi lúc những tiếng động này rất kỳ quặc.

      "Có lần", Dennistoun bảo tôi "Thề với tôi nghe thấy giọng cười như tiếng kim loại ré lên ở tít cao tháp chuông". Tôi đưa cái nhìn dò hỏi về phía người giữ nhà thờ. Môi ông già trắng bệch ra. "Ông ta đấy, đấy, ông ta chứ còn ai nữa, cửa khoá rồi cơ mà".

      Ông già chỉ thế, hai chúng tôi nhìn nhau suốt phút ròng.

      kiện xảy ra làm Dennistoun hoang mang. Chàng xem xét bức tranh treo ở phía bàn thờ, bức trong loạt tranh minh họa những phép màu của nhà thờ St Bertrand. Bức tranh vẽ những gì chẳng ai giải đoán được, tuy nhiên phía dưới có câu La tinh như sau:

      Qualiter S.Bertrandus liberavit hominem quem diabolus diu volebat strangulare (Làm thế nào thánh Bertrand giải thoát được người đàn ông mà quỷ sứ tìm mãi để bóp cổ)

      Dennistoun quay lại nhìn người giữ nhà thờ, mỉm cười định đưa ra nhận xét vui đùa nào đó, nhưng chàng bối rối khi thấy ông này quỳ xuống nhìn lên bức tranh với đôi mắt cầu khẩn của người hấp hối, hai tay chắp lại, hai má tràn trề nước mắt. Dĩ nhiên Dennistoun làm như nhìn thấy gì, tuy nhiên chàng khỏi nghĩ tới câu hỏi "Tại sao bức tranh lem nhem như thế mà ảnh hưởng mạnh đến con người như vậy nhỉ?" Chàng hầu như nắm được câu trả lời mấu chốt cho lý do của cái nhìn kỳ lạ cứ làm chàng bồn chồn suốt cả ngày nay. Ông già là người mắc chứng độc tưởng rồi. Nhưng ông ta độc tưởng cái gì mới được kia chứ?

      sắp năm giờ chiều, ngày ngắn sắp tàn, nhà thờ ngập những bóng tối, những tiếng động kỳ lạ như tiếng bước chân bị bóp nghẹt cùng những giọng xa xôi nghe thấy lúc ban ngày. Nay ánh sáng nhạt nhoà dần khiến chúng càng thêm và xuất liên tục ngớt.

      Người giữ nhà thờ lần đầu tiên tỏ ra vội vã và thiếu kiên nhẫn. Ông ta thở ra nhõm khi máy ảnh và quyển vở ghi chép được gói ghém cất , ông giục Dennistoun mau mau ra cửa phía tây của nhà thờ, dưới cái chuông.

      Lúc này đến giờ chuông nguyện buổi chiều. Dây thừng được kéo vài cái, chiếc chuông lớn Bertrand tít cao bắt đầu cất tiếng, giọng nó vút lên tới các ngọn thông và xuống thấp dưới các thung lũng, ầm ầm với tiếng suối của núi non, kêu gọi những người sống những ngọn đồi quạnh hiu hãy nhớ lấy và nhắc lại lời chào của vị nữ thần mà quả chuông gọi là người đàn bà được Ban Phước. Sau đó lần đầu tiên trong cả ngày hôm ấy, nỗi yên lặng sâu xa trùm xuống thị trấn , Dennistoun và người giữ nhà thờ ra khỏi nhà thờ.

      Tới ngưỡng cửa họ bắt chuyện với nhau.

      "Hình như ông có vẻ quan tâm tới những sách hát kinh cổ ở trong phòng để đồ thờ phải?"

      "Đúng thế. Tôi định hỏi ông thị trấn ta có thư viện ?"

      "Thưa ông . Có lẽ trước đây có, thuộc tăng hội, nhưng nay chỉ còn là nơi rất …" tới đây có cái gì ngần ngừ làm ông ta nữa, sau đó, hình như ông ta liều lĩnh tiếp "Nhưng nếu ông thích chơi sách cổ (amateur des livres) tôi có quyển có thể khiến ông thích thú. Cách đây đến trăm mét".

      Lập tức bao giấc mơ mà Dennistoun hằng ấp ủ mong tìm được những bản viết tay vô giá từ những vùng xa xôi chưa ai đặt chân đến của nước Pháp loé sáng lên trong đầu chàng, nhưng rồi sau đó lại tắt ngấm ngay. Biết đâu chỉ là bản in sách kinh ngớ ngẩn của Plantin khoảng năm 1580? nơi gần Toulouse như thế này chẳng lẽ chưa bị các kẻ sưu tầm lùng sục từ lâu rồi sao? Tuy nhiên, là điên, nhỡ ra sau này ân hận vì từ chối? Thế là họ . đường , trong óc Dennistoun lại ngần ngừ kỳ quặc sau đó đột ngột đến quyết định của người giữ nhà thờ, chàng hơi ngượng tự hỏi hay họ bẫy ta tới chỗ bìa rừng nào đó để khử ta, tưởng ta là người giàu có? Do đó chàng mưu mẹo với người dẫn đường – cách vụng về - rằng chàng chờ đợi hai người bạn đến với chàng sáng sớm hôm sau. Lạ thay, nghe vậy người giữ nhà thờ có vẻ hẳn nỗi lo âu vẫn đè nặng lên ông ta.

      "Thế thi hay quá" ông ta tươi tỉnh " là hay khi ông du lịch cùng hai người bạn luôn ở bên ông. mà có bạn tốt quá, trong số trường hợp nào đó"

      Mấy chữ cuối cùng được sau ít phút nghĩ ngợi, rồi ông ta lại rơi vào nỗi u ám như trước.

      Chẳng mấy chốc họ tới nhà, căn nhà khá rộng, rộng hơn các căn lân cận, xây bằng đá, cánh cửa có khắc cái khiên của Alberic de Mauléon – con cháu (chi ) của giám mục Jonh de Mauléon - theo lời Dennistoun bảo tôi. Ông Alberic này là giáo sĩ của Comminges từ 1680 đến 1701. Những cửa sổ phía của toà nhà được bít kín, toàn bộ nơi này mang dáng vẻ của thời đại tàn hai, cũng như hầu hết những căn nhà còn lại ở Comminges.

      Từ ngưỡng cửa, người giữ nhà thờ dừng lại lát.

      "Có lẽ" ông ta "có lẽ ông giờ?"

      ", tôi có khối thời gian là khác, từ giờ đến sáng mai chẳng có việc gì mà làm. Ta cứ xem thử ông có cái gì?"

      Đến đây cửa ra vào mở ra, khuôn mặt thò ra, trẻ hơn khuôn mặt người giữ nhà thờ nhiều, nhưng cũng mang cái vẻ buồn thảm y như thế. Chỉ có điều đáng chú ý ở đây, là nó phải sợ hãi cho an toàn của bản thân mà là nỗi lo lắng ghê gớm cho an toàn của người khác. ràng chủ nhân của khuôn mặt này là con ông giữ nhà thờ rồi, và tuy có vẻ mặt như tôi mô tả kia, ta khá xinh. tươi hẳn lên khi thấy cha mình có người lạ khoẻ mạnh cùng. Cha và con với nhau vài lời nhận xét gì đó, Dennistoun chỉ nghe mấy chữ "Ông ta lại cười trong nhà thờ" những lời mà chỉ trả lời bằng cái nhìn hoảng hốt.

      Nhưng chỉ phút sau họ ngồi trong phòng khách của căn nhà – căn phòng nhô cao, sàn lát đá, đầy những cái bóng nhảy múa của ngọn lửa đám củi cháy bừng bừng trong lò sưởi – có vẻ gì đó mang tinh cách nhà thờ bên có cây thập tự cao đến gần trần nhà, hình người sơn màu tự nhiên, chữ thập sơn đen. Bên dưới là cái tủ cổ và chắc chắn. Sau khi đèn được mang ra, các ghế ngồi được kéo ra, người giữ nhà thờ tới chỗ cái tủ, thái độ liên tục bị kích động, bồn chồn và nóng nảy, theo Dennistoun nghĩ. Ông ta lấyra quyển sách to, bọc trong tấm vải trắng thêu thô sơ chữ thập bằng chỉ đỏ. Ngay từ khi chưa mở khăn bọc ra, Dennistoun lấy làm lạ về kích thước và hình dáng quyển sách. "Đối với quyển sách kinh như thế này quá to", chàng nghĩ "về hình thù mà phải thứ kháng , rất có thể cũng là thứ hay ho đây". Quyển sách được mở ra, Dennistoun nhận ra nó còn hơn cả hay ho nữa. Trước mặt chàng là quyển sách khổ to được đóng theo kiểu có lẽ thế kỷ mười bảy, gia huy của tu sĩ Alberic de Mauléon in thếp vàng hai bên. Trong quyển sách có độ trăm năm mươi trang giấy và hầu hết mỗi trang lại có dán trang viết tay tô màu rực rỡ. bộ sưu tập như thế này chưa bao giờ Dennistoun dám mơ đến. Đây chẳng hạn, mười tranh chép từ cuốn đầu của Kinh Cựu ước – với nhiều hình vẽ minh họa, thể muộn hơn hơn năm 700 sau Công nguyên. Quá chút nữa là bộ ảnh đầy đủ lấy từ quyển sách Thánh ca tiếng , tạo phẩm vô cùng tinh tế của thế kỷ mười ba, và đây nữa,có lẽ giá trị nhất trong tất cả, là hai mươi trang La tinh chữ viết mà vừa nhìn qua đây đó mấy chữ, chàng hiểu ngay nó thuộc về luận án từ rất lâu của các cha giáo lý. Cũng có thể nó là mẫu sao chép của Papias "Theo lời Chúa của chúng ta", được biết vốn tồn tại ở Ninnes thế kỷ mười hai. Dù thế nào, ý chàng quyết, quyển sách này phải theo chàng trở về Cambridge, cho dù chàng có phải rút hết tiền trong ngân hàng ra và ở lại St Bertrand chờ tiền gửi đến. Chàng liếc nhìn lên người giữ nhà thờ, xem nét mặt ông ta có lộ ra quyển sách này là để bán . Mặt ông ta tái mét, hai môi mấp máy:

      "Ông giở đến cuối trang sách xem" ông ta .

      Thế là chàng giở tiếp, mỗi trang là kho tàng mới, đến tận cùng quyển sách chàng gặp hai trang giấy. đến nỗi từ thời xa xưa lắm như các trang kia khiến chàng khá bối rối vì theo chàng chúng là đương đại, có nghĩa Giám mục Alberic,chắc hẳn lục lọi thư viện của Tăng hội St Bertrand để tạo nên quyển sách dán ảnh vô giá này. trang giấy đầu là bản đồ, lập rất cẩn thận bởi người ràng thông tỏ khu vực này, vẽ cánh phía nam và các hành lang của nhà thờ St Bertrand. Có nhiều dấu hiệu kỳ quặc tựa như thể các hành tinh, ở các góc là mấy chữ Do Thái, riêng góc Tây bắc của hành lang là chữ thập thếp vàng. Bên dưới bản đồ là vài dòng chữ

      Ressponsa 12mi Dec 1694. interrogatum est: inveniame? Responsum est:Invenies. Fiamme dives? Fies. Viamme invidenus? Vives. Moriarnein lecto meo? (Trả lời ngày 12 tháng 12 năm 1694. hỏi: liệu tôi có tìm thấy ? Trả lời: thấy. Tôi có trở nên giàu có ? giàu. Tôi có được người ta thèm muốn ? . Tôi có chết trong giường của tôi ? )

      "Thứ này quá tốt cho hồ sơ kẻ săn của báu đây, nó làm tôi nhớ đến tập Old St Paul's của ông phó giám mục Quatremain" Dennistoun bình phẩm và lật tiếp các trang giấy.

      Những gì chàng nhìn thấy lúc này mới gây ấn tượng. Chàng vẫn thường bảo tôi là chưa bao giờ chàng quan niệm nổi bức vẽ hay bức ảnh có thể gây ấn tượng mạnh cho chàng đến như thế. Và, mặc dù bức vẽ chàng nhìn thấy, nay còn nữa, bức ảnh chụp nó vẫn còn (tôi giữ) lên đầy đủ nhận định này. Bức tranh vẽ bằng mực nâu đen vào cuối thế kỷ mười bảy, thoáng nhìn tưởng như cảnh trong kinh thánh, vì thiết kế trang trí của nó (cảnh là cảnh ở trong nhà) và các nhân vật phảng phất vẻ nửa kinh điển mà các nghệ sĩ hai trăm năm trước cho là phù hợp để in trong Kinh thánh. Bên phải là vị vua ngồi ngai vàng, ngai cao mười hai bậc, đầu có tấm màn che, hai bên có các con sư tử - ràng là vua Salomon rồi. Ngài cúi xuống phía trước, tay giơ quyền trượng với thái độ sai khiến, khuôn mặt biểu của ý chí độc đoán và uy quyền tự tin. Tuy nhiên bên trái của bức tranh mới làm người ta ngạc nhiên. ràng những thứ đáng lưu ý tập trung ở cả chỗ này. mặt đá lát trước ngai vàng là nhóm bốn người lính quây quanh thành hình thù né núp xuống mặt đá lát, hình thù này tôi mô tả kỹ sau. Người lính thứ năm nằm chêt rục mặt đá lát, cổ bị vặn gầy, hai nhãn cầu lồi ra khỏi hốc mắt. Bốn người lính kia nhìn vào nhà vua. khuôn mặt họ lộ vẻ kinh hoàng khôn tả, thực tế có lẽ họ bỏ chạy chỉ vì lòng tin tuyệt đối ở ông chủ của mình. Nỗi kinh hoàng này chính là do cái hình thù mà họ vây quanh gây ra. Tôi rất thất vọng vì truyền đạt cho hết bằng bất kể cách nào cái ấn tượng mà hình thù đó gây ra cho bất cứ ai nhìn vào đó. Tôi còn nhớ có lần đem cho nhà hình thái học xem. Ông này là người tỉnh táo, hề giàu trí tưởng tượng. Xem xong tấm hình chụp, ông ta nhất định chịu ở mình tối đó nữa. Ông ta bảo tôi sau rất nhiều đêm tiếp theo, ông phải để đèn khi ngủ. Tuy nhiên, tôi có thể chỉ ra những nét chính của hình thù đó. Trước tiên bạn trông thấy mớ lông đen thô thiển dính bẹt xuống đất, mớ lông này che phủ tấm thân gày đến mức đáng sợ, như bộ xương, các thớ cơ tách hẳn ra khỏi xương trông như những sợi dây thép. Hai bàn tay xanh nhợt và giống như thân mình, được phủ lớp lông cũng thô và dài, các ngón có móng rất xấu xí, kinh tởm. Đôi mắt có ánh màu vàng cháy rực, giữa là lòng đen, đen kịt, nhìn lên vua với cái hằn học của con vật. Bạn hãy tưởng tượng loại nhện bắt chim của Nam Phi, kinh khiếp như vậy mà lại hình thành người với trí thông minh kém hơn ocn người. Bạn hơi hơi có chút ý niệm của thứ người nộm kinh khủng mà tôi tả. thường ai trông thấy bức ảnh tôi đưa ra cũng đồng thanh phát biểu rằng "Đó là sống bị hút kiệt".

      Sau khi chế ngự được cơn sốc hãi hùng lúc thoạt nhìn thấy bức tranh, Dennistoun nhìn trộm các vị chủ nhà. Hai tay người giữ nhà thờ bịt chặt lấy mắt, con nhìn lên cây thập tự, tay lần tràng hạt cách hăng hái.

      Cuối cùng câu hỏi được đặt ra "quyển sách này có bán ?"

      Lại cũng vẫn ngần ngừ rồi quyết định đột ngột mà Dennistoun nhận thấy trước đây, sau đó đến câu trả lời chàng mong đợi.

      "Vâng, nếu ông muốn mua"

      "Ông đòi bao nhiêu ạ?"

      "Tôi lấy ông hai trăm năm mươi francs".

      là lạ. Ngay cả lương tâm của kẻ sưu tầm cũng có lúc bị khuấy động, mà lương tâm Dennistoun lại mềm yếu hơn lương tâm những kẻ sưu tầm khác.

      "Ông ơi" Dennistoun lại mãi "sách của ông đáng giá hơn thế nhiều. Bảo đảm với ông, hơn nhiều lắm".

      Nhưng câu trả lời thay đổi "Tôi chỉ xin lấy có hai trăm năm mươi francs thôi, hơn".

      Chẳng lẽ lại từ chối cơ may hiếm có như vậy. Tiền trả xong, biên lai được ký nhận, sách trao xong mỗi người uống cốc rượu, và sau đó người giữ nhà thờ trở nên con người khác hẳn. Ông ta đứng thẳng lên, còn ném ra phía sau những cái nhìn nghi hoặc nữa, ông ta còn cười thành tiếng hoặc cố găng cười thành tiếng. Dennistoun đứng dậy ra về.

      "Tôi có được hân hạnh đưa ông về khách sạn ?"Người giữ nhà thờ hỏi.

      "Ồ, cám ơn ông, ạ. Có chưa đến trăm mét ấy mà. Tôi thuộc đường lắm, trời lại sáng trăng"

      Lời đề nghị vẫn được nhắc nhắc lại ba bốn lần, lần nào cũng bị từ chối.

      "Thôi được, ông cứ gọi tôi nếu có dịp. Xin ông vào giữa đường hai bên đường gồ ghề lắm"

      "Nhất định, nhất định rồi" Dennistoun , chàng rất sốt ruột chỉ mong được mình xem lại phần thưởng này, chàng bước ra, tay cắp quyển sách.

      Ra đến ngoài chàng gặp con , việc như ta cũng lo làm việc mua bán gì đó cho riêng mình.

      Có lẽ như Gehazi, định "lấy cái gì đó" của người nước ngoài mà cha mình tha cho chưa lấy.

      "Ông có nhận cho cây thập tự bạc cùng dây đeo cổ ạ?"

      Dennistoun dùng mấy thứ này làm gì?

      " lấy bao nhiêu tiền?"

      "Dạ , chút gì. Ông nhận là may cho tôi"

      Giọng biểu lộ thành thực thể nhầm lẫn được, thành ra Dennistoun nhận lấy, cám ơn rối rít, đeo sợi dây vào cổ. Chàng thấy cứ như thể mình giúp hai bố con ông giữ nhà thờ việc mà họ biết phải đáp lại như thế nào. Trong khi chàng bước cả hai đứng ở cửa nhìn theo. Khi chàng quay lại vẫy tay lần cuối cùng, chúc họ ngủ ngon, từ bậc tam cấp của quán Chapeau Rouge, chàng vẫn thấy họ đứng nhìn theo như lúc nãy.

      Cơm tối xong, Dennistound đóng cửa ở trong phòng ngủ mình với thứ mới mua được. Bà chủ quán tỏ ra đặc biệt chú ý đến chàng khi nghe chàng vào thăm ông giữ nhà thờ và mua của ông ta quyển sách. Chàng cũng nghe loáng thóang mẩu đối thoại vội vã giữa bà ta và ông giữ nhà thờ nọ trong hành lang bên ngoài phòng ăn, kết thúc bằng mấy từ có ý tứ như sau "Pierre và Bertrand cũng ngủ trong nhà cả mà".

      Suốt thời gian này, Dennistoun cứ có cảm giác ổn trong người mà cảm giác đó ngày càng tăng, có lẽ quá vui mừng vì khám phá của mình hay sao ấy. Dù thế nào biết, chàng tin chắc có ai đó đứng đàng sau, chỉ dựa sát lưng vào tường mới thấy dễ chịu. Nhưng tất cả những thứ ấy thấm tháp gì so với giá trị của quyển sách mà chàng vừa mua được. Và lúc này đây, mình trong phòng, chàng lấy cái kho báu của giám mục Alberic ra, cái của quý mà mỗi lúc chàng thấy càng thêm hấp dẫn.

      "Xin Chúa ban phước cho giám mục Alberic!" Dennistoun , chàng có cái tật sửa được là hay mình "Chẳng biết bây giờ ông ta ở đâu? Trời đất! Tôi cứ mong bà chủ quán có cái cười vui vui lên chút chứ bà đừng làm như có ai chết trong nhà! Bà bảo là "Hãy hút thêm nửa tẩu thuốc nữa!" Đúng đấy. Tôi hiểu cây thập tự cố tình cho tôi là sao? Thuộc thế kỷ trước chăng? Có thể lắm. Đeo ở cổ thế này vướng chết được, nặng ghê! Có lẽ cha ta đeo nó ở cổ trong nhiều năm. Trước khi cất ta phải đem nó ra lau sạch cái "

      Chàng tháo cái dây ra, đặt bàn, vừa lúc đó có vật nằm miếng vải đỏ bên khuỷu tay trái chàng khiến chàng chú ý. Óc chàng thoáng qua vài ba ý nghĩ nhanh.

      "Giẻ lau bút ư? Nhà này làm gì có nhỉ? Chuột ư? , chuột phải đen hơn. con nhện lớn chắc? Ta tin là phải. Ồ, mà trời ơi! bàn tay giống hệt bàn tay thấy trong bức tranh!"

      Nhanh như ánh chớp chàng cầm bàn tay ấy lên. Làn da xanh bợt, chỉ có xương và gân, những thớ gân rất to, lông lá đen sì, bàn tay dài hơn bàn tay người bình thường, ngón tay có móng dài quắp xuống đưa ra trước, màu xám, cứng như sừng, rúm ró.

      Chàng lập tức bay khỏi ghế ngồi, nỗi sợ hãi thể nào tả được bóp nghẹt lấy tim chàng. bóng ma mà bàn tay trái vẫn đặt bàn, vươn dậy sau chỗ chàng ngồi, bàn tay phải khom khom mảnh da đầu còn tí tóc. Bóng ma đó mặc quần áo rách tả tơi, lộ ra lông lá dài thô như trong bức tranh. Hàm dưới nó mỏng teo – tôi biết gọi thế nào? Hõm sâu vào như hàm của con vật, răng nhe ra khỏi đôi môi đen ngòm, mũi có, mắt rực sáng ánh màu vàng, lồi ra hai con ngươi đen, bộc lộ ra tất cả nỗi căm thù muốn tiêu diệt cuộc sống. Đó là điểm đặc trưng nhất của kinh hoàng trong toàn bộ cảnh hình ma này. Trong tất cả những cái đó, vẫn có thông minh nào ấy thấp hơn của con người nhưng cao hơn của con vật.

      Những cảm giác mà kinh hoàng này gây nên cho Dennistoun là sợ hãi căng thẳng về thể chất đồng thời cũng là ghê tởm khủng khiếp nhất về tinh thần. Chàng phải làm gì đây? Chàng có thể làm gì? Chàng biết chắc mình những lời nào chỉ biết là chàng , nắm vào cái chữ thập bằng bạc cách mù quáng, chàng nhận thức được động thái của con quỷ tiến về phía chàng, thế là chàng kêu thét lên với giọng của con vật dang chịu đựng nỗi đau ghê gớm.

      Pierre và Bertrand, hai tay phục vụ khoẻ mạnh chạy bổ vào, trông thấy gì hết, nhưng cảm thấy bị đẩy sang bên rất mạnh như có ai chạy qua, Dennistoun bất tỉnh nhân . Họ ngồi với Dennistoun suốt cả đêm hốm đó, còn hai bạn của chàng chín giờ sáng hôm sau mới tới. Bản thân chàng, tuy còn run rẩy, bồn chồn nhưng chúng lúc này lại người, thành ra câu chuyện kể của chàng người ta tin được, mặc dù sau đó họ phải tận mắt nhìn vào bức vẽ và đích thân gặp người giữ nhà thờ.

      Khoảng rạng đông ông già bé kiếm cớ vào quán và chú ý lắng nghe câu chuyện bà chủ quán kể lại, tỏ ra chút ngạc nhiên.

      "Ông ta đấy mà, ông ta đấy! Chính mắt tôi nhìn thấy mà!" ông già chỉ có thế, bất kỳ câu hỏi nào ông cũng chỉ hạ cố đáp có câu "Hai lần tôi trông thấy ông ta, còn cảm thấy ông ta hàng ngàn lần". Ông cũng từ đâu mà mình có cuốn sách, cũng kể chi tiết những gì mình gặp phải "Tôi chẳng mấy lúc cũng được nghỉ ngơi, và yên nghỉ của tôi êm đềm. Việc gì các ông phải bận tâm thế nhỉ?" Ông ta . [1]

      Chúng ta bao giờ hiểu được nỗi khổ mà ông ta và giám mục Alberic de Mauléon phải chịu đựng. Đằng sau tấm ảnh định mệnh đó có mấy dòng chữ viết tay có thể rọi cho chúng ta vài tia sáng:

      Contradictio Salomonis cum demonio nocturno

      Albericus de Mauleone delineavit

      v. Deus in adiutorịm Ps.Quihabital

      Sancte Bertrande, demoniorum effugator, intercedepro une miserrimo

      Primum iudi nocte 12mi Dec 1694: uidebo mox ultimum

      Poccaui et passus sum, plura adhuc passurus

      Dec.29.1701 [2]

      Tôi bao giờ hiểu được quan điểm của Dennistoun về những kiện tôi vừa kể ở . lần chàng trích dẫn cho tôi câu trong sách Thánh " số hồn ma lên là để trả thù và trong cơn giận dữ, chúng chơi những cú ác liệt". lần khác chàng "Issaiah là người rất tỉnh táo, thế mà ông ấy chẳng gì đo 'về những con quỷ đêm đêm vẫn sống ở những nơi đổ nát của Babylon đó sao? Những chuyện này nay còn quá tầm với của chúng ta, chưa thể hiểu được".

      lời tâm khác nữa của chàng khiến tôi bị ấn tượng mạnh và qua đó thông cảm với chàng. Năm ngoái, chúng tôi tới Comminges thăm mộ của tu sĩ Alberic. tảng đá hoa cương sừng sững, có hình nổi của giám mục đội tóc giả mặc áo thầy tu và lời ca tụng rất hay về học vấn của ông ở phía dưới. Tôi thấy Dennistoun chuyện khá lâu với cha xứ của nhà thờ St. Bertrand. đường lái xe chàng bảo tôi:

      "Hy vọng chuyện này có gì sai trái. biết tôi là người theo Tân giáo, nhưng tôi tin là nên tổ chức lễ Mass và hát kinh tụng nguyện cho giám mục Alberic được yên nghỉ".

      Rồi chàng thêm pha giọng Bắc :

      " hiểu sao tôi cảm thấy họ gần gũi với mình"

      Quyển sách nằm trong bộ sưu tập Wentworth của Cambridge. Tấm tranh vẽ được chụp lại, sau đó Dennistoun đem đốt vào ngày chàng rời Commingessau dịp đến thăm nhà thờ lần đầu tiên.

      Chú thích:

      [1] Chú thích của tác giả: Ông ta chết mùa hè năm ấy, con lấy chồng và ổn định suốt đời ở St Papoul. ta hiểu gì về "nỗi ám ảnh" của người cha cả.

      [2] Chú thích của tác giả: cuộc cãi nhau của Salomon với con quỷ đêm, do Alberic de Mauléon vẽ. Câu xướng trong lúc hành lễ: Lạy Chúa mau cứu giúp con. Người Thánh ca. Người ở đây

      St. Bertrand người đuổi theo những con quỷ phải bỏ chạy, xin hãy cầu nguyện cho tất cả những người bất hạnh. Tôi nhìn thấy hồnó ma ông lần đầu vào đêm 29 tháng 12 năm 1694. lâu sau đó tôi nhìn thấy nó lần cuối cùng. Tôi phạm tội, đau khổ, tôi còn gì để đau khổ nữa, 29.12.1701

      Theo quyển "Galliana Christiana", ngày mất của vị giám mục là 31 tháng 12 năm 1701. (mất tại giường, cơn đột quỵ), thường chi tiết này mấy khi gặp trong tác phẩm lớn của Sammarthani

      Chương 3: Những trái tim bị mất
      Như tôi còn nhớ chắc chắn vào tháng chín năm 1811, chiếc xe ngựa trạm đến trước cửa toà nhà Aswarby Hall ở trung tâm Lincolnshire. cậu bé, hành khách duy nhất trong xe, nhảy ngay ra ngoài khi xe dừng và nhìn quanh cách tò mò trong khoảng thời gian ngắn ngủi giữa lúc bấm chuông và lúc cửa gian sảnh mở ra. Cậu trông thấy toà nhà gạch cao, vuông vắn, kiểu từ thời nữ hoàng Anne, cái cổng có cột đá tôn thêm nét cổ kính của hồi 1790; các cửa sổ rất nhiều – đều cao và hẹp với các ô kính , khung là gỗ trắng dày. Bên phải bên trái đều có nhà nối với nhau bằng những hành lang sáng lấp lánh cách kỳ lạ, cũng đều có cột nâng, giữa là khối nhà chính. Hai bên cánh chỉ là chuồng ngựa cũng văn phòng. Bên mỗi cánh nhô lên cái vòm trang trí với chiếc chong chóng gió thếp vàng.

      Ánh đèn buổi tôi chiếu ra từ toà nhà làm các ô kính cửa sổ long lanh như muôn vàn tia lửa. Phía trước gian sảnh là công viên bằng phẳng, điểm đây đó những cây sồi, riềm là những cây sam. Chiếc đồng hồ tháp chuông bị che lấp bởi những cây cao ở bờ công viên, riêng có chiếc chong chóng chỉ chiều gió là lộ ra ánh sáng. Đúng sáu giờ, tiếng chuông đồng hồ vang êm đềm trong gió. Toàn cảnh đem lại cảm giác vui tươi, tuy đượm vẻ buồn của buổi chiều đầu thu, nhuốm vào tâm trạng cậu bé đứng ngoài cổng chờ người ta mở cửa cho mình.

      Chiếc xe trạm đưa cậu từ Warwickshire tới, nơi mà sáu tháng trước đây cậu trở thành cậu bé mồ côi. Giờ đây, nhớ lời đề nghị hào hiệp của ông họ lớn tuổi, ông Abney, mà cậu tới ở Aswarby. Lời đề nghị rất bất ngờ, bởi tất cả những người biết ông Abney đều coi ông là người ở khá khắc ngiệt, cậu bé tự nhiên vào cuộc sống ổn định của ông hẳn điều mới lạ, thích hợp chút nào. thực là ít ai hiểu ông Abney theo đuổi cái gì và tính tình ông ra sao. Vị giáo sư tiếng Hy lạp ở Cambridge nghe từng tuyên bố ai hiểu biết về tín ngưỡng của những người theo tà giáo nhiều hơn ông chủ của Aswarby này. Quả thư viện của ông đầy những quyển sách hồi đó có thể tìm được, về các bí mật, các bài thơ bí hiểm, việc thờ phụng các thần Mithras [1] và những người theo học thuyết Platon [2] mới.

      Trong gian sảnh lát đá hoa cương người ta thấy nhóm tượng các thần Mithras giết con bò, mua khá đắt từ Levant đem về. Chủ nhân viết bài mô tả nhóm tượng cho tờ Tạp chí Người Phong Lưu và cũng viết loạt bài báo đáng chú ý trong tờ Bảo tàng về mê tín của những người La Mã đối với Đế chế Thấp [3] . cách chính xác, mà ta được nhìn nhận như người được bao bọc trong sách vở, thành thử láng giềng đều lấy làm lạ ngay từ việc ông tra có nghe tốt người em họ là Stephen Elliott chứ đừng tới việc ông ta đem cậu bé về ở cùng Aswarby Hall với mình.

      Dù cho hàng xóm có chờ đợi gì chăng nữa, điều chắc chắn là ông Abney – người đán ông cao gầy, nghiêm khắc – có vẻ như đón chào người họ hàng tủôi khá tử tế. Cửa gian sảnh vừa mở, ông từ phòng học chạy ra vui vẻ xoa tay.

      "Cậu bé, khoẻ chứ? Khoẻ ? Bao nhiêu tuổi ấy nhỉ? Hy vọng cậu đến nỗi mệt lắm vì đường. Ăn bữa tối nhé?" ông ta .

      "Dạ , xin cám ơn ông." Cậu bé "Tôi khoẻ ạ".

      "Ngoan quá. Thế cậu bao nhiêu tuổi?" ông ta hỏi.

      Kẻ cũng hơi lạ, mới gặp có hai phút mà ông ta có vẻ quá quan tâm đến việc này.

      "Đến sinh nhật này tôi mười hai ạ" Stephen đáp.

      "Sinh nhật là vào hôm nào? Mười tháng chín phải ? Hay lắm! Tốt. Gần năm nữa đấy nhỉ? Ha! Ha! Tôi phải ghi vào sổ mới được. chắc chắn là mười hai chứ?"

      "Dạ vâng, chắc ạ".

      "Tốt, tốt. Ông Parkes, đưa cậu ta đến phòng bà Bunch, để cậu dùng trà, hay ăn tối, gì gì cũng được".

      "Vâng ạ" ông Parkes điềm đạm đáp rồi đưa cậu bé xuống nhà dưới.

      Bà Bunch là người đàn bà dễ chịu nhất và gần gũi nhất mà Stephen gặp ở Aswarby. Bà làm cậu cảm thấy như mình ở nhà, chỉ mười lăm phút sau hai người trở thành bạn và họ là những người bạn lớn của nhau mãi mãi. Bà Bunch sinh trưởng ở vùng lân cận khoảng năm mươi năm trước ngày cậu bé đến Aswarby và ở Aswarby Hall hai chục năm nay. Vì vậy, bất kỳ ai từng ra vào toà nhà này cũng như vùng này bà đều biết, và rất sẵn sàng phổ biến thông tin đó cho người khác.

      Dĩ nhiên có biết bao điều mà Stephen muốn biết, kể từ toà nhà cho đến khu vườn vì cậu có đầu óc phiêu lưu thích tìm hiểu. "Ai xây ngôi đền ở cuối chặng đường liều chỗ kia? Ai là ông già có ảnh treo ở cầu thang, ngồi bên bàn, tay cầm cái sọ người?" Những điều như thế và giống như thế được trí nhớ khá vững của bà Bunch làm sáng tỏ, tuy nhiên vẫn còn số điều giải thích chưa được ràng.

      buổi tối tháng Mười , Stephen ngồi bên ngọn lửa trong phòng bà coi nhà, ngẫm nghĩ về mọi thứ xung quanh, bỗng dưng cậu lên tiếng hỏi:

      "Ông Abney có phải là người tốt bà, và ông có được lên Thiên đường ?" Đây là câu hỏi mà trẻ con thường có lòng tin đặc biệt vào người lớn có khả năng trả lời, tính chất những câu hỏi này chỉ dành riêng cho toà án.

      "Trời! Tội nghiệp cậu bé!" Bà Bunch "Ông chủ là loại người tốt tôi chưa thấy bao giờ. Thế tôi chưa kể cậu nghe ông từng nhặt đứa bé ngoài đường về nuôi cách đây bảy năm. Lại còn , hai năm sau ngày tôi đến đây làm".

      "Chưa ạ. Bà chưa kể. Bà hãy cho tôi nghe ngay !"

      "Thế này nhé" bà Bunch kể, " tôi nhớ lắm. Chỉ nhớ hôm ông dạo về đem theo bé và ra lệnh cho bà Ellis, lúc đó là người giữ nhà, trông nom chu đáo. bé tội nghiệp còn người thân thích nào – chính bé bảo tôi vậy – và sống ở đây với ông chủ ba tuần phải, sau đó ta gặp người gypsy cùng dòng máu với ta hay sao đấy, chỉ biết là buổi sớm mai dậy sớm hơn tất cả chúng tôi rồi đâu mất, ai nhìn thấy nữa. Ông chủ rất tuyệt vời, cho tát tất cả các ao, nhưng theo tôi ta trốn theo bọn gypsy vì đêm hôm ta bỏ , quanh nhà có tiếng hát cất lên độ giờ đồng hồ. Parkes là có nghe tiếng gọi từ trong rừng vẳng ra. Trời ơi! bé mới lặng lẽ làm sao, cái cách ta bỏ như thế chẳng giống chút nào với tính cách thuần thục của ta, tôi lấy làm lạ".

      "Thế còn chú bé kia sao?" Stephen hỏi.

      "A! Cái chú bé tội nghiệp ấy!" bà Bunch thở dài "Chú bé là người ngoại quốc tên là Jevanny, vừa lên con đường vào nhà vừa quay chiếc đàn quay vào ngày mùa đông, ngay phút đó ông chủ đón chú ta ngay và hỏi cậu từ đâu tới, bao nhiêu tuổi, làm thế nào sinh nhai, họ hàng ở đâu…rất tử tế. Nhưng cũng giống như bé kia, hôm chú ta bỏ vào buổi sáng, vì sao bỏ , bỏ làm gì, hàng năm sau chúng tôi vẫn tự hỏi, bởi cây đàn quay vẫn còn để lại giá mang theo".

      Suốt thời gian còn lại của buổi tối, Stephen hỏi bà Bunch rất tỉ mỉ cố xem có gợi ra được điệu nhạc nào từ chiếc đàn quay .

      Đêm hôm đó cậu mơ giấc mơ kỳ lạ. Cuối hành lang lên tầng cùng của ngôi nhà, nơi có phòng cậu ở, có cái buồng tắm cũ nay dùng, được khoá kỹ, tuy thế phần cửa ra vào vẫn nhìn qua được vì là kính mà màn cửa bằng vải tơ rã hết, thấy được cả ống dẫn nước bằng chì gắn vào trong tường mé bên phải, đầu ống nước quay về phía cửa sổ.

      Đêm hôm mà tôi , Stephen tự nhiên nhìn qua kính cái cửa ra vào đó. Ánh trăng chiếu qua cửa sổ, cậu nhìn thấy hình người nằm trong bồn tắm.

      Mô tả của cậu làm tôi nhớ lại có lần chính mắt tôi nhìn thấy trong vòm nhà thờ St. Michan nổi tiếng ở Dublin những xác người chết được lưu giữ sao cho bị rữa từ nhiều thế kỷ. Hình người cậu nhìn thấy gầy và thường tưởng tượng được, màu xám như chì, bọc trong tấm áo giống khăn liệm, đôi môi nở nụ cười nhợt nhạt dễ sợ, hai tay chắp lại để ngực nơi trái tim.

      Cậu vừa nhìn vào nghe có tiếng rên rỉ khe khẽ thốt ra từ đôi môi và hai cánh tay thây người hơi cử động. Hoảng hồn cậu lùi lại, tỉnh lại cậu thấy mình quả đứng sàn gỗ lạnh toát trong hành lang vằng vặc ánh trăng. Với lòng can đảm phi thường mà tôi cho rằng trẻ con ở tuổi ấy khó có thể có được, cậu bé tới cánh cửa phòng tắm nhìn vào xem có thực là trong bồn tắm có người nằm . . Thế là cậu vào lại giường, ngủ.

      Sáng hôm sau, bà Bunch rất bị ấn tượng bởi câu chuyện cậu bé kể, và thay ngay tấm màn mới vào cửa kính buồng tắm. Ông Abney nghe cậu kể vậy vào bữa ăn sáng có vẻ quan tâm ghê lắm, và là phải ghi vào "quyển sách của ông ta".

      Tiết xuân sắp đến. Cũng như mọi khi, ông Abney nhắc người họ hàng trẻ rằng thời tiết này các cụ ngày xưa coi là rất nguy hiểm cho người ít tuổi, Stephen phải lo giữ sức khoẻ, phải đóng cửa sổ khi ngủ, việc nhắc nhở đó còn kèm theo vài nhận xét khá giá trị, bởi thời kỳ này còn hai kiện nữa tác động đến tâm trí Stephen.

      kiện đầu tiên xảy ra sau đêm cậu trằn trọc khó ngủ. mặc dù cậu mơ thấy giấc mơ nào đặc biệt như hôm nọ.

      Tối hôm bà Bunch lo vá cho cậu tấm áo ngủ.

      "Trời ạ, cậu Stephen!" bà kêu lên có vẻ giận dữ "Sao cậu lại xé cái áo ngủ tan nát ra thành từng mảnh thế này? Này, mời cậu nhìn xem, làm khổ đầy tớ phải vá víu như thế này đây!"

      đúng là kiểu phá hoại tinh nghịch. Cái áo bị xé từng rạch, phải tài tình lắm mới vá nổi. Đặc biệt bên ngực trái, những vết rạch dài khoảng mười lăm phân , số vết rạch đứt hẳn lần vải. Stephen hoàn toàn biết gì về chuyện này. Đêm qua chắc chắn như thế.

      "Nhưng bà Bunch ạ, chúng giống hệt những vết cào cánh cửa buồng ngủ của tôi, mà đảm bảo với bà là tôi hề động chạm gì đến cánh cửa cả".

      Bà Bunch nhìn vào Stephen, miệng há hốc, sau khi thắp cây nến, vội vã rời khỏi phòng mình, lên gác. Vài phút sau bà xuống.

      "Phải đấy, cậu Stephen ạ, kỳ lạ , những vết đó phải có ai đến tạo ra chứ chó hoặc mèo với tới được, chuột càng thể. Chúng cứ như móng tay người bán đồ sứ cào vào ấy. Chú tôi là người buôn trà thường bảo chúng tôi như vậy khi chúng tôi còn . Thôi tôi bảo là cậu gây nên những tổn hại này nữa đâu, khi ngủ cậu nhớ khoá cửa buồng vào".

      "Tối nào cầu kinh xong tôi cũng khóa đấy bà ạ".

      "À, cậu bé này ngoan đây, đêm nào cũng cầu kinh, chẳng ai làm hại cậu được đâu".

      Bà Bunch vừa mình vừa vá chiếc áo rách và suy nghĩ, cho đến lúc ngủ. Đó là đêm thứ sáu tháng ba năm 1812.

      Chiều tối hôm sau, buổi đàm thoại thường xuyên giữa bà Bunch và Stephen sôi nổi thêm vì có ông Parkes, quản gia, vốn có xu hướng ở mình trong căn phòng phía sau của mình. Thoạt vào, ông ta nhìn thấy Stephen ở đó. Ông có vẻ xôn xao hơn và nhanh hơn.

      "Ông chủ có muốn tự mình lấy rượu lấy, vào buổi tối ấy" Đó là lời nhận xét đầu tiên của ông ta. "Tôi chỉ lấy rượu ban ngày thôi. hiểu là cái gì, trong hầm rượu có chuột hay sao ấy, hay chỉ là gió cũng nên. Tôi đâu còn trẻ con như trước nữa, giờ tôi chịu nổi những thứ ấy như trước kia".

      "Ồ, ông Parkes, chuột thích nhất là ở phòng ăn lớn chứ!"

      "Tôi chối cãi điều đó, bà Bunch ạ, và có điều chắc chắn là tôi nghe nhiều người ở xưởng đóng tàu bảo chuột có thể được. Trước đây tôi tin, nhưng đêm nay nếu tôi hạ mình ghé tai vào cánh cửa của ngăn bên kia hầm rượu, dám chắc tôi nghe được lũ chuột gì".

      "Ỗ, ông Parkes, tôi chịu nổi những thứ ông tưởng tượng ra nữa! Ai đời chuột chuyện với nhau trong hầm rượu bao giờ!"

      "Bà Bunch, tôi với bà nữa, tôi chỉ muốn với bà có mỗi điều thôi. Nếu như bà tới thùng rượu phía cuối, ghé tai vào cánh cửa, bà hiểu những điều tôi , chỉ trong vài phút thôi".

      "Sao ông cứ những chuyện vớ vẩn thế nhỉ, đâu phải chuyện cho trẻ con nghe. Ông sợ làm cậu Stephen đây hoảng lên sao?"

      "Cậu Stephen ở đây ư?" đến lúc này ông Parkes mới nhận ra có mặt của Stephen. "Cậu ấy phải hiểu là tôi chỉ đùa với bà thôi".

      Thực tế Stephen biết quá ông Parkes ngay từ đầu có định đùa hay . Cậu vui vẻ gì lắm nên lưu tâm ngay đến tình hình này, tuy nhiên làm thế nào cũng moi thêm được chi tiết nào nữa từ ông quản gia về những gì xảy ra trong hầm rượu.

      Chúng ta tới ngày 24 tháng ba năm 1812, ngày mà Stephen chứng kiến nhiều chuyện lạ xảy ra. Ngày hôm đó náo động và nhiều gió, nó làm cho cả ngôi nhà lẫn khu vườn có cảm giác yên. Stephen đứng bên hàng rào của ngôi nhà nhìn ra công viên. Cậu cảm thấy như thể có rất nhiều người vô hình cứ diễu qua trước mặt cậu trong làn gió, họ lướt qua vô mục đích nhưng cũng sao ngăn họ lại được, sao nắm được cái gì để làm họ đừng bay nữa, cho họ tiếp cận trở lại với thế giới sống mà họ từng là phần trong đó. Sau cơm trưa, ông Abney bảo cậu:

      "Stephen ạ, tối nay cậu thu xếp đến gặp tôi muộn chút, lúc mười giờ, trong phòng học được ? Tôi bận suốt ngày, lúc đó mới rảnh. Tôi cho cậu xem thứ liên quan đến tương lai cậu mà cậu cần biết, vì nó rất quan trọng. Cậu đừng việc này với bà Bunch hoặc bất cứ ai trong nhà nhé, cậu cứ về phòng ngủ vào giờ thường lệ".

      Lại thêm kích thích nữa đối với cuộc sống. Stephen hăm hở nắm lấy ngay dịp được thức khuya đến mười giờ đêm. đường lên cầu thang cậu liếc nhìn vào cánh cửa thư viện. Cậu thấy cái lò than xưa nay vẫn để trong góc phòng nay được được đưa ra cạnh lò sưởi, cái cốc cổ viền bạc đặt bàn trong đựng đầy rượu vang đỏ, bên cạnh là mấy tờ giấy. Ông Abney rắc trầm hương vào lò từ chiếc hộp tròn bằng bạc mà để ý tới bước chân cậu.

      Gió lặng. đêm yên tĩnh. Trăng tròn. Lúc mười giờ, Stephen đứng bên cửa sổ nhin ra ngoài. Mặc dù đêm lặng lẽ êm đềm nhưng đoàn người bí trong những cánh rừng sáng trăng vẫn ngủ yên. Thỉnh thoảng vẫn có những tiếng kêu như của những kẻ lang thang lạc đường tuyệt vọng vẳng lên qua ao hồ. Chẳng lẽ lại là tiếng cú kêu, tiếng những con chim sống mặt nước? giống tiếng của chúng. Liệu những tiếng kêu đó có tới gần ? Lúc này nghe như chúng ở bên bờ ao bên này, chẳng mấy chốc nữa mà bay tới các bụi dâu. Rồi bỗng im. Stephen định đóng cửa sổ, vào phòng đọc nốt quyển sách Robinson Crusoe bỗng nhìn thấy nền đất rải sỏi chạy dọc theo phía vườn của ngôi nhà có hai dáng hình người đứng. con cậu con trai, họ đứng bên nhau, nhìn lên các cửa sổ. gợi lại giấc mơ của cậu, đúng là hình người nằm trong bồn tắm. Cậu con trai khiến Stephen kinh hoàng hơn.

      Trong khi đứng yên, hơi mỉm cười, hai tay chắp trước chỗ trái tim cậu con trai, rất gầy, tóc đen, áo quần tơi tả, giơ cao cánh tay với vẻ dọa dẫm đồng thời lộ vẻ khao khát mong chờ. Ánh trăng chiếu vào hai bàn tay trong suốt của cậu bé, những móng tay dài cũng trong suốt, trăng chiếu qua được. Đứng giơ tay như thế lộ ra cánh tượng khủng khiếp, sườn trái cậu bé là kẽ nứt đen ngòm, và từ óc Stephen đúng hơn là từ tai, cậu nghe thấy những tiếng kêu tuyệt vọng vì khát khao mà lúc chập tối vẳng tới từ rừng Aswarby. Được lúc cả đôi di chuyển tiếng động lớp sỏi, còn nhìn thấy đâu nữa.

      Sợ hãi khôn tả, Stephen cầm cây nến xuống phòng học của ông Abney vì cũng sắp đến giờ hẹn. Phòng học hay thư viện bên mở ra sẳn và Stephen, do quá sợ, tới chỗ đó rất nhanh. Nhưng dễ vào. Cửa khoá, chìa khoá vẫn cắm ngoài nhưng gõ mãi thấy tiếng trả lời. Ông Abney bận. Ông . Ủa! Sao ông lại kêu lên thế nhỉ? Tiếng kêu như nghẹn trong cổ họng. Hay là ông cũng nhìn thấy hai đứa trẻ kia? Thế rồi yên lặng. Stephen đẩy cửa vào khó khăn gì.

      bàn ông Abney có vài tờ giấy chỉ cho Stephen hiểu được ngọn ngành câu chuyện, Có số câu quan trọng như sau:

      "Cổ nhân đa số tin tưởng vững chắc – tôi thể nghiệm khôn ngoan của họ trong những vấn đề này, từ đó đưa tôi đến chỗ tin tưởng ở khẳng định của họ - rằng, nhờ vài quá trình nào đó, những quá trình mà người tân tiến chúng ta coi là man rợ, có thể đạt được ở con người năng lực tinh thần rất đáng kể. Thí dụ như nếu hấp thụ những cá tính của số đồng loại, cá thể có thể vươn lên hoàn toàn khỏi cái trật tự của các sinh vật có linh hồn vốn điều hành những thế lực cơ bản của thế giới chúng ta".

      "Simon Magus có thể bay , trở nên vô hình hoặc biến thành bất cứ hình thù nào mà mình thích, nhờ lực của linh hồn cậu bé mà ông ta " ám sát", từ này có tính cách bôi nhọ tác giả của Clementine recognittons dùng. Hơn nữa tôi còn tìm thấy khá nhiều chi tiết trong các bài viết của Hermes Trismegistus cho biết những kết quả tốt đẹp tương tự có thể đạt được nếu người ta hấp thụ ít nhất là ba trái tim của ba con người dưới hai mươi mốt tuổi. Nhằm chứng minh này tôi dành phần lớn thời gian của hai mươi năm cuối cùng vào việc lựa chọn ra các corpora vilia (thân thể hèn hạ) cho việc thực nghiệm, tức là những người mà nếu có mất cũng gây tổn thất gì cho xã hội. Bước đầu tôi loại trừ bé gypsy tên Phoebe Stanley ngày 24 tháng ba, 1792. Người thứ hai là cậu bé con người Ý tên Gionvanni Paoli, đêm 29 tháng ba, 1805. Nạn nhân cuối cùng – từ này làm tôi kinh tởm hết sức – là em họ tôi, Stephen Elliott, và vào ngày 24 tháng ba 1812.

      Phương thức hấp thụ tốt nhất là lấy từ trái tim người sống ra, đốt thành tro, trộn vào phần tư lít rượu vang đỏ, tốt nhất là rượu porto. Xác hai người đầu tiên rất dễ giấu. Vào buồng tắm bỏ dùng hoặc là hầm rượu, hai địa điểm thuận lợi cho việc giấu xác. Cái bất tiện là ở cái phần hồn của họ mà dân gian thường gọi là ma. Nhưng đối với người có tính khí triết nhân – mà đối với họ chỉ thí nghiệm là quan trọng – họ nề hà gì đến cố gắng yếu ớt của người chết lo trả thù họ. Tôi rất thoả mãn nhìn nhận cuộc đời được mở rộng và giải phóng của mình mà thí nghiệm này nếu thành công mang lại cho tôi, vì nó những khiến cho cái người ta gọi là công lý của con người tầm nã nổi tôi mà còn có thể loại trừ cho tôi khỏi cái chết".

      Ông Abney được tìm thấy trong ghế bành, tư thế ngồi, đầu ngửa ra, nét mặt mang đầy vẻ căm hờn, sợ sệt, đau đớn của cái chết. Bên trái là vết thương mới bị rạch, đẻ lộ ra trái tim. Tay ông máu, con dao để bàn vẫn sạch nguyên. Có lẽ con mèo rừng gây nên vết thương này. Cửa sổ mở. Theo cảnh sát tư pháp, ông Abney chết do lực của con thú hoang dã. Nhưng Stephen Elliott được đọc mấy tờ giấy kia, lại đến kết luận khác hẳn.

      Chú thích:

      [1] vị thần của tôn giáo Ấn độ hồi năm 1300 trước Công nguyên mà thờ phụng mang nhiều bí

      [2] Platon : triết gia Hy lạp (427-347 trước Công nguyên)

      [3] Đế chế La Mã thấp gồm các vùng Aulu-gettle, Ausone, Claudien, Macrobe, Végèce

    3. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 4: Bức tranh in khắc

      Cách đây ít lâu, tôi có niềm vui được kể các bạn nghe cuộc phiêu lưu của người bạn tôi tên là Dennistoun trong khi sưu tầm các công trình nghệ thuật cho bảo tàng Cambridge.

      Dennistoun cho in rộng rãi những chuyện mình trải qua sau khi chàng trở về quốc, nhưng những chuyện này được rất nhiều bạn bè biết tới, trong đó có vị quý phái cũng chủ trì bảo tàng nghệ thuật ở trường đại học khác. Câu chuyện gây ấn tượng khá mạnh cho ông ta vì thiên hướng của ông ta cũng giống của Dennistoun, ông hăm hở lắng nghe từng lời giải thích việc mà xem ra bản thân ông khó lòng gặp phải để được ứng xử cách cấp bách và náo động như thế. Ông chỉ được an ủi vì rằng việc tìm kiếm các bản viết tay phải việc của viện ông mà của thư viện Shelburnian. Các quan chức của thư viện này, nếu thích, tha hồ lùng sục các góc tăm tối nhất bên lục địa để mà tìm kiếm. Ông cũng mừng lúc này phải tập trung chú ý vào việc mở rộng bộ sưu tập, vốn được coi là lớn nhất quốc, gồm các bản vẽ, bản in khắc về địa hình mà bảo tàng ông sở hữu. Ấy thế nhưng, việc lại xoay ra là, ngay cả ở bộ phận chủ yếu chỉ ngồi nhà, cũng có những góc tối của nó, và ông Williams nào đó bất ngờ được biết tới trong những cái góc đó.

      Những người cho dù ít quan tâm nhất đến việc thu thập các bức vẽ địa hình, cũng biết rằng ở London có người chuyên bán loại tranh này và giúp ích ít cho việc tìm kiếm của họ. Đó là ông J.W.Britnell, ông này cứ sau thời gian ngắn lại in ra cuốn catalog gồm khối lượng lớn và luôn luôn thay đổi các tranh khắc, các bản đồ, phác thảo các toà nhà lớn, nhà thờ, thị trấn ở England và xứ Wales. Dĩ nhiên, những bản này chỉ là a, b, c đối với ông Williams, tuy nhiên vì bảo tàng ông thu thập được biết cơ man nào là bản vẽ địa hình, ông là người mua hàng đêu đặn và mua nhiều của ông Britnell. Ông còn trông mong vào ông Britnell để lấp đầy các lỗ hổng về số liệu và mức độ bộ sưu tập của mình. Việc này nhiều hơn là cung cấp cho ông của hiếm.

      Tháng hai năm ngoái, bàn ông xuất cuốn catalog ở của hàng ông Britnell, kèm theo thư đánh máy của đích thân ông này, nội dung như sau:

      Thưa ông kính mến,

      Xin ông lưu ý số 978 trong cuốn catalog gửi kèm theo đây, chúng tôi vui lòng gửi tới ông để xem ông có thuận mua hay .

      Kính chào

      J.W.Britnell
      Giở tới số 978 của cuốn catalog đối với ông Williams chỉ là việc phút chốc, chỗ ấy bắt đầu như sau.

      978: là ở đâu. Bức tranh khắc thú vị, cảnh thái ấp hồi nửa đầu thế kỷ, 15X10 inches. Khung đen, giá 2.25 bảng.

      Xem ra chẳng có gì đặc biệt, giá lại cao, nhưng ông Britnell vốn biết người biết của mà lại coi thường. vậy cho nên ông Williams bèn viết tấm thiếp đề nghị gửi bức tranh ấy đến tận tay ông, thêm vài bức trong catalog nữa. Sau đó ông làm công việc thường ngày mà chẳng cảm thấy gì phấn khích.

      gói hàng như vậy thường bao giờ cũng tới tay ta chậm hơn ta chờ đợi ngày, gói hàng của ông Britnell cũng nằm trong quy luật ấy. Bưu điện chuỷên tới bảo tàng chiều thứ bảy sau giờ tan tầm. Người phục vụ đem tới tận phòng ở cho ông Williams ở trong trường để ông phải đợi qua ngày chủ nhật mới có thể xem món hàng và trả lại món hàng ấy trong trường hợp ông thích. Ông Williams thấy món hàng khi trở về nhà dùng trà cùng ông bạn.

      Điều tôi quan tâm ở bức tranh là cái khung đen của nó khá to – trong catalog mô tả chỉ ngắn gọn. Có thể có vài chi tiết nữa, nhưng trước hết tôi muốn các bạn hãy nhìn bức tranh như nó ở trước mặt tôi lúc này. Bản sao của nó hệt các bản sao thường thấy trong hành lang số quán trọ hoặc lối của số toà nhà ở thôn quê thời ấy. bản khắc chỉ đem lại cảm giác thờ ơ, lạnh nhạt và bản in khắc như thế gì chán bằng. Ta nhìn thấy toàn bộ mặt tiền của ngôi thái ấp ở thế kỷ trước với ba hàng cửa sổ lấp khung kính trượt, phần nề xây thô kệch, quê mùa, có bức tường chắn mái mà góc nào cũng có quả cầu hoặc lọ hoa, chính giữa là cổng xây. Hai bên toàn cây cao,trước mặt là thảm cỏ khá rộng. Bên lề hẹp của bức tranh có chữ "Người khắc: A.W.F." có gì khác. Toàn bộ tác phẩm lên tác giả là nghiệp dư. hiểu nổi vì sao ông Britnell định giá 2.25 bảng, ông Williams cứ lật lật lại bức tranh cách khinh thường. Đàng sau nó có dán cái nhãn bị xé rách, chỉ còn lại vết tích của hai dòng chữ, dòng đầu – ngley Hall, dòng sau – ssex.

      Có lẽ cũng đáng để xác định đây là nơi nào, muốn vậy cũng dễ thôi, chỉ cần tra từ điển địa lý, sau đó gửi trả lại ông Britnell, kèm thêm vài nhận xét về đánh giá của ông ta.

      Ông thắp nến lên vì trời tối, pha trà cho người bạn cùng chơi gôn với mình (lãnh đạo trường đại học thường thư giãn bằng cách đánh gôn) vừa uống trà, hai người vừa đàm luận những vấn đề mà chỉ những người chơi gôn mới hiểu được. Người viết có lương tâm tiên ra đây sợ ảnh hưởng đến những người chơi gôn.

      Kết luận đến cho rằng, vài cú đánh gôn như thế nào đó là hay hơn và rằng trong số trường hợp khẩn cấp khó lòng có người chơi gôn nào gặp nhiều may mắn như mình mong đợi. Đến đấy ông bạn – ta hãy gọi ông là giáo sư Binks – cầm tấm khung ảnh in khắc lên và hỏi:

      "Chỗ này là ở đâu vậy, Williams?"

      "Chính là tôi định tìm cho ra đây" ông Williams , vừa đến chỗ giá sách để tìm quyển từ điển địa lý. " nhìn đàng sau bức tranh xem, cái gì đó như ley Hall, hoặc ở Sussex, hoặc ở Essex. Mất nửa tên. liệu có biết nhỉ?"

      "Tranh này là từ tay Britnell chứ gì?" Binks . "Mua cho bảo tàng à?"

      "Phải, giá như năm sillings tôi cũng mua đấy" Williams đáp "nhưng chẳng hiểu vì lý do gì đòi hai bảng. Tôi chịu hiểu được. bức tranh khắc chẳng ra gì, lại có lấy hình người cho thêm sinh động"

      "Tôi cũng nghĩ đến hai bảng, nhưng tôi cho là khắc đến nỗi tồi. Theo tôi, ánh trăng được vẽ khá đấy, và tôi thấy có hình người đấy chứ, ít nhất là hình người, ở phía trước ấy, bên rìa ấy".

      "Để xem nào" ông Williams "Phải, ánh sáng khắc khá là khéo. Hình người của đâu? Ồ đây rồi. Mỗi cái đầu, ngay phía dưới bức tranh".

      Quả vết đen sát rìa bức tranh, khắc đầu người đàn ông hoặc đàn bà, lờ mờ thôi, lưng quay về phía người xem, mặt hướng về toà nhà.

      Trước đây Williams thấy. Ông bảo

      "Khéo hơn là tôi nghĩ đấy, thế nhưng dù sao tôi cũng thể chi hai bảng của bảo tàng cho bức tranh vẽ nơi tôi biết là ở đâu".

      Giáo sư Binks có việc phải , ông ta về ngay, còn Williams, cho tới tận giờ ăn cơm vẫn sao xác định được bức tranh của mình. "Giả sử nguyên trước chữ bị mất còn dễ" ông nghĩ "Nhưng tuởng Guestinley đến Langley, lại còn bao tên tận cùng giống như thế nữa, mà quyển sách khỉ gió này lại chẳng có chỉ dẫn nào về chữ tận cùng".

      Giờ ăn ở trường của ông Williams là bảy giờ. cần kéo dài bữa ăn quá cũng đủ gặp được bạn bè cùng chơi gôn lúc chiều để trao đổi với nhau qua bàn ăn (toàn các ngôn từ về gôn cả, tôi phải ngay như vậy).

      Mất độ giờ hoặc hơn ở gian phòng chung sau cơm tối. Sau đó số rút về buồng của Williams chơi bài whist hoặc hút thuốc lá. Trong lúc tạm nghỉ, Williams nhặt bức tranh từ bàn lên, nhìn vào nó, đưa cho người bạn quan tâm vừa phải đến nghệ thuật bảo ông ta nó từ đâu tới, cùng số đặc điểm như ta biết ở .

      Vị quý khách này thận trọng cầm lấy bức tranh, nhìn vào đó rồi với giọng khá quan tâm

      "Wiiliams, công trình khá đấy chứ, gây cho người ta cảm giác của thời kỳ lãng mạn. Ánh sáng theo tôi xử lý rất tuyệt, hình người tuy thô nhưng gây ấn tượng".

      " ư?" Williams mang whisky sô đa cho các bạn tới gần để nhìn vào bức tranh được.

      Lúc này khá muộn, khách khứa lục tục ra về. Sau đó, Williams thành phố viết mấy bức thư giải quyết công việc. Quá nửa đêm ông định ngủ, tắt đèn, thắp nến trong phòng ngủ. Bức tranh được người xem cuối cùng đặt lật ngửa bàn khiến lúc tắt đèn ông chợt để mắt tới. Cái mà ông nhìn thấy làm ông suýt đánh rơi cây nến xuống đất. Ông cho biết giá lúc ấy hoàn toàn ở trong bóng tối hẳn ông phải lên cơn thần kinh. Nhưng vì phải vậy, ông đặt cây nến bàn ngắm kỹ bức tranh. nghi ngờ gì nữa mà hoàn toàn chắc chắn. Giữa thảm cỏ trước ngôi nhà quen biết là dáng hình người mà lúc năm giờ chưa có, hình người đó bò bằng cả tay, chân về phia ngôi nhà, trùm kín bằng áo đen kỳ quặc, lưng có chữ thập trắng. Tôi cũng hiểu trong hoàn cảnh này làm gì là đúng nhất. Tôi đành chỉ với các bạn Wiliams làm gì. Ông cầm vào góc bức tranh, mang nó qua hành lang sang dãy phòng trước mặt mà ông sở hữu, khóa nó trong chiếc ngăn kéo, đóng cửa tiếp khách cả hai dãy phòng rồi vào giường ngủ, nhưng trước hết ông ghi chép lại thay đổi của bức tranh, ký vào ô dưới, thay đổi mà bức tranh trải qua kể từ lúc nằm trong tay ông.

      Mãi ông mới ngủ được, nhưng được an ủi với ý nghĩ diễn biến của bức tranh phải chỉ có mình ông chứng kiến mà đều có người làm chứng cả. ràng người bạn lúc tối nhìn thấy cái gì đó, cũng giống như ông, nếu hẳn ông phải nghĩ mắt mình có vấn đề, hoặc trí não ông bất thường. May mắn có khả năng này. Đến mai ông phải thực hai việc. là giữ bức tranh cẩn thận và gọi thêm người đến làm chứng, hai là phải xác định ngôi nhà ở đâu. Vậy là phải gọi cho ông Nisbet ở bên cạnh sang ăn sáng, sau đó tìm thêm trong từ điển địa lý.

      Nisbet bận gì, đến lúc chín giờ ba mươi phút. Muộn vậy rồi mà chủ nhân còn chưa mặc quần áo xong. Trong bữa sáng Wiliams gì về bức in khác cả, cứ để yên chờ ý kiến Nisbet thế nào. Những ai quen với cuộc sống trong trường đại học hẳn biết có nhiều đề tài hay ho và rộng lớn để hai người bạn đồng học ở trường đại học Canterbury trao đổi trong bữa sáng ngày chủ nhật, từ chơi gôn đến tennis sân cỏ. Nhưng Williams tỏ ra khá đãng trí bởi tâm trạng ông tập trung cả ở bức tranh nằm úp sấp trong ngăn kéo căn phòng đối diện.

      Cuối cùng tẩu thuốc buổi sáng được châm, giờ phút trông đợi đến. với niềm kích động đáng kể - hầu như phát run lên – ông chạy sang mở khóa ngăn kéo lấy bức tranh ra, lúc này vẫn nằm úp sấp, chạy về đưa nó vào tay Nisbet.

      "Nào, Nisbet, tôi muốn tôi biết trông thấy chính xác trong bức tranh này là cái gì. Xin mô tả tỉ mỉ cho. Tôi lý do sau".

      "Được" Nisbet "Tôi nhìn thấy ngôi nhà , tôi cho là vậy, ở miền quê, dưới ánh trăng"

      "Ánh trăng? chắc ?"

      "Chắc chứ. Trăng có vẻ sắp tàn, nếu muốn biết chi tiết, nhiều mây bầu trời"

      "Thôi được rồi, tiếp . Tôi xin thề lần đầu nhìn vào tôi thấy trăNgười" Câu này Williams mình.

      "Chẳng còn gì hơn" Nisbet tiếp. "Nhà có , hai, ba dãy cửa sổ, mỗi dãy năm cửa, trừ dãy dưới cùng ở giữa có cái cổng đúng vào chỗ cửa sổ giữa, và…"

      "Còn hình người sao?" Williams sốt ruột hỏi.

      "Chẳng có người nào" Nisbet bảo "nhưng…"

      "Sao lại có người ở thảm cỏ phía trước?"

      "Làm gì có!"

      " thề chứ?"

      "Chắc chắn, tôi thề. Nhưng có thứ…"

      "Cái gì?"

      " trong cửa sổ tầng trệt, bên trái cửa ra vào, mở"

      " ư? Lạy Chúa, Hẳn là vào nhà rồi." Wiliams , kích động mạnh, và vội vã lại sau ghế sô pha nơi Nisbet ngồi, giật lấy bức tranh, tự mình xác định.

      Đúng . người. cửa sổ mở. Sau ít phút ngạc nhiên nên lời, Williams ra bàn giấy nguệch ngoạc mấy chữ lâu, rồi đem cho Nisbet hai tờ giấy, bảo ông ta ký vào tờ - là tờ ông mô tả giống những gì các bạn vừa nghe – rồi đọc cho Nisbet nghe tờ ông ghi chép tối hôm qua.

      "Thế là thế nào nhỉ?" Nisbet .

      "Chính thế đấy" Williams . "Có việc tôi phải làm, hoặc là ba việc. Tôi phải hỏi lại Garwood, tức là vị khách tối hôm qua, xem ông ta nhìn thấy gì, rồi tôi phải chụp lại hình ảnh lúc này trước khi nó diễn biến thêm nữa, sau đó tìm ra nơi này ở đâu".

      "Tôi chụp cho" Nisbet . "Nhưng này , cứ như thể ta chứng kiến diễn lại bi kịch. Vấn đề là, nó xảy ra hay sắp xảy ra? phải tìm ra địa điểm ngôi nhà ngay . Phải" ông ta ngắm lại bức tranh, "tôi nghĩ đoán đúng. vào trong nhà, và nếu tôi nhầm, trả thù của con quỷ ở gác".

      Williams

      "Để tôi bảo tôi làm gì nhé. Tôi mang bức tranh đến già Green (Uỷ viên ban giám đốc của trườngmùi trước kia từng làm ở phòng tài vụ trường trong nhiều năm) có thể ông ta biết, vì trường ta có cơ sở ở Essex và Sussex cơ mà, hai vùng này nhất định ông ta từng ở khá lâu".

      "Đúng vậy đấy" Nisbet "nhưng để tôi chụp ảnh . Này nhưng hôm nay Green có nhà, tối qua thấy ở nhà ăn. Chủ nhật nghe ông ta mới xuống".

      "Ừ phải" Williams "ông ta Brighton. Thôi được, chụp , tôi đến chỗ Garwook để nghe ta khai , trông bức tranh nhé, bây giờ tôi nghĩ hai bảng phải là quá đáng rồi".

      lúc sau Williams trở về cùng Garwood. Theo ông này thi khi nhìn vào bức tranh, ông thấy hình người ràng là ở bên kia bức tranh, xa thảm cỏ bao nhiêu. Đúng là có chấm trắng ở sau lưng nhưng ông cho là hình chữ thập. Họ soạn thảo ra tài liệu, ký vào, Nisbet chụp ảnh bức tranh.

      "Bây giờ làm gì? Chẳng lẽ cả ngày ngồi nhìn nó?" Nisbet hỏi.

      "" Wiliams "Tôi hình dung toàn bộ vấn đề.

      Đây nhé, từ tối qua đến nay có thể xảy ra bao nhiêu chuyện mà mới chỉ vào đến trong nhà. có thể làm xong việc rồi trở về, nhưng nếu cửa sổ mở vẫn còn ở trong. Tôi yên tâm để đó . Hơn nữa tôi cho là ban ngày có gì thay đổi đâu. Ta chơi, chiều về dùng trà, hoặc tối về cũng được. Tôi đặt bức tranh bàn, đóng cửa. Ông người làm của tôi có thể vào nhà nhưng sao".

      Cả ba thấy kế hoạch rất hay, mà nếu cả ba cùng chơi với nhau ai có dịp câu chuyện ra với người khác. Lộ ra, hội Ma học nghe được mất.

      Có lẽ chúng ta cứ để họ vui chơi đến năm giờ chiều.

      Đến khoảng giờ đó, cả ba lần lên cầu thang nhà Williams. Williams hơi nản thấy cửa buồng mở nhưng sực nhớ ra chủ nhật người làm đến dọn dẹp sớm hơn ngày thường. Tuy nhiên, ba người ngạc nhiên quá. Bức tranh vẫn dựng ở trước chồng sách như lúc họ , ông giúp việc ngồi đàng trước nó cứ nhìn chăm chăm vào nó vẻ hãi hùng. Sao thế nhỉ? Ông Filcher (tên chứ phải tôi bịa ra) tuy là đầy tớ cao cấp, mẫu mực theo tiêu chủân quy ước, chẳng làm gì khác ngoài việc ngồi vào chỗ của chủ, để ý gì đến chung quanh.

      Ông ta giật bắn mình khi thấy mọi người vào, cố lắm mới đứng dậy được.

      "Xin lỗi ngồi vào đây" ông ta .

      " sao, Robert" Williams bảo. "Tôi định hỏi ông nghĩ như thế nào về bức tranh".

      "Thưa ông dĩ nhiên tôi dám có ý chống lại ý kiến ông , nhưng loại tranh như thế này tôi thể treo ở chỗ mà con tôi xem được"

      "Sao vậy?"

      "Vì con bé con tội nghiệp, lần nó nhìn thấy quyển Kinh thánh trong có loại tranh chỉ bằng nửa như thế này mà chúng tôi phải thức với cháu mấy đêm liền, nó mà lại trông thấy hình ảnh bộ xương, hay là cái gì đây biết, mang đứa bé như thế này nó hết hồn. Ông biết bọn trẻ đấy, chuyện xíu cũng bồn chồn hốt hoảng. Thưa ông, chỉ xin bức tranh như thế này mà cứ nằm vạ,vậy để ai vào cũng trông thấy nên. Thưa, tối nay ông có cần gì ạ? ạ? Xin cám ơn ông".

      Ông ta về xong, cả ba lao vào nhìn bức tranh. Ngôi nhà vẫn như cũ, dưới ánh trăng tàn và những đám mây. Cửa sổ lúc nãy mở nay đóng lại, hình người lại lần nữa xuất thảm cỏ, lần này thận trọng bò bằng tay chân nữa, mà đứng thẳng lên, bước những bước dài ra phía trước bức tranh. Trăng ở phía sau , mặt bị tấm vải đen che nhìn , chỉ thấy cái trán dồ với vài sợi tóc thò ra. Đầu cúi xuống, hai cánh tay ôm vật chỉ nhìn thấy mờ mờ, như là đứa bé chết hay còn sống, chỉ thấy hai chân và hai cái chân đó gầy đến độ kinh khủng.

      Từ năm giờ đến bảy giờ, ba người bạn cứ ngồi nhìn bức tranh. thấy thay đổi gì nữa. Cuối cùng họ yên tâm bỏ nó đấy định ăn cơm xong quay lại xem diễn biến ra sao.

      Khi họ tập hợp lại vào thời gian nhanh nhất có thể bức tranh vẫn ở đó nhưng hình người còn, ngôi nhà hoàn toàn yên tĩnh dưới ánh trăng. Họ chỉ còn việc tra cứu từ điển địa lý và các sách hướng dẫn du lịch. Cuối cùng Williams gặp may. Ông cũng xứng đáng với may mắn ấy. Vào mười giờ ba mươi phút khuya, từ sách Hướng dẫn du lịch Essex của Mujjay, ông đọc được những dòng sau đây:

      "16.5 dặm Anningley. Nhà thờ là toà nhà khá thú vị xây từ thời Norman, được xếp hạng trong thế kỷ trước. Có các ngôi mộ gia đình Francis mà toà thái ấp của họ, Anningley Hall, là ngôi nhà chắc chắn xây từ thời nữ hoàng Anne, đứng ngay bên kia nhà thờ, diện tích 80 mẫu tây. Gia đình này tuyệt tự, người nối dõi cuối cùng mất tích cách bí lúc còn bé vào năm 1802. Cha em bé, ông Arthur Francis là người có tài vẽ tranh khắc bằng bản in khắc nào. Sau khi mất tích đứa con, ông sống dật trong ngôi nhà, ba năm sau đúng vào ngày con ông mất tích, ông chết trong phòng học sau khi hoàn thành bản in khắc ngôi nhà mà người ta cho là của khá hiếm".

      Xem ra đúng là phù hợp, ông Green từ Brighton về cũng xác định ngôi nhà trong tranh là Anningley Hall. Dĩ nhiên ông Williams hỏi:

      "Có thể giải thích được hình người ra trong tranh là ai hả Green?"

      "Tôi chắc lắm. Nghe người ta hồi tôi mới biết ngôi nhà trước khi ông Francis rất ghét các kẻ săn trộm, nghi ai ông đuổi khỏi lãnh địa ngay, cuối cùng ông loại hết chỉ còn lại . Ngày xưa quý tộc nông thôn làm đủ chuyện giờ ai dám làm. Người này bản thân cũng là người cuối cùng của dòng họ cổ, tôi cho là cơ thời từng là chúa công của thái ấp. Trong địa hạt tôi , tôi nhớ có người như vậy".

      "Như là người đàn ông trong cuốn Tess of the D'Urbervilles (Thomas Hardy) ấy à?" Williams hỏi

      "Chắc thế, nhưng quyển ấy tôi chưa đọc. Nhưng chàng này có thể chỉ ra hàng dãy mộ của tổ tiên ở nhà thờ với chút niềm cay đắng, tuy nhiên Francis sao tóm được ta, ta lúc nào cũng đúng luật, nhưng ngày kia những người coi rừng bắt được ta trong khu rừng phía sau lãnh địa, tôi có thể chỉ cho nơi này được vì nó gần khu đất trước kia thuộc của chú tôi. Họ cãi nhau, chàng Gawdy (tên ta, đúng như vậy, tôi nhớ ra rồi) ta may bắn chết người gác rừng, tội nghiệp ta! Đúng là điều Francis muốn. Hồi ấy có đại bồi thẩm đoàn, mà đại bồi thẩm đoàn các hiểu họ như thế nào. ta bị treo cổ rất nhanh, tôi được xem cả chỗ người ta chôn ta, phía tây bắc nhà thờ, là nơi chôn những người bị treo cổ hoặc tự tử. Có người nghe rằng người bạn của Gawdy, ta có họ hàng, con quỷ tội nghiệp ấy cũng là người cuối cùng của dòng họ ta mà, loại spes ultima gentis (người cuối cùng của dòng họ), bắt cóc con trai Francis để làm ông này cũng tuyệt tự luôn. Tôi cũng biết nữa, đây là cách nghĩ khá khác thường của dân săn trộm vùng Essex, nhưng các biết đấy, đến bây giờ xem ra có vẻ như chính tay Gawdy làm việc này. Tôi ghét nghĩ đến chuyện đó! Thêm whisky vào, Williams!"

      việc được Williams kể lại cho Dennistoun, này kể lại cho cả đám gồm nhiều thành phần, trong đó có tôi và giáo sư chuyên về rắn. Ông này nhận xét "Dân Brifgeford ấy họ chẳng bao giờ gì đâu" tình cảm này nhiều người cho là đúng.

      Xin thêm bức tranh này ở bảo tàng Ashleian, đòi được xử lý nhằm mục đích tìm xem loại mực dùng có phải mực hoá học hay , nhưng kết quả, ông Britnell biết gì ngoài việc cho rằng bức tranh thuộc loại thông thường, và sau đó có xem kỹ đến mấy cũng thấy nó biến đổi nữa.

    4. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 5 Cây Tần Bì

      Ai từng qua miền đông nước đêu biết những ngôi nhà thôn quê nho rải rác khắp nơi: những ngôi nhà khá ẩm thấp thường xây theo kiểu Ý, bao quanh là công viên độ tám mươi đến trăm mẫu tây. Đối với tôi bao giờ chúng cũng có sức hấp dẫn mạnh mẽ, cái hàng rào xám bằng những thanh gỗ sồi, các cây cao quý phái, ao hồ với thảm lau sậy, xa xa là cánh rừng. Tôi cũng thích cái cổng có cột chống – có lẽ dính liền vào ngôi nhà gạch đỏ xây từ thời nữ hoàng Anne, mặt trước trát vữa, khiến nó sánh được với phong cách Hy Lạp cuối thế kỷ mười tám, bên trong là sảnh cao lên tận mái nhà có cá hành lang chạy quanh với chiếc đàn organ . Tôi cũng thích cả thư viện của nó trong có từ Thánh Kinh thế kỷ mười ba đến tác phẩm của Shakespeare in giấy khổ bốn. Dĩ nhiên tôi thích cả những bức tranh phần lớn hình dung cuộc sống trong những ngôi nhà ấy lúc mới xây, thời có ống dẫn nước, chủ đất khá giả, và ngay cả bây giờ, nhiều tiền nhiều thị hiếu khác nhau, cuộc sống nhiều thú vị. Bản thân tôi cũng muốn có ngôi nhà như vậy ở thôn quê. Và đủ tiền bảo trì nó, thỉnh thoảng đưa bạn bè đến vui chơi cách khiêm tốn.

      Nhưng tôi lạc đề mất rồi. Tôi có nhiệm vụ phải kể các bạn nghe những chuyện xảy ra trong ngôi thái ấp giống như thế. Đó là Castringham Hall ở vùng Suffolk. Từ thời có câu chuyện kể của tôi đến nay, ngôi nhà được sửa chữa nhiều lần, nhưng những nét chính tôi mô tả kia vẫn vậy – cổng kiểu Ý, bốn khối nhà màu trắng, trong nhà cổ hơn ở ngoài, công viên được bao quanh bởi dải đất có nhiều cây to, và có cái ao. Vẻ khác biệt với hàng tá ngôi nhà khác còn. Nhìn từ phía công viên vào, bạn thấy cây tần bì cổ đại mọc cách tường độ sáu mét, cành lá gần như chạm vào nhà. Tôi cho là nó mọc ở đó kể từ thời ngôi nhà còn là pháo đài, hào chung quanh được lấp , nhà xây theo kiểu thời nữ hoàng Elizabeth. Kiểu gì nhà cũng gần bằng kích thước hồi năm 1690.

      Trong cái năm kể , trong vùng ngôi nhà tọạ lạc, có nhiều vụ xử án các mụ phù thuỷ. Chắc còn rất lâu ta mới có thể đánh giá đúng các lý do – nếu có – nằm tận gốc rễ nỗi sợ phù thuỷ của toàn thế giới. Cũng có thể những người bị kết tội thực cho rằng họ có quyền lực bất thường, hoặc giả ít nhất có quyền cũng có ý chí gây chuyện ác độc cho hàng xóm, hoặc giả nhiều lời thú tội bị những kẻ tàn ác săn lùng phù thủy bẻ quẹo – tôi cho là có rất nhiều vấn đề chưa giải quyết được. Chuyện kể sau đây làm tôi bối rối, thể hoàn toàn cho là chuyện bịa đặt. Xin được để độc giả tự đánh giá.

      Catringham cống hiến nạn nhân cho việc bị kết tội hoả thiêu. Tên bà này là Mothersole, khác với các bà phù thuỷ trong các làng khác chỉ ở chỗ sống sung túc hơn và có vị trí gây ảnh hưởng nhiều hơn. Các trại chủ trong giáo khu tìm hết cách gỡ tội cho bà, cố hết sức chứng thực tính cách bà và khá lo lắng cho tuyên án của Toà.

      Nhưng tai hoạ chết người cho bà lại do chứng cứ mà ông chủ Castringham Hall nêu ra – ông Mathew Fell. Ông khai nhiều lần từ cửa sổ nhìn vào đêm trăng sáng thấy bà "tỉa những cành con của cây tần bì gần ngôi nhà". Bà trèo lên các cành cây, mặc mỗi chiếc áo sơ mi, cắt những cành với con dao cong rất đặc biệt, miệng lẩm bẩm cái gì đó. Lần nào ngài Mathew cũng tìm cách bắt lấy bà ta nhưng chỉ tiếng động của ông, bà biết ngay vội vàng trèo xuống, chạy rất nhanh về phía làng.

      Đêm thứ ba, chạy theo kịp, ông đến tận nhà bà Mothersole, đập cửa đến mười lăm phút mới thấy bà ta ra, rất giận dữ và có vẻ buồn ngủ như vừa mới ra khỏi giường, thành ra chẳng biết giải thích việc đến thăm của mình như thế nào.

      Chủ yếu dựa vào chứng cứ này, tuy các thành viên trong giáo khu còn đưa ra nhiều điều đáng chú ý bằng, bà Mothersole bị kết tội chết. Toà xử được tuần bà bị treo cổ cùng sáu người may nữa, ở Bury St Edmunds.

      Ngài Mathew Fell, lúc đó là phó Quận trưởng, chứng kiến cuộc hành hình. Hôm đó là sáng tháng ba sương mù ẩm ướt, xe bò leo dốc lên ngọn đồi mọc cỏ dại ở bên ngoài Northgate nơi có giá treo cổ. Những nạn nhân khác trông hờ hững hoặc vô cùng đau khổ, riêng bà Mothersole, sống cũng như chết, lại trong tâm trạng khác hẳn. "Nỗi giận dữ như thuốc độc" của bà, theo phóng viên lại, " ảnh hưởng lớn đến những người đứng xem – ngay cả người phụ trách việc treo cổ - và về sau những người này cũng khẳng định bà thể hình ảnh sống của mụ điên. Mặt chống đối người thi hành pháp luật, bà nhìn những bàn tay chạm vào người bà với vẻ nham hiểm và ác độc đến mức trong số họ sau này bảo đảm với tôi rằng còn sợ hãi trong người đến sáu tháng sau mỗi khi nhớ lại".

      Tuy nhiên, nghe là bà ta những lời có vẻ vô nghĩa như sau "Khách tới thăm ngôi nhà", những lời này được khe khẽ nhắc nhắc lại mấy lần. Ngài Mathew Fell phải là cảm động trước thái độ của người đàn bà. Ông chuyện với cha xứ, sau đó cùng cha về nhà khi việc hành quyết xong. Thực ra ông cũng chẳng tự nguyện ra làm chứng trước toà, ông chẳng thấy chứng mê săn lùng phù thuỷ là việc mình bị nhiễm phải, về sau ông có đưa chứng cứ như vậy ông chẳng được tiếng tốt nào, biết đâu ông có thể nhầm về những gì mình nhìn thấy. Ông ghê tởm toàn bộ chuyện này, ông vốn thích có quan hệ vui vẻ với mọi người, sở dĩ ông làm như vậy chỉ bởi bốn phận. Có lẽ đó là lý do theo như tình cảm ông, khiến cho cha xứ tán thưởng cũng như những người có hiểu biết nghĩ vậy là phải.

      Vài tuần sau, đúng vào ngày trăng tròn của tháng năm, cha xứ và nhà điền chủ nông thôn gặp nhau tại công viên và cùng vào thái ấp. Phu nhân Fell ở nhà bà mẹ ốm nặng, ông Fell ở mình, vì thế cha xứ - ông Crome – và ông Fell dự định ăn bữa tối cùng nhau tại thái ấp.

      Ông Mathew tối hôm ấy có vẻ thích chuyện trò mấy, câu chuyện chủ yếu xoay quanh những gia đình trong giáo khu, và cũng may, ông ngồi viết bản ghi nhớ về các ý định muốn thực trong lãnh địa của mình, sau này nó tỏ ra vô cùng ích lợi.

      Khi ông Crome định ra về lúc chín giờ rưỡi ngài Mathew cùng ông dạo con đường rải sỏi sau ngôi nhà. Ông Crome bị kiện tác động mạnh: tới chỗ cây tần bì, mà tôi tả là mọc gần ngôi nhà, ông Mathew dừng lại bảo:

      "Có con gì cứ chạy lên chạy xuống cây như con sóc ấy nhỉ? Giờ này chúng phải về hang cả rồi chứ?"

      Cha xứ nhìn lên cây xem con vật di động đó như thế nào nhưng màu sắc của nó dưới ánh trăng. Tuy nhiên vẫn nhìn hình, óc ông còn nhớ lắm, ông thề rằng, tuy hơi điên, chẳng biết có phải con sóc hay nhưng nó có nhiều hơn bốn chân…Lúc đó nhìn chỉ biết vậy, hai người đàn ông chia tay nhau, hàng hai chục năm sau mới gặp lại.

      Sáng hôm sau, sáu giờ vẫn chưa thấy ông Fell xuống dưới nhà như lệ thường, bảy giờ, tám giờ cũng . Đầy tớ lên gõ cửa phòng ngủ của ông, nghe ngóng rồi gõ mãi, cuối cùng đành mở cửa ra, họ thấy ông chủ chết, xám đen. Hẳn bạn cũng đoán được. có dấu vết của bạo lực. Cửa sổ mở toang.

      người đầy tớ tìm cha xứ, nhờ chỉ đường tìm cảnh sát tư pháp. Ông Crome lập tức tới thái ấp ngay và được đưa vào gian phòng người chết nằm. Về sau ông này có để lại vài tờ giấy tỏ lòng thực kính trọng và tiếc thương ông Mathew Fell, trong đó có đoạn sau đây soi sáng phần nào kiện xảy ra và suy nghĩ chung của mọi người:

      " có dấu hiệu dùng vũ lực đột nhập vào gian phòng, nhưng cửa sổ mở như mùa này bạn tôi vẫn để ngỏ. Ông có uống hết phần tư lít rượu táo để trong chiếc cốc bằng bạc. Ông Hodgkins, bác sĩ ở Bury, khám nghiệm chỗ rượu còn lại, và tuyên thệ, theo cầu của cảnh sát tư pháp, trong đó có chất độc. Vi dĩ nhiên quanh đó người ta đến độc tố vì thấy xác ông đen và trương lên. Cơ thể nằmg giường, chăn nệm lộn xộn, chứng tỏ quằn quại đau đớn nhiều trong lúc hấp hối. Có điều tôi lý giải được cho cuộc ám sát dã man khủng khiếp này là hai người đàn bà được giao đem thây người chết ra lau rửa, hai người này vốn chuyên nghiệp về công việc nhà đòn đám ma, đến chỗ tôi, rất buồn phiền lộ vẻ đau đớn giơ hai bàn tay chạm vào ngực xác chết ra cho biết lòng bàn tay họ và mặt trước cánh tay bị đau ghê gớm, nỗi đau còn kéo dài nhiều tuần lễ, phải bỏ việc, tuy da sao.

      Nghe vậy tôi bèn mời ông bác sĩ vẫn còn ở trong nhà ra. Chúng tôi dùng kính lúp soi da ở ngực tử thi, thấy gì quan trọng nhưng có nhiều vết chấm, chúng tôi kết luận đây là nơi độc tố được đưa vào và nhớ lại chiếc nhẫn của Pope Borgia [1] là dụng cụ đưa độc tố vào của tay đầu độc người Ý thế kỷ trước trong thứ nghệ thuật kinh hãi của ông ta.

      Chỉ có vậy về mặt triệu chứng tử thi. Đây chỉ là kinh nghiệm riêng của tôi, thế hệ sau đánh giá xem có gì là giá trị hơn . bàn cạnh giường ngủ có quyển Kinh Thánh mà bạn tôi đều đặn dùng mỗi đêm, mỗi sáng sớm dậy ông cũng đọc đoạn định sẵn. Tôi cầm lên – khỏi giọt nước mắt thích đáng, thương cho cái bản phác hoạ đơn giản này nay bị chuyển sang chiêm ngưỡng, bản Kinh Thánh vĩ đại nguyên thủy. Chợt tôi có ý nghĩ, trong những giờ phút mà ta vô kế khả thi như thế này, ta có xu hướng dùng những tia le lói để tìm ra ánh sáng, do đó tôi dùng biện pháp được coi là duy tâm để thử kiểu rút thăm: Như trong trường hợp Đức Vua Tử vì Đạo, King Charles, và chúa công Falkland người ta lấy làm ví dụ mà nay còn nhắc tới. Tôi phải thừa nhận thử nghiệm này giúp được gì cho tôi cả, tuy nhiên biết đâu sau đây có thể Nguyên nhân và Nguồn gốc của những kiện hãi hùng này được tìm ra. Tôi cứ đưa kết quả ra đây, biết đâu chúng chỉ ra hướng của tội ác cách thông minh hơn tôi.

      Tôi làm tất cả ba thử nghiệm, mở cuốn Kinh Thánh ra đặt ngón tay vào số chữ nó ào đó, lấy ra những chữ đầu, ở chỗ Luke XIII 7, chặt nó , lần hai Isaiah XIII 20, ai được ở đấy nữa, lần ba Job XXVIII 30: con cái nó cũng bị hút hết máu."

      Đó là những lời trích dẫn từ giấy tờ ông Crome để lại. Ông Mathew Fell được cho vào quan tài đem chôn, lời giảng kinh của cha Crome trong lễ an táng Chủ nhật sau đó được in dưới đầu đề " phương thức thể tìm ra được, hoặc Nỗi nguy hiểm nước và Những cách thức xảo quyệt của việc chống lại Chúa", vì theo quan điểm của cha xứ cũng như của hàng xóm láng giềng, vị quý tộc điền chủ nông thôn là nạn nhân của trở lại của những mưu theo kỉêu đầu độc Giáo hoàng.

      Con trai ông Fell là Sir Matthew II thừa kế tước vị và lãnh địa của cha. Đến chấm dứt phần đầu của tấm thảm kịch Castringham. Cũng nên nhắc tới việc ngài Nam tước mới ở căn phòng cũ của cha mình nữa, vậy cũng phải thôi. Cũng chẳng ai ngủ trong đó trừ vị khách vô tình qua ở lại. Ông chủ ở thái ấp – Sir Matthew II mất năm 1735 – nơi này xảy ra chuyện gì đối với ngoại trừ việc trâu bò lợn gà chết ngày nhiều, sau còn có xu hướng tăng dần lên.

      Người nào lưu ý tới chi tiết chuyện này có thể đọc bảng thống kê số liệu súc vật nuôi của ngài nam tước viết trong thư gửi tờ tạp chí Người Phong Lưu 1772. Ông chấm dứt việc trâu bò chết nhiều bằng cách ban đêm dồn hết chúng vào chuồng khoá kỹ, cừu thả tự do ngoài công viên nữa. Vì ông nhận xét ở trong chuồng con vật nào bị tấn công. Sau đó chỉ các chim rừng và thú vật hoang dã bị hại, ai biết gì về triệu chứng tử nạn của các con thú hoang này, cho người canh suốt đêm lãng phí vô ích, tôi muốn sâu thêm vào cái mà các trại chủ ở Suffolk gọi là "căn bệnh của Castringham".

      Sir Matthew II mất năm 1735, được con trai là Sir Richard thừa kế. Sir Richard cho xây khu ghế ngồi riêng của gia đình ở bên ngoài nhà thờ giáo khu về mạn bắc, vì khá rộng nên theo ý ông quý tộc điền chủ nông thôn này cần rời số ngôi mộ nằm trong khu của những kẻ vô đạo, trong đó có mộ của bà Mothersole, địa điểm ngôi mộ này sở dĩ biết được chính xác là do trong số giấy tờ ông Crome để lại có bản đồ nhà thờ và sân nhà thờ.

      Khi biết mộ bà phù thủy được khai quật trong làng ( số người còn nhớ bà ta) có bị kích động đôi chút. Và ai cũng lấy làm lạ, lo lắng nữa khi trong quan tài dù gỗ rất chắc chắn, bị vỡ nứt, hề thấy vết tích xác chết đâu, dù là xương hay bụi. Quả là trường kỳ quặc, thời đem chôn bà chưa có chuyện người chết sống lại, mà hình dung việc xác chết bị lấy cắp đem cho viện giải phẫu để phẫu tích lại càng khó hơn.

      tượng này gợi lại thời gian có những câu chuyện về phiên toà xử phù thuỷ, về chiến công của các bà này mà người ta lâu nay quên lãng. Ông Richard cho đem đốt quan tài, dù nhiều người nghĩ là điên.

      ràng ông Richard là nhà sáng chế phát minh đến là khó chịu. Trước thời ông, ngôi nhà thái ấp bằng gạch đỏ là khối nhà dễ thương nhất, nhưng vì ông du lịch qua Ý bị nhiễm thị hiếu Ý và vì có nhiều tiền hơn cha và ông, ông biến ngôi nhà thôn quê thành lâu đài kiểu Ý. Vữa và đá khối che lấp hết gạch, vài tấm đá hoa cương Ý đứng thờ ơ nơi vào gian sảnh và ngoài vườn, ngôi đền sao chép kiểu Sibyl ở Tivoli dựng ngay bên bờ ao; Castringham mang vẻ hoàn toàn mới, tôi phải là nom nó được duyên dáng như trước, nhưng được nhiều người trầm trồ thán phục và trở thành kiểu mẫu cho các quý tộc nông thôn bắt chước trong nhiêu năm về sau này.

      buổi sáng (vào năm 1754) ông Richard tỉnh dậy sau đêm thoải mái chút nào. Trời gió, ống khói lò sưởi phả khói liên tục – trời lạnh nên phải đốt lò sưởi trong nhà. thế cái cửa sổ cứ kêu lạch cạch để cho người ta yên. Triển vọng chiều nay khách khứa sang trọng đến chơi đông đặc (nếu trong lúc tiến hành các trò chơi mà ông cứ liên tục có cảm giác khó ở thế này ảnh hưởng đến danh tiếng của ông, vốn được coi là người chịu khó duy trì việc tổ chức các trò chơi). Điều làm ông chán ngán nhất lại là chuyện khác cơ trong cái đêm mất ngủ. Ông thể tiếp tục ngủ trong căn buồng này được.

      Trong bữa ăn sáng, ông cứ nghĩ mãi về chuyện này thành ra ăn sáng xong ông thăm cách có hệ thống tất cả các phòng để xem phòng nào theo ông là tốt nhất. Mãi mới tìm ra được phòng, có cửa sổ quay ra phía đông, và cửa sổ quay ra phía Bắc, cửa phía Bắc này đầy tớ luôn qua lại nên thích lắm. Ông muốn nó nhìn ra phía Tây để mặt trời khỏi đánh thức ông dậy sớm quá và bị quấy rối bởi các hoạt động buổi sáng ở trong nhà. Người giữ nhà cho biết chỉ có phòng đạt được cầu ấy.

      "Là phòng nào vậy?" ông Richard hỏi.

      "Phòng của ngài Mathew trước đây – vốn được gọi là Tây Phòng".

      "Thế , chuyển buồng ngủ của tôi sang đấy, tối nay tôi ngủ ở đấy" ông chủ " lối nào nhỉ, à đây rồi" và ông vội vã .

      "Nhưng thưa ngài Richard, bốn mươi năm nay ai ngủ ở đấy cả. Từ ngày ngài Mathew qua đời khí gian phòng đổi khác."

      Vừa bà ta vừa rượt theo chủ.

      "Nào, bà Chiddock, mở khoá ra, ít nhất tôi muốn xem phòng ra sao ."

      Thế là cánh cửa được mở ra, gian phòng xông lên mùi khí tù hãm ẩm mốc. Ông Richard tiến ra phía cửa sổ và nóng lòng mở tung các cửa chớp cửa sổ. Nơi này, ở cuối ngôi nhà, sửa chữa bấy lâu nay hề động chạm tới, lại bị cây tần bì um tùm che khuất.

      "Bà Chiddock, thông khí gian phòng này cho tôi, mở cửa cả ngày vào, đưa đồ đạc phòng ngủ của tôi sang đây. Phòng cũ của tôi để cho linh mục Kilmore nằm.

      Tự nhiên có tiếng ở đâu ngắt lời ông:

      "Xin cho tôi hầu chuyện ngài lát được ạ?"

      Ông Richard quay người lại thấy người mặc đồ đen đứng ở ngưỡng cửa cúi chào mình.

      "Xin thứ lỗi cho tôi đột ngột vào đây, ngài nhớ tôi đâu, tên tôi là William Crome, ông nội tôi là cha xứ cùng thời với ông nội của ngài".

      "Phải. Cái tên Crome bao giờ cũng là tấm hộ chiếu để vào Castringham này. Tôi rất vui được nối lại quan hệ của hai thế hệ sau. Tôi giúp gì ông được đây? Ông có vẻ hơi vội, và vào giờ này…"

      "Đúng vậy, tôi phi ngựa suốt từ Norwich để tới Bury St Eđmunhs chỉ dừng lại đây để trao cho ngài số giấy tờ ông nội tôi để lại khi qua đời, theo tôi có liên quan đến gia đình ngài".

      "Cám ơn ông quá" ông Richard "xin mời ông ra phòng khách uống ly rượu, ta cùng xem các giấy tờ đó với nhau được . Còn bà, bà Chiddock, thông khí gian phòng này như tôi bảo…Phải, đây là nơi ông nội mất. Phải, cái cây, có lẽ, làm cho nơi này khá ẩm thấp. , tôi muốn nghe nữa, bà làm gì làm . Còn ông, xin theo tôi".

      Họ vào phòng đọc. Ông Williams Crome, người trở thành thành viên trong Ban lãnh đạo của Clare Hall Cambridge, vừa cho xuất bản quyển Polyaenus giá trị, mang theo cái gói trong đó có các ghi chép của cha xứ ông nội liên quan đến cái chết của Sir Matthew Fell. Vậy là lần đầu tiên Sir Richard đối mặt với việc bói Kinh Thánh mà ta biết ở , nó làm ông thích thú lắm.

      "Vâng" ông Crome trẻ "quyển Kinh Thánh của ông nội tôi cho lời khuyên giá trị - chặt nó đí – tức là cái cây tần bì đấy ạ, tôi dám sao lãng lời khuyên này của cụ để cụ được yên nghỉ. Quả chưa từng thấy cái ổ cho bệnh sổ mũi và bệnh sốt rét nào như cái cây này".

      Trong phòng khách có số sách của gia đình, nhiều lắm, nay còn chờ bộ sưu tập từ Ý của ông Richard đưa sang, phòng sách mới được xây để nhận số sách ấy.

      Ông Richard nhìn từ tờ giấy lên giá sách và :

      "Tôi tự hỏi hiểu cái quyển Kinh Thánh tiên tri ấy nay còn ? Tôi có cảm giác từng nhìn thấy nó ở đâu đó."

      Ông băng qua gian phòng, lấy ra quyển Kinh tháng lùn bè bè, trang đầu để trong có dòng chữ sau đây "Tặng Matthew Fell, từ mẹ đỡ đầu thương Anne Aldous, 2 tháng Chín 1659".

      "Tôi lại thử nó lần nữa xem sao, ông Crome nhỉ. Chắc lại gặp phải mấy cái tên trong biên niên sử. Hừm, cái gì đây? " đến tìm tôi sáng mai nhưng tôi ở đấy đâu". Phải! Phải! Ông nội ông đưa ra điềm báo hiệu đây rồi! Thôi tiên tri như vậy là đủ. Toàn chuyện đâu cả ấy mà. Thôi, ông Crome, xin cám ơn cái gói của ông vô cùng. Tôi e rằng ông vội , xin hãy uống thêm ly rượu nữa".

      Với thái độ ông chủ nhà mến khách như thế (ông Richard nghĩ rất tốt về phong cách và cách năng của người đàn ông trẻ tuổi) hai người tạm biệt nhau.

      Buổi chiều khách khứa đến – giám mục Kilmore, Phu nhân Mary Hervey, ông William Kentfield, v..v.. Ăn tối lúc năm giờ, uống rượu, chơi bài, ăn khuya, sau đó phân tán ai về phòng nấy.

      Sáng hôm say ngài Richard có ý định săn với những người kia mà chuyện với giám mục Kilmore. Vị giám mục này khác với các giám mục Ireland thời ấy, tới thăm toà giám mục của mình và cư trú ở đó thời gian khá lâu. Sáng hôm ấy hai người dạo ở sân về những thay đổi và cải tiến của ngôi nhà, vị giám mục bảo, chỉ vào cửa sổ Tây Phòng.

      "Ngài Richard ạ, ngài mà cho dân Ireland của tôi ở những chỗ như thế này là được đâu".

      "Sao thế, chính là phòng của tôi đấy"

      Người nông dân Ireland kỵ nhất ngủ bên cạnh chỗ có cây tần bì, mà cây tần bì này mọc um tùm gần ngay cửa sổ phòng, cách đến hai mét. Có lẽ" ông giám mục mỉm cười tiếp "chính vì nó mọc tốt cao to như thế cho nên vẻ mặt ngài mới kém tươi như bạn bè ngài nhìn thấy đây".

      "Quả như thế hay sao ấy, suốt từ mười hai giờ đêm đến bốn giờ sáng tôi sao ngủ được. Nhưng mai tôi cho hạ cây rồi, khỏi phải nghe về nó nữa".

      "Tôi hoan nghênh quyết định ấy của ngài đấy. Lá cây dày đặc thế kia làm ngài thở sao nổi"

      "Ngài đúng. Nhưng đêm qua tôi mở cửa sổ. Vì có nhiều tiếng động quá, có lẽ các cành cây chà vào ô kính cửa sổ làm tôi chong mắt ra"

      " thể được ngài Richard ạ, đây ngài xem, cành cây nào vươn tới khung cửa sổ cả trừ khi có trận gió mạnh mà đêm qua có gió đâu! Cành lá cách ô cửa sổ có đến ba chục phân kia mà"

      "! Thế tại sao có vết cào để lại khắp lớp bụi ở ngưỡng cửa sổ?"

      Cuối cùng họ cho là có chuột từ đám dây thường xuân. Đức giám mục đưa ý đó ra, ngài Richard chộp lấy ngay.

      Cả ngày trôi qua êm đềm, đêm đến mọi người về phòng ngủ, chúc ngài Richard ngủ ngon.

      Giờ đây ông ta ở trong phòng mình, nằm trong giường, tắt đèn. Phòng này ở ngay nóc bếp, đêm lại ấm, do đó cửa sổ để mở.

      Chỗ khung giường rất ít ánh sáng nhưng người ta thấy động đậy tựa như ngài Richard trở đầu từ bên này qua bên kia rất nhanh và gây tiếng động khe khẽ, ta có thể hình dung như là ông ta có rằng nhiều cái đầu màu nâu trong bóng tối mờ, chúng đưa ra trước rồi lại ra sau và cả lồng ngực cũng vậy. Ảo giác này đáng sợ.

      Còn gì nữa ? Có đấy! tiếng động của cái gì đó từ giừơng rơi xuống đánh bộp, đó là thứ mập mạp trông như con mèo con chạy vút ra khỏi cửa sổ như ánh chớp rồi cái gì đó như thế nữa – bốn tất cả - sau đó yên lặng hoàn toàn.

      " đến tìm tôi sáng mai nhưng tôi ở đấy nữa"

      Giống như ngài Matthew, ngài Richard cũng chết trong giường, đen kịt lại!

      đám khách khứa lặng lẽ và đầy tớ đứng đầy dưới cửa sổ khi biết tin. Nào là ngộ độc kiểu Ý, nào là phái viên của Giáo hoàng đến ám hại, nào là ô nhiễm bởi khí.

      Khách khứa đưa ra nhiều giả thiết, riêng giám mục Kilmore nhìn vào cái cây, nơi chẽ ba thấp co con mèo đen thu người lại nhìn vào cái hốc từ lâu có ở thân cây. Nó có vẻ như nhìn vào cái gì rất đáng chú ý trong đấy.

      Bỗng dưng nó vươn cổ nhòm hẳn vào cái lỗ và vì đứng chênh vênh, nó trượt tõm vào cái lỗ. Người ta nghe thấy tiếng nó rơi.

      Ta đều biết mèo có thể kêu nhưng ít ai nghe thấy nó thét – cái tiếng thét từ trong hốc cây vọng ra. Hai, ba tiếng thét! Mấy người làm chứng chắc lắm. Sau đến tôi đông nghèn nghẹn, tiếng vật lộn. Phu nhân Mary Hervey ngất , bà quản gia bịt tai chạy thẳng lên đến sân thượng mới bỏ tay ra.

      Riêng giám mục Kilmore và ngài William Kentfield ở lại. Cho dù tiếng kêu đầy đe doạ nhưng cũng chỉ là tiếng kêu của con mèo, ngài William nuốt nước bọt mấy cái trước khi :

      "Xin thưa là trong cái cây thể nào cũng có cái gì đó mà ta chưa biết. Tôi tìm hiểu ngay đây"

      Mọi người nhất trí. cái thang được đem tới, người làm vườn trèo lên nhìn vào trong hốc, chẳng thấy gì cả trừ cái gì đó lờ mờ động đậy ở bên dưới. Người ta lấy cái đèn lồng buộc dây thừng thả xuống.

      "Chúng ta phải xuống dưới đáy. Xin lấy cuộc sống của tôi ra mà thề, bí mất của những cái chết khủng khiếp này nhất định là nằm ở dưới đó".

      Người làm vườn lại trèo lên thang tay cầm đèn, thận trọng thả đèn xuống cái hốc. Ông ta cúi xuống, mặt có ánh đèn chiếu vàng khè, sau đó cái mặt đó nhăn nhúm lại như nhìn thấy cái gì thực kinh khủng và ghê tởm, ông ta thét lên tiếng hãi hùng và ngã ngửa ra rơi từ thang xuống – may thay được hai người đàn ông ở gốc cây đỡ lấy – riêng cái đèn rơi vào trong.

      Ông ta ngất tưởng như chết, thành ra chưa ai moi được lời nào từ miệng của ông ta cả.

      Nhưng rồi lại có thứ khác cho mọi người nhìn. Vì cái đèn rơi xuống, lửa bắt vào rác rưởi và lá cây khô ở trong thành ra vài phút sau từ trong hốc làn khói dày đặc bốc lên ,sau đến ngọn lửa, tóm lại, cả cái cây bùng cháy.

      Những người đứng xem quây thành vòng ở xa mấy mét, ngài William và đức giám mục cử người tìm vật khí hoặc bất cứ dụng cụ gì cũng được, bởi rất ràng là con thú nào dùng hốc cây đó làm hang thế nào cũng phải vọt ra do lửa hun.

      Đúng thế. Thoạt tiên ngay chỗ chẽ cây là thân hình tròn xoe – như cái đầu người – bốc lửa – đột ngột nhô lên sau đó xỉu ngay rơi xuống. Rồi đến sáu bảy lần như thế, cuối cùng quả cầu lửa vọt lên trung tiếp đến nhào xuống bãi cỏ năm im. Vị giám mục tới gân, nhìn thấy…những gì còn lại của con nhện khổng lồ mắt đầy gân vỡ bung ra! Cái cây cháy thấp xuống rằng nhiều con vật giống như thế từ trong thân cây bổ ra, chúng có lông lá xám xịt.

      Cả ngày hôm ấy cây tần bì cháy và người ta đứng quanh cho đến lúc nó rụi hẳn. Con nhện nào ra đến ngoài cũng bị diệt ngay. Cuối cùng lúc lâu thấy gì bò ra nữa họ xúm lại nhìn vào những rễ cây.

      "Họ tìm thấy" giám mục Kilmore "dưới cùng chỗ đất lõm sâu có vài ba xác con vật như thế chết vì ngạt khói, và lạ thay bên cạnh cái hố đó, sát vào tường nhà, là bộ xương người, bên còn lớp da khô, vài sợi tóc đen, những người đến xem bảo ràng đây là bộ xương đàn bà chết cách đây khoảng năm mươi năm".

      Chú thích:

      [1] Cựu giáo hoàng Alexandre VI, thuộc gia đình Borgia người Ý gốc Tây Ban Nha nổi tiếng về tội ác đầu độc, nhấ là người em Lucrèce Borgia

    5. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 6 Con số 13

      Trong số các thị trấn của Jutland, Viborg có vị trí quan trọng. Nó là nơi có toà giám mục, nhà thờ hầu như mới xây nhưng rất đẹp, khu vườn duyên dáng, cái hồ tuyệt vời với rất nhiều cỏ. Gần đó là Maild, trong những vùng đẹp nhất Đan Mạch, xa hơn chút nữa là Finderup, nơi Marsk Stig ám sát vua Erik Gripping vào ngày thánh Ceilia năm 1286. năm mươi sáu vết chày đầu sắt hình vuông được tìm thấy sọ Erik khi mộ ông được khai quật vào thế kỷ mười bảy. Nhưng thôi, tôi có viết sách hướng dẫn du lịch đâu nhỉ.

      Viborg có nhiều khách sạn khá, Preisler's và Phượng Hoàng là hai nơi ở được. Nhưng ông họ tôi qua kinh nghiệm mà tôi kể cho các bạn nghe sau đây, lần đầu tiên đến thăm Viborg, lại ở khách sạn Sư Tử Vàng. Suốt từ đó đến nay ông trở lại đó lần nào nữa, lý do vì sao những trang sau đây cho các bạn biết.

      Sư Tử Vàng là trong số ít ngôi nhà bị thiêu huỷ do hoả hoạn năm 1726, trận hoả hoạn thiêu trụi cả nhà thờ, nhà Sognekirke, nhà Raadhuus và nhiều nhà cổ rất hay. Khách sạn là toà nhà gạch – có nghĩa mặt trước bằng gạch, đầu hồi có những bậc tam cấp hình con quạ, cửa ra vào có viết cả bài văn, tuy nhiên cái sân nơi xe buýt vào đen và trắng như cái lồng bằng gỗ và thạch cao.

      Mặt trời lặn khi tôi tới cửa khách sạn, ánh sáng chiếu thẳng vào mặt tiền bề thế của ngôi nhà. tôi thích thú cái vẻ cổ kính của nơi này lắm, tự hứa sống qua thời gian hài lòng và thú vị trong ngôi quán đặc trưng của Jutland này.

      Công việc đưa ông Anderson đến Viborg phải công việc theo nghĩa thông thường. Ông nghiên cứu về lịch sử Nhà thờ Đan Mạch, ông được biết tại Rigsarkir ở Viborg có nhiều giấy tờ thoát khỏi nạn cháy, trong có đến những ngày cuối cùng của Thiên Chúa giáo La mã ở nước này. Vì vậy ông định ở đây thời gian tương đối lâu – hai hoặc ba tuần để xem và sao chụp các giấy tờ đó. Ông hy vọng quán Sư Tử Vàng có thể cho ông buồng khá rộng vừa làm phòng ngủ, vừa làm phòng làm việc. Ông giải thích cầu này cho chủ quán, ông này nghĩ lát rồi đề nghị tốt nhất khách nên tự xem, vừa ý phòng rộng nào gác chọn lấy.

      Tầng phải leo gác nhiều sau ngày làm việc, tầng ba có phòng rộng như cầu, nhưng tầng hai có thể chọn trong hai hoặc ba phòng có kích thước phù hợp.

      Ông chủ quán giới thiệu phòng 17 nhưng ông Anderson thấy cửa sổ nhìn ra bức tường trơ trụi của nhà bên cạnh, buổi tối rất tối. Phòng 12 hay 14 hơn vì cả hai trông xuống đường phố, ánh đèn rực rỡ buổi tối và quang cảnh bên ngoài bù đắp lại cho ông ồn ào của phố phường.

      Cuối cùng ông chọn số 12. Giống các buồng bên, nó có ba cửa sổ, tất cả hướng ra phía, buồng khá cao và lạnh cách bất thường, dĩ nhiên có lò sưởi nhưng có cái lò than khá cổ kính rất đẹp mắt, bằng sắt chạm trổ, bên có hình Abraham hy sinh Isaac vbdòng chữ Mug Mose, Cap.22" ở phía . Trong phòng chẳng có gì đáng chú ý ngoài bức tranh in cổ kính, miêu tả cảnh thị trấn năm 1820.

      Giờ ăn tối đến, Anderson vừa tắm rửa mát mẻ, ông xuống cầu thang trước khi chuông gọi. Ông tranh thủ xem bảng danh sách các khách cùng ở trọ. Thường ở Đan Mạch tên khách được kẻ cái bảng to, chia từng cột, từng hàng, mỗi hàng ở đầu là số phòng. Danh sách chẳng có gì hấp dẫn. luật sư người Đức, người chào hàng từ Copenhagen. Chỉ có mỗi điểm duy nhất khiến người ta phải nghĩ ngợi đôi chút là trong liệt kê các phòng có số 13, Anderson để ý trong nhiều khách sạn khác ở Đan Mạch cũng vậy. Ông hiểu tại sao cái con số đặc biệt ấy, bình thường như thế mà lại có sức mạnh lan rộng khiến người ta bỏ dám đánh số, ông quyết định hỏi ông chủ xem các chủ quán giống như ông ta và bản thân ông ta bao giờ gặp khách hàng chịu ở phòng 13 hay chưa.

      Ông chẳng có gì để kể với tôi về buổi ăn tối hôm ấy (tôi kể ở đây là theo những gì ông ấy kể cho tôi nghe) cũng như lúc về buồng thu xếp quần áo, đồ đạc, giấy tờ. Tới mười giờ ông quyết định ngủ, nhưng ông cũng như nhiều người khác thời nay trước khi ngủ phải đọc vài trang sách, ông nhớ ra quyển sách đọc dở xe lửa mà ông đặc biệt thích đọc lúc này lại ở trong túi áo khoác treo bên ngoài phòng ăn dưới nhà.

      Chạy xuống lấy lên mất lúc, hành lang tối, thành ra tìm đến cửa phòng mình dễ dàng gì. Nhưng rồi đến nơi quay quả đấm cửa mở và nghe tiếng động vội vã tới cánh cửa từ bên trong. Ông mở nhầm cửa rồi! vậy là phòng ông ở bên phải hay bên trái cánh cửa này. Nhìn lên : phòng 13. Phòng ông ở bên trái, quả vậy. Vào giường ít phút và đọc được vài trang sách rồi tắt đèn ngủ, ông mới sực nhớ ra tên chiếc bảng đen của khách sạn làm gì có phòng 13? ấy thế nhưng vẫn có phòng 13 trong khách sạn. Ông rất tiếc chọn phòng này, làm như vậy có khi giúp cho ông chủ để ông ta sau này kể lại rằng quý khách người ở đó ba tuần và rất thích nó. Nhưng có lẽ phòng này dùng cho đầy tớ hoặc đại loại như vậy. Sau cùng chắc gì nó rộng và đẹp như phòng ông giờ? Ông đưa cặp mắt buồn ngủ nhìn lại phòng mình được chiếu sáng mờ mờ dưới ánh đèn đường. Lạ quá, ông nghĩ. Thường trong bóng tối các phòng bao giờ cũng có vẻ rộng hơn nhưng phòng này lại có vẻ ngắn lại và cao hơn lên. Thôi! Thôi! Ngủ còn hơn là những nghĩ ngợi vớ vẩn ấy – và thế là ông ngủ mất.

      Đến Viborg được ngày, hôm sau Anderson đến ngay Rigsarkiv của Viborg. Ông được tiếp đón ân cần – Đan Mạch vẫn vậy – và vào chỗ nào cũng vậy cả. Tài liệu ở đây nhiều và hay hơn ông hình dung nhiều. Ngoài sách và giấy tờ chính thức còn có đống thư từ liên quan đến giám mục Jorgen Friis theo Thiên Chúa giáo La Mã, người cai quản cuối cùng của toà giám mục, trong đó nhiều thư từ thú vị liên quan đến đời tư và tính cách cá nhân ông ta. Có thể về căn nhà tư do giám mục sở hữu trong thị trấn, ông ta ở đó mà là người khác. Người này gây xì căng đan trong khu và làm vướng chân cho phe cải cách rất nhiều, người ta phải viết lên thành phố vì ta là nỗi nhục cho họ bởi thực hành những công nghệ xấu xa bí và bán linh hồn cho kẻ thù. Lại còn có đoạn thư chê trách nhà thờ Babylon này tham nhũng và mê tín cho nên giám mục mới dung túng và cho trú ngụ tên nham hiểm hút mau người Troldmand ấy. Vị giám mục trước những trách cứ này tỏ thái độ rất ngoan cường, ông bản thân ông cũng ghê tởm những cái người ta gọi là công việc bí , ông cầu những kẻ chống đối mình đưa vấn đề ra Toà – dĩ nhiên là Toà án tôn giáo – để giải quyết việc này cho xong . ai sẵn sàng và thích thú hơn ông trong việc kết tội Mag. Nicolas Francken nếu như có bằng chứng về lỗi lầm và tội ác mà người ta kết cho cách chính thức.

      Anderson có nhiều giờ vì kho lưu trữ hồ sơ sắp đóng cửa nên chỉ liếc qua lá thư tiếp theo của ông Rasmus Nielsen đứng đầu giáo phái Tin Lành, tuy thế cũng nắm được ý chung của lá thư là những người theo đạo Thiên Chúa bây giờ còn bị phụ thuộc vào quyết định của các Đức giám mục ở Rome nữa và toà án của giám mục phải và là kt là nơi xét xử thích đáng cho ca nặng nề quan trọng như vậy.

      Anderson ra về, người chủ trì cơ quan lưu giữ tài liệu cùng đường, dĩ nhiên câu chuyện xoay quanh mấy lá thư tôi vừa đến.

      Herr Scavenius, phụ trách kho lưu trữ của Viborg, mặc dù được thông tin tỉ mỉ về tình hình chung liên quan đến những giấy tờ mình cất giữ, phải là người chuyên nghiên cứu về thời kỳ cải cách, do đó ông rất quan tâm đến những gì Anderson kể, ông rất mong được đọc bài mà Anderson sắp viết nhằm thể các tài liệu trong kho của ông. Ông thêm "Tôi rất lấy làm lạ hiểu căn nhà của giám mục Friis ở đâu. Tôi xem kỹ bản đồ địa hình Viborg cổ xưa, may, sơ đồ đất đai của Giám mục được lặp lại năm 1560, và phần lớn là ở Arkiv giờ nhưng mảnh có danh mục bất động sản của thị trấn bị thiếu. sao! Rồi ngày nào đó tôi tìm ra thôi".

      Sau vài động tác thể dục nào đó – tôi quên như thế nào và ở đâu – Anderson về quán Sư Tử Vàng ăn cơm tối, chơi trò chờ đợi, rồi vào giường. đường về phòng, ông nhớ ra quên chưa với chủ quán, về việc bỏ con số 13 trong việc đánh số phòng khách sạn, ông cũng cần phải đoán chắc phòng số 13 có tồn tại trong khách sạn rồi mới chuyện với ông chủ quán được.

      Việc này khó khăn gì. Cánh cửa phòng vẫn đó, số phòng rành rành, và ràng có ai làm việc trong đó, tiến lại gần cửa, ông nghe có tiếng chân lại và tiếng ở bên trong. Mất vài giây khẳng định con số, trong lúc đó tiếng chân dừng ,có vẻ như rất gần cánh cửa, rồi lại có tiếng thở nhanh như của người cơn kích động mạnh. Ông về phòng mình ngạc nhiên thấy nó hẳn lại so với lúc ông chọn khiến ông hơi bất bình, nhưng thôi, bởi nếu nó đủ rộng ông có thể đề nghị đổi phòng khác dễ dàng. Tự nhiên lúc đó ông muốn có cái gì đó torng túi áo măng tô – tôi nhớ là chiếc khăn tay phải – mà áo lại treo ở cái mắc đặt xa tít cuối phòng. Lạ quá, thấy cái giá áo dâu cả, hẳn bọn đầy tớ đem chỗ khác, mở tủ áo ra cũng thấy mới kỳ chứ. Ăn cắp rồi. Những chuyện như thế ít khi xảy ra ở Đan Mạch, nhưng có chuyện ngu ngốc nào rồi ( chuyện ngu ngốc phải bất thường) hầu phòng nào đó phải bị khiển trách nặng. Dù sao thứ ông cần có ngay cũng sao, để đến sáng mai cũng được, khỏi rung chuông gọi đầy tớ làm phiền họ. Ông tới bên cửa sổ - bên tay phải – nhìn ra đường phố vắng lặng. trước mặt là toà nhà cao, nhiều bức tường để trống, thấy khách bộ hành qua lại, đêm tối đen chẳng nhìn thấy gì.

      Ánh sáng ở phía sau ông, ông nhìn bóng mình in bức tường trước mặt. Có cả bóng ông có râu ở phòng 11 bên trái, ông này mặc áo tay qua lại vài lần, lúc đầu ông ta chải tóc, sau đó choàng chiếc áo ngủ vào. Có cả bóng ông khách phòng bên phải số 13. xem rất khá hay ho. Số 13, giống ông, tì tay bậu cửa sổ nhìn ra đường phố. Có vẻ ông này cao gầy – hay là đàn bà chăng? Ít nhất ông hay bà ta có cái khăn vải trùm đầu tựa như mũ ngủ, và hình như ông này có cái chụp đèn màu đỏ, và cái đèn rung rinh tợn, vì tường trước cửa ánh đỏ chạy lên chạy xuống rất . Ông vươn cổ sang nhìn xem có thấy gì hơn nhưng ngoài chùm ánh sáng ở bậu cửa sổ có vẻ như màu trắng, còn còn nhìn thấy gì khác.

      Lúc này có tiếng chân dưới đường nhắc số 13 lộ mình ra quá nhiều thành ra ông này bỗng nhàng lướt vào trong, ánh đèn đỏ cũng tắt. Anderson hút dở điếu thuốc, bỏ lại bậu cửa sổ, vào giường ngủ.

      Sáng hôm sau hầu phòng đánh thức ông dậy, và đem nước nóng vào. Ông bèn nhỏm dậy, cố nhớ đúng mấy từ Đan Mạch để hỏi:

      " mang cái áo măng tô chỗ khác hả? Mang đâu vậy?"

      hầu phòng thấy lạ chỉ cười và trở ra lời nào.

      Anderson bực mình ngồi thẳng dậy giường, định gọi ta lại ông sững người ra, nhìn trân trân trước mặt.

      Cái mắc áo vẫn treo giá đúng như lúc ông mới đến. Ông quá sốc vì xưa nay vẫn được coi là người có những nhận xét chính xác. Làm sao mà tối qua ông thấy nay lại sờ sờ ra vậy?

      Ánh sáng ban ngày những làm tỏ tường cái mắc áo treo áo măng tô mà còn làm lộ tỷ lệ thích đáng của gian phòng với ba cửa sổ làm hco người chọn nó phải thoả mãn. Mặc quần áo xong ông ra cửa sổ giữa xem thời tiết thế nào. Lại thêm cú sốc nữa. Đêm qua nhận xét nào của ông cũng kỳ quặc. Ông sẵn sàng thề mười lần rằng đêm qua ông hút thuốc lá ở cửa sổ bên phải trước khi vào giường, nay đầu mẩu thuốc lá còn lại bậu cửa sổ giữa!

      Ông xuống ăn sáng. Khá muộn. nhưng số 13 còn muộn hơn: đôi bốt vẫn để trước cửa – bốt của đàn ông, vậy số 13 là đàn ông chứ phải đàn bà. Ông bèn nhìn lên số của cánh cửa: số 14. Ông cứ nghĩ mình qua hòng 13 mà chú ý. Ba lỗi lầm ngớ ngẩn trong có 12 giờ đồng hồ là quá nhiều cho con người xưa nay vẫn có đầu óc chính xác và làm việc cách có phương pháp do đó ông quay lại xem cho chắc chắn. Bên cạnh số 14 là 12, buồng của ông. Hoàn toàn có số 13.

      Sau ít phút nghĩ cẩn thận xem mình ăn và uống những gì hai mười bốn giờ qua, Anderson bỏ qua vấn đề này. Nếu như thị giác cũng như trí óc của ông kiệt quệ do sức khoẻ có thể xác định dễ dàng bằng nhiều cách, còn nếu , ông trải nghiệm chuyện rất thích thú mà những diễn biến của nó cũng đáng để dõi theo.

      Suốt ngày ông tiếp tục xem xét những lá thư tôi tóm lược ở . Ông thất vọng thấy chúng đầy đủ. Chỉ có lá thư nhắc đến người tên là Mag Nicolas Francken. Đó là thư của giám mục Jorgen Friis viết cho Rasmus Nielsen, trong đó :

      "Mặc dù chúng tôi hề có ý định đồng tình với ông về cách đánh giá toà án của chúng tôi, và chúng tôi chuẩn bị tinh thần nếu cần chống lại ông đến cùng, ấy thế nhưng Mag Nicolas Francken – người chúng tôi tin tưởng và thương và bị ông dám buộc cho số tội tệ hại hề có, đột ngột rời xa chỗ chúng tôi rồi,do đó vấn đề này đặt ra nữa. Nhưng còn việc ông đánh giá Thánh Tông Đồ - cũng là người viết Kinh Phúc – St John viết trong sách Khải huyền mô tả nhà thờ La Mã thần thánh dưới hình thức cải trang và tượng trưng cho người đàn bà đĩ điếm, xin ông biết cho rằng…"v…v…Tìm mãi Anderson cũng thấy lá thư nào tiếp tục chuyện này thành ra thể hiểu nổi "rời bỏ" trong trường hợp này nghĩa là thế nào, chỉ có thể giả thiết Francken chết đột ngột. Giữa lá thư cuối cùng của Francken mà ràng là lúc ấy Francken còn sống với lá thư của giám mục chỉ cách nhau hai ngày, do đó suy ra cái chết đến bất ngờ.

      Buổi chiều ông ghé thăm Hald, uống trà tại Burkcdund, mặc dù hơi băn khoăn nhưng ông nhìn thấy dấu hiệu nào của chứng suy thị giác hoặc suy não như ông sợ.

      Bữa cơm tối ông ngồi cạnh chủ quán. Chuyện tào lao lát, ông hỏi:

      "Tại sao đa số khách sạn nước này có phòng số 13 hả ông? Khách sạn này cũng có"

      Chủ quán vui vui:

      " ra chuyện đó làm ông để ý! ra tôi cũng nghĩ mãi. Tôi tự bảo, Người có học ai mê tín bao giờ! Tôi học Cao đẳng ở Viborg, thầy giáo tôi là người chống dị đoan. Ông chết nhiều năm nay rồi – con người tinh tế, đàng hoàng, sẵn sàng sử dụng cả bàn tay lẫn khối óc. Tôi còn nhớ bọn học trò chúng tôi, vào ngày tuyết rơi…"

      Ông đăm chiêu nghĩ ngợi.

      "Thế ông phản đối có phòng 13 trong khách sạn? " Anderson hỏi.

      "À! Nhất định rồi. Ông biết đấy, cha tôi hướng dẫn tôi vào nghề nghiệp này. Tội nghiệp cụ, cụ có khách sạn ở Aarhuus, sau khi sinh chúng tôi, cụ chuyển tới Viborg nay vốn là nơi chôn nhau cắt rốn của cụ, cụ sở hữu khách sạn Phượng Hoàng cho đến khi mất. Đó là năm 1876. Tôi, khởi nghiệp ở Silkeborg, từ năm kia tôi mới về đây".

      Sau đó ông chủ kể thêm các chi tiết của ngôi nhà và việc làm ăn khi ông mới tiếp quản nó.

      "Thế khi ông tới đây, khách sạn có phòng 13 ?"

      ", . Để tôi kể cho ông nghe. Ông thấy đấy. nơi như thế này, các doanh nhân qua lại, đa số là dân thương mại mà. Chẳng lẽ để họ ở phòng 13? Chẳng thà họ ra đường ở còn hơn! Riêng về phần tôi số phòng chẳng liên quan gì, tôi bảo họ vậy, nhưng họ cứ nhất định cho là nó đem lại may. Hàng đống chuyện xảy ra với khách ở phòng số 13 nên họ ở đó nữa, hoặc nếu cứ để mất những khách hàng tốt nhất, hoặc chẳng chuyện này chuyện khác", ông chủ quán nghĩ chút rồi minh hoạ cho sinh động thêm.

      "Vậy thế phòng 13 ở khách sạn, ông dùng làm gì?" Anderson hỏi, ý thức được là câu hỏi của mình mang vẻ gì đó tương xứng với quan trọng của vấn đề.

      "Số 13 ở khách sạn tôi ấy ư? Làm gì có! Tôi tưởng ông biết. Nếu có, nó ở bên cạnh phòng ông"

      "Vâng, chỉ có điều là đêm qua khi qua hành lang, tôi nhìn thấy có cửa phòng mang số 13 mà, và thực ra tôi dám chắc tôi đúng, đêm qua tôi nhìn thấy mà".

      Dĩ nhiên ông Kristensen chỉ buồn cười như Anderson chờ đợi, ông ta còn nhấn mạnh và lặp lặp lại hề có phòng 13 ở trong khách sạn ngay cả trước khi ông ta đến đây.

      Anderson người thấy ông ta khẳng định như vậy, tuy nhiên vẫn còn hoang mang và nghĩ chỉ có cách mời chủ quán tới phòng mình đêm nay hút xì gà để xem thử việc đó là có thực hay là do mình ảo tưởng. Anderson có mang theo ảnh chụp vài thị trấn nước mà ông coi là đủ lý do để mời ông chủ quán đến.

      Ông Kristensen được mời thích lắm, vui vẻ mhận lời, mười giờ đêm ông ta đến. Anderson xin kiếu ngay về phòng viết vài lá thư, và tự đỏ mặt với bản thân khi thú nhận quá bồn chồn chỉ dám theo đường qua phòng 11 về phòng mình, sau đó vội vàng liếc nhìn chính phòng mình với vẻ nghi ngờ, nhưng thấy gì hết ngoài việc nó vẫn có vẻ . còn vấn đề về cái áo mắc măng tô nữa vì Anderson cất tất cả chỗ quần áo treo giá , cái giá thi nhét xuống gầm giường. Ông cố gắng quên con số 13, ngồi xuống viết thư.

      Láng giềng hai bên yên lặng. Thỉnh thoảng có tiếng mở cửa trong hành lang, vài đôi bốt được vứt ra ngoài, có lúc người chào hàng nào đó qua ư ử hát, bên ngoài thỉnh thoảng tiếng xe ngựa lóc cóc mặt đường lát đá, hoặc có tiếng chân bước vội bên lề đường.

      Anderson viết xong bức thư, gọi Whiskysô đa rồi ra cửa sổ nghiên cứu bức tường trống phía trước mặt và những cái bóng in đó.

      Như ông nhớ phòng 14 có luật sư ở, ông này là người điềm đạm, ít , trong bữa ăn chỉ mải nhìn vào đống giấy tờ đặt bên cạnh đĩa ăn. Ấy thế nhưng xem ra ông ta lại có vẻ như có thói quen làm cho hả cái tính sôi nổi đời của mình khi có mình. Tại sao ông ta lại cứ khiêu vũ mình kia chứ? Cái bóng in tường thể điều đó, bóng ông ta lướt qua lướt lại cửa sổ, tay vẫy vẫy, ống chân khẳng khiu đá lên đá xuống, nhanh nhẹn khác thương. Có lẽ ông ta chân , sàn nhà trải thảm dầy nên gây tiếng độg nào. Sagofer Herr Anders Jensen, khiêuvũ lúc mười giờ đêm trong phòng ngủ của khách sạn, đề tài khá hợp cho bức tranh lịch sử hoành tráng. Những suy nghĩ của Anderson, giống như của Emily trong Bí mật của Udolpho, có thể được sắp xếp thành những dòng thơ sau đây:

      Khi tôi trở về khách sạn

      Vào mười giờ đêm,

      Hầu bàn nghĩ tôi mệt,

      Tôi chẳng kể gì đến họ

      Nhưng sau khi khoá cửa phòng ngủ

      Và vứt đôi bốt ra ngoài

      Tôi khiêu vũ cả đêm sàn nhà

      Dẫu khách phòng bên có kêu ca

      Tôi chỉ càng nhảy hăng hơn

      Bởi tôi quen với pháp luật

      Tha hồ cho họ lải nhải dài dòng

      Tôi càng chế giễu phản ứng của họ
      Giả sử lúc này mà ông chủ quán gõ cửa, chắc hẳn độc giả được đọc những vần thơ dài hơn. Cứ nhìn cái vẻ ngạc nhiên bộ mặt ông Kristensen thấy ông ta có vẻ sốc khi đứng trong phòng, nhưng Anderson nhận xét gì. Mấy bức ảnh của Anderson làm cho ông ta thích thú lắm, ông ra nhiều chuyện phần lớn là tự truyện. Chưa biết câu chuyện lý thú về con số 13 được đề cập như thế nào ông luật sư bên cạnh bắt đầu hát, hát cách hăng hái đến nỗi ai cũng phải cho là ông ta quá say hoặc hoá điên. Giọng hát thôi nhưng cao vút, nghe nó khê như ít khi được sử dụng. Lời và điệu thành vấn đề. Dần dần nó càng lên cao hơn sau đó trầm hẳn xuống như lời than vãn tuyệt vọng, như gió đêm đông thổi ống khói lò sưởi hay cây đàn organ thể lên cao được nữa. nó trở thành tiếng kêu kinh hoàng. Giá Anderson có mình ắt phải chạy trốn sang phòng nào đó, phòng người chào hàng chẳng hạn.

      Ông chủ quán ngồi há hốc miệng.

      "Tôi chẳng hiểu ra làm sao nữa" cuối cùng ông ta lau mồ hôi trán và bảo "Nghe sao mà khiếp thế, tôi từng có lần nghe thấy,cứ tưởng là tiếng mèo kêu"

      "Hay là ông ta điên?" Anderson hỏi.

      "Hẳn vậy và đáng buồn thay! khách hàng tốt như thế, thành công trong công việc và theo như người ta , có gia đình rất trẻ trung cần nuôi nấng".

      Đúng lúc đó có tiếng gõ cửa, người gõ xồng xộc vào đợi trả lời. Đó chính là ông luật sư mặc quần áo ngủ, tóc tai rối bời trông có vẻ vô cùng giận dữ.

      "Xin lỗi ông" ông ta "xin rất cảm ơn nếu ông ngừng cho…"

      Đến đây ông ta im. ràng cả hai người trước mặt ông ta có vẻ gì gây rối loạn cả, sau lúc im tiếng động càng to hơn trước.

      "Ồ, thế này nghĩa là thế nào?" Ông luật sư hỏi. "Nó ở đâu tới? Ai ở đó? Tôi mất trí chăng?"

      "Ngài Jensen, tữ bên buồng ông cạnh đây chứ đâu? Hay là có con mèo nào bị kẹt trong lò sưởi?"

      Andeson chỉ có thể vậy mặc dù ông biết lời của ông chẳng đem lại tác dụng gì, tốt hơn là cứ đứng mà nghe cái giọng khủng khiếp đó và nhìn vào bộ mặt trắng nhợt của ông chủ quán, ông này vã mồ hôi và run lập cập phải nắm vào hai tay cái ghế bành ông ngồi.

      " thể được!" ông luật sư " thể! Làm gì có lò sưởi! sở dĩ tôi sang đây là tưởng tiếng động xuất phát từ bên này. ràng là từ phòng bên cạnh tôi mà"

      "Có cửa thông giữa phòng ông và phòng tôi nhỉ?" Anderson hăm hở hỏi.

      ", thưa ông" Herr Jensen trả lời "Ít nhất là trong buổi sáng nay"

      "À ra thế!" Anderson "Đêm nay sao?"

      "Tôi dám chắc" ông luật sư ngập ngừng.

      Bỗng nhiên tiếng hoặc tiếng hát bên phòng bên im hẳn, người hát cười mình, kiểu cười ngâm nga khiến cả ba bên này lạnh gáy. Rồi im bặt.

      "Này, thưa ông Kristensen, thế này là thế nào ạ?" – Ông luật sư hỏi.

      "Trời đất ơi!" Kristensen kêu lên. "Tôi biết thế nào? Tôi cũng chẳng hơn gì quý vị. Tôi chỉ cầu Trời phải nghe cái tiếng kêu ấy lần nào nữa!"

      "Tôi cũng thế" ông Jensen , rồi ông khẽ thêm cái gì đó mà Anderson nghĩ là mấy lời cuối cùng trong sách Phúc "Omnis spiritus laudet Dominium – tất cả mọi linh hồn cảm tạ chủ nhân" tuy nhiên ông dám chắc.

      Anderson :

      - Nhưng ta phải làm cái gì chứ? Cả ba chúng ta sang phòng bên cạnh xem nào"

      - "Nhưng đó là phòng ông Jensen đây rồi còn gì" ông chủ quán than thở "Vô ích, chính ông ấy sang đây".

      - "Tôi dám chắc" Jensen bảo. "Tôi nghĩ vị quý tộc này đúng. Ta phải sang xem thôi".

      Vũ khí tự vệ lúc ấy có được là cái gậy và cái can. Đoàn thám hỉêm ra hành lang khỏi run lên bần bật. Bên ngoài yên lặng như tờ, nhưng có ánh sáng le lói từ dưới chân cửa phòng bên cạnh. Anderson và Jensen lại gần, Jensen quay quả đấm và đẩy mạnh, vô ích, cửa vững nguyên.

      "Ông Kristensen" Jensen "ông tìm đầy tớ khoẻ mạnh nhất lên đây. Ta phải mở cánh cửa này ra".

      Ông chủ quán gật đầu chạy , sung sướng thoát khỏi trường. Jensen và Anderson đứng lại nhìn vào cánh cửa.

      "Ủa, con số 13 này!" Anderson .

      "Phải, cửa phòng của ông ở đàng kia, còn cửa phòng tôi ở kìa!" Jensen nó.

      "Ban ngày phòng tôi có ba cửa sổ " Anderson , cổ ông phát ra tiếng cười bồn chồn.

      "Lạy thánhg George, phòng tôi cũng vậy!" ông luật sư , quay lại nhìn Anderson, lưng quay về phía cánh cửa. Đúng lúc này cửa phòng bật mở, cánh tay thò ra quắp lấy vai ông luật sư. Cánh tay đó phủ vải rách tã vàng khè, chỗ da lộ ra đầy lông lá bạc trắng. Anderson vừa kịp lôi Jensen ra và kêu lên tiếng kinh hãi cửa sập ngay lại và có tiếng cười gằn.

      Jensen kịp nhìn thấy gì nhưng Anderson vội bảo ông ta mối nguy ngập ông vừa thoát khỏi, ông này hoảng hốt cả người, đề nghị ai rút về phòng nấy và khóa cửa lại.

      Tuy nhiên vừa vặn ông chủ quán và hai đầy tớ lực lưỡng lên tới nơi, trông cả ba nghiêm trang và sợ sệt. Jensen gặp họ giải thích, định làm họ thoái chí phá cửa nữa.

      Hai người kia bỏ xà beng đem theo xuống, là tội gì thò đầu vào hang quỷ. Ông chủ bối rối biết quyết định thế nào, ý thức được là nếu gặp nguy hiểm khách sạn ông tai hại, thành ra bản thân cũng sợ đối mặt với việc. May thay Anderson có cách làm mấy kẻ mất tinh thần này vững tâm lên.

      "Chẳng lẽ đây là dũng khí của người Đan Mạch mà tôi vẫn nghe danh? có người Đức trong đó đâu, mà nếu có, chúng ta có năm người chống lại , sợ gì?"

      Thế là hai người đầy tớ và Jensen lao vào đẩy cánh cửa.

      "Hãy ngừng lại " Anderson "Đừng có làm vội như thế. Ông chủ, xin ông đứng ngoài cầm đèn, trong hai đây phá cửa, cửa mở ra đừng có xông vào ngay"

      Hai người đàn ông gật đầu, người trẻ bước lên, dùng xà beng bổ mạnh vào phần cánh cửa. Kết quả ai lường trước được! phải tiếng gỗ bị xẻ ra – chỉ có tiếng đùng đục tựa như bức tường bị đập ra. Người đàn ông vứt xà beng hét lên, tay xoa khuỷu tay. nghe tiếng kêu, mọi người nhìn ngay vào ta , sau đó Anderson mới nhìn vào cánh cửa. Chẳng còn thấy cánh cửa đâu, chỉ là bức tường hành lang bị đập vỡ ra khoảng khá lớn do bị xà beng bổ vào. Số 13 hoàn toàn tồn tại. Trong lúc mọi người đứng sững sờ nhìn vào bức tường trống trơn. con gà sống dưới sân gáy lên, Anderson nhìn ra phía có tiếng gà gáy, qua cánh cửa sổ ở cuối hành lang, bầu trời phía Đông bắt đầu rạng.

      "Có lẽ" ông chủ ngập ngừng "hai vị muốn sang phòng nào đó ngủ tạm đêm nay, phòng hai giường nào đó?"

      Cả Anderson lẫn Jensen ai phản đối. Sau những gì họ trải qua, họ có vẻ muốn rời nhau nữa. Thế là mỗi người về phòng mình nhặt nhạnh các thứ cần thiết trong đêm. người cầm cây nến soi đường, họ thấy cả phòng 12 lẫn phòng 14 đều có 3 cửa sổ.

      Sáng sớm hôm sau cả hội tụ tập ở phòng 12. chủ quán dĩ nhiên muốn nhờ bên ngoài giúp đỡ, nhưng nhất thiết bí mật về khu vực này của khách sạn phải được làm sáng tỏ. Hai đầy tớ tự làm thợ mộc. Đồ đạc được dọn ra, phần sàn ngay bên cạnh phòng 14 được moi ra, tránh khỏi tổn thất nhất định, do việc các tấm ván sàn được lật lên.

      Hẳn các bạn cho rằng tìm thấy bộ xương – của Mag Nicolas Francken? ! Họ tìm được giữa các dầm đỡ sàn nhà hộp bằng đồng, trong có tài liệu gấp gọn ghẽ độ hai mươi trang viết tay giấy da bò. Cả Anderson lẫn Jensen (ông này hóa ra thông tỏ môn chữ cổ) rất kích động về vụ khám phá này, họ hứa tìm ra chìa khoá cho tượng kỳ lạ đây.

      Tôi có bản sao chụp của tài liệu thiên văn mà tôi chưa bao giờ đọc. Trang đầu là tranh khắc gỗ của Hans Sebald Beham, tả cảnh số học giả ngồi quanh cái bàn. Chi tiết này giúp cho những người sành sỏi phân định được quyển sách. Tôi nhớ tên quyển sách là gì, mà lúc này cũng có điều kiện xem lại quyển sách ấy, nhưng những trang rời khác toàn là chữ viết, suốt thời gian mười năm sở hữu quyển sách đó tôi cũng biết đọc nó thế nào và chữ viết trong đó là ngôn ngữ gì. Giống hệt hoàn cảnh của Anderson và Jensen sau thời gian xem xét khá lâu, đành quy phục mớ tài liệu trong cái hộp đồng.

      Hai ngày săm soi mãi, Jensen, người mạnh dạn hơn trong hai người, liều cho rằng đó là chữ Latinh hoặc Đan Mạch cổ.

      Anderson chẳng phỏng đoán gì cả, đưa cái hộp và những tờ giấy da cho hội sử học Viborg đặt vào viện bảo tàng của họ.

      Vài tháng sau ông rể tôi kể chuyện này cho tôi, khi chúng tôi ngồi trong khu rừng gần Upsala, nơi mà chúng tôi – đúng hơn là tôi – phá lên cười về bản hợp đồng mà Daniel Salthenius (về sau là giáo sư tiếng Do thái ở Konigsberg) bán mình cho quỷ Sa tăng, Anderson thực thấy thích thú gì.

      "Thằng cha khờ khạo!" ông tôi "ám chỉ Salthenius, người mà khi dại dột hở bí mật này ra mới chỉ là cậu sinh viên chưa tốt nghiệp "làm sao biết mình lại với quỷ kia chứ?"

      Và khi tôi đề nghị cứ xem xét trường hợp cách thông thường ông chỉ lầm bầm. Ngay chiều hôm đó ông kể cho tôi nghe câu chuyện các bạn vừa đọc, nhưng nhất định chịu đưa ra suy luận nào cũng tuyệt nhiên tán đồng bất cứ suy luận nào tôi đưa ra.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :