1. QUY ĐỊNH BOX TRUYỆN SƯU TẦM :

    Đặt Title theo mẫu [Tên truyện] [dấu cách] - [dấu cách] [Tác giả] [Số chương]
    ----•Nội dung cần:
    - Hình minh họa (bìa truyện, hình ảnh,etc,...)
    - Nguồn
    - Tác giả
    - Tên editor +beta
    - Thể loại
    - Số chương
    Đặc biệt chọn canh giữa cho đoạn giới thiệu
    ---- Quy định :
    1. Chỉ đăng những truyện đã có ebook và đã được public trên các trang web khác
    2 . Chỉ nên post truyện đã hoàn đã có eBook.
    3. Trình bày topic truyện khoa học, bôi đen số chương để dễ nhìn
    4 . Cần có trách nhiệm post đến hết truyện. Nếu không thể tiếp tục post liên hệ Ad và Mod

  2. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Gửi Ngài Phillip, với tất cả Tình Yêu [To Sir Phillip, With Love] (Bridgerton #5)-Julia Quinn (22 c)

Thảo luận trong 'Truyện Phương Tây (Sưu Tầm)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. jojolavender

      jojolavender Member

      Bài viết:
      252
      Được thích:
      13
      [​IMG]

      GỬI NGÀI PHILLIP, VỚI TẤT CẢ TÌNH

      Nguyên tác: To Sir Phillip, With Love (Bridgerton #5)

      Tác Giả: Julia Quinn

      Biên dịch: Shane_D

      Thể loại: Historical, Romance

      Nguồn : TVE


      'To Sir Phillip, With love' là quyển thứ năm trong series gia đình nhà Bridgerton. Series có tất cả 8 cuốn, kể về 8 người con trong gia đình, được đặt tên theo thứ tự A, B, C, D, E, F, G, H. Mỗi quyển sách là cuộc hành trình tìm kiếm hạnh phúc của họ, phải lúc nào cũng bằng phẳng, mà là lắm chông gai. Mỗi quyển sách mang cho mình sắc màu. Có khi đó là màu hồng của câu chuyện tựa như cổ tích, cũng với hoàng tử và lọ lem; có khi đó là màu xanh thăm thẳm của bầu trời mà quá phụ trẻ lãng quên; có khi đó là màu rực rỡ của tất cả những bông hoa trong khu vườn ngày ấy…

      "To Sir Phillip, With Love" kể về tình của con thứ 5 nhà Bridgerton - Eloise với Phillip Crane.


      Giới thiệu ngắn của Ms. Shane_D:
      'To Sir Phillip, with Love': Eloise Bridgerton từng bị Colin nghi ngờ là Whistledown [ ra ấy khá chắc về điều đó], khi ngón tay dính đầy những mực, khi thường trốn trong phòng riêng của mình, và khi được hỏi chỉ trả lời là viết thư. Những lá thư cho ai, được gửi đến đâu, cùng câu chuyện của Eloise, bị gọi là già như thế nào? Và hãy xem Phillip, chàng rể duy nhất cho đến lúc này đạt kỷ lục mới so với Simon: bị cả 4 em nhà Bridgerton quay như quay dế, khi Eloise chỉ đơn giản là xách vali trốn khỏi nhà.

      Giới thiệu:

      Phillip Crane, ấn tượng ban đầu, có mọi thứ mà ưa nổi. ràng, khi qua những bức thư tâm tình với chị em trước kia, điều ấy dần dần lộ ra.

      Khuyết điểm đầy ra đó, phải ?

      Và Phillip Crane, đẹp trai quyến rũ đến choáng ngợp, lạnh lùng điềm tĩnh đến ngang tàng, khéo ăn cuốn hút đầy duyên dáng, có cái vẻ khiến mọi phụ nữ dồn mắt về phía mình, phải tay ăn chơi trác táng phóng túng bạt mạng, kiên quyết tránh né hôn nhân, lãnh cảm thờ ơ vờ lạnh nhạt đầy ngạo nghễ.

      .

      Quan tâm nhưng chẳng biết thể , thương nhưng chẳng thể diễn tả thành lời, muốn ôm những thứ quý giá vào vòng tay nhưng chẳng biết cách ôm, muốn giữ lấy nhưng chẳng biết cách giơ tay ra đòi hỏi, muốn khóc muốn gào to muốn thét lên muốn sợ hãi vì chẳng thể làm gì. Mọi thứ cứ dần dần tuột ra xa. Ra khỏi tầm tay. Xa khỏi tầm với.

      Vậy mà, tại sao, Eloise Bridgerton, lại …?

      Giới thiệu về series Bridgerton của Julia Quinn:

      Bridgerton #1: The Duke and I [Công tước và em] - kể về Daphne
      Bridgerton #2: The Viscount Who Loved Me [Tử tước và em] - kể về Anthony
      Bridgerton #3: An Offer From a Gentleman [Nàng Cinderella nhà Bridgerton] - kể về Benedict
      Bridgerton #4: Romancing Mister Bridgerton [ mình ] - kể về Colin
      Bridgerton #5: To Sir Phillip, With Love [Gửi Ngài Phillip, với tất cả Tình ] - kể về Eloise
      Bridgerton #6: When He Was Wicked - kể về Francesca
      Bridgerton #7: It's in His Kiss - kể về Hyacinth
      Bridgerton #8: On The Way to the Wedding [Đường đến đám cưới] - kể về Gregory
      The Bridgertons (The 2nd Epilogues): Happily Ever After [Hạnh phúc mãi mãi về sau]


      Last edited: 28/11/15

    2. jojolavender

      jojolavender Member

      Bài viết:
      252
      Được thích:
      13
      MỞ ĐẦU

      Tháng Hai năm 1823.
      Gloucestershire, Quốc.

      Mỉa mai làm sao, thế, chuyện ấy xảy ra vào ngày đầy nắng.

      Ngày nắng đầu tiên trong, gì nhỉ – sáu tuần bầu trời xám xịt liên tục, cùng là những đợt tuyết rơi rải rác, hay thỉnh thoảng là lác đác cơn mưa? Ngay cả khi Phillip, nghĩ rằng chính bản thân trơ ra trước thói đỏng đảnh thất thường của thời tiết, cảm thấy tinh thần thư thái hơn, và nụ cười trở nên tươi rói. ra ngoài – phải thế. ai có thể ở lại trong nhà suốt ngày nắng rực rỡ huy hoàng đến vậy.

      Đặc biệt là giữa mùa đông xám ngoét.

      Ngay cả bây giờ, hơn tháng sau ngày hôm ấy, thể nào tin được mặt trời lại có thể táo bạo trêu chọc lần nữa.

      Và làm sao có thể mù quáng trông mong vào việc ấy? sống với Marina từ lúc họ kết hôn. Tám năm dài ròng rã để biết về người phụ nữ. nên mong đợi mới phải. Và

      Chà, là, mong đợi nó. chỉ muốn thú nhận niềm trông mong. Có lẽ chỉ cố lừa dối bản thân, thậm chí tự bảo vệ chính . Để giấu khỏi hiển nhiên, hy vọng là nếu nghĩ, nó bao giờ xảy ra.

      Nhưng chuyện đó xảy ra. Và vào ngày đầy nắng. Chúa hẳn phải có khả năng hài hước chán ghét.

      cúi xuống nhìn ly whiskey, chẳng hiểu sao, cạn sạch. chắc phải nốc cái thứ chết dẫm này, vậy nhưng có bất kỳ ký ức nào về việc làm đó. cảm thấy chuếnh choáng, ít nhất chuếnh choáng như nên phải thế. Hay chuếnh choáng như muốn.

      chằm chằm nhìn ra ngoài cửa sổ, nơi mặt trời ở phía chân mây. Đây phải là ngày ngập tràn ánh nắng khác. Đó dường như giải thích được tâm trạng ngoại lệ ủ ê của . Ít nhất hy vọng thế. muốn lời giải thích, cần cắt nghĩa, cho chán chường tồi tệ dường như tiếp nối. sầu muộn làm kinh hãi .

      Hơn bất cứ thứ gì khác. Hơn cả lửa, hơn cả chiến tranh, hơn cả bản thân địa ngục. Ý nghĩ nhúng chìm trong buồn bã, của việc giống như

      Marina luôn luôn sầu muộn. Marina dành cả quãng đời , hay ít nhất cả quãng đời biết, sầu muộn. thể nhớ thanh tiếng cười , và là, chắc có bao giờ biết nó.

      Đây là ngày đầy nắng, và – nhắm chặt mắt lại, dù chắc cử chỉ ấy có nghĩa thúc giục ký ức hay xua nó . Đó là ngày đầy nắng, và…



      bao giờ mày cảm thấy da mày giống như thế này lần nữa sao, hả, Ngài Phillip?”

      Phillip Crane quay về phía mặt trời, khép mắt lại khi để ấm áp trải ra da . “ hoàn hảo.” lầm bầm. “Hay nó như thế, nếu lạnh đến chết được.”

      Miles Carter, thư kí của , tặc lưỡi. “ lạnh đến thế đâu. Mặt hồ đóng băng năm nay. Chỉ có vài chỗ loang lổ.”

      Miễn cưỡng, Phillip quay ra khỏi ánh nắng và mở mắt. “Dù vậy, đây phải mùa xuân.”

      “Nếu ngài mong ước mùa xuân, thưa ngài, có lẽ ngài nên xem lịch hơn.”

      Phillip lườm xéo cậu ta. “Tôi trả lương cho cậu vì xấc láo này?”

      thế. Và cũng vì tôi khá đẹp trai nữa.”

      Phillip tự mỉm cười với bản thân, khi cả hai người đàn ông dừng lại để tận hưởng ánh nắng trong lúc lâu.

      “Tôi nghĩ ngài bận tâm đến vẻ xám xịt.” Miles trò chuyện, khi họ tiếp tục di chuyển đến nhà kính của Phillip.

      “Đúng vậy.” Phillip , sải bước tiến về phía trước với vẻ tự tin của vận động viên bẩm sinh. “Nhưng chỉ bởi vì tôi phiền về bầu trời đầy mây, có nghĩa là tôi thích mặt trời.” dừng lại, suy nghĩ trong thoáng. “Hãy đảm bảo là với bảo mẫu Millsby dẫn bọn trẻ ra ngoài vào hôm nay. Chúng cần những chiếc áo choàng ấm áp, dĩ nhiên thế, và những chiếc mũ, găng tay, cùng những thứ tương tự, nhưng chúng cần nhận tý ánh nắng mặt trời. Chúng bị giam chân quá lâu rồi.”

      “Tất cả chúng ta đều thế.” Miles lẩm bẩm.

      Phillip tặc lưỡi. “ vậy.” liếc qua vai về phía nhà kính. lẽ ra phải nên xem xét đến thư từ bây giờ, nhưng có vài hạt giống cần phân loại, và thực lòng, có lý do gì thể hướng dẫn công việc của mình với Miles chỉ trong giờ hay cỡ đó. “ tiếp .” với Miles. “Tìm bảo mẫu Millsby. Cậu và tôi có thể bàn chuyện sau. Dù sao cậu cũng biết là cậu ghét nhà kính.”

      phải mùa này trong năm.” Miles . “Sức nóng đáng được chào đón.”

      Phillip cong bên mày khi nghiêng đầu về phía Romney Hall. “Cậu gọi căn nhà tổ tiên của tôi là đầy gió lùa?”

      “Tất cả những căn nhà do tổ tiên để lại đều đầy gió lùa.”

      “Vừa đúng.” Phillip với nụ cười toe toét. khá thích Miles. thuê cậu ấy sáu tháng trước, để giúp đỡ núi công việc giấy tờ cùng cả đống chi tiết, mà có vẻ như chất chồng từ việc điều hành gia sản nho của . Miles khá tuyệt vời. Trẻ tuổi, nhưng giỏi giang. Và tính hài hước tỉnh khô của cậu ấy hoàn toàn được chào đón ở đây, nơi tiếng cười chẳng bao giờ dư dả. Những người hầu bao giờ dám đùa giỡn với Phillip, và Marina… à , chẳng cần ra việc Marina bao giờ cười đùa hay trêu ghẹo.

      Lũ trẻ đôi khi khiến Phillip bật cười, nhưng đó là kiểu hài hước khác, và hơn nữa, phần lớn thời gian biết phải gì với chúng. cố, nhưng rồi cảm thấy quá ngại ngùng, quá to lớn, quá mạnh mẽ, để việc như thế có thể xảy ra. Và rồi chỉ thấy chính mình xuỵt chúng , rằng chúng hãy trở lại với bà bảo mẫu.

      Đó là cách dễ dàng hơn.

      “Vậy, .” Phillip , đưa cho Miles cầu mà lẽ ra nên tự mình làm. thấy con hôm nay, và tin rằng nên thế, nhưng muốn phá hủy ngày bằng cách gì đó nghiêm khắc, điều mà chắc chắn làm.

      tìm chúng khi chúng dạo với bảo mẫu Millsby. Đó là ý hay. Sau đó có thể hướng chú ý của chúng tới vài loại cây và về nó, và mọi chuyện trở nên đơn giản, hoàn hảo và tốt lành.

      Phillip bước vào nhà kính và đóng cửa lại sau , hít vào hơi chào đón. học về thực vật học ở Cambridge, đứng đầu lớp, và , có thể tiếp tục quãng đời học tập của mình, nếu trai qua đời ở Waterloo, đẩy đứa con thứ là Phillip đây vào vai trò của địa chủ và quý ngài dân dã.

      cho là nó có thể tệ hơn. Cuối cùng, có thể trở thành người địa chủ và quý ngài thành thị. Ít nhất, có thể đeo đuổi nghề nghiệp về những loài thực vật của mình trong thanh thản thích hợp.

      cong người qua chiếc bàn thợ mộc của mình, kiểm tra công trình mới nhất – những hạt đậu mơn mởn mà cố gây giống, để chúng trở nên mập mạp và căng phồng hơn trong vỏ. Lô mới nhất này chỉ nhăn nhúm lại, mà thậm chí còn biến thành màu vàng, sau cùng phải là kết quả được trông đợi.

      Phillip cau mày, rồi cho phép bản thân khẽ mỉm cười khi di chuyển đến góc nhà kính, để tập hợp những nguồn dự trữ lại. chưa bao giờ quá kinh hãi bận lòng, khi những cuộc thử nghiệm của đạt được như mong muốn. Theo ý kiến , cái khó bao giờ cũng ló cái khôn.

      Những rủi ro. Tất cả là về những rủi ro. nhà khoa học nào thừa nhận nó, dĩ nhiên, nhưng phần lớn các phát minh vĩ đại chợt lóe lên, trong khi người cố gắng giải quyết vấn đề hoàn toàn khác.

      cười lặng lẽ khi đặt những hạt đậu nhăn nhúm lại sang bên. Với tỷ lệ này, chữa khỏi cho chúng vào cuối năm.

      Trở lại công việc. Trở lại công việc. chồm qua bộ sưu tập hạt giống của , dàn chúng ra để có thể kiểm tra tất cả. chỉ cần hạt bên phải cho–

      ngước lên và nhìn qua tấm kính mới được rửa sạch. chuyển động qua khu đất đập vào mắt . ánh chớp đỏ.

      Đỏ. Phillip tự mỉm cười với bản thân khi lắc đầu. Đó phải là Marina. Đỏ là màu thích của , cái gì đó khiến luôn cảm thấy kỳ lạ. Bất cứ ai trải qua bất kỳ thời gian nào với , chắc chắn nghĩ rằng ưa thích sắc màu tối hơn, ảm đạm hơn.

      quan sát biến mất vào trong những bụi cây , rồi trở lại với công việc. Hiếm khi Marina mạo hiểm ra ngoài. Những ngày này thường rời khỏi nơi giam cầm trong phòng ngủ. Phillip sung sướng khi thấy ngoài ánh nắng mặt trời. Có thể nó hồi phục lại tinh thần . hoàn toàn, tất nhiên thế. Phillip thậm chí nghĩ ánh nắng có khả năng làm việc đó. Nhưng có thể ngày tươi sáng, ấm áp đủ kéo ra ngoài vài giờ, mang lại nụ cười bé gương mặt .

      Chúa biết bọn trẻ có thể cần điều ấy. Chúng thăm mẹ hầu hết ở trong phòng vào mỗi buổi sáng, nhưng thế vẫn chưa đủ.

      Và Phillip biết thiếu hụt ấy thể bù đắp được.

      thở dài, cơn sóng tội lỗi dâng lên. phải là người cha chúng cần, biết điều đó. cố tự với bản thân cố hết sức, rằng tiến tới thành công trong những mục đích duy nhất của đời là làm bậc cha mẹ tốt – rằng cư xử như cha .

      Nhưng dù vậy, biết thế vẫn chưa đủ.

      Với những dáng điệu kiên quyết, tự đẩy bản thân ra khỏi chiếc bàn thợ mộc của mình. Những giống cây có thể đợi. Các con cũng có thể đợi, nhưng có nghĩa là chúng cần thế. Và nên để chúng lại với buổi dạo, phải bảo mẫu Millsby, người biết cành rụng từ cây tùng bách, và gần như chắc với chúng rằng hoa hồng là hoa cúc, và…

      liếc qua ngoài cửa sổ lần nữa, tự nhắc bản thân bây giờ là tháng Hai. Bảo mẫu Millsby giống như định vị được bất cứ loại hoa nào trong thời tiết thế này, nhưng dù sao, điều ấy phải là cái cớ cho việc nên để cho bọn trẻ dạo. Đấy là trong những hoạt động của trẻ con mà thực nổi trội, và nên né tránh trách nhiệm.

      sải bước ra khỏi nhà kính, nhưng rồi dừng hẳn, khi chưa đến phần ba đường trở lại Romney Hall. Nếu làm bọn trẻ vui thích, nên để chúng gặp mẹ. Chúng khát khao ở bên , dù ngay cả khi làm gì hơn là vỗ vỗ vào đầu chúng. Phải, chúng tìm Marina. Điều đó thậm chí nghe có ích hơn là buổi dạo ngoài trời.

      Nhưng từ kinh nghiệm của mình, biết nên để tâm trạng Marina dính vào việc ấy. Chỉ bởi vì liều lĩnh ra ngoài, có nghĩa là cảm thấy tốt. Và ghét việc để bọn trẻ thấy trong tâm trạng ủ ê.

      Phillip quay lại và hướng về phía bụi cây, nơi Marina biết mất vài lúc trước. nhanh gấp hai lần so với Marina, nên lâu nữa bắt kịp , và xác định được tâm trạng bây giờ. có thể trở lại chỗ phòng bọn trẻ, trước khi để chúng bắt đầu lên đường với bảo mẫu Millsby.

      xuyên qua những bụi cây, dễ dàng theo dấu vết của Marina. Mặt đất ẩm ướt, và Marina hẳn mang đôi bốt nặng nề, vì dấu chân in mặt đất khá ràng. Chúng dẫn xuống con đường dốc và ra khỏi những bụi cây, sau đó là con đường đầy cỏ.

      “Chết tiệt.” Phillip lầm bầm, thanh chỉ vừa đủ để nghe thấy khi cơn gió thổi qua . thể nào thấy được dấu chân cỏ. dùng tay để che cho khỏi chói, và lướt mắt về phía xa, tìm kiếm dấu hiệu đỏ chỉ dẫn.

      ở gần chòi nhà tranh bỏ hoang, ở cánh đồng nơi Phillip dùng cho những cuộc thử nghiệm giống cây, ở tảng đá lớn Phillip trải qua nhiều giờ leo trèo thuở còn . quay về phía bắc, đôi mắt nheo lại khi cuối cùng thấy . thẳng hướng đến mặt hồ.

      Mặt hồ.

      Môi Phillip há ra khi chăm chăm nhìn vào dáng , di chuyển chậm rại đến mép nước. hoàn toàn đông cứng; ra còn hơn cả thế, … đờ ra… khi tâm trí nhá lên tia sáng lạ lùng. Marina biết bơi. thậm chí biết nếu có thể. cho là vừa nhận thức được có cái hồ ở khu đất đó, chưa lần nào thấy đến đó, chưa lần trong tám năm trời họ lấy nhau. bắt đầu bước về phía , bằng cách nào đó, những bước chân chấp nhận điều mà tâm trí từ chối. Khi bước xuống dòng nước cạn, bắt đầu tăng tốc, dù vẫn còn quá xa để làm bất cứ việc gì ngoài thét gọi tên .

      Nhưng nếu nghe thấy , chẳng biểu lộ gì, vẫn tiếp tục những bước chậm rãi và vững vàng ra sâu hơn.

      “Marina!” thét gọi, bắt đầu chạy thục mạng. vẫn còn cách khoảng lúc ngắn nữa, thậm chí là với vận tốc tối đa của . “Marina!”

      tới nơi đáy hồ tụt xuống, và cũng hụt chân mất dạng, biến mất dưới mặt nước xám não lòng, chiếc áo choàng đỏ nơi trôi bập bềnh mặt nước vài giây, trước khi cùng mất hút.

      thét gọi tên lần nữa, dù thể nghe. phanh lại và ngã nhào xuống con dốc dẫn đến mặt hồ, rồi tâm trí chỉ kịp nhận ra việc giật mạnh áo choàng và đôi bốt, trước khi lặn xuống dòng nước lạnh lẽo giá băng. chìm chưa tới phút; tâm trí nhận ra chắc chắn chừng ấy thời gian đủ để làm chết đuối, nhưng cứ mỗi giây trôi qua cho việc tìm kiếm , là thêm giây nữa dẫn đến cái chết.

      bơi lội trong hồ nhiều lần đếm hết, biết chính xác nơi đáy sâu, và với tới nơi mấu chốt ấy cách nhanh chóng, chỉ vừa vặn chú ý đến những trang phục nặng nề của bị dòng nước ngáng đường.

      có thể tìm thấy . phải tìm thấy .

      Trước khi quá trễ.

      lặn xuống, lướt mắt qua dòng nước tối mù. Marina hẳn phải đá tung vào vài đụn cát dưới đáy hồ, và chắc chắn làm điều tương tự, vì cát xoay vần xung quanh , những đám cát mờ đục quấy tung lên, khiến việc nhìn thấy trở nên khó khăn.

      Nhưng cuối cùng, Marina được cứu bởi thói quen về màu sắc sặc sỡ của . Khi Phillip xuyên qua dòng nước, xuống dưới tận đáy, nơi trông thấy màu đỏ của áo choàng trôi nổi như con diều uể oải. chống lại khi lôi lên; quả vậy, mất tỉnh táo, và khác gì cơ thể như chết nặng nề trong tay .

      Họ trồi lên mặt nước, và hổn hển thở dữ dội để lắp đầy khí vào hai lá phổi rát bỏng. Trong thoáng, thể làm gì khác hơn ngoài việc hít thở, cơ thể nhận ra phải cứu chính mình trước khi có thể cứu ai khác. Rồi đỡ , cẩn thận để gương mặt mặt nước, dù có vẻ gì là thở.

      Cuối cùng, khi họ đến mép hồ, kéo lên chỗ chật hẹp dơ bẩn nằm giữa dòng nước và bãi cỏ. điên cuồng di chuyển tay kiểm tra xem còn thở , nhưng chẳng có tí dấu hiệu hơi thở nào từ môi .

      biết phải làm gì, chưa từng nghĩ đến việc phải cứu ai đó khỏi chết đuối, nên chỉ đơn giản làm những gì hợp lý nhất, đỡ vào lòng , mặt úp xuống, và vỗ mạnh vào lưng . Lúc đầu chẳng có gì xảy ra, nhưng sau lần vỗ đầy mạnh bạo vào lần thứ tư, ho sặc sụa, rồi sặc ra dòng nước đen lòm.

      nhanh chóng quay lại. “Marina?” vội vã hỏi, vỗ vào mặt . “Marina?”

      ho lần nữa, cả cơ thể chấn động bởi những cơn rùng mình liên tục. Rồi bắt đầu thở hộc tốc, hai lá phổi buộc phải sống, thậm chí ngay cả khi tâm trí khát khao điều gì khác.

      “Marina.” Phillip , giọng nhõm. “Cám ơn Chúa.” , chẳng bao giờ thực , nhưng là vợ , là mẹ các con , và trong tận nơi sâu thẳm bên dưới cái vẻ ngoài sầu thảm và tuyệt vọng khủng khiếp kia, người tốt bụng, tử tế. có thể , nhưng muốn chết.

      chớp mắt, trông tập trung. Và rồi, cuối cùng, như nhận ra ở đâu, là ai, và thào. “.”

      đến đưa em về nhà.” cộc cằn , giật mình trước từng chữ đầy giận dữ.

      .

      Sao dám chối bỏ giúp đỡ của ? Có phải từ bỏ cuộc sống này chỉ vì buồn bã? u sầu của phải chăng nhiều hơn của các con? Trong cuộc sống đầy bấp bênh, có phải, tâm trạng đớn đau quan trọng hơn việc chúng cần người mẹ?

      đưa em về nhà.” quạu quọ, nhấc vào vòng tay chẳng chút nhàng. Giờ thở, và ràng suy nghĩ, có thể lạc lối trong cái mớ hỗn độn ấy cũng nên. có gì cần thiết để đối xử với như bông hoa mảnh khảnh.

      .” lặng lẽ khóc. “Làm ơn đừng làm thế. Em muốn… Em …”

      “Em về nhà.” lên tiếng, lê bước lên ngọn đồi, lờ cơn gió lạnh buốt biến bộ đồ ướt đẫm của thành băng; thậm chí lờ cả những cục đất cứng như đá đè dưới đôi chân trần .

      “Em thể.” thầm, như đó là những gì năng lượng ít ỏi của còn sót lại.

      Và khi Phillip nặng nhọc bế về nhà, tất cả những gì có thể nghĩ là, làm sao những lời như ấy lại đúng đắn đến thế.

      Em thể.

      Bằng cách đó, nó như tổng kết cả cuộc đời .

      Lúc chập tối, mọi việc trở nên ràng rằng cơn cảm cúm có thể thành công, thay cho tất bại nơi mặt hồ.

      Phillip bế Marina về nhà nhanh nhất có thể, và, với giúp sức của Bà Hurley, quản gia của , thay những bộ quần áo lạnh ngắt ra khỏi , cố gắng làm ấm lên dưới tấm chăn phần của những món đồ tư trang mà mang về nhà chồng tám năm trước.

      "Chuyện gì xảy ra?" Bà Hurley thở dốc, khi sải bước qua cánh cửa nhà bếp. muốn dùng cửa chính, nơi có thể bị các con trông thấy, và bên cạnh đó, cánh cửa nhà bếp gần hơn tới hai mươi mét.

      " ấy ngã xuống hồ." thô lỗ .

      Bà Hurley hiểu bằng cách nào nhìn vừa có vẻ nghi ngờ, vừa có vẻ cảm thông cùng lúc, và biết bà ấy biết . Bà làm việc cho gia đình nhà Crane từ đám cưới của họ, bà biết tâm trạng của Marina.

      Bà xua ra khỏi phòng khi họ đặt Marina lên giường, nhấn mạnh rằng cần thay quần áo của chính , trước khi cũng bị cái chết chộp lấy. Dù vậy, vẫn quay lại bên cạnh Marina. Đó là vị trí của khi là chồng , tội lỗi nghĩ, vị trí mà lẩn tránh trong suốt những năm gần đây.

      là chán nản khi bên cạnh Marina. Rất khó khăn.

      Nhưng bây giờ phải là lúc để lẩn tránh trách nhiệm, vậy nên ngồi cạnh suốt cả ngày lẫn đêm. lau trán khi bắt đầu đổ mồ hôi, cố gắng để thờ ơ giúp uống nước khi tỉnh táo.

      với phải chiến đấu, ngay cả khi biết những lời của trôi tuột ra khỏi tai .

      Ba ngày sau qua đời.

      Đó là những gì muốn, nhưng chỉ có chút an ủi khi Phillip đối mặt với con , hai đứa sinh đôi, chỉ vừa mới bước qua tuổi lên bảy, và cố gắng giải thích mẹ chúng mất. ngồi trong phòng riêng của chúng, thân hình to lớn của quá khổ so với bất kỳ chiếc ghế với kích cỡ bé tẹo trong phòng. Nhưng dù vậy vẫn ngồi xuống, vặn vẹo, và bắt chính nhìn vào cái nhìn chú tâm nơi chúng khi những lời ấy được phát ra.

      Bọn trẻ ít thôi, chẳng giống chúng tí nào. Nhưng chúng trông có vẻ gì là ngạc nhiên, khiến Phillip lo lắng.

      "Cha – cha xin lỗi." lên tiếng, khi kết thúc những gì cần phải . các con rất nhiều, và có thôi là thiếu hụt với chúng. chỉ biết vừa đủ làm thế nào để trở thành người cha; làm thế quái nào có thể đảm đương cả vai trò của người mẹ?

      "Đó phải lỗi của cha." Oliver , đôi mắt nâu của thằng bé đầy bối rối. "Mẹ ngã xuống hồ mà, phải ? Đâu phải cha đẩy mẹ."

      Phillip chỉ gật đầu, chắc phải trả lời ra sao.

      "Bây giờ mẹ có hạnh phúc ?" Amanda nhàng hỏi.

      "Cha nghĩ là có." Phillip . "Mẹ có thể quan sát suốt quãng thời gian còn lại của các con thiên đường, nên mẹ phải hạnh phúc."

      Hai đứa sinh đôi trông có vẻ ngẫm nghĩ về những lời ấy trong lúc. "Con hy vọng mẹ hạnh phúc." Cuối cùng Oliver , giọng thằng bé cương quyết hơn vẻ ngoài. "Có lẽ mẹ khóc nữa."

      Phillip cảm thấy hơi thở nghẹn lại trong họng . nhận ra bọn trẻ nghe được những lần Marina khóc. chỉ ngập trong nước mắt, khóc rất vào buổi đêm muộn, và phòng chúng ngay phòng , nhưng luôn chắc rằng hai đứa ngủ khi mẹ chúng bắt đầu khóc lóc.

      Amada gật đầu đồng ý, mái tóc vàng óng của con bé lắc lư theo nhịp. "Nếu giờ mẹ hạnh phúc," con bé , " con mừng là mẹ ."

      "Mẹ ." Oliver xen ngang. "Mẹ chết."

      ", mẹ xa." Amanda khăng khăng.

      "Như nhau cả thôi." Phillip thẳng thừng , ước chi có gì để với chúng hơn . "Nhưng cha nghĩ tại mẹ hạnh phúc."

      Và bằng cách nào đó, điều ấy cũng là . Sau cùng, đó là những gì Marina muốn. Có lẽ đó là tất cả những gì muốn trong suốt quãng thời gian dài.

      Amanda và Oliver im lặng trong lúc lâu, cả hai đều dán mắt xuống nền nhà khi chân chúng đu đưa đá giường Oliver. Trông chúng quá bé, ngồi đấy cái giường ràng là quá cao. Phillip cau mày. Sao lại chưa bao giờ chú ý đến việc ấy trước kia. phải chúng nên ngủ những chiếc giường thấp hơn? Chuyện gì xảy ra nếu chúng ngã khỏi giường vào đêm tối?

      Hay có lẽ chúng lớn cho tất cả những việc đó. Có lẽ chúng còn ngã khỏi giường nữa. Có lẽ chưa bao giờ chúng như thế.

      Có thể người cha tồi tệ. Có thể nên biết những thứ ấy.

      Có lẽ... có lẽ... nhắm mắt lại và thở dài. Có lẽ nên dừng suy nghĩ nhiều vào những thứ như thế, và đơn giản cố gắng hết sức rồi sống hạnh phúc với nó.

      "Cha sao?" Amanda hỏi, ngẩng đầu lên.

      nhìn vào đôi mắt con, quá đỗi xanh, xanh như màu mắt Marina. "." thầm quả quyết, khụy xuống và nắm lấy đôi bàn tay tý hon. Đôi bàn tay ấy quá bé, mỏng manh trong bàn tay .

      "." nhắc lại. "Cha đâu. Cha bao giờ đâu..."

      ...

      Phillip nhìn xuống ly whiskey của mình. Nó lại trống rỗng lần nữa. Buồn cười làm sao ly whiskey lại có thể vơi , ngay cả sau khi nó được đổ đầy bốn lần trước.

      ghét việc hồi tưởng. chắc cái gì là tệ nhất. Là lúc ngập lặn dưới dòng nước, hay thời khắc lúc Bà Hurley quay sang . "Có phải bà ấy ra ?"

      Hay đó là các con , đau đớn gương mặt, nỗi sợ hãi trong mắt chúng?

      nâng ly rượu lên môi, để những giọt cuối cùng chảy vào miệng. Phần tệ nhất chắc chắn là hai đứa con . bao giờ rời bỏ chúng, và làm vậy – làm vậy – nhưng diện của đơn giản là đủ. Chúng cần nhiều hơn nữa. Chúng cần ai đó biết cách làm thế nào để trở thành bậc cha mẹ, ai đó biết cách làm thế nào để chuyện với chúng, biết thấu hiểu và dạy chúng xử , nghĩ suy.

      Và vì thể cho chúng người cha khác, cho là nên nghĩ đến việc tìm cho chúng người mẹ. Dĩ nhiên, như thế này là quá sớm. thể cưới bất kỳ ai, cho đến khi thời kỳ để tang hợp pháp hoàn tất, nhưng điều đó có nghĩa là thể tìm kiếm.

      thở dài, lún sâu vào chỗ ngồi. cần người vợ. Gần như có thể là bất cứ người vợ nào. chẳng để tâm trông ra sao. cóc quan tâm nếu có tiền của. thèm bận tâm nếu có thể tính nhẩm trong đầu, hay tiếng Pháp, hoặc thậm chí có thể cưỡi ngựa.

      Chỉ cần đơn giản là hạnh phúc.

      Chừng ấy có quá nhiều cho việc mong muốn người vợ? nụ cười, ít nhất lần ngày. Có lẽ thậm chí chỉ thanh tiếng cười ?

      phải thương các con . Hay ít nhất giả vờ thương tốt đến mức, chúng nhận ra khác biệt.

      Chừng ấy đâu là quá nhiều, phải ?

      "Ngài Phillip?"

      Phillip ngẩng lên nhìn, tự nguyền rủa bản thân vì để cánh cửa phòng làm việc khép hờ. Miles Carter, thư ký của , thò đầu vào.

      "Chuyện gì vậy?"

      " lá thư, thưa ngài." Miles , bước tới trước và đưa cho lá thư. "Từ London."

      Phillip nhìn xuống lá thư trong tay , đôi mày nhướng lên trước nét chữ nghiêng nghiêng ràng đầy nữ tính. đuổi Miles với cái gật đầu, rồi cầm lá thư lên và mở nó ra khỏi lớp sáp ong. mảnh giấy rơi ra. Phillip nắm chặt nó giữa những ngón tay. Tờ giấy thượng hạng. Mắc tiền. Cũng nặng nữa, dấu hiệu ràng người gửi cần tiết kiệm để giảm giá bưu phí.

      Rồi quay lá thư lại và đọc:

      Số 5, đường Bruton.
      London

      Ngài Phillip Crane,

      Tôi viết thư này để biểu lộ lời chia buồn trước ra của vợ ngài, người chị họ Marina quý của tôi. Tuy nhiều năm kể từ lần cuối tôi gặp Marina, tôi vẫn còn nhớ vẻ trìu mến của chị và đau buồn sâu sắc trước ra ấy.

      Xin đừng ngần ngại hồi , nếu có bất cứ thứ gì tôi có thể làm được để xoa dịu nỗi đau trong thời điểm khó khăn này.

      Kính thư,
      Quý Eloise Bridgerton.

      Phillip chà mắt. Bridgerton... Bridgerton... Marina có những người họ hàng với Bridgerton? hẳn phải thế, nếu người trong số họ gửi cho lá thư.

      thở dài, rồi ngạc nhiên với chính bản thân khi với qua đống đồ bàn và lấy cây viết lông ngỗng. gần như nhận được lời chia buồn nào kể từ khi Marina mất. Có lẽ phần lớn bạn bè và gia đình lãng quên , từ sau đám cưới của họ. cho là nên ngạc nhiên, hay thậm chí ngạc nhiên. hiếm khi rời khỏi phòng; quá dễ dàng để ai đó quên lãng người bao giờ họ trông thấy.

      Bridgerton xứng đáng với bức thư hồi . Đó là cử chỉ lịch thông thường, hay ngay cả khi phải thế (và Phillip khá chắc biết đầy đủ các phép tắc xã giao về việc mất vợ của người xa lạ), bằng cách nào đó, đây vẫn có vẻ như là điều đúng đắn cần làm.

      Vậy nên, với hơi thở mỏi mệt, đặt cây bút lông ngỗng xuống tờ giấy.

    3. jojolavender

      jojolavender Member

      Bài viết:
      252
      Được thích:
      13
      CHƯƠNG 1

      Tháng Năm năm 1824.
      Nơi nào đó đường từ London
      đến Gloucestershire.
      Nửa đêm.

      Bridgerton thân mến,

      Cám ơn lưu ý tử tế nơi trước qua đời của vợ tôi. là chu đáo khi bỏ thời gian để viết cho quý ông chưa từng gặp mặt. Tôi tặng bông hoa được ép khô này như lời cám ơn. Nó là gì cả ngoài loài hoa Campion với màu đỏ giản đơn, nhưng tỏa sáng rực rỡ cánh đồng nơi Gloucestershire, và có vẻ như nở sớm vào năm nay. Đây là loài hoa dại thích của Marina.

      Thân,
      Ngài Phillip Crane.

      Eloise Bridgerton vuốt mảnh giấy trong lòng bàn tay. Chỉ có chút ánh sáng để có thể trông thấy những con chữ, dù cho là với ánh sáng của mặt trăng tròn vành vạnh, len lỏi qua những khung cửa sổ xe ngựa, nhưng việc ấy chẳng là vấn đề. nhớ cả nội dung bức thư, và cả bông hoa ép thanh nhã, thực là có màu hồng nhiều hơn màu đỏ, được an toàn bảo vệ kẹp giữa những trang sách trong thư viện của trai .

      ngạc nhiên chết khiếp khi nhận được bức thư hồi từ Ngài Phillip. Những cách cư xử lịch thiệp thể được rất nhiều, thậm chí ngay cả khi mẹ Eloise, ràng là thẩm phán tối cao của những hành vi chuẩn mực, rằng Eloise quan tâm quá mức nghiêm túc tới những quan hệ thư từ có.

      Điều ấy là thông thường thôi, dĩ nhiên, với vị trí của Eloise khi dành nhiều giờ trong mỗi tuần cho việc viết các bức thư, nhưng Eloise mắc kẹt rất lâu vào thói quen trò chuyện mỗi ngày. tận hưởng việc viết những ghi chép, đặc biệt là với những ai chưa gặp mặt trong nhiều năm ( luôn thích tưởng tượng vẻ ngạc nhiên của họ khi mở thư ), và vì vậy đặt bút xuống giấy cho hầu hết bất cứ kiện nào – những ngày chúc mừng sinh nở, những ngày buồn đau qua đời mất mát, bất cứ ngày nào có thể cần những lời chúc mừng hay chia sẻ.

      chắc tại sao lại tiếp tục gửi những lá thư ấy, chỉ là dành nhiều thời gian viết những lá thư cho bất kỳ những chị em ruột nào của mình cùng ở London, và có vẻ như khá dễ dàng để viết lá thư cho vài người họ hàng ở xa, khi ngồi tại bàn viết của mình.

      Và dù cho tất cả mọi người đều viết lại lá thư hồi ngắn – mang họ Bridgerton, đương nhiên, và ai muốn xúc phạm người Bridgerton – chưa bao giờ có ai gửi kèm món quà, dù cho là thứ gì đó khiêm tốn như bông hoa ép khô .

      Eloise nhắm mắt, hình dung ra những cánh hoa màu hồng mảnh khảnh. khó để tưởng tượng người đàn ông chăm sóc thứ như bông hoa dễ vỡ. Cả bốn em trai của đều to lớn, những con người khỏe mạnh, với đôi vai rộng và hai bàn tay to lớn, chắc chắn là bóp nát những thứ tội nghiệp ngay tức khắc.

      thích thú trước lá thư trả lời của Ngài Phillip, đặc biệt là cách sử dụng tiếng Latin, và ngay lập tức đặt bút xuống viết lá thư trả lời khác.


      Thân gửi Ngài Phillip,

      Cám ơn ngài rất nhiều vì bông hoa ép khô vô cùng quyến rũ. ngạc nhiên đáng khi nó được đặt bức thư. Và cũng là kỷ niệm quý báu với Marina dấu.

      Tôi thể chú ý đến trôi chảy của ngài với tên khoa học của loài hoa. Có phải, ngài là nhà thực vật học?

      Kính thư,
      Quý Eloise Bridgerton.

      Có lẽ được minh bạch khi kết thúc lá thư với câu hỏi. Giờ người đàn ông tội nghiệp bị buộc phải trả lời lần nữa.

      làm thất vọng. Chỉ mất mười ngày cho Eloise nhận thư trả lời của .


      Bridgerton thân mến,

      Tôi quả nhà thực vật học, được đào tạo tại Cambridge, dù thời tôi chuyển tiếp lên bất kỳ trường chuyên sâu hay ủy ban khoa học nào. Tôi quản lý những cuộc thí nghiệm tại Romeny Hall này, trong khu nhà kính của chính tôi. Có phải cũng có sở thích về khoa học?

      Kính thư,
      Ngài Phillip Crane.

      Có gì đó xúc động với những lá thư; có lẽ đơn giản là do hấp dẫn tìm hiểu người liên hệ với , người thực có vẻ như háo hức trò chuyện trong cuộc đối thoại được viết ra. Bất kể đó là gì, Eloise ngay lập tức trả lời.


      Thân gửi Ngài Phillip,

      Chúa ơi, , tôi có trí óc của nhà khoa học, tôi e là thế, dù tôi có khả năng tính toán hơn những với mái đầu vàng hoe. Những sở thích của tôi dựa vào những thứ nhân văn hơn nhiều; ngài có thể chú ý rằng tôi thích viết thư.

      Bạn ngài,
      Eloise Bridgerton.

      Eloise chắc về việc ký tên với lời chào thân mật như thế, nhưng quyết định phạm vào ranh giới táo bạo đó. Ngài Phillip ràng thích thú với những lá thư nhiều như ; nếu , chắc kết thúc kết thúc bức thư cũng với câu hỏi?

      Câu trả lời của đến vào hai tuần sau.


      Bridgerton thân mến của tôi,

      À, nhưng đây đâu phải là loại tình bạn chứ, phải ? Tôi phải thú nhận hoàn toàn cách ly tại nơi thôn quê này, và nếu người thể mỉm cười với người khác bàn ăn sáng, họ ít nhất có thể có lá thư đáng . có đồng ý ?

      Tôi gửi kèm cho bông hoa khác. Lần này là hoa Phong lữ Pratense, thường được biết đến như cây mỏ hạc đồng cỏ.

      Với lời chúc tốt đẹp nhất,
      Phillip Crane.

      Eloise nhớ ngày đó rất . ngồi chiếc ghế gần nơi cửa sổ phòng, và lom lom nhìn vào bông hoa màu tím được ép khô cẩn thận, như vật bất tử. có phải ve vãn ? Qua lá thư ấy?

      Và rồi ngày, nhận được lá thư hoàn toàn khác với những thư trước.


      Bridgerton thân mến của tôi,

      Giờ chúng ta qua lại thư từ với nhau được khoảng thời gian, và dù chúng ta chưa lần gặp gỡ chính thức, tôi cảm giác như biết . Hy vọng cũng cảm thấy giống thế.

      Tha lỗi cho tôi nếu tôi quá trơ trẽn, nhưng tôi viết thư này để mời đến đây thăm tôi tại Romney Hall. Đó là hy vọng nơi tôi, sau khoảng thời gian thích hợp, chúng ta có thể quyết định hai ta có thể hợp nhau, và ưng thuận làm vợ tôi.

      , tất nhiên, hoàn toàn có người kèm. Nếu chấp nhận lời mời của tôi, tôi ngay tức khắc lập kế hoạch để đưa người dì góa của tôi đến Romney Hall.

      Tôi hy vọng cân nhắc về lời đề nghị của tôi.

      Kính thư, như thường lệ,
      Phillip Crane.

      Eloise liền giấu ngay bức thư vào ngăn kéo, thậm chí thể tìm hiểu lời thỉnh cầu của . muốn cưới người mà hề biết?

      , thực lòng mà , điều ấy hoàn toàn đúng. Họ biết nhau. Họ trò chuyện với nhau trong suốt quãng thời gian thư từ năm, nhiều hơn nhiều người chồng và vợ trò chuyện với nhau trong suốt quãng thời gian cuộc hôn nhân.

      Nhưng dù vậy, họ chưa bao giờ gặp nhau.

      Eloise nghĩ về tất cả những lời cầu hôn từ chối trong những năm qua. Khoảng bao nhiêu nhỉ? Ít nhất là sáu. Bây giờ thậm chí thể nhớ được tại sao lại từ chối vài người trong số họ. lý do, thực thế, ngoại trừ việc họ

      Hoàn hảo.

      Như thế có phải là hy vọng quá nhiều?

      lắc đầu, nhận ra mới có vẻ ngốc nghếch và hư hỏng làm sao. , cần ai đó hoàn hảo. chỉ cần ai đó hoàn hảo cho .

      biết những mệnh phụ xã hội gì về . quá đòi hỏi, tệ hơn cả đứa ngốc. kết thúc cuộc đời như già – , họ còn thế nữa. Họ già, điều hoàn toàn đúng. người thể bước tới ngưỡng cửa hai mươi tám mà nghe về những lời xì xầm như thế sau lưng.

      Hay quẳng nó vào mặt ai đó.

      Nhưng nực cười là, Eloise bận tâm đến tình huống của . Hay ít nhất, cho đến gần đây.

      Trong chưa bao giờ lóe lên ý nghĩ mãi là già, và hơn nữa, tận hưởng cuộc sống của mình. gia đình tuyệt diệu nhất mà người có thể tưởng tượng ra – tất cả bảy chị em, được đặt tên theo thứ tự alphabe, và được đặt ngay giữa với mẫu tự E, với bốn chị lớn hơn cùng ba người em tuổi. Mẹ người vui tính, và bà thậm chí dừng cằn nhằn việc kết hôn của Eloise. Eloise vẫn còn chiếm chỗ nổi bật trong giới; và những người nhà Bridgerton khiến mọi người ngưỡng mộ cũng như kính trọng (đôi khi cả sợ hãi), và vẻ tỏa sáng cùng tính tình thẳng thắn của Eloise là thứ mà tất cả tìm kiếm từ bầu bạn của , dù có ở tuổi già hay .

      Nhưng sau đó…

      thở dài, bỗng nhiên cảm thấy có già hơn đôi chút so với cái tuổi hai mươi tám. Sau đó còn cảm thấy tươi vui nữa. Sau đó bắt đầu nghĩ, có lẽ những bà mệnh phụ quái gở đúng, và tìm cho bản thân người chồng nữa. Có lẽ quá kén cá chọn canh, quá kiên quyết theo hình ảnh của những trai và chị em , tất cả đều tìm thấy tình sâu đậm, thiết tha với người bạn đời (dù tình cảm ấy nhất thiết có ngay từ lúc bắt đầu).

      Có thể cuộc hôn nhân dựa tôn trọng lẫn nhau và tình bạn tốt hơn là chẳng có gì.

      Nhưng khó khăn để chuyện trò với bất kỳ ai về những cảm xúc ấy. Mẹ dành quá nhiều thời gian hối thúc tìm người chồng; nhiều cũng như Eloise thương bà, chẳng dễ gì để tranh luận và rằng bà lắng nghe. Các trai chẳng có được tý giúp ích nào. Anthony, cả, chắc chắn giải quyết việc này bằng cách tự chọn lấy người phù hợp, rồi dọa nạt chàng tội nghiệp khuất phục. Benedict là người quá mơ mộng hão huyền, và hơn nữa, ấy còn xuống London, mà thay vào đó là tận hưởng vẻ yên tĩnh nơi thôn quê. Và với Colin – chà, đó hoàn toàn là câu chuyện khác, tin tức khá xứng đáng.

      cho là nên trò chuyện với Daphne, nhưng cứ mỗi lần đến gặp chị mình, người chị lớn nhất của trông hạnh phúc chết được, quá đỗi sung sướng tột cùng trong tình với chồng, và cuộc đời làm mẹ của bốn đứa con. Làm sao người như thế có thể đưa ra lời khuyên hữu ích cho ai đó ở vào vị trí của Eloise? Và Francesca có vẻ cách xa cả nửa vòng trái đất, ở tận nơi Scotland. Hơn nữa, Eloise nghĩ công bằng khi làm phiền em với những phiền muộn ngốc nghếch của . Vì Chúa, Francesca là góa phụ ở tuổi hai mươi ba. Những sợ hãi và lo lắng của Eloise chỉ là những so sánh tầm thường khủng khiếp.

      Và có lẽ tất cả những việc ấy là lý do tại sao mối quan hệ thư từ của với Ngài Phillip, trở thành niềm vui tội lỗi. Bridgerton là gia đình lớn, ồn ào và náo nhiệt. Gần như thể giữ kín bất kỳ bí mật nào, đặc biệt là khỏi em nhất – Hyacinth – người có thể chiến thắng cả Napoleon chỉ trong nửa hiệp, nếu Hoàng đế chỉ cần nghĩ tới việc lôi con bé vào hoạt động do thám.

      Ngài Phillip, bằng cách lạ lùng, là của . Thứ duy nhất chưa bao giờ chia sẻ với bất kỳ ai. Những lá thư gửi được bó lại và cột chặt với sợi dây ruy băng tím, giấu dưới đáy nơi ngăn kéo giữa bàn , kẹp dưới chồng đồ dùng dùng để viết nhiều lá thư khác.

      là bí mật của . Của .

      Và vì chưa bao giờ thực gặp gỡ , chỉ có thể tạo ra trong tâm trí, dùng những lá thư như những khung xương, rồi bổ sung thêm chi tiết thấy phù hợp. Nếu có bao giờ có người hoàn hảo, đó chắc hẳn là Ngài Phillip Crane trong trí tưởng tượng nơi .

      Và bây giờ muốn họ gặp nhau? Gặp nhau? Và hủy hoại những gì có thể trở thành mối quan hệ tìm hiểu hoàn hảo này?

      Nhưng rồi chuyện tưởng xảy ra. Penelope Featherington, bạn thân nhất của Eloise trong gần mười hai năm, kết hôn. Và hơn thế nữa, ấy cưới Colin. trai Eloise!

      Nếu mặt trăng mà có đột ngột rớt khỏi bầu trời, và lăn xuống sau vườn nhà , Eloise cũng thể ngạc nhiên hơn nữa.

      Eloise vui mừng cho Penelope. thế. Và cũng mừng vui cho cả Colin nữa. Họ chắc chắn là hai người thích nhất của trong toàn bộ thế giới này, và rùng mình xúc động rằng họ tìm thấy hạnh phúc. ai mong muốn điều gì hơn.

      Nhưng có nghĩa là hôn nhân của họ để lại trống rỗng trong đời .

      tin rằng khi nghĩ về đời mình như già, và cố thuyết phục bản thân đó là những gì thực muốn, Penelope luôn trong hình ảnh tưởng tượng, là già ngay bên cạnh . Việc ấy có thể chấp nhận được – dù vậy, gần như liều lĩnh khi – hai mươi tám tuổi và kết hôn, miễn là Penelope cũng hai mươi tám tuổi và kết hôn. muốn Penelope tìm được người chồng; chỉ là điều ấy ít nhất chưa bao giờ giống thế. Eloise biết Penelope tuyệt vời, thông minh, tử tế và hài hước, nhưng những quý ông của giới thượng lưu chẳng bao giờ chú ý đến. Trong suốt bao năm ròng rã của ấy nơi xã hội – cả thảy mười năm – Penelope nhận được lời cầu hôn nào. ngay cả hứng thú nhất.

      cách khác, Eloise tin tưởng ấy vẫn ở đó, vẫn như thế – đầu tiên và trước nhất, là bạn Eloise. Người bạn cùng là bà già với .

      Và phần tệ nhất – phần bỏ lại cảm giác tội lỗi tan nát trong Eloise – là chưa bao giờ lần nghĩ đến Penelope có thể cảm thấy như thế nào nếu kết hôn trước, điều mà, , luôn cho rằng xảy ra.

      Nhưng giờ đây Penelope có Colin, và Eloise có thể thấy kết hợp ấy là điều tuyệt diệu. Và lẻ loi. Đơn độc giữa đám đông London, giữa gia đình rộng lớn đầy thương.

      khó để tưởng tượng vị trí cho người bơ vơ.

      Đột nhiên Ngài Phillip táo bạo cầu hôn – bức thư được giấu kín ở sâu sâu trong cái bọc, ở sâu sâu trong ngăn kéo chính giữa, quay khỏi cái hộp an toàn mới tinh vừa được mua, chỉ có thế Eloise mới bị cám dỗ lôi nó ra nhìn sáu lần ngày – à , nó có vẻ nhiều hơn suy nghĩ tý.

      suy nghĩ hơn vào từng ngày, thẳng thắn mà , thao thức nhiều hơn, bất mãn hơn với phần lớn cuộc sống – phải thú nhận – là mình chọn.

      Vậy nên vào ngày, sau khi đến thăm Penelope, chỉ để được người quản gia thông báo là Bà Bridgerton thể tiếp những người khách (dứt khoát theo kiểu cách mà Eloise biết nó có nghĩa gì), quyết định. Đây là lúc để tự kiểm soát cuộc đời , là lúc để điều khiển số phận, hơn là tham dự hết dạ vũ hội này, dạ vũ hội khác và dạ vũ hội khác nữa, trong hy vọng hão huyền người đàn ông hoàn hảo thình lình xuất trước mắt, mà bận tâm chẳng có bất kỳ ai mới ở London, và sau cả đầy thập kỷ ra mắt nơi xã hội, gặp tất cả mọi người trong độ tuổi phù hợp để tiến tới hôn nhân.

      tự với chính bản thân mình, điều ấy có nghĩa phải cưới ngài Phillip Crane; chỉ kiểm tra những thứ có vẻ giống như có thể trở thành khả năng tuyệt hảo. Nếu hợp nhau, họ cần phải lấy nhau; sau cùng, hứa hẹn gì với cả.

      Nhưng nếu có điều về Eloise, đó là khi quyết định, hành động rất nhanh. , ngẫm nghĩ cách ấn tượng (theo ý , ít nhất thế) thành với bản thân, có hai điều tô điểm cho mỗi hành động của thích hành động nhanh chóng và ngoan cố. Penelope lần miêu tả na ná như con cún đeo đuổi cục xương.

      Và Penelope phải đùa.

      khi Eloise quặp móng vuốt vào ý tưởng nào đó, ngay cả toàn bộ lực lượng của nhà Bridgerton cũng thể lôi ra khỏi mục đích dự kiến của mình. (Và gia đình Bridgerton là lực lượng vĩ đại, thế.) Hầu như chắc chắn chỉ là may mắn ngớ ngẩn, khi những mục tiêu và những người trong gia đình bao giờ xung khắc với nhau trước đó, ít nhất vượt quá bất cứ thứ gì quan trọng.

      Eloise biết gia đình bao giờ tán thành việc mù quáng gặp người đàn ông chưa bao giờ giáp mặt. Anthony chắc chắn cầu Ngài Phillip đến London để gặp mặt toàn thể gia đình đông đảo, và Eloise thể hình dung ra cảnh tượng chân nào hơn, là người cầu hôn tương lai bị dọa chết khiếp. Đám đàn ông trước kia cầu hôn , ít nhất quen thuộc với cảnh tượng London, và biết họ dấn thân vô cái gì; Ngài Phillip tội nghiệp, người – dựa thừa nhận trong những lá thư đặt chân đến London sau những ngày học, và bao giờ tham gia vào mùa lễ hội, bị mai phục.

      Vậy nên lựa chọn duy nhất của đến Gloucestershire, và, ngay sau khi nhận ra tình huống nặng nề này ít ngày trước, phải làm mọi chuyện trong bí mật. Nếu gia đình biết những kế hoạch của , có thể bị cấm . Eloise là đối thủ xứng đáng, và có thể chiếm ưu thế vào lúc cuối cùng, nhưng đó là trận chiến dai dẳng, đầy thương vong. cần đề cập đến việc nếu họ cho phép , dù là có sau trận chiến kéo dài vượt quá chủ đề hay , họ khăng khăng đòi gửi theo ít nhất hai người cùng đẳng cấp để hộ tống .

      Eloise rùng mình. Hai người đó gần như chắc mẻm là mẹ và Hyacinth.

      Hỡi ôi, ai có thể vướng vào tình với hai kẻ ấy xung quanh. Thậm chí ai có thể dịu dàng hòa nhã trong việc bị dính chặt như keo, điều mà Eloise nghĩ thực có thể sẵn sàng giải quyết ổn thỏa cho chuyến loanh quanh này.

      quyết định làm cuộc tẩu thoát trong buổi vũ hội của Daphne, chị . Đó là việc vĩ đại, khi với cả bầy khách khứa và với hàng đống tiếng ồn cùng hỗn loạn theo sau, vắng mặt của bị chú ý trong vòng sáu giờ tốt lành, có lẽ hơn thế. Mẹ luôn nhấn mạnh họ phải đúng giờ – thậm chí là sớm hơn – khi thành viên trong gia đình tổ chức kiện xã hội, nên chắc chắn gia đình đến chỗ Daphne muộn hơn tám giờ. Nếu lẻn ra ngoài sớm, và vũ hội giảm náo nhiệt cho đến vài giờ của buổi sáng… chậc, gần tinh mơ trước khi ai đó có thể nhận ra mất, và có thể nửa đường tới Gloucestershire.

      Và nếu phải là được nửa đường, cũng đủ xa để đảm bảo rằng họ khó khăn kinh khủng để theo dấu vết .

      Cuối cùng, tất cả được chứng minh là cực kỳ dễ xơi. Toàn bộ gia đình bị sao lãng bởi lời tuyên bố rất quan trọng mà Colin lên kế hoạch, và tất cả những gì phải làm là xin lỗi để vào phòng nghỉ dành cho các quý bà quý , lượn ra phía cuối, rồi ngược quãng ngắn về nhà, nơi giấu hành lý của mình ở sân sau. Từ đó, chỉ cần bộ lại phía góc đường, nơi sắp xếp chiếc xe ngựa đợi sẵn.

      Chúa ơi, nếu biết dễ dàng để tự mình tìm đường ra khỏi thế giới, làm thế cả hàng năm trước rồi.

      Và giờ ở đây, cỗ xe ngựa lăn bánh thẳng đến Gloucestershire, lăn bánh thẳng đến định mệnh, cho là thế – hay hy vọng, chắc lắm – với gì hơn ngoài vài bộ phục trang để thay, và cọc thư được viết cho bởi người đàn ông chưa lần gặp gỡ.

      người đàn ông hy vọng có thể .

      là ly kỳ làm sao.

      , là kinh hãi.

      Đó có lẽ, ngẫm nghĩ, là thứ dại dột điên rồ nhất làm trong cuộc đời, và phải thú nhận, có vài quyết định ngu xuẩn trong ngày.

      Hay đó chỉ đơn giản có thể là cơ hội duy nhất cho hạnh phúc.

      loise nhăn nhó. trở nên hoang tưởng. Đó là tín hiệu xấu. cần tiếp cận cuộc phiêu lưu này với tất cả thực tế cùng tỉnh táo, những thứ mà luôn cố gắng dựa vào để đưa ra quyết định. Vẫn còn thời gian để quay trở lại. Thực , biết gì về người đàn ông này? khá nhiều trong thời gian năm qua lại thư từ giữa họ–

      ba mươi, lớn hơn hai tuổi.

      theo học ở Cambridge, và theo ngành thực vật học.

      cưới người chị họ thứ tư Marina của , tám năm trước, có nghĩa mới hai mươi mốt trong lễ cưới của mình.

      có mái tóc nâu.

      còn đủ răng cỏ.

      tòng Nam tước.

      sống tại Romney Hall, công trình vững chắc được xây dựng vào thế kỷ mười tám, gần Tetbury, Gloucestershire.

      thích đọc những luận án về khoa học, thơ ca, nhưng phải tiểu thuyết và chắc chắn màng đến triết học.

      thích mưa.

      thích màu xanh lá.

      chưa bao giờ du lịch ra khỏi nước .

      thích cá.

      Eloise đấu tranh với cơn bong bóng cười lo lắng. thích cá. Đó là những gì biết về .

      “Chắc chắn nghe như nền tảng cho hôn nhân.” tự lầm bầm với bản thân, cố gắng phớt lờ hoảng loạn trong giọng.

      biết gì về ? Điều gì hợp lý dẫn đến việc cầu hôn với người hoàn toàn xa lạ?

      cố nhớ lại những gì viết trong nhiều lá thư.

      hai mươi tám.

      có mái tóc nâu (thực ra, là màu hạt dẻ) và đầy đủ răng.

      có đôi mắt xám.

      đến từ gia đình lớn và thương.

      trai là Tử tước.

      Cha qua đời khi còn là đứa trẻ, bởi vết ong đốt xoàng xĩnh thể hiểu được.

      có khuynh hướng rất nhiều. (Lạy Chúa, thực viết về điều ấy?)

      thích đọc thơ, tiểu thuyết, nhưng đặc biệt với những luận án về khoa học, hay màng đến triết học.

      từng du lịch đến Scotland, nhưng đó là tất cả.

      thích màu tím.

      thích thịt cừu và tuyệt đối ghê tởm món pudding kinh khủng.

      nụ cười hoang mang nữa bật ra khỏi môi . Theo lối này, nghĩ với chút mỉa mai, giống như món mồi béo bở.

      khẽ liếc ra ngoài khung cửa sổ, như thể điều ấy có thể chỉ dẫn họ ở đâu đường từ London đến Terbury.

      Lăn qua hết ngọn đồi xanh này, giống y lăn đến những ngọn đồi xanh khác, chẳng khác gì lăn qua những ngọn đồi xanh tiếp theo, và có thể ở Wales, đó là tất cả những gì biết.

      Cau mày, ngước xuống nhìn mảnh giấy trong lòng, và gấp lá thư của Ngài Phillip lại. Để nó vừa vặn vào cái bọc thắt dây tím giữ trong vali, rồi đặt những ngón tay lên đùi trong cử chỉ lo lắng.

      có lý do để mà lo lắng.

      Sau cùng, rời khỏi nhà và tất cả những gì thân quen.

      được nửa đường kéo dài khắp nước , và ai biết.

      ai.

      Ngay cả Ngài Phillip.

      vội vã rời London, lơ đãng cho biết đến. phải là quên; đúng hơn là, phần nào… đặt chuyện ấy qua bên trước khi mọi việc quá trễ.

      Nếu với , cần thay đổi kế hoạch. Với cách này, vẫn còn cơ hội quay lại vào bất cứ lúc nào. tự với chính mình, vì thích có những lựa chọn và xem xét, nhưng , đơn giản là hoàn toàn chết khiếp, và sợ đánh mất tất cả dũng cảm.

      Hơn nữa, là người duy nhất cầu gặp gỡ. hạnh phúc được thấy .


      Phải thế ?


      ---o0o---


      Phillip đứng dậy khỏi giường, kéo tấm màn cửa ra khỏi phòng ngủ, phát ra ngày nắng ấm hoàn hảo khác.

      Hoàn hảo.

      bước về phía phòng thay phục trang để tìm quần áo, từ lâu kể từ khi cho những người hầu thường thực những loại nhiệm vụ kiểu này thôi việc. thể giải thích, nhưng sau khi Marina qua đời, muốn bất kỳ ai lăng xăng vào phòng ngủ buổi sáng, giật mạnh những tấm màn cửa của , và chọn trang phục cho .

      thậm chí cho thôi việc cả Miles Carter, người rất cố gắng để trở thành người bạn, sau khi Marina ra . Nhưng hiểu sao, tên thư ký trẻ tuổi chỉ làm cảm thấy tồi tệ hơn, và vì vậy gửi cậu ta , cùng với sáu tháng lương và bức thư giới thiệu tuyệt vời.

      dành cả quãng thời gian trong cuộc hôn nhân với Marina để tìm kiếm người nào đó cùng trò chuyện, vì thường thẫn thờ, nhưng giờ , tất cả những gì cần là tự làm bạn với chính mình.

      cho là chắc phải ám chỉ đến trong nhiều lá thư từ Eloise Bridgerton bí , vì gửi lời đề nghị -hẳn-là-kết-hôn-nhưng-có-thể-là-cái-gì-đó-dẫn-đến-việc-ấy hơn tháng trước, và im lặng nơi phần nào lên, đặc biệt là vì thường trả lời những lá thư với say mê sốt sắng.

      cau mày. Eloise Bridgerton bí thực quá huyền bí. Trong những lá thư của mình, khá cởi mở, chân , và chắc chắn sở hữu tính cách tươi vui. Khi có tất cả điều ấy, thực đó là tất cả những gì khăng khăng thời gian cho người vợ tới.

      giật mạnh cái áo sơ mi mặc khi làm việc; lên kế hoạch trải qua hầu hết thời gian trong nhà kính, xắn tay áo dơ bẩn lên. khá thất vọng vì Bridgerton ràng quyết định, là loại người mất trí quá khích, cần tránh bằng bất cứ giá nào. có vẻ như là giải pháp hoàn hảo cho những vấn đề của . tuyệt vọng cần người mẹ cho Amanda và Oliver, nhưng chúng trở nên quá cứng đầu đến mức, thể tưởng tượng bất kỳ người phụ nữ nào sẵn sàng đồng ý dính chặt với trong hôn nhân,và như vậy tự trói buộc mình với hai đứa nhóc con quái quỷ cả đời (hay ít nhất cho đến khi chúng trưởng thành).

      Tuy nhiên, Bridgerton hai mươi tám, quá ràng là già. Và trao đổi thư từ với người tuyệt đối xa lạ trong hơn năm; chắc hẳn có phần nào tuyệt vọng? phải đánh giá cao cơ hội tìm kiếm người chồng? ngôi nhà, gia sản khá lớn, và chỉ mới ba mươi tuổi. còn có thể muốn gì hơn nữa?

      làu bàu vài cụm từ khó chịu khi thọc mạnh chân vào cái quần bằng vải len xù xì. ràng muốn gì đó hơn nữa, ít nhất lịch viết thư trả lời và từ chối.

      RẦM!

      Phillip khẽ liếc lên trần nhà và nhăn mặt. Romney Hall cũ kỹ, vững chắc, và được xây rất kiên cố, và nếu cái trần nhà của rung lên, vậy các con quăng (thảy? ném mạnh?) cái gì rất lớn.

      RẦM!

      cau mày. Điều ấy thậm chí nghe tệ hơn. Dù vậy, bà bảo mẫu ấy với chúng, và bà luôn xoay sở với chúng tốt hơn . Nếu có thể mang đôi bốt vào dưới phút, có thể ra khỏi nhà trước khi hai đứa nhóc nện thêm vài cú phá hoại nữa, do đó có thể vờ như chẳng có chuyện gì xảy ra.

      với tới đôi bốt. Đúng vậy, ý kiến xuất sắc. Biến ra khỏi tầm nghe, ra khỏi tầm suy nghĩ.

      xong phần còn lại với tốc độ ấn tượng và lao ra đại sảnh, nhanh chóng sải bước về những bậc cầu thang.

      “Ngài Phillip! Ngài Phillip!”

      Chết tiệt. Giờ tên quản gia ở sau .

      Phillip vờ như nghe.

      “Ngài Phillip!”

      “Khỉ gió.” lẩm bẩm. có cách nào có thể làm ngơ tiếng rống đó, trừ khi sẵn sàng chịu đựng tra tấn lởn vởn của bọn người hầu, lo lắng về việc tai ràng điếc đặc.

      “Ừ.” , chậm rãi quay lại. “Gì vậy Gunning?”

      “Ngài Phillip.” Gunning , hắng giọng. “Chúng ta có người đến thăm.”

      người đến thăm?” Phillip . “Đó có phải là nguồn gốc của, ờ…”

      “Tiếng ồn?” Gunning thêm vào đầy hữu ích.

      “Phải.”

      .” Tên quản gia hắng giọng. “Cái đó la do các con ngài.”

      “Ta hiểu.” Phillip lầm bầm. “Ngu xuẩn làm sao khi ta hy vọng vào cái gì khác.”

      “Tôi tin là bọn trẻ phá vỡ bất kỳ thứ gì đây, thưa ngài.”

      “Đó là giảm và thay đổi.”

      thế, thưa ngài, nhưng vẫn còn người đến thăm để suy nghĩ.”

      Phillip rên lên. Kẻ quái quỷ nào trái đất lại đến thăm vào giờ này của buổi sáng? Họ quen với việc nhận những người đến thăm, thậm chí là trong những khoảng thời gian phù hợp hơn.

      Gunning cố gắng mỉm cười, nhưng ai cũng có thể thấy ta thất bại. “Chúng ta thường có những người đến thăm, ngài có nhớ ?”

      Đó là vấn đề với những tên quản gia làm việc cho gia đình trước khi ai đó được sinh ra. Bọn họ có xu hướng nghĩ về nhũng lời châm chọc ca ngợi.

      “Người đến thăm này là ai?”

      “Tôi hoàn toàn chắc lắm, thưa ngài.”

      “Ngươi chắc lắm?” Phillip tin được hỏi.

      “Tôi tìm hiểu.”

      “Đó phải là việc những quản gia cần làm sao?”

      “Tìm hiểu, thưa ngài?”

      “Đúng thế.” Phillip gầm lên, tự hỏi Gunning có phải cố gắng để trông thấy ông chủ mình đỏ mặt tía tai như thế nào, để có thể thực đổ sụp xuống sàn ngập máu.

      “Tôi nghĩ để cho ngài hỏi điều ấy, thưa ngài.”

      “Ngươi nghĩ ngươi để ta dò hỏi.” Lần này câu phát ra, Phillip nhận thấy vô ích khi hỏi tiếp.

      “Vâng, thưa ngài. Sau cùng , ấy đến đây để gặp ngài.”

      “Như tất cả những người đến thăm khác của chúng ta, và chưa có gì ngăn ngươi khỏi việc tìm hiểu thân thế của họ trước đây.”

      “À, thực ra , thưa ngài–”

      “Ta hoàn toàn chắc chắn–” Phillip cố gắng ngắt ngang.

      “Chúng ta có người đến thăm, thưa ngài.” Gunning kết thúc, ràng chiến thắng trong trận chiến tranh luận.

      Phillip mở miệng để chỉ ra rằng họ có những người đến thăm, vào lúc này, từ đây xuống dưới chỉ có tầng; nhưng thực là, đó có phải là vấn đề? “Tốt thôi.” , hoàn toàn cáu tiết. “Ta xuống tầng dưới.”

      Gunning rạng rỡ. “Xuất sắc, thưa ngài.”

      Phillip trân trối nhìn tên quản gia vì sốc. “Người khỏe hả, Gunning?”

      , thưa ngài. Sao ngài lại hỏi thế?”

      bất lịch khi chỉ ra rằng nụ cười toác hoác khiến Gunning trông khá giống con ngựa, nên Phillip chỉ lầm rầm, “ có gì.” và hướng xuống các bậc thang.

      người đến thăm? Ai là người đến thăm? ai đến đây trong gần năm, kể từ khi những người hàng xóm hoàn tất các cuộc thăm hỏi chia buồn bắt buộc. cho là thể thực trách cứ vì họ giữ khoảng cách; lần cuối cùng họ đến thăm, Oliver và Amnada trét mứt dâu lên những chiếc ghế.

      Quý bà Winslet rời trong tâm trạng tức giận xa hơn bất cứ thứ gì Phillip nghĩ, là tốt cho sức khỏe của người ở tuổi ấy.

      Phillip nhăn mặt khi đến những nấc thang cuối cùng, và xoay lại cửa vào đại sảnh. Đây phải là bà ấy đó chứ, nhỉ? phải Gunning khách của người phụ nữ sao?

      bất chợt dừng lại; thậm chí vấp chân.

      Bởi người phụ nữ đứng trước cửa vào đại sảnh còn trẻ, khá xinh, và khi ngẩng lên gặp cái nhìn chăm chăm của , trông thấy có đôi mắt xám to nhất, đẹp đến nhói lòng mà chưa bao giờ được biết.

      có thể chết chìm trong đôi mắt ấy.

      Và Phillip , ngay cả lần nào có thể tưởng tượng ra, thậm chí nông nổi nghĩ đến từ chết chìm lần nữa.

    4. jojolavender

      jojolavender Member

      Bài viết:
      252
      Được thích:
      13
      CHƯƠNG 2

      … và vì vậy, em chắc ngạc nhiên khi nghe,

      em quá nhiều. Em đơn giản là thể ngừng được,

      nhưng em cho rằng điều đó xảy ra khi em lo lắng.

      người chỉ có thể hy vọng có ít lý do cho những âu lo lộ ra

      trong phần còn lại của đời mình.

      – từ Eloise Bridgerton gửi đến trai , Colin,

      vào mùa ra mắt của Eloise trong xã hội London.

      Và rồi mở miệng ra.

      “Ngài Phillip?” hỏi, và trước khi thậm chí có cơ hội gật đầu để khẳng định, tiếp, với vận tốc của ánh sáng. “Tôi vô cùng xin lỗi khi đến mà báo trước, nhưng tôi thực có lựa chọn nào khác, và lòng , nếu tôi gửi thư, nó gần như chắc chắn đến sau tôi, khiến cho lá thư thực chẳng đáng quan tâm, khi tôi chắc rằng đồng ý, và…”

      Phillip chớp mắt, chắc hẳn được cho là phải theo kịp những gì , nhưng còn thể tìm ra tý manh mối nào cho việc khi nào từ kết thúc, và từ mới bắt đầu.

      “… cuộc hành trình dài, và tôi e rằng tôi ngủ được, vậy nên tôi phải xin tha thứ cho diện của tôi, và…”

      khiến cảm thấy hoa mắt. Có phải là thô lỗ , nếu ngồi bệt xuống?

      “… mang theo gì nhiều, nhưng tôi có lựa chọn, và…”

      Đây ràng còn hơn cả kéo dài lê thê, với có dấu hiệu nào, , là nó có khi nào đó chấm dứt. Nếu cho phép lâu thêm lúc nữa thôi, hoàn toàn chắc như đinh đóng cột là đau khổ chịu đựng việc tai trong bị mất cân bằng, hay có thể ngất bất tỉnh vì thiếu khí, rồi đập thẳng đầu xuống sàn nhà. Cách nào nữa, người trong số họ bị thương tật và đau đớn suy nhược.

      “Thưa .” hắng giọng, .

      Nếu nghe , chẳng biểu gì, thay vào đó là cái quái gì đó về chiếc xe ngựa dường như chở đến ngưỡng cửa nhà .

      “Thưa .” lên tiếng, lần này lớn hơn.

      “… nhưng rồi tôi–” ngước nhìn lên, chớp đôi mắt xám hủy diệt về phía , và trong khoảnh khắc, cảm thấy mất thăng bằng khủng khiếp. “Vâng?” hỏi.

      Bây giờ chú ý của , lại có vẻ quên mất tại sao lại cần điều đó. “Ơ.” hỏi. “ là ai?”

      chằm chằm nhìn có đến năm giây, môi hé ra ngạc nhiên, và cuối cùng trả lời. “Eloise Bridgerton, tất nhiên là thế.”

      Eloise chắc chắn cách rệt là quá nhiều, và biết quá nhanh, nhưng có khuynh hướng như thế khi lo lắng; và trong khi kiêu hãnh với thực tế là ít khi âu lo, giờ đây có vẻ giống như khoảng thời gian xứng đáng để bùng nổ cảm xúc ấy, và hơn nữa, Ngài Phillip – nếu là người đàn ông như con gấu lớn đứng trước – đó phải tất cả những gì mong đợi.

      là Eloise Bridgerton?”

      nhìn vào gương mặt há hốc của , và lần đầu tiên cảm thấy vô cùng khó chịu. “Chà, dĩ nhiên là tôi. Tôi còn có thể là ai khác?”

      “Tôi thể tưởng tượng được.”

      mời tôi.” chỉ ra.

      “Và hồi cho lời mời của tôi.” đáp trả.

      nuốt khan. đúng. Hoàn toàn chắc chắn đúng, nếu người muốn công bằng, điều mà hề muốn. Dù sao , chỉ phải bây giờ.

      “Tôi thực lòng có cơ hội.” thoái thác, và rồi, khi dựa vào biểu cảm gương mặt điều đó đủ giải thích, bồi thêm. “Như tôi đề cập đến khi ban nãy.”

      chòng chọc nhìn lâu lắc hơn khiến khó chịu, đôi mắt đen cách lạ lùng, rồi . “Tôi hiểu đến chữ .”

      cảm thấy môi tạo thành hình oval… ngạc nhiên? , khó chịu. “ có lắng nghe ?” hỏi.

      “Tôi cố.”

      Eloise bĩu môi. “À , vậy tốt thôi.” , đếm từ đến năm – bằng tiếng Latin – trước khi thêm vào. “Lỗi của tôi. Tôi xin lỗi khi đến mà báo trước. Tôi quá vô giáo dục.”

      im lặng có đến tròn ba giây – Eloise đếm – trước khi . “Tôi chấp nhận lời xin lỗi của .

      hắng giọng.

      “Và dĩ nhiên” – ho lên, khẽ liếc mắt xung quanh, làm như có thể tìm kiếm được ai đó có thể cứu ra khỏi bằng – “Tôi vui mừng vì ở đây.”

      Gần như chắc chắn là hoàn toàn bất lịch , khi chỉ ra lời nghe có vẻ như bất cứ cái gì khác ngoài vui mừng, nên chỉ đứng đó, lom lom nhìn vào xương gò má phải của , cố gắng quyết định có thể những gì mà như xúc phạm.

      Eloise coi như đó là tình trạng đau buồn của việc mà – người thường có gì đó để trong bất kỳ tình huống nào – giờ đây thể nghĩ ra đến thứ nào đó.

      May làm sao, cứu im lặng ngượng ngùng của họ khỏi việc phát triển lên thành tỷ lệ vĩ đại, bằng cách hỏi, “Đây là tất cả hành lý của ?”

      Eloise thẳng lưng lên, hài lòng khi chuyển qua chủ đề tương đối ít quan trọng. “Vâng, tôi thực –” ngăn mình lại. có thực cần thiết cho lén lút bỏ trốn khỏi nhà vào giữa đêm? Điều đó có vẻ như lên điều gì đó tốt đẹp về , về gia đình . chắc tại sao, nhưng muốn biết là , với tất cả ý định và mục đích, chuồn . chắc tại sao lại nghĩ thế, nhưng có cảm giác dứt khoát là nếu biết , đóng gói lại rồi gửi về London cấp tốc. Và do cuộc gặp gỡ của với Ngài Phillip chứng minh được tý hình ảnh lãng mạn và hạnh phúc tột cùng nào mà tưởng tượng, chưa sẵn sàng để bỏ cuộc.

      Đặc biệt là khi điều đó có nghĩa quay trở lại gia đình với dáng vẻ cụp đuôi hổ thẹn.

      “Đây là tất cả những gì tôi có.” kiên quyết .

      “Tốt. Tôi, ơ…” nhìn xung quanh cái nữa, lần này với chút tuyệt vọng, ít nhất khiến Eloise chẳng cảm thấy hãnh diện. “Gunning!” rống.

      Tên quản gia xuất nhanh chóng đến mức, cậu ta ắt hẳn nghe trộm. “Vâng, thưa ngài?”

      “Chúng ta… à… cần chuẩn bị phòng cho Bridgerton.”

      “Tôi chuẩn bị xong.” Gunning quả quyết.

      Gò má ngài Phillip ửng hồng. “Tốt.” cằn nhằn. “ ấy ở lại đây trong…” ngờ vực nhìn .

      “Hai tuần.” cung cấp, hy vọng đó là khoảng thời gian thích hợp.

      “Hai tuần.” Ngài Phillip lặp lại, như thể tên quản gia hề nghe câu trả lời của . “Chúng tôi làm tất cả mọi thứ trong khả năng để khiến ấy dễ chịu, dĩ nhiên thế.”

      “Dĩ nhiên.” Tên quản gia đồng ý.

      “Tốt.” Ngài Phillip , vẫn còn trông có phần thoải mái với toàn bộ tình huống này. Hay nếu phải là thoải mái, chính xác hơn, có lẽ là mệt lử, điều thậm chí có vẻ tệ hơn.

      Eloise thất vọng. phác họa như người đàn ông dễ chịu quyến rũ, khá giống Colin trai , người sở hữu nụ cười bảnh chọe, và luôn biết phải những gì trong bất cứ tình huống nào, vụng về hay khác nữa.

      Ngài Phillip, mặt khác, trông cứ như thích ở bất kỳ đâu hơn là tại nơi đứng, điều đó khiến cho Eloise tìm thấy dũng cảm, khi diện xung quanh . Và hơn nữa, được cho là ít nhất phải thực vài nỗ lực để có thể kiên quyết biết chút ít về , nếu trở thành người vợ được thừa nhận của .

      Và những nỗ lực nơi thực tế phải tốt hơn, vì nếu ấn tượng đầu tiên là chính xác, khá nghi ngờ rằng có thể quyết tâm xem như người chồng có thể chấp nhận được.

      mỉm cười với qua hàm răng nghiến chặt.

      ngồi xuống chứ?”

      “Rất vui lòng, cám ơn.”

      đơ người nhìn xung quanh, khiến Eloise có ấn tượng là chỉ vừa vặn biết đường trong chính ngôi nhà của mình. “Hướng này.” lầm bầm, ra dấu về phía cánh cửa cuối đại sảnh. “Phòng khách.”

      Gunning ho khan.

      Ngài Phillip nhìn cậu ta và quắc mắt.

      “Có lẽ ngài có ý định cầu thức ăn chứ, thưa ngài?” Tên quản gia quan tâm hỏi.

      “Ơ, phải, dĩ nhiên.” Ngài Phillip trả lời, hắng giọng. “Dĩ nhiên. Ờ, có lẽ…”

      khay trà, có lẽ thế?” Gunning gợi ý. “Với những chiếc bánh nướng xốp?”

      “Tuyệt hảo.” Ngài Phillip làu bàu.

      “Hay có lẽ nếu Bridgerton đói,” tên quản gia tiếp tục, “tôi có thể mở rộng ra chuẩn bị thành bữa sáng.”

      Ngài Phillip đưa cái nhìn chằm chặp về phía Eloise.

      “Bánh nướng xốp rất đáng .” , dù đói.

      Eloise cho phép ngài Phillip nắm lấy tay và dẫn đến phòng khách, nơi ngồi xuống chiếc ghế sofa phủ màu xanh biếc bằng sa tanh. Căn phòng gọn gàng và sạch , nhưng những đồ dùng mòn cũ. Toàn bộ ngôi nhà mang vẻ lôi thôi mơ hồ đặc trưng, cứ như người chủ còn xu, hay có lẽ chỉ đơn giản là quan tâm.

      Eloise có xu hướng nghĩ vế sau chính là vấn đề. cho rằng hoàn toàn có khả năng Ngài Phillip là loại người có của cải, chỉ là những khu đất tuyệt đẹp, và có đủ thời gian quan sát khu nhà kính của , khi được cỗ xe ngựa đưa đến, để nhận ra nó ở trong điều kiện xuất sắc. Dựa vào việc Ngài Phillip là nhà thực vật học, điều đó có thể giải thích quan tâm nhiều hơn với bên ngoài, trong khi bên trong lại bị bỏ xó.

      ràng, cần người vợ.

      đặt tay vào lòng, rồi quan sát khi ngồi xuống chỗ đối diện , ép thân hình to lớn vào chiếc ghế hoàn toàn được thiết kế cho người con hơn.

      nhìn có vẻ khó chịu nhất, và (và Eloise có đủ em trai để nhận ra những tín hiệu này) phần nào trông có vẻ muốn nguyền rủa ghê gớm, nhưng Eloise quyết định đó là lỗi của chọn chiếc ghế đó, đợi bắt đầu cuộc trò chuyện.

      hắng giọng.

      chồm người tới trước.

      lại hắng giọng.

      ho lên.

      hắng giọng lần nữa.

      có cần trà ?” Cuối cùng hỏi, thể chịu đựng được thêm ngay cả ý nghĩ e hèm nào nữa.

      ngước lên nhìn vẻ biết ơn, dù Eloise chắc là do lời đề nghị cho ly trà của , hay do lòng tốt nơi khi phá vỡ im lặng. “Vâng.” . “Như thế rất tuyệt.”

      Eloise mở miệng trả lời, rồi nhớ ở trong nhà , và có phận gì trong việc cầu trà. cần phải ám chỉ rằng thực tế cũng nên nhớ điều ấy. “Được rồi.” lên tiếng. “À, tôi nghĩ trà có sớm thôi.”

      “Đúng vậy.” đồng ý, cựa quậy trong chỗ ngồi.

      “Tôi xin lỗi vì đến mà thông báo.” lầm bầm, mặc dù điều ấy khá nhiều. Nhưng phải ra cái gì đó; Ngài Phillip có thể ưa thích các khoảng lặng ngượng ngùng, nhưng Eloise là loại người thích lắp đầy bất kỳ yên lặng nào.

      “Điều ấy hoàn toàn ổn.” .

      “Thực ra, nó ổn.” đáp lời. “Nó khá là thô lỗ khủng khiếp khi tôi làm thế, và tôi xin lỗi.”

      trông trước giật mình thẳng thắn nơi . “Cám ơn.” lầm bầm. “ có vấn đề gì đâu, tôi đảm bảo với . Tôi chỉ…”

      “Ngạc nhiên?” ướm hỏi.

      “Phải.”

      gật đầu. “Vâng. À , bất kỳ ai cũng thế. Tôi lẽ ra nên nghĩ về nó, và tôi xin lỗi vì phiền phức này.”

      mở miệng ra, nhưng rồi ngậm lại, thay vào đó là khẽ liếc ra ngoài khung cửa sổ. “Hôm nay là ngày đầy nắng.” .

      “Phải, đúng thế.” Eloise đồng ý, nghĩ rằng điều ấy quá ràng.

      nhún vai. “Tôi tưởng tượng trời mưa vào lúc chập tối.”

      chắc phải trả lời lại làm sao, nên chỉ gật đầu, trộm nghiên cứu khi cái nhìn chằm chằm nơi vẫn dán chặt vào cửa sổ. to lớn hơn tưởng tượng, trông bù xù, ít tinh tế. Những lá thư quá mê mẩn và được viết rất tốt; nên phác họa … uyển chuyển hơn. Mảnh dẻ hơn, có lẽ, chắc chắn phải to con, dù vậy, ít cơ bắp hơn. trông cứ như người nhân công làm việc ngoài trời, đặc biệt là với chiếc quần thô ráp, và áo sơ mi cà vạt. Và ngay cả khi viết mái tóc có màu nâu, luôn tưởng tượng có màu tóc vàng sẫm, trông như nhà thơ (tại sao luôn tưởng tượng các thi sĩ với mái tóc vàng sẫm, biết). Nhưng mái tóc chính xác như những gì miêu tả – màu nâu, thực ra là hơi sẫm, gần như ánh đen, với vẻ bồng bềnh phóng khoáng. Đôi mắt nâu của , cũng như màu tóc, quá u tối đến mức thể đọc được.

      cau mày. ghét những người thể hiểu ra ngay lập tức.

      suốt đêm?” lịch hỏi thăm.

      “Đúng vậy.”

      hẳn phải mệt mỏi.”

      gật đầu. “ vậy, tôi khá mệt.”

      đứng dậy, lịch ra dấu về phía cửa. “ có muốn nghỉ ngơi ? Tôi giữ ở lại đây nếu cần ngủ.”

      Eloise kiệt sức, nhưng cũng đói chết được. “Tôi chỉ ăn chút gì đó trước,” , “rồi tôi rất biết ơn chấp nhận lòng hiếu khách của và nghỉ ngơi.”

      gật đầu và bắt đầu ngồi xuống, cố gắng ép bản thân ngồi lại cái ghế xíu cách buồn cười, rồi cuối cùng lầm bầm gì đó dưới hơi thở, quay sang với vẻ mỏng manh dễ hiểu hơn, “Xin phép.” và di chuyển đến cái ghế khác, lớn hơn.

      gì cơ?” lên tiếng, khi ổn định chỗ.

      Eloise chỉ gật đầu với , tự hỏi có khi nào thấy mình trong tình huống ngượng ngùng hơn chưa.

      hắng giọng. “Ờ, hài lòng với chuyến chứ?”

      thế.” trả lời, thầm trao cho lòng biết ơn vì việc ít nhất cũng thử cố gắng tiếp tục cuộc trò chuyện. Điều ấy xứng đáng nhận ủng hộ, nên góp phần mình vào với, “ ngôi nhà đáng .”

      nhướng bên mày trước câu đó, trao cho ánh nhìn rằng chẳng hề tin lời tâng bốc sai lầm của lấy giây.

      “Những khu đất rất đẹp.” vội vã thêm vào. Ai có thể nghĩ rằng thực biết đám đồ đạc nhà bạc màu? Đàn ông bao giờ chú ý đến những thứ như vậy.

      “Cám ơn.” . “Tôi là nhà thực vật học, như biết, và tôi dành phần lớn thời gian ở ngoài trời.”

      có kế hoạch ra ngoài làm việc hôm nay?”

      trả lời bằng khẳng định.

      Eloise ngập ngừng mỉm cười với . “Tôi xin lỗi vì phá vỡ kế hoạch của .”

      có gì đâu, tôi đảm bảo với .”

      “Nhưng–”

      thực cần xin lỗi lần nữa.” cắt ngang. “Vì bất cứ cái gì.”

      Và rồi là im lặng dễ sợ nữa, với cả hai thiết tha nhìn về phía cửa, chờ đợi Gunning trở lại với cứu rỗi trong hình dạng khay trà.

      Eloise khẽ vỗ hai tay vào tấm nệm ghế sofa, trong kiểu cách mà mẹ cho rằng hoàn toàn vô phép. nhìn qua Ngài Phillip, và phần nào lấy làm hài lòng khi trông thấy cũng làm y hệt thế. Rồi bắt gặp cái nhìn của , và tình cờ mỉm nụ cười nửa miệng trêu ngươi, khi cái nhìn chăm chăm hạ xuống nơi bàn tay động đậy.

      ngay lập tức ngồi yên.

      nhìn qua , im lặng thách thức – van nài? – gì đó. Bất cứ gì.

      chẳng lên tiếng.

      Chuyện này giết chết . phải phá vỡ im lặng. là trái tự nhiên. Quá kinh khủng. Mọi người đều có ý định trò chuyện. Còn điều này–

      mở miệng, bị dồn vào tuyệt vọng mà hoàn toàn hiểu. “Tôi–”

      Nhưng trước khi có thể tiếp tục với câu hoàn chỉnh như ý định chuẩn bị, tiếng thét ghê rợn xuyên thủng qua xé toạc khí.

      Eloise nhảy dựng lên. “Cái gì–”

      “Các con tôi.” Phillip , thở dài phờ phạc.

      có con?”

      chú ý thấy đứng, và mệt mỏi đứng lên. “Tất nhiên phải thế.”

      há hốc nhìn . “ chưa bao giờ có con.”

      Mắt nheo lại. “Đó có phải là vấn đề?” hỏi cách cực kỳ sắc bén.

      “Dĩ nhiên là .” , nổi giận. “Tôi ngưỡng mộ trẻ con. Tôi có rất nhiều cháu trai và cháu hơn tôi có thể đếm, và tôi bảo đảm với tôi là người dì thích của chúng. Nhưng điều ấy thể bỏ qua cho thực tế nhắc đến tồn tại của các con .”

      thể nào.” lắc đầu . “ hẳn phải bỏ sót.”

      Cằm hất lên đột ngột đến nỗi kỳ công khi gãy cổ. “Đó phải,” ngạo mạn , “là thứ tôi có thể bỏ qua.”

      nhún vai, hoàn toàn gạt phản đối của .

      chưa bao giờ nhắc đến chúng,” , “và tôi có thể chứng mình.”

      khoanh tay lại, trao cho cái nhìn ràng tin tưởng.

      bước về phía cửa. “Hành lý tôi đâu?”

      “Ngay nơi bỏ lại, tôi hình dung thế.” lên tiếng, quan sát với vẻ nhún nhường. “Hoặc là phòng . Người hầu của tôi phải loại lơ đễnh đó.”

      trừng mắt quay qua . “Tôi có đến từng bức thư trong những lá thư gửi tôi ở đây, và tôi cam đoan với , lá nào trong số chúng nhắc đến hai chữ ‘con tôi.’”

      Miệng Phillip há ra ngạc nhiên. “ giữ những lá thư của tôi?”

      “Dĩ nhiên. có giữ thư tôi ?”

      chớp mắt. “À ừ…”

      thở dốc. “ giữ chúng?”

      Phillip chẳng bao giờ hiểu phụ nữ, và phân nửa thời gian luôn sẵn sàng đặt tất cả suy nghĩ tại về y khoa qua bên và tuyên bố họ như dạng hoàn toàn riêng biệt. tuyệt đối chấp nhận rằng ít khi biết người được cho là nên với họ những gì, nhưng lần này thậm chí biết sai lầm tệ hại. “Tôi chắc là tôi có giữ vài lá thư.” cố gắng.

      Miệng mím chặt lại thành đường thẳng điên tiết.

      “Phần lớn trong số chúng, tôi chắc thế.” vội vàng đế thêm.

      trông muốn nổi loạn. Eloise Bridgerton, nhận ra, có vẻ hoang dã dữ dội.

      phải là tôi vứt bỏ chúng.” , thử kéo bản thân ra khỏi vực sâu hun hút này. “Chỉ là tôi chắc chắn chính xác chỗ tôi để chúng ở đâu.”

      quan sát với vẻ thích thú khi giành được quyền kiểm soát cơn giận dữ, rồi thở ra hơi ngắn. Tuy nhiên, đôi mắt vẫn còn giữ vẻ bão bùng xám xịt. “Tốt.” . “Dù sao , nó chẳng có nghĩa gì cả.”

      Ý kiến chính xác thế, Phillip nghĩ, nhưng đủ thông minh để những lời ấy ra.

      Vả lại, giọng chính xác rằng theo ý , nó có ý nghĩa. thỏa thuận tuyệt vời.

      thiếng thét nữa xé toạc khí, theo sau là tiếng loảng xoảng vang dội. Phillip nhăn mặt. Nghe như thanh của đồ đạc vỡ.

      Eloise đưa mắt hướng về trần nhà, cứ như mong đợi lớp thạch cao bắt đầu xoay tròn rơi xuống vào bất cứ lúc nào. “ lên với chúng sao?” hỏi.

      nên thế, nhưng với tất cả linh thiêng, muốn. Khi hai đứa sinh đôi mất kiểm soát, ai có thể quản lý chúng, điều mà, Phillip cho là, định nghĩa của ‘mất kiểm soát.’ Theo kinh nghiệm có, mọi thứ dễ dàng hơn khi để chúng tiếp tục điên rồ như vậy, cho đến khi chúng gục ngã vì mệt mỏi (thường mất quá lâu) và sau đó thỏa hiệp với chúng. Đó gần như chắc chắc phải là việc làm có lợi nhất, và hiển phải là thứ mà bất kỳ bậc cha mẹ nào khác khuyên răn, chỉ có người đàn ông tràn trề năng lượng mới có thể thỏa thuận với hai đứa trẻ tám-tuổi-đầu, và sợ là sức lực nơi bay mất vào sáu tháng trước.

      “Ngài Phillip?” Eloise thọc vào.

      thở hắt ra. “Tất nhiên đúng.” ràng thể diện như người cha phớt đời trước mặt Bridgerton, người cố tán tỉnh, tuy vụng về, đặt vào vị trí làm mẹ của hai đứa trẻ tinh nghịch, thời thử cố gắng hoàn toàn phá hoại nhà . “ tha lỗi cho tôi.” , gật đầu với khi bước vào đại sảnh.

      “Oliver!” rống. “Amanda!”

      chắc, nhưng nghĩ nghe Bridgerton nén lại tiếng cười khó chịu.

      đợt sóng cáu tiết dâng lên trong , va trừng trừng nhìn , dù biết là nên làm thế. cho rằng nghĩ có thể làm tốt hơn với hai đứa nhóc.

      sải bước lên những nấc thang và thét gọi tên hai đứa sinh đôi lần nữa. Mặt khác, có lẽ nên quá khắt khe. khá hy vọng – , nồng nhiệt cầu nguyện – rằng Eloise Bridgerton có thể làm giải quyết hai đứa sinh đôi hơn tốt hơn có thể.

      Lạy Chúa, nếu có thể dạy chúng suy nghĩ, chết tiệt là sắp xếp kế hoạch quỳ mọp xuống đất nơi qua ba lần hàng ngày.

      Oliver và Amanda vòng quanh trong góc nơi cầu thang gác, và đường xuống đại sảnh, trông chút gì ngượng ngùng.

      “Tất cả cái đó,” Phillip cầu, “là về cái gì?”

      “Tất cả cái đó là về cái gì?” Oliver xấc xược hỏi lại.

      “Tiếng gào thét.” Phillip nghiến răng.

      “Đó là Amanda.” Oliver .

      “Chắc chắc là thế.” Con bé đồng ý.

      Phillip đợi lời giải thích ràng hơn, và khi có vẻ như là có lời nào đến nữa, thêm. “Và tại sao Amanda la thét?”

      “Đó là con ếch.” Con bé giải thích.

      “Con ếch?”

      Con bé gật đầu. “ đó. giường con.”

      “Cha hiểu rồi.” Phillip . “Con có bất kỳ ý tưởng nào tại sao nó lại ở đó ?”

      “Con để nó ở đó.” Con bé trả lời.

      chuyển cái lườm về phía Oliver, gửi câu hỏi của thẳng đến thằng bé, rồi quay lại phía Amanda. “Con đặt con ếch lên chính giường con?”

      Con nhóc gật đầu.

      Tại sao tại sao tại sao? đằng hắng. “Tại sao?”

      Con bé nhún vai. “Con muốn thế.”

      Phillip cảm thấy cằm hất về trước tin được. “Con muốn thế?”

      “Vâng.”

      “Đặt con ếch lên giường con?”

      “Con thử trở thành những con nòng nọc.” bé giải thích.

      giường con?”

      “Nó có vẻ ấm áp và dễ chịu.”

      “Con giúp.” Oliver xen vào.

      “Cha hề nghi ngờ.” Phillip bằng giọng rít chặt. “Nhưng tại sao con lại hét?”

      “Con hét.” Oiver phẫn nộ . “Amanda mới là người hét.”

      “Cha hỏi Amanda!” Phillip , chỉ vừa đủ chống lại cấp bách để vung tay thất bại và rút về nơi nhà kính.

      “Ngài nhìn con, thưa ngài.” Oliver lên tiếng, và rồi như thể cha cậu quá tối dạ để có thể hiểu cậu có ý gì, thằng nhóc đế thêm. “Khi hỏi.”

      Phillip hít sâu vào hơi, trước khi để những biểu cảm gương mặt thành những gì hy vọng là biểu vẻ kiên nhẫn, rồi quay sang Amanda. “Tại sao, Amanda, con lại hét?”

      Con bé nhún vai. “Con quên mất con để con ếch ở đó.”

      “Con nghĩ là em ấy chết.” Oliver xen ngang, đầy bất ngờ.

      Phillip quyết định cau mày trước câu đó. “Cha nghĩ,” , khoanh tay lại và chuyển cái lườm nghiêm nghị về phía các con, “chúng ta có ếch trong nhà.”

      .” Oliver (với cái gật đầu dữ đội từ phía Amanda) “cha có những con cóc.”

      bất kỳ loại lưỡng cư nào.” Phillip gầm gừ.

      “Nhưng chuyện gì xảy ra nếu trong số chúng chết?” Amanda hỏi, đôi mắt xanh biếc của con bé đong đầy nước mắt.

      ngay cả thế.”

      “Nhưng–”

      “Con có thể chăm sóc nó bên ngoài.”

      “Nhưng nếu nó lạnh cóng, đóng băng, và chỉ cần chăm sóc của con cùng cái giường ấm áp trong nhà?”

      “Lũ ếch chúng được cho là chịu được lạnh cóng và đóng băng.” Phillip bắn lại. “Đó là tại sao chúng là loài lưỡng cư.”

      “Nhưng nếu–”

      !” lồng lộn. “ ếch, cóc, dế, châu chấu, hay bất kỳ loài động vật nào khác trong nhà!”

      Amanda hớp lấy hớp để khí. “Nhưng nhưng nhưng–”

      Phillip thở dài thườn thượt. chưa bao giờ biết phải những gì với các con, và giờ đây con trong cứ như con bé có thể tan ra trong cái hồ đầy nước mắt. “Chúa lòng–” ngăn bản thân chỉ vừa đúng lúc và giọng lại. “Chuyện gì vậy, Amanda?”

      Con bé hổn hển, rồi thút thít. “Vậy còn Bessie sao?”

      Phillip cảm thấy thất bại vây xung quanh như bức tường dần lún xuống. “Tất nhiên,” nghiến răng, “cha có ý tính luôn cả con chó giống spaniel dấu của chúng ta trong câu ấy.”

      “Ôi, con ước cha thế.” Amanda sụt sịt, trông ngạc nhiên – và ngờ ngại – trở lại. “Cha khiến con rất buồn lòng.”

      Phillip nghiến chặt răng. “Cha xin lỗi vì khiến con buồn bã.”

      bé gật đầu với như nữ hoàng.

      Phillip rên lên. Khi nào để hai đứa sinh đôi nắm thế thượng phong trong cuộc tranh luận? ràng là người đàn ông với kích cỡ và (dù sao , thích nghĩ thế) tài trí như , nên có thể quán xuyến được hai đứa nhóc tám tuổi.

      Nhưng , lần nữa, bất chấp những mục đích của mình, hoàn toàn mất quyền điều khiền, và giờ đây thực xin lỗi chúng.

      có thứ gì khiến cảm thấy thất bại hơn nữa.

      “Rồi, giờ ,” , thiết tha vì mọi chuyện xong, “chạy chơi . Cha rất bận.”

      Chúng đứng đó lúc, chỉ mở to, chớp mắt, nghiên cứu . “Cả ngày?” Cuối cùng Oliver hỏi.

      “Cả ngày?” Phillip nhắc lại. Thằng bé về cái chết dẫm gì thế?

      “Cha bận rộn cả ngày?” Oliver sửa lại.

      “Phải.” sắc lẻm . “Cả ngày.”

      “Thế nếu chúng ta dạo ngoài trời?” Amanda gợi ý.

      “Cha thể.” , dù phần trong muốn vậy. Nhưng hai đứa sinh đôi quá phiền phức, rồi chúng chắc chắn buộc đánh mất bình tĩnh, và gì có thể khiến kinh hãi hơn được nữa.

      “Chúng con có thể giúp cha trong nhà kính.” Oliver .

      Phá hoại nó hơn có. “.” Phillip lên tiếng. thực lòng nghĩ có thể kiềm cơn giận của mình nếu hai đứa nhóc hủy hoại công việc của .

      “Nhưng–”

      “Cha thể.” nạt nộ, căm ghét chính giọng của mình.

      “Nhưng–”

      “Và ai đây?” giọng đến từ phía sau .

      quay lại. Đó là Eloise Bridgerton, xía mũi vào chuyện nhất định phải việc của , và chuyện này đến sau khi tới ngưỡng cửa nhà mà thậm chí lời cảnh báo.

      gì.” với , chẳng buồn quan tâm che đậy cộc cằn trong giọng.

      phớt lờ và đối mặt với hai đứa sinh đôi. “Và các cháu có thể là ai?” hỏi.

      là ai?” Oliver đề nghị.

      Đôi mắt Amanda nheo lại ti hí.

      Phillip tự cho phép bản thân thực nhăn răng cười lần đầu tiên trong buổi sáng, và khoanh tay lại. Phải, hãy xem Bridgerton giải quyết chuyện này như thế nào.

      Bridgerton.” .

      phải gia sư mới của chúng tôi chứ, đúng ?” Oliver hỏi, với ngờ vực đầy căm ghét.

      “Chúa ơi, .” trả lời. “Chuyện gì xảy ra với người gia sư cuối cùng của các cháu?”

      Phillip ho khù khụ. Ầm ỹ.

      Hai đứa sinh đôi nắm lấy lời gợi ý. “Ơ, có gì.” Oliver .

      Bridgerton có vẻ là bị lừa phỉnh bởi vẻ ngây thơ mà hai đứa nhóc cố truyền đạt, nhưng khôn ngoan chọn đeo đuổi chủ đề đó, và thay vào đó chỉ . “ là khách của các cháu.”

      Hai đứa nhóc nín lặng trong lúc, và rồi Amanda . “Chúng tôi muốn bất kỳ người khách nào.”

      Theo sau là giọng Oliver. “Chúng tôi cần bất kỳ người khách nào.”

      “Các con!” Phillip ngắt ngang, thực muốn đứng về phía Bridgerton sau khi quá tọc mạch, nhưng thực tình có lựa chọn nào khác. thể để mấy đứa nhóc của thô lỗ.

      Hai đứa sinh đôi cùng lúc khoanh tay lại, và cụt lủn nhìn vào Bridgerton.

      “Đúng thế.” Phillip rền vang. “Các con xin lỗi Bridgerton ngay lập tức.”

      Bọn trẻ chăm chăm nhìn chống đối.

      “Ngay!” rống.

      “Xin lỗi.” Chúng lầm bầm, nhưng ai có thể hiểu lầm chúng thực có ý đó.

      “Trở lại phòng , cả hai con.” Phillip đanh thép .

      Cả hai bước như cặp quân lính đầy kiêu hãnh, hếch mũi lên. Đó cảnh khá ấn tượng, nếu Amanda quay phắt lại cuối bậc thang và lè lưỡi.

      “Amanda!” rú, sải bước về phía con bé.

      Con nhóc phóng vụt về phía những bậc thang với vận tốc của con cáo.

      Phillip tự giữ bản thân bất động, hai tay nắm chặt và run bần bật bên hông. Chỉ lần – lần! – mong muốn các con cư xử, và biết suy nghĩ, và trả lời câu hỏi với câu hỏi, và lịch với khách, và le lưỡi, và–

      Chỉ lần, để cảm thấy là người cha tốt, để biết phải làm gì.

      cao giọng lên. căm ghét khi cao giọng, ghét hoảng sợ nghĩ thấy lóe lên trong đôi mắt chúng.

      Căm ghét những ký ức mang lại cho .

      “Ngài Phillip?”

      Bridgerton. Khốn nạn, gần như quên mất ở đây. quay lại. “Vâng?” hỏi, xấu hổ vì chứng kiến bẽ mặt nơi . Điều dĩ nhiên khiến điên tiết với .

      “Quản gia mang khay trà tới.” , ra hiệu về phía phòng khách.

      gật đầu cụt ngủn với . cần ra ngoài. Tránh xa khỏi con , tránh xa khỏi người phụ nữ thấy là người cha tồi tệ như thế nào với chúng. Trời bắt đầu mưa, nhưng cóc quan tâm.

      “Tôi hy vọng tận hưởng bữa sáng.” . “Tôi gặp lại sau khi nghỉ ngơi.”

      Và rồi vội vàng ra khỏi cửa, về phía nhà kính, nơi có thể độc mình chẳng năng, chẳng cư xử ngốc nghếch, và cả bị can thiệp với cỏ cây.

    5. jojolavender

      jojolavender Member

      Bài viết:
      252
      Được thích:
      13
      CHƯƠNG 3

      … cậu có thể thấy tại sao tớ lại từ chối lời cầu hôn ấy.

      ta tới nửa là quá cáu kỉnh, và ràng sở hữu cơn điên giận dữ.

      Tớ nên cưới ai đó hòa nhã và cẩn trọng,

      người đối xử với tớ như nữ hoàng. Hay ít nhất, là công chúa.

      ràng, điều đó phải là cầu quá nhiều.

      – từ Eloise Bridgerton gửi đến người bạn thân nhất của ,

      Penelope Featherington,

      được gửi bởi người đưa thư sau khi

      Eloise nhận được lời cầu hôn đầu tiên.

      Đến buổi chiều, Eloise gần như tin chắc mình phạm sai lầm trầm trọng.

      , lý do độc nhất gần như duy nhất bị thuyết phục là, điều duy nhất căm ghét hơn tạo ra những lỗi lầm chính là việc thú nhận điều ấy. Nên cố gắng giữ vững vẻ nao núng, và bắt bản thân vờ như tình huống kinh hoàng này có thể giải quyết tốt đẹp vào cuối cùng.

      choáng váng – thậm chí, há hốc mồm – khi Ngài Phillip rời chỉ với câu, “Thưởng thức bữa ăn của .” và rồi sải bước về phía cửa. nửa đường băng qua nước , đáp trả lời mời của để đến nơi và thăm hỏi, và để mình trong phòng khách gần nửa giờ sau khi tới?

      mong đợi ngay cái nhìn đầu tiên, và khụy gối xuống, tuyên bố lòng hiến dâng bất diệt, nhưng hy vọng nhiều hơn chỉ là câu cộc lốc “ là ai” và “Thưởng thức bữa ăn của .”

      Hay có lẽ hy vọng ngay cái nhìn đầu tiên. dựng nên giấc mơ tỉ mỉ xung quanh hình ảnh về người đàn ông này – tưởng tượng mà bây giờ biết phải là . để bản thân đúc khuôn như người hoàn hảo, để giờ đây đau đớn nhận ra đơn giản khiếm khuyết, hoàn toàn thăm thẳm chẳng thể hiểu gì.

      Và phần tệ nhất là – phải tự trách cứ bản thân. Ngài Phillip chẳng bao giờ xuyên tạc chính trong những lá thư (dù nghĩ có thể ám chỉ người cha, đặc biệt trước khi cầu hôn).

      Những giấc mơ đơn giản chỉ là – mộng. Mơ ước những ảo ảnh, tất cả đều do tự gây ra. Nếu phải như những gì trông mong, đó là lỗi ở . đòi hỏi những thứ chưa lần tồn tại.

      nên biết hơn.

      Hơn nữa, có vẻ gì như người cha tốt, khi mang cái mặt nạ tối tăm như bất kỳ ai đọc được trong sách.

      , công bằng. nên đánh giá quá nhanh dựa vào lý do đó. Bọn trẻ có vẻ bị ngược đãi, hay thiếu ăn, hoặc chịu đựng bất cứ thứ gì kinh khủng, nhưng Ngài Phillip hiển nhiên có bất cứ ý kiến nào về việc làm sao xoay sở với chúng. xử với chúng đúng vào sáng này, và ràng từ cách cư xử của chúng mối quan hệ cha con được thân thiện lắm.

      Chúa ơi, hai đứa nhóc gần như khẩn nài dành thời gian trong ngày với chúng. Bất kỳ đứa trẻ nào thực nhận được đủ chú ý từ cha mẹ, bao giờ hành động theo cách đó. Eloise và những chị em trải qua phân nửa thời gian trong quãng đời thơ ấu để tránh mặt cha mẹ họ – tất nhiên là muốn bị kiểm soát, để có thể có lợi mà phá phách.

      Cha người cha kỳ diệu. chỉ mới bảy tuổi khi cha mất, nhưng nhớ cha rất , từ những câu chuyện cha len lỏi vào giờ ngủ để thực những cuộc bộ đường dài qua cánh đồng Kent, có đôi lúc là với tất cả những người trong gia đình Bridgerton theo cùng, thỉnh thoảng chỉ với đứa con may mắn duy nhất, được chọn cho những giờ phút đặc biệt ở mình bên Cha.

      Mọi thứ trở nên ràng với rằng, nếu gợi ý cho Ngài Phillip cần tìm ra tại sao hai đứa nhóc lại gào thét và đánh phá đồ đạc, để mặc chúng tự lo liệu lấy, và hiển nhiên mục đính chính trong đời là tránh mặt các con.

      Điều Eloise hoàn toàn thể chấp nhận.

      đặt mình xuống giường, ép bản thân thẳng người lên mặc dù mệt đến tận xương cốt. Nhưng cứ mỗi khi nằm xuống, cái gì đó bắt đầu đạp mạnh trong phổi , và cảm giác chính mình hổn hển trong cảm giác kinh hãi tột cùng, chỉ để phải bật khóc, nhưng , toàn thân run lên nức nở. Nếu ngồi dậy và làm gì đó, chắc có thể điều khiển được bản thân.

      nghĩ có thể chịu được bản thân nếu phải khóc.

      mở mạnh cửa sổ, dù bên ngoài trời vẫn còn lác đác mưa phùn và xám ngắt. có gió, nên mưa chẳng bị gió cuốn , và những gì thực cần bây giờ là ít khí trong lành. Cái lạnh hất vào mặt có thể làm cảm thấy tốt hơn, nhưng nó chắc chắn khiến cảm thấy tệ hơn nữa.

      Từ cửa sổ, có thể thấy khu nhà kính của Ngài Phillip. chắc là ở đó, từ lúc nghe tiếng trong nhà, dậm chân ầm ỹ và quát tháo con . Tấm kính bị phủ mờ sương, và thứ duy nhất có thể thấy là vệt xanh mờ ảo màn cửa – những cây trồng thích của , cho là thế. là loại người gì, mà thích cây cối hơn con người? ràng phải bất cứ ai đánh giá cao cuộc chuyện trò tốt đẹp.

      cảm thấy vai mình chùn xuống. Eloise dành cả nửa cuộc đời tìm kiếm cuộc trò chuyện tốt đẹp.

      Và nếu là người dật, tại sao lại quan tâm viết thư trả lời ? chỉ đơn giản khiến phải nhớ mãi những trao đổi thư từ của họ. nhắc đến lời cầu hôn của . Nếu muốn tình bạn, việc gì phải mời đến đây.

      hít sâu vào vài hơi của cái thứ khí mờ sương ấy, và rồi ép bản thân đứng thẳng dậy. chắc mong đợi làm những gì với bản thân suốt ngày. chợp mắt; vẻ mệt mỏi nhanh chóng chiến thắng khỏi khổ sở. Nhưng ai đến và thông báo cho về buổi trưa, hay mang đến bất cứ kế hoạch khác nào như người khách gia đình.

      Nếu ở lại đây, trong căn phòng nâu xám buồn tẻ và đầy gió lùa này, phát khùng mất. Hay ít nhất tự mình òa khóc trong quên lãng, điều gì đó mà chưa từng phải chịu đựng, nên ý nghĩ về việc ấy khiến kinh hãi.

      có lý do nào lại thể thám hiểm ngôi nhà chút, đúng ? Và có lẽ tự tìm được vài món ăn cho chính cùng với cách ấy. ăn hết bốn cái bánh nướng xốp ở khay trà vào buổi sáng, tất cả chúng đều đầy bơ cùng mứt cam khiến thể lịch phí phạm, nhưng vẫn còn đói chết được. Ở điểm này, nghĩ có thể sẵn sàng dùng đến bạo lực để có miệng sandwich thịt muối.

      thay phục trang, mặc bộ váy áo màu quả đào bằng vải muslin khá xinh xắn, nữ tính mà quá kiểu cách rườm rà. Và quan trọng nhất, với nó dễ dàng leo trèo và trốn thoát, ràng là nhân tố then chốt khi người phải chuồn khỏi nhà mà hầu .

      cái liếc thoáng qua tấm gương rằng trông chỉnh tề, nếu phải là bức tranh của sắc đẹp mê hồn, cũng sải bước ra khỏi phòng và vào đại sảnh.

      Chỉ để ngay lập tức phải đương đầu với hai đứa trẻ sinh đôi tám tuổi mang họ Crane, nhìn rất giống như chúng đứng đó đợi trong cả hai giờ rồi.

      “Chào các cháu.” Eloise , chờ chúng tiến lại. “ dễ thương khi các cháu chào đón .”

      “Chúng tôi ở đây chào đón .” Amanda buột miệng, càu nhàu khi Oliver thúc khủy tay vào xương sườn con bé.

      “Các cháu sao?” Eloise hỏi, cố gắng để nghe ngạc nhiên. “Vậy, có phải, các cháu ở đây, để chỉ cho đến phòng ăn? khá đói, phải thế.”

      .” Oliver , khoanh tay lại.

      cả điều đó ư?” Eloise đăm chiêu. “Để đoán. Hai cháu ở đây để dẫn đến phòng, và cho xem những món đồ chơi của mình.”

      .” Chúng đồng thanh lên tiếng.

      “Vậy hẳn là phải dẫn vòng quanh nhà. Ngôi nhà khá lớn và có thể lạc đường.”

      .”

      ? Các cháu muốn lạc đường, đúng chứ?”

      .” Amanda . “Ý cháu là có!”

      Eloise giả vờ hiểu. “Cháu muốn lạc đường.”

      Amanda gật đầu. Oliver chỉ siết chặt tay vào ngực và xiên với cái nhìn chằm chằm sưng sỉa.

      “Hừmmm. Điều ấy nghe thú vị đó, nhưng nó giải thích cho việc các cháu ở ngay đây ngoài cửa phòng , nhỉ? giống như chuồn với bầu bạn của hai đứa.”

      Môi chúng há ra ngạc nhiên đờ đẫn.

      “Cả hai biết đường xung quanh nhà, phải chứ?”

      “Đương nhiên.” Oliver lầm bầm, theo sau là lời Amanda. “Chúng tôi phải những đứa trẻ sơ sinh.”

      “Ừ , có thể thấy điều đấy.” Eloise với cái gật đầu thấu hiểu. “Sau cùng , những đứa trẻ sơ sinh được phép đứng chờ ngoài cửa phòng . Chúng quá bận bịu với tã lót và bình sữa, cùng những thứ tương tự vậy.”

      Hai đứa nhóc có thêm bất cứ gì để bồi vào.

      “Cha biết các cháu ở đây ?”

      “Cha bận.”

      “Rất bận.”

      “Cha là người rất bận.”

      “Quá bận cho .”

      Eloise quan sát và lắng nghe với thích thú khi hai đứa sinh đôi bắn những câu của chúng ra nhanh như chớp, tất cả đều rơi vào việc tự chứng minh Ngài Phillip bận rộn như thế nào.

      “Vậy những gì hai cháu với ,” Eloise lên tiếng, “là cha cháu bận.”

      Chúng chằm chặp nhìn , trong giây lát lặng đối đáp bình tĩnh có trước những kiện ấy, rồi gật đầu.

      “Nhưng điều đó vẫn giải thích có mặt của các cháu.” Eloise trầm ngâm. “Vì nghĩ cha gửi hai đứa đến đây thay cho cha…”

      đợi cho đến khi hai đứa sinh đôi gật đầu thừa nhận phải do cha chúng gửi đến, rồi thêm vào. “Trừ khi… biết rồi!” bằng giọng thích thú, tự cho phép bản thân mỉm nụ cười ngơ ngẩn trước tài tình của mình. có chín cháu trai và cháu . biết chính xác phải chuyện với lũ trẻ như thế nào. “Các cháu ở đây để cho hai đứa có năng lực phép thuật, và có thể tiên đoán trước thời tiết.”

      .” Chúng , nhưng Eloise nghe thấy tiếng khúc khích.

      ư? Đúng là hổ thẹn, vì cơn mưa phùn dai dẳng này khốn khổ, các cháu có nghĩ vậy ?”

      .” Amanda , khá quả quyết. “Cha thích mưa, và bọn tôi cũng vậy.”

      “Cha cháu thích mưa?” Eloise ngạc nhiên hỏi. “ là kỳ lạ.”

      , kỳ lạ.” Oliver trả lời, tư thế phòng thủ. “Cha tôi kỳ lạ. Cha hoàn hảo. Đừng những thứ tầm thường về cha.”

      thế.” Eloise trả lời, tự hỏi chuyện quái gì trái đất diễn ra. Lúc đầu, nghĩ hai đứa sinh đôi đơn thuần ở đây để gieo rắc nỗi kinh hoàng cho . Có lẽ, chúng nghe cha chúng nghĩ tới việc cưới và, muốn người mẹ kế, đặc biệt là từ các câu chuyện Eloise được nghe các hầu phòng nối tiếp nhau tội nghiệp kể, về người gia sư đến và rời .

      Nhưng nếu đó đơn giản là , phải chúng muốn nghĩ có điều gì đó ổn với Ngài Phillip? Nếu chúng muốn , phải chúng cố thuyết phục rằng ứng viên khủng khiếp cho hôn nhân?

      đảm bảo, nuôi dưỡng bất cứ xấu xa nào nhắm về cháu.” Eloise . “Thực ra, chỉ mới biết cha cháu.”

      “Nếu làm Cha buồn, tôi … tôi …”

      Eloise quan sát gương mặt cậu bé đáng thương đỏ lựng trong bất lực, khi cu cậu chiến đấu với từ ngữ và can đảm. Cẩn thận, dịu dàng, cúi xuống cạnh cậu bé, cho đến khi gương mặt ngang tầm với cậu, và . “Oliver, hứa với cháu, ở đây để làm cha cháu buồn.”

      Thằng bé gì, nên quay sang em sinh đôi của cậu và hỏi. “Amanda?”

      cần phải .” Amanda lên tiếng, tay con bé khoanh lại chặt đến mức gương mặt biến thành màu đỏ. “Chúng tôi muốn ở đây.”

      “À, đâu ít nhất là cho đến tuần.” Eloise , giữ cho giọng kiên quyết. Bọn trẻ cần cảm thông, và chắc chắn cũng cần nhiều thương nữa, nhưng chúng cũng cần cả ít kỷ luật và ý tưởng ràng ai là người ra lệnh.

      Và rồi, từ đâu cả, Oliver phóng về phía trước và đẩy mạnh, với cả hai tay chống lên ngực .

      chới với, thụp người xuống khi có cơ hội. Eloise ngã chúi ra sau, bàn tọa ịnh xuống đất với vẻ thiếu tao nhã nhất, và lăn về sau cho đến khi khá chắc chắn là hai đứa sinh đôi nhìn no mắt vào những váy lót của .

      “Chà.” tuyên bố, đứng lên và khoanh tay lại khi nhìn chăm chăm nghiêm khắc xuống chúng. Cả hai đều lùi lại vài bước, và lom lom nhìn với vẻ trộn lẫn giữa niềm hân hoan và khiếp sợ, cứ như chúng hoàn toàn thể tin được rằng đứa trong số chúng can đảm đẩy . “Cái đó,” Eloise tiếp, “là khôn ngoan.”

      chuẩn bị đánh chúng tôi?” Oliver hỏi. Giọng thằng bé ngang ngạnh thách thức, nhưng có gợi ý chống lại, như thể ai đó từng đánh chúng trước kia.

      “Dĩ nhiên là .” Eloise nhanh chóng . “ tin tưởng vào việc đánh đập trẻ con. tin vào việc đánh đập bất cứ ai.”

      Ngoại trừ người nào hành hạ trẻ con, tự thêm vào với chính mình.

      Chúng trông phần nào yên tâm khi nghe thế.

      “Tuy nhiên, có thể nhắc cháu,” Eloise tiếp, “cháu đánh trước.”

      “Cháu đẩy .” Thằng bé sửa lại.

      tự cho phép bản thân khẽ toét miệng cười. nên thấy trước việc ấy. “Nếu hai cháu muốn mọi người đánh mình, cháu nên luyện tập triết lý sống tương tự.”

      “Điều Luật Vàng.” Amanda chán nản.

      “Chính xác.” Eloise , cười tươi rói. khá nghi ngờ có thể thay đổi cuộc đời chúng với chỉ bài giảng nho , nhưng dù sao là tốt để hy vọng vài điều khiến chúng cân nhắc.

      “Nhưng phải nó có nghĩa,” Amanda ân cần , “là nên về nhà?”

      Eloise cảm giác giây phút phấn chấn bé tan thành tro bụi, khi cố gắng tưởng tượng Amanda nhảy đến logic gì để lao vào việc giải thích tại sao Eloise nên bị đầy đến Amazon.

      “Chúng tôi ở nhà.” Amanda , nghe cực kỳ khinh khỉnh với đứa trẻ mới tám tuổi đầu. Hay có lẽ con bé khinh khỉnh như chỉ mộtđứa trẻ tám tuổi đầu có thể. “Vậy nên về nhà.”

      “Cách đó hiệu quả đâu.” Eloise sắc bén .

      “Có, nó hiệu quả.” Amanda trả lời với cái gật đầu đỏm dáng. “Làm những thứ khác muốn làm cho . Chúng tôi đến nhà , nên nên đến nhà của chúng tôi.”

      “Cháu rất lanh lợi, cháu biết điều đó ?” Eloise hỏi.

      Amanda trông cứ như con bé muốn gật đầu, nhưng ràng quá nghi ngờ lời bình luận của Eloise để có thể chấp nhận.

      Eloise khụy xuống nên tất cả mặt-đối-mặt, cả ba cháu. “Nhưng ,” với chúng bằng giọng rất nghiêm rúc – và hơi thách thức, “cũng rất khôn ngoan.”

      Chúng trân trân nhìn với đôi mắt mở to, môi trễ xuống, khi đánh giá người phụ nữ này ràng là khác biệt so với bất kỳ người trưởng thành nào mà chúng từng gặp.

      “Chúng ta hiểu lẫn nhau chưa nhỉ?” Eloise hỏi, thẳng lưng lên, và vuốt hai tay dọc theo váy trong kiểu cách vờ như vô tình.

      Chúng gì, nên quyết định trả lời cho chúng. “Tốt.” . “Nào, giờ , hai cháu có vui lòng chỉ cho đường nào đến phòng ăn ? đói muốn chết.”

      “Chúng tôi có giờ học.” Oliver .

      “Các cháu có sao?” Eloise hỏi, cong mày lại. “ thú vị làm sao. Vậy cả hai phải quay lại với các bài học của mình . tưởng tượng rằng hai đứa tụt lại phía sau, sau khi dành quá nhiều thời gian chờ ngoài cửa phòng .”

      “Làm sao biết–” Câu hỏi của Amanda bị chận lại bởi cái thúc khủy tay của Oliver vào xương sườn con bé.

      có bảy chị em.” Eloise trả lời, quyết định câu hỏi của Amanda xứng đáng có câu trả lời, dù ngay cả khi trai cho bé kết thúc câu hỏi. “ có nhiều cuộc chiến tranh kiểu này mà chưa từng biết.”

      Nhưng khi hai đứa sinh đôi gấp gáp chạy xuống đại sảnh, Eloise day day môi dưới lo âu. có cảm giác thể kết thúc cuộc gặp gỡ của họ với thách thức như thế này. gần như thách Oliver và Amanda tìm ra cách để đuổi khỏi nơi đây.

      Và trong khi khá chắc chắn là hai đứa nhóc thành công – sau cùng , mang họ Bridgerton, và được tạo thành từ chất liệu cứng rắn hơn hai đứa nhóc ấy từng biết – có cảm giác chúng quẳng đến từng thớ thịt vào nhiệm vụ này.

      Eloise rùng mình. Cả đám lươn giường ngủ, mái tóc ngấm đầy mực, mứt vương vãi những chiếc ghế. Nó xảy ra với vào lúc này hay lúc khác, và đặc biệt hấp dẫn màn biểu diễn đáp trả – và chắc chắn bởi cặp đôi trẻ con hơn hai mươi tuổi.

      thở dài, tự hỏi để bản thân vướng vào chuyện gì. Tốt hơn nên tìm Ngài Phillip, và chú trọng vào mục tiêu quyết định họ có hợp nhau hay . Vì nếu thực ở đây hay hai tuần, bao giờ thấy những người họ Crane lần nữa, chắc muốn đặt bản thân vào rắc rối với cả bầy chuột, và lũ nhện, và muối trong hũ đường.

      Dạ dày sôi ùng ục. Có phải là do ý nghĩ về muối hay đường gây ra hay , Eloise biết. Nhưng ràng là đến thời gian tìm cái gì đó để ăn. Và sớm tốt hơn muộn, trước khi hai đứa nhóc sinh đôi có cơ hội tìm ra làm thế nào để đầu độc vào bữa ăn của .

      Phillip biết rằng phạm sai lầm tệ hại. Nhưng quỷ tha ma bắt nó, người phụ nữ chết tiệt ấy cảnh báo . Nếu báo trước chuyến viếng thăm, có thể tự chuẩn bị cho bản thân, nghĩ ra vài thứ đầy chất thơ để . Chẳng lẽ thực nghĩ là nguệch ngoạc tất cả những lá thư đó mà nặn óc đến từng từ? bao giờ gửi bản nháp đầu tiên của bất kỳ thư từ nào (dù luôn viết nó tờ giấy tốt nhất có, mỗi lần đều hy vọng rằng lần này thành công ngay lần thử đầu tiên).

      Ôn nó, nếu cho lời cảnh báo, thậm chí có thể có hay hai cử chỉ lãng mạn. Những khóm hoa rất xinh tươi, và có Chúa biết, nếu có thứ giỏi, đó chính là cỏ hoa.

      Nhưng thay vào đó, đơn giản xuất trước cứ như đột ngột bước ra từ giấc mơ, và làm hỏng hết mọi thứ.

      Và điều đó giúp ích gì cho việc Eloise Bridgerton như những gì mong đợi.

      già hai-mươi-tám-tuổi, vì Chúa. được cho là phải hấp dẫn. Mặt ngựa, thậm chí thế, thay vào đó lại–

      Chà, chắc người có thể miêu tả chính xác như thế nào. phải xinh đẹp, hoàn toàn đúng thế, nhưng dù vậy chẳng hiểu bằng cách nào vẫn khiến ta chuếnh choáng, với mái tóc dày màu hạt dẻ, và đôi mắt xám trong suốt nhất, cứng cỏi nhất. là kiểu phụ nữ sở hữu những biểu cảm khiến trở nên xinh đẹp. Có thông minh trong đôi mắt , có vẻ tò mò trong cách nghiêng đầu về bên. Những đặc điểm nơi là duy nhất, gần như đẹp kỳ lạ, với khuôn mặt hình trái tim và nụ cười tươi tắn rộng mở.

      phải thấy nhiều như thế về nụ cười đó. Vẻ quyến rũ chẳng-chút-huyền-thoại nơi nhận thấy điều ấy.

      ấn chặt hai bàn tay vô cái cọc đất ẩm ướt, và nhấc vài chậu đất sét , nới lỏng nó ra để rễ cây phát triển tốt nhất. Bây giờ làm cái khỉ gì vậy? kẹp những hy vọng của mình vào hôn nhân với Eloise Bridgerton, dựa những lá thư gửi trong gần năm trước. có thời gian (và cũng , , có khuynh hướng) tán tỉnh người mẹ tương lai cho hai đứa sinh đôi, nên mọi chuyện có vẻ như hoàn hảo ( phải kể đến là gần như dễ dàng) để theo đuổi qua những lá thư.

      Rã ràng người phụ nữ chưa kết hôn nhanh chóng đến gần tuổi ba mươi hài lòng khi nhận được lời cầu hôn. mong đợi nhận lời đề nghị của mà chưa lần gặp gỡ, dĩ nhiên, và cũng chuẩn bị cho cam kết chính thức về ý tưởng ấy mà biết thêm về . mong mỏi người nào đó ít nhất có tý tuyệt vọng cho việc tìm người chồng.

      Thay vào đó, trông trẻ tuổi, xinh đẹp, thông minh, tự tin và lạy Chúa, tại sao người phụ nữ như thế thậm chí lại muốn kết hôn với người chưa từng biết mặt? kể đến việc dứt khoát ràng buộc chính vào tòa dinh thự thôn quê trong góc xa xôi nhất của Gloucestershire. Phillip có thể ít hiểu biết về thời trang, nhưng dù vậy có thể phục trang là loại tốt và gần như là mẫu mới nhất. mong đợi những cuộc du hành đến London, cuộc sống xã hội năng động, bạn bè.

      giống như bất cứ thứ gì trong số ấy có thể tìm thấy ở đây, tại Romney Hall.

      Gần như có vẻ là vô ích khi thậm chí cố gắng kết thân với . ở lại, và thằng ngốc khi dựng nên những hy vọng cho mình.

      rên lên, sau đó chửi rủa trong giới hạn cho phép. Giờ đây sắp tán tỉnh vài người phụ nữ khác. Chết tiệt, giờ sắp phải tìm vài người phụ nữ khác để mà ve vãn, điều gần như là khó khăn. ai trong vùng này thậm chí nghía mắt đến . Tất cả các quý chưa chồng đều biết về hai đứa sinh đôi, và chẳng người nào trong số họ sẵn sàng nhận lấy trách nhiệm với hai đứa tiểu quỷ ấy.

      kẹp chặt mọi hy vọng của mình vào Bridgerton, và giờ đây có vẻ như cũng sắp từ bỏ cả .

      đặt mạnh chậu cây xuống kệ, cau mày khi tiếng loảng xoảng của chúng ngân vang khắp nhà kính.

      Với tiếng thở dài ầm ỹ, nhúng đôi bàn tay vấy bùn vào cái thùng chứa nước bẩn để rửa sạch. thô lỗ vào buổi sáng này. vẫn còn khá cáu tiết khi đến đây và lãng phí thời gian của – hay nếu lãng phí nó, hầu như chắc chắn lãng phí nó, vì có vẻ gì là quay lại và rời vào buổi chiều.

      Nhưng điều đó tha thứ được cho cách cư xử của . phải lỗi khi thể quản lý các con mình, và chắc chắn phải lỗi khi khuyết điểm này luôn đặt vào tình trạng cáu giận.

      Lau sạch hai tay vào chiếc khăn để gần cửa, sải bước dưới cơn mưa phùn và tiến về nhà. Hiển nhiên là thời gian cho buổi trưa, và chẳng làm tổn thương ai khi ngồi xuống bên bàn ăn cùng , và có cuộc chuyện trò lịch .

      Thêm vào đó, ở đây. Sau tất cả nỗ lực có với những lá thư, là ngốc nghếch khi ít nhất thử xem họ có đủ hợp nhau để tiến tới hôn nhân hay . Chỉ có đứa ngu mới gói ghém đồ đạc lại – hay cho phép bỏ – mà thậm chí tìm hiểu kỹ càng có thích hợp hay .

      giống như ở lại, nhưng , đoán chừng, thể nào, và có thể ít nhất thử lần.

      xuyên qua cơn mưa phùn lất phất và vào nhà, chùi chân tấm thảm mà người quan gia thường để ngoài cho gần cửa vào. người nhếch nhác, khi luôn trở về sau khi làm việc trong nhà kính, và những người hầu quen với tình trạng này của , nhưng cho là nên lau sạch người trước khi tìm Bridgerton và mời ăn tối cùng với . đến từ London, và chắc hẳn chống đối việc ngồi cùng bàn với người đàn ông kém hơn cả tên nài ngựa hoàn hảo.

      băng ngang qua gian bếp, gật đầu ân cần với hầu rửa đám cà rốt trong chậu nước. Những bậc thang dành cho kẻ hầu chỉ vừa ở bên ngoài cánh cửa khác trong gian bếp và–

      Bridgerton!” trong ngạc nhiên. ngồi ở cái bàn trong bếp, nửa đường ngoạm cái sandwich thịt xông khói tổ chảng, và trông ràng như ở nhà với chỗ ngồi cái ghế đẩu. “ làm gì ở đây?”

      “Ngài Phillip.” , gật đầu với .

      cần phải ăn trong nhà bếp.” , trừng mắt về phía với chẳng lý do nào hơn là ở nơi mong đợi ở.

      Điều đó và thực tế là thực có ý định thay trang phục cho bữa trưa – việc gì đó mà thường chẳng thèm bận tâm – vì lợi ích của , và giờ bắt gặp trong tình trạng lôi thôi, dù sao nữa.

      “Tôi biết.” trả lời, nghiêng đầu, chớp đôi mắt hủy diệt màu xám tro về phía . “Nhưng tôi tìm kiếm thức ăn cùng ai đó bầu bạn, và nơi đây có vẻ như là nơi tốt nhất để tìm được cả hai.”

      Đây có phải lời sỉ nhục ? chắc, và đôi mắt trông quá ngây thơ, nên quyết định làm ngơ và . “Tôi chỉ đường thay trang phục sạch hơn, và mời cùng ăn trưa với tôi.”

      “Tô hạnh phúc khi ở phòng ăn phụ và kết thúc miếng sandwich của tôi ngay đây, nếu có ý muốn tham gia cùng tôi.” Eloise . “Tôi chắc rằng Bà Smith phiền làm thêm miếng sandwich nữa cho . Cái này ngon quá.” nhìn xung quanh tìm Chị Bếp. “Bà Smith?”

      thành vấn đề, Bridgerton.” Chị Bếp , bỏ lại Phillip gần như há hốc mồm nhìn bà. Đây ràng là giọng điệu thân tình nhất mà chưa lần nào được nghe thoát ra từ miệng bà ấy.

      Eloise xê dịch bản thân khỏi ghế và lấy cái đĩa của . “Chúng ta ăn chứ?” với Phillip. “Tôi chống đối nào với quần áo của .”

      Trước khi nhận ra thậm chí đồng ý với kế hoạch của , Phillip thấy bản thân mình tự động ở trong phòng ăn phụ, ngồi đối diện ở cái bàn tròn thường dùng hơn cái bàn dài, nơi độc mình trong phòng ăn chính trang trọng. hầu phục vụ trà cho Bridgerton, và sau khi dò hỏi nếu cũng cần, Bridgerton thành thạo tự chuẩn bị tách cho .

      Cảm giác này đáng lo. khôn khéo dẫn dắt để phục vụ cho những mục đích của , và bằng cách nào đó có vẻ như là vấn đề rằng, có ý định hỏi dùng bữa trưa với theo cách này. thích nghĩ ít nhất danh nghĩa điều khiển nhà .

      “Tôi gặp các con ban nãy.” Bridgerton , nâng tách trà lên môi.

      “Phải, tôi ở đó.” trả lời, hài lòng rằng khởi xướng cuộc trò chuyện. Giờ cần phải làm điều đó.

      .” sửa lại. “Sau đó.”

      ngước lên trong thắc mắc.

      cảm giác kinh khủng bắt đầu khuấy đảo và lộn tùng phèo trong bao tử . Chờ đợi với cái gì? bọc những con ếch sống? bọc những con ếch chết? Hai đứa con tử tế với gia sư của chúng, và tưởng tượng được chúng rộng lượng hơn với khách nữ, người ràng ở đây trong vai trò mẹ kế tương lai.

      ho lụ khụ. “Tôi tin là sống sót sau cuộc chạm trán?”

      “Ồ, vâng.” . “Chúng tôi đạt đến thấu hiểu thích hợp.”

      thấu hiểu?” nhìn cách cảnh giác. “Thích hợp?”

      phẩy tay trước câu hỏi của khi nhai thức ăn. “ cần lo lắng cho tôi.”

      “Tôi có cần lo lắng cho các con tôi?”

      ngước lên nhìn với nụ cười bí . “Tất nhiên .”

      “Rất tốt.” cúi xuống nhìn miếng sandwich đặt trước , và cắn phát cực lực. Khi nuốt xuống, nhìn thẳng vào mắt . “Tôi phải xin lỗi về đón chào của tôi vào lúc sáng. Tôi được lịch cho lắm.”

      gật đầu vương giả. “Và tôi xin lỗi vì đến báo trước. Như thế là vô giáo dục.”

      gật đầu lại. “, tuy nhiên, xin lỗi về chuyện đó vào sáng nay, trong khi tôi .”

      mỉm cười với , nụ cười thành , và cảm thấy trái tim mình chao đảo. Chúa ơi, khi cười như thế, cả gương mặt thay đổi. Trong suốt quãng thời gian qua lại thư từ với , chưa bao giờ mơ có thể lấy hơi thở nơi .

      “Cám ơn.” lầm bầm, gò má ửng lên với gợi ý ràng là phớt hồng. “ là tử tế.”

      Phillip hắng giọng và cựa quậy khó chịu ghế. Chuyện gì xảy ra với , đến nỗi bên cạnh khi cau mày giận dỗi lại thấy thoải mái hơn lúc mỉm cười?

      “Được rồi.” , ho lên lần nữa để giấu vẻ cộc cằn trong giọng. “Giờ chúng ta mình, có lẽ nên thẳng thắn về lý do ở đây.”

      Eloise đặt miếng sandwich xuống và nhìn với vẻ hoàn toàn ngạc nhiên. ràng, mong đợi thẳng thắn đến thế. “ hứng thú với hôn nhân.” .

      “Còn ?” hỏi lại.

      “Tôi ở đây.” cách đơn giản.

      giương mắt nhìn ước lượng, đôi mắt dò xét đôi mắt , cho đến khi cảm thấy lúng túng trong chỗ ngồi. “ như những gì tôi mong đợi, Bridgerton.”

      “Trong hoàn cảnh này, tôi nghĩ thích hợp cho sử dụng tên thánh của tôi.” lên tiếng. “Và cũng như những gì tôi mong đợi.”

      ngồi lại xuống ghế, nhìn với nụ cười mập mờ nhất. “Và mong chờ điều gì?”

      mong chờ điều gì?” Eloise hỏi lại.

      trao cho cái nhìn rằng chú ý lẩn tránh câu hỏi, rồi , khá thẳng thừng. “Tôi trông mong lại xinh đẹp đến thế.”

      Eloise cảm thấy bản thân khẽ chới với ra sau trước lời bình luận bất ngờ đó. trong tình trạng tốt nhất vào sáng nay, và thậm chí nếu có thế – chà, chưa bao giờ được xem là trong những sắc đẹp của giới thượng lưu. Những phụ nữ nhà Bridgerton thường được nghĩ là quyến rũ, sôi nổi, và duyên dáng. và các chị em đều nổi tiếng, và tất cả họ đều nhận được hơn lời cầu hôn, nhưng đám đàn ông có vẻ như thích họ vì họ thích thế, phải vì bị đấm cú chết lặng trước sắc đẹp nơi họ.

      “Tôi… ơ…” cảm thấy đỏ mặt, khiến xấu hổ, điều ấy làm gò má thậm chí ửng đỏ hơn. “Cám ơn.”

      gật đầu độ lượng.

      “Tôi hiểu tại sao việc tôi xuất ở đây lại khiến ngạc nhiên.” , hoàn toàn khó chịu với bản thân vì phản ứng lại quá mạnh với lời tâng bốc nơi . Chúa ơi, người có thể nghĩ chưa bao giờ nhận được lời ca tụng trước kia. Nhưng chỉ ngồi đó, giương mắt nhìn . Giương mắt, và nhìn chằm chằm, và…

      rùng mình.

      Và ở đây hề có tý gió nào. người có thể rùng mình vì cảm thấy quá… nóng?

      “Chính viết già.” . “Chắc hẳn phải có vài lý do vẫn chưa kết hôn.”

      “Đó phải là vì tôi nhận được lời cầu hôn nào.” cảm giác bị cưỡng bách phải thông tin cho .

      “Dĩ nhiên là .” , nghiêng đầu về hướng như cử chỉ ca ngợi. “Nhưng tôi thể ngăn nổi tò mò, tại sao người phụ nữ như lại cảm thấy cần thiết cầu viện đến… à… tôi.”

      nhìn , nhìn lần đầu tiên kể từ khi tới. khá đẹp trai theo kiểu bù xù, hơi lếch thếch. Mái tóc sẫm màu trông như cực kỳ cần cắt tỉa gọn gàng, và làn da chỉ ra những dấu hiệu rám nắng, cho thấy ấn tượng gần đây chúng tận hưởng những tia nắng mặt trời bé như thế nào. to lớn và cơ bắp, và ngồi vào ghế với vẻ lơ đãng, vẻ duyên dáng lực lưỡng, cẳng chân duỗi ra theo cách thể chấp nhận được trong phòng khách ở London.

      Và vẻ mặt cho biết rằng mặc xác những cung cách của có hợp lệ hay . Đó giống như kiểu dáng điệu ngang ngạnh thường thấy ở các cậu chàng trẻ măng của giới. gặp nhiều đàn ông loại đó – những người khoái làm những cuộc trò chuyện ngạo mạn, và rồi phá hủy ấn tượng bằng cách bước ra khỏi đường và đảm bảo rằng mọi người biết họ táo bạo và gây phẫn nộ như thế nào.

      Nhưng với Ngài Phillip điều đó lại khác hẳn. Eloise cược khoảng tiền lớn rằng điều đó đơn giản chưa bao giờ xảy ra với , rằng quan tâm đến việc ngồi chính xác theo kiểu cách trang trọng, và ràng đảm bảo là mọi người biết kệ xác điều ấy.

      Việc đó khiến Eloise tự hỏi nếu đó là dấu hiệu của con người thực tự tin, và nếu vậy , tại sao lại cần cầu viện đến ? Vì từ những gì thấy ở , ngoài những kiểu cách cộc lốc sáng nay, có nhiều rắc rối trong việc tìm người vợ.

      “Tôi ở đây,” , cuối cùng nhớ ra hỏi câu hỏi, “vì sau khi từ chối vài lời cầu hôn” – biết người tốt nhún nhường hơn và chịu nhiều đau đớn đến thế khi nhấn mạnh vào từ ‘vài lời’, nhưng chỉ đơn giản ngăn bản thân lại được – “tôi thấy rằng tôi vẫn khát khao người chồng. Những lá thư có vẻ như ngụ ý có thể là ứng viên thích hợp. Có vẻ như là thiển cận khi gặp gỡ và tìm ra nếu đó đúng là .”

      gật đầu. “ rất thực tế.”

      “Còn sao?” hỏi ngược lại. “ là người gợi ra chủ đề về hôn nhân. Sao thể đơn giản tìm cho bản thân mình người phụ nữ giữa bao nhiêu phụ nữ nơi này?”

      Trong thoáng làm gì hơn là chớp mắt, nhìn như ràng thể tin được tự mình nhận ra điều ấy. Cuối cùng, . “ gặp các con tôi.”

      Eloise gần như mắc nghẹn miếng sandwich cắn trước đó khi bắt đầu nhai. “ gì cơ?”

      “Các con tôi.” huỵch toẹt. “ gặp chúng. Hai đứa, tôi nghĩ vậy. với tôi thế.”

      “Vâng, nhưng cái đó…” cảm thấy mắt mình mở to hơn. “Ồ, , đừng tôi chúng dọa từng người vợ tương lai trong khu vực này bỏ ?”

      phóng ngang tầm mắt qua với vẻ dữ tợn. “Hầu hết phụ nữ quanh đây từ chối thậm chí là bước vào vị trí của những người vợ tương lai.”

      chế giễu. “Chúng tệ đến thế.”

      “Chúng cần người mẹ.” tiêu cực .

      nhướng mày. “Chắc chắn có thể tìm được cách lãng mạn hơn để thuyết phục tôi làm vợ .”

      thở dài mệt mỏi, lùa tay vào mái tóc rối bù. “ Bridgerton.” , rồi tự sửa lại. “Eloise. Tôi thành với , bởi vì, lòng mà , tôi có năng lượng hay kiên nhẫn cho những từ ngữ ngọt ngào hoặc những mẩu chuyện được dựng nên khéo léo. Tôi cần người vợ. Các con tôi cần người mẹ. Tôi mời đến đây để xem xét nếu sẵn lòng đảm nhận vai trò đó, và thế, nếu và tôi hợp nhau.”

      “Cái nào?” thều thào.

      nắm chặt hai bàn tay, những khớp ngón tay chà lên tấm khăn trải bàn. Phụ nữ là thế này phải ? Có phải họ chuyện về loại mật mã nào đó? “Cái nào… gì?” hỏi, giọng nhuốm vẻ nôn nóng.

      muốn cái nào?” , giọng vẫn nhàng. “ người vợ hay người mẹ?”

      “Cả hai.” lên tiếng. “Tôi nghĩ điều đó là ràng.”

      muốn cái nào hơn?”

      Phillip chăm chăm nhìn trong lúc lâu, nhận thức được đây là câu hỏi quan trọng, hoàn toàn là tín hiệu có thể kết thúc mối quan hệ lạ thường này của . Cuối cùng, chỉ nhún vai bất lực với . “Tôi xin lỗi, nhưng tôi biết phải tách chúng ra riêng biệt như thế nào.”

      gật đầu, đôi mắt nghiêm túc. “Tôi hiểu.” lầm bầm. “Tôi hy vọng đúng.”

      Phillip thở hắt ra hơi dài, thậm chí nhận ra giữ nó. Chẳng biết bằng cách nào – chỉ có Chúa mới biết – trả lời . Hay ít nhất, xa là bao.

      Eloise khẽ bồn chồn trong chỗ ngồi, rồi ra dấu về phía miếng sandwich ăn dở đĩa . “Chúng ta nên tiếp tục bữa ăn chăng?” gợi ý. “ ở trong nhà kính suốt buổi sáng. Tôi chắc rằng hẳn phải đói chết được.”

      Phillip gật đầu và cắn miếng vào thức ăn của , bất giác cảm giác hoàn toàn hài lòng với cuộc sống. vẫn chắc Bridgerton có đồng ý trở thành Quý bà Crane hay , nhưng nếu ưng thuận…

      Chà, nghĩ có bất kỳ phản đối nào.

      Nhưng theo đuổi dễ dàng như đoán trước. Mọi chuyện ràng với rằng cần hơn nhiều cách khác nhau. tin già tuyệt vọng, hiển nhiên là phải trường hợp này, dù quá tuổi. Bridgerton, cho là, có vài lựa chọn trong cuộc sống, mà là người duy nhất.

      Nhưng dù vậy, hẳn có điều gì đó thúc giục rời khỏi nhà và suốt quãng đường tới Gloucestershire. Nêu cuộc sống ở London hoàn hảo, vậy, tại sao, lại bỏ ?

      Nhưng khi quan sát qua chiếc bàn, quan sát gương mặt khẽ chuyển thành nụ cười, trong dưng lên cảm giác – cóc quan tâm tại sao bỏ .

      chỉ cần đảm bảo ở lại.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :