GẶP LẠI CHỐN HỒNG TRẦN SÂU NHẤT - Bạch Lạc Mai ( 29 chương)

Thảo luận trong 'Thùng Rác'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. DragonProk

      DragonProk Well-Known Member

      Bài viết:
      502
      Được thích:
      756
      GẶP LẠI CHỐN HỒNG TRẦN SÂU NHẤT
      Tác giả: Bạch Lạc Mai
      [​IMG]
      - Tác giả:Bạch Lạc Mai
      - Đơn vị phát hành: Cẩm Phong Books
      - Giá bìa: 108.000
      - Ngày xuất bản: 8/2014

      Giới thiệu

      Chúng ta luôn mong mỏi người khác đến cứu rỗi, lại biết con người chỉ có tự cứu mình rồi mới có thể cứu người. Chúng ta luôn ở trong biển biếc của mình, kể chuyện nương dâu của người ta, lại biết có ngày, nương dâu của mình vừa khéo là biển biếc của người khác. Ván cờ nhân sinh này, nếu cố chấp phải tiếp theo cách nghĩ của mình, kết quả là cả ván đều thua, non sông đều mất.

      Gặp nhau quen nhau

      Thà rằng gặp, về sau khỏi buồn

      Đoạn đành dứt áo luôn

      Để thôi khổ sở mỏi mòn tương tư.

      "Gặp gỡ trong năm tháng thanh xuân chẳng cần bất cứ ước hẹn nào, ngẫu nhiên lướt qua nhau, lơ đãng ngoái nhìn thoáng đều có thể kết nên đoạn duyên phận. Chúng ta đều từng có những năm tháng vô cùng tươi đẹp, vì người mình dốc hết tất cả tình cảm mãnh liệt, thao thao thề thốt trước núi cao sông sâu. Tự cho rằng là giống đa tình, sau khi trải qua quá trình quấn quýt, bắt đầu cảm thấy chán ngán, khi đó, nhận ra thề non hẹn biển lúc trước chỉ là trò chơi của tuổi trẻ. Sống đời này, chúng ta phải tuân thủ quy tắc, quy tắc nhân sinh, quy tắc tình , bèo nước gặp nhau định sẵn là khách qua đường, khi duyên hết chớ nên khổ sở cưỡng cầu."​
      longtran2710 thích bài này.

    2. DragonProk

      DragonProk Well-Known Member

      Bài viết:
      502
      Được thích:
      756
      Chương 1
      [​IMG]

      Cuốn sách này viết về cuộc đời và thơ ca của Tsangyang Gyatso, vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 6 “sinh vì Phật, sống vì tình”, người viết câu thơ bất hủ: “Thế gian sao có đôi đường vẹn, Chẳng phụ Như Lai chẳng phụ nàng.”


      Tsangyang Gyatso (Thương Ương Gia Thố 1683-1706) là thủ lĩnh chính trị tôn giáo Tây Tạng, là Phật sống, nhưng vẫn quyến luyến hồng trần, vấn vương tình ái. Ngài cũng là trong những nhà thơ nổi tiếng nhất Tây Tạng, những bài thơ của Ngài phóng khoáng lãng mạn mà chân thành sâu sắc, được lưu truyền rộng rãi suốt ba trăm năm qua. Tuy Tsangyang Gyatso vi phạm thanh quy giới luật của bậc tu hành, nhưng người đời vẫn lòng kính Ngài, họ chép tay, truyền miệng, ngâm nga những vần thơ đẹp đẽ cảm động của Ngài. Đối với họ, Ngài là vị Phật sống hữu tình, dám rời bỏ cung vàng điện ngọc, vào dân gian, cùng chúng sinh “gặp lại chốn hồng trần sâu nhất”.


      Bằng văn phong trau chuốt bay bổng, mang hơi hướng “thiền”, tác giả Bạch Lạc Mai dẫn dắt chúng ta qua từng giai đoạn thăng trầm trong cuộc đời đầy sắc thái truyền kỳ của Tsangyang Gyatso, cũng là thời kỳ lịch sử nhiều biến động của Tây Tạng. Tây Tạng huyền bí quyến rũ lên giữa các trang sách, với những núi thần hồ thánh thảo nguyên, với những cung điện và tu viện Phật giáo Tạng truyền nguy nga, với những người dân Tạng thành kính mộ đạo…


      Phụ lục của sách giới thiệu đầy đủ 66 bài thơ của Tsangyang Gyatso, được chuyển ngữ sang tiếng Việt dựa bản dịch tiếng Trung của Tăng Giam.


      Đây là cuốn sách nên đọc chậm, nhưng nếu bạn có hứng thú tìm hiểu thêm về Tây Tạng và Tsangyang Gyatso, nếu bạn chuộng lối viết tản văn thanh nhã của Bạch Lạc Mai, hẳn bạn thích nó. Nhấm nháp tách trà ngon, thong thả lật giở từng trang sách, thế giới bận rộn ồn ã bên ngoài dường như lùi xa, trước mắt bạn thấp thoáng bầu trời Tây Tạng xanh ngăn ngắt tưởng chừng với tay chạm được, bên tai bạn văng vẳng thơ ca du dương của vị tình tăng có tên là Tsangyang Gyatso…


      Lời tựa

      Gặp lại chốn hồng trần sâu nhất


      Rất nhiều năm trước, tôi thích thơ của Tịch Mộ Dung[1]. Lúc ấy cứ luôn mong mỏi có cuộc gặp gỡ trong sáng với người hữu duyên nào đó ngọn núi nở đầy hoa dành dành. Có lẽ sau này gặp, cũng từng nắm tay nhau qua nẻo đường hồng trần. Rồi cho tới ngày, chúng tôi lại độc đến lãng quên đôi bên.


      [1] Tịch Mộ Dung, sinh năm 1943, nữ nhà thơ, nhà tản văn, họa sĩ nổi tiếng của Đài Loan. Tác phẩm tiêu biểu: Cây nở hoa,Hương bảy dặm… Bài thơ Chờ mong của bà có hai câu: “Nếu có thể sườn núi nở đầy hoa dành dành. Cùng gặp gỡ.”


      Dòng chảy thời gian ngày càng sâu, nhiều việc mơ hồ . Chúng ta luôn rằng, nếu gặp nhau, chưa biết chừng cuộc sống trôi qua phần nào yên ả, nhưng lại tĩnh lặng bình an. Số mệnh nhân quả của thế gian sớm có an bài, mỗi người đều có quyển sách số mệnh định sẵn, cho phép bạn và tôi tùy ý thêm bớt, sửa đổi.


      Chúng ta nên tin tưởng rằng vạn vật đời đều có tình duyên. Dù là đá cứng đất cằn, cỏ khô cây mục, chỉ cần ban cho chúng nắng rạng mưa lành, cho từ bi thương, vật nào khiến ta cảm nhận được thần kỳ của tạo hóa thiên nhiên và xứ mệnh mà cao xanh trao cho chúng. Do đó ở Tây Tạng[2], chúng ta đều nguyện ý thừa nhận cách của các tín đồ nơi này, tin rằng mỗi con bò, con cừu đều có tình cảm, mỗi ngọn cỏ gốc cây đều có linh hồn, mỗi đám mây lờ lững trôi đều có nước mắt, còn núi non sông ngòi, chim chóc sâu kiến đều có tính Phật và tôn nghiêm thể thành lời của chúng.


      [2] Tây Tạng: khu vực cao nguyên tại châu Á, ở phía Đông Bắc của dãy Himalaya, thuộc Trung Quốc. Đây là quê hương của người Tạng cũng như số dân tộc Monpa, Khương, Lhoba… nay cũng có đông đảo người Hán và người Hồi sinh sống. Tây Tạng là khu vực có độ cao lớn nhất Trái Đất, với độ cao trung bình là 4.900m. Từ “Tây Tạng” trong tiếng Hán bắt nguồn từ việc hoán dụ tên gọi Tsang quanh Shigatse, cộng thêm tiền tố “Tây”. Các tên tiếng Hán khác từng dùng để chỉ Tây Tạng: Thổ Phồn, Ô Tư Tạng…


      Tsangyang Gyatso [3] cũng là hạt bụi trong vạn vật, nhưng Ngài lại là hạt bụi khiến chúng sinh cảm động. Đọc thơ tình của Ngài, tựa như gặp gỡ dịu dàng thương cảm, chúng ta bị tình êm ái làm tổn thương, nhưng vẫn lòng hướng đến hề hối hận. Hàng ngày, đều có người trèo đèo lội suối tìm kiếm Ngài, chỉ bởi lời hứa tình nguyện. Hàng ngày, đều có người vì Ngài thắp sáng ngọn đèn bơ, quỳ mãi dậy trước Đức Phật. Dường như nhất định phải dùng phương thức si tình ấy mới có thể đổi được lần lướt vai, cái ngoảnh nhìn.


      [3] Tsangyang Gyatso (Thương Ương Gia (Mục) Thố, 1683-1706): Đạt Lai Lạt Ma thứ 6. Gyatso tiếng Tạng nghĩa là biển cả.



      Nhưng lại biết, vị Phật sống[4] nhân gian Tsangyang Gyatso sớm hóa thành cát bụi, chỉ để cùng chúng sinh gặp lại chốn hồng trần sâu nhất. Còn chúng ta, cần túc trực nơi bến đò hoang vu hay dưới cây bồ đề lúc mặt trời lặn, si ngốc đợi Ngài nữa. tin vào nhân quả, nên biết đời người duyên khởi duyên diệt, đến đến , ly ly hợp hợp, thể cưỡng cầu.


      [4] Phật sống: Tây Tạng dùng từ Châu- (tulku), Mông Cổ dùng từ Hô-tất Lặc-hãn (khublighan), đều để chỉ các dòng tái sinh và các vị tái sinh, chỉ các vị khi chết quên bản tính, đầu thai trở lại, tiếp nối chức vị và nghiệp hoằng hóa trước. Đó là những người được công nhận là tái sinh của người chết, sau khi được thử thách kiểm nghiệm. Các vị Châu- thường được dân chúng tôn là “Phật sống”. Trước khi hoàn thành nghi thức tọa sàng chính thức trở thành Châu-, các vị tái sinh được gọi là linh đồng chuyển thế.


      Mộng như nước chảy, khắp nơi xuân xa. Khi gác bút, viết bài thơ , chẳng vì hững hờ tiễn biệt, cũng chẳng bởi cố ý nhớ đến ai. Chỉ là trong năm tháng ngắn ngủi, muốn trân trọng cách khoan dung. đời mênh mang rộng lớn, mong vạn vật sinh linh giữa nhân thế đều có thể gặp sao yên vậy.


      Tất cả thành ra quá khứ rồi


      Gặp chàng trong ký ức mà thôi


      Ở chốn hồng trần sâu thẳm nhất


      Gió nhạt mây nhòa vội chia phôi


      Em vẫn là em thuở ban đầu


      Chàng vẫn là chàng dẫu bể dâu


      Bỗng ngày kia trong thời loạn


      Vui mừng, nghe hơi thở của nhau


      Đợi được trùng phùng gian nan


      Đắm chìm trong khói lửa nhân gian


      Em nhận lời chàng, em xin hứa


      chẳng dễ dàng ly tan





      Ở chốn hồng trần sâu thẳm nhất


      Gió nhạt mây nhòa vội chia phôi
      longtran2710 thích bài này.

    3. DragonProk

      DragonProk Well-Known Member

      Bài viết:
      502
      Được thích:
      756
      Chương 2
      [​IMG]

      Quyển : Chỉ vừa gặp gỡ quen nhau


      Tìm kiếm​



      Chúng ta thường chuyển từ sàn nhảy náo nhiệt này sang sân khấu tịch mịch kia, diễn tới diễn lui, chẳng qua mình bạn, chẳng qua mình tôi. Dưới quang sâu lắng, mấy câu sáng tối tròn khuyết, uống chén trà đậm nhạt nóng nguội.


      Người sống đời rốt cuộc là vì điều gì? Những lúc hoang mang túng quẫn, chúng ta luôn kìm lòng chẳng đặng hỏi bản thân như thế. Nhàn du chốn nhân gian là vì sứ mệnh riêng tư của mỗi cá nhân, là vì tín ngưỡng thể ra, hay vẻn vẹn chỉ là kiểu tồn tại giản đơn? Đời người mỗi bước đều là ván cờ, người bố trí bàn cờ rốt cuộc là ai, bạn và tôi đều cách gì biết được. Chúng ta thường chuyển từ sàn nhảy náo nhiệt này sang sân khấu tịch mịch kia, diễn tới diễn lui, chẳng qua mình bạn, chẳng qua mình tôi. Dưới quang sâu lắng, mấy câu sáng tối tròn khuyết, uống chén trà đậm nhạt nóng nguội.


      Nhân gian này, phong trần nhất, mênh mang nhất, cũng vô tình nhất, ràng cho chúng ta góc khuất nương thân, lòng lại chốn ở yên. Chúng ta vẫn lòng tình nguyện trăn trở giữa cõi trần, non chặng, nước chặng, đeo hành trang tìm đến phương xa, vì mộng tưởng trong lòng. Chúng sinh vạn tướng, tâm tình khác nhau, tạo ngộ đời người khác nhau, nơi chốn hướng về cũng khác nhau. Có người si mê bờ nước Giang Nam[1], trăng lạnh hoa mai thanh tao, có người tham luyến gió cát đại mạc, đìu hiu sông Dịch[2] thê lương. Có người thích mơ giấc mộng ẩm ướt dưới nếp nhà cũ, có người lại nguyện ý rời phố xa quê, tìm câu chuyện nhân quả chôn giấu trong hoang nguyên.


      [1] Giang Nam: tên gọi trong văn hóa Trung Quốc chỉ vùng đất nằm về phía nam Trường Giang. Vùng đất Giang Nam thay đổi theo thời gian, được cho là bao gồm thành phố Thượng Hải, phía nam của tỉnh Giang Tô và tỉnh An Huy, phía bắc của tỉnh Giang Tây và tỉnh Chiết Giang, khu vực quanh hồ Động Đình. số khu vực của tỉnh Phúc Kiến đôi khi cũng được tính là thuộc vùng Giang Nam.


      [2] Sông Dịch: con sông ở phía tây tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc. Kinh Kha hành thích vua Tần, Thái tử Đan nước Yên tiễn biệt tại đây.


      Mỗi người đều có quê hương thuộc về mình, có quê hương từ sinh ra và lớn lên, cũng có quê hương của tâm linh. Quê hương chân thực, có lẽ là non xanh nước biếc, cầu đá liễu rủ, nhà gỗ bình yên. Quê hương của nội tâm, có lẽ là bụi vàng đường cổ, bão tuyết cao nguyên, gió dài lồng lộng. Chúng ta đều là những người bình thường nhất, nhưng vì mộng tưởng khác thường trong lòng, lại cam nguyện làm lữ khách phiêu bạt chân trời, phóng khoáng vẫy chào quê nhà, đánh thức nền văn hóa trầm mặc ngàn năm mảnh đất xa xưa mà thần bí ấy.


      Tây Tạng, nơi ấy cách bầu trời rất gần, cách giấc mơ rất xa, những năm gần đây, vì mảnh đất thần diệu này, biết bao người dấn bước lộ trình dằng dặc dọc đường gió bụi. Chẳng mấy chốc, cao nguyên hoang vu mênh mông trở thành quê hương mà vô số kẻ lãng du hồn mơ lòng nhớ. Nhiều người đối với chân trời xa xăm này đều bội phần xa lạ, thậm chí chẳng biết máy bay, nhưng vẫn nhất mực tình sâu đem linh hồn tá túc tại đây. Chắc chắn là có thứ gì đó khiến chúng ta mê mẩn rời, có lẽ là bí mật thần kỳ chôn giấu nơi đất Tạng, là kinh phướn phấp phới tỏ luân hồi[3], là lời nguyền đến từ văn minh viễn cổ.


      [3] Luân hồi (samsāra) chỉ những đời sống tiếp nối nhau, trạng thái bị luân chuyển của loài hữu tình khi chưa đạt giải thoát, chứng ngộ Niết Bàn.


      Có những người nề hà muôn dặm rong ruổi đến đây, chỉ để múc hũ nước thánh của hồ Thanh Hải[4], chỉ để ngắm thoáng mặt trời lặn cung Potala[5], chỉ để bước trùng lên dấu chân công chúa Văn Thành[6] năm xưa, chỉ để ngâm nga bài thơ của Tsangyang Gyatso, cũng để tận mắt nhìn thấy lần mục dân lùa ngựa cừu từ đồng cỏ này sang đồng cỏ khác, tiếp nối câu chuyện này với câu chuyện khác. Hoặc là quan sát lần thiên táng, xem chim điêu rỉa sạch thi thể, thân xác chớp mắt biến mất, cả chiếc áo xanh cũng chẳng đem được. Tất cả chúng sinh đều có tính Phật, kiếp này thành Phật, là vì siêu độ khổ nạn của chúng sinh.


      [4] Hồ Thanh Hải hay hồ KokoNor là hồ lớn nhất Trung Quốc và là hồ nước mặn lớn thứ hai thế giới sau hồ Muối Lớn ở Mỹ. Hồ nằm ở độ cao 3.205m - 3.260m bồn địa của cao nguyên Tây Tạng, cách thành phố Tây Ninh, thủ phủ tỉnh Thanh Hải khoảng 100km về phía Tây.


      [5] Cung Potala nằm ở thành phố Lhasa, Khu tự trị Tây Tạng, Trung Quốc, là nơi ở của Đạt Lai Lạt Ma cho đến khi Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 chạy sang Dharamsala, Ấn Độ vào năm 1959. Ngày nay, cung Potala là viện bảo tàng, địa điểm thu hút khách tham quan nổi tiếng, được UNESCO công nhận là di sản thế giới. “Potala” là dịch từ tiếng Phạn, có nghĩa là “thánh địa Phật giáo”.


      [6] Công chúa Văn Thành (623-680): cháu vua Đường Thái Tông, hoàng hậu thứ hai của vua Thổ Phồn Songtsän Gampo, là đệ tử Phật giáo, cùng với công chúa Nepal Bhrikuti Devi - hoàng hậu thứ nhất của Songtsän Gampo, được cho là những người đưa Phật giáo vào Tây Tạng.


      Suốt dọc đường, nhìn thấy người Tạng áo quần lam lũ quỳ gối rạp mình về phía trước, trong ánh mắt chứa đầy kiên định thể lung lay. Họ lựa chọn dùng phương thức thành kính này để hết hành trình xa xôi, vì niềm tin trong lòng, vì tìm kiếm kiếp trước trong mơ. Tất cả những ai qua bên họ đều cảm động đến đầm đìa nước mắt, cũng muốn vì họ gánh vác chút gì đó, nhưng lại bất lực biết bao. Nhiều người đến đều là để bái yết sinh mệnh, đến cung Potala, tiếp nhận lễ rửa tội thánh khiết nhất. mảng bầu trời xanh thẳm ấy, có chim ưng dang cánh chao liệng, mây trôi tản mác, với tay chạm được.


      Theo đuổi giấc mộng, có lẽ chỉ cần dăm ba năm, tìm kiếm người, rốt cuộc phải mất thời gian bao lâu? Núi tuyết yên tịnh dựa sát vào nhau cao nguyên, hồ thánh hắt bóng những đỉnh núi trắng tinh. Ở nơi này, có cách tang[7] nở hoa, cỏ lác đung đưa trong gió; ở nơi này, tình của chúng ta sao mà giản đơn, chỉ vì tình cờ gặp gỡ đôi mắt linh dương Tạng. Năm tháng luân chuyển, vương triều đổi chủ, bao nhiêu gió mưa nghiệp bá đều thầm chôn vùi trong sông dài lịch sử, người và việc có thể khiến chúng ta ghi nhớ lác đác như sao buổi sớm. Mà mảnh đất này, vĩnh viễn bị quấy nhiễu, biết bao người muốn vén tấm mạng che mặt thần bí dưới màn sương mỏng kia, lại phát giác hóa ra miền đất xem chừng cằn cỗi này lại màu mỡ như vậy. Mặc cho năm tháng vùi dập tuổi tác, đời sớm đổi thay hoàn toàn, cỏ cây, bụi cát ở đây đều hề suy suyển.


      [7] Cách tang: loài hoa sinh trưởng cao nguyên, thuộc họ thúy cúc. “Cách tang” tiếng Tạng nghĩa là hạnh phúc, người Tạng xem đây là loài hoa thánh khiết tượng trưng cho tình và may mắn.


      Khói lửa ở đây rất thưa thớt, chúng ta đều từ nơi hồng trần sâu nhất đến đất Tạng, đặt xuống tất cả tôn quý và vinh hoa của trần thế, cũng mang đến nhiều bụi đất lẫn lộn và tâm ngổn ngang. Núi mây muôn dặm, trăng lạnh gió rét, dù nhiều người thể thích ứng hoàn cảnh tự nhiên nơi này, nhưng chọn đến đây, đều dự định cùng sống chết với đồng hoang đất tuyết ở đây. thực tế, chúng ta đều hiểu , trèo đèo lội suối như vậy, sốt ruột gấp, là vì tìm kiếm con người, cái tên, bài thơ tình. Chỉ là đời này có nhiều việc cho phép bạn và tôi dễ dàng toạc ra, số mệnh có quá nhiều chân lý huyền diệu thể tìm hiểu thấu đáo. Dường như vì những huyền cơ này, vạn vật mới có lý do để con người tìm đến ngọn nguồn.


      Ở Tây Tạng có nhiều vị Đạt Lai Lạt Ma[8] chuyển thế như vậy, vì sao người chúng ta ghi nhớ cứ là Tsangyang Gyatso? Có lẽ những ai từng đến đây và chưa từng đến đây đều hiểu , đó là vì Ngài là vị tình tăng, vị tình tăng khiến tâm hồn con người rung động. Thơ tình của Ngài cũng là hoa tình, rải khắp mảnh đất hoang vu này, khiến muôn hoa nảy nở, tình duyên bền chặt. Điều chúng ta khó quên có lẽ phải là thân thế biết bao truyền kỳ của vị linh đồng chuyển thế này, phải là tầm cao Thần Phật khi Ngài được chúng sinh quỳ lễ mà là nỗi quyến luyến sâu sắc đối với hồng trần và vấn vương dứt đối với tình của Ngài. Chúng ta cảm động rơi lệ vì thơ tình của Tsangyang Gyatso, những bài thơ tình viết ba trăm năm, cũng hát suốt ba trăm năm.


      [8] Đạt Lai Lạt Ma (Dalai Lama): là danh hiệu của nhà lãnh đạo tinh thần của Phật giáo Tây Tạng thuộc phái Gelug. “Đạt Lai” có gốc từ tiếng Mông Cổ nghĩa là “biển cả”; “Lạt Ma” là từ tiếng Tạng được dịch từ tiếng Phạn “guru”, là từ xưng hô dành cho các vị Đạo sư. “Đạt Lai Lạt Ma” có nghĩa là “Đạo sư với trí tuệ như biển cả”. Danh hiệu Đạt Lai Lạt Ma cũng được hiểu là Hộ tín (Người bảo vệ đức tin), Huệ hải (Biển lớn của trí tuệ), Pháp vương (Vua của Chánh Pháp), Như ý châu (Viên bảo châu như ý)… Danh hiệu Đạt Lai Lạt Ma được vua Mông Cổ Altan Khan phong cho phương trượng của phái Gelug vào năm 1578. Người Tây Tạng xem Đạt Lai Lạt Ma là thân của Quán Thế . Mỗi vị Đạt Lai Lạt Ma được xem là tái sinh của vị trước.


      Năm tháng vô tình, thời gian càng dài, nhiều chương tiết của lịch sử đều bị sửa đổi. Năm tháng cũng hữu tình, nó làm người đưa thư cho thời gian, gửi đến câu chuyện của ba trăm năm trước. Đối mặt với tình cảm, bất kể lòng dạ sắt đá đến đâu cũng biến thành mềm yếu, vì thế những ai từng đọc thơ tình của Tsangyang Gyatso đều sa vào biển tình cuồn cuộn, khó tự thoát ra. Nhà viết kịch thời Minh Thang Hiến Tổ[9] từng viết trong vở Đình Mẫu Đơn[10]:“Người như Đỗ Lệ Nương, quả có thể là người có tình vậy. Tình biết bắt đầu từ đâu, mực sâu đậm, lúc sống có thể vì tình mà chết, chết rồi lại có thể vì tình mà sống. Sống nguyện ý chết vì tình, chết mà thể sống lại, đều chẳng phải là chí tình.” Chúng ta đều là người sống vì tình, chết vì tình, dù cắt đứt được danh lợi, vứt bỏ được vinh hoa, nhưng vẫn bất cẩn chìm đắm trong sông tình, trả giá nặng nề cho cú sẩy chân của mình.


      [9] Thang Hiến Tổ (1550-1616): nhà văn, nhà biên kịch nổi tiếng của Trung Quốc vào cuối thời nhà Minh, người Lâm Xuyên, Giang Tây.


      [10] Đình Mẫu Đơn: còn có tên là Hoàn hồn ký, sáng tác năm 1598, sau khi Thang Hiến Tổ từ quan về Lâm Xuyên. Nội dung miêu tả thiếu nữ Đỗ Lệ Nương và thư sinh Liễu Mộng Mai gặp gỡ trong mộng, sau đó Lệ Nương tìm lại giấc mộng được, ốm tương tư mà chết. Liễu Mộng Mai sau đó đào mộ Lệ Nương lên, Lệ Nương sống lại, cùng Mộng Mai sum vầy hạnh phúc.


      Ngắm tháp Phật đối xứng nơi xa, biết là vị cao tăng nào vì kiếp trước của mình xây tháp và thề nguyện ở đây. Chúng ta chẳng phải cao tăng, vì tu hành, vì truy vấn đời trước lại tràn đầy hiếu kỳ và nhung nhớ đối với nơi này. Có lẽ chúng ta định sẵn chỉ là khách qua đường, cho nổi mảnh đất này bất cứ hứa hẹn nào, nhưng cũng cần dò hỏi nhân quả hợp tan. Nếu có thể tìm được nhân duyên kiếp trước, thế chuyến này hối tiếc, xin Đức Phật phong ấn tôi ở đường cổ A Lạp xa xăm, vĩnh viễn trở về.
      longtran2710 thích bài này.

    4. DragonProk

      DragonProk Well-Known Member

      Bài viết:
      502
      Được thích:
      756
      Chương 3
      [​IMG]

      Duyên hợp

      Có người , phong cảnh thế gian này phải đích thân trải nghiệm mới tìm được cảm xúc sâu sắc nhất. Còn tôi lại cho rằng, nơi đến trong mơ, cũng vẫn có thể chân thực tới khắc cốt ghi tâm.


      Đời người như nước trôi, chớp mắt qua , mỗi ngày chúng ta đều bận rộn như con sâu cái kiến, dưới áp lực cuộc sống, chẳng có bao nhiêu thời gian hỏi han triết lý nhân sinh. Đợi đến khi bụi trần lắng đọng, lại phát giác tuổi xuân lặng lẽ rời xa chúng ta, cảm giác gặp nhau xiêu lòng trước kia còn nữa. Chẳng ai sinh ra bằng lòng làm kẻ cướp đoạt, lẽ nào biết những nhân vật hô mưa gọi gió thường vào lúc hoàng hôn trăng treo ngọn liễu tự mình chặm máu trị thương?


      Tôi vốn là người có chí lớn, chỉ muốn sống cuộc đời thanh thản, vui chút thú nhàn tản, viết vài quyển sách phiếm. Cho dù như thế, trong lòng vẫn hoang vu, khi có gì cả, đành nhờ vào phong cảnh bốn mùa, ngày hè hái sen hóng mát, cuối đông hong sách sưởi ấm. Vốn cho rằng đời này gần gũi rẻo non nước Giang Nam, xây gian nhà có hàng rào, trồng ít hoa cỏ, khung cửa sổ đơn sơ, phơi mấy chiếc áo hoa, cảm kích rơi lệ vì cuộc sống yên ổn êm đềm này. Nhưng lại biết rằng, trong lòng mình cũng có khát vọng khó kìm chế. Lúc nhàn tịnh, bị khúc nhạc cổ khuấy động tâm tình, tấm ảnh cũ hồn bay phách lạc, bị bài thơ tình sâu sắc dẫn đến chân trời.


      Biết bao duyên trước thành quá khứ, ra thứ nắm bắt được là thời gian róc rách chảy xuôi. Trăm ngàn năm nay, đời người lần lữa, thời gian lưu luyến, điều khiến ta ghi nhớ nhiều. Bất kể lòng dạ con người rộng rãi đến đâu, có thể thu giữ bao nhiêu câu chuyện, đến cuối cùng đều phải trả lại cho năm tháng. Có người , phong cảnh thế gian này phải đích thân trải nghiệm mới tìm được cảm xúc sâu sắc nhất. Còn tôi lại cho rằng, nơi đến trong mơ, cũng vẫn có thể chân thực tới khắc cốt ghi tâm.


      Đối với Tây Tạng, tôi cũng đầy hiếu kỳ và khát vọng. Chỉ biết rằng, tất cả phong cảnh của mảnh đất này như cuốn kinh khó mà lĩnh ngộ. Kinh văn, thánh kinh lại có ý vị sâu xa, nội dung tinh thâm, chứa đựng ý thiền bằng lời. Tôi thường lễ chùa, cầm về mấy quyển sách kinh, đọc, chỉ đặt yên ở góc, cùng chia sẻ quãng thời gian cõi Phật với tôi. Tôi biết, sách kinh là cảm ngộ nơi sâu linh hồn của vạn vật tự nhiên, là tâm của biển biếc nương dâu[1]. Mỗi người trong lòng đều có quyển sách kinh, chỉ là trải nghiệm đời người khác nhau, đọc hiểu khác nhau.


      [1] Biển biếc nương dâu: chỉ những thay đổi lớn lao.


      Nhớ đến bài văn “Ngồi tàu lửa Lhasa[2]”, ngăn được kinh phướn phấp phới vẫy gọi, đặt chân lên con đường hướng về Tây Tạng. Lhasa là thành phố đầy thần kỳ và biến số, chẳng bao lâu, thành phố lạnh lẽo hoang vắng ấy trở thành nơi người đời hồn mơ lòng nhớ. Thành phố này mang vẻ linh hoạt huyền ảo và tưởng tượng vô tận, những dòng thơ sao mà nhiều cám dỗ, khiến chúng ta chìm đắm.


      [2] Lhasa: thủ đô truyền thống của Tây Tạng, nay là thủ phủ của Khu tự trị Tây Tạng. Lhasa tiếng Tạng nghĩa là “vùng đất thần thánh, thiêng liêng”.



      Có thangka[3], có màn thêu,


      Có sư tri khêu bấc đèn.


      Lạt Ma lật giở sách kinh,


      Tín đồ trước Phật rạp mình thành tâm.


      [3] Thangka (còn được viết là Tangka hay Thanka): là loại tranh vẽ hoặc thêu, treo ở các tự viện và nơi thờ Phật tại gia đình, có thể cuộn lại được, hầu hết có dạng hình chữ nhật. Tranh thể cuộc đời của Đức Phật, các vị Lạt Ma danh tiếng, chư Bồ Tát, thánh thần, Pháp Luân, Mạn Đà La…



      Còn tôi, cũng bị bức bách làm tín đồ của nó, phủ phục con đường thiên lộ[4] thần kỳ, viết nên bài thơ khiến người sóng lòng dâng trào. Đó chính là “Sắc lam Thanh Tạng”, màu xanh lam thuần khiết, xanh lam cao quý, xanh lam ưu sầu, xanh lam xa xưa. Tôi sợ mình vô ý xông vào, quấy nhiễu giấc mộng sau rèm vắng nơi đất thánh, lại biết rằng, mảnh đất thần thánh này, bảng lảng khói lửa chất phác nhất của nhân gian. Người Tạng ở đây, sinh ra vì số mệnh, họ tin tưởng nhân quả luân hồi. Do đó trong mắt họ, mỗi ngọn cỏ gốc cây, hòn đá, thậm chí hạt bụi hồng, đều có thể gửi gắm sâu sắc. Vì thế, bạn có thể tìm kiếm được những truyền thuyết cảm động ở mọi nơi chốn này.


      [4] Thiên lộ: Đường sắt Thanh Tạng, nối thành phố Tây Ninh tỉnh Thanh Hải với thành phố Lhasa Tây Tạng, dài 1.956km, chính thức vận hành từ 1/7/2006.



      Miền đất nơi bò cừu sinh trưởng, nơi tuyết đọng ngàn năm, nơi kinh phướn cắm đầy này cũng là nơi vun trồng tình cảm. Khi lần đầu tiên đọc được câu thơ“Thế gian sao có đôi đường vẹn, Chẳng phụ Như Lai chẳng phụ nàng”, tôi liền quyết định viết bài cảm tưởng về vị tình tăng tên là Tsangyang Gyatso ấy. Nào ngờ người chung tình với câu thơ đó quá nhiều, tôi chỉ là hạt bụi cát dưới sóng cả, lời chúc phúc dâng lên Ngài quá nhoi đáng kể. Nếu sau khi con người chết đúng là có linh hồn, nhiều năm trôi qua, phải chăng Tsangyang Gyatso vẫn còn phiêu diêu mảnh đất này?


      Tsangyang Gyatso, tên của Ngài ở Tây Tạng nhiều đứa trẻ lên ba đều biết, Ngài từng là Phật sống, được muôn người triều bái dưới trời xanh. Nhưng người ta lại mong đợi Ngài hơn với tư cách là vị tình tăng, ở nơi giáp ranh của Phật và tình, viết những câu thơ cảm động trời đất. Thơ tình của Ngài lưu lại thế gian, tựa như ma thuật, mê hoặc muôn ngàn người đời. Chỉ cần nhắm mắt, liền có thể thấy thiếu niên tuấn tú, khoác áo sư màu đỏ, nhìn chúng sinh với ánh mắt buồn rầu thương xót. Ngài là linh đồng chuyển thế, đến thế gian là để giúp người, tình cá nhân định sẵn chỉ là khói mây, dù Ngài nặng tình đến đâu, đời người cũng chỉ có thể là giấc mộng.


      Mọi việc đời đều có nhân trước quả sau, hoa hồng đến nhân gian vì lá xanh, mùa xuân lộng lẫy vì tuyết trắng, biển biếc dời đổi vì nương dâu. Còn cung Potala sừng sững Hồng Sơn[5] ở tây bắc Lhasa, được khánh thành để nghênh đón công chúa Đại Đường. Tương truyền 1.300 năm trước vào đầu thế kỷ VII sau Công nguyên, sau khi vua Tây Tạng Songtsän Gampo[6] dời đô đến Lhasa, vì cưới công chúa Văn Thành của nhà Đường, đặc biệt xây dựng Hồng Sơn ba ngôi nhà lầu chín tầng có tổng cộng ngàn gian phòng, đặt tên là cung Potala. tòa cung điện to lớn đẹp đẽ, hùng vĩ mà hoa lệ, tinh xảo mà trang nhã. Để an ủi lòng nhớ quê nhà của công chúa Văn Thành, Songtsän Gampo cho xây ao hồ hình đài trong cung điện, trồng nhiều cây hoa tươi đẹp, mô phỏng kết cấu hoàng cung ngự uyển Đại Đường, gieo hạt giống văn minh cho tòa thành cổ hoang vắng này.


      [5] Hồng Sơn (Marpori): được xem là núi thiêng của Bồ Tát Quán Thế .


      [6] Songtsän Gampo (Tùng Tán Cán Bố, ?-649): vị tán phổ (vua) thứ 33 của Thổ Phồn, người sáng lập đế quốc Tây Tạng, cũng là người chấn hưng Phật giáo Mật Tông tại Tây Tạng.



      Lịch sử lưu lại tên nàng, mà mảnh đất ấy của cao nguyên Thanh Tạng, cũng chẳng có miếu của công chúa Văn Thành.


      Cung Potala, sau khi được xây dựng lại vào thế kỷ XVII trở thành nơi ở mùa đông của Đạt Lai Lạt Ma các đời, cũng là trung tâm thống trị của chính trị tôn giáo hợp nhất ở Tây Tạng. Cả tòa cung điện hội tụ phong cách Tạng, xây tựa vào núi, khí thế hùng vĩ chấn động tâm linh. Cung Potala dưới trời chiều mang vẻ lãnh đạm và nghiêm nghị tranh với đời, có lẽ rời xa nhiễu loạn quá lâu, nó giờ đây rất mực yên tịnh, rất mực ung dung, lại rất mực vô tội. Đây là tòa cung điện được trao cho truyền kỳ và linh tính, trong đó giữ kín quá nhiều vong linh tịch mịch. Nơi này có tẩm cung của Đạt Lai Lạt Ma thứ 6 - Điện Đức Đan Cát, nếu linh hồn Ngài chết, phải chăng có thể lưu lại vết tích mờ nhạt cho những người vì tìm kiếm Ngài mà đến đây?


      Đằng kia những trác mã[7] già nua tay cầm chuyển kinh luân[8], tụng niệm những câu kinh mà chúng ta nghe hiểu, nhưng chúng ta biết , họ thành kính như vậy là để cầu phúc, tích công đức, thoát ly nỗi khổ luân hồi. Gió cát mảnh đất này điêu khắc nét tang thương của riêng người Tạng khuôn mặt họ, là ban ơn của năm tháng, cũng là dấn ấn của tuổi tác. Tôi biết, Giang Nam cầu nước chảy xa, còn tôi và sa mạc hoang nguyên này, gần đến nỗi đụng chạm da thịt, gần đến nỗi có thể nghe được hơi thở của nhau.


      [7] Trác mã: xưng hô của người Tạng đối với nữ giới.


      [8] Chuyển kinh luân (Mani luân): loại pháp khí của Phật giáo Tây Tạng, hình ống, có thể xoay được. mặt khắc sáu chữ châm ngôn “Om Mani Padme Hum”, bên trong đặt kinh Phật. Xoay kinh luân vòng (thông thường phải xoay theo chiều kim đồng hồ) tương đương niệm kinh văn chứa bên trong lần
      longtran2710 thích bài này.

    5. DragonProk

      DragonProk Well-Known Member

      Bài viết:
      502
      Được thích:
      756
      Chương 4
      [​IMG]

      Tín ngưỡng
      Phải chăng có nơi bạn chưa từng đến, mà lần đầu gặp gỡ lại có cảm giác cách biệt nhiều năm? Từng gốc cây ngọn cỏ, từng hạt cát hạt bụi ở đó, đều hiển trong mơ, đượm vẻ lạ lẫm lẫn quen thuộc tựa như xa cách đời.

      Phải chăng có nơi bạn chưa từng đến, mà lần đầu gặp gỡ lại có cảm giác cách biệt nhiều năm? Từng gốc cây ngọn cỏ, từng hạt cát hạt bụi ở đó, đều hiển trong mơ, đượm vẻ lạ lẫm lẫn quen thuộc tựa như xa cách đời. Có lẽ đây chính là duyên phận mà nhà Phật thường , bởi vì có duyên, nên mới vừa gặp xiêu lòng, mới khó lòng rời bỏ. Tôi là tin ở duyên phận, dù cứng cỏi, lại luôn rủ mày cúi đầu vì cảm động tế nhị nào đó.

      Đặt chân tới Tây Tạng cũng như sa vào trận luân hồi thần bí khôn lường, bạn bị những phong thổ nhân tình nguyên cớ kia nhấn chìm. Nhất là Phật giáo Tạng truyền đông đảo, từ trong lịch sử xa xưa tiếp diễn đến ngày nay, nhiệt tình và si mê của người Tạng đối với tôn giáo chẳng có mảy may nguội lạnh. Tín ngưỡng thể khinh nhờn đó truyền từ đời này sang đời khác, trước mặt Thần Phật muôn đời bất diệt, họ thậm chí có thể hy sinh hối hận. Đó chính là số mệnh, chẳng ai có thể chọn lựa xuất thân, có lẽ bạn thích cầu đá dương liễu, trăng lạnh hoa mai, vậy mà quanh quẩn trước mắt lại là khói vắng đại mạc, đất tuyết hoang nguyên. Nhưng chúng ta thể quay lưng với thề ước kiếp trước, vứt bỏ trách nhiệm, bèn ngàn núi muôn sông cất bước độc hành.

      người tùy tiện hứa hẹn, lại bằng lòng thề thốt thành khẩn vì đóa hoa sen thánh khiết, bằng lòng quỳ mãi dậy vì ngọn đèn bơ. Trong thế giới luân hồi tràn đầy ảo tưởng, vạn vật đều là bụi , bụi cũng có thể thành Phật. Con người vì có tín ngưỡng mà ấp ủ hy vọng đối với cuộc sống. Những người Tạng cư trú chốn cao nguyên, tin vào tồn tại của Thần Phật, đời đời phủ phục dưới chân núi xanh, vừa chuyện với thần linh, vừa chăn ngựa thả cừu, sống giản đơn yên ổn, tiêu dao tự tại. Trong mắt họ, tất cả cỏ cây đều có linh tính, tất cả non nước đều có lời hứa, tất cả bò cừu đều có luân hồi. Mọi người đều là tín đồ của Phật, mọi người đều có tấm lòng thuần túy, trong lòng đều trồng cây bồ đề.

      Lúc đó, Phật giáo Tạng truyền có rất nhiều giáo phái, chia làm Gelug[1] (Hoàng Giáo), Nyingma[2](Hồng Giáo), Kadam[3] (Hắc Giáo), Kagyu[4] (Bạch Giáo), Sakya[5] (Hoa Giáo), giữa họ cũng thiếu những vụ tranh đấu, loại trừ lẫn nhau. Mãi đến đầu thế kỳ XVII, ở vùng Thanh Hải và Mông Cổ, địa vị chủ đạo của Gelug (Hoàng Giáo) xác lập, nhưng đấu tranh với các giáo phái khác vẫn ngấm ngầm sóng gió. Chúng ta luôn mong thế giới này gió yên sóng lặng, mong tất cả buồn thương đau đớn đều được nụ cười và khoan dung xóa nhòa, mong giữa người và người cần phân tranh, phải tổn thương. Nhưng thực tế vẫn trái với nguyện vọng, dù thanh tịnh như Đức Phật, quảng đại như Đức Phật, cũng có lúc bất lực.

      [1] Phái Gelug (Cách Lỗ): Gelug nghĩa là “Hạnh Đức, Thiện Quy”, phái Gelug là “tông phái của những hiền nhân tuân thủ thanh quy giới luật”. Cũng được gọi là Hoàng Giáo hay phái Hoàng Mạo vì các vị sư phái này mang mũ màu vàng. Do Đại sư Tsongkhapa (Tông Khách Ba) sáng lập vào thế kỷ XIV.

      [2] Phái Nyingma (Ninh Mã): Nyingma nghĩa là “Cổ, Cựu”, phái Nyingma là phái Cổ Mật hay Cựu phái vì được sáng lập sớm nhất, giáo lý truyền xuống từ thế kỷ VIII, hình thành vào thế kỷ XI. Cũng được gọi là Hồng Giáo hay phái Hồng Mạo vì các vị sư phái này thường mang mũ màu đỏ. Tôn thờ Đại sư Liên Hoa Sinh là thủy tổ.

      [3] Phái Kadam (Cát Đương): Kadam nghĩa là “dùng lời dạy của Phật để chỉ dẫn người phàm tiếp nhận đạo lý Phật giáo”. Sáng lập năm 1056. Đến thế kỷ XV phái Gelug nổi lên, mà phái Gelug phát triển cơ sở giáo lý của phái Kadam, do đó phái Kadam sáp nhập vào phái Gelug.

      [4] Phái Kagyu (Cát Cử, Ca Nhĩ Cư): phái Khẩu Truyền hay Nhĩ Truyền, do chư đạo sư trực tiếp truyền miệng lại cho đệ tử, chứ qua văn tự. Được gọi là Bạch Giáo vì y phục của các vị sư phái này có thêm sọc màu trắng. Do Đại sư Marpa Lotsawa (Mã Nhĩ Ba) sáng lập.

      [5] Phái Sakya (Tát Ca): Sakya nghĩa là “Màu Xám”. Do tu viện chính của phái này là tu viện Sakya xây ở nơi đất màu xám nên đặt tên như vậy. Lại do tường bao quanh tu viện chính tô vẽ hoa văn ba màu đỏ - trắng - đen tượng trưng cho trí tuệ - từ bi - sức mạnh của ba vị Bồ Tát Văn Thù - Quán Thế - Kim Cương Thủ, nên còn gọi là Hoa Giáo. Sáng lập vào thế kỷ XI bởi Đại sư Konchog Gyalpo (Cống Khước Kiệt Bố).

      Ngày 15 tháng 12 năm 1616, Đạt Lai Lạt Ma thứ 4 Yonten Gyatso[6] đột nhiên qua đời ở tu viện Drepung[7], hưởng dương 28 tuổi. Về cái chết của Yonten Gyatso, có người là Tsangpa Khan Phuntsok Namgyal[8] phái người ám sát. Lúc đó Tsangpa Khan bị bệnh, nghe là do Đạt Lai thứ 4 Yonten Gyatso nguyền rủa ông ta, nhưng bị Tsangpa Khan phát , bèn phái người giết chết Yonten Gyatso. Đương nhiên, đây chỉ là truyền thuyết, bầu trời mây khói mịt mù, lịch sử cũng trở nên mơ hồ , đời người phù du như giấc chiêm bao, ai có thể xác định năm đó xảy ra chuyện gì. (Lúc đó Tsangpa Khan nghi Đạt Lai nguyền rủa, dẫn đến mắc nhiều bệnh, liền công khai mệnh lệnh cho Đạt Lai chuyển thế, nhờ Ban Thiền[9] Lobsang Chökyi Gyaltsen[10] nhiều lần cầu, mới chuẩn y tìm kiếm linh đồng Đạt Lai thứ 5.”)

      [6] Yonten Gyatso (Vân Đan Gia Mục Thố, 1589-1616): Đạt Lai Lạt Ma thứ 4.

      [7] Tu viện Drepung (Triết Bạng): nằm cách ngoại ô Lhasa khoảng 7km về phía tây, xây năm 1416, vốn là nơi cư ngụ của các vị Đạt Lai Lạt Ma trước khi Đạt Lai thứ 5 xây lại cung Potala. Tại đây còn có trường đại học Phật giáo, có lúc số tăng sĩ tu học lên đến cả 10.000 người.

      [8] Tsangpa (Tạng Ba) là triều đại thống trị phần lớn Tây Tạng từ năm 1565 đến 1642. Khan (Hãn) trong tiếng Mông Cổ là tước hiệu có nhiều nghĩa, ban đầu có nghĩa là thủ lĩnh bộ tộc, đôi khi cũng có thể dịch là vua, hoàng đế. Phuntsok Namgyal là vị vua Tsangpa cai trị trong khoảng thời gian 1603-1620.

      [9] Ban Thiền Lạt Ma (Panchen Lama): chức vị cao thứ hai trong phái Gelug sau Đạt Lai Lạt Ma. “Ban Thiền” nghĩa là “Đại học giả”. Danh hiệu này do Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 tặng cho thầy mình là Lobsang Chökyi Gyaltsen, trụ trì tu viện Tashinlhunpo trong thế kỷ XVII. Ban Thiền Lạt Ma được xem là hóa thân của Phật A-di-đà, và cũng được xem là dòng tái sinh.

      [10] Lobsang Chökyi Gyaltsen (La Tang Khướt Cát Kiên Tán, 1570-1662): Ban Thiền Lạt Ma thứ 4.

      Đúng vậy, sau khi Yonten Gyatso qua đời, theo quy củ của Phái Gelug, phải tìm kiếm linh đồng chuyển thế. Người sinh trưởng ở miền đất này, đều là tín đồ của Phật Đà, tín đồ của vận mệnh, họ tin tưởng con người có ba kiếp, chết rồi chuyển thế luân hồi, tái tục duyên chưa hết của kiếp trước. người bắt đầu từ khi sinh ra, lúc ngây ngô chưa biết đời, phải gánh vác trách nhiệm và nợ nần, vinh nhục và giàu nghèo của kiếp trước. Chúng ta cho rằng có thể sửa đổi số mệnh, hóa ra là thể từ bỏ, do đó luôn cảm thấy bản thân phải sống thân bất do kỷ. Có lẽ bạn chỉ muốn làm người dân bình thường, lại cứ sinh vào nhà vua chúa. Có lẽ bạn muốn thống trị thiên hạ, trở thành bá chủ hô mưa gọi gió, nhưng lại lưu lạc thành tên giặc cỏ lỗ mãng.

      Cuộc đời được định sẵn, bạn và tôi đều thể chọn lựa, chẳng muốn nước chảy bèo trôi, rốt cuộc vẫn phải mặc cho vận mệnh sắp đặt. Ngawang Lobsang Gyatso[11] là Đạt Lai Lạt Ma thứ 5. Năm 1617, Ngawang Lobsang Gyatso sinh ra ở huyện Qonggyai, Lhoka, Tiền Tạng[12], thuộc gia tộc Qonggyaipa. Gia đình Ngài là địa chủ phong kiến ở Lhoka, cũng là quý tộc dưới trướng chính quyền Phagmodrupa[13]. con em quý tộc vừa sinh ra được đội lên vầng hào quang hoa lệ, vốn cho rằng đời này giữ nghiệp nhà giàu có, cưới vợ sinh con, sống cuộc sống sung túc mà tầm thường. Nhưng Đức Phật trao cho Ngài sứ mệnh lớn hơn, khi Ban Thiền thứ 4 Lobsang Chökyi Gyaltsen nhận định Ngài là Đạt Lai thứ 5, cuộc đời của Lobsang Gyatso liền có biến đổi trời long đất lở.

      [11] Ngawang Lobsang Gyatso (A Vượng La Bốc Tạng Gia Mục Thố, 1617-1682): Đạt Lai Lạt Ma thứ 5, và có lẽ là vị nổi danh nhất, được người Tạng tôn trọng gọi là “Đại sư thứ năm”. Ngài là vị Đạt Lai đầu tiên khởi xướng chế độ “chính quyền tăng lữ”, nắm giữ quyền cai trị Tây Tạng. Kể từ đó, Đạt Lai Lạt Ma là người lãnh đạo tinh thần tôn giáo cũng như chính trị tại Tây Tạng.

      [12] Qonggyai (Quỳnh Kết) là huyện của địa khu Lhoka (Sơn Nam), khu tự trị Tây Tạng, Trung Quốc. Địa khu Lhoka nằm ở đông nam Tây Tạng, trung và hạ phần của thung lũng sông Yarlung Tsangpo, được coi là vùng đất khai sinh của văn minh Tây Tạng. Nó có ranh giới với Lhasa ở phía bắc, Nyingchi ở phía đông, Shigatse ở phía tây, có biên giới quốc tế với Ấn Độ và Bhutan ở phía nam. Thủ phủ là trấn Tsetang, cách Lhasa 183km.

      Tiền Tạng: gồm Lhasa và địa khu Lhoka.

      Ngài rốt cuộc phải là người phàm, thiên tư thông minh, dĩnh ngộ, tài năng kiến thức xuất chúng, sáu tuổi được đón vào tu viện Drepung phụng dưỡng, tiếp nhận nền giáo dục đặc biệt. Trong lịch sử Phật giáo Tạng truyền, Đạt Lai thứ 5 Lobsang Gyatso là nhân vật vô cùng quan trọng, Ngài bình định chiến loạn, xây lại cung Potala, xác lập địa vị thống trị của phái Gelug ở Tây Tạng. nhân vật mưu lược kiệt xuất, vị hùng kiến công lập nghiệp, được muôn người thành kính quỳ bái, đồng thời cũng trải qua thử thách của khói lửa chiến trường. Chúng ta dường như nhìn thấy người cầm lái, sợ mưa gió, cầm vững tay lái ngược bao sóng cả, cuối cùng đến được bờ bên kia đầy hoa sen.

      Lúc đó Tây Tạng là thời đại thống trị của chính quyền địa phương Karma[13], do Đệ Ba[14] quản lý chính , phái Karma Kagyu[15] và Tsangpa Khan áp dụng chính sách áp bức tàn phá đối với Hoàng Giáo. Khoảng năm 1630, chính quyền Tsangpa Khan lợi dụng cơ hội các thế lực địa phương tranh chấp nội bộ, thừa cơ phát động cuộc đấu tranh chống Hoàng Giáo, khiến Đạt Lai thứ 5 tránh về Lhoka. Lúc đó Hoàng Giáo ở Tây Tạng và vùng Kham[16] Thanh Hải, thậm chỉ ở nhiều nơi thuộc Mông Cổ đều rất được đông đảo nhân dân ủng hộ. Sau thời gian trù hoạch, Đạt Lai thứ 5 và Ban Thiền thứ 4 thượng nghị, cử người đến Thanh Hải bí mật triệu Gushi Khan[17]dẫn binh tiến vào Tây Tạng. Do đó mới lật đổ nền thống trị của chính quyền địa phương Karma, ủng hộ Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 kiến lập chính quyền Ganden Phodrang[18].

      [13] Chính quyền Karma: chính quyền liên minh giữa Tsangpa Khan và phái Karma Kagyu.

      [14] Đệ Ba hay Đệ Ti (Desi) là dịch tiếng Tạng, nghĩa gốc là “tù trưởng bộ lạc, thủ lĩnh”. Cuối thời Minh, người thống trị Tây Tạng Tsangpa Khan cũng xưng là Đệ Ba. Đến thời Thanh, phái Gelug nắm quyền, trước sau bổ nhiệm tám vị Đệ Ba, là quan chức cao nhất quản lý vụ hành chính của chính phủ địa phương Tây Tạng. Trong đó nổi tiếng nhất là Đệ Ba thứ 5 Sangye Gyatso (Tang Kết Gia Thố).

      [15] Karma Kagyu: Chỉ phái có thế lực mạnh nhất và ảnh hưởng lớn nhất trong phái Kagyu.

      [16] Kham: từng là trong ba vùng truyền thống của Tây Tạng (Ü-Tsang, Amdo, Khan), nay được chia ra giữa các đơn vị cấp tỉnh của Trung Quốc là Khu tự trị Tây Tạng, Tứ Xuyên, Thanh Hải, Vân Nam. Đây là nơi dân tộc Khampa, phân nhóm của dân tộc Tây Tạng sinh sống.

      [17] Gushi Khan (Cố Thùy Hãn): thủ lĩnh của bộ lạc Khoshut (Hòa Thạc Đạc) của người Mông Cổ tại vùng hồ Thanh Hải.

      [18] Ganden Phodrang (Cam Đan Pha Chương): tên tẩm cung của Đạt Lai Lạt Ma ở tu viện Drepung. Trước khi xây lại cung Potala, Đạt Lai thứ 5 luôn sống ở đây, và nắm giữ quyền lực chính trị tôn giáo Tây Tạng thời đó, Ganden Phodrang cũng trở thành từ đồng nghĩa với chính phủ địa phương Tây Tạng, nên giới sử học gọi đó là “chính quyền Ganden Phodrang”.



      phải thành lập chính quyền Ganden Phodrang có nghĩa Lobsang Gyatso là vua của Tây Tạng. thực tế, địa phương Tây Tạng hoàn toàn chịu khống chế của Gushi Khan. Lobsang Gyatso kiêu ngạo, với hoài bão lớn lao của Ngài, làm sao cam tâm thần phục thế lực Mông Cổ? Ngài phải mưu cầu địa vị chính trị độc lập, phụ thân phận Đạt Lai thứ 5 của Ngài. Khi chính quyền Ganden Phodrang thành lập, đúng vào lúc vương triều nhà Minh sắp sụp đổ tan tành. Nội địa chiến tranh loạn lạc, thế lực Mãn Thanh ở quan ngoại[19] nhanh chóng lớn mạnh, đối với họ, giang sơn Đai Minh dễ lấy như trở bàn tay. Hoàng Giáo đứng đầu bởi Đạt Lai thứ 5 và Ban Thiền thứ 4, để củng cố địa vị thống trị có, quyết định tìm kiếm ủng hộ từ chính quyền Mãn Thanh ngày càng hùng mạnh. Năm 1642, Đạt Lai thứ 5 Lobsang Gyatso phái Khutuktu[20] Ila Kuksasn làm đại biểu, lên đường đến Thẩm Dương[21].


      [19] Quan ngoại: vùng đất phía đông Sơn Hải Quan hoặc vùng đất phía tây Gia Dụ Quan, Trung Quốc.

      [20] Khutuktu (Hô Đồ Khắc Đồ): Chức hàm cao tăng Phật giáo Tạng truyền, chỉ xếp sau Đạt Lai Lạt Ma và Ban Thiền Lạt Ma.

      [21] Thẩm Dương: thành phố thủ phủ của tỉnh Liêu Ninh ở đông bắc Trung Quốc. Từ 1625-1644, đây là kinh đô của Mãn Thanh, còn có tên là Thịnh Kinh.



      Lúc đó, Thanh Thái Tông Hoàng Thái Cực[22] dẫn các thân vương bối lặc[23], đại thần ra ngoài thành nhiệt tình nghênh đón, theo quan điểm của Hoàng Thái Cực, chuyến viếng thăm của người Tạng là do ý trời sắp đặt, là tượng trưng cao xanh bảo hộ triều Thanh. Do đó, Hoàng Thái Cực còn hướng lên trời làm lễ ba quỳ chín lạy, sau khi vào thành, lại đích thân đến nơi ở của sứ Tạng thăm hỏi. Sứ Tạng lưu lại tám tháng ở Thẩm Dương, được Mãn Thanh niềm nở khoản đãi. Đến khi quay về Lhasa, Hoàng Thái Cực còn viết thư trả lời cho cả Đạt Lai, Ban Thiền và Gushi Khan, đồng thời khen ngợi Đạt Lai Lạt Ma “cứu vớt chúng sinh”, “trợ hưng Phật pháp”. Còn ban tặng lễ vật hậu hĩ, bày tỏ xem trọng của Mãn Thanh đối với Phật giáo Tạng truyền.


      [22] Hoàng Thái Cực (1592-1643): vị Hoàng đế thứ 2 của nhà Thanh, miếu hiệu Thanh Thái Tông, cai trị từ năm 1627 đến năm 1643.

      [23] Thân vương: người được phong vương trong họ hàng thân thuộc của hoàng đế. Bối lặc: tước vị quý tộc thời Thanh, địa vị ở dưới thân vương, quận vương.



      Tất cả phảng phất bụi trần lắng đọng, Đạt Lai hai mươi lăm tuổi Lobsang Gyatso trải qua phân tranh biến ảo, cuối cùng trở thành lãnh tụ hô mây gọi gió của chính trị tôn giáo toàn Tây Tạng. Mãn Thanh như ngọn núi sừng sững cao chót vót, đà lớn mạnh của nó vượt xa Mông Cổ, Lobsang Gyatso với ánh mắt và tầm nhìn thâm thúy của Ngài, tranh thủ được ủng hộ và chấp nhận hết sức đắc lực của chính quyền Mãn Thanh. Điều này cũng có nghĩa địa vị của phái Gelug ở Tây Tạng được củng cố triệt để, còn Lobsang Gyatso cũng thành vị hùng được người Tạng sùng bái.


      Bản thân sinh mệnh kỳ thực là thuần túy mà sạch , nhưng trong quá trình trưởng thành, dần dần chúng ta nhuộm quá nhiều bụi hồng. Trong hành trình cuộc đời, mỗi người đều có nhiều tao ngộ thể tránh khỏi, hoặc dũng cảm đối diện, hoặc hoảng hốt chạy trốn, hoàn toàn ở lựa chọn của bản thân. Lobsang Gyatso từ khi sinh ra bị vận mệnh chi phối, do đó khi Ngài tư tưởng dồi dào, cũng muốn chi phối vận mệnh. Dù chúng ta là người mạnh hay kẻ yếu, chỉ cần sống trong năm tháng yên tĩnh mà huyên náo này, tươi tỉnh đó, âu sầu đó, vui vẻ đó, cũng đau đớn đó.
      longtran2710 thích bài này.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :