Đảo kinh hoàng - Dennis Lehane (Kinh dị)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      [​IMG]

      Đảo kinh hoàng


      Dennis Lehane


      Tạo và hiệu chỉnh ebook: Hoàng Nghĩa Hạnh




      Diễn đàn Tinh Tế


      Dự án ebook định dạng epub chuẩn cho mọi thiết bị di động http://dl.dropbox.com/u/46534480/library/_catalog/index.html



      Tác giả


      Dennis Lehane sinh ngày 4 tháng Tám năm 1965 tại Dorchester, gần kề Boston, Massachusetts. Ông là con út trong gia đình gốc Ireland có năm người con. Ông tốt nghiệp Đại học Eckerd năm 1988 và nhận bằng Thạc sĩ sáng tác văn chương Đại học Quốc tế Florida năm 1993.


      Sau khi trở về Boston, ông mưu sinh bằng nhiều nghề để có thể viết văn: tư vấn tâm lý cho trẻ em khuyết tật và bị lạm dụng, bồi bàn, tài xế, nhân viên hiệu sách, nhân viên đỗ xe của khách sạn... Ông sống chủ yếu ở Boston, nơi trở thành bối cảnh quen thuộc trong các tác phẩm của ông.


      Cuốn tiểu thuyết đầu tiên của ông, A Drink Before the War, ấn hành năm 1994, nhận được giải thưởng Shamus Award cho tác phẩm đầu tay xuất sắc nhất. Từ đó đến nay ông viết các tiểu thuyết: A Drink Before the War; Darkness, Take My Hand; Sacred; Gone, Baby, Gone; Prayers for Rain; Mystic River; và Shutter Island (Đảo kinh hoàng). Tác phẩm Mystic River (2003) đưa ông đến với các giải thưởng Anthony Award, Barry Award và Massachusetts Book Award.


      Đảo kinh hoàng được đạo diễn nổi tiếng Martin Scorsese dựng thành phim, với tham gia của tài tử Leonardo DiCaprio, công chiếu năm 2010.



      LỜI ĐẦU


      TRÍCH NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ LESTER SHEEHAN


      Ngày 3 tháng Năm năm 1993


      Tôi nhìn thấy hòn đảo đó trong nhiều năm. Lần cuối cùng, từ con thuyền của người bạn trong lúc mạo hiểm ra phía bên ngoài vịnh, tôi có thể nhìn thấy nó từ phía xa, qua những lớp phao an toàn, trong sương mù mùa hè như vệt màu cẩu thả vẽ lên nền trời.


      Tôi đặt chân tới đó hơn hai mươi năm nhưng Emily vẫn thường (lúc đùa lúc ) rằng ngay cả ấy cũng dám chắc tôi thực rời bỏ nó. Có lần ấy đối với tôi thời gian chẳng khác gì những chiếc thẻ đánh dấu sách mà tôi sử dụng để lật giở những trang sách của đời mình, trở trở lại với những kiện đánh dấu đời tôi và điều đó, dưới con mắt của những đồng nghiệp sáng suốt hơn chính là biểu đầy đủ của chứng sầu muộn kinh điển. Có thể Emily đúng. ấy vẫn thường hay đúng.


      Tôi cũng sắp mất cả ấy nữa. Chỉ còn vài tháng nữa thôi, bác sĩ Alelrod cho chúng tôi biết hôm thứ Năm. Hãy thực chuyến đó, ông ấy khuyên. Cái chuyến mà hai người vẫn luôn nhắc tới. Tới Florence, tới Rome và tới Venice vào mùa xuân. Bởi vì Lester, ông ấy thêm, trông cũng lấy gì làm khỏe.


      Tôi cũng nghĩ vậy. Gần đây, tôi cứ thường xuyên đặt mọi thứ nhầm chỗ, nhất là đôi kính mắt. Rồi chìa khóa xe. Tôi bước vào cửa hàng mà quên mất tới đó làm gì, và rời khỏi nhà hát mà nhớ nổi vừa xem gì. Nếu quả thời gian đối với tôi là những chiếc thẻ đánh dấu dường như ai đó vừa mới rũ mạnh cuốn sách khiến những mảnh giấy ố vàng, cặp bìa sờn cũ và những que khuấy cà phê dẹt rơi xuống sàn nhà, và những mép sách quăn queo đều bị ép chặt phẳng phiu.


      Nên tôi muốn viết lại tất cả những chuyện đó. Nguyên văn, thay đổi theo hướng có lợi cho mình. , . ấy bao giờ cho phép điều đó. Với cái kiểu cách lạ lùng rất riêng của mình, ấy ghét dối trá hơn bất kỳ ai tôi từng biết. Tôi giữ nguyên văn câu chuyện và chỉ chuyển nó từ thiết bị lưu trữ thời (thành bắt đầu ẩm mốc và rò rỉ) sang những trang giấy này.


      Bệnh viện Ashecliffe nằm ở giữa khu đất phẳng ở phía Tây Bắc của hòn đảo. Đứng đó cách nhân từ, tôi có thể thêm vậy. Trông nó chẳng có gì giống với nhà thương điên dành cho các tội phạm bị bệnh tâm thần và càng giống cái doanh trại quân đội trước đây. Vẻ ngoài của nó thực tế khiến phần lớn chúng tôi nghĩ tới trường nội trú. Ngay bên ngoài khuôn viên chính là trạm gác được xây theo kiến trúc nhà hai mái thời Victoria và lâu đài , đẹp nhưng hơi tối, kiểu Tudor, từng được sử dụng làm căn cứ chỉ huy của quân đội liên bang tại bờ biển Đông Bắc, chuyển thành văn phòng giám đốc chúng tôi. Bên trong tường bao là các khu vực dành cho nhân viên trông rất duyên dáng, những ngôi nhà mái lá của các bác sĩ điều trị, ba khu ký túc dành cho y tá, hộ lý và bảo vệ. Trong khuôn viên chính là những bãi cỏ, những hàng rào được cắt xén tạo hình, những cây sồi đổ bóng um tùm, những cây thông Scotland, những cây gỗ thích và những cây táo cứ cuối mùa thu lại cho trái rụng đầy bãi cỏ và các gờ tường. Nằm giữa khuôn viên chính là bệnh viện, quần thể lớn bằng đá ong và đá hoa cương đẹp mắt, hai bên là hai bức tường bằng gạch đỏ giống hệt nhau. Phía sau nó là những vách đá, những đầm lầy do thủy triều tạo nên và thung lũng dài nơi chứng kiến ra đời và lụn bại của hợp tác xã nông nghiệp trong những năm sau cách mạng Mỹ. Cây cối họ trồng vẫn sống sót, đào, lê, đào dại, nhưng còn ra trái nữa, và những ngọn gió đêm vẫn thường gào thét trong thung lũng ấy, những thanh như tiếng mèo kêu.


      Và tất nhiên còn phải kể đến khu pháo đài có mặt ở đây từ rất lâu trước khi những nhân viên đầu tiên của bệnh viện đặt chân tới hòn đảo này và vẫn lặng lẽ đứng đó, ở phía Nam, mỏm đá nhô ra biển. Và xa xa là ngọn hải đăng còn hoạt động từ trước cả thời kỳ Nội chiến, được thay thế từ lâu bằng những chùm ánh sáng phát ra từ ngọn hải đăng Boston.


      Nhưng nếu nhìn từ biển vào hòn đảo trông hẳn như vậy. Bạn phải hình dung ra hòn đảo theo cái cách mà Teddy Daniels nhìn thấy vào buổi sáng yên tĩnh tháng Chín năm 1954. Chỉ là bãi đất bỏ hoang nằm giữa khu vực bên ngoài vịnh. Khó có thể xem là hòn đảo, bạn nghĩ vậy, thậm chí chỉ trong ý tưởng. Nó có thể dùng vào việc gì chứ, hẳn ấy nghĩ thế. Việc gì chứ.


      Chuột là động vật đông đúc nhất hòn đảo. Chúng sùng sục trong các bụi cây, di chuyển thành hàng dọc bờ biển khi đêm xuống và trèo lên những mỏm đá ẩm ướt. số to bằng những con cá bơn. Trong những năm tiếp theo bốn ngày lạ lùng cuối mùa hè năm 1954, tôi tiến hành nghiên cứu những con chuột trong cái khe ngọn đồi ở phía Nam bờ biển. Tôi kinh ngạc khi phát ra rằng có số con chuột cố gắng bơi tới đảo Paddock, hòn đảo trông chẳng nhỉnh hơn tảng đá lớn là mấy nằm bãi cát bị ngập nước hai mươi hai tiếng ngày. Khi nó nhô lên khỏi mặt nước trong hai tiếng đồng hồ ngắn ngủi lúc thủy triều xuống tới mức thấp nhất thỉnh thoảng lũ chuột lại bơi tới đó, thường bao giờ nhiều hơn mười mấy con và chúng luôn bị đẩy dạt trở lại bởi triều cường.


      Tôi luôn, nhưng hẳn vậy. Tôi nhìn thấy con chuột bơi được tới đích. Chỉ có lần thôi. Đó là vào đêm trăng tròn tháng Mười năm 1956. Tôi nhìn thấy cái mình da rắn đen trũi lao lên bãi cát.


      Hay là do tôi tưởng tượng ra. Emily, người tôi quen hòn đảo , “Lester, thể nào nhìn thấy nó. Nó ở quá xa.”


      ấy đúng.


      Nhưng tôi biết là tôi nhìn thấy gì. cái mình da rắn béo mầm phóng lên bãi cát, bãi cát màu ngọc trai xám bắt đầu từ từ lún xuống khi thủy triều dâng lên nuốt gọn đảo Paddock, nuốt gọn cả con chuột đó, tôi đoán thế vì tôi bao giờ còn nhìn thấy nó bơi trở lại nữa.


      Nhưng trong giây phút đó, khi tôi nhìn nó chạy lon ton lên bờ (thực tôi nhìn thấy nó hẳn hoi, cái khoảng cách quỷ tha ma bắt) tôi nghĩ tới Teddy. Tôi nghĩ tới Teddy và người vợ xấu số đáng thương của , Dolores Chanal, tới cặp sinh đôi hãi hùng của họ, Rachel Solando và Andrew Laeddis, tới cái tai ương mà họ gieo rắc lên tất cả chúng tôi. Tôi nghĩ rằng nếu Teddy ngồi cùng tôi lúc đó ấy cũng nhìn thấy con chuột. ấy hẳn nhìn thấy nó.


      Và tôi với các bạn thêm rằng:


      Teddy?


      ấy hẳn vỗ tay.

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      NGÀY THỨ NHẤT


      Rachel


      CHA CỦA TEDDY DANIELS là ngư dân. Ông mất chiếc thuyền của mình cho nhà băng vào năm 1931 khi Teddy mới mười tuổi và dành cả phần đời còn lại làm thuê cho các thuyền đánh cá khác khi họ cần, làm công việc dỡ hàng bến cảng khi có ai thuê, rồi bộ suốt quãng đường dài để trở về nhà vào lúc mười giờ sáng, ngồi xuống chiếc ghế bành nhìn chằm chằm vào đôi bàn tay, thỉnh thoảng lại lẩm bẩm mình, đôi mắt mênh mông và u tối. Ông cho Teddy ra các hòn đảo khi cậu còn rất , quá để có thể giúp đỡ được gì thuyền. Tất cả những gì cậu bé có thể làm là tháo dây móc và buộc lại cần câu. Cậu cắt vào tay mình vài lần, máu lấm tấm các đầu ngón tay và chảy hoen xuống lòng bàn tay.


      Họ vào lúc trời còn tối và khi mặt trời ló dạng, màu ngà lạnh lẽo nhô lên từ rìa biển, những hòn đảo ra trong lớp bụi mờ, nằm túm tụm lại với nhau như bị bắt quả tang mưu chuyện gì.


      Teddy nhìn thấy những cái lán màu tùng lam xếp thành hàng bãi biển, khu điền trang bằng đá vôi đổ nát bãi biển khác. Cha cậu chỉ cho cậu nhà tù đảo Deer và pháo đài quân của bang đảo Georges. đảo Thompson là những thân cây cao đầy chim chóc với tiếng kêu rào rào như tiếng mưa đá hay tiếng thủy tinh vỡ.


      Tách ra khỏi những hòn đảo này là hòn đảo có tên gọi là đảo Shutter, trông giống như đồng tiền galleon của Tây Ban Nha bị tung xuống biển. Lúc đó, vào mùa xuân năm 1928, hòn đảo vẫn còn rậm rịt cây cối, và tòa pháo đài trải dài mũi đá cao nhất đảo bị dây leo thít chặt và bao phủ bởi những đám rêu mốc khổng lồ.


      “Sao nó lại được gọi là Shutter?” Teddy hỏi.


      Cha cậu nhún vai. “Con và các câu hỏi của con. Lúc nào cũng là những câu hỏi.”


      “Ôi, nhưng tại sao ạ?”


      “Có những nơi được đặt tên rất tình cờ và rồi dính liền với tên gọi đó. Có thể là do những tên cướp biển.”


      “Những tên cướp biển ư?” Teddy thích cái thanh của từ đó. Cậu có thể thấy họ, những người đàn ông to lớn với dải băng bịt mắt, đôi ủng cao, và thanh gươm sáng quắc.


      Cha cậu , “Đó là nơi trước đây chúng lẩn trốn.” Tay ông vung về phía chân trời. “Những hòn đảo ấy. Chúng lẩn trốn và chôn giấu tiền vàng ở đó.”


      Teddy tưởng tượng ra những rương vàng với ăm ắp tiền vàng tràn ra khắp phía. Sau đó cậu bị say, cậu nôn thốc nôn tháo xuống biển nhiều lần từ mạn thuyền của cha cậu.


      Cha cậu rất ngạc nhiên vì hàng giờ trước đó trong suốt chuyến Teddy nôn ọe mà chỉ bắt đầu khi đại dương lúc êm ả, lấp lánh trong cơn tĩnh lặng của riêng mình. Cha cậu , “ sao. Đó là lần đầu tiên của con. có gì đáng xấu hổ cả.”


      Teddy gật đầu và lau miệng bằng chiếc khăn cha cậu đưa cho. Cha cậu bảo, “Đôi khi có vận động cơ học mà con thể nào cảm nhận được cho tới khi nó dâng trào trong người con.”


      Thêm cái gật đầu vì Teddy tài nào cho cha cậu rằng phải vận động cơ học làm bụng cậu cồn cào.


      Tất cả chỉ tại đám nước này. Trải ra mênh mông xung quanh họ cho tới khi nó là thứ duy nhất còn sót lại của thế giới. hiểu sao Teddy tin rằng nó thậm chí còn có thể nuốt chửng cả bầu trời. Trước cái phút giây nôn thốc nôn tháo đó, cậu chưa hề nghĩ tới đơn độc này.


      Cậu ngước nhìn cha mình, mắt cậu ướt và đỏ quạch, cha cậu , “Con ổn thôi,” và Teddy cố gắng mỉm cười.


      Mùa hè năm 1938, cha cậu theo con tàu săn cá voi ở Boston và bao giờ trở về nữa. Mùa xuân sau đó, những mảnh vỡ còn sót lại của chiếc thuyền dạt vào bờ biển Nantasket ở thị trấn Hull nơi Teddy lớn lên. mảnh ván thuyền, mẩu kim loại có khắc tên thuyền trưởng, những hộp xúp cà chua và khoai tây, hai cái bẫy tôm hùm méo mó và thủng lỗ chỗ.


      Người ta tổ chức tang lễ cho bốn thuyền viên tại nhà thờ St. Theresa, lưng quay ra chính cái bờ biển cướp sinh mạng rất nhiều giáo dân của nó và Teddy đứng đó cùng với mẹ cậu lắng nghe những lời tưởng nhớ tới thuyền trưởng con tàu, người bạn đồng hành thứ nhất của ông và thuyền viên thứ ba tàu, thủy thủ lão luyện tên là Gil Restak, vốn là nỗi kinh hoàng đối với các quán bar trong thị trấn Hull kể từ khi ông trở về sau Đại chiến với gót chân đầy thương tích và những hình vẽ xấu xí nhung nhúc đầu. Mọi chuyện được tha thứ khi người ta chết , trong những người pha đồ uống tại quán bar từng bị ông làm cho khiếp sợ .


      Chủ chiếc thuyền, Nikos Costa thừa nhận rằng ông ấy gần như biết gì về cha của Teddy, người mà ông nhận thuê trong những phút cuối cùng khi thủy thủ bị gẫy chân vì ngã từ xe tải xuống. Tuy nhiên, vị thuyền trưởng những lời hết sức tốt đẹp về ông, rằng tất cả mọi người trong thị trấn này đều biết ông ấy có thể làm tốt công việc của thủy thủ. Và đó phải là lời khen ngợi cao quý nhất mà người có thể dành cho người khác hay sao? Đứng trong nhà thờ, Teddy nhớ đến cái ngày ở thuyền của cha cậu hôm đó vì họ còn ra biển cùng nhau lần nào nữa. Cha cậu vẫn cứ là họ còn nhưng Teddy biết ông thế chỉ để con trai mình giữ lại chút kiêu hãnh. Cha cậu bao giờ thừa nhận chuyện xảy ra ngày hôm ấy nhưng hai cha con trao đổi cái nhìn đường quay về, khi trở lại qua những hòn đảo nối đuôi nhau đó, với đảo Shutter lùi lại phía sau và đảo Thompson vẫn còn ở phía trước, khi hình dáng thành phố in nền trời trở nên cận kề và nét khiến ta tưởng ta có thể nâng cả chóp của tòa nhà.


      “Biển cả là thế đấy,” cha cậu , tay khẽ xoa lưng cậu khi cả hai đứng dựa lưng vào đuôi tàu. “Có những người tìm tới nó. Có những người nó mang .” Và ông nhìn Teddy với cái nhìn khiến cậu hiểu rằng cậu trở thành loại người nào khi lớn lên.


      VÀO NĂM 1954, để tới được đó, họ phải phà từ thành phố, vượt qua loạt những hòn đảo vốn bị quên lãng như Thompson, Spectacle, Grape, Bumpkin, Rainford, và Long, bám chắc lấy mặt biển trống trải bằng những cồn cát cứng, những cây gai và những quần thể đá trắng như xương người. Ngoại trừ hai chuyến vận chuyển cố định vào thứ Ba và thứ Bảy con phà lịch trình cụ thể nào. Con phà chẳng còn gì ngoài lớp sàn bằng tấm phủ kim loại và hai cái ghế băng sắt kê dưới cửa sổ. Hai cái ghế này được bắt chặt vào sàn và vào hai chiếc cột lớn màu đen ở cả hai đầu với đống khóa tay và xiềng xích treo ở phía .


      Hôm nay con phà chở bệnh nhân tới viện mà chỉ có Teddy và người đồng mới của , Chuck Aule, với mấy cái túi vải bạt đựng thư từ và vài thùng thuốc men cung ứng.


      Teddy khởi đầu chuyến bằng việc quỳ gối trong nhà vệ sinh, gục đầu vào bồn rửa khi động cơ của con tàu kêu bình bịch và phát ra những tiếng lách cách, khi mũi tràn ngập thứ mùi oi nồng của xăng dầu và mùi biển cả vào cuối mùa hè. chẳng nôn ra gì ngoài ít nước nhưng cổ họng ngừng thắt lại, bụng cồn cào, dạ dày quặn lên quặn xuống và khí trước mặt cứ xoay tròn với những hạt bụi nhấp nháy như mắt người.


      Cơn nôn ọe cuối cùng kết thúc bằng quả cầu oxy bị nén thoát ra khỏi miệng và nổ tung, dường như mang theo cả phần lồng ngực của . Teddy ngồi thụp xuống sàn tàu kim loại, lau mặt bằng chiếc khăn mùi soa và nghĩ đây phải là cách thích hợp để khởi đầu mối quan hệ đối tác.


      có thể tưởng tượng ra cảnh Chuck kể với vợ ta khi trở về nhà - nếu như ta có vợ; Teddy thậm chí cũng chưa biết nhiều về ta tới mức đó - về cuộc gặp gỡ đầu tiên với huyền thoại Teddy Daniels rằng: “Em , ấy khoái đến nỗi nôn cả ra tàu.”


      Kể từ cái chuyến biển ngày còn bé đó, Teddy chưa bao giờ cảm thấy thích thú với sông nước và vui vẻ gì với thiếu vắng đất đai, với cảnh nhìn thấy mặt đất, thứ mà ta có thể vươn tay ra, chạm vào nó mà bị mất hút . tự trấn an mình rằng chuyện đó có gì đáng lo ngại vì đó là điều hiển nhiên khi qua thực thể bằng nước, nhưng lại phải vậy. Ngay cả trong chiến tranh, đối với việc tập kích hàng giờ các bãi biển đáng sợ bằng những mét cuối cùng khi thuyền sắp cập bến, khi phải thò chân xuống nước để lội vào bờ và những sinh vật lạ bắt đầu chui vào trong ủng.


      Dù vậy, vẫn muốn đứng boong, hít thở khí trong lành hơn là ngồi ở đây dưới sàn tàu tròng trành và nóng tới phát bệnh.


      Khi chắc rằng cơn buồn nôn qua hẳn, khi dạ dày còn nổi bong bóng và đầu còn dập dềnh nữa rửa tay và mặt, xem lại bộ dạng bên ngoài của mình trong tấm gương treo phía bên bồn rửa bị muối biển ăn mòn gần hết trông giống như có đám mây ở giữa mà Teddy cố lắm mới nhìn ra hình ảnh phản chiếu của mình, người đàn ông tương đối trẻ, tóc húi cua theo kiểu người làm công vụ. Nhưng gương mặt hằn lên những chứng tích của chiến tranh và năm tháng, còn đôi mắt phản chiếu niềm ham mê đối với những cuộc truy đuổi và bạo lực mà Dolores có lần ví nó với đôi mắt của con sói nhớ rừng. Mình còn quá trẻ để có cái vẻ khắc khổ ấy, Teddy nghĩ.


      chỉnh lại dây lưng để cho súng và bao súng sang bên cạnh hông. lấy chiếc mũ nắp bồn cầu và đội lên đầu, sửa lại vành mũ hơi vểnh lên phía bên phải. thắt lại cà vạt. Đó là trong những chiếc cà vạt hoa lòe loẹt lỗi thời nhưng vẫn đeo vì ấy tặng nó cho , thả nó xuống trước mặt vào lần sinh nhật khi ngồi trong phòng khách. Môi áp vào yết hầu cổ . bàn tay đặt ấm áp. Lưỡi có vị cam. Rồi trượt vào lòng , tháo chiếc cà vạt đeo ra, Teddy vẫn nhắm mắt. Lặng lẽ hít thở mùi hương của . Tưởng tượng . Tạo ra hình ảnh trong đầu và giữ lại đó.


      vẫn có thể làm được chuyện đó, chỉ cần nhắm mắt lại và lại thấy . Nhưng rồi những vệt màu trắng bắt đầu làm mờ phần nào đó, bên dái tai, hàng lông mi, hay đường viền mái tóc . Điều đó vẫn chưa đủ để che mờ nhưng Teddy sợ rằng thời gian lấy khỏi , nghiền nát những khung ảnh trong đầu , làm chúng tiêu tan.


      nhớ em,” và bước ra ngoài boong trước.


      Ở đây trời ấm và trong trẻo nhưng mặt nước như được dệt bằng những tia sáng màu gỉ sắt sẫm lại giữa khoảng mênh mông xám nhợt xanh xao, như thể có vật gì đó lớn dần lên từ dưới đáy biển u.


      Chuck nhấp hơi từ chai rượu bỏ túi của mình rồi quay sang phía Teddy, nhướng bên mày ra hiệu. Teddy lắc đầu, Chuck đút chai rượu vào túi áo khoác, khép lại vạt chiếc áo khoác ngoài xung quanh hông rồi nhìn ra biển.


      “Sếp ổn chứ?” Chuck hỏi. “Trông sếp hơi xanh.”


      “Tôi sao,” Teddy nhún vai trả lời.


      “Chắc chứ?”


      Teddy gật đầu. “Chỉ là cơn say sóng thôi.”


      Họ đứng im lặng lúc, biển dập dờn xung quanh họ với những hũ xoáy tối om và mượt như nhung.


      “Cậu có biết trước đây nó từng là nơi giam giữ tù binh chiến tranh?” Teddy lên tiếng.


      “Hòn đảo ư?” Chuck hỏi.


      Teddy gật đầu. “Vào thời Nội chiến. Họ xây cả pháo đài công và những doanh trại ở đó.”


      “Bây giờ họ làm gì với cái pháo đài công ấy?”


      Teddy nhún vai. “ thể với cậu được. Chỉ còn lại vài căn cứ quân những hòn đảo khác nhau. Phần lớn chúng là mục tiêu tập trận pháo kích trong thời kỳ chiến tranh. Giờ cũng chẳng còn lại mấy.”


      “Thế còn bệnh viện sao?”


      “Những gì mà tôi có thể là họ sử dụng các trụ sở quân đoàn cũ.”


      “Ôi thế giống như là chúng ta quay lại căn cứ ấy nhỉ, hừm?”


      “Đừng dại mà nghĩ thế.” Teddy quay lưng lại phía lan can tàu. “Thế cậu tới đây làm gì hả Chuck?”


      Chuck mỉm cười. ta to hơn nhưng thấp hơn Teddy chút, có lẽ cao khoảng 1m75, tóc xoăn màu đen cắt gọn gàng, nước da màu ô liu và đôi bàn tay mảnh dẻ, thanh tú dường như trái ngược hẳn với phần còn lại của con người, như thể ta mượn chúng trong lúc chờ đợi hai bàn tay của mình được làm xong. Bên phía má trái có vết sẹo ta gõ gõ ngón tay trỏ lên đó.


      “Tôi luôn bắt đầu bằng câu chuyện về vết sẹo này,” ta . “Sớm muộn gì mọi người cũng hỏi tới nó.”


      “Được thôi.”


      phải là từ chiến tranh đâu,” Chuck . “Bạn tôi bảo rằng tôi nên là thế cho nó xong chuyện, nhưng...” ta nhún vai. “Dù nó cũng là do chơi trận giả. Khi tôi còn bé. Tôi và những đứa trẻ khác bắn nhau bằng súng cao su ở trong rừng. Viên đá của bạn tôi trượt nên tôi mới ổn thế này chứ, đúng ?” ta lắc đầu trước khi tiếp. “Viên đá của cậu ấy trúng vào thân cây, mảnh gỗ bay vào má tôi. Tôi có vết sẹo như thế đấy.”


      “Do chơi trận giả.”


      “Do chơi trận giả, đúng thế.”


      “Cậu thuyên chuyển từ Oregon tới à?”


      “Từ Seattle. Mới chỉ tuần trước.”


      Teddy chờ đợi nhưng Chuck giải thích gì thêm.


      “Cậu gia nhập đội tầm nã tội phạm được bao lâu rồi?”


      “Bốn năm.”


      “Vậy là đủ biết nó bé thế nào.”


      “Phải. Sếp muốn biết vì sao tôi bị thuyên chuyển đúng ?” Chuck khẽ gật đầu như thể vừa đưa ra quyết định quan trọng. “Nếu tôi là do tôi chán ngấy cái cảnh mưa gió sao?”


      Teddy ngửa lòng bàn tay lên lan can. “Nếu cậu vậy...”


      “Nhưng nó đúng là , như sếp . Trong lực lượng, mọi người đều biết nhau. Rồi cuối cùng là những, họ gọi chúng là gì nhỉ, những lời đồn thổi.”


      “Cũng là cách gọi.”


      “Sếp tóm được Breck, đúng ?”


      Teddy gật đầu.


      “Làm thế nào mà sếp lại biết đến đâu? Năm mươi người truy lùng , tất cả bọn họ đều tới Cleveland. Còn sếp lại tới Maine.”


      lần tới đó nghỉ hè với gia đình lúc còn . Những gì làm với các nạn nhân là những hành động người ta chỉ làm với ngựa. Tôi có chuyện với bà dì của . Bà ấy kể rằng lần duy nhất cảm thấy hạnh phúc là khi ở trong trang trại nuôi ngựa gần nhà nghỉ của gia đình ở Maine. Và thế là tôi tới đó.”


      “Và tặng cho năm phát,” Chuck và nhìn xuống đám bọt biển dưới mũi tàu.


      “Lẽ ra phải bắn thêm năm phát nữa,” Teddy . “Nhưng chỉ cần đến năm phát.”


      Chuck gật đầu và nhổ bãi nước bọt qua thành tàu.


      “Bạn của tôi là người Nhật. Sinh ra ở đây, nhưng sếp biết đấy... Lớn lên trong trại tập trung. Nhiều nơi tình hình vẫn căng thẳng, Portlan, Seattle, Tacoma. Chẳng ai muốn nhìn thấy tôi với ấy.”


      “Nên họ thuyên chuyển cậu.”


      Chuck lại gật đầu, nhổ nước miếng rồi nhìn nó rơi lẫn vào trong đám bọt biển sục ngầu.


      “Họ rằng nó rất mạnh,” ta .


      Teddy nhấc cùi tay khỏi lan can tàu và đứng thẳng lên. Mặt nhớp nhúa, môi mằn mặn. Vì lý do nào đó mà biển cả xoay sở để tìm thấy chống đỡ nổi khi bị cú bụi nước táp vào mặt.


      sờ túi áo khoác ngoài để tìm bao thuốc lá hiệu Chesterfields của mình. “ ‘Họ’ là ai? Và ‘nó’ là cái gì?”


      “Họ là những người viết các bản dự báo thời tiết,” Chuck . “Và nó là cơn bão. cơn bão mạnh, họ bảo thế. Rất mạnh.” ta vẫy tay về phía bầu trời xanh xao, nhợt nhạt như đám bọt nước ngầu lên dưới mũi thuyền. Nhưng ở đó, dọc theo đường chân trời phía Nam những cụm mây màu đỏ tía như những miếng gạc tạo thành đường viền mảnh mai rồi to dần lên như những vết mực.


      Teddy hít khí vào trong lồng ngực. “Cậu nhớ chiến tranh chứ Chuck?” Chuck mỉm cười theo cái cách mà Teddy ngờ rằng hai người bọn họ tìm được đồng điệu và có thể đọc thấu tâm can nhau.


      chút,” Chuck . “Hình như tôi nhớ tới các đống đổ nát. Vô số đống đổ nát. Con người cứ hay gièm pha các đống đổ nát nhưng tôi cho rằng nó có vị thế riêng. Có vẻ đẹp thẩm mỹ riêng. Tất cả đều phụ thuộc vào con mắt của người nhìn nó.”


      “Cậu cứ như tiểu thuyết gia rẻ tiền. có ai với cậu điều đó chưa?”


      “Nó cứ tự tuôn ra,” Chuck và lại tặng cho biển cả nụ cười lặng lẽ, đoạn dựa lưng vào mũi tàu và duỗi người ra.


      Teddy vỗ vỗ túi quần rồi lục chiếc túi bên trong áo vest. “Chắc cậu nhớ các báo cáo thời tiết tác động tới các quyết định ra quân của chúng ta như thế nào?”


      “Có, tôi có nhớ,” Chuck vừa vừa lấy cùi tay xoa xoa lớp ria mọc lởm chởm cằm.


      “Thế cậu có nhớ độ chính xác của các bản dự báo đó ?” Chuck nhíu mày như thể muốn Teddy biết là ta xem xét câu hỏi này cách nghiêm túc. Rồi ta khẽ chép miệng và , “Khoảng ba mươi phần trăm, tôi đoán thế.”


      “Tối đa là vậy.”


      “Phải, tối đa,” Chuck gật gù.


      “Vậy giờ đây, trở lại với thế giới như chúng ta ...”


      “Ối, như chúng ta nương náu, có thể như vậy.”


      Teddy cố nén nụ cười, cảm thấy rất khoái chàng trai này. Nương náu. Lạy Chúa tôi.


      “Ừ nương náu,” Teddy đồng tình. “Thế tại sao bây giờ cậu lại trở nên tin tưởng vào các bản dự báo thời tiết hơn trước đây?”


      “Ừm,” Chuck nhìn thấy cái mỏm hơi lõm của hình tam giác nhô lên phía chân trời. “Tôi cũng chắc lòng tin của tôi có thể đo đếm được theo kiểu tăng hay giảm. Sếp có muốn làm điếu ?”


      Teddy dừng lại trong giây lát sờ tay vào các túi và phát ra Chuck quan sát mình, nụ cười láu lỉnh ngoác tới tận mang tai, ngay dưới vết sẹo.


      “Tôi vẫn còn chúng khi lên tàu cơ mà,” Teddy .


      Chuck nhìn qua vai . “Các nhân viên chính phủ. Cướp lúc nào biết.”


      Chuck lắc ra điếu từ bao thuốc hiệu Lucky của ta và đưa cho Teddy rồi châm lửa cho với chiếc bật lửa Zippo bằng đồng thau, mùi hôi của dầu hỏa lẫn vào mùi khí mằn mặn xông vào cổ họng Teddy. Chuck đóng chiếc bật lửa, rồi lại bật lên bằng cái vẩy cổ tay điệu nghệ và châm cho mình điếu.


      Teddy thở hắt ra, trong vài giây, cái đỉnh tam giác của hòn đảo chợt biến mất giữa làn khói thuốc.


      “Ở nước ngoài,” Chuck , “khi dự báo thời tiết tuyên bố khả năng đổ bộ của quân dù hay hành quân tới vị trí tập kết ràng có nhiều rủi ro hơn đúng ?”


      “Đúng vậy.”


      “Còn ở trong nước rủi ro chỉ là chút lung lạc niềm tin thôi phải ? Đó là tất cả những gì tôi muốn , sếp.”


      Hòn đảo bắt đầu ra hơn, chỉ còn là mẩu tam giác , phần đáy bắt đầu lớn dần cho tới khi biển lại trải dài phía bên kia nó. Họ có thể nhìn thấy những sắc màu giống như những nét cọ vẽ, màu xanh lặng lẽ của cây cỏ mọc hoang, màu vàng rám nắng của dải bờ biển, màu nâu xám xịt bề mặt vách đá phía Bắc. Và đỉnh, khi tiến lại gần, họ bắt đầu trông thấy những đường vuông góc của các tòa nhà.


      đáng tiếc,” Chuck .


      “Cái gì cơ?”


      “Cái giá của phát triển.” ta đặt chân lên đoạn dây chão dùng để neo thuyền rồi dựa lưng vào lan can tàu bên cạnh Teddy và cùng ngắm hòn đảo dần định hình. “Với những bước nhảy vọt - và những bước nhảy vọt vẫn diễn ra, đừng đùa, diễn ra hàng ngày ấy chứ - trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe nơi như thế này còn tồn tại nữa. Hai mươi năm sau người ta gọi chỗ như thế này là man rợ. thứ phụ phẩm tai hại của ảnh hưởng Victoria lỗi thời. Nên dẹp nó , người ta thế. hòa nhập, người ta cũng vậy. hòa nhập là mệnh lệnh ngày nay. Các bạn được hoan nghênh đến với cộng đồng. Chúng tôi chữa trị cho các bạn. Tái thiết các bạn. Tất cả chúng tôi đều là Đặc vụ Quốc gia. Chúng ta là xã hội mới, và ở đây có chỗ cho loại trừ. có những chiếc máy xung điện Elbas.”


      Các tòa nhà lại biến mất sau đám cây cối nhưng Teddy vẫn có thể nhận ra hình dáng mờ mờ của tòa tháp hình nón rồi đến những góc cạnh rắn rỏi nhô ra ngoài mà cho là của pháo đài cũ.


      “Nhưng chúng ta mất quá khứ của mình để đảm bảo cho tương lai?” Chuck khẽ gẩy tàn thuốc xuống đám bọt biển. “Vấn đề là ở đó? Sếp mất gì khi quét cái sàn nhà hả Teddy? Bụi bặm. Những mẩu bánh vụn mà có khi thu hút cả lũ kiến. Nhưng chiếc khuyên tai mà ấy đánh rơi sao? Nó cũng nằm trong thùng rác đúng ?”


      “ ‘ ấy’ là ai? Cái từ ‘ ấy’ bỗng dưng xuất từ đâu vậy Chuck?” Teddy hỏi.


      “Lúc nào chẳng có nào đó. đúng sao?”


      Teddy nghe thấy tiếng rền rĩ của động cơ thay đổi tần số sau lưng họ, cảm thấy con phà hơi tròng trành dưới chân và có thể nhìn thấy tòa pháo đài lên hơn đỉnh vách đá phía Nam khi họ vòng sang phía Tây của hòn đảo. Những khẩu đại bác còn nhưng Teddy vẫn có thể dễ dàng nhận ra vị trí các ụ pháo. Phía sau pháo đài, mặt đất cao dần thành những ngọn đồi mấp mô và Teddy hình dung ra những bức tường, nhìn được lắm từ chỗ đứng, và bệnh viện Ashecliffe nằm đâu đó sau những vách đá dựng đứng nhìn xuống phía bờ Tây.


      “Sếp cũng có chứ? Sếp có vợ chưa?” Chuck hỏi.


      từng,” Teddy và hình dung ra Dolores, cái cách nhìn trong tuần trăng mật của họ, khi quay đầu lại, chiếc cằm gần như chạm vào bờ vai trần của và những cơ bắp chuyển động dưới lớp da ở gần xương sống. “ ấy qua đời.”


      Chuck rời khỏi thành tàu, cổ đỏ lựng lên. “Ôi, Chúa ơi.”


      sao,” Teddy .


      “Ồ , .” Chuck đặt bàn tay lên ngực Teddy. “Chuyện đó... Tôi có nghe . hiểu tại sao tôi lại có thể quên được. Vài năm trước đây đúng ?”


      Teddy gật đầu.


      “Chúa ơi, Teddy. Tôi thấy mình giống như thằng ngốc. đấy. Tôi xin lỗi.”


      Teddy lại nhìn thấy , lưng xoay về phía khi bước xuống tầng trệt của căn hộ, mặc trong những chiếc áo sơ mi đồng phục cũ kỹ của , vừa vừa hát trước khi rẽ vào bếp, và khắp người lại tràn ngập nỗi đau đớn rã rời, thấu tận xương tủy. thà làm bất cứ chuyện gì - thậm chí bơi trong cái đám nước kia - còn hơn là về Dolores và về cái thực tế đau lòng là chỉ tồn tại vẻn vẹn ba mốt năm cõi đời này mà thôi. Chỉ có bằng ấy thời gian. Khi làm vào buổi sáng, còn có mặt. Nhưng buổi chiều, khi trở về ra . Nhưng nó cũng giống như vết sẹo của Chuck, nghĩ, câu chuyện thể đừng được trước khi họ có thể chuyển sang đề tài khác. Nếu luôn luôn tồn tại giữa hai người những câu hỏi thế nào, ở đâu và tại sao?


      Dolores qua đời được hai năm nhưng vẫn sống lại hàng đêm trong những giấc mơ của , và đôi khi mỗi sáng sớm vẫn mất lúc lâu để tưởng rằng vẫn đâu đó trong bếp hay uống cà phê bậu cửa trước căn hộ của hai người ở Buttonwood. Đó là trò đùa tàn nhẫn của trí óc, đúng thế, nhưng Teddy từ lâu chấp nhận cái logic của nó, việc thức dậy, xét cho cùng, cũng gần như trạng thái mới được sinh ra. Bạn tỉnh giấc tiềm thức, chớp mắt và ngáp như lúc mới sinh rồi sắp xếp các mảnh vỡ theo thứ tự thời gian trước khi chuẩn bị bản thân cho tại.


      Nhưng tàn nhẫn hơn rất nhiều là cái cách danh sách tưởng như phi logic gần những đồ vật có thể châm ngòi cho những ký ức về vợ được cài vào đầu như que diêm. Mà bao giờ biết được đó là vật gì, đôi khi là lọ muối, dáng của người phụ nữ lạ phố đông, chai Coca Cola, vệt son môi miệng cốc, chiếc gối ôm.


      Nhưng trong tất cả những ngòi nổ đó, có gì kém logic hơn xét về mặt liên kết, và có gì cay độc hơn, xét về mặt tác động, so với nước, những giọt nước rỉ ra từ vòi, rơi tí tách từ bầu trời, ứ lại vỉa hè, hay như lúc này đây, trải ra xung quanh hàng dặm, từ mọi phía.


      với Chuck: “Có đám cháy trong tòa nhà chúng tôi ở. Lúc đó tôi làm. Bốn người thiệt mạng. ấy là trong số đó. Chính khói giết chết ấy, Chuck, chứ phải là ngọn lửa. Điều đó có nghĩa là ấy chết trong đau đớn. Còn sợ hãi? Có thể. Nhưng đau đớn. Điều đó rất quan trọng.”


      Chuck lại làm thêm hơi từ chai rượu của mình và giơ nó ra mời Teddy lần nữa. Teddy lắc đầu. “Tôi bỏ việc. Sau đám cháy. ấy vẫn thường hay lo lắng về công việc đó, cậu biết ? Và rằng tất cả đám quân nhân và cảnh sát chúng ta đều uống quá nhiều. Nên...” có thể cảm thấy Chuck ở bên cạnh, chìm trong hổ thẹn và , “Cậu học cách sống chung với những chuyện như thế, Chuck, cậu lựa chọn nào khác. Như tất cả những thứ rác rưởi mà cậu thấy trong chiến tranh. Nhớ chứ?”


      Chuck gật đầu, mắt nheo lại trong giây lát với những ký ức cũ, xa xăm.


      “Đó là điều cậu phải làm,” Teddy nhàng .


      “Vâng,” Chuck cuối cùng cũng lên tiếng, mặt vẫn hơi ửng đỏ.


      Chiếc cầu cảng bỗng xuất như trò chơi khăm của ánh sáng, duỗi dài cát, nhìn từ xa trông giống thanh kẹo cao su màu xám, mong manh.


      Teddy cảm thấy cả người khô kiệt kể từ lúc nôn ọe trong nhà vệ sinh và bắt đầu kiệt sức trong mấy phút trở lại đây, cho dù cố học cách để sống chung với nó, với , với cái sức nặng có thể làm suy sụp bất cứ lúc nào. cơn đau ỉ xuất ở nửa đầu bên trái, ngay dưới mắt như thể cái sống của chiếc thìa cũ áp vào đó. Quá sớm để biết rằng liệu đó chỉ là tác động phụ đáng kể của mất nước, khởi đầu của cơn đau đầu thông thường hay là dấu hiệu đầu tiên của cái gì đó tồi tệ hơn, những cơn đau nửa đầu bám riết lấy như thứ dịch bệnh từ thời niên thiếu, nhiều khi gay gắt tới mức bên mắt của dường như còn thấy gì trong chốc lát, ánh sáng trở nên đau rát như cơn mưa đá hay những chiếc đinh sắc nhọn; và lần, ơn Chúa là mới chỉ lần nó khiến phải nằm liệt giường trong suốt ngày rưỡi.


      Tuy nhiên những cơn đau nửa đầu ấy của bao giờ xuất vào những lúc áp lực công việc căng thẳng mà chỉ sau đó, khi tất cả lắng xuống, khi bom ngừng rơi và những cuộc truy đuổi kết thúc. Những cơn đau tồi tệ nhất thường xuất khi ở trong các lán trại tại khu căn cứ hay khu doanh trại kể từ khi cuộc chiến xảy ra, trong các phòng khách sạn hay đường quốc lộ khi lái xe về nhà. Ở đây có cái mẹo mà Teddy nhận ra từ lâu rằng phải giữ cho mình bận rộn và tập trung. Chúng thể tóm được nếu ngừng chạy.


      với Chuck, “Cậu nghe nhiều về chỗ này chưa?”


      bệnh viện tâm thần, đó là tất cả những gì tôi biết.”


      “Cho những kẻ điên phạm tội,” Teddy .


      “Nhưng nếu phải vì thế chúng ta cũng chẳng đến đây,” Chuck .


      Teddy lại bắt gặp ta với nụ cười nhăn nhở thành tiếng như lúc nãy.


      “Cậu chẳng bao giờ biết được đâu, Chuck. Trong mắt tôi, cậu trông chẳng ổn định được tới 100%.”


      “Có lẽ trong thời gian chúng ta ở đây, tôi nên đặt trước giường trong viện để họ giữ cho mình chỗ cho sau này.”


      “Ý tưởng cũng tồi,” Teddy khi tiếng động cơ tàu chợt dừng lại trong giây lát, mũi tàu quay sang bên phải theo luồng nước để đổi hướng rồi động cơ lại được khởi động trở lại, con tàu bắt đầu giật lùi về phía cầu cảng, Chuck và Teddy đứng quay mặt ra biển.


      “Tôi được biết là ở đây họ sử dụng những phương pháp chữa bệnh cấp tiến,” Teddy .


      “Mức độ Đỏ à?”


      phải Đỏ,” Teddy . “Chỉ là cấp tiến thôi. Giữa hai cái này có khác nhau đấy nhé!”


      “Nhưng trong thời buổi này cũng chẳng biết được.”


      “Đúng là đôi khi cũng thể biết được ,” Teddy đồng ý.


      “Và cái người phụ nữ bỏ trốn đó?”


      “Cũng chẳng biết gì nhiều. ta trốn thoát đêm qua. Tôi có ghi lại tên ta trong sổ tay. Chắc là họ cho chúng ta mọi chuyện,” Teddy .


      Chuck nhìn ra mặt nước xung quanh. “ ta đâu nhỉ? Bơi về nhà à?”


      Teddy nhún vai. “ ràng là các bệnh nhân ở đây đều mắc những chứng hoang tưởng khác nhau.”


      “Tâm thần phân liệt?”


      “Phải, tôi đoán thế. Trong bất cứ trường hợp nào cậu cũng tìm thấy những người mắc bệnh Down thông thường ở đây. Hay những kẻ suốt ngày ngủ vì sợ đường nứt ra khi dạo. Với những gì tôi đọc trong hồ sơ tất cả các bệnh nhân ở đây, cậu biết , đều rất điên.”


      “Tuy nhiên, theo sếp, trong số họ có bao nhiêu người giả điên? Tôi vẫn luôn tự hỏi mình thế. Sếp có nhớ các bệnh nhân ở Khu Tám mà sếp gặp trong thời kỳ chiến tranh ? Bao nhiêu trong số họ sếp nghĩ rằng có vấn đề?”


      “Tôi chiến đấu cùng với chàng ở Ardennes...”


      “Sếp ở đó ư?”


      Teddy gật đầu. “ chàng đó, hôm thức dậy và bắt đầu ngược.”


      “Các từ á?”


      “Cả câu ấy,” Teddy . “ ta , ‘Trung sĩ, máu nhiều quá có ở đây hôm nay.’ Chiều hôm đó chúng tôi tìm thấy ta trong hố cá nhân, lấy đá tự đập nhiều nhát vào đầu mình. Chỉ đập vào đầu. Liên tục, liên tục. Chúng tôi sững sờ lúc mới nhận ra là ta móc mắt mình ra.”


      “Sếp thế để dọa tôi chứ gì.”


      Teddy lắc đầu. “Mấy năm sau tôi có nghe người kể lại việc ta tình cờ gặp gã mù trong bệnh viện cựu chiến binh ở San Diego. Vẫn ngược và mắc chứng liệt mà bác sĩ nào chuẩn ra nguyên nhân, cả ngày ngồi xe lăn bên cửa sổ và chuyện mùa màng, rằng ta phải thu hoạch mùa vụ của mình. Vấn đề là, chàng đó lớn lên ở Brooklyn.”


      “Rồi, chàng ở Brooklyn lại nghĩ rằng ta là nông dân, tôi đoán là ta thuộc Khu Tám.”


      “Đó là dấu hiệu, chắc thế.”


      PHÓ GIÁM ĐỐC TRẠI GIAM MCPHERSON đón họ tại cầu tàu. Trông ông ta trẻ hơn so với chức vị của mình, mái tóc vàng cắt hơi ngắn hơn thường lệ và các cử động của ông ta toát lên vẻ duyên dáng thanh thoát khiến Teddy liên tưởng tới người Texas hay những người học cưỡi ngựa từ bé.


      Xung quanh ông ta là đám hộ lý, phần lớn là người da đen, chỉ có vài gã da trắng với những khuôn mặt u mê như thể họ từng là những đứa trẻ đói ăn và vẫn mang cái vẻ còi cọc, khắc khổ cho tới bây giờ.


      Những người hộ lý mặc áo sơ mi và quần màu trắng, thành nhóm. Họ gần như thèm nhìn Teddy và Chuck. Họ gần như chẳng thèm nhìn bất cứ cái gì mà chỉ di chuyển từ cầu cảng tới con phà để chờ dỡ hàng hóa.


      Teddy và Chuck xuất trình thẻ theo quy định và McPherson xem xét chúng cách kỹ càng, hết nhìn họ rồi lại nhìn bức ảnh trong thẻ chứng minh, mắt nheo lại.


      “Tôi dám chắc là tôi từng được nhìn thấy cái thẻ của đặc vụ Mỹ,” ông ta .


      “Giờ ông nhìn thấy những hai cái.” Chuck . “ ngày trọng đại.”


      Ông ta mỉm cười với Chuck cách uể oải rồi đưa lại thẻ cho ta.


      Bãi biển trông có vẻ bị sóng đánh dồn dập trong vài đêm gần đây, đầy vỏ sò, cành cây trôi giạt, xác động vật thân mềm và cá chết bị ăn mất phân nửa bởi những loài ăn xác thối. Teddy để ý tới những thứ rác rưởi có lẽ bị gió thổi từ trong vịnh ra, những vỏ đồ hộp, những cuộn giấy sũng nước, cái biển xe bị đánh bật về phía hàng cây bị nắng làm cho bợt màu và mờ hết số. Cây cối ở đây phần lớn là thông và thích trông còi cọc, xơ xác. Từ đây, Teddy cũng có thể nhìn thấy những tòa nhà lấp ló sau hàng cây đỉnh đồi.


      Dolores vốn thích tắm nắng có thể nơi này, còn Teddy chỉ cảm thấy những làn hơi nước thổi liên hồi từ phía đại dương như lời cảnh cáo rằng biển cả có thể tấn công bất cứ khi nào nó muốn, và nhấn chìm bạn xuống dưới đáy.


      Những người hộ lý trở lại từ phía cầu tàu với các thùng thư và thuốc, chất chúng lên những chiếc xe đẩy và McPherson ký nhận những thứ vừa được giao vào tờ giấy kẹp bảng nhựa rồi đưa nó cho những nhân viên bảo vệ phà; người trong số họ , “Xong rồi chúng tôi đây.”


      McPherson nheo mắt dưới ánh nắng.


      “Cơn bão,” người bảo vệ tiếp, “hình như ai biết được nó diễn biến ra sao?”


      McPherson gật đầu.


      “Chúng tôi liên lạc với trạm nếu cần tới đón,” Teddy


      Người bảo vệ gật đầu và lại tiếp, “Có vấn đề gì về cơn bão nhớ liên lạc nhé!”


      “Chắc chắn, chắc chắn,” Chuck . “Chúng tôi nhớ điều đó.”


      McPherson dẫn họ lên con đường với những bụi hồng mọc len lỏi giữa các hàng cây. Qua khỏi hàng cây, trước mặt họ xuất con đường láng xi măng giống như nụ cười ngạo nghễ và Teddy có thể nhìn thấy nhà cửa ở cả hai bên. Ngôi nhà ở bên tay trái của trông có vẻ giản dị hơn, chỉ là tòa nhà có mái hai mảng màu nâu sẫm kiểu Victoria với những ô cửa sổ màu đen, gọn gàng trông giống như những người lính. Ngôi nhà bên phải được xây theo kiến trúc Tudor hơi dốc trông giống như tòa lâu đài.


      Họ tiếp tục , leo lên con dốc trơn phủ đầy cỏ biển mọc dại trước khi đất đai dần dần trở nên xanh hơn và mềm mại hơn xung quanh họ, đỉnh dốc cỏ mọc thấp hơn và được cắt tỉa gọn gàng thành bãi cỏ rộng theo kiểu truyền thống, trải dài hàng trăm mét tới chân bức tường gạch màu da cam dường như được xây vòng quanh hòn đảo. Bức tường bao này cao khoảng ba mét, gờ tường là những vòng dây thép gai và có cái gì đó trong hình ảnh của những vòng dây thép gai ấy tác động mạnh tới Teddy. chợt cảm thấy tội nghiệp cho tất cả những con người sống ở phía bên kia bức tường khi biết được bản chất của những sợi dây thép gai ấy và nhận ra rằng thế giới này muốn giam giữ họ ở trong đó tới nhường nào. Teddy nhìn thấy số nhân viên mặc đồng phục màu xanh sẫm đứng ngay bên ngoài bức tường, đầu cúi gằm, mắt nhìn xuống đất.


      diện của lính canh tại viện tâm thần. Hơi lạ, nếu ông ngại tôi xin vậy, ông McPherson,” Chuck .


      “Đây là bệnh viện đòi hỏi an ninh tối đa,” McPherson trả lời. “Chúng tôi hoạt động dưới hai cơ chế, là Cục Sức khỏe Tâm thần Massachusetts và là Cục Trại giam Liên bang.”


      “Tôi biết thế,” Chuck . “Nhưng tôi vẫn tự hỏi hẳn các ông có nhiều chuyện để quanh bàn ăn tối?” McPherson mỉm cười và khẽ lắc đầu.


      Teddy nhìn thấy người đàn ông tóc đen mặc đồng phục giống như những người lính gác khác nhưng cổ áo ông ta lại dựng lên, cầu vai được đính màu vàng và huy hiệu của ông ta cũng bằng vàng. Ông ta là người duy nhất lại lại đầu ngẩng cao, tay chống lưng khi rảo bước giữa những người lính gác khác, cái cách ông ta bước khiến Teddy nhớ tới những vị thượng tá gặp trong chiến tranh, những người coi mệnh lệnh là trách nhiệm nặng nề được giao phó chỉ từ quân đội mà bởi chính Chúa trời. Người đàn ông đó mang theo cuốn sách màu đen bên cạnh sườn, gật đầu chào về phía họ rồi tiếp tục xuống con dốc mà họ vừa lên, mái tóc đen của ông ta cứng đơ trong gió.


      “Đó là giám đốc trại giam,” McPherson . “Các vị gặp ông ấy sau.”


      Teddy gật đầu, tự hỏi hiểu tại sao họ thể gặp ngay lúc này và nhìn theo ông trưởng trại giam từ từ biến mất phía bên kia ngọn đồi.


      người hộ lý lấy chìa khóa mở tung cánh cổng ở giữa bức tường còn những người khác đẩy xe vào trong. Cùng lúc đó hai người lính gác xuất tiến về phía McPherson và dừng lại bên cạnh ông ta.


      McPherson đứng thẳng người lên như ra hiệu tới lúc làm việc nghiêm túc và , “Tôi phải thông báo cho các vị số nguyên tắc cơ bản đảo.” “Chắc chắn rồi!”


      “Các vị nhận được mọi tiếp đãi mà chúng tôi có thể thu xếp, mọi giúp đỡ mà chúng tôi có thể thực . Trong thời gian lưu lại đây, dù có ngắn ngủi thế nào, các vị cũng phải làm việc đúng quy tắc. Các vị hiểu chứ?”


      Teddy gật đầu còn Chuck , “Nhất định rồi.”


      McPherson dõi mắt về điểm ngay phía đầu họ và , “Tôi chắc là bác sĩ Cawley giải thích những điểm cụ thể về quy tắc làm việc cho các vị nhưng tôi vẫn muốn nhấn mạnh mấy điểm sau đây: nghiêm cấm tiếp xúc có người giám sát với các bệnh nhân. Các vị hiểu chứ?”


      Teddy suýt buột miệng , “Vâng, thưa ngài” giống trong quân ngũ nhưng cuối cùng chỉ mỗi từ “Đồng ý.”


      “Khu A của bệnh viện, tòa nhà đằng sau phía bên phải tôi dành cho bệnh nhân nam. Khu B, dành cho bệnh nhân nữ, phía bên trái tôi. Khu C ở những con dốc phía sau khuôn viên này và khu nhân viên là nơi trước kia là pháo đài Walton. Ra vào Khu C bị cấm trừ phi có giấy viết tay và diện của cả hai người, giám đốc trại giam và bác sĩ Cawley. Các vị hiểu chứ?”


      Lại thêm hai cái gật đầu.


      McPherson ngửa lòng bàn tay hộ pháp của mình ra như thể hứng lấy ánh mặt trời: “Vì vậy cầu các vị giao nộp vũ khí.”


      Chuck nhìn Teddy. Teddy lắc đầu.


      , “Ông McPherson, chúng tôi là đặc vụ liên bang thi hành nhiệm vụ. Chính phủ cầu chúng tôi mang theo vũ khí mọi lúc.”


      Giọng của McPherson bắn vào khí như dây thép lạnh. “Điều khoản Thi hành số 391 của Luật Liên bang về các bệnh viện và trại giam dành cho phạm nhân tâm thần quy định rằng cầu mang vũ khí của các nhân viên an ninh chỉ bị từ chối trong trường hợp cấp trực tiếp của ta hoặc những người có thẩm quyền trong việc bảo vệ và trông coi các cơ sở y tế tâm thần hoặc tội phạm hình ra lệnh. Quý vị, quý vị rơi đúng vào trường hợp ngoại lệ này. Các vị được phép qua cánh cổng này với vũ khí người.”


      Teddy nhìn sang Chuck. Chuck hất đầu về phía lòng bàn tay mở rộng của McPherson và nhún vai.


      “Chúng tôi muốn trường hợp ngoại lệ này được ghi biên bản cẩn thận,” Teddy .


      “Lính gác, hãy ghi lại trường hợp ngoại lệ của đặc vụ Daniels và Aule,” McPherson tiếp.


      “Vâng, thưa ngài.”


      “Quý vị, xin mời...” McPherson .


      Người lính gác đứng bên phải McPherson mở chiếc túi bằng da ra. Teddy kéo áo khoác và rút khẩu súng công vụ của mình ra khỏi bao. mở tung chốt an toàn bằng cái vẩy tay rồi đặt khẩu súng vào tay McPherson. McPherson đưa nó cho người lính gác để này đặt vào chiếc túi da rồi lại chìa tay ra.


      Chuck chậm chạp hơn chút với khẩu súng của mình, rề rà rút nó ra khỏi bao, nhưng McPherson hề tỏ ra mất kiên nhẫn, chờ cho tới khi Chuck lóng ngóng đặt khẩu súng vào tay ông ta.


      McPherson lại đưa súng cho người lính gác, này nhét nó vào túi và bước qua cổng.


      “Vũ khí của các được bảo quản trong phòng giữ đồ ngay bên ngoài văn phòng của giám đốc trại giam,” McPherson nhàng , những lời của ông ta nghe xào xạc như tiếng lá rơi, “tức là ở trong khu nhà chính của bệnh viện nằm ở giữa khuôn viên này. Các nhận lại chúng khi các ra về.” tới đây, nụ cười dễ dãi kiểu cao bồi của McPherson đột nhiên trở lại. “Thôi thế là các thủ tục chính thức xong. Tôi biết nhiều về các nhưng tôi vui mừng vì chúng ta giải quyết xong chuyện đó. Các nghĩ sao nếu chúng ta gặp bác sĩ Cawley?”


      Rồi ông ta quay người và dẫn họ qua cánh cổng lúc này khép lại dần sau lưng họ.


      Bên trong bức tường bao là thảm cỏ trải dọc theo con đường chính được lát bằng thứ gạch màu cam giống như bức tường. Những người làm vườn chân đeo cùm chăm chút bãi cỏ, cây cối và những thảm hoa, thậm chí còn có cả dãy hồng leo chạy dọc theo sân viện. Những người làm vườn bị đám hộ lý kèm sát, và Teddy nhìn thấy những bệnh nhân khác, cũng đeo cùm, lại quanh sân với những bước lạ lùng, giống như bước chân vịt. Phần lớn họ là nam giới, chỉ có vài phụ nữ.


      “Khi những bác sĩ đầu tiên tới đây,” McPherson , “cả chỗ này toàn cỏ biển và bụi rậm. Các có thể xem ảnh. Nhưng bây giờ...”


      Ở phía bên phải và bên trái của bệnh viện có hai tòa nhà kiểu thuộc địa bằng gạch đỏ, giống hệt nhau được quét lớp sơn màu trắng tươi, các cửa sổ đều có chấn song và những ô cửa vàng ố bởi muối và nước biển. Còn tòa nhà được dùng làm bệnh viện có màu than đá, hơi nước từ biển cả gột màu sắc lớp gạch của nó. Bệnh viện có sáu tầng và những cửa sổ gác mái nhìn xuống họ.


      McPherson , “Trước Nội chiến, nó được xây dựng làm trụ sở chính của tiểu đoàn. ràng là nó được thiết kế nhiều điểm giống với cơ sở huấn luyện. Khi chiến tranh sắp xảy ra họ biến nó thành pháo đài và rồi sau này là trại giam giữ tù binh chiến tranh.”


      Teddy để ý tới ngọn tháp mà nhìn thấy từ con phà. Đỉnh của nó vừa vặn nhô lên sau những rặng cây phía xa của hòn đảo.


      “Cái tháp ấy là gì?”


      ngọn hải đăng cũ,” McPherson . “ sử dụng từ những năm 1800. Tôi nghe là quân đội liên bang có đặt các trạm gác ở đó nhưng giờ nó được sử dụng làm việc khác.”


      “Chữa bệnh cho các bệnh nhân?”


      Ông ta lắc đầu , “, để xử lý nước thải. Các thể hình dung ra những gì trôi dạt trong thứ nước đó đâu. Nhìn từ con phà đẹp đấy nhưng mọi thứ rác rưởi từ các con sông lớn ở cái bang này trôi xuống vịnh rồi ra ngoài vịnh và cuối cùng tìm tới chỗ chúng tôi.”


      “Thú vị ,” Chuck và châm điếu thuốc, rồi rút vội nó ra khỏi miệng để nén cơn ngáp, mắt nheo lại dưới nắng.


      “Phía sau tường bao, bên kia...” ông ta chỉ qua Khu B, “là khu vực chỉ huy cũ. Các có thể thấy chúng đường lên. Hồi đó tốn biết bao tiền để xây, tới mức viên sĩ quan chỉ huy bị bãi nhiệm sau khi chú Sam nhìn thấy hóa đơn. Các nên tới thăm chỗ đó.”


      “Giờ ai sống ở đó?” Teddy hỏi.


      “Bác sĩ Cawley,” McPherson . “ chẳng có tất cả những thứ này nếu nhờ bác sĩ Cawley. Và giám đốc trại giam. Họ thực biến chỗ này thành chốn độc nhất vô nhị.”


      Họ vòng ra phía sau khuôn viên bệnh viện và gặp thêm nhiều người làm vườn bị xích và hộ lý, nhiều người trong số họ đào cái hố sâu gần cuối chân tường. người làm vườn, phụ nữ trung niên có mái tóc màu lúa mì lưa thưa gần như hói ở đỉnh nhìn chằm chằm về phía Teddy khi ngang qua rồi đưa ngón tay lên môi. Teddy để ý thấy vết sẹo màu đỏ sẫm, dày như miếng cam thảo vắt ngang cổ bà ta. Bà ta mỉm cười, ngón tay vẫn đặt môi rồi nhìn khẽ lắc đầu.


      “Cawley là huyền thoại trong lĩnh vực của ông ấy,” McPherson khi họ qua sân sau và tiến vào phía trước bệnh viện. “Đứng đầu lớp ở cả đại học ở Johns Hopkins và Harvard, xuất bản công trình nghiên cứu đầu tiên về các bệnh ảo giác khi mới hai mươi tuổi. Nhiều lần được mời tư vấn cho Scotland Yard, MI5, và 0SS(1).


      “Tại sao?” Teddy hỏi.


      “Tại sao ư?”


      Teddy gật đầu. Đó dường như là câu hỏi rất hợp lý.


      ...” McPherson có vẻ hơi lúng túng.


      “OSS chẳng hạn, thử lấy họ làm ví dụ đầu tiên xem sao. Tại sao họ lại cần tham vấn nhà tâm thần học?” Teddy .


      “Các vấn đề chiến tranh,” McPherson đáp.


      “Cũng được,” Teddy cách từ tốn. “Nhưng cụ thể là vấn đề gì chứ?”


      “Những vấn đề bảo mật,” McPherson . “Hay những thứ tương tự, tôi nghĩ thế.”


      “Nó có thể bảo mật tới mức nào nhỉ, nếu chúng ta về điều đó?” Chuck , bên mắt nheo lên vẻ khoái trá khi bắt gặp ánh mắt Teddy.


      McPherson dừng lại phía trước bệnh viện, chân đặt lên bậc tam cấp đầu tiên. Ông ta trông có vẻ bối rối. Ông nhìn ra xa trong giây lát, về phía đường lượn của bức tường bao màu da cam rồi , “Tôi chắc là các có thể hỏi ông ấy. Giờ chắc ông ấy họp xong rồi.”


      Họ lên cầu thang, xuyên qua hành lang bằng đá hoa cương, trần nhà được xây như chiếc vòm kín phía đầu họ. cánh cửa cót két mở ra khi họ tiến lại gần và bước vào phòng chờ lớn có nhân viên ngồi bên bàn giấy phía tay phải và người khác phía tay trái, trước mặt họ là hành lang dài tiếp giáp với cái cửa nữa. Họ lại chìa thẻ của mình ra cho nhân viên đầu cầu thang và McPherson ghi tên ba người vào cặp tài liệu trong khi nhân viên kia kiểm tra thẻ, giấy chứng minh rồi trả lại cho họ. Phía sau nhân viên này là căn buồng, và Teddy có thể thấy người đàn ông ăn vận đồng phục giống như vị giám đốc trại giam, chìa khóa treo lủng lẳng từng chùm bức tường phía sau lưng ông ta.


      Họ leo lên tầng hai và bước vào hành lang có mùi thơm của gỗ, sàn nhà làm bằng gỗ sồi lấp lánh dưới chân họ, tràn ngập thứ ánh sáng trắng ùa vào từ cửa sổ lớn phía cuối đường.


      “Rất nhiều điểm bảo an,” Teddy .


      “Chúng tôi phải dùng mọi biện pháp phòng ngừa,” McPherson .


      “Chắc rồi, ông McPherson, vì biết ơn của đám công chúng đầy cảm kích.”


      “Các phải hiểu là,” McPherson , lưng quay lại phía Teddy khi họ bước qua số phòng làm việc cửa đóng im ỉm với tên của các bác sĩ ghi tấm biển màu bạc. “Ở Mỹ nơi nào khác giống thế này. Chúng tôi chỉ nhận những bệnh nhân nặng nhất. Chúng tôi nhận những người mà những nơi khác thể chữa được.”


      “Gryce cũng ở đây đúng ?” Teddy hỏi.


      McPherson gật đầu. “Vincent Gryce, đúng vậy. Ở Khu C.”


      “Gryce là cái người...” Chuck quay sang hỏi Teddy.


      Teddy gật đầu. “Là người giết sạch tất cả họ hàng của mình, lột da đầu họ để làm mũ đội.”


      Chuck gật gù lia lịa trước khi thêm, “Rồi đội chúng vào thị trấn đúng ?”


      “Đấy là theo lời báo chí.”


      Họ dừng lại bên ngoài cánh cửa đôi. chiếc biển bằng đồng gắn ở giữa cánh cửa bên phải với dòng chữ GIÁM ĐỐC BỆNH VIỆN, BÁC SĨ J. CAWLEY.


      McPherson quay về phía họ, tay đặt lên nắm cửa và nhìn họ với vẻ mặt kín bưng. Ông ta , “Ở cái thời kém tiến bộ hơn bệnh nhân như Gryce chắc bị xử tử. Nhưng ở đây họ có thể nghiên cứu ta, xác định bệnh lý, và biết đâu còn phân tách được bất thường trong não bộ là nguyên nhân khiến cho ta hoàn toàn có khả năng dung hòa với các hành vi cư xử bình thường. Nếu như họ có thể làm được điều đó có lẽ chúng ta có cơ hội nhìn thấy cái ngày mà những kiểu bất dung ấy vĩnh viễn bị triệt tiêu hoàn toàn khỏi xã hội.”


      Ông ta dường như đợi câu trả lời, tay ông hề động đậy núm cửa.


      “Mơ mộng cũng tốt thôi, nghĩ vậy sao?” Chuck .


      BÁC SĨ CAWLEY gầy đến hốc hác. Tất nhiên là tới mức giơ xương sườn, xương sống ra như những người Teddy nhìn thấy tại trại tập trung Dachau ở Đức nhưng nhất thiết là cần phải ăn uống tẩm bổ nhiều. Đôi mắt màu sẫm của ông ta tụt sâu trong tròng mắt, như tiết ra thứ bóng tối che khuất cả khuôn mặt. Hai má hóp lại như thể sắp sụp xuống, xung quanh lỗ chỗ những vệt đồi mồi. Môi và mũi của ông ta cũng mỏng dính như những phần còn lại của ông, chiếc cằm gần như mất hút khuôn mặt. Nhúm tóc còn lại đầu ông ta cũng sẫm như màu mắt và quầng thâm phía dưới nó.


      Tuy nhiên, ông có nụ cười làm bừng sáng cả khuôn mặt, nụ cười rạng rỡ, đầy tự tin khiến hai tròng mắt cũng sáng lên theo và ông dùng nụ cười đó khi vòng qua bàn đến chào họ, tay dang rộng.


      “Đặc vụ Daniels và đặc vụ Aule,” ông ta , “ vui là các tới rất nhanh.”


      Tay của ông ta nằm trong tay Teddy khô và mềm mại, nhưng cái siết tay là choáng váng, như nghiến lấy những đốt xương tay Teddy cho tới khi có thể cảm thấy áp lực của nó lên tận cánh tay mình. Đôi mắt của Cawley lóe lên trong giây lát như thể muốn , chờ đợi điều đó, đúng ? trước khi chuyển sang Chuck. Ông ta bắt tay Chuck và , “Hân hạnh được gặp ,” trước khi nụ cười biến mất khuôn mặt khi ông quay sang bảo McPherson, “ giờ thế là đủ rồi, trại phó. Cảm ơn.”


      McPherson , “ có gì, thưa bác sĩ. Các vị vui vẻ nhé,” rồi rút lui khỏi phòng.


      Nụ cười của Cawley trở lại khuôn mặt nhưng là phiên bản khác, trông dẻo quẹo, khiến Teddy nghĩ đến lớp màng dính đóng bát súp.


      “Ông ấy là người tốt, McPherson. Hăm hở nhiệt tình.”


      “Với?” Teddy hỏi và ngồi xuống trước bàn.


      Nụ cười của Cawley lại xuất nửa khuôn mặt và đóng băng lại đó trong giây lát. “Xin lỗi?”


      “Ông ấy là người hăm hở nhiệt tình,” Teddy . “Nhưng với cái gì?”


      Cawley ngồi xuống bên kia bàn, duỗi hai tay ra. “Với công việc. kết hợp mang tính đạo đức giữa việc thực thi luật pháp và chăm sóc sức khỏe lâm sàng. Chỉ nửa thế kỷ trước, thậm chí là còn gần hơn thế trong số trường hợp, người ta cho rằng kiểu bệnh nhân như những người mà chúng tôi chữa trị tại đây tốt nhất là nên cùm lại và bỏ mặc họ sống bẩn thỉu, nhớp nhúa trong chất thải của chính họ. Họ thường bị đánh đập cách có hệ thống như thể điều đó giúp đánh bật bệnh điên ra ngoài. Chúng ta biến họ thành quỷ. Chúng ta tra tấn họ. Dùng nhục hình với họ. Đóng đinh vào đầu họ. Và thậm chí đôi khi còn dìm chết họ.”


      “Thế còn bây giờ?” Chuck hỏi.


      “Bây giờ chúng tôi chữa trị cho họ. cách có đạo đức. Chúng tôi cố gắng chữa cho họ lành bệnh, khỏi bệnh. Và nếu việc đó thành ít nhất chúng tôi cũng mang tới cho họ phương pháp chữa bệnh bớt đau đớn hơn.”


      “Thế còn những nạn nhân của họ sao?” Teddy hỏi.


      Cawley nhướng mày, chờ thêm.


      “Tất cả bọn họ đều là những kẻ phạm tội hung bạo,” Teddy . “Đúng ?”


      Cawley gật đầu. “Thực tế là rất hung bạo.”


      “Nghĩa là họ hại người khác,” Teddy . “Thậm chí là giết người trong nhiều trường hợp.”


      “Ôi, phải là phần lớn các trường hợp.”


      “Thế sao lại quan trọng cái việc giữ cho họ bớt đau đớn, nếu xét đến những gì họ gây ra cho các nạn nhân?”


      Cawley , “Bởi vì nghề của tôi là chữa trị cho họ chứ phải cho nạn nhân của họ. Tôi thể giúp gì các nạn nhân. Bản chất của nghề nghiệp là mỗi nghề đều có giới hạn của mình. Đó là nghề nghiệp của tôi. Tôi chỉ có thể đặt mối quan tâm của mình vào bệnh nhân của mình.” tới đây ông ta mỉm cười. “Thế ngài Thượng nghị sĩ giải thích tình hình ở đây rồi chứ?”


      Teddy và Chuck trao đổi những cái nhìn.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Teddy , “Chúng tôi chẳng biết gì về ngài Thượng nghị sĩ cả bác sĩ ạ. Chúng tôi được giao nhiệm vụ từ văn phòng tầm nã liên bang.”


      Cawley đặt hai cùi chỏ lên miếng bàn thấm màu xanh lá cây, hay tay nắm lại, chống cằm lên đó rồi nhìn họ qua gọng kính.


      “Vậy là tôi nhầm. Thế họ bảo các cái gì?”


      “Chúng tôi được biết là có nữ phạm nhân mất tích.” Teddy đặt quyển sổ ghi chép của mình lên đầu gối và lật giở vài trang. “ người tên là Rachel Solando.”


      bệnh nhân.” Cawley chữa lại với nụ cười lạnh băng.


      “Bệnh nhân,” Teddy . “Tôi xin lỗi. Chúng tôi được biết là ta bỏ trốn trong vòng hai tư giờ qua.”


      Cawley gật đầu, nghiêng cằm vào hai bàn tay. “Đêm hôm qua. Đâu đó khoảng từ mười giờ tới nửa đêm.”


      “Và vẫn chưa tìm thấy ấy,” Chuck .


      “Đúng vậy, đặc vụ...” Ông ta giơ tay lên vẻ xin lỗi.


      “Aule,” Chuck .


      Gương mặt của Cawley như co lại giữa hai bàn tay ông ta và Teddy để ý thấy những giọt nước bắn vào cửa sổ phía sau lưng ông. đoán được liệu đó là mưa hay là nước từ biển thổi vào.


      “Vậy tên của là Charles?” Cawley hỏi.


      “Đúng vậy,” Chuck .


      “Tôi thấy rất hợp với cái tên Charles,” Cawley . “Nhưng Aule hợp lắm.”


      “Thế là tốt rồi, tôi nghĩ thế.”


      “Sao lại vậy?”


      “Chúng ta được chọn tên họ của mình,” Chuck đáp. “Nên nếu như có ai đó nghĩ rằng tên hay họ của mình hợp với mình cũng là tốt lắm rồi.”


      “Ai đặt cho ?” Cawley hỏi.


      “Bố mẹ tôi.”


      “Họ của ấy?”


      Chuck nhún vai. “Ai mà biết được. Chắc phải ngược trở lại hai mươi thế hệ.”


      “Hay thế hệ.”


      Chuck nhoài người ra phía trước ghế “Xin lỗi, gì cơ?”


      là người Hy Lạp,” Cawley : “Hoặc là Armenia. Đúng ?”


      “Armenia.”


      “Vậy Aule là...”


      “Anasmajian.”


      Cawley chuyển cái nhìn ranh mãnh sang Teddy. “Thế còn ?”


      “Dòng họ Daniels ư?” Teddy . “Người Ailen từ mười đời nay.”


      hơi toét miệng cười với Cawley. “Và đúng là tôi có thể truy nguyên, thưa bác sĩ.”


      “Nhưng còn tên của ? Theodore à?”


      “Edward.”


      Cawley dựa lưng sâu vào trong ghế, hai tay buông khỏi cằm. Ông ta gõ gõ lên cái mở thư ở cạnh bàn tạo ra thứ thanh nhàng và bền bỉ như tiếng tuyết rơi mái nhà.


      “Vợ tôi,” ông ta , “tên là Margaret. Tuy nhiên trừ tôi ra, chả bao giờ có ai gọi bà ấy thế. vài người bạn cũ gọi bà ấy là Margo, cũng còn có chút ý nghĩa, chứ tất cả những người khác đều gọi bà ấy là Peggy. Tôi bao giờ hiểu được điều đó.”


      “Điều gì cơ?”


      “Là làm sao họ lại suy ra cái tên Peggy từ Margaret. Thế mà nó lại rất phổ biến nhé. Hoặc tại sao lại có tên Teddy từ Edward. có chữ p nào trong tên Margaret và chữ t nào trong Edward.”


      Teddy nhún vai. “Thế tên của ông sao?”


      “John.”


      “Có ai gọi ông là Jack bao giờ ?”


      Ông ta lắc đầu. “Phần lớn mọi người gọi tôi là Bác sĩ.”


      Những giọt nước vẫn đập vào cửa sổ và Cawley dường như điểm lại trong đầu cuộc đối thoại giữa bọn họ, mắt ông ta sáng lên và có vẻ xa xăm.


      Solando đó có bị coi là nguy hiểm ?” Chuck lên tiếng.


      “Tất cả bệnh nhân của chúng tôi đều có khuynh hướng bạo lực.” Cawley . “Đó là lý do tại sao họ ở đây. Đàn ông cũng như phụ nữ. Rachel Solando là góa phụ do chiến tranh. ta dìm chết ba đứa con của mình trong cái hồ phía sau nhà. Lôi chúng ra đó từng đứa và giữ chặt lấy đầu cho tới khi chúng chết. Rồi ta mang chúng về nhà, xếp chúng ngồi xung quanh bàn bếp và dùng bữa cho tới khi hàng xóm tạt qua.”


      ta có giết người hàng xóm ?” Chuck hỏi.


      Lông mày của Cawley lại nhướng lên và ông ta khẽ thở dài. “. Mời ông ta ngồi ăn sáng với họ. Ông ta từ chối, tất nhiên, và gọi cho cảnh sát. Rachel vẫn tin là những đứa trẻ còn sống và chờ ta. Điều đó có thể giải thích tại sao ta tìm cách bỏ trốn.”


      “Để về nhà,” Teddy .


      Cawley gật đầu.


      “Và đó là nơi nào vậy?” Chuck hỏi.


      thị trấn ở Berkshires. Cách đây khoảng hai trăm kilomet.” Cawley quay đầu và chỉ về phía cửa sổ sau lưng ông ta. “Bơi từ phía này, phải mất hai mươi kilomet mới tới đất liền. Bơi về phía Bắc tới Newfoundland mới gặp đất liền.”


      “Các ông cho tìm kiếm đảo?” Teddy hỏi.


      “Rồi.”


      “Tìm kỹ chứ?”


      Cawley trả lời ngay, tay mân mê bức tượng bán thân hình con ngựa bằng bạc để góc bàn. “Ngài trại trưởng và người của ông ấy cùng tiểu đoàn hộ lý mất cả đêm và gần buổi sáng lùng sục hòn đảo cùng tất cả các tòa nhà trong viện. dấu vết. Rắc rối hơn ở chỗ chúng tôi tài nào hiểu nổi ta ra khỏi phòng mình bằng cách nào. Nó bị khóa từ bên ngoài và cửa sổ duy nhất bị bịt chấn song. Chúng tôi cũng tìm thấy dấu hiệu nào cho thấy khóa bị mở.” Ông ta rời mắt khỏi con ngựa, liếc sang Teddy và Chuck. “Cứ như thể ta bốc hơi qua những bức tường.”


      Teddy ghi lại từ “bốc hơi” vào sổ. “Ông chắc là ta ở trong phòng lúc tắt đèn chứ?”


      “Chắc chắn.”


      “Vì sao?”


      Cawley rút tay khỏi con ngựa và nhấn nút gọi hệ thống liên lạc của mình. “Y tá Marino?”


      “Vâng, thưa bác sĩ.”


      “Hãy bảo ông Ganton vào đây.”


      “Tôi làm ngay, thưa bác sĩ.”


      Gần cửa sổ có cái bàn , đó là bình đựng nước với bốn chiếc ly thủy tinh nóc. Cawley tới đó và rót đầy ba ly nước. Ông ta đặt ly xuống trước mặt Teddy, ly xuống trước mặt Chuck và mang ly còn lại sang phía bên kia bàn.


      “Chắc ông có aspirin ở đây đâu nhỉ?” Teddy .


      Cawley khẽ mỉm cười, “Tôi nghĩ là chúng ta có thể tìm thấy vài viên.” Ông ta lục ngăn kéo bàn lúc rồi lấy ra lọ Bayer. “Hai hay ba viên?”


      “Ba tốt,” Teddy có thể cảm thấy cơn đau bắt đầu giần giật trong mắt.


      Cawley đưa thuốc qua bàn cho Teddy và tống chúng vào miệng rồi uống ngụm nước.


      hay bị đau đầu à?”


      “Tôi bị say sóng, may.” Teddy .


      Cawley gật gù, “À, bị mất nước.”


      Teddy gật đầu. Cawley mở hộp thuốc lá bằng gỗ óc chó rồi chìa ra mời Teddy và Chuck. Teddy lấy điếu. Chuck lắc đầu và lôi bao thuốc của mình ra, cả ba người châm thuốc trong khi Cawley nâng tấm chắn mở cửa sổ phía sau lưng ông ta.


      Ông ta ngồi xuống và đặt lên bàn tấm ảnh - phụ nữ trẻ, xinh đẹp, khiếm khuyết duy nhất gương mặt là những quầng thâm dưới mắt, sẫm gần như mái tóc đen của ta. Đôi mắt mở chòng chọc như thể có gì đó nóng rẫy thúc vào chúng từ bên trong đầu của ta. Cho dù nó là gì cái mà ta nhìn ở sau ống kính, sau người chụp ảnh, sau những thứ dễ gặp của thế giới này hẳn là cái gì đó mà mắt thường nên thấy.


      Có cái gì đó quen thuộc cách khó chịu ở người phụ nữ này và rồi Teddy nghĩ tới cậu bé mà nhìn thấy trong trại tập trung nhất định chịu ăn những thứ mà họ đưa. Cậu ta ngồi dựa vào bức tường dưới ánh mặt trời tháng Tư với cái nhìn y hệt trong bức ảnh cho tới khi mí mắt của cậu khép lại và người ta chất cậu lên đống xác người ở nhà ga.


      Chuck khẽ huýt sáo. “Ôi Chúa tôi.”


      Cawley hít hơi thuốc dài rồi , “Đó là phản ứng của cậu với sắc đẹp lồ lộ hay vẻ điên rồ lồ lộ của ta?”


      “Cả hai,” Chuck .


      Đôi mắt đó, Teddy nghĩ, ngay cả khi đông cứng trong thời gian, nó vẫn rú lên đau đớn. Bạn những muốn vào bên trong bức ảnh và , “Đừng, đừng, đừng. ổn thôi, ổn thôi. Suỵt, nào.” Bạn muốn ôm lấy ấy cho tới khi ấy ngừng run rẩy và với ấy rằng mọi chuyện rồi tốt đẹp.


      Cửa phòng bật mở và người da đen cao lớn với những cụm tóc xám dày mặc đồng phục hộ lý bước vào.


      “Ông Ganton,” Cawley , “đây là các vị mà tôi với ông, đặc vụ Aule và Daniels.”


      Teddy và Chuck đứng dậy bắt tay Ganton. Teddy cảm thấy từ người đàn ông này toát lên nỗi sợ hãi như thể ông ta thoải mái khi bắt tay với những người thực thi luật pháp, như có hay hai cái trát treo chờ đợi ông ta ở bên ngoài.


      “Ganton làm việc với chúng tôi từ mười bảy năm nay. Ông ấy là hộ lý trưởng ở đây. Chính Ganton là người hộ tống Rachel về phòng đêm hôm qua. Ông Ganton?”


      Ganton ngồi chụm chân lại, hai tay đặt lên đầu gối, hơi cúi người về phía trước, mắt nhìn xuống giày, “Vào lúc chín giờ có nhóm. Rồi...”


      Cawley cắt ngang: “Đó là buổi chữa bệnh theo nhóm do bác sĩ Sheehan và y tá Marino phụ trách.”


      Ganton chờ lúc cho tới khi chắc là Cawley xong mới lên tiếng. “Vâng, đúng thế. Đêm qua có nhóm và họ kết thúc vào quãng mười giờ. Tôi đưa Rachel lên phòng. ấy vào trong. Tôi khóa bên ngoài. Sau khi tắt đèn cứ hai tiếng chúng tôi lại kiểm tra các phòng lần. Tôi quay trở lại vào nửa đêm. Tôi nhìn vào bên trong thấy giường ấy trống . Tôi đoán có lẽ ấy ở sàn. Các bệnh nhân họ rất hay làm thế, ngủ sàn. Tôi mở cửa...”


      Cawley lại lên tiếng: “Bằng chìa khóa của ông, đúng Ganton?”


      Ganton gật đầu với Cawley rồi lại nhìn xuống đầu gối của mình. “Tôi dùng chìa khóa của mình, đúng vậy, vì cửa vẫn khóa. Tôi vào trong. Rachel thấy đâu. Tôi đóng cửa lại và kiểm tra cửa sổ cùng chấn song. Chúng vẫn bị khóa chặt.” Ông ta nhún vai rồi tiếp, “Rồi tôi gọi cho giám đốc trại giam.” Ông ta nhìn lên Cawley và Cawley trao cho ông ta cái gật đầu nhàng, như giữa cha với con.


      “Các vị có hỏi gì ?”


      Chuck lắc đầu.


      Teddy rời mắt khỏi quyển sổ ghi chép của mình. “Ông Ganton, ông là ông bước vào phòng và chắc chắn rằng bệnh nhân có ở đó. Thứ tự thế nào?”


      “Cái gì cơ thưa ngài?”


      “Có tủ? Hay chỗ trống dưới gầm giường mà ấy có thể trốn ?”


      “Có.”


      “Và ông kiểm tra cả hai chỗ đó.”


      “Vâng, thưa ngài.”


      “Trong khi cửa vẫn mở?”


      “Cái gì cơ thưa ngài?”


      “Ông là ông bước vào phòng và nhìn xung quanh nhưng thấy bệnh nhân. Rồi ông đóng cửa lại sau lưng mình.”


      , tôi... À...”


      Teddy chờ đợi, hít thêm hơi từ điếu thuốc Cawley đưa cho . Nó êm và nồng hơn loại thuốc lá Chesterfields của và mùi khói thuốc cũng khác, gần như là có vị ngọt.


      “Tất cả chỉ xảy ra trong vòng năm giây, thưa ngài,” Ganton . “Tủ có cửa. Tôi nhìn vào bên trong, nhìn xuống gầm giường rồi đóng cửa. ấy thể trốn ở đâu được. Phòng rất .”


      “Có thể đứng nép vào tường chứ?” Teddy . “Ở phía bên phải hoặc bên trái cửa ra vào?”


      .” Ganton lắc đầu và đây là lần đầu tiên Teddy cho rằng thoáng thấy giận dữ, đúng hơn là phật ý đằng sau đôi mắt sụp xuống và những câu trả lời “Vâng thưa ngài” hay “ thưa ngài.”


      “Điều đó chắc chắn,” Cawley với Teddy. “Tôi hiểu ý của , đặc vụ, nhưng khi nhìn thấy căn phòng hiểu tại sao ông Ganton khó mà bỏ qua bệnh nhân nếu ta đứng đâu đó trong bốn bức tường.”


      “Đúng vậy,” Ganton và lúc này mới nhìn thẳng vào Teddy vẻ giấu giếm. Teddy có thể thấy người đàn ông này mang niềm tự hào sôi sục đối với đạo đức công việc mà Teddy báng bổ bằng những câu hỏi của mình.


      “Cảm ơn ông, ông Ganton,” Cawley . “ giờ thế là đủ rồi.”


      Ganton đứng dậy, mắt dừng lại vài giây ở Teddy rồi , “Cảm ơn bác sĩ” đoạn rời khỏi phòng.


      Ba người còn lại im lặng lúc, hút nốt điếu thuốc rồi dụi vào gạt tàn trước khi Chuck lên tiếng: “Tôi nghĩ giờ chúng ta nên xem cái phòng đó thưa bác sĩ.”


      “Dĩ nhiên rồi,” Cawley rồi bước ra từ phía sau chiếc bàn làm việc, tay cầm vòng xâu chìa khóa to như cái vành mũ. “ theo tôi.”


      Đó là căn phòng , cánh cửa bằng thép mở vào bên trong và bản lề thường xuyên được tra dầu mỡ tới mức vừa xoay khóa cánh cửa mở tung, đập mạnh vào bức tường bên phải. Bên trái là đoạn tường ngắn và chiếc tủ đựng quần áo bằng gỗ với mấy chiếc blu và quần dải rút treo những chiếc mắc bằng nhựa.


      “Đúng là đời cái giả thiết đó,” Teddy thừa nhận.


      Cawley gật đầu. “ có chỗ nào cho ta nấp được với người đứng ở giữa cửa.”


      “Thế còn trần nhà,” Chuck và cả ba người họ nhìn lên, thậm chí Cawley còn cố nặn ra nụ cười.


      Cawley đóng cửa lại sau lưng họ và Teddy lập tức thấy cái cảm giác bị cầm tù chạy dọc theo sống lưng. Họ có thể gọi đó là phòng nhưng nó là xà lim. Cửa sổ hơi nhô lên phía sau chiếc giường hẹp bị bịt kín. chiếc bàn có ngăn kéo đặt sát vào bức tường bên phải, sàn và tường đều mang màu xi măng trắng của bệnh viện. Với ba người họ trong phòng, khó có khoảng trống nào để di chuyển mà động chạm chân tay.


      Teddy , “Còn ai nữa được quyền vào trong phòng?”


      “Vào lúc ban đêm ư? Rất ít người có lý do có mặt trong khu này.”


      “Tất nhiên rồi,” Teddy . “Nhưng những ai có quyền đó?”


      “Tất nhiên là các hộ lý.”


      “Thế còn các bác sĩ?” Chuck hỏi.


      “Là các y tá,” Cawley .


      “Các bác sĩ có chìa khóa vào phòng này à?” Teddy hỏi.


      “Có chứ,” Cawley , hơi lộ vẻ khó chịu. “Nhưng vào lúc mười giờ các bác sĩ bàn giao để ra ngoài.”


      “Và giao lại chìa khóa của họ.”


      “Đúng vậy.”


      “Có biên bản ghi lại tất cả những việc đó chứ?” Teddy hỏi.


      “Tôi hiểu.”


      Chuck lên tiếng, “Họ phải ký nhận khi lấy và trả chìa khóa, bác sĩ, đó là điều làm chúng tôi muốn hỏi.”


      “Dĩ nhiên rồi.”


      “Và chúng tôi có thể kiểm tra biên bản ký nhận chìa khóa đêm qua.” Teddy .


      “Được, được chứ, dĩ nhiên rồi.”


      “Và chúng được giữ trong cái buồng mà chúng tôi thấy ở tầng ,” Chuck . “Cái buồng bên trong có nhân viên bảo vệ với bức tường treo đầy chìa khóa sau lưng?”


      Cawley nhanh chóng gật đầu.


      “Và các hồ sơ nhân ,” Teddy , “của các nhân viên y tế và hộ lý, cũng như các nhân viên bảo vệ. Chúng tôi cần phải tra cứu chúng.”


      Cawley nhìn Teddy chằm chằm như thể mặt vừa mọc ra đám rệp vừng. “Tại sao?”


      phụ nữ biến mất khỏi phòng giam khóa chặt, đúng bác sĩ? ta chạy trốn hòn đảo bé tí và ai có thể tìm thấy ta? Ít nhất tôi cũng phải tính đến khả năng ta được ai đó giúp chứ?”


      “Chúng tôi xem xét,” Cawley


      “Chúng tôi xem xét?”


      “Đúng vậy, đặc vụ. Tôi với giám đốc trại giam và số nhân viên khác. Chúng tôi đưa ra quyết định đối với cầu của dựa ...”


      “Bác sĩ,” Teddy , “đây phải là cầu. Chúng tôi ở đây theo lệnh của chính phủ. Nơi này trực thuộc quyền quản lý của liên bang, và có phạm nhân nguy hiểm...”


      “Bệnh nhân.”


      bệnh nhân nguy hiểm,” Teddy , cố giữ giọng thản nhiên, “ bỏ trốn. Nếu ông từ chối giúp đỡ hai đặc vụ Mỹ truy bắt bệnh nhân này, bác sĩ, may... Chuck?”


      “Cản trở người thi hành luật pháp, bác sĩ ạ,” Chuck .


      Cawley nhìn Chuck như thể ông ta chỉ quan tâm tới ý kiến của Teddy chứ để ý tới diện của Chuck.


      “Thôi được,” ông ta , giọng lạnh lùng, “tất cả những gì tôi có thể là tôi làm tất cả những gì tôi khả dĩ để đáp ứng cầu của .”


      Teddy và Chuck trao đổi nhanh cái nhìn rồi quay lại nhìn căn phòng trống lần nữa. Cawley có lẽ quen với việc tiếp tục bị tra hỏi sau khi thể bất bình nên họ dành cho ông ta phút để lấy hơi.


      Teddy nhìn vào chiếc tủ xíu, thấy ba cái áo blu trắng và hai đôi giày trắng. “Mỗi bệnh nhân được phát mấy đôi giày?”


      “Hai.”


      ta chân đất rời phòng à?”


      “Đúng vậy.” Ông ta chỉnh lại chiếc cà vạt dưới chiếc áo choàng mặc trong phòng thí nghiệm của mình rồi chỉ vào tờ giấy lớn đặt giường. “Chúng tôi tìm thấy nó phía sau chiếc bàn. Chúng tôi hiểu nó có ý nghĩa gì. Chúng tôi hy vọng ai đó có thể cho chúng tôi biết.”


      Teddy nhấc tờ giấy lên và lật lại, phía mặt bên kia là biểu đồ theo dõi phản xạ của mắt với những chữ cái co lại và dốc xuống tạo thành hình kim tự tháp. lật tờ giấy lại và giơ lên cho Chuck.


      LUẬT CỦA 4


      TÔI LÀ 47


      HỌ LÀ 80


      +BẠN LÀ 3


      CHÚNG TA LÀ 4


      NHƯNG


      AI LÀ 67?


      Teddy thậm chí muốn cầm lấy tờ giấy, mép giấy chọc vào ngón tay nhột nhạt.


      “Tôi mà biết được quá là bịp,” Chuck .


      Cawley bước tới bên cạnh họ. “Hoàn toàn giống như kết luận của chúng tôi.”


      “Chúng ta là ba người,” Teddy .


      Chuck liếc vào tờ giấy. “Hả?”


      “Chúng ta có thể là số ba đó,” Teddy . “Ba chúng ta, lúc này đây, đứng trong phòng.”


      Chuck lắc đầu. “Làm sao mà ta tiên đoán được điều đó.”


      Teddy nhún vai. “ phỏng đoán.”


      “Ừm!”


      Cawley , “Đúng thế, nhưng cũng phải rằng Rachel là người cực kỳ thông minh trong các trò chơi của mình. Những ảo giác của ấy, đặc biệt là cái ảo giác khiến cho ấy tin là ba đứa con của mình vẫn còn sống được xây dựng kết cấu kiến trúc vô cùng phức tạp và tinh tế. Và để duy trì kết cấu đó ấy dựng lên câu chuyện hoàn toàn hư cấu về đời mình, câu chuyện hoàn chỉnh xuyên suốt, tỉ mỉ tới từng chi tiết.”


      Chuck chầm chậm quay đầu lại nhìn Cawley. “Tôi cần có bằng cấp để hiểu được điều đó, bác sĩ ơi.”


      Cawley cười tủm tỉm. “Hãy nghĩ tới những lời dối bố mẹ khi cậu còn là đứa trẻ. Chúng mới tỉ mỉ, cặn kẽ làm sao. Thay vì chỉ giải thích cách đơn giản với họ là tại sao cậu nghỉ học hay để quên đồ dùng cậu tô vẽ và biến chúng thành cái gì đó rất hay ho. Đúng nào?”


      Chuck nghĩ ngợi lúc rồi gật đầu.


      Teddy , “Đúng thế. Bọn tội phạm cũng làm đúng như vậy.”


      “Chính xác. Với ý định gây hoang mang. Làm người nghe bối rối cho tới khi họ đành phải tin vì họ quá mệt mỏi hơn là vì tính hợp lý của câu chuyện. Giờ hãy thử xem xét tới khả năng sử dụng những lời dối đó để lừa dối chính mình. Đó là việc mà Rachel làm. Trong bốn năm ở đây, chưa bao giờ ấy thừa nhận mình nằm viện. ấy cho rằng ấy ở trong nhà của mình tại Berkshires và những người bán hàng, giao sữa, những nhân viên bưu điện vừa mới ghé qua. Với những thực tế quá hiển nhiên ấy lại sử dụng toàn bộ sức mạnh để làm cho ảo giác trở nên mạnh hơn.”


      “Nhưng làm thế nào mà lại bao giờ đến được với ta?” Teddy hỏi, “Ý tôi là ta ở trong bệnh viện tâm thần. Làm thế nào mà ta có lúc chú ý tới điều đó cơ chứ?”


      “À,” Cawley , “giờ chúng ta đến vẻ đẹp trần trụi và hãi hùng của kết cấu hoang tưởng trong đầu óc những người bị bệnh tâm thần phân liệt nặng. Nếu quý vị tin rằng quý vị là người duy nhất ra tất cả những người khác đều là kẻ dối trá. Và nếu tất cả mọi người đều dối trá...”


      bất cứ nào mà họ ,” Chuck , “hẳn là dối trá.”


      Cawley giơ ngón tay cái lên và chỉ về phía Chuck như giả động tác bắn súng. “Cậu hiểu vấn đề rồi đấy.”


      Teddy , “Và do đó chuyển sang chơi những con số?”


      “Hẳn thế. Chúng hẳn phải đại diện cho cái gì đó. Với Rachel, có ý nghĩ nào là vu vơ, căn cứ. ấy phải giữ cái kết cấu trong đầu mình cho nó sụp đổ, và để làm được điều đó ấy phải luôn suy nghĩ. Đây...” ông ta đập đập vào bảng biểu đồ theo dõi phản xạ mắt rồi tiếp, “là cái kết cấu được ghi ra giấy. Cái này, tôi thực tin rằng cho chúng ta biết ấy đâu.”


      Trong giây lát, Teddy cảm thấy các con số đó chuyện với và trở nên ràng hơn. Nhất là hai số đầu tiên, chắc rằng con số “47” và “80” đó - có thể cảm thấy có cái gì đó ở chúng cứ sột soạt trong đầu giống như giai điệu của bài hát mà cố nhớ ra trong khi nghe đài phát thanh phát điệu nhạc hoàn toàn khác. Con số “47” là dấu hiệu nhất. Nó ở ngay bên phải . Nó là đơn giản. Đó là...


      Và rồi bất cứ chiếc cầu nối nào có vẻ logic đều tự dưng sụp đổ và Teddy cảm thấy đầu óc trắng xóa. biết rằng mọi thứ lại biến mất, dấu vết, liên hệ, những cầu nối, và đặt lại tờ giấy xuống giường.


      “Điên,” Chuck .


      “Cái gì vậy?” Cawley hỏi.


      “Cái nơi mà ta đến,” Chuck , “theo ý kiến của tôi.”


      “À, dĩ nhiên rồi,” Cawley . “Tôi nghĩ chúng ta có thể coi đó là chuyện hiển nhiên.”


      HỌ ĐỨNG BÊN NGOÀI buồng giam. Hành lang chạy qua đoạn giữa cầu thang. Cửa phòng Rachel mở ra phía bên trái cầu thang đó, nửa đường xuống nằm phía bên phải.


      “Đây là đường duy nhất để ra khỏi chỗ này à?” Teddy hỏi.


      Cawley gật đầu.


      có đường lên mái nhà?” Chuck hỏi.


      Cawley lắc đầu. “Đường lên duy nhất là lối thoát hiểm trong trường hợp cháy nổ. Các có thể nhìn thấy nó ở phía Nam của tòa nhà. Nó có cánh cửa luôn được khóa. Dĩ nhiên là nhân viên có chìa khóa nhưng bệnh nhân . Để lên được mái, ấy phải xuống cầu thang, ra ngoài, sử dụng chiếc chìa khóa và trèo lại lên mái.”


      “Nhưng mà mái nhà cũng được kiểm tra chứ?”


      Lại thêm cái gật đầu. “Cũng giống như tất cả các phòng trong khu điều trị. Ngay lập tức. Ngay khi phát ấy mất tích.”


      Teddy chỉ vào người hộ lý ngồi cạnh chiếc bàn hình chữ nhật phía trước cầu thang. “Luôn có người ngồi ở đây hai mươi tư tiếng chứ?”


      “Đúng vậy.”


      “Nghĩa là có người trực ở đây đêm qua.”


      “Đó chính là hộ lý Ganton.”


      Họ về phía cầu thang và Chuck , “Vậy ...” rồi nhướng mày nhìn Teddy.


      “Vậy ,” Teddy tỏ ý đồng tình.


      “Vậy ,” Chuck tiếp, “ Solando ra khỏi căn phòng bị khóa của mình ra hành lang, xuống những bậc thang này.” Họ cũng bước xuống cầu thang và Chuck chỉ ngón tay cái vào người hộ lý chờ họ ở dưới tầng hai. “ ấy qua hộ lý nữa ngồi đây, chúng ta biết bằng cách nào, tàng hình hay gì đó, tiếp xuống cầu thang thứ hai và ra ngoài vào...”


      Họ xuống tới tầng trệt và đứng đối diện phòng lớn, cửa mở rộng với rất nhiều ghế văng dựng sát tường, chiếc bàn gấp lớn ở giữa phòng với những chiếc ghế gấp, những ô cửa sổ khiến gian tràn ngập ánh sáng.


      “Đây là khu vực sinh hoạt chung,” Cawley . “Là nơi phần lớn bệnh nhân trải qua buổi tối của mình. Buổi chữa bệnh theo nhóm được tổ chức ở đây đêm qua. Các thấy phòng y tá ngay sau cái cổng kia. Sau khi tắt đèn, các hộ lý tụ tập ở đây. Họ có nhiệm vụ lau sàn nhà và cửa sổ nhưng thay vì làm những việc đó, chúng tôi thường xuyên bắt gặp họ chơi bài.”


      “Thế còn đêm qua?”


      “Theo những người trong ca trực hôm qua canh bạc lúc đó xôm tụ. Bảy người đàn ông, ngồi ngay dưới chân cầu thang này chơi bài xì phé.”


      Chuck chống tay vào hông và thở phì cái, “ ta lại làm phép tàng hình, hẳn thế, rồi rẽ trái hoặc phải.”


      “Rẽ phải ta qua khu phòng ăn rồi tới bếp và sau đó là cái cửa bị khóa với hệ thống báo động hoạt động suốt chín tiếng đồng hồ trong đêm ngay sau khi các nhân viên nhà bếp rời khỏi. Sang trái là phòng y tá và phòng nhân viên. có cửa nào dẫn ra phía bên ngoài. Những lối ra duy nhất là cánh cửa ở phía bên kia khu sinh hoạt chung hoặc xuống hành lang phía sau cầu thang. Cả hai chỗ đó đêm qua đều có các nhân viên canh gác làm nhiệm vụ.” Cawley liếc nhìn đồng hồ đeo tay. “Quý vị, tôi có buổi họp. Nếu quý vị có thắc mắc gì cứ thoải mái hỏi bất cứ nhân viên nào của chúng tôi hoặc ghé qua ông McPherson. Ông ấy là người phụ trách cuộc tìm kiếm này cho tới giờ. Ông ấy hẳn có mọi thông tin mà các cần. Nhân viên ăn tối vào đúng sáu giờ trong phòng ăn chung ở tầng trệt khu nhà dành cho hộ lý. Sau đó, tất cả chúng tôi tập trung ở đây trong phòng nhân viên và các có thể chuyện với bất cứ ai làm việc đêm qua có liên quan tới việc này.”


      Ông ta vội vã về phía cổng trước, họ nhìn theo cho tới khi ông ta rẽ trái và biến mất.


      Teddy , “Liệu có bất cứ điểm nào trong câu chuyện này khiến người ta cảm thấy nó hề dính dáng tới nội gián nhỉ?”


      “Tôi thấy khoái trá với cái giả thiết tàng hình của mình. ta có thể để lại công thức trong cái chai. có hiểu ý tôi ? Ngay lúc này đây, ta có thể theo dõi chúng ta, Teddy.” Chuck ngó vội qua vai mình rồi quay lại nhìn Teddy. “Có việc để suy nghĩ rồi đấy.”


      BUỔI CHIỀU, họ gia nhập đội tìm kiếm và vào sâu trong đảo khi gió càng ngày càng mạnh và ấm hơn. Phần lớn hòn đảo bị cây cối che phủ, cỏ dại mọc đầy, những cánh đồng cỏ ken dày đan với tua cuốn của những cây sồi cổ thụ và dây leo xanh rậm rì gai. Đa số những nơi này thể qua được, ngay cả với giúp đỡ của dao rựa mà mấy người lính gác mang theo. Rachel Solando có chiếc rựa nào cả và thậm chí nếu có dường như bản chất tự nhiên của hòn đảo này là đẩy tất cả những nơi náu trở ra bờ biển.


      Cuộc tìm kiếm gây cho Teddy cảm giác mông lung, như thể ai để tâm tới nó ngoài và Chuck. Những người đàn ông này vòng theo đường viền sát bờ biển bên trong đảo, với những bước chân nặng trịch, mắt sụp xuống. Thế rồi, tới khúc quành, họ rẽ sang bãi đá ngầm màu đen và đứng đối mặt với vách đá nhô ra biển, cao quá đầu họ. Ở phía bên trái, đằng sau bãi đầy rêu, cây gai, và những bụi quả mọng đỏ mọc quấn quýt um tùm là trảng đất thoải xuống dần, dẫn tới chân của mấy ngọn đồi thấp. Những ngọn đồi này mọc lên vững chãi, ngọn sau lại cao hơn ngọn trước cho tới khi chúng nhường chỗ cho vách đá lởm chởm và Teddy có thể nhìn thấy những vết cắt các ngọn đồi và những lỗ hình chữ nhật bên cạnh vách đá.


      “Đó là những cái hang à?” hỏi McPherson.


      Ông ta gật đầu. “Chỉ có vài cái.”


      “Ông kiểm tra chúng chưa?”


      McPherson thở dài và chụm tay che gió để châm điếu thuốc. “ ta có hai đôi giày, đặc vụ. Cả hai vẫn còn trong phòng ta. Làm sao ta có thể qua quãng đường mà chúng ta vừa , trèo qua những mỏm đá này để tới được cái vách đá đó?”


      Teddy chỉ tay qua trảng đất tới chỗ trũng nhất tại chân đồi. “ ấy đường vòng, từ phía Tây?”


      McPherson cũng chỉ tay về phía đó , “Có nhìn thấy chỗ trảng đất tụt xuống ? Có cái đầm lầy ngay phía đầu ngón tay của . Dưới chân đồi toàn là dây thường xuân độc, sồi sống, sơn và hàng nghìn loại cây khác nhau, tất cả đều có gai cỡ như cái đấy của tôi ấy chứ.”


      “Thế có nghĩa là to hay ?” Câu hỏi phát ra từ phía Chuck, lúc này đứng vài bước đằng trước họ, nhìn ngoái lại.


      McPherson mỉm cười. “Đâu đó ở giữa.”


      Chuck gật đầu.


      “Tất cả những gì tôi muốn với quý vị là ta hẳn có cách nào khác là bám lấy đường bờ biển, chứ hướng khác chỉ nửa đường ra khỏi bãi. Và gặp trong những cái của này.” Ông ta chỉ về phía vách đá.


      tiếng sau, ở phía bên kia của hòn đảo, họ gặp hàng rào. Phía sau nó là khu pháo đài cũ và ngọn hải đăng. Teddy có thể nhìn thấy ngọn hải đăng cũng có hàng rào bao quanh, hai lính gác đứng dưới cổng, súng bồng trước ngực.


      “Quy trình xử lý rác thải tự hoại?” hỏi.


      McPherson gật đầu.


      Teddy nhìn Chuck. Chuck khẽ nhướng mày.


      “Quy trình tự hoại?” Teddy nhắc lại.


      Trong bữa tối, ai tới bên bàn của họ. Họ ngồi mình, người nhớp nháp vì bất cẩn bị dính mưa, cơn gió ấm áp lúc ban chiều mang theo hơi nước từ biển. Phía bên ngoài hòn đảo bắt đầu chìm dần vào bóng tối, cơn gió chuyển mình thành gió lớn.


      căn phòng bị khóa,” Chuck .


      “Chân đất,” Teddy lên tiếng.


      “Qua ba cửa kiểm tra an ninh bên trong.”


      phòng đầy hộ lý.”


      “Chân đất.” Chuck nhắc lại.


      Teddy gẩy gẩy đĩa thức ăn, kiểu thịt băm nướng với khoai tây nghiền, thịt bết lại với nhau. “Qua bức tường có chăng dây điện.”


      “Hoặc qua chiếc cổng có khóa.”


      “Ra phía ngoài kia.” Gió rung chuyển tòa nhà, rung chuyển bóng tối.


      “Chân đất.”


      ai nhìn thấy ta.”


      Chuck nhai thức ăn rồi nhấp ngụm cà phê. “Ai đó chết đảo này, chuyện đó chắc chắn là có xảy ra đúng ? họ đâu nhỉ?”


      chôn.”


      Chuck gật đầu. “Hôm nay sếp có trông thấy cái nghĩa địa nào ?”


      Teddy lắc đầu, “Chắc được rào kỹ ở đâu đó.”


      “Giống như cái nhà máy tự hoại. Chắc thế.” Chuck đẩy khay thức ăn ra xa rồi tựa lưng vào ghế. “Chúng ta chuyện với ai tiếp đây?”


      “Các nhân viên.”


      nghĩ là họ hữu ích chứ?”


      “Cậu à?”


      Chuck nhoẻn miệng cười. ta châm điếu thuốc, mắt rời khỏi Teddy, nụ cười khẽ chuyển thành cười ra tiếng, khói thuốc tuôn ra theo nhịp điệu của nó.


      Teddy đứng ở giữa phòng, các nhân viên quây thành vòng xung quanh . để hai tay lên thành chiếc ghế sắt, Chuck đứng dựa vào thanh cột nhà ở bên cạnh, tay đút túi quần.


      “Tôi cho là mọi người đều biết tại sao chúng ta có mặt ở đây,” Teddy . “Có người bỏ trốn đêm qua. Cho tới giờ tất cả những gì chúng tôi có thể là bệnh nhân biến mất. có bằng chứng nào khiến chúng tôi tin rằng bệnh nhân có thể rời viện mà giúp đỡ. Trại phó McPherson, ông nhất trí chứ?”


      “Phải. Tôi cho rằng đó là suy luận hợp lý vào thời điểm này.”


      Teddy định tiếp Cawley, lúc này ngồi chiếc ghế bên cạnh đám y tá lên tiếng, “Các vị có thể làm ơn giới thiệu chút về mình được ? số nhân viên của tôi vẫn chưa được làm quen với hai vị.”


      Teddy đứng thẳng người lên và , “Đặc vụ Mỹ Edward Daniels. Đây là đồng của tôi, đặc vụ Charles Aule.”


      Chuck giơ tay vẫy đám đông rồi lại đút tay vào túi quần.


      Teddy , “Trại phó, ông và người của ông tìm kiếm đảo?”


      “Đúng vậy.”


      “Và các ông tìm thấy gì?”


      McPherson ngồi duỗi người ghế. “Chúng tôi tìm thấy bằng chứng nào cho thấy phụ nữ chạy trốn. thấy mảnh quần áo bị rách nào, dấu chân, dấu hiệu cây cối bị giẫm đạp. Đêm qua biển động, triều lên, nên cũng thể có chuyện bơi .”


      “Nhưng ta vẫn có thể cố làm điều đó.” Lời từ y tá Kerry Marino, phụ nữ mảnh dẻ vừa bước vào phòng vừa đưa tay tháo chiếc cặp tóc ở sau gáy cho mái tóc đỏ được búi gọn đỉnh đầu xõa xuống. ta để chiếc mũ y tế trong lòng rồi đưa tay gỡ mái tóc với vẻ uể oải thể mệt mỏi nhưng lại khiến tất cả đàn ông trong phòng liếc trộm về phía ta như thể cái điệu bộ dùng tay chải tóc hững hờ ấy giống với lời đề nghị lên giường.


      McPherson hỏi, “Ý là gì?”


      “Sao chúng ta biết được là ấy thử bơi và cuối cùng bị chết đuối?”


      “Thế giờ ấy bị đánh giạt vào bờ rồi.” Cawley khẽ ngáp sau nắm tay che miệng. “Với thủy triều như vậy.”


      Marino giơ tay lên như thể muốn , Ôi xin lỗi làm phiền các chàng trai, rồi bảo, “Tôi chỉ nghĩ là cũng nên đề cập tới nó.”


      “Và chúng tôi đánh giá cao điều đó,” Cawley . “Đặc vụ, làm ơn hỏi tiếp các câu hỏi của . Hôm nay là ngày dài.”


      Teddy liếc sang Chuck và Chuck đảo mắt ra hiệu với . phụ nữ có tiền sử bạo lực mất tích dấu vết hòn đảo mà dường như ai cũng chỉ muốn ngủ cho sớm.


      Teddy tiếp, “Ông Ganton có với chúng tôi rằng ông ấy kiểm tra phòng của Solando vào lúc nửa đêm và phát ta mất tích. Khóa ở cửa ra vào và cửa sổ trong phòng ta hề có dấu vết phá hoại. Giữa khoảng mười và mười hai giờ đêm hôm qua, ông Ganton, có lúc nào ông để mắt tới hành lang tầng ba ?”


      Vài người quay sang nhìn Ganton và Teddy bối rối khi nhận thấy thích thú khuôn mặt của số người, như thể Teddy là thầy giáo lớp ba đưa ra câu hỏi cho học sinh nhanh trí nhất lớp.


      Ganton , mắt vẫn nhìn xuống chân. “Lần duy nhất tôi rời mắt khỏi cái hành lang đó là khi tôi bước vào phòng của ta và phát ta biến mất.”


      “Vào khoảng ba mươi giây.”


      “Mười lăm giây đúng hơn.” Ông ta ngước lên nhìn Teddy. “Đó là căn phòng .”


      “Còn gì nữa?”


      “Tất cả bệnh nhân đều bị khóa trong phòng từ mười giờ trở . ta là người cuối cùng về phòng. Tôi ngồi ngay ở đường . Tôi nhìn thấy ai trong suốt hai tiếng đồng hồ.”


      “Và ông bao giờ rời vị trí của mình?”


      thưa ngài.”


      uống cốc cà phê chẳng hạn, gì ư?”


      Ganton lắc đầu.


      “Thôi được, mọi người nghe này,” Chuck và rời khỏi cái cột. “Tôi phải tạo ra bước nhảy vọt ở đây mất thôi. Tôi phải là, chỉ để phục vụ cho việc tranh luận chứ có ý thất kính với ông Ganton đây, rằng chúng ta hãy thử đùa giỡn với cái ý tưởng bằng cách nào đó Solando trần nhà hay gì gì đó.”


      số người bắt đầu cười khúc khích.


      “Và ấy ra tới cầu thang dẫn xuống tầng hai. ấy phải qua ai?”


      hộ lý có nước da trắng đục, tóc màu cam giơ tay lên.


      “Và tên ông là?” Teddy hỏi.


      “Glen. Glen Miga.”


      “Được rồi, Glen. Ông ở nguyên vị trí của mình suốt đêm hôm qua chứ?”


      “Vâng, đúng thế.”


      “Glen,” Teddy .


      “Gì cơ?” Ông ta ngừng loáy hoáy với vệt xước măng rô ở tay và nhìn lên.


      .”


      Glen nhìn về phía Cawley rồi quay lại Teddy.


      “Đúng là có lúc tôi rời .”


      “Glen,” Teddy tiếp. “Ông tiếp .”


      Glen vẫn nhìn Teddy, mắt ông ta bắt đầu mở ra trừng trừng và rồi ông ta , “Tôi đến nhà vệ sinh.”


      Cawley cúi ra phía trước, ngực tì vào đầu gối. “Ai đứng vào thay vị trí của ?”


      “Chỉ là đái tí thôi mà,” Glen . “ tiểu tiện, xin lỗi.”


      “Trong bao lâu?” Teddy hỏi.


      Glen nhún vai. “ phút là lâu nhất.”


      phút. chắc chứ?”


      “Tôi đâu phải lạc đà.”


      .”


      “Tôi phải ra vào để vệ sinh chứ.”


      vi phạm quy tắc,” Cawley . “Lạy Chúa tôi.”


      “Thưa ngài, tôi biết. Tôi...”


      “Lúc đó là mấy giờ?” Teddy .


      “Mười rưỡi. Khoảng đó.” Nỗi sợ hãi của Glen đối với Cawley chuyển thành căm ghét đối với Teddy. Chỉ cần vài câu hỏi nữa là ông ta trở nên thù địch. “Cảm ơn ông, Glen,” Teddy và quay lại phía Chuck với cái gật đầu ra hiệu.


      “Vào lúc mười rưỡi,” Chuck , “hoặc quãng đó, mọi người vẫn chơi bài?”


      Vài cái đầu quay sang nhìn nhau trước khi quay về phía Chuck rồi người da đen gật đầu và sau đó những hộ lý khác cũng làm theo ta.


      “Những ai ngồi ở đó?”


      Bốn người da đen và người da trắng giơ tay lên. Chuck bắt đầu tấn công vào người đứng đầu nhóm, chàng đầu tiên gật đầu, người đầu tiên giơ tay lên. gã béo tròn, đầu cạo nhẵn, trơn bóng dưới ánh đèn.


      “Tên?”


      “Trey, thưa ngài. Trey Washington.”


      “Trey, tất cả các đều ngồi ở đây?”


      Trey chỉ xuống sàn nhà. “Ngay đây. Ở giữa phòng. Nhìn thẳng vào bậc cầu thang. Vừa để mắt cửa trước, vừa để mắt cửa sau.”


      Chuck bước về phía ta, nghển cổ lên nhìn cửa trước, cửa sau và cầu thang. “Vị trí tốt.”


      Trey hạ thấp giọng. “ chỉ là về bệnh nhân, thưa ngài. Cả bác sĩ hay số y tá ưa chúng tôi. Chúng tôi được chơi bài ở đây. Phải để ý thấy ai đến vớ ngay cái chổi lau nhà.”


      Chuck cười: “Đồ rằng các phải di chuyển rất nhanh.”


      bao giờ nhìn thấy chớp tháng Tám chưa?”


      “Rồi.”


      “Còn chậm hơn tôi vớ lấy cái chổi lau nhà đó.”


      Tới đây căng thẳng giữa đám người đó bị phá vỡ, ngay cả y tá Marino cũng thể nào giấu được nụ cười và Teddy để ý thấy mấy người da đen đập tay ghi điểm với nhau. biết rằng trong thời gian ở lại đây, Chuck tay cớm tốt. Cậu ta có sở trường trong việc giao tiếp với mọi người, như thể cậu ta hoàn toàn thoải mái giữa bất cứ nhóm người nào trong xã hội, bất kể màu da hay thậm chí cả ngôn ngữ. Teddy tự hỏi hiểu tại sao văn phòng ở Seattle lại ngu tới mức để cậu ta cho dù bạn cậu ta có là người Nhật hay gì nữa.


      Teddy, trái lại là người mạnh mẽ đầy bản năng. khi người ta chấp nhận điều đó, cách nhanh chóng như trong thời kỳ chiến tranh họ rất thích làm việc với . Nhưng nếu chưa được tới chỗ đó rất căng thẳng.


      “Được rồi, được rồi!” Chuck giơ tay lên để ngăn những tiếng cười dù miệng ta vẫn toe toét. “Như vậy Trey, các đều ở dưới chân cầu thang, chơi bài. Khi nào các biết có chuyện hay xảy ra?”


      “Khi Ike - à, tôi định là ông Ganton, bắt đầu hét vọng xuống ‘Gọi trại trưởng. Chúng ta có kẻ bỏ trốn.’ ”


      “Và lúc đó là mấy giờ?”


      “Mười hai giờ hai phút ba chín giây.”


      Chuck nhướng bên mày hỏi: “ là đồng hồ à?”


      thưa ngài, nhưng tôi được rèn luyện phải nhìn đồng hồ ngay khi thấy dấu hiệu bất ổn đầu tiên. Có thể là do cái mà các gọi là ‘chứng cứ’, tất cả chúng tôi phải điền vào ‘bản tường trình việc.’ Điều đầu tiên mà cái bản ấy hỏi là thời gian xảy ra việc đó. Chắc các cũng quá quen với mấy cái tường trình. Cho nên việc liếc nhìn đồng hồ ngay khi thấy dấu hiệu đầu tiên của bất ổn trở thành bản năng thứ hai.”


      Mấy hộ lý gật đầu khi ta , những tiếng “ừ phải” và “đúng thế” tuôn ra từ miệng họ như thể họ trong buổi lễ nhà thờ.


      Chuck khẽ ném sang Teddy cái nhìn như thể muốn Thế nào, làm thế được chứ?


      “Vậy là mười hai giờ hai phút,” Chuck .


      “Ba mươi chín giây.”


      Teddy quay sang hỏi Ganton, “Hai phút dư ra lúc quá nửa đêm này chắc là do ông kiểm tra vài phòng khác trước khi tới phòng của Solando, đúng ?”


      Ganton gật đầu. “Phòng của ấy là phòng thứ năm từ đầu dãy trở xuống.”


      “Khi nào trại trưởng tới trường?” Teddy .


      Trey lên tiếng, “Hicksville - trong những lính gác - là người đầu tiên xuất ở cửa trước. Chắc xử lý cổng ra vào, tôi đoán thế. ta có mặt ở đây vào lúc mười hai giờ sáu phút hai giây. Trưởng trại tới sau đó bốn phút cùng sáu người khác.”


      Teddy quay sang y tá Marino. “ nghe thấy tất cả những báo động đó và ...”


      “Tôi thu khóa phòng y tá lại. Tôi ra tới khu giải trí đúng lúc Hicksville vào từ cửa trước.” tới đây ta nhún vai và châm điếu thuốc khiến số người trong nhóm bắt chước theo, cũng châm thuốc của họ.


      “Và có bất cứ ai va phải trong phòng y tá?”


      ta tựa cằm vào hai cùi tay và nhìn qua lớp khói thuốc hình lưỡi liềm. “Va vào tôi để đâu? Tới cửa phòng Thủy liệu à? vào trong đó, bị khóa trong cái hộp xi măng với các bồn tắm và bể bơi .”


      “Phòng đó được kiểm tra rồi chứ?”


      “Nó được kiểm tra, đặc vụ,” McPherson , giọng có vẻ mệt mỏi. “Y tá Marino,” Teddy , “ cũng tham gia nhóm chữa bệnh đêm qua đúng ?”


      “Đúng vậy?”


      “Có gì bất thường xảy ra ?”


      “Định nghĩa ‘bất thường’?”


      “Xin lỗi?”


      “Đây là bệnh viện tâm thần, đặc vụ. Cho các tội phạm tâm thần. ‘Bình thường’ phải là phần đáng kể trong ngày của chúng tôi.”


      Teddy gật đầu với ta kèm theo nụ cười nhún nhường. “Để tôi sửa lại. Bất cứ cái gì xảy ra trong nhóm chữa bệnh ngày hôm qua đáng nhớ hơn, ừm...?”


      “Bình thường?” ta .


      Câu trả lời khiến Cawley bật ra vài tiếng cười lạc lõng.


      Teddy gật đầu.


      ta suy nghĩ lúc, tàn thuốc của ta chuyển sang màu trắng và sắp rụng xuống. ta gạt điếu thuốc vào gạt tàn rồi ngẩng đầu lên , “ có gì cả. Xin lỗi.”


      Solando có gì trong buổi chữa bệnh tối qua ?”


      “Tôi nghĩ là có vài lần, đúng thế.”


      “Về cái gì?”


      Marino nhìn sang Cawley.


      Ông ta , “Lúc này chúng ta cần cung cấp thông tin bảo mật về bệnh nhân cho đặc vụ.”


      ta gật đầu nhưng Teddy có thể thấy ta chẳng thích thú gì lắm cái ý tưởng đó.


      “Chúng tôi thảo luận về việc kiềm chế giận dữ. Gần đây chúng tôi có số trường hợp dễ nổi nóng đột ngột.”


      “Kiểu gì?”


      “Bệnh nhân la hét vào mặt các bệnh nhân khác, đánh nhau, kiểu vậy. Chẳng có gì bất thường nhưng có cơn bột phát trong vài tuần trở lại đây, chắc phần nhiều do ảnh hưởng của đợt triều nóng. Cho nên tối hôm qua chúng tôi thảo luận về các phương thức phù hợp và phù hợp thể lo lắng hoặc hài lòng.”


      Solando gần đây có bất cứ biểu lên cơn giận dữ nào ?”


      “Rachel ư? . Rachel chỉ trở nên kích động khi trời mưa. Đó là đóng góp của ấy cho buổi chữa bệnh tối qua. ‘Tôi nghe thấy mưa. Tôi nghe thấy mưa. phải ở đây nhưng mà nó tới. Chúng ta có thể làm gì với chuyện thức ăn ?’ ”


      “Thức ăn?”


      Marino dụi điếu thuốc và gật đầu. “Rachel ghét thức ăn ở đây. ấy thường xuyên than phiền về nó.”


      “Lý do chính đáng?” Teddy hỏi.


      Marino suýt mỉm cười nhưng kìm lại được. ta cụp mắt xuống trước khi tiếp, “Ai đó có thể bắt bẻ rằng đó là lý do có thể hiểu được. Nhưng ở đây chúng tôi gắn các giá trị đạo đức tốt, xấu vào lý do và động cơ của bệnh nhân.”


      Teddy gật đầu. “Còn có bác sĩ tên là Sheehan ở đây tối qua. ta phụ trách buổi chữa bệnh. ta có ở đây ?”


      ai gì. Vài người tới dụi thuốc lá của họ vào những chiếc gạt tàn giữa các hàng ghế.


      Cuối cùng Cawley lên tiếng, “Bác sĩ Sheehan rời khỏi đây chuyến phà sáng nay. Chuyến phà chở các tới.”


      “Tại sao?”


      ấy có lịch nghỉ phép từ trước.”


      “Nhưng chúng tôi cần phải chuyện với ta.”


      Cawley , “Tôi có giữ bản tóm tắt của ấy về buổi chữa bệnh ngày hôm qua. Tôi có tất cả các ghi chép của ấy. ấy rời khỏi khu vực làm việc lúc mười giờ đêm qua, trở về phòng của mình. ấy khỏi sáng nay. Kỳ nghỉ được lên kế hoạch và bị quá hạn từ lâu. Chúng tôi thấy có lý do gì để giữ ấy ở lại đây.”


      Teddy nhìn McPherson.


      “Ông cho phép?”


      McPherson gật đầu.


      “Trong tình trạng phong tỏa,” Teddy . “ bệnh nhân bỏ trốn. Sao ông có thể cho phép bất cứ người nào rời khỏi đây trong thời gian phong tỏa để điều tra?”


      “Chúng tôi biết chắc ấy ở đâu đêm qua. Chúng tôi cũng xem xét kỹ lưỡng và thấy có lý do nào để giữ ấy lại.” McPherson .


      ấy là bác sĩ,” Cawley lên tiếng.


      “Chúa ơi,” Teddy khẽ lẩm bẩm. Đấy là lỗi phạm quy nghiêm trọng nhất mà từng gặp ở viện điều trị các bệnh nhân phạm tội hình , vậy mà tất cả mọi người đều xử như có chuyện gì xảy ra.


      “Thế ta đâu?”


      “Xin lỗi?”


      nghỉ ở đâu,” Teddy . “Ở chỗ nào?”


      Cawley nhìn lên trần nhà như cố nhớ ra. “New York, tôi nghĩ thế. Thành phố New York, gia đình ấy ở đó. Đại lộ Park.”


      “Tôi cần số điện thoại của ta,” Teddy .


      “Tôi hiểu tại sao...”


      “Bác sĩ,” Teddy . “Tôi cần tới số điện thoại của ta.”


      “Chúng tôi kiếm nó cho , đặc vụ.” Mắt Cawley vẫn dán lên trần nhà. “Còn gì nữa ?”


      “Ông đoán xem,” Teddy .


      Cawley hạ cằm xuống, mắt nhìn sang Teddy.


      “Tôi cần cái điện thoại,” Teddy .


      CHIẾC ĐIỆN THOẠI trong phòng y tá chẳng có mảy may tín hiệu gì ngoài tiếng khí rít lên. Trong khu này còn bốn chiếc điện thoại khác khóa trong tủ kính nhưng tới khi mở ra thử cũng chẳng mang lại kết quả khả quan hơn.


      Teddy và bác sĩ Cawley tới tổng đài trung tâm ở tầng khu bệnh viện chính. Người trực tổng đài nhìn lên khi họ bước qua cửa, bộ tai nghe màu đen lủng lẳng quanh cổ ta.


      “Thưa ngài,” ta , “chúng ta mất liên lạc. Thậm chí cả radio liên lạc.”


      “Thời tiết bên ngoài trông đâu tệ tới mức đó,” Cawley .


      Người trực tổng đài nhún vai. “Tôi cố gắng. Nhưng mà ở đây chúng ta chẳng làm được gì mấy. Quan trọng là điều kiện thời tiết ở phía bên kia.”


      “Cứ thử xem,” Cawley . “Nếu làm cho nó hoạt động trở lại được báo cho tôi biết. Vị này cần phải thực cuộc gọi khá quan trọng.”


      Người trực tổng đài gật đầu, quay lưng lại phía họ và đeo bộ tai nghe lên.


      Bên ngoài, khí như bị nén lại.


      “Họ làm gì nếu trình diện?” Cawley hỏi.


      “Văn phòng liên bang hả?” Teddy . “Họ đánh dấu vào biên bản trực đêm. Thường họ chỉ bắt đầu tỏ ra lo ngại nếu hai mươi tư tiếng sau đó tôi vẫn chưa xuất .”


      Cawley gật đầu. “Chắc tới lúc đó bão cũng tan.”


      “Tan à?” Teddy . “Nó thậm chí còn chưa bắt đầu cơ mà.”


      Cawley nhún vai và bắt đầu bước về phía cổng. “Tôi làm vài ly và hút vài điếu xì gà tại nhà. Nếu và đồng của ngại hãy ghé qua vào lúc chín giờ.”


      “Thế lúc đó chúng ta có thể chuyện chứ?” Teddy hỏi.


      Cawley dừng bước, quay sang nhìn . Đám cây cối đen xì phía bên kia tường bắt đầu rung chuyển và phát ra những tiếng rì rầm.


      “Chúng ta vẫn chuyện đấy thôi, đặc vụ.”


      CHUCK VÀ TEDDY bước , xung quanh tối om, cảm thấy cơn bão trong làn khí dần chướng lên, nóng rẫy xung quanh họ như thể thế giới mang thai và căng phồng.


      “Chuyện này nhảm nhí,” Teddy .


      “Đúng vậy.”


      “Thối nát từ cốt lõi.”


      “Tôi được rửa tội, nên tôi với sếp ‘Amen, người em!’ ”


      “Người em?”


      “Đó là cái cách người ta ở đấy. Tôi từng ở Mississippi năm mà.”


      “Thế à?”


      “Amen, người em.”


      Teddy lấy điếu thuốc nữa của Chuck và châm lửa.


      “Sếp gọi văn phòng liên bang chưa?” Chuck hỏi.


      Teddy lắc đầu. “Cawley tổng đài mất sóng.” giơ tay lên rồi tiếp: “Do cơn bão, cậu biết đấy.”


      Chuck nhổ điếu thuốc khỏi miệng. “Bão à? Đâu?”


      “Cậu có thể cảm thấy nó tới gần,” Teddy và nhìn lên bầu trời tối sầm. “Dầu vậy nó vẫn chưa tới được cái nơi để có thể vô hiệu hóa trung tâm liên lạc.”


      “Trung tâm liên lạc,” Chuck nhại lại. “Sếp rời khỏi quân ngũ chưa hay vẫn chờ giấy báo tử?”


      tổng đài trung tâm vậy,” Teddy và vẩy điếu thuốc về phía đó. “Là cái quái gì mà họ muốn gọi. Và cả radio liên lạc của họ nữa.”


      “Cái radio liên lạc của nợ của họ à?” Mắt Chuck mở trừng trừng. “Cả radio à sếp?”


      Teddy gật đầu. “Phải, tình hình khá ảm đạm. Họ nhốt chúng ta lại hòn đảo để tìm kiếm phụ nữ trốn thoát khỏi căn phòng khóa chặt...”


      “Qua bốn trạm kiểm tra có người gác.”


      phòng đầy những người chơi xì phé.”


      “Trèo qua bức tường cao ba mét.”


      “Với dây điện chăng ở .”


      “Bơi hơn chục dặm...”


      “... trong lúc biển thịnh nộ...”


      “... vào bờ. Thịnh nộ? Tôi thích cái từ này. Nghe hay đấy. Mà nhiệt độ trong nước là bao nhiêu nhỉ, mười độ?”


      “Cao nhất là mười lăm độ. Nhưng lại vào buổi đêm nữa cơ?”


      “Thế chỉ mười độ thôi.” Chuck gật gù. “Teddy, cả cái câu chuyện này, sếp biết ?”


      “Và cả cái tay bác sĩ Sheehan mất tích nữa?” Teddy .


      “Sếp cũng thấy lạ đúng ? Tôi dám chắc. Có vẻ như sếp rạch lỗ đít lão Cawley chưa đủ rộng?”


      Teddy cười phá lên và nghe tiếng cười của mình bị khí ban đêm cuốn rồi tan đầu những con sóng bạc phía xa xa như thể nó chưa hề tồn tại, như thể hòn đảo, biển cả và muối mang những gì mà nghĩ là của và...


      “... nếu có mặt của chúng ta ở đây chỉ là để giúp họ hợp lý hóa mọi chuyện?” Chuck gì đó.


      “Gì vậy?”


      “... nếu có mặt của chúng ta ở đây chỉ là để giúp họ hợp lý hóa mọi chuyện?” Chuck . “Nếu như chúng ta được gọi tới đây chỉ để giúp họ đánh thêm dấu gạch ngang lên chữ t và dấu chấm chữ i?”


      “Xin ngài hãy ra, ngài Watson của tôi.”


      Chuck lại cười. “Thôi được, sếp, cố lên và giữ vững tinh thần.”


      “Tôi cố, tôi cố.”


      “Hãy cho rằng có bác sĩ nào đó mê tít bệnh nhân nào đó.”


      Solando.”


      “Sếp xem ảnh rồi đấy!”


      ấy rất quyến rũ.”


      “Quyến rũ. Teddy, ta là loại đàn bà đẹp mà lính Mỹ thường cắt hình dán trong tủ riêng. Thế nên ta lợi dụng cậu bé của chúng ta, Sheehan... Giờ thấy gì chưa?”


      Teddy búng tàn thuốc vào gió và ngắm những bụi than nổ lộp độp, lóe lên trong gió rồi bay xoẹt trở lại qua và Chuck. “Và Sheehan cắn câu, cho rằng ta thể sống thiếu ta.”


      “Từ có ý nghĩa chủ đạo ở đây là sống. Như cặp tình nhân tự do trong thế giới .”


      “Nên họ bỏ trốn. Rời khỏi hòn đảo.”


      “Có khi lúc này xem chương trình Fats Domino.”


      Teddy dừng lại ở cuối khu nhà dành cho nhân viên, đứng đối diện với bức tường màu da cam. “Thế tại sao lại báo cho cảnh sát nhỉ?”


      “Họ chả báo rồi đấy thôi,” Chuck . “Nguyên tắc. Họ buộc phải đưa ai đó vào cuộc và đối với trường hợp mất tích ở nơi như thế này họ phải gọi chúng ta. Nhưng nếu họ muốn che giấu dính líu của nhân viên có mặt của chúng ta ở đây chỉ là để hoàn chỉnh thêm câu chuyện của họ - rằng họ làm mọi việc theo đúng nguyên tắc.”


      “Đồng ý,” Teddy . “Nhưng tại sao phải che giấu cho Sheehan?”


      Chuck áp đế giày vào tường, thả lỏng đầu gối rồi châm điếu thuốc. “Tôi cũng biết. Vẫn chưa nghĩ ra lý do gì.”


      “Nếu đúng là Sheehan mang ta ra khỏi đây, ta hẳn phải đút lót số người.”


      “Hẳn thế.”


      “Nhiều người ấy chứ!”

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      “Dù gì cũng phải có số hộ lý. hoặc hai lính gác.”


      “Ai đó chuyến phà. Có lẽ chỉ người.”


      “Trừ khi ta rời hòn đảo này bằng cách phà. ta có thể có thuyền riêng của mình.”


      Teddy suy nghĩ lúc rồi : “Xuất thân giàu có. Đại lộ Park, theo lời Cawley.”


      “Thế khả năng thuyền riêng có lý đấy.”


      Teddy nhìn lên bức tường với những vòng dây thép gai mảnh, khí xung quanh chúng phồng ra như quả bóng bị ép vào mặt kính.


      “Có được bao nhiêu câu trả lời lại mọc ra bấy nhiêu câu hỏi.” lúc sau Teddy lên tiếng.


      “Thế là thế nào?”


      “Tại sao những dòng mật mã đó lại ở trong phòng Rachel?”


      ta bị điên mà.”


      “Nhưng tại sao lại cho chúng ta xem chứ? Ý tôi là nếu đây là vụ bao che tại sao để chúng ta dễ dàng ký toẹt vào báo cáo rồi ? ‘Do hộ lý ngủ quên.’ Hay là ‘Khóa cửa sổ bị gỉ nát mà chúng tôi để ý.’ ”


      Chuck tì tay vào tường. “Có thể họ quá đơn. Tất cả bọn họ. Cần có giao lưu với ai đó từ thế giới bên ngoài.”


      “Đúng thế. Bịa ra câu chuyện để lôi chúng ta tới đây. Để có cái gì mới mà bàn tán. Tôi thấy hợp lý đấy.”


      Chuck quay lại nhìn về khu bệnh viện Ashecliffe. “ đùa chứ...”


      Teddy cũng quay lại, cả hai đứng đối mặt với bệnh viện. “Ừ...”


      “Teddy, tôi bắt đầu cảm thấy an tâm ở đây.”


      “HỌ GỌI NÓ là Đại sảnh,” Cawley khi dẫn họ qua hành lang có sàn lát gỗ tới trước hai cánh cửa bằng gỗ sồi với nắm đấm cửa bằng đồng to như những trái dứa. “Tôi nghiêm túc đấy. Vợ tôi tìm thấy gác mái vài bức thư chưa gửi của chủ cũ, Đại tá Spivey. lại về cái Đại sảnh mà ông ta cho xây dựng.”


      Cawley kéo mạnh trái dứa và đẩy cánh cửa ra.


      Chuck khẽ huýt sáo. Teddy và Dolores có căn hộ ở Buttonwood khiến bạn bè ghen tị vì rộng rãi của nó với hành lang chính có chiều dài gần bằng sân bóng, thế mà so với căn phòng này nó lọt thỏm, chỉ bằng nửa.


      Sàn nhà được lát đá hoa cương, rải rác những tấm thảm trang trí sẫm màu kiểu phương Đông. cái lò sưởi cao quá đầu người. Chỉ riêng đống rèm nhung đỏ thẫm, mỗi tấm dài ba mét chín cái cửa sổ cũng trị giá hơn số tiền mà Teddy kiếm được trong năm. Có khi hai năm cũng nên. cái bàn bi-a nằm trong góc dưới ba bức tranh sơn dầu vẽ người đàn ông trong quân phục quân đội liên bang màu xanh nước biển, phụ nữ trong chiếc đầm trắng diêm dúa, và bức cuối cùng là người đàn ông và người đàn bà đứng trước cái lò sưởi giống như cái lò sưởi khổng lồ ở trong phòng này, dưới chân họ là con chó.


      “Là tranh vẽ ông đại tá à?” Teddy hỏi.


      Cawley nhìn theo ánh mắt của và gật đầu. “Bị bãi nhiệm lâu sau khi những bức tranh này được hoàn thành. Chúng tôi tìm thấy chúng dưới tầng hầm của ngôi nhà cùng cái bàn bi-a, với nhiều tấm thảm và ghế ngồi nữa. nên tham quan tầng hầm, đặc vụ ạ. Có thể dùng làm sân chơi Polo ở dưới đó.”


      Teddy chợt ngửi thấy mùi tẩu thuốc, và Chuck cùng xoay người lại và nhận ra trong phòng còn có người đàn ông khác. Ông ta ngồi quay lưng về phía họ trong chiếc ghế bành lưng cao đối diện với lò sưởi, chân vắt lên đầu gối chân kia, đó thò ra gáy quyển sách.


      Cawley dẫn họ về phía lò sưởi, chỉ vào mấy chiếc ghế đặt ở đằng trước rồi về phía tủ rượu. “Đồ uống gì đây, quý ngài?”


      ly whisky mạch đen, nếu ông có,” Chuck .


      “Được thôi, còn đặc vụ Daniels sao?”


      “Soda và ít đá.”


      Người đàn ông lạ mặt trong phòng ngẩng đầu lên nhìn họ. “ có cái thú uống rượu sao?”


      Teddy nhìn ông ta. cái đầu nhắn, tóc đỏ, trông như trái sơ ri vắt vẻo thân hình chắc mập, béo lùn. Cả người ông ta toát ra vẻ công tử bột, khiến cho Teddy có cảm giác rằng ông ta hẳn mất rất nhiều thời gian trong buồng tắm mỗi buổi sáng để chăm sóc cơ thể mình với các loại phấn và dầu thơm.


      “Và ông là?” Teddy hỏi.


      “Đồng nghiệp của tôi,” Cawley lên tiếng. “Bác sĩ Jeremiah Naehring.”


      Người đàn ông này nháy mắt ra hiệu làm quen với họ nhưng chìa tay ra nên Teddy và Chuck cũng lờ .


      “Tôi rất tò mò,” Naehring khi Teddy và Chuck ngồi xuống hai chiếc ghế quây theo hình vòng cung phía bên trái ông ta.


      “Chuyện lạ sao?” Teddy .


      “Sao lại uống rượu nhỉ? Uống rượu phải là phổ biến trong nghề của các sao?”


      Cawley đưa đồ uống cho Teddy lúc này đứng bắt tréo chân bên cạnh giá sách phía bên phải lò sưởi. “Cũng khá phổ biến,” . “Thế còn nghề của các ông?”


      “Xin lỗi?”


      “Nghề của các ông ấy.” Teddy . “Tôi thường nghe thấy người ta trong nghề của ông cũng đầy những kẻ nghiện rượu.”


      giống như tôi được biết.”


      “Thế chắc ông để ý đấy thôi.”


      “Tôi chắc là tôi hiểu ý .”


      “Đấy, thế đấy là cái gì, trong ly của ông ấy, trà lạnh à?”


      Teddy rời mắt khỏi giá sách quay sang nhìn Naehring lúc này quan sát chiếc ly của mình, nụ cười rúm lại như con tằm cái miệng mềm mại. “Tuyệt vời, đặc vụ. là có tài bào chữa. Tôi đoán rằng hẳn rất lão luyện trong việc tra khảo.”


      Teddy lắc đầu, để ý thấy Cawley có nhiều sách y học lắm, hay ít nhất là trong căn phòng này. Chỉ có vài cuốn còn ngoài ra toàn là tiểu thuyết, vài tập sách mỏng mà Teddy đoán là thơ, và rất nhiều sách lịch sử và tiểu sử.


      phải sao?” Naehring .


      “Tôi là đặc vụ. Tôi giao nộp họ. Trong phần lớn trường hợp, những người khác làm công việc thẩm vấn.”


      “Tôi gọi đó là ‘tra khảo’ còn gọi nó là ‘thẩm vấn’. Đúng vậy, đặc vụ, quả là có khả năng bào chữa đáng kinh ngạc.” Ông ta gõ gõ ly rượu scotch của mình lên bàn nhiều lần như muốn thể hành động vỗ tay. “Tôi bị mê hoặc bởi những người đàn ông của bạo lực.”


      “Đàn ông của gì cơ?”


      Teddy bước lại gần bên chiếc ghế của Naehring, nhìn xuống người đàn ông thó ngồi đó rồi lắc lắc những viên đá trong chiếc ly của mình.


      Naehring quay đầu lại, nhấp ngụm scotch và , “Bạo lực.”


      là định nghĩa chết tiệt, bác sĩ.” Chuck lên tiếng và chưa bao giờ Teddy thấy ta khó chịu ra mặt đến vậy.


      “Đó phải là định nghĩa, phải là định nghĩa.”


      Teddy lại lắc chiếc ly lần nữa trước khi uống cạn và nhìn thấy phía dưới mắt trái của Naehring khẽ giần giật. “Tôi cũng phải đồng ý với cộng của mình.” và ngồi xuống ghế.


      ,” Naehring kéo dài giọng khi từ này. “Tôi các là người của bạo lực. Nó đồng nghĩa với việc buộc tội các là những người bạo lực.”


      Teddy cười rất tươi với ông ta và , “Thế hãy giải thích cho chúng tôi xem nào.”


      Sau lưng họ, Cawley đặt đĩa hát vào máy, tiếng kim chạm vào đĩa nghe sột soạt rồi sau đó là những tiếng kêu lộp độp và tiếng rít ken két khiến Teddy nhớ tới những chiếc điện thoại mà vừa thử gọi lúc nãy. Thế rồi những thanh chói tai đó được thay thế bởi hòa giữa piano và đàn dây. Nhạc cổ điển gì đó, Teddy chỉ biết đến thế. Có lẽ là nhạc Phổ. Nó khiến nhớ tới những quán cà phê ở Đức và bộ sưu tập đĩa nhạc mà nhìn thấy trong căn phòng của viên sĩ quan chỉ huy phó ở Dachau, người tự bắn vào họng mình trong lúc nghe nhạc. ta vẫn còn sống khi Teddy và bốn người lính Mỹ khác bước vào phòng. Máu chảy ra ồng ộc. Nhưng ta thể với tới khẩu súng lúc này rơi xuống sàn để bồi thêm phát nữa. Tiếng nhạc êm ái lan khắp căn phòng như mạng nhện độc. Phải hai mươi phút sau mới chết, hai người lính Mỹ hỏi tên phó chỉ huy xem có đau đớn khi họ lục soát căn phòng. Teddy nhặt bức ảnh đóng khung để trong lòng lên xem, bức ảnh chụp vợ và hai đứa con, mắt giãn ra và bám theo bức ảnh khi Teddy lấy nó . Teddy đứng đó hết nhìn bức ảnh lại nhìn , nhìn tới nhìn lui, cứ thế cho đến khi tắt thở. Trong suốt thời gian đó, tiếng nhạc vẫn du dương. Lảnh lót.


      “Brahms?” Chuck hỏi.


      “Mahler.” Cawley ngồi xuống bên cạnh Naehring.


      muốn nghe tôi giải thích đúng ?” Naehring lên tiếng.


      Teddy tì hai cùi trỏ lên đầu gối và chìa hai tay ra tỏ ý sẵn sàng lắng nghe.


      “Từ hồi học,” Naehring , “tôi đánh cá rằng ai trong số hai bỏ qua cuộc xô xát nào ở sân trường. Tôi có ý là các thích thú với chuyện đó mà chỉ là vì trong đầu các bao giờ có chỗ cho tháo chạy. Đúng thế ?”


      Teddy nhìn về phía Chuck. Chuck khẽ mỉm cười với , vẻ lúng túng.


      được nuôi dạy để bỏ chạy, bác sĩ,” Chuck .


      “À, đúng, nuôi dạy? Thế ai nuôi dạy ?”


      “Những con gấu,” Teddy .


      Mắt Cawley chợt sáng lên và ông ta khẽ gật đầu với Teddy.


      Thế nhưng Naehring có vẻ thích hài hước. Ông ta khẽ chỉnh lại nếp quần hơi nhàu ở phía đầu gối. “Các có tin vào Chúa ?”


      Teddy cười.


      Naehring cúi người về phía trước.


      “Ôi, ông nghiêm túc đấy chứ?” Teddy hỏi.


      Naehring vẫn tỏ vẻ đợi.


      “Ông bao giờ nhìn thấy cái trại tập trung chưa bác sĩ?”


      Naehring lắc đầu.


      “Chưa ư?” Teddy hơi nhoài người về phía trước. “Tiếng của ông rất tốt, gần như có khiếm khuyết. Tuy nhiên ông đánh vần các phụ vẫn hơi cứng tí.”


      “Việc nhập cư hợp pháp là tội hay sao, đặc vụ?”


      Teddy mỉm cười, lắc đầu.


      “Vậy hãy quay lại với câu hỏi về Chúa.”


      ngày nào đó, ông nhìn thấy cái trại tập trung, bác sĩ, rồi hãy quay lại hỏi tôi về những cảm nghĩ với Chúa.”


      Naehring tỏ ý đồng tình với câu trả lời của Teddy bằng cách nhắm mắt lại rồi từ từ mở mắt ra trước khi đổi hướng nhìn sang Chuck.


      “Thế còn ?”


      “Tôi cũng chưa bao giờ nhìn thấy cái trại nào.”


      “Tôi hỏi có tin vào Chúa ?”


      Chuck nhún vai. “Từ lâu tôi cũng chẳng quan tâm tới ông ta cho lắm.”


      “Từ khi cha qua đời, đúng ?”


      Nghe tới đây, Chuck khẽ cúi người về phía trước, nhìn chằm chằm vào người đàn ông thấp, mập với đôi mắt sáng quắc.


      “Cha qua đời đúng ? Cả cha của nữa, đặc vụ Daniels? thực tế, tôi dám cá là cả hai đều mất nhân vật nam giới trụ cột trong gia đình trước sinh nhật thứ mười lăm của mình.”


      “Năm con rô,” Teddy .


      “Xin lỗi?” Nearhing hỏi, hơi nhoài người về phía trước.


      “Đây có phải là trò ảo thuật mới của ông ?” Teddy . “Ông cho tôi biết tôi giữ con bài nào. Hay là, , chờ , ông cắt y tá làm đôi hoặc lôi từ trong đầu bác sĩ Cawley ra con thỏ.”


      “Đây phải là trò ảo thuật.”


      “Hay như thế này,” Teddy vừa vừa chỉ muốn vặt cái đầu trông giống như quả sơ ri ra khỏi đôi vai u nung núc thịt của ông ta. “Ông dạy phụ nữ xuyên qua tường, tàng hình trong tòa nhà đầy hộ lý và lính gác, rồi vượt qua đại dương.”


      “Trò này được đấy,” Chuck .


      Naehring lại chớp mắt cách chậm rãi khiến Teddy liên tưởng tới con mèo sau khi ăn no.


      “Lại phải kỹ năng bào chữa của là...”


      “À, lại quay về chỗ cũ.”


      “... là ấn tượng. Nhưng vấn đề nay...”


      “Vấn đề nay,” Teddy . “Là cái bệnh viện này trong đêm hôm qua vi phạm trắng trợn chín quy định về an ninh. Các ông có người phụ nữ bị mất tích mà ai thèm tìm xem...”


      “Chúng tôi vẫn tìm kiếm.”


      cách nghiêm túc?”


      Naehring ngồi tụt vào ghế và nhìn sang Cawley với cái vẻ khiến Teddy băn khoăn hiểu ai trong số họ mới thực là người nắm quyền.


      Cawley bắt gặp ánh mắt Teddy, phía dưới cằm ông ta hơi đỏ lên. “Bác sĩ Naehring, ngoài những chức danh khác còn là người phụ trách mảng thông tin liên lạc trong ban giám đốc. Tôi mời ông ấy tới đây với tư cách đó, nhằm giải đáp những thắc mắc của các lúc trước.”


      “Những thắc mắc nào vậy?”


      Naehring khum tay lại châm lửa cho tẩu thuốc của mình rồi , “Về việc chúng tôi thể cung cấp hồ sơ cá nhân của nhân viên.”


      “Của Sheehan,” Teddy .


      “Của bất kỳ ai.”


      “Cơ bản mà , ông thọc gậy bánh xe chúng tôi đấy.”


      “Tôi quen với cách diễn đạt của .”


      “Vậy nên nghĩ tới việc ra ngoài nhiều hơn nữa.”


      “Đặc vụ, cứ tiếp tục cuộc điều tra của và chúng tôi giúp bất cứ gì chúng tôi có thể, nhưng...”


      “Thôi khỏi.”


      “Xin lỗi?” Cawley nhoài người ra phía trước, bốn người bọn họ tạo thành bộ tứ vai sụm xuống, đầu nhô ra phía trước.


      “Thôi khỏi,” Teddy nhắc lại. “Cuộc điều tra kết thúc. Chúng tôi trở lại thành phố trong chuyến phà đầu tiên. Chúng tôi viết báo cáo và mọi việc được chuyển cho các nhân viên của Hoover, tôi chỉ có thể đoán thế. Chúng tôi ra khỏi vụ này.”


      Khói từ tẩu thuốc tay Naehring bay lởn vởn. Cawley làm hơi từ ly rượu của mình. nhạc của Mahler vẫn lảnh lót. Từ đâu đó trong căn phòng, tiếng đồng hồ kêu tích tắc. Bên ngoài trời bắt đầu mưa nặng hạt.


      Cawley đặt chiếc ly rỗng xuống cái bàn bên cạnh ghế mình.


      “Tùy thôi, đặc vụ.”


      TRỜI VẪN MƯA NHƯ TRÚT khi họ rời khỏi nhà Cawley. Mưa lách tách mái nhà lợp ngói đen, nền gạch lát ở sân trong ngôi nhà và cái mui màu đen của chiếc xe ô tô chờ họ. Teddy có thể nhìn thấy mưa cắt xuyên qua bóng đêm thành những tấm màn xiên xiên màu trắng bạc. Từ thềm nhà Cawley ra tới ô tô chỉ có vài bước mà tất cả bọn họ đều ướt như chuột. McPherson vòng ra phía trước xe và ngồi vào sau tay lái, làm ướt cả hộp đồng hồ khi lắc đầu cho nước mưa rơi xuống rồi bắt đầu nổ máy chiếc Packard.


      “Buổi tối tốt lành.” Ông ta , giọng át cả tiếng cần gạt nước kêu xoành xoạch và tiếng mưa rầm rập bên ngoài.


      Teddy nhìn về phía sau qua cửa kính, thấy hình dáng lờ mờ của Cawley và Naehring đứng bậu cửa quan sát bọn họ.


      “Cả người lẫn vật đều chịu thấu,” McPherson khi cành cây mảnh bị bứt khỏi thân bay ngang qua tấm kính chắn gió.


      “Ông làm việc ở đây được bao lâu rồi?” Chuck hỏi.


      “Bốn năm.”


      được nghỉ phép bao giờ chưa?”


      “Ối giời, chưa hề.”


      “Thế trốn chẳng hạn? Kiểu như mất tích đâu đó trong vòng hai tiếng đồng hồ?”


      McPherson lắc đầu. “Như thế cũng . Phải điên chết mẹ mới làm được thế. Vì biết đâu?”


      “Thế còn bác sĩ Sheehan?” Teddy . “Ông biết ta chứ?”


      “Có chứ.”


      ta ở đây bao lâu rồi?”


      “Tôi nghĩ là trước tôi năm.”


      “Nghĩa là năm năm.”


      “Đúng thế.”


      ta có làm việc nhiều với Solando ?”


      “Theo tôi biết . Bác sĩ Cawley mới là bác sĩ điều trị chính của ta.”


      “Việc bác sĩ trưởng thân chinh theo dõi bệnh nhân có phải là bình thường ?”


      ...” McPherson hết câu.


      Trong lúc họ chờ đợi ông ta tiếp tục những chiếc cần gạt nước vẫn quét quét lại, những hàng cây tối sẫm uốn rạp xuống trước mắt họ.


      “Cũng tùy,” McPherson lên tiếng, vẫy tay với người lính gác khi chiếc Packard tiến vào cổng chính. “Bác sĩ Cawley chịu trách nhiệm điều trị chính cho rất nhiều bệnh nhân ở Khu C. Nhưng cũng có vài ca ở các khu khác mà ông ấy thấy là cần thiết.”


      “Ngoài Solando ra còn ai nữa?”


      McPherson dừng xe lại phía bên ngoài khu tập thể dành cho nhân viên nam. “Các phiền nếu tôi cần vòng ra ngoài để mở cửa cho các chứ? Các nên ngủ chút. Tôi chắc rằng bác sĩ Cawley trả lời tất cả câu hỏi của các vào buổi sáng.”


      “McPherson,” Teddy khi mở cửa xe.


      McPherson quay lại nhìn.


      “Ông khéo lắm trong chuyện đó,” Teddy .


      “Khéo gì cơ?”


      Teddy chỉ nhìn ông ta mỉm cười đầy ý rồi bước ra ngoài trời mưa.


      Họ dùng chung phòng với Trey Washington và hộ lý khác có tên là Bibby Luce. Căn phòng vừa đủ rộng với hai chiếc giường tầng và khoảng trống nơi Trey và Bibby chơi bài khi họ bước vào. Teddy và Chuck lau khô tóc bằng những chiếc khăn tắm màu trắng ai đó để sẵn giường cho họ rồi kéo ghế tham dự cuộc chơi.


      Trey và Bibby dùng đồng xu làm cái, nếu ai hết đồng xu có thể dùng thuốc lá thay thế.


      Teddy đánh lừa ba người bằng ván bảy con bài, thắng năm đô la và mười tám điếu thuốc nhờ vào phỏm nhép sau đó đút thuốc lá vào túi và chơi chậm lại, vẻ thận trọng.


      Chuck hóa ra chính là tay chơi thực thụ, lúc nào cũng tươi cười, thể nào đọc được ý nghĩ của ta. ta thu về đống tiền xu, thuốc lá và cuối cùng là những tờ giấy bạc rồi nhìn chúng với vẻ ngạc nhiên như thể hiểu tại sao chúng lại xếp đống trước mặt ta như thế.


      có đôi mắt X quang à, đặc vụ?” Trey .


      “Do may mắn thôi, tôi nghĩ thế.”


      “Vớ vẩn. May mắn chó gì? ta hẳn dùng ma thuật gì đó.”


      “Có lẽ cái thằng bỏ mẹ nào đó nên sờ dái tai,” Chuck .


      “Hả?”


      cứ hay sờ lên dái tai, ngài Washington. Mỗi khi có đủ bộ.” Rồi ta chỉ sang Bibby. “Còn cái thằng bỏ mẹ này...”


      Nghe tới đây cả ba bọn họ cười ầm lên.


      ta, ta - , chờ tí... - ta, ta có đôi mắt đảo như lạc rang, nhìn vào đống tiền của mọi người rồi bắt đầu chơi tháu cáy. Khi có bài tốt trông lặng lẽ, tẩm ngẩm tầm ngầm.”


      Trey phá ra cười hô hố hết cỡ rồi đập tay xuống bàn. “Thế còn đặc vụ Daniels, ta biểu như thế nào?”


      “Tôi phải bán đứng đồng của mình ư? Ồ , , ,” Chuck cười .


      “Ô hô!” Bibby chỉ tay qua bàn vào hai người bọn họ.


      thể làm thế được.”


      “Hiểu rồi, hiểu rồi,” Trey . “Lại kiểu hành xử giữa những người da trắng đây mà.”


      Mặt của Chuck bỗng tối sầm lại, ta nhìn chằm chằm vào Trey cho tới khi căn phòng trở nên ngột ngạt vì thiếu khí.


      Cái yết hầu cổ Trey khẽ nhấp nhô nhưng khi ta định giơ tay lên để xin lỗi Chuck tiếp, “Đúng là như thế. Chứ còn gì nữa?” rồi cười toét miệng.


      “Cái thằng bỏ mẹ!” Trey đập tay vào tay Chuck.


      “Đúng là cái thằng bỏ mẹ!” Bibby .


      “Cái thằng bỏ mợ!” Chuck đáp lại rồi cả ba bọn họ cười khúc khích như bọn con .


      Teddy nghĩ tới chuyện bắt chước họ nhưng làm nổi, người đàn ông da trắng cố tỏ ra là mình ngon lành. Chuck cũng là người da trắng đấy thôi, nhưng vì lý do nào đó mà ta vẫn luôn rũ bỏ được điều đó.


      “Thế điều gì khiến tôi bị lộ tẩy?” Teddy hỏi Chuck khi cả hai trèo lên giường, nằm im trong bóng tối. Phía đối diện, Trey và Bibby thi nhau ngáy o o, cơn mưa bên ngoài cũng thưa dần từ khoảng nửa tiếng đồng hồ trở lại đây như thể nó lấy lại hơi chờ cho đợt tăng cường mới.


      “Trong lúc chơi bài hả?” Chuck hỏi vọng lên từ chiếc giường bên dưới. “Quên chuyện đó .”


      . Tôi muốn biết mà.”


      “Sếp nghĩ là sếp chơi cũng được, đúng ? Thừa nhận .”


      “Tôi nghĩ là tôi chơi cũng tệ lắm.”


      hề.”


      “Nhưng mà cậu vét tôi nhẵn túi.”


      “Tôi chỉ thắng có vài đồng thôi mà.”


      “Bố cậu là tay cờ bạc à?”


      “Bố tôi là tên khốn.”


      “Ôi, xin lỗi.”


      phải lỗi của sếp. Còn bố sếp?”


      “Bố tôi?”


      “Tất nhiên là bố sếp, lẽ lại là chú sếp?”


      Teddy cố gắng hình dung ra bố mình trong bóng tối, nhưng chỉ thấy đôi bàn tay của ông với những vết sẹo lằn ngang dọc.


      “Ông ấy là người xa lạ,” Teddy . “Với tất cả mọi người. Kể cả với mẹ tôi. Khỉ , tôi nghi là ngay cả ông ấy cũng chẳng biết mình là ai. Ông ấy là cái thuyền. Khi ông ấy mất nó, ông ấy cũng trôi giạt .”


      Chuck gì trong lúc lâu khiến Teddy tưởng rằng ta ngủ. đột nhiên thấy cha mình, cả người ông, ngồi chiếc ghế trong những ngày có việc gì làm, bị nuốt chửng giữa những bức tường, trần nhà, và những căn phòng.


      “Này, sếp?”


      “Cậu chưa ngủ cơ à?”


      “Sếp sẵn sàng dọn đồ đấy à?”


      “Ừ, cậu ngạc nhiên à?”


      “Tôi có ý trách sếp. Tôi chỉ, tôi cũng chẳng biết...”


      “Gì cơ?”


      “Tôi chưa bao giờ bỏ cuộc trước đây.”


      Teddy nằm im lúc. Cuối cùng lên tiếng, “Chúng ta nghe thấy chút nào. Chúng ta có cách nào để tìm hiểu nó, có bằng chứng nào để bám vào và có cách nào để cậy miệng những người này.”


      “Tôi biết, tôi biết,” Chuck . “Tôi hoàn toàn đồng ý với các lý lẽ của sếp.”


      “Nhưng?”


      “Nhưng tất cả chỉ là ở chỗ trước đây tôi chưa hề bỏ cuộc bao giờ.”


      “Rachel Solando chân trần ra khỏi căn phòng bị khóa mà giúp đỡ. Rất nhiều người giúp. Cả cái bệnh viện này giúp ta. Kinh nghiệm của tôi ư? Đó là thể nào chống lại cả cộng đồng mà ai muốn nghe . Nhất là khi chỉ có hai chúng ta. Kịch bản tốt nhất là lời đe dọa có hiệu lực và Cawley ngồi trong dinh thự của mình suy ngẫm về thái độ của ông ta trong vụ này. Có thể sáng mai...”


      “Thế ra là sếp định chơi ván tháu cáy?”


      “Tôi thế.”


      “Tôi chỉ chuyện chơi bài với sếp thôi mà sếp.”


      Rồi cả hai lại chìm trong im lặng, Teddy nằm nghe biển rì rào.


      “Sếp hay bĩu môi,” Chuck , giọng bắt đầu ngái ngủ.


      “Gì cơ?”


      “Khi sếp có bài đẹp. Sếp thường chỉ bĩu môi rất nhanh trong khoảng giây. Nhưng sếp luôn làm thế.”


      “Ôi!”


      “Ngủ ngon, sếp.”


      “Ngủ ngon.”


      DỌC theo hành lang về phía .


      Dolores với những đốm lửa giận dữ trong mắt. Tiếng Bing Crosby ngâm nga bài “East Side of Heaven” vang lên đâu đó trong ngôi nhà, có lẽ là từ trong bếp.


      , “Trời ơi, Teddy. Trời ơi là trời.” Trong tay chai rượu JTS Brown rỗng . Chai rượu rỗng của . Và Teddy hiểu rằng phát ra chỗ giấu rượu của .


      có bao giờ tỉnh rượu hả? còn có lúc quái nào tỉnh táo nữa ? Trả lời tôi .”


      Nhưng Teddy thể. thể được. thậm chí còn biết cơ thể của mình ở đâu nữa. có thể nhìn thấy tiếp tục dọc theo cái hành lang dài về phía nhưng thể trông thấy cơ thể của chính mình, thậm chí còn cảm nhận được nó. Có chiếc gương ở cuối hành lang, phía sau Dolores nhưng thấy bóng mình phản chiếu trong đó.


      quay người vào phòng khách, lưng cháy đen, vẫn còn hơi ỉ. Cái chai còn nằm trong tay nữa, từ tóc nhả ra những làn khói trông như những dải ruy băng .


      dừng lại bên cửa sổ. “Ôi, nhìn xem. Như thế này trông chúng mới đẹp làm sao. Bồng bềnh.”


      Teddy đứng cạnh bên cửa sổ, cháy nữa mà ướt đẫm và có thể nhìn thấy chính mình, tay đặt lên vai Dolores, những ngón tay che lấy đoạn xương đòn rồi quay đầu lại, hôn nhanh lên mấy ngón tay .


      “Em làm gì thế?” chắc là tại sao mình lại hỏi vậy.


      “Hãy nhìn chúng ở ngoài kia mà xem.”


      “Cưng ơi, sao em lại ướt hết cả thế này?” hỏi nhưng cũng ngạc nhiên khi chẳng trả lời.


      Cái quang cảnh bên ngoài cửa sổ phải là thứ mong đợi. Đó phải là cảnh họ thấy phía bên ngoài căn hộ ở Buttonwood mà là của nơi khác, căn nhà gỗ họ từng sống trước đây. Phía bên ngoài ngôi nhà đó là cái hồ xinh xắn với những khúc gỗ trôi bập bềnh mặt nước, và Teddy nhận thấy chúng mới mềm mại làm sao, gần như vô hình, mặt nước lấp lánh và trắng muốt ở những nơi có ánh trăng.


      “Đó là cái vọng lâu rất đẹp,” . “Trắng tinh. có thể ngửi thấy mùi sơn mới.”


      “Nó rất đẹp.”


      “Và...”


      giết rất nhiều người trong chiến tranh.”


      “Vì thế mà uống rượu.”


      “Có lẽ.”


      ta ở đây.”


      “Rachel hả?”


      Dolores gật đầu. “ ta chưa bao giờ bỏ cả. gần như nhìn thấy. gần như thấy.”


      “Luật của bốn.”


      “Đó là mật mã.”


      “Đúng thế, nhưng để diễn tả điều gì?”


      ta ở đây. thể bỏ được.”


      quàng tay ôm lấy từ phía sau, dụi mặt vào bên gáy . “ đâu cả. em. em rất nhiều.”


      Bụng bỗng nhiên bỗng nứt ra khe hở, chất lỏng tuôn trào qua những kẽ ngón tay .


      “Em chỉ còn là nắm xương trong cái hộp, Teddy.”


      đúng.”


      “Đúng vậy. phải tỉnh lại thôi.”


      “Em ở đây mà.”


      “Em . phải đối diện với điều đó. ta ở đây. ở đây. Cả ta cũng ở đây. Hãy đếm số giường bệnh mà xem. ta ở đây.”


      “Ai cơ?”


      “Laeddis”


      Cái tên đó xuyên qua da thịt , thấu vào tận xương tủy.


      .”


      “Đúng thế đấy.” quay đầu lại, nhìn . “ biết điều đó mà.”


      biết.”


      “Có, có biết. thể được.”


      “Lúc nào em cũng căng thẳng.” khẽ bóp vai khẽ rên lên tiếng ngạc nhiên khiến cả người căng cứng.


      “Em còn căng thẳng nữa,” . “Em về nhà rồi.”


      “Đây phải là nhà,” .


      “Đây đúng là nhà. Nhà em. ta ở đây. cũng ở đây.”


      “Laeddis.”


      “Laeddis,” . Rồi lại thêm: “Em phải thôi.”


      ,” bật khóc. “, hãy ở lại.”


      “Ôi Chúa ơi.” lại dựa vào . “Hãy để em . Hãy để em .”


      “Xin em đừng .” Nước mắt của chảy dọc xuống thân thể , hòa lẫn vào dòng chất lỏng tuôn ra từ bụng . “ muốn ôm em thêm chút nữa. Chỉ chút nữa thôi. Xin em đấy.”


      Từ cổ họng của khẽ phát ra thanh, nửa như tiếng thở dài, nửa như tiếng hú, nỗi thống khổ đau đớn mà đẹp đẽ. Rồi hôn lên những khớp xương đốt ngón tay .


      “Thôi được. Hãy ôm em chặt. Chặt hết mức vào.”


      ôm lấy vợ mình. ôm và ôm lấy .


      NĂM GIỜ SÁNG, ngoài trời vẫn mưa, Teddy trèo xuống giường, lấy quyển sổ ghi chép trong túi áo khoác, ngồi vào cái bàn chơi xì phé đêm qua, rồi giở trang chép lại mật mã luật của bốn của Rachel Solando ra.


      Trey và Bibby vẫn ngáy như sấm. Chuck ngủ yên tĩnh, nằm sấp, tay nắm lại phía dưới tai như thể thầm những điều bí mật.


      Teddy nhìn xuống trang giấy. Nó rất đơn giản nếu như bạn biết cách đọc. mật mã của trẻ con, đúng là như thế. Nhưng dù sao nó vẫn là mật mã và phải tới sáu giờ Teddy mới giải được nó.


      nhìn lên và thấy Chuck quan sát mình từ giường của ta, tay chống cằm.


      “Chúng ta chứ, sếp.”


      Teddy lắc đầu.


      có ai khỏi cái chỗ khốn kiếp này sao?” Trey và trèo ra khỏi giường, kéo rèm cửa sổ lên để lộ quang cảnh ngập lụt màu ngọc trai xám bàng bạc phía bên ngoài. “Cũng chẳng sao.”


      Giấc mơ đột nhiên trở nên khó níu giữ, mùi hương của bay khi tấm rèm cửa sổ được kéo lên, trong tiếng ho khan của Bibby và tiếng ngáp dài, ồn ã lúc vươn mình của Trey.


      Teddy tự hỏi, và phải là lần đầu tiên, phải chăng cái ngày mà thể vượt qua được việc mất cuối cùng đến? Nếu như có thể quay ngược lại thời gian về đám cháy buổi sáng hôm đó và thay thế bằng cơ thể của làm thế. Điều đó là hiển nhiên. Lúc nào cũng vậy. Nhưng năm tháng trôi qua mà hề bớt nhớ thương , ngược lại càng nhớ nhiều hơn và mong muốn có bên cạnh trở thành vết cắt bao giờ liền sẹo, bao giờ ngừng rỉ máu.


      Tôi ôm ấy, những muốn thế với Chuck, với Trey và Bibby. Tôi ôm ấy khi tiếng nhạc của Bing Crosby dìu dặt phát ra từ chiếc radio trong bếp và tôi có thể hít thở mùi hương của ấy cùng với căn hộ ở Buttonwood và cái hồ nước nơi chúng tôi sống mùa hè năm đó, và môi ấy lướt những ngón tay tôi.


      Tôi ôm ấy. Cái thế giới này thể cho tôi điều đó. Cái thế giới này chỉ nhắc tôi về những thứ mà tôi có được, bao giờ có được hoặc từng có nhưng còn nữa.


      Đáng lẽ chúng ta cùng già bên nhau, Dolores. Có những đứa con. Cùng dạo dưới những cây cổ thụ. Tôi muốn nhìn những nếp nhăn xuất da thịt em và biết được lúc nào những nếp nhăn đó xuất , từng nếp . Và chết cùng nhau.


      Chứ thế này. phải như thế này.


      Tôi ôm ấy, những muốn vậy, và nếu tôi biết chắc rằng tất cả những gì tôi có thể làm để được ôm ấy lần nữa là cái chết tôi ngần ngại chĩa súng vào đầu mình.


      Chuck vẫn nhìn chằm chằm, chờ đợi.


      “Tôi giải được mật mã của Rachel,” Teddy .


      “Ôi,” Chuck tiếp, “còn gì nữa ?”


      Chú thích


      1. Scotland Yard là tên gọi của cảnh sát . MI5 là cơ quan phản gián . 0SS là cơ quan phản gián Mỹ được thành lập trong Thế Chiến thứ Hai, tiền thân của CIA. (ND)



      NGÀY THỨ HAI


      Laeddis


      CAWLEY GẶP HỌ trong hành lang Khu B. Mặt mũi và quần áo ông ta ướt sũng, trông như người ngồi cả đêm chiếc ghế băng ở trạm chờ xe buýt.


      “Bí quyết là đặt lưng xuống giường là phải ngủ, bác sĩ,” Chuck .


      Cawley lau mặt bằng chiếc khăn mùi soa. “Ồ, cái đó là bí quyết hả đặc vụ? Tôi biết là tôi có quên cái gì đó. Quên ngủ, ý là vậy? Đúng là thế .”


      Ba người họ bắt đầu leo lên các bậc thang màu vàng, gật đầu chào những hộ lý đứng ở tầng .


      “Bác sĩ Naehring sáng nay thế nào?” Teddy hỏi.


      Cawley nhướng mày nhìn vẻ mệt mỏi. “Tôi xin lỗi về chuyện hôm qua. Jeremiah là thiên tài nhưng ấy cũng nên sử dụng vài phép lịch trong giao tiếp xã hội. ấy có ý tưởng viết cuốn sách về văn hóa của các nam chiến binh trong lịch sử. ấy thường xuyên đưa những điều ám ảnh ấy vào các cuộc đối thoại, cố xếp người khác vào những hình mẫu tưởng tượng của mình. lần nữa, tôi xin lỗi.”


      “Các ông thường xuyên làm thế à?”


      “Cái gì cơ, đặc vụ?”


      “Ngồi quanh uống rượu và, hừm, thăm dò mọi người.”


      “Rủi ro nghề nghiệp, tôi đoán thế. Đố cần phải có bao nhiêu bác sĩ tâm lý để vặn cái bóng đèn?”


      “Tôi biết. Bao nhiêu?”


      “Tám.”


      “Tại sao?”


      “Ôi thôi, đừng hỏi vặn vẹo nữa.”


      Teddy bắt gặp ánh mắt của Chuck rồi cả hai phá ra cười.


      “Kiểu đùa của bác sĩ tâm lý,” Chuck . “Ai mà đoán nổi?”


      “Các vị, các vị có biết thực trạng của ngành sức khỏe tâm thần nay ra sao ?”


      hề.”


      “Chiến tranh,” Cawley và lấy chiếc khăn mùi soa ướt che miệng ngáp. “Chiến tranh tư tưởng, triết học và thậm chí cả tâm thần học.”


      “Các ông là bác sĩ,” Chuck . “Các ông nên chơi đẹp, chia sẻ đồ chơi cho nhau.”


      Cawley mỉm cười và họ tiếp tục qua những người hộ lý làm việc tầng hai. Từ đâu đó ở phía dưới bệnh nhân la hét, tiếng kêu vang lên tận chỗ cầu thang họ đứng. Đó là tiếng kêu ai oán và Teddy có thể nghe thấy tuyệt vọng bên trong, tuyệt vọng vì biết chắc rằng cho dù mong muốn điều gì nó cũng được đáp ứng.


      “Trường phái cũ,” Cawley , “tin vào các liệu pháp gây sốc, phẫu thuật thùy não, trị liệu spa cho những bệnh nhân dễ bảo. Chúng tôi gọi chúng là phẫu thuật thần kinh. Trường phái mới theo đuổi chủ trương dược trị tâm thần. Họ đó là cách điều trị của tương lai. Cũng có thể. Tôi cũng biết nữa.”


      tới đây ông ta dừng lại, tay đặt lên thành cầu thang giữa tầng hai với tầng ba, và Teddy có thể cảm thấy mệt mỏi của ông ta ràng, như vật thể sống suy sụp, cơ thể thứ tư diện cầu thang cùng với bọn họ.


      “Dược trị tâm thần được ứng dụng như thế nào?” Chuck hỏi.


      “Người ta vừa mới phê chuẩn việc sử dụng loại thuốc mới có tên là lithium, có tác dụng làm thư giãn bệnh nhân tâm thần và thuần hóa họ theo quan điểm của số người. Gông cùm vào dĩ vãng. Cả xiềng xích, còng tay. Theo những người của trường phái lạc quan thậm chí cả chấn song nữa. Trường phái cũ, dĩ nhiên, phản bác lại rằng chẳng gì có thể thay đổi phẫu thuật thần kinh, nhưng trường phái mới có vẻ mạnh hơn, tôi nghĩ thế và họ cũng có nhiều tiền hơn.”


      “Tiền ở đâu ra?”


      “Tất nhiên là từ các công ty dược phẩm rồi. Bây giờ mà mua thuốc về tích trữ sau này các vị có thể nghỉ hưu hòn đảo của riêng mình. Trường phái mới, trường phái cũ. Chúa ơi, đôi khi tôi cũng cứ huyên thuyên thế đấy.”


      “Thế ông thuộc trường phái nào?” Teddy nhàng hỏi.


      “Tin hay tùy , đặc vụ, tôi tin vào liệu pháp chuyện, vào những kỹ năng giao tiếp cơ bản. Tôi có ý tưởng cấp tiến rằng nếu chữa trị bệnh nhân với tôn trọng và chịu khó lắng nghe những gì họ muốn bày tỏ với có thể giúp được họ.”


      Lại tiếng rú nữa. Vẫn là nữ bệnh nhân lúc nãy, Teddy dám chắc thế. Tiếng rú chen vào giữa họ và có vẻ làm sao nhãng tập trung của Cawley.


      “Nhưng những bệnh nhân như thế này?” Teddy .


      Cawley mỉm cười. “Ừ, đúng là nhiều người trong số những bệnh nhân này cần phải điều trị, vài người cần phải xích lại. có gì để tranh cãi. Nhưng đó là con dốc trơn. khi đổ thuốc độc xuống giếng, làm sao có thể tách nó ra khỏi nước được nữa?”


      thể,” Teddy .


      Ông ta gật đầu. “Đúng thế. Cái nên coi là biện pháp cuối cùng lại dần dần trở thành phương pháp chữa bệnh tiêu chuẩn. Và, tôi biết là tôi bắt đầu năng lẫn lộn rồi đấy. Thiếu ngủ mà.” Ông ta quay sang nhìn Chuck rồi tiếp, “Đúng thế. Lần tới, tôi thử cái bí quyết của xem sao.”


      “Tôi nghe là nó có hiệu quả đáng kinh ngạc đấy,” Chuck và họ lại tiếp tục leo lên tầng cuối cùng.


      Trong phòng của Rachel, Cawley ngồi phịch xuống mép giường còn Chuck đứng dựa lưng vào cửa. Chuck , “Này, cần phải có bao nhiêu nhà siêu thực để vặn cái bóng đèn nhỉ?”


      Cawley nhìn ta và : “Tôi chịu. Bao nhiêu?”


      con cá,” Chuck rồi bật ra tràng cười sảng khoái.


      ngày nào đó phải trưởng thành thôi, đặc vụ,” Cawley . “Đúng ?”


      “Tôi vẫn có chút nghi ngờ về điều đó,” Chuck .


      Teddy giơ tờ giấy ra trước ngực và vỗ vỗ vào đấy để thu hút chú ý của mọi người. “Hãy thử nhìn xem.”


      LUẬT CỦA 4


      TÔI LÀ 47


      HỌ LÀ 80


      +BẠN LÀ 3


      CHÚNG TA LÀ 4


      NHƯNG


      AI LÀ 67?


      Sau phút, Cawley bỏ cuộc, “Tôi quá mệt, đặc vụ. Lúc này với tôi mọi thứ đều loằng ngoằng khó hiểu. Xin lỗi.”


      Teddy nhìn sang Chuck. Chuck cũng lắc đầu.


      “Chính là cái dấu cộng khiến tôi nghĩ nghĩ lại mãi. Hãy nhìn cái dòng ở dưới. ‘Họ là 80.’ Nếu cộng hai dòng đó lại chúng ta được gì?” Teddy .


      trăm hai mươi bảy.”


      , hai và bảy,” Teddy . “Đúng thế. Giờ cộng với dòng thứ ba. Nhưng nó lại được đặt riêng rẽ. ta muốn chúng ta giữ nguyên các phần riêng rẽ. Chúng ta cộng hai cộng bảy cộng ba. Các nghĩ ra chưa?”


      “Mười ba.” Cawley ngồi thẳng lên chút.


      Teddy gật đầu. “Con số mười ba có liên quan đặc biệt gì tới Rachel Solando? Có phải sinh nhật của ta vào ngày mười ba? Ngày cưới? Hay ngày ta giết bọn trẻ con?”


      “Tôi phải kiểm tra lại,” Cawley . “Nhưng mười ba thường là con số rất có ý nghĩa đối với những người mắc bệnh tâm thần phân liệt.”


      “Tại sao?”


      Ông ta nhún vai. “Nhiều người cũng nghĩ thế. Đó là biểu tượng của rủi ro. Phần lớn các bệnh nhân tâm thần phân liệt sống trong tình trạng sợ hãi. Đó là nhân tố đặc trưng thường thấy ở bệnh này. Vì thế đa số họ cực kỳ mê tín. Vậy nên con số mười ba có vai trò quan trọng với họ.”


      “Nghe cũng có lý,” Teddy . “Hãy nhìn con số tiếp theo. Bốn. Cộng với ba thành bốn. Nhưng để nguyên sao?”


      “Mười ba.” Chuck rời khỏi bức tường và thò đầu vào nhìn tờ giấy.


      “Và con số cuối cùng,” Cawley . “Sáu mươi bảy. Sáu và bảy cũng thành mười ba.”


      Teddy gật đầu. “Đó phải ‘Luật của bốn’ mà là ‘Luật của mười ba’. Có mười ba chữ cái trong tên của Rachel Solando.”


      Teddy nhìn Cawley và Chuck đếm nhẩm trong đầu họ. “Tiếp ,” Cawley .


      “Hiểu được quy luật này ta có thể dễ dàng lần theo dấu vết của vô số mẩu vụn bánh mì mà Rachel để lại. Những mật mã tiếp theo tuân theo những nguyên tắc cơ bản nhất của việc phiên từ chữ ra số. tương đương với chữ A. Hai với chữ B. Hai người hiểu chứ?”


      Cawley gật đầu, Chuck cũng gật theo sau giây lát.


      “Chữ cái đầu tiên trong của ấy là R. Mã của nó là số 18. A là . C là ba. H là tám. E là năm. L là mười hai. Mười tám, , ba, tám, năm và mười hai. Cộng tất cả vào hai người có gì nào?”


      “Chúa ơi,” Cawley khẽ.


      “Bốn mươi bảy,” Chuck , mắt trợn lên, nhìn chòng chọc vào tờ giấy ngực Teddy.


      “Đó là ‘Tôi’,” Cawley . “Là tên riêng của ta. Giờ tôi hiểu rồi. Nhưng còn ‘họ’ là ai?”


      “Là tên họ của ta,” Teddy . “Là tên họ của họ.”


      “Của ai cơ?”


      “Của nhà chồng ta và tổ tiên họ. Tên họ mà ta lấy theo nhà chồng, phải là tên họ khai sinh. Hoặc chính là chỉ các con ta, chúng mang họ bố. Nhưng bất cứ trường hợp nào cũng quan trọng. Dù sao đó cũng là tên họ của ta. Solando. Lấy từng chữ cái trong từ này ra chuyển thành số đếm tin tôi , các có được con số tám mươi.”


      Cawley tụt khỏi giường, cả ông ta và Chuck đứng đối diện Teddy để nhìn vào đám mật mã trước ngực .


      Chuck ngước lên nhìn vào mắt Teddy lát. “Sếp là cái quái gì vậy, Einstein à?”


      “Trước đây từng làm công việc giải mã hả, đặc vụ?” Cawley hỏi, mắt vẫn rời khỏi tờ giấy. “Trong thời kỳ chiến tranh ấy?”


      .”


      “Thế làm thế nào mà lại...?” Chuck .


      Tay Teddy mỏi nhừ vì giữ tờ giấy quá lâu trước ngực nên đặt nó xuống giường.


      “Tôi biết. Tôi giải rất nhiều ô chữ. Tôi thích giải câu đố.” nhún vai .


      “Nhưng là Tình báo Quân đội ở châu Âu, đúng ?” Cawley .


      Teddy lắc đầu. “Quân nhân thường. Chính ông, bác sĩ, ông mới là người của OSS.”


      , tôi chỉ làm vài việc tư vấn thôi,” Cawley .


      “Tư vấn kiểu gì?”


      Cawley lại cười với nụ cười trơn tuột của mình, nụ cười biến mất ngay khi vừa xuất . “Kiểu--bao-giờ-kể-lại-được.”


      “Nhưng cái mã này,” Teddy , “nó đơn giản thôi.”


      “Đơn giản?” Chuck . “ giải thích rồi mà đầu tôi vẫn ong ong.”


      “Còn với ông sao bác sĩ?”


      “Tôi biết với thế nào, đặc vụ? Tôi phải là người giải mã,” Cawley nhún vai .


      Cawley cúi đầu và đưa tay vuốt cằm khi quay lại nhìn vào đám mật mã. Bắt gặp mắt của Teddy, ánh mắt Chuck ngổn ngang những phân vân.


      Cawley , “Như vậy là chúng ta đoán ra được, à đúng hơn là , đặc vụ, ý nghĩa của hai con số bốn bảy và tám mươi. Chúng ta cũng chắc rằng tất cả những dấu vết khác đều là hoán vị của con số mười ba. Nhưng còn “ba” sao?”


      “Lại nữa,” Teddy , “hoặc là con số này ám chỉ chúng ta, trong trường hợp ta có khả năng đoán trước tương lai...”


      chắc vậy.”


      “Hoặc là chỉ ba đứa con của ta.”


      “Tôi thấy cái này còn có lý ”


      “Cộng Rachel với số ba đó...”


      ra dòng tiếp theo,” Cawley . “Chúng ta là bốn.”


      “Thế ai là sáu mươi bảy?”


      Cawley nhìn sang phía . “ quá đấy chứ?”


      Teddy lắc đầu.


      Cawley lấy ngón tay vuốt dọc theo mép phải tờ giấy. “ có con số nào cộng vào thành sáu mươi bảy à?”


      .”


      Cawley xoa đầu, đứng thẳng người lên rồi hỏi, “ cũng có giả thiết nào sao?”


      “Đây là cái mã duy nhất tôi thể nào giải được. Cho dù nó ám chỉ cái gì nữa cũng thuộc phạm vi hiểu biết của tôi, điều đó khiến tôi nghĩ nó hẳn có liên quan tới hòn đảo này. Bác sĩ, ông sao?”


      “Tôi, gì cơ?”


      “Ông có giả thiết nào ?”


      . Tôi còn chẳng giải được cái dòng đầu tiên nữa là.”


      “Đúng là ông có thế . Mệt mỏi và gì gì đó.”


      “Cực kỳ mệt mỏi, đặc vụ.” Ông ta với cái nhìn xoáy vào mặt Teddy, rồi về phía cửa sổ nhìn ra ngoài trời mưa xối xả như những tấm màn dày đặc ngăn cách hòn đảo với thế giới bên ngoài. “Đêm qua .”


      “Ngay chuyến phà đầu tiên,” Teddy dối.


      “Nhưng có chuyến phà nào ngày hôm nay. Tôi dám chắc về điều đó.”


      “Thế ngày mai vậy. Hoặc là ngày kia.” Teddy . “Ông vẫn nghĩ rằng ta ở đâu đó ngoài kia chứ? Trong cái cảnh mưa gió này?”


      ,” Cawley . “Tôi nghĩ thế.”


      ta ở đâu?”


      Ông ta thở dài. “Tôi biết, đặc vụ ạ. Đó phải là chuyên môn của tôi.”


      Teddy cầm tờ giấy lên. “Đây là chìa khóa. hướng dẫn cho việc giải các mật mã tiếp theo. Tôi cược là thế, bằng cả tháng lương của mình.”


      “Và nếu đúng là như thế sao?”


      phải là ta tìm cách chạy trốn, bác sĩ. ta chỉ muốn mang chúng tôi tới đây. Tôi nghĩ là còn có thêm các mật mã khác nữa.”


      “Nhưng phải ở trong cái phòng này,” Cawley .


      . Nhưng có thể ở trong tòa nhà này. Hay ở hòn đảo này.”


      Cawley hít hơi rất sâu như thể hút cạn khí ở trong căn phòng, rồi đứng tì tay vào bậu cửa sổ, trông giống như cái xác chẳng còn chút sinh khí nào, khiến Teddy băn khoăn hiểu chuyện gì khiến ông ta mất ngủ đêm qua.


      ta mang các tới đây?” Cawley . “Để làm gì?”


      “Ông xem.”


      Cawley nhắm mắt lại và đứng yên lúc lâu khiến Teddy bắt đầu nghĩ hiểu có phải ông ta ngủ quên mất hay .


      Rồi ông ta mở mắt ra, nhìn hai người bọn họ và . “Tôi có ngày làm việc bận rộn. Các cuộc họp nhân viên, họp ngân quỹ với ban quản giáo, họp về việc duy trì tình trạng khẩn cấp trong trường hợp cơn bão này tấn công chúng ta. Các hẳn hài lòng khi biết tôi cố thu xếp cho cả hai chuyện với tất cả bệnh nhân cùng nhóm điều trị với Solando trong cái đêm ấy mất tích. Những cuộc phỏng vấn có thể bắt đầu trong mười lăm phút tới. Các vị, tôi đánh giá cao có mặt của các vị ở đây. Tôi rất lòng. Tôi cố gắng hết sức mình cho dù điều đó có được người khác nhìn nhận hay .”


      “Vậy hãy đưa cho tôi hồ sơ cá nhân của bác sĩ Sheehan.”


      “Tôi thể làm được. Dứt khoát là .” Ông dựa đầu vào tường rồi tiếp, “Đặc vụ, tôi cầu người trực tổng đài cố liên lạc với ấy. Nhưng giờ chúng tôi thể nối liên lạc với bất kỳ ai. Theo chúng tôi được biết cả bờ biển phía Đông chìm dưới nước. Kiên nhẫn, các vị. Đó là tất cả những gì tôi cầu. Chúng ta tìm thấy Rachel hoặc chúng ta tìm ra chuyện gì xảy đến với ấy.” Ông ta nhìn đồng hồ đeo tay. “Tôi muộn mất rồi. Có chuyện gì nữa , hay chúng ta có thể sau?”


      HỌ ĐỨNG DƯỚI MÁI CHE bên ngoài bệnh viện, mưa quất ngang tầm nhìn của họ thành những tấm màn dày đặc, rộng như những toa tàu.


      nghĩ là ông ta biết ý nghĩa của con số sáu mươi bảy?” Chuck hỏi.


      “Ừ.”


      nghĩ là ông ta giải được mật mã đó trước cả ?”


      “Tôi nghĩ ông ta từng là nhân viên OSS. Ông ta hẳn phải có biệt tài nào đó để làm việc cho cái Cục ấy.”


      Chuck lấy tay lau nước mưa mặt rồi khẽ vẩy tay cho nước rơi xuống đất. “Họ có bao nhiêu bệnh nhân ở đây nhỉ?”


      “Ở đây cũng ,” Teddy .


      “Phải.”


      “Bao nhiêu, có lẽ khoảng hai mươi nữ, ba mươi nam thôi nhỉ?”


      “Cũng nhiều lắm.”


      nhiều.”


      “Dù sao cũng tới sáu mươi bảy.”


      Teddy quay lại nhìn ta. “Nhưng mà...” .


      “Đúng thế,” Chuck . “Nhưng.”


      Rồi hai người họ nhìn về hướng rặng cây và phía sau nó, ngọn pháo đài chống chọi với cơn bão, mờ mờ ảo ảo như bức vẽ bằng chì than trong căn phòng đầy khói.


      Teddy nhớ lại những gì Dolores trong giấc mơ về việc đếm số giường bệnh.


      hiểu có bao nhiêu bệnh nhân bị đưa lên đó, cậu nghĩ sao?”


      “Tôi biết,” Chuck . “Phải hỏi vị bác sĩ hữu ích của chúng ta.”


      “Ừ, phải, ông ta vừa mới rú lên cái từ ‘hữu ích’ đúng nhỉ?”


      “Này, sếp.”


      “Gì?”


      “Từ trước tới nay, bao giờ sếp tới cơ sở liên bang nào phí phạm tới mức này chưa?”


      “Là thế nào?”


      “Năm mươi bệnh nhân ở hai khu? Trong khi sếp nghĩ thử xem những tòa nhà này có thể chứa bao nhiêu người? Hơn vài trăm ấy chứ?”


      “Ít nhất.”


      “Rồi tỉ lệ nhân viên và bệnh nhân. Cứ mỗi bệnh nhân có từ tới hai nhân viên chăm sóc. Sếp thấy thế bao giờ chưa?”


      “Cái này phải là chưa.”


      Cả hai cùng nhìn xuống nền đất xì xèo dưới mưa.


      “Cái chỗ này là chỗ quái quỷ gì thế biết?” Chuck .


      CUỘC PHỎNG VẤN ĐƯỢC TIẾN HÀNH ở khu nhà ăn, Chuck và Teddy ngồi ở chiếc bàn phía cuối phòng. Hai hộ lý ngồi gần đó để theo dõi các bệnh nhân còn Trey Washington chịu trách nhiệm dẫn từng người vào gặp họ rồi lại đưa khi hỏi xong.


      Người đầu tiên là kẻ thân tàn ma dại, râu ria lởm chởm, mắt liên tục chớp và máy. ta ngồi thu người lại như con sam biển, gãi tay sồn sột và tránh nhìn vào mắt họ.


      Teddy nhìn vào trang giấy cùng đống tài liệu mà Cawley đưa cho , chỉ là những phác thảo từ trí nhớ của Cawley chứ phải hồ sơ bệnh nhân chính thức. chàng này được đưa lên đầu danh sách, tên ta là Ken Gage, bị gửi tới đây do tấn công người lạ tại lối của cửa hàng tạp phẩm nằm ở góc phố, dùng hộp đậu đánh vào đầu nạn nhân và trong lúc hành hung luôn miệng khẽ “Đừng đọc thư của tôi nữa.”


      “Ken này,” Chuck . “ thấy trong người thế nào?”


      “Tôi bị cảm lạnh. Tôi bị cảm lạnh ở chân.”


      “Tôi rất tiếc.”


      “Vâng, khi rất đau.” Ken gãi gãi xung quanh mụn ghẻ tay, ban đầu có vẻ nhàng như thăm dò để xác định kích thước của nó.


      có mặt trong nhóm điều trị tối hôm kia ?”


      “Tôi bị cảm ở chân và khi rất đau.”


      “Thế có cần tất chân ?” Teddy cố hỏi. để ý thấy hai hộ lý nhìn về phía họ cười khúc khích.


      “Có, tôi muốn có mấy đôi tất, tôi muốn có mấy đôi tất, tôi muốn có mấy đôi tất.” ta thầm, đầu vẫn cúi gằm, hơi lắc lư.


      “Được thôi, chúng tôi kiếm cho . Chúng tôi chỉ muốn biết nếu ...”


      “Chỉ là nó quá lạnh. Trong chân tôi á? Nó lạnh và khi rất đau.”


      Teddy nhìn sang Chuck. Chuck mỉm cười với hai người hộ lý khi tiếng khúc khích của họ bắt đầu vang tới tận bên bàn ngồi.


      “Ken,” Chuck . “Ken này, có thể nhìn tôi được ?”


      Ken vẫn cúi gằm, đầu lắc lư mạnh hơn. Móng tay của ta cạy toạc cái mụn ghẻ và vệt máu rỉ ra giữa đám lông tay.


      “Ken?”


      “Tôi được. phải như thế này. phải như thế này. Nó quá lạnh, lạnh, lạnh.”


      “Ken, nghe này, nhìn tôi .”


      Ken giáng cú đấm xuống bàn.


      Hai hộ lý đứng dậy trong lúc Ken , “Đáng lẽ nó đau. Đáng lẽ là . Nhưng họ muốn thế. Họ lấp đầy khí bằng giá lạnh. Họ bơm nó vào đầu gối tôi.”


      Hai hộ lý tiến tới bên bàn nhìn Chuck qua vai Ken. Người hộ lý da trắng , “Các xong rồi chứ, hay muốn nghe thêm về chân cẳng ta?”


      “Chân tôi bị lạnh.”


      Người hộ lý da đen khẽ nhướng bên mày. “Thôi được rồi Kenny. Chúng tôi dẫn tới phòng Thủy lực và làm ấm lên tức .”


      “Tôi ở đây năm năm. Chủ đề vẫn thay đổi,” người hộ lý da trắng .


      hề?” Teddy hỏi.


      “Khi rất đau.”


      hề,” người hộ lý .


      đau vì họ để cái lạnh vào chân tôi...”


      BỆNH NHÂN TIẾP THEO là Peter Breene, hai mươi sáu tuổi, tóc vàng, mập lùn. người thích cắn móng tay và bẻ các đốt tay kêu răng rắc.


      làm gì ở đây hả Peter?”


      Peter nhìn qua bàn về phía Chuck và Teddy với đôi mắt có vẻ như luôn ướt át. “Lúc nào tôi cũng sợ.”


      “Sợ gì cơ?”


      “Mọi thứ.”


      “Thế à!”


      Peter gác chân trái lên đầu gối bên phải, tay giữ lấy cổ chân rồi cúi người ra phía trước. “Nghe có vẻ ngu ngốc nhưng mà tôi rất sợ đồng hồ. Chúng kêu tíc tắc. Chúng chui vào trong đầu . Bọn chuột cống làm tôi sợ.”


      “Tôi cũng thế,” Chuck .


      “Vậy sao?” Peter , giọng tươi tỉnh hẳn ra.


      “Mẹ kiếp, đúng thế. Cái lũ chít chít khốn kiếp ấy. Chỉ cần nhìn thấy con muốn vãi đái ra quần.”


      “Thế đừng ra ngoài bức tường lúc buổi đêm, nhé,” Peter . “Chúng có mặt ở khắp mọi nơi.”


      “Biết thế. Cảm ơn nhé.”


      “Bút chì,” Peter . “Cái đầu bút chì ấy, biết ? Kêu xoèn xoẹt giấy. Tôi sợ .”


      “Tôi á?”


      ,” Peter và hất cằm về phía Teddy. “ ta.”


      “Tại sao?” Teddy hỏi.


      Peter nhún vai. “ cao lớn. Tóc húi cua trông hắc ám. có thể tự lo liệu cho bản thân mình. Các khớp xương của đáng sợ. Bố tôi cũng giống như thế. Ông ấy vết sẹo nào. Tay của ông ấy trơn nhẵn. Nhưng mà trông ông ấy rất hắc ám. Các em trai của tôi cũng vậy. Họ thường đánh tôi.”


      “Tôi đánh đâu,” Teddy .


      “Nhưng mà có thể. thấy thế sao? có cái quyền lực đó. Còn tôi . Điều đó khiến tôi yếu ớt. Yếu ớt khiến tôi sợ hãi.”


      “Và khi sợ hãi?”


      Peter vẫn tóm lấy mắt cá chân, cả người đung đưa từ trước ra sau, mớ tóc xòa xuống trán. “ ta tử tế thôi. Tôi cũng có ý gì cả. Nhưng ta làm tôi sợ với bộ ngực đồ sộ của ta, cái cách ta có thể di chuyển trong chiếc váy màu trắng đó, tới nhà chúng tôi mỗi ngày. ta nhìn tôi như thể... có biết cái nụ cười người ta thường dành cho trẻ con ? ta cười với tôi như thế. Mà ta chỉ bằng tuổi tôi. À, phải, hình như có hơn vài tuổi, nhưng mà vẫn ở độ tuổi hai mươi. Và ta có quá nhiều kinh nghiệm tình dục. Mắt ta lên điều đó cách rệt. ta thích được trần truồng. Và rồi ta hỏi tôi xem ta có thể dùng ly nước . ta ở mình trong bếp với tôi mà cứ như là có chuyện gì lớn?”

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Teddy khẽ gạt tập hồ sơ để Chuck có thể nhìn thấy ghi chép của Cawley:

      Bệnh nhân hành hung y tá của bố mình bằng chiếc ly vỡ. Nạn nhân bị trọng thương, ám ảnh kinh niên. Bệnh nhân thừa nhận trách nhiệm đối với hành động của mình.

      “Chỉ vì ta làm tôi sợ,” Peter . “ ta muốn tôi lôi cái đó của mình ra để ta có thể cười nhạo. với tôi rằng tôi chẳng bao giờ có người đàn bà nào, chẳng bao giờ có con cái, chẳng bao giờ là người đàn ông thực thụ? Là thế đấy, nếu tôi nghĩ các biết mà, các có thể đọc được điều đó mặt tôi - rằng tôi làm đau dù chỉ con muỗi. Đó phải là tôi. Nhưng khi tôi trở nên sợ hãi? Ôi, trí óc tôi.”

      “Nó làm sao?” Chuck giọng vỗ về.

      chưa từng nghĩ tới nó à?”

      “Trí óc của hả?”

      “Trí óc,” ta . “Của tôi, của , của bất kỳ ai. Về cơ bản, nó là động cơ. Chính thế. cái mô tơ cực kỳ phức tạp và tinh xảo. Với tất cả những bộ phận khác nhau, số, bu lông và khớp nối. Chúng ta thậm chí biết tới nửa số chúng là cái gì. Nhưng chỉ cần trượt số, chỉ thôi... Các có bao giờ nghĩ tới điều đó ?”

      “Gần đây .”

      nên. Nó giống như chiếc xe ô tô. khác gì. Sai số, lỏng bu lông là cả hệ thống trở nên rối rắm. Các có biết rằng...” ta dừng lại gõ tay vào thái dương trước khi tiếp, “rằng tất cả đều mắc ở trong này và cách nào có thể đụng tới hay điều khiển nó. Mà nó điều khiển , đúng chứ? Và nếu ngày nào đó nó quyết định rằng nó thích hoạt động nữa?” ta vươn người về phía trước và họ có thể nhìn thấy những đường gân nổi lên cổ ta. “ khốn khổ khốn nạn đấy, có đúng ?”

      cách nhìn thú vị,” Chuck .

      Peter dựa lại lưng vào ghế, có vẻ bình tĩnh cách bất ngờ. “Đó là điều tôi sợ nhất.”

      Teddy với những cơn đau nửa đầu khiến phần nào hiểu được thiếu tự chủ của người đối với trí óc mình nên lý thuyết có thể nhượng bộ quan điểm của Peter, nhưng thực tế chỉ muốn siết lấy cổ họng tên nhãi ranh đó, nhấc lên rồi ném vào trong những chiếc lò nướng ở cuối nhà ăn và hỏi về y tá tội nghiệp mà cắt xẻo nhiều nhát.

      Mày thậm chí có nhớ tên ấy , Peter? Theo mày ấy sợ gì? Hả? Mày. Thế đấy! Cố gắng hoàn thành ngày làm việc trung thực để kiếm sống. Có thể ấy có con cái, có người chồng. Có lẽ họ cố gắng dành dụm đủ tiền cho trong mấy đứa con vào đại học, để nó có cuộc sống tốt đẹp hơn. giấc mơ bé.

      Nhưng, , thằng quý tử khốn kiếp con nhà giàu nào đó quyết định giấc mơ của ấy thể thành thực. Rất tiếc, nhưng được. có cuộc sống bình thường nào cho , thưa . bao giờ nữa.

      Teddy nhìn qua bàn về phía Peter Breene và chỉ muốn thụi cho quả ngay giữa mặt, mạnh tới mức các bác sĩ tìm được mẩu xương nào trong mũi nữa. Táng mạnh khiến bao giờ quên được cái thanh của cú đấm đó.

      Tuy nhiên, chỉ đóng hồ sơ lại và , “ tham dự nhóm điều trị đêm hôm kia với Rachel Solando. Đúng ?”

      “Có, tôi có tham gia, thưa ngài.”

      có nhìn thấy ta lên phòng của mình ?”

      . Nam giới trước. ấy vẫn còn ngồi lại với Bridget Kearns và Leonora Grant và cái y tá đó.”

      y tá đó?”

      Peter gật đầu. “Cái tóc đỏ ấy. Đôi khi tôi cũng quý ta. ta có vẻ chân thành. Nhưng những lúc khác , biết ?”

      , biết,” Teddy , cố giữ giọng trơn tru như Chuck vẫn thường làm.

      “Nhưng mà có nhìn thấy ta đúng ?”

      “Có. lại xem tên ta là gì nhỉ?”

      ta cần cái tên. Loại phụ nữ đó ư? có tên nào dành cho ta cả. Con Nhơ nhuốc. Đó là tên của ta.”

      “Nhưng mà Peter,” Chuck lên tiếng. “Tôi tưởng vừa quý ấy.”

      “Tôi thế lúc nào?”

      phút trước đây.”

      “Úi, ta là đồ rác rưởi. Đồ đĩ rạc.”

      “Để tôi hỏi chuyện khác.”

      “Dơ dáy, dơ dáy, dơ dáy.”

      “Peter?”

      Peter ngước nhìn Teddy.

      “Tôi có thể hỏi cái này được ?”

      “Ồ, tất nhiên.”

      “Có gì bất thường xảy ra trong nhóm điều trị đêm hôm đó ? Rachel Solando có gì hay làm gì khác với ngày thường ?”

      ta chẳng lấy lời. ta là con chuột. ta chỉ ngồi đó. ta giết con của mình đấy, biết rồi. Ba đứa. có tin nổi ? Loại người gì mà có thể làm được chuyện đó? Nếu ngại, thưa ngài, tôi xin nhắc, đó là những kẻ bệnh hoạn thế giới này.”

      “Ai cũng có vấn đề,” Chuck . “ số nghiêm trọng hơn những người khác. Bị bệnh, giống như đấy. Họ cần được giúp đỡ.”

      “Chúng cần hơi ngạt có,” Peter .

      “Gì cơ?”

      “Hơi ngạt,” Peter với Teddy. “Hơi ngạt cho bọn biến thái. Hơi ngạt cho bọn giết người. Giết con của chính mình ư? Hơi ngạt cho con chó cái ấy.”

      Rồi cả ba ngồi im lặng. Mặt Peter rạng rỡ như thể ta vừa thắp sáng thế giới này cho họ. lúc sau ta vỗ bàn rồi đứng dậy.

      “Hân hạnh được gặp các vị, quý ngài. Tôi phải thôi.”

      Teddy vớ lấy cái bút chì và bắt đầu vẽ nguệch ngoạc tấm bìa hồ sơ khiến Peter dừng phắt lại và quay sang nhìn .

      “Peter,” Teddy .

      “Vâng?”

      “Tôi...”

      có thể dừng cái đó lại ?”

      Teddy chậm rãi vạch những nét dài các chữ cái tên ta lên tấm bìa cứng. “Tôi băn khoăn liệu...”

      “Xin có thể, làm ơn...”

      Teddy nhìn lên, tay vẫn đưa nét bút trượt dài giấy.

      “Sao?”

      “... dừng cái đó lại.”

      “Cái gì cơ?” Teddy nhìn ta rồi lại nhìn xuống hồ sơ. nhấc chiếc bút chì lên, nhíu bên mày.

      “Đúng thế. Làm ơn. Cái đó.”

      Teddy đặt chiếc bút chì xuống. “Tốt hơn chứ?”

      “Cảm ơn .”

      “Peter, có biết bệnh nhân tên là Andrew Laeddis?”

      .”

      ư? Ở đây có ai tên như vậy à?”

      Peter nhún vai. “Ở Khu A . ta có thể ở Khu C. Bọn tôi ở lẫn với chúng. Chúng điên bỏ mẹ.”

      “Thôi được rồi, cảm ơn Peter,” Teddy rồi cầm bút chì lên tiếp tục vẽ nguệch ngoạc.

      SAU PETER BREENE, họ phỏng vấn tới Leonora Grant. Leonora mực tin rằng ta là Mary Pickford và Chuck là Douglas Fairbanks còn Teddy là Charlie Chaplin. ta cho rằng cái nhà ăn này chính là văn phòng Đại lộ Sunset và ba người bọn họ ở đây để bàn chuyện tung ra thị trường cổ phiếu phổ thông của Hiệp hội Nghệ sĩ Liên bang. ta cứ vuốt ve mu bàn tay Chuck và hỏi ai là người ghi lại biên bản cuộc họp. Cuối cùng, các hộ lý phải lôi tay Leonora ra khỏi cổ tay Chuck trong khi ta vừa khóc vừa , “Vĩnh biệt, , vĩnh biệt.”

      được nửa phòng ăn ta vùng thoát khỏi hai hộ lý, quay trở lại bàn của hai người, tóm lấy tay Chuck và , “Đừng quên cho mèo ăn nhé!”

      Chuck nhìn thẳng vào mắt ta rồi , “Nhớ rồi.”

      Sau đó, họ gặp Arthur Toomey, người cứ nằng nặc đòi gọi ta là Joe. Joe ngủ gật suốt buổi chữa bệnh hôm trước. Joe, hóa ra là người mắc chứng ngủ rũ. Trong lúc chuyện với họ, ta ngủ quên hai lần, và là lần thứ hai thứ ba gì đấy trong ngày.

      Từ lúc đó, Teddy bắt đầu có những cảm nhận về khu bệnh viện nằm ở phía sau lưng . Cảm giác ấy khiến đầu óc nhột nhạt cho dù thấy cảm thông với hầu hết các bệnh nhân ở đây, trừ Breene, vẫn hết băn khoăn tại sao người ta có thể làm việc được ở nơi thế này.

      Trey thong thả quay lại chỗ họ với phụ nữ nhắn, tóc vàng và có khuôn mặt rất cân xứng. Mắt ta ánh lên vẻ minh mẫn. Đó phải là cái vẻ minh mẫn của người điên mà là cái minh mẫn thường trực ở phụ nữ thông minh sống trong thế giới kém thông minh hơn. ta mỉm cười và khẽ ngượng ngập vẫy tay chào hai người họ trước khi ngồi xuống ghế.

      Teddy nhìn xuống bản ghi chép của Cawley - Bridget Kearns.

      “Tôi bao giờ ra khỏi đây,” ta vài phút sau đó. ta có thói quen dập thuốc khi chỉ hút tới nửa, giọng ta nhàng, tự tin. Hơn mười năm trước, ta giết chồng mình bằng cái rìu.

      “Tôi cũng chắc là tôi có nên nữa,” ta .

      “Sao lại thế?” Chuck . “Ý tôi là, thứ lỗi cho tôi hỏi thế, Kearns...”

      “Bà.”

      “Bà Kearns. Thứ lỗi cho tôi nhưng với tôi bà trông hoàn toàn bình thường.”

      ta ngồi dựa lưng vào ghế với cái vẻ thoải mái như tất cả bệnh nhân trước đó rồi cười khẽ. “Tôi cũng đoán thế. Nhưng lúc mới đến đây tôi được vậy. Ôi Chúa ơi! may là họ chụp ảnh. Người ta chẩn đoán tôi mắc chứng điên loạn do trầm uất và tôi có lý do gì để nghi ngờ điều đó. Đúng là tôi có những ngày đen tối trong đời. Nhưng tôi nghĩ ai cũng vậy. khác biệt là hầu hết mọi người giết chồng họ bằng cái rìu. Người ta bảo tôi có những xung đột gay gắt, giải quyết nổi với cha mình. Điểm này tôi cũng đồng ý. Tôi ngờ rằng tôi ra khỏi đây và giết thêm người nào đó nhưng chẳng ai có thể trước điều gì.” ta dừng lại, chĩa đầu thuốc lá về phía họ. “Tôi cho rằng nếu người đàn ông thường xuyên đánh đập bạn và ngủ với phân nửa số phụ nữ gặp, mà có ai đứng ra bênh vực bạn việc lấy rìu bổ cho nhát cũng có gì là khó hiểu.”

      ta bắt gặp ánh mắt của Teddy và có cái gì đó trong mắt ta, vẻ bối rối thẹn thùng kiểu nữ sinh trung học, khiến bật cười.

      “Gì vậy?” ta và cười với .

      “Có lẽ cũng nên rời hòn đảo !” .

      vậy vì là đàn ông.”

      quá đúng.”

      “Vậy tôi cũng chẳng thể trách .”

      Có thể cười đùa chút sau khi gặp Peter Breene là dễ chịu và Teddy tự hỏi liệu có phải ít nhiều tán tỉnh ta hay . bệnh nhân thần kinh. kẻ giết chồng bằng rìu. Có cái gì đó tiếp diễn, Dolores. Nhưng tất cả điều ấy hề khiến khó chịu, như thể sau hai năm trời tiếc thương đằng đẵng, có quyền đối đáp đùa cợt vô hại chút với phụ nữ khác.

      “Tôi làm gì nếu tôi ra khỏi đây?” Bridget . “Tôi chẳng biết gì về thế giới ở bên ngoài nữa. Bom, tôi nghe vậy. Những trái bom có thể biến cả thành phố thành tro bụi. Và vô tuyến. Họ gọi chúng thế đúng ? Có tin đồn là mỗi khu trị bệnh chiếc và chúng tôi có thể xem phim ảnh đó. Tôi biết liệu tôi có thích như vậy. Những giọng vang ra từ cái hộp. Những khuôn mặt nhìn thấy từ cái hộp. Tôi nghe đủ loại giọng và nhìn đủ loại mặt mỗi ngày. Tôi chẳng cần thêm ồn ĩ làm gì.”

      có thể kể cho chúng tôi nghe về Rachel Solando ?” Chuck hỏi.

      ta dừng lại. Đúng hơn là khựng lại và Teddy thấy ta khẽ chớp mắt như thể tìm kiếm trong đầu câu trả lời chính xác. Teddy viết hai chữ “ dối” vào quyển sổ ghi chép của mình rồi lấy cườm tay che chúng lại ngay khi viết xong.

      Từ ngữ của ta bắt đầu tuôn ra cách thận trọng hơn và bốc đầy mùi dối trá.

      “Rachel khá tử tế. ta rất khép mình. ta về mưa khá nhiều, nhưng phần lớn thời gian chẳng gì cả. ta tin rằng các con mình vẫn sống. ta tin rằng ta sống ở Berkshires và tất cả chúng tôi đều là hàng xóm, là người đưa thư, giao hàng, bán sữa. khó để có thể hiểu được ta.”

      Đầu ta cúi gằm khi những lời này và tránh nhìn vào mắt Teddy khi hết câu. ta rời mắt khỏi khuôn mặt và nhìn xuống bàn rồi châm điếu thuốc khác.

      Teddy nghĩ về những điều mà ta vừa và nhận ra những gì ta miêu tả về chứng ảo giác của Rachel giống hệt như những gì Cawley với họ hôm qua.

      ta ở đây được bao lâu rồi?”

      “Hả?”

      “Rachel ấy. ta ở Khu B với được bao lâu rồi?”

      “Ba năm à? Khoảng đó, tôi nghĩ thế. Tôi chẳng còn khái niệm gì về thời gian nữa. Ở đây chuyện đó dễ xảy ra lắm.”

      “Trước đó ta ở đâu?” Teddy hỏi.

      “Khu C, tôi nghe thế. Tôi nghĩ là ta được chuyển sang đây.”

      “Nhưng chắc lắm?”

      . Tôi... Lại nữa, tôi lại nhớ nổi.”

      sao. Có gì bất thường xảy ra vào lần cuối cùng nhìn thấy ta ?”

      .”

      “Là ở trong nhóm điều trị.”

      “Gì cơ?”

      “Lần cuối cùng nhìn thấy ta,” Teddy . “Là ở trong nhóm điều trị đêm hôm kia.”

      “Vâng, vâng.” ta gật đầu mấy lần và gạt đám tàn thuốc vào rìa chiếc gạt tàn. “Trong nhóm điều trị.”

      “Và tất cả các lên phòng cùng nhau?”

      “Với ông Ganton, phải.”

      “Đêm đó, trông bác sĩ Sheehan thế nào?”

      ta ngẩng mặt lên, Teddy thấy bối rối và có lẽ cả chút sợ hãi nữa gương mặt ta. “Tôi hiểu ý định gì?”

      “Bác sĩ Sheehan có mặt trong buổi tối hôm đó đúng ?”

      ta nhìn sang Chuck rồi lại nhìn Teddy, cắn môi đoạn , “Vâng, ấy có ở đó.”

      “Trông ta thế nào?”

      “Bác sĩ Sheehan à?”

      ấy bình thường. Tử tế. Đẹp trai.”

      “Đẹp trai?”

      “Vâng. ấy... khó nhìn, như mẹ tôi vẫn thường hay .”

      ta có bao giờ tán tỉnh ?”

      ?”

      “Có cố tiếp cận ?”

      , , . Bác sĩ Sheehan là bác sĩ tốt.”

      “Còn đêm hôm đó?”

      “Đêm đó à?” ta suy nghĩ lát rồi , “Chẳng có gì bất thường xảy ra tối đó cả. Chúng tôi về, hừm, kiềm chế giận dữ phải? Và Rachel lại than vãn về trời mưa. Bác sĩ Sheehan rời ngay trước khi nhóm chữa bệnh giải tán, ông Ganton dẫn chúng tôi lên phòng và chúng tôi ngủ, tất cả chỉ có thế.”

      Teddy viết thêm: “được mớm lời” và gạch chân chữ “ dối” trong cuốn sổ ghi chép, rồi gấp lại.

      “Tất cả chỉ có thế?”

      “Vâng. Và sáng hôm sau Rachel khỏi.”

      “Sáng hôm sau?”

      “Vâng. Tôi thức dậy và nghe rằng ấy bỏ trốn.”

      “Nhưng đêm hôm đó? Khoảng mười hai giờ, cũng nghe thấy rồi mà, đúng ?”

      “Nghe gì cơ?” ta dụi tắt điếu thuốc và vẩy tay cho tàn bụi dính đó bay .

      “Báo động. Khi người ta phát ta biến mất.”

      . Tôi...”

      “Những tiếng la hét, tiếng lính gác chạy rầm rập từ mọi phía, tiếng chuông báo động.”

      “Tôi nghĩ là mình nằm mơ.”

      “Nằm mơ?”

      ta gật đầu cái rụp. “Phải, cơn ác mộng.” ta nhìn sang phía Chuck, “Cho tôi ly nước được ?”

      “Được thôi.” Chuck rồi đứng dậy nhìn quanh và thấy dãy ly ở phía cuối nhà ăn bên cạnh cái bình đựng nước bằng thép.

      trong hai người hộ lý nhô người ra khỏi ghế của mình, “Đặc vụ?”

      “Chỉ lấy chút nước thôi mà. có gì đâu.”

      Chuck tới bên cái bình đựng nước, chọn chiếc ly và mất vài giây để quyết định xem đâu là vòi nước và đâu là vòi sữa.

      Trong khi Chuck kéo chiếc cần gạt nước có hình giống như cái vuốt bằng sắt Bridget Kearns chộp lấy sổ tay và bút chì của Teddy. ta nhìn chăm chú, mắt rời khỏi mắt , và lật trang trắng ra viết nguệch ngoạc vài chữ vào đó trước khi gấp lại rồi đẩy cả sổ lẫn bút về phía .

      Teddy trao cho ta cái nhìn dò hỏi nhưng ta cụp mắt xuống và bắt đầu vuốt ve bao thuốc của mình với vẻ thờ ơ.

      Chuck trở lại với ly nước và ngồi xuống. Hai người cùng nhìn Bridget uống hết nửa ly nước rồi với họ, “Cảm ơn . Các còn hỏi gì nữa ? Tôi nghĩ là mình bắt đầu mệt rồi.”

      bao giờ gặp bệnh nhân tên là Andrew Laeddis chưa?” Teddy hỏi.

      Mặt ta có biểu gì. có bất kỳ biểu nào. Như thể gương mặt của ta vừa biến thành thạch cao. Hai tay ta úp chặt xuống mặt bàn như thể nếu chúng di chuyển chiếc bàn bay lên trần mất.

      Teddy biết tại sao nhưng dám thề rằng ta chỉ chực bật khóc.

      ,” ta . “Chẳng bao giờ nghe thấy tên ta.”

      NGHĨ LÀ TA được mớm lời?” Chuck hỏi.

      “Cậu nghĩ vậy sao?”

      “Ừ phải, nghe có vẻ hơi khiên cưỡng.”

      Họ trong hành lang có mái che nối liền bệnh viện Ashecliffe với Khu B, mưa hắt cả vào người họ.

      “Hơi ư? Có đôi lúc, ta sử dụng chính xác những từ mà Cawley . Khi chúng ta hỏi về chủ đề của nhóm chữa bệnh ta dừng lại rồi ‘kiềm chế giận dữ phải?’ như thể ta chắc chắn. Như thể ta thi trắc nghiệm và mất cả đêm qua để nhồi nhét các đáp án có sẵn vào đầu.”

      “Để làm gì?”

      “Tôi mà biết được tại sao chẳng có chuyện,” Teddy . “Tất cả những gì tôi có chỉ là những nghi vấn. Cứ chừng nửa tiếng lại có thêm ba mươi câu hỏi nữa mọc ra.”

      “Đồng ý,” Chuck . “Nhưng này, tôi cũng có câu hỏi cho sếp, Andrew Laeddis là ai?”

      “Cậu cũng để ý tới chuyện đó hả?” Teddy vừa vừa châm trong những điếu thuốc mà thắng được từ canh bạc lần trước.

      “Bệnh nhân nào sếp chẳng hỏi câu đó.”

      “Đâu có hỏi Ken hay Leonora Grant.”

      “Teddy, hai người đó thậm chí còn biết họ sống ở hành tinh nào nữa.”

      “Đúng thế.”

      “Sếp, tôi là đồng của sếp.”

      Teddy đứng dựa lưng vào bức tường đá, Chuck cũng lẳng lặng làm theo. Teddy quay đầu sang nhìn Chuck.

      “Chúng ta chỉ mới gặp,” .

      “À, sếp tin tôi.”

      “Tôi tin cậu, Chuck. đấy. Nhưng tôi là người phá vỡ nguyên tắc ở đây. Chính tôi cầu được nhận vụ này. Ngay khi nó được thông báo ở văn phòng liên bang.”

      sao?”

      có nghĩa động cơ của tôi hoàn toàn khách quan.”

      Chuck gật đầu, châm điếu thuốc, và suy nghĩ trong giây lát. “Bạn tôi, Julie-Julie Taketomi, tên đầy đủ của ấy là thế, ấy là người Mỹ giống như tôi vậy. lấy từ tiếng Nhật. Quỷ tha ma bắt, gia đình ấy ở cái đất nước này từ hai thế hệ trước. Vậy mà họ nhốt ấy vào trong cái trại và rồi...” tới đây ta khẽ lắc đầu, búng tàn thuốc ra ngoài trời mưa rồi kéo áo sơ mi lên để lộ vết sẹo phía hông phải. “Nhìn xem, Teddy. vết sẹo khác của tôi.”

      Teddy nhìn vết sẹo. Nó dài và sẫm như miếng thạch, dày bằng ngón tay cái.

      “Tôi cũng bị vết sẹo này từ chiến tranh. Mà là trong khi làm việc cho đội tầm nã. Bước vào cửa ngôi nhà ở Tacoma. Cái gã mà chúng tôi truy bắt tặng tôi nhát gươm. có tin ? Gươm mới tởm chứ. Tôi nằm viện mất ba tuần cho họ khâu lại ruột. Vì phục vụ đội tầm nã liên bang Mỹ đấy Teddy. Vì tổ quốc. Thế mà họ đuổi tôi khỏi khu vực tôi sinh ra và lớn lên chỉ vì tôi phụ nữ Mỹ có đôi mắt và làn da châu Á.” ta nhét lại áo vào trong quần. “Mẹ chúng nó chứ!”

      “Nghe cậu tôi chắc rằng cậu hẳn phải người phụ nữ đó lắm,” lúc sau, Teddy lên tiếng.

      “Có thể chết vì ấy,” Chuck . “Mà hề hối tiếc.”

      Teddy gật đầu. chưa từng biết tới cảm xúc nào chân thực hơn thế đời này.

      “Đừng để nó tuột mất, bạn trẻ.”

      đâu, Teddy, tin tôi . Nhưng phải cho tôi biết tại sao chúng ta lại ở đây. Andrew Laeddis là tên quái nào vậy?”

      Teddy vứt mẩu thuốc còn lại xuống dưới bức tường đá rồi lấy chân di di.

      Dolores, nghĩ, phải cho cậu ấy biết. thể làm chuyện này mình.

      Nếu sau tất cả những tội lỗi của , sau những cơn say xỉn, sau những lần bỏ em mình quá lâu, làm em thất vọng, làm em đau lòng - nếu như có thể bù đắp lại bất cứ điều gì trong số đó, đây chính là lúc, là cơ hội cuối cùng mà có.

      chỉ muốn làm cho đúng, em . muốn chuộc lỗi. đời này nếu có ai hiểu được , đó chính là em.

      “Andrew Laeddis,” với Chuck nhưng từ ngữ bỗng dưng tắc lại trong cổ họng khô khốc của . nuốt nước bọt, cố làm cho miệng mình bớt khô rồi lên tiếng, “Andrew Laeddis,” , “là nhân viên bảo trì trong tòa nhà tôi và vợ tôi sống.”

      “Thế à.”

      cũng là người phóng hỏa tòa nhà.”

      Chuck tiếp nhận thông tin đó và chăm chú quan sát gương mặt Teddy.

      “Andrew Laeddis,” Teddy , “ châm ngọn lửa gây ra vụ hỏa hoạn...”

      “Chó chết.”

      “... giết chết vợ tôi.”

      TEDDY BƯỚC RA chái hành lang, thò đầu ra ngoài trời mưa cho nước chảy tràn lên đầu và mặt. có thể nhìn thấy trong những giọt nước mưa. Tan biến khi chạm xuống mặt đất.

      Sáng hôm ấy, muốn tới chỗ làm. Vào cái năm đó, cái năm cuối cùng của đời , trở nên nhõng nhẽo cách khó hiểu, những cơn mất ngủ thường xuyên khiến lúc nào cũng run rẩy và đãng trí. khẽ vuốt ve sau khi chuông báo thức tắt và gợi ý việc hai người đóng những cánh cửa chớp lại, tránh ánh sáng ban mai và rời khỏi giường suốt cả ngày. Và rồi ôm lấy , ôm rất chặt, rất lâu khiến có thể cảm thấy xương cánh tay cứa vào cổ .

      Và khi đứng tắm dưới vòi hoa sen tới nhưng quá vội vì trễ, đầu óc lơ mơ, ngây ngất và trạng thái này xảy ra cách khá thường xuyên trong những ngày đó. Đầu nặng trịch, như có ngàn mũi kim đâm. Cơ thể giống như tờ giấy nhám khi áp vào người . Nước tuôn ra từ vòi hoa sen rát như những tia điện châm.

      “Ở lại ,” . “Chỉ ngày thôi. ngày có thay đổi gì?”

      cố mỉm cười và dịu dàng đẩy ra chỗ khác, thò tay lấy miếng xà phòng tắm. “ thể, em .”

      “Tại sao ?” Tay khẽ lần xuống giữa hai đùi của . “Chỗ này. Đưa xà phòng cho em, em cọ nó cho .” Lòng bàn tay khẽ trượt ngay dưới tinh hoàn của , miệng khẽ nhay khắp ngực .

      cố để ẩy ra. nhàng tóm lấy hai vai và nhấc ra phía sau. “Thôi nào,” , “ phải rồi.”

      lại cười lúc nữa, tiếp tục hôn hít nhưng có thể thấy mắt bắt đầu sẫm lại vì tuyệt vọng. Để được hạnh phúc. Để bị bỏ rơi mình. Để có lại những ngày xưa cũ, những ngày làm việc quá nhiều, uống rượu quá nhiều, những ngày mà mỗi sớm mai thức dậy cảm thấy thế giới này quá chói chang, quá ồn ã hay quá lạnh giá.

      “Thôi được, thôi được.” lùi lại để có thể nhìn thấy gương mặt khi nước từ vai rỏ xuống thành màn sương mờ đục bao trùm lấy cơ thể . “Em thỏa thuận thế này nhé. cần cả ngày, . cần cả ngày. Chỉ cần tiếng đồng hồ thôi. Chỉ trễ tiếng đồng hồ thôi.”

      ...”

      tiếng,” và lại tiếp tục vuốt ve , tay giờ đầy xà phòng. “ tiếng và rồi có thể . Em muốn được cảm thấy ở bên trong em.” kiễng chân lên để hôn .

      chạm lẹ vào môi rồi , “ thể, em .” Rồi quay mặt về phía vòi hoa sen.

      “Họ có gọi quay trở lại ?”

      “Hả?”

      “Ra trận ấy.”

      “Nếu như họ gọi . phải thôi. Nhưng họ gọi đâu, em ạ.”

      “Sao biết?”

      bắt đầu thoa dầu gội lên đầu.

      “Thế giới này nổ tung mà em thậm chí hiểu tại sao?” .

      “Nó nổ tung.”

      “Nó nổ tung. chỉ cần đọc báo và...”

      Teddy xả dầu gội đầu và khẽ áp mặt mình vào lưng , tay sờ soạng phía bụng dưới của . “Em nhớ lần đầu tiên em nhìn thấy ở Cocoanut Grove. Trong bộ quân phục.”

      Teddy thích khi vậy. Lại con đường hoài niệm. thể thích ứng với tại, với tình trạng nay của họ, với những hạn chế và khiếm khuyết trong cuộc sống của họ nên quay ngược đường về quá khứ để tự an ủi bản thân mình.

      “Lúc đó mới đẹp trai làm sao. Và Linda Cox bảo em rằng ‘Tớ nhìn thấy ấy trước nhé!’ Nhưng biết em gì với ấy ?”

      muộn rồi, em .”

      hiểu sao em lại thế cơ chứ. , em . ‘Cậu có thể nhìn thấy ấy trước tiên, Linda. Nhưng tớ nhìn thấy ấy cuối cùng.’ ấy cho rằng nhìn gần cũng hơi đáng sợ nhưng em ‘Cưng ơi, cậu nhìn vào mắt ấy chưa? có gì đáng sợ trong đó cả.’ ”

      Teddy ngắt vòi nước rồi quay đầu lại và nhận thấy vợ cũng lấm xà phòng khắp người. Những vệt xà phòng trắng lấp lánh da thịt .

      “Em có muốn bật nước lại ?”

      lắc đầu.

      cuốn chiếc khăn tắm quanh hông rồi bắt đầu cạo râu bên bồn rửa mặt còn Dolores đứng dựa lưng vào tường nhìn , xà phòng khô lại thành những vệt màu trắng người .

      “Sao em lau người ?” Teddy . “Rồi mặc váy vào.”

      “Giờ nó cũng hết rồi,” .

      “Chưa hết. Trông như những con đỉa màu trắng bám khắp người em ấy.”

      “Em xà phòng.”

      “Thế em định cái gì?”

      “Cocoanut Grove. Họ đốt nó thành tro khi ở ngoài đó.”

      “Phải, em , có nghe .”

      “Ở ngoài đó,” khẽ hát để cố cải thiện tâm trạng. “Ở ngoài đó...”

      vẫn luôn có giọng hát tuyệt vời nhất. Cái đêm trở về từ mặt trận, họ được ưu tiên phòng tại khách sạn Parker House. Đó là lần đầu tiên nghe thấy hát. Sau khi làm tình, nằm giường còn hát bài ‘Buffalo Girls’ trong buồng tắm, hơi nước bay lên từ dưới khe cửa.

      “Này,” .

      “Ừ?” bắt gặp nửa thân hình bên trái của phản chiếu trong gương. Hầu hết xà phòng khô lại da và điều đó hiểu sao khiến khó chịu. Chúng có vẻ báng bổ nào đó khiến muốn chạm vào.

      có người khác à?”

      “Gì cơ?”

      “Đúng ?”

      “Em linh tinh gì thế hả Dolores? phải làm việc.”

      “Em sờ vào... của trong...”

      “Đừng cái từ đó. Ôi Chúa ơi!”

      “... trong lúc tắm mà thậm chí hề cương cứng?”

      “Dolores.” rời mắt khỏi chiếc gương, “Lúc đó em về bom đạn. Về tận thế.”

      nhún vai như thể những lời chẳng có gì liên quan tới cuộc đối thoại này. áp gót chân vào tường rồi dùng ngón tay gạt nước khỏi háng mình. “ còn làm tình với em nữa.”

      “Dolores, nghiêm túc đấy, em nên năng như thế trong nhà này.”

      “Nên em cho rằng làm tình với ta.”

      làm tình với ai cả, và em có thể đừng nhắc tới cái từ đó nữa được ?”

      “Từ gì?” đặt bàn tay lên đám lông sẫm màu của mình. “Làm tình á?”

      “Đúng thế.” giơ tay lên rồi quay trở lại việc cạo râu với tay kia.

      “Vậy ra nó là từ xấu cơ đấy?”

      “Em biết thế mà.” đưa lưỡi dao từ cổ lên cằm, tiếng râu bị cắt kêu xoèn xoẹt.

      “Thế từ nào mới là tốt?”

      “Hử?” nhúng dao cạo vào nước rồi vẩy mạnh.

      “Từ nào về cơ thể em mới khiến phải giơ nắm đấm?”

      hề giơ nắm đấm.”

      có.”

      cạo xong phần cổ, lau dao cạo vào chiếc khăn mặt. áp lưỡi dao xuống phía dưới tai trái. “, em . hề.” bắt gặp mắt trái của trong gương.

      “Em nên gì đây?” tay vuốt tóc, còn tay kia chạm vào đám lông nơi chỗ kín. “Ý em là có thể liếm nó, có thể hôn hít nó, và có thể làm tình với nó. có thể nhìn thấy đứa trẻ chui ra từ đó. Nhưng thể nó ra thành lời sao?”

      “Dolores.”

      “Cứt !” .

      Lưỡi dao cắt sâu vào da Teddy tới mức nghĩ nó chạm tới xương hàm . Nó khiến mắt lồi ra, cả phía mặt trái như bị điện giật, rồi ít bọt kem cạo râu rơi vào vết thương khiến đầu như muốn nổ tung và máu bắt đầu chảy ròng ròng xuống đám bọt trắng và nước trong bồn rửa.

      LẠI GẦN với chiếc khăn bông nhưng đẩy ra và rít qua kẽ răng, cảm thấy cơn đau túa vào mắt, thiêu đốt trong đầu, máu tuôn xuống bồn rửa và cảm thấy muốn khóc. phải vì đau. phải vì cơn ngây ngất. Mà bởi biết chuyện gì xảy ra với vợ mình, với lần đầu khiêu vũ cùng tại Cocoanut Grove. biết biến thành cái gì, thế giới này biến thành cái gì với những thương tổn từ các cuộc chiến tranh vặt vãnh, bẩn thỉu, những thù hận điên cuồng, những trò gián điệp ở Washington và Hollywood, những mặt nạ chống hơi độc ở trường học, những hầm trú bom bằng xi măng dưới gầm nhà. Và tất cả những thứ ấy, vì lý do nào đó đều liên quan tới nhau, tới vợ , thế giới này, nghiện rượu của , cuộc chiến mà tham dự chỉ bởi thực lòng tin rằng nó giúp chấm dứt tất cả chuyện này...

      Máu tiếp tục chảy ròng ròng xuống bồn rửa và Dolores , “Em xin lỗi, em xin lỗi, em xin lỗi.” cầm lấy chiếc khăn bông khi chìa ra lần thứ hai nhưng thể chạm vào , thể nhìn . có thể nghe thấy nước mắt trong giọng biết còn có cả nước mắt trong mắt , mặt ; thấy căm giận suy đồi và hỗn loạn bao trùm lên mọi thứ và lên cái thế giới này.

      BÁO CHÍ, người ta trích câu cuối cùng của với vợ mình rằng .

      lời dối trá.

      Điều cuối cùng mà thực là gì?

      Khi với tay chạm vào nắm đấm cửa chiếc khăn bông thứ ba áp vào má , và mắt dõi lên khuôn mặt .

      “Chúa ơi, Dolores, em phải bình tâm trở lại. Em cũng có số trách nhiệm. Thỉnh thoảng nghĩ tới chúng tí, được ? Và chỉnh đốn lại cái đầu óc quái gở của em nữa.”

      Đó là những từ cuối cùng vợ nghe thấy từ miệng . đóng cửa và bước xuống cầu thang, dừng lại ở bậc cuối cùng. nghĩ tới việc quay trở lại. nghĩ tới việc leo lên cầu thang, trở về căn hộ và bằng cách nào đó sửa chữa mọi chuyện. Hoặc, nếu sửa chữa được, ít nhất cũng nhàng hơn.

      nhàng hơn. Như thế hẳn tốt đẹp.

      NGƯỜI PHỤ NỮ có vết sẹo lớn màu đỏ lằn ngang cổ lạch bạch tiến về phía họ trong hành lang, cổ tay và cổ chân bà ta bị xích, hai lộ lý kèm hai bên. Trông bà ta có vẻ hân hoan, bà bắt chước tiếng vịt kêu và cố vỗ vỗ hai cùi tay vào nhau.

      “Bà ta làm gì?” Chuck hỏi.

      “Bà này hả?” hộ lý lên tiếng. “Đây là Old Maggie. Chúng tôi gọi bà ta là Maggie Bánh Trung thu. Bà ta phải tới phòng Thủy liệu bây giờ. Mà dù sao cũng chẳng moi được cái gì từ bà ta đâu.”

      Maggie đứng sững lại trước mặt họ, hai người hộ lý miễn cưỡng cố gắng kéo bà ta nhưng bà ta vùng ra và đứng chôn chân xuống đất. người hộ lý khẽ thở dài, mắt đảo lên trời.

      “Bà ta lại chuẩn bị lên cơn đấy, nghe này.”

      Maggie nhìn vào mặt họ, đầu nghẹo sang phải và chuyển động giống như con rùa cố thò đầu ra khỏi mai.

      “Ta là con đường,” bà ta . “Ta là ánh sáng. Và ta nướng những cái bánh khốn kiếp của các người. Ta làm đâu. Hiểu chưa?”

      “Rồi,” Chuck .

      “Theo ý bà thôi,” Teddy . “ bánh trái gì cả.”

      ở đây. còn ở đây.” Maggie hít hơi. “Đó là tương lai của và quá khứ của , chúng quay theo chu kỳ giống như mặt trăng quay quanh trái đất.”

      “Vâng, thưa bà.”

      Bà ta cúi về phía họ và hít hít từng người . Đầu tiên là Teddy, sau đó là Chuck.

      “Họ có những bí mật. Đó là cách duy trì cái địa ngục này.”

      “Bí mật và những cái bánh trung thu.”

      Bà ta cười với và trong giây lát dường như có người tỉnh táo nhập vào cơ thể bà ta, khiến mắt bà ta sáng lên.

      “Cười lên,” bà ta với Chuck. “Điều đó tốt cho tâm hồn.”

      “Được thôi,” Chuck . “Tôi làm thế, thưa bà.”

      Bà ta chạm vào mũi Chuck bằng ngón tay cong cong. “Ta muốn nhớ về như thế - tươi cười.”

      Và rồi bà ta quay lưng và bỏ . Hai người hộ lý lẽo đẽo theo sau rồi cả ba người bọn họ biến mất sau cánh cửa bên dẫn vào bệnh viện.

      Chuck , “ vui tính.”

      “Kiểu con cậu mang về giới thiệu với mẹ.”

      “Và rồi ta giết mẹ sau đó chôn ở nhà kho, nhưng mà vẫn...” Chuck châm điếu thuốc. “Còn Leaddis?”

      giết vợ tôi.”

      “Sếp rồi. Nhưng như thế nào?”

      là kẻ phóng hỏa.”

      “Cái này cũng rồi.”

      là nhân viên bảo trì trong tòa nhà chúng tôi ở. cãi nhau với chủ tòa nhà. Chủ nhà đuổi việc . Hồi đó, tất cả chúng tôi đều biết đám cháy phải là tai nạn. Có người phóng hỏa đốt nhà. Laeddis có trong danh sách bị tình nghi nhưng họ mất khá nhiều thời gian để tìm ra và khi họ tìm ra lại xoay xở được bằng chứng ngoại phạm. Mẹ kiếp, lúc đó, ngay cả tôi cũng dám chắc đó là .”

      “Thế cái gì khiến thay đổi suy nghĩ?”

      năm trước, tôi thấy báo. đốt trường học nơi từng làm việc. Vẫn vở xưa, tích cũ - bị sa thải, quay lại, phóng lửa dưới tầng hầm, kích nhiệt khiến bể nước nóng nổ tung. Cách thức hoàn toàn giống như vụ trước. Y hệt. có đứa trẻ nào trong trường, chỉ có bà hiệu trưởng hôm đó ở lại làm muộn. Bà ta chết. Laeddis ra tòa, rằng nghe thấy những giọng lạ hay các triệu chứng tương tự, vì thế họ tống vào trại tâm thần ở Shattuck. Rồi ở đó xảy ra chuyện, tôi là chuyện gì nhưng kết quả là bị thuyên chuyển về đây sáu tháng trước.”

      “Nhưng ai nhìn thấy .”

      ai ở Khu A hay B.”

      “Nghĩa là ở Khu C.”

      “Đúng thế.”

      “Hoặc chết.”

      “Cũng có thể. Thêm lý do để phải tìm ra cái nghĩa địa.”

      “Nhưng cứ cho là ta chưa chết .”

      “Ừ...”

      “Thế nếu tìm thấy , Teddy, sếp làm gì?”

      “Tôi cũng chẳng biết nữa.”

      “Đừng có giả vờ, sếp.”

      Hai y tá xuất , về phía họ, gót giày kêu lách cách, vừa vừa nép vào tường để tránh nước mưa.

      “Các ướt rồi,” .

      “Ướt nhẵn à?” Chuck phía trong, nhắn tóc đen cắt ngắn, bật cười.

      Khi qua chỗ họ, y tá tóc đen quay đầu lại nhìn hai người bọn họ và thêm, “Đặc vụ các luôn thích tán vậy sao?”

      “Còn tùy,” Chuck .

      “Vào cái gì?”

      “Chất lượng nhân .”

      Câu trả lời khiến hai y tá sững lại thoáng, và khi hiểu ra tóc đen rúc mặt vào vai bạn rồi cả hai phá lên cười trước khi tiếp tục về phía cửa bệnh viện.

      Chúa ơi, Teddy cảm thấy ghen tị với Chuck biết bao. Với việc cậu ta luôn tin vào những gì mình . Với những trò tán tỉnh ngu ngốc của cậu ta. Với khả năng đối đáp lanh lẹ những câu vô thưởng vô phạt kiểu nhà binh của cậu ta. Nhưng hơn cả là với quyến rũ trời sinh của cậu ta.

      quyến rũ chưa bao giờ dễ dàng tìm tới Teddy. Sau chiến tranh lại càng khó. Và sau Dolores hết hẳn.

      quyến rũ là phẩm chất xa xỉ chỉ có ở những người vẫn còn tin vào tính bản thiện của vạn vật. Vào trong sạch và kiên định.

      “Cậu biết ,” với Chuck, “buổi sáng cuối cùng bên vợ tôi, ấy với tôi về đám cháy ở Cocoanut Grove(2).”

      “Vậy sao?”

      “Đó là nơi chúng tôi gặp nhau. Câu lạc bộ Grove. ấy có bạn cùng phòng là con nhà giàu và tôi lọt được vào đó vì họ có suất giảm giá cho nhân viên phục vụ. Ngay trước hôm tôi lên tàu tham chiến. Khiêu vũ với ấy suốt đêm. Thậm chí nhảy cả điệu foxtrot.”

      Chuck thò đầu ra nhìn vào mặt Teddy. “Sếp nhảy điệu foxtrot hả? Tôi cố hình dung, nhưng...”

      “Này cậu,” Teddy , “nếu cậu nhìn thấy vợ tôi đêm đó? Cậu sẵn lòng nhảy lò cò quanh sàn như con thỏ, nếu ấy cầu.”

      “Thế ra sếp gặp ấy ở Cocoanut Grove.”

      Teddy gật đầu. “Và nó bị thiêu trụi khi tôi ở - Ý phải? Ừ đúng thế, lúc đó tôi ở Ý - và ấy cho rằng chuyện đó, tôi biết nữa, có ý nghĩa nào đấy, tôi đoán thế. ấy đâm ra sợ lửa.”

      “Và ấy thiệt mạng trong đám cháy,” Chuck nhàng .

      “Rối tung tất cả, đúng ?” Teddy cố nhớ lại hình ảnh sáng hôm đó, gác chân lên bức tường buồng tắm, trần truồng, toàn thân loang lổ vệt xà phòng màu trắng chết chóc.

      “Teddy?”

      Teddy nhìn ta.

      Chuck xòe hai tay ra. “Tôi ủng hộ sếp trong chuyện này. Cho dù có chuyện gì xảy ra nữa. Sếp muốn tìm Laeddis và giết ? Tôi chiều sếp luôn.”

      “Chiều?” Teddy cười. “Tôi chưa hề nghe thấy từ này kể từ khi...”

      “Nhưng sếp, tôi cần biết sếp định làm gì? Tôi nghiêm túc đấy. Chúng ta phải thu xếp mọi việc ổn thỏa nếu chúng ta lại kết thúc ở Phiên tòa Kefauver(2) kiểu mới hay cái gì đó tương tự. Những ngày này ai cũng nhòm ngó, sếp biết ? Nhòm ngó tất cả những gì chúng ta làm. Trông chừng chúng ta. Thế giới này từng phút.”

      Chuck đưa tay gạt lọn tóc xòa xuống trán. “Tôi nghĩ sếp biết cái chỗ này. Tôi nghĩ sếp biết những thứ sếp chưa với tôi. Tôi nghĩ sếp tới đây để gây chuyện.”

      Teddy vỗ vỗ tay lên trái tim.

      “Tôi nghiêm chỉnh đấy, sếp.”

      “Chúng ta ướt hết rồi,” Teddy .

      sao?”

      “Ý tôi là cậu có ngại nếu ướt thêm tí nữa ?”

      HỌ BƯỚC RA NGOÀI CỔNG và về phía bờ biển. Mưa bao trùm mọi vật. Những con sóng lớn bằng cả tòa nhà chồm lên các mỏm đá. Chúng dâng cao rồi tan ra để nhường đường cho những đợt sóng mới.

      “Tôi muốn giết ,” Teddy hét lên át tiếng sóng gầm.

      ư?”

      .”

      chắc là tôi có thể tin sếp.”

      Teddy nhún vai.

      “Nếu đó là vợ tôi ư?” Chuck . “Tôi giết hai lần.”

      “Tôi mệt mỏi với chém giết,” Teddy . “Trong chiến tranh ư? Tôi nhớ nổi bao nhiêu nữa. Làm sao chuyện đó có thể xảy ra hả Chuck? Ấy thế mà nó xảy ra.”

      “Dù sao nữa. Đó là vợ sếp, Teddy.”

      Họ nhìn thấy đám đá đen, lởm chởm, trồi lên bãi cát dẫn về phía rặng cây, họ trèo lên đó và sâu vào trong đảo.

      “Nhìn xem,” Teddy khi họ tới mô đất , bao bọc bởi đám cây cao có thể chắn mưa. “Tôi vẫn đặt công việc lên đầu. Chúng ta phải tìm xem chuyện gì xảy ra với Rachel Solando. Và nếu tôi bắt gặp Laeddis trong khi làm việc ư? Tuyệt. Tôi với là tôi biết giết vợ tôi. Tôi với là tôi đợi đất liền khi được trả tự do. Tôi với là chừng nào tôi còn sống đừng hòng có khí tự do để thở.”

      “Tất cả chỉ có thế?” Chuck .

      “Chỉ có thế.”

      Chuck dùng tay áo quệt mắt và gạt mớ tóc xõa xuống trán. “Tôi tin sếp. Tôi tin.”

      Teddy nhìn về phía Nam rặng cây, nhìn thấy nóc bệnh viện Ashecliffe, những ô cửa sổ dùng để quan sát đó.

      “Sếp nghĩ là Cawley biết thực tại sao sếp tới đây chứ?”

      “Tôi thực tới đây vì Rachel Solando.”

      “Nhưng mẹ khỉ, Teddy, nếu cái gã giết vợ sếp bị quản thúc ở đây ...”

      bị kết án vì chuyện đó. có mối liên hệ nào giữa tôi và . gì cả.”

      Chuck ngồi xuống hòn đá trồi lên mặt đất và cúi đầu xuống nghe mưa. “Thế tìm cái nghĩa địa vậy. Sao chúng ta tính tới chuyện tìm nó khi ra tới ngoài này? Chúng ta chỉ cần nhìn thấy cái bia đề tên Laeddis coi như nửa trận chiến kết thúc.”

      Teddy tiếp tục nhìn về phía rặng cây và bóng tối sâu thẳm nơi đó. “Được thôi.”

      Chuck đứng dậy. “À nhân tiện hỏi luôn, ta gì với sếp vậy?”

      “Ai cơ?”

      “Nữ bệnh nhân ấy.” Chuck bẻ các đốt ngón tay. “Bridget. ta bảo tôi lấy nước. ta gì đó với sếp, tôi biết mà.”

      ta gì cả.”

      ta gì cả? Sếp điêu. Tôi biết là ta...”

      ấy viết,” Teddy và sờ vào túi áo khoác để tìm quyển sổ ghi chép. Cuối cùng tìm thấy nó ở túi áo bên trong và giở ra.

      Chuck bắt đầu huýt sáo và bước lọc cọc nền đất mềm bắt chước dáng của lũ ngỗng.

      Khi giở tới trang cần tìm, Teddy gọi Chuck, “Đủ rồi đấy chàng trai.”

      Chuck lại gần. “Sếp tìm thấy rồi à?”

      Teddy gật đầu, quay quyển sổ ra để Chuck có thể nhìn thấy trang giấy từ duy nhất được viết xin xít, nguệch ngoạc, bắt đầu nhòe dưới trời mưa: chạy .

      HỌ TÌM THẤY ĐÁM ĐÁ ĐÓ khi được khoảng năm trăm mét vào sâu trong đảo, bầu trời tối sập lại dưới những đám mây xám xịt. Họ di chuyển qua những vách đá sũng nước phủ đầy cỏ biển rũ rượi và trơn nhẫy dưới mưa, cả hai người đều lấm bùn từ đầu tới chân do phải bám chặt đường và vấp lên vấp xuống.

      Dưới chân họ là cách đồng, phẳng như nền trời dưới những đám mây, hoàn toàn trơ trụi ngoại trừ vài bụi cây nằm rải rác, mấy chiếc lá to do bão thổi tới và vô số viên đá mà ban đầu Teddy tưởng chúng cưỡi gió đến cùng những chiếc lá. dừng lại giữa đường, leo xuống bên kia vách đá để nhìn chúng cho kỹ. Những viên đá xếp thành từng chồng , gọn ghẽ cánh đồng, mỗi chồng cách nhau chừng mười lăm phân. Teddy đặt tay lên vai Chuck và chỉ vào chúng.

      “Cậu đếm được bao nhiêu chồng tất cả?”

      “Gì cơ?”

      “Đống đá kia kìa. Cậu thấy ?”

      “Có.”

      “Chúng chất thành từng chồng riêng biệt. Cậu đếm được bao nhiêu chồng?”

      Chuck nhìn Teddy như thể cơn bão vừa đánh trúng đầu ta. “Chúng là đá mà.”

      “Tôi nghiêm túc đấy.”

      Chuck lại nhìn với vẻ y hệt như lúc trước rồi quay về phía cánh đồng. phút sau, ta : “Tôi đếm được mười.”

      “Tôi cũng vậy.”

      Chuck giẫm phải đám bùn và trượt chân, chới với tay ra phía sau, Teddy túm được, giữ chặt cho tới khi Chuck lấy lại thăng bằng.

      “Chúng ta có thể xuống tiếp được ?” Chuck và hơi nhăn mặt cau có nhìn Teddy.

      Họ tìm đường xuống, Teddy tới bên các đống đá và nhận ra chúng được xếp thành hai hàng song song. số chồng đá có kích thước hơn chỉ gồm ba hay bốn viên đá trong khi những chồng khác có tới mười, thậm chí hai mươi viên.

      Teddy giữa hai hàng đá rồi dừng lại nhìn Chuck và , “Chúng ta đếm nhầm rồi.”

      “Sao?”

      “Ở giữa hai chồng đá này?” Teddy đợi Chuck đến bên cạnh rồi cả hai cùng nhìn xuống. “Có hòn đá ở ngay đó. Tạo thành cụm thứ ba.”

      “Gió mạnh thế này. . Chắc là nó rơi từ chồng nào đó xuống.”

      “Nhưng nó cách đều hai chồng bên cạnh. Mười lăm phân đến chồng bên trái và mười lăm phân đến chồng bên phải. Và ở hàng tiếp theo, hai lần nữa tượng y hệt lại xảy ra. Ba viên đá lẻ.”

      sao?”

      “Vậy, ở đây có tới mười ba chồng đá, Chuck.”

      “Sếp nghĩ là ta tạo ra chúng. Sếp nghĩ vậy sao?”

      “Tôi chỉ nghĩ ai đó cố tình làm thế.”

      “Lại mật mã nữa.”

      Teddy ngồi xổm xuống bên cạnh đám đá. kéo chiếc áo choàng qua đầu và lấy vạt áo che quyển sổ khỏi nước mưa. di chuyển theo chiều ngang như con cua và dừng lại ở từng chồng đá để đếm số viên rồi ghi lại. Khi viết xong, có mười ba con số:

      18-1-4-9-5-4-23-1-12-4-19-14-5.

      “Chắc đây là mật mã để mở chiếc khóa lớn nhất thế giới,” Chuck .

      Teddy đóng quyển sổ lại và nhét vào trong túi. “Nghe được đấy.”

      “Cảm ơn sếp, cảm ơn,” Chuck . “Tôi diễn hài ở khu giải trí Catskills hai lần mỗi đêm. Sếp tới chứ?”

      Teddy kéo áo choàng ra khỏi đầu và đứng dậy, mưa lại quất mạnh người và gió rít lên từng chập. Họ tiếp về phía Bắc, những vách đá lùi dần sang bên phải còn bệnh viện Ashecliffe nằm đâu đó ở bên trái họ giữa màn mưa gió mịt mùng. Cơn bão trở nên tồi tệ hơn trong vòng ba mươi phút trở lại đây, hai người sát vào nhau để có thể tiếp tục chuyện, dáng xiên xiên như những kẻ say rượu.

      “Cawley hỏi có phải sếp làm cho Tình báo Quân đội. Sếp dối ông ta à?”

      “Có và ,” Teddy . “Tôi giải ngũ từ đơn vị quân đội chính quy.”

      “Thế sếp gia nhập quân đội như thế nào?”

      “Sau đào tạo cơ bản, họ gửi tôi tới trường thông tin.”

      “Sau đó?”

      “Thêm khóa học chuyên sâu tại Đại học Chiến tranh và rồi đến, phải, bộ phận tình báo.”

      “Thế sao cuối cùng sếp lại ra quân dưới dạng chính quy?”

      “Phạm sai lầm,” Teddy phải hét lên để át tiếng gió. “Tôi giải sai mật mã. Về vị trí tọa độ của quân địch.”

      “Nghiêm trọng ?”

      Teddy vẫn còn có thể nghe thấy tiếng động vọng lại từ radio lúc đó. Những tiếng la hét, tiếng sóng nhiễu, tiếng gào khóc, tiếng sóng nhiễu, tiếng súng máy rền vang, rồi lại tiếp tục những tiếng la hét, tiếng gào khóc và tiếng sóng nhiễu. Rồi giọng cậu trai trẻ vang lên giữa tất cả những tiếng động đó, rằng, “ có nhìn thấy phần còn lại của tôi đâu ?”

      “Khoảng nửa tiểu đoàn,” Teddy hét lên trong gió. “Tựa như bánh mì kẹp thịt dâng lên miệng vậy.”

      Trong giây lát Chuck nghe thấy gì ngoài tiếng gào thét của cơn bão. Cuối cùng hét lên, “Tôi xin lỗi. Chuyện đó khủng khiếp.”

      Họ trèo lên đỉnh ngọn đồi , gió như muốn thổi bật họ . Teddy phải tóm lấy khuỷu tay Chuck và cả hai phăm phăm tiến về phía trước, đầu cúi gằm. Họ cứ bước như thế khá lâu, đầu và người gập xuống trong gió nên lúc đầu hề để ý tới những chiếc bia đá. Họ cứ bước lầm lũi, mắt nhòe bởi nước mưa, và rồi Teddy va vào phiến đá màu ghi xám bị gió thổi lật ngửa ra sau, bật ra khỏi hố chôn, những chữ khắc đó đập vào mắt .

      JACOB PLUGH

      PHỤ TÀU

      1832-1858

      Phía trái họ cái cây bị gió quật gẫy gập, nghe như tiếng rìu chém vào mái tôn. “Chúa ơi!” Chuck kêu lên. Thân cây và cành cây bị gió cuốn vèo ngay trước mắt họ.

      Họ tiến vào khu nghĩa địa, tay che mặt, rác rưởi, lá cây, cành cây di chuyển và cử động như những vật thể sống, quật vào người rát như điện giật khiến họ ngã chúi xuống đất nhiều lần, mắt gần như nhìn thấy gì nữa. Và rồi Teddy thấy ở đằng trước vật sẫm màu to lù lù. hét lên và chỉ tay về phía đó nhưng tiếng bị át trong tiếng gió.

      khúc cây hay cái gì đó bay sượt ngang qua đầu , gần tới mức có thể cảm thấy nó hôn phớt lên mái tóc. Họ chạy về phía đó, gió quật mạnh vào chân, và mặt đất như trồi lên, vít lấy đầu gối họ.

      nhà mồ. Cánh cửa bằng thép sút khỏi bản lề, cỏ dại mọc khắp nơi. Teddy kéo cửa, gió thốc vào mặt , thổi bật sang bên trái cùng với cánh cửa khiến ngã chúi xuống đất, còn cánh cửa trượt khỏi cái bản lề cuối cùng, rít lên tiếng rồi va mạnh vào tường. Teddy trượt bùn rồi từ từ đứng dậy, gió xối vào vai , quỳ bên gối xuống, nhìn khung cửa đen sì trước mặt rồi chồm về phía trước, xuyên qua đám bùn nhầy nhụa, trườn vào bên trong.

      “Sếp bao giờ nhìn thấy cái gì như thế này chưa?” Chuck khi họ đứng yên ổn sau khung cửa và nhìn hòn đảo quay cuồng trong cơn thịnh nộ. Gió như chiếc vòi rồng cuốn theo nó mọi thứ rác rưởi, lá cây, cành cây, đất đá, nước mưa, gào thét như bầy lợn rừng cào xới mặt đất.

      “Chưa từng,” Teddy rồi cả hai bước lùi vào sâu bên trong. Chuck tìm thấy bao diêm vẫn còn khô ở túi trong áo khoác, cố xoay người chắn gió và quẹt ba que diêm lúc. Họ nhìn thấy phiến xi măng ở giữa nhà mồ trống , có quan tài hay linh cữu, nó bị chuyển hoặc bị đánh cắp từ nhiều năm trước sau khi mai táng. Chôn sát vào tường, phía sau tấm xi măng là chiếc ghế băng bằng đá, họ tiến về phía đó khi diêm tắt. Họ ngồi xuống trong khi gió vẫn tiếp tục ào qua khung cửa trống và dằn mạnh cánh cửa vào tường.

      ra cũng đẹp đấy chứ?” Chuck . “Thiên nhiên trở nên điên dại, sắc màu của bầu trời... Sếp cũng nhìn thấy tấm bia đá ngoài kia bị thổi lật ra sau thế nào chứ?”

      “Tôi xô vào nó, nhưng quả cũng ấn tượng .”

      “Oao.” Chuck cúi xuống vắt hai ống quần cho tới khi nước đọng thành vũng dưới chân và lay lay chiếc áo sơ mi dính vào ngực ướt sũng. “Đáng lẽ chúng ta nên ở gần khu bệnh viện. Có thể chúng ta phải chờ cho đến khi cơn bão tan. Ở đây.”

      Teddy gật đầu. “Tôi biết nhiều lắm về các cơn bão, nhưng tôi có cảm giác là nó mới chỉ bắt đầu.”

      “Nếu gió đổi hướng? Cả cái bãi tha ma kia chuyển vào trong này đấy.”

      “Tôi vẫn thà ngồi trong này hơn là ở ngoài kia.”

      “Chắc rồi. Nhưng tìm mô đất cao để trú bão? Chúng ta thông minh chừng nào đây?”

      nhiều lắm.”

      “Nhanh khủng khiếp. giây trước trời mới chỉ mưa to mà giây sau chúng ta giống như Dorothy lạc vào xứ sở thần tiên.”

      “Đó là cơn lốc xoáy.”

      “Cơn lốc xoáy nào?”

      “Ở Kansas.”

      “À.”

      Gió rít thành từng cơn chói tai và Teddy có thể nghe thấy chúng thúc vào bức tường đá dày phía sau cho tới khi cảm nhận được những cơn chấn động ở lưng mình.

      “Mới chỉ bắt đầu thôi,” nhắc lại.

      “Sếp có biết lúc này tất cả những kẻ điên đó làm gì ?”

      “Gào thét đáp lại,” .

      Họ ngồi yên lặng lát, mỗi người điếu thuốc. Cơn bão gợi Teddy nhớ đến cái ngày con thuyền của cha, đến lần đầu tiên nhận ra thiên nhiên với thờ ơ cũng như quyền lực vô biên của nó. hình dung ra gió giống cái gì đấy có bộ mặt của diều hâu mỏ quặp khi chúng ập vào trong nhà mồ và rít lên từng chập. Giống cơn thịnh nộ biến con sóng thành những tầng tháp, nghiến nhà cửa thành những mẩu gỗ vụn, và có thể nhấc bổng lên trong vòng xoáy của nó rồi ném sang tận Trung Quốc.

      “Tôi ở Bắc Phi vào năm bốn hai,” Chuck . “Trải qua vài cơn bão cát. Nhưng có gì giống thế này. Mà cũng có thể bởi thời gian, bạn quên mất. Rất có thể chúng cũng kinh khủng tương tự.”

      “Tôi có thể chịu được,” Teddy . “Ý tôi là tất nhiên tôi nhảy ra loanh quanh ngoài trời lúc này, nhưng nó vẫn còn đỡ hơn là bị lạnh. Ở Ardennes, Chúa ơi, hơi thở đông lại ngay khi thở ra. Tới giờ tôi vẫn còn nhớ như in cái cảm giác đó. Những ngón tay tôi lạnh tới mức cảm giác như bốc cháy. Cậu có tưởng tượng ra ?”

      “Ở Bắc Phi, chúng tôi phải chống chọi với cái nóng. Nhiều người gục ngã vì nó. Chỉ phút trước còn đứng đấy, phút sau ngã xuống. Nhiều người nghẽn động mạch vành vì nóng. Tôi bắn vào gã như thế, cái nóng làm da mềm nhũn ra. thực quay đầu lại và nhìn viên đạn bay xuyên qua người mình.” Chuck vừa vừa gõ tay lên ghế. “Nhìn nó bay qua,” ta khẽ. “Tôi thề có Chúa.”

      “Người duy nhất mà cậu giết?”

      “Gần như thế. Còn sếp?”

      “Tôi ngược lại. Giết rất nhiều và chứng kiến cái chết của hầu hết bọn họ.” Teddy dựa đầu vào tường, ngước nhìn lên trần. “Nếu tôi có con trai, tôi biết liệu tôi có thể để nó ra trận. Cho dù có giống cuộc chiến ấy, khi mà chúng ta chẳng còn lựa chọn nào khác. Tôi cũng chắc rằng nên cầu bất cứ ai việc đó.”

      “Việc gì?”

      “Giết người.”

      Chuck co đầu gối lên. “Bố mẹ tôi, bạn tôi, và số bạn bè tôi, những người vượt qua kỳ kiểm tra sức khỏe nghĩa vụ, tất cả họ đều hỏi tôi, sếp biết ?”

      “Ừ.”

      “Nó như thế nào. Đó là điều họ muốn biết. Và chỉ muốn rằng, ‘Tôi cũng chả biết nó như thế nào. Cứ như nó xảy ra với người khác. Tôi chỉ đứng từ phía mà quan sát hay gì đó.’ ” ta chìa tay ra và tiếp, “Tôi tài nào giải thích hơn. Sếp hiểu chứ?”

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :