Đảo kinh hoàng
Dennis Lehane
Tạo và hiệu chỉnh ebook: Hoàng Nghĩa Hạnh
Diễn đàn Tinh Tế
Dự án ebook định dạng epub chuẩn cho mọi thiết bị di động
http://dl.dropbox.com/u/46534480/library/_catalog/index.html
Tác giả
Dennis Lehane sinh ngày 4 tháng Tám năm 1965 tại Dorchester, gần kề Boston, Massachusetts. Ông là con út trong
gia đình gốc Ireland có năm người con. Ông tốt nghiệp Đại học Eckerd năm 1988 và nhận bằng Thạc sĩ sáng tác văn chương Đại học Quốc tế Florida năm 1993.
Sau khi trở về Boston, ông
mưu sinh bằng nhiều nghề để có thể viết văn: tư vấn tâm lý cho trẻ em khuyết tật và bị lạm dụng, bồi bàn, tài xế, nhân viên hiệu sách, nhân viên đỗ xe của khách sạn... Ông sống chủ yếu ở Boston, nơi trở thành bối cảnh quen thuộc trong các tác phẩm của ông.
Cuốn tiểu thuyết đầu tiên của ông, A Drink Before the War, ấn hành năm 1994,
nhận được giải thưởng Shamus Award cho tác phẩm đầu tay xuất sắc nhất. Từ đó đến nay ông
viết các tiểu thuyết: A Drink Before the War; Darkness, Take My Hand; Sacred; Gone, Baby, Gone; Prayers for Rain; Mystic River; và Shutter Island (Đảo kinh hoàng). Tác phẩm Mystic River (2003)
đưa ông đến với các giải thưởng Anthony Award, Barry Award và Massachusetts Book Award.
Đảo kinh hoàng
được đạo diễn nổi tiếng Martin Scorsese dựng thành phim, với
tham gia của tài tử Leonardo DiCaprio, công chiếu năm 2010.
LỜI
ĐẦU
TRÍCH NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ LESTER SHEEHAN
Ngày 3 tháng Năm năm 1993
Tôi
nhìn thấy hòn đảo đó trong nhiều năm. Lần cuối cùng, từ
con thuyền của
người bạn trong lúc mạo hiểm
ra phía bên ngoài vịnh, tôi có thể nhìn thấy nó từ phía xa, qua những lớp phao an toàn,
trong sương mù mùa hè như
vệt màu cẩu thả vẽ lên nền trời.
Tôi
đặt chân tới đó hơn hai mươi năm nhưng Emily vẫn thường
(lúc đùa lúc
) rằng ngay cả
ấy cũng
dám chắc tôi
thực
rời bỏ nó. Có lần
ấy
đối với tôi thời gian chẳng khác gì những chiếc thẻ đánh dấu sách mà tôi sử dụng để lật giở những trang sách của đời mình, trở
trở lại với những
kiện đánh dấu đời tôi và điều đó, dưới con mắt của những đồng nghiệp sáng suốt hơn chính là biểu
đầy đủ của chứng sầu muộn kinh điển. Có thể Emily
đúng.
ấy vẫn thường hay đúng.
Tôi cũng sắp mất cả
ấy nữa. Chỉ còn vài tháng nữa thôi, bác sĩ Alelrod
cho chúng tôi biết hôm thứ Năm. Hãy thực
chuyến
đó, ông ấy khuyên. Cái chuyến
mà hai người vẫn luôn nhắc tới. Tới Florence, tới Rome và tới Venice vào mùa xuân. Bởi vì Lester, ông ấy
thêm, trông
cũng
lấy gì làm khỏe.
Tôi cũng nghĩ vậy. Gần đây, tôi cứ thường xuyên đặt mọi thứ nhầm chỗ, nhất là đôi kính mắt. Rồi chìa khóa xe. Tôi bước vào cửa hàng mà quên mất tới đó làm gì, và rời khỏi nhà hát mà
nhớ nổi vừa xem gì. Nếu quả
thời gian đối với tôi là những chiếc thẻ đánh dấu
dường như ai đó vừa mới rũ mạnh cuốn sách khiến những mảnh giấy ố vàng, cặp bìa sờn cũ và những que khuấy cà phê dẹt rơi xuống sàn nhà, và những mép sách quăn queo đều bị ép chặt phẳng phiu.
Nên tôi muốn viết lại tất cả những chuyện đó. Nguyên văn,
thay đổi theo hướng có lợi cho mình.
,
.
ấy
bao giờ cho phép điều đó. Với cái kiểu cách lạ lùng rất riêng của mình,
ấy ghét
dối trá hơn bất kỳ ai tôi từng biết. Tôi
giữ nguyên văn câu chuyện và chỉ chuyển nó từ thiết bị lưu trữ
thời (thành
mà
bắt đầu ẩm mốc và rò rỉ) sang những trang giấy này.
Bệnh viện Ashecliffe nằm ở giữa khu đất phẳng ở phía Tây Bắc của hòn đảo. Đứng đó
cách nhân từ, tôi có thể
thêm vậy. Trông nó chẳng có gì giống với
nhà thương điên dành cho các tội phạm bị bệnh tâm thần và càng
giống cái doanh trại quân đội trước đây. Vẻ ngoài của nó
thực tế khiến phần lớn chúng tôi nghĩ tới
trường nội trú. Ngay bên ngoài khuôn viên chính là trạm gác được xây theo kiến trúc nhà hai mái thời Victoria và
lâu đài
, đẹp nhưng hơi tối, kiểu Tudor, từng được sử dụng làm căn cứ chỉ huy của quân đội liên bang tại bờ biển Đông Bắc,
chuyển thành văn phòng giám đốc chúng tôi. Bên trong tường bao là các khu vực dành cho nhân viên trông rất duyên dáng, những ngôi nhà mái lá của các bác sĩ điều trị, ba khu ký túc dành cho y tá, hộ lý và bảo vệ. Trong khuôn viên chính là những bãi cỏ, những hàng rào được cắt xén tạo hình, những cây sồi đổ bóng um tùm, những cây thông Scotland, những cây gỗ thích và những cây táo cứ cuối mùa thu lại cho trái rụng đầy
bãi cỏ và các gờ tường. Nằm giữa khuôn viên chính là bệnh viện,
quần thể lớn bằng đá ong và đá hoa cương đẹp mắt, hai bên là hai bức tường bằng gạch đỏ giống hệt nhau. Phía sau nó là những vách đá, những đầm lầy do thủy triều tạo nên và
thung lũng dài nơi chứng kiến
ra đời và lụn bại của
hợp tác xã nông nghiệp trong những năm sau cách mạng Mỹ. Cây cối họ trồng vẫn sống sót, đào, lê,
đào dại, nhưng
còn ra trái nữa, và những ngọn gió đêm vẫn thường gào thét trong thung lũng ấy, những
thanh như tiếng mèo kêu.
Và tất nhiên còn phải kể đến khu pháo đài có mặt ở đây từ rất lâu trước khi những nhân viên đầu tiên của bệnh viện đặt chân tới hòn đảo này và vẫn lặng lẽ đứng đó, ở phía Nam,
mỏm đá nhô ra biển. Và xa xa là ngọn hải đăng
còn hoạt động từ trước cả thời kỳ Nội chiến,
được thay thế từ lâu bằng những chùm ánh sáng phát ra từ ngọn hải đăng Boston.
Nhưng nếu nhìn từ biển vào
hòn đảo trông
hẳn như vậy. Bạn phải hình dung ra hòn đảo theo cái cách mà Teddy Daniels
nhìn thấy vào
buổi sáng yên tĩnh tháng Chín năm 1954. Chỉ là
bãi đất bỏ hoang nằm giữa khu vực bên ngoài vịnh. Khó có thể xem là
hòn đảo, bạn
nghĩ vậy, thậm chí chỉ trong ý tưởng. Nó có thể dùng vào việc gì chứ, hẳn
ấy
nghĩ thế. Việc gì chứ.
Chuột là động vật đông đúc nhất
hòn đảo. Chúng sùng sục trong các bụi cây, di chuyển thành hàng dọc bờ biển khi đêm xuống và trèo lên những mỏm đá ẩm ướt.
số to bằng những con cá bơn. Trong những năm tiếp theo bốn ngày lạ lùng cuối mùa hè năm 1954, tôi
tiến hành nghiên cứu những con chuột trong
cái khe
ngọn đồi ở phía Nam bờ biển. Tôi kinh ngạc khi phát
ra rằng có
số con chuột
cố gắng bơi tới đảo Paddock, hòn đảo trông chẳng nhỉnh hơn
tảng đá lớn là mấy nằm
bãi cát
bị ngập nước hai mươi hai tiếng
ngày. Khi nó nhô lên khỏi mặt nước trong
hai tiếng đồng hồ ngắn ngủi lúc thủy triều xuống tới mức thấp nhất
thỉnh thoảng lũ chuột lại bơi tới đó, thường
bao giờ nhiều hơn mười mấy con và chúng luôn bị đẩy dạt trở lại bởi triều cường.
Tôi
luôn, nhưng
hẳn vậy. Tôi
nhìn thấy
con chuột bơi được tới đích. Chỉ có
lần thôi. Đó là vào đêm trăng tròn tháng Mười năm 1956. Tôi nhìn thấy
cái mình da rắn đen trũi lao lên bãi cát.
Hay là do tôi tưởng tượng ra. Emily, người tôi
quen
hòn đảo
, “Lester,
thể nào nhìn thấy nó. Nó ở quá xa.”
ấy
đúng.
Nhưng tôi biết là tôi
nhìn thấy gì.
cái mình da rắn béo mầm phóng lên bãi cát, bãi cát màu ngọc trai xám bắt đầu từ từ lún xuống khi thủy triều dâng lên nuốt gọn đảo Paddock, nuốt gọn cả con chuột đó, tôi đoán thế vì tôi
bao giờ còn nhìn thấy nó bơi trở lại nữa.
Nhưng trong giây phút đó, khi tôi nhìn nó chạy lon ton lên bờ (thực
tôi
nhìn thấy nó hẳn hoi, cái khoảng cách quỷ tha ma bắt) tôi nghĩ tới Teddy. Tôi nghĩ tới Teddy và người vợ xấu số đáng thương của
, Dolores Chanal, tới cặp sinh đôi hãi hùng của họ, Rachel Solando và Andrew Laeddis, tới cái tai ương mà họ
gieo rắc lên tất cả chúng tôi. Tôi nghĩ rằng nếu Teddy ngồi cùng tôi lúc đó
ấy cũng
nhìn thấy con chuột.
ấy hẳn
nhìn thấy nó.
Và tôi
với các bạn thêm rằng:
Teddy?
ấy hẳn
vỗ tay.