Dấu chân của Chúa - Greg Iles(Kinh dị)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      [​IMG]
      Tên : Dấu chân của Chúa

      Tác giả: Greg Iles
      Tên gốc: The Footprints of God
      Thể loại: Kinh dị, Tiểu thuyết, Trinh thám, Văn học phương Tây
      Dịch giả: Hiếu Tân
      Nhà xuất bản: Nxb Thời Đại
      Công ty phát hành: Nhã Nam
      Số trang: 493
      Giá bìa: 108.000 đồng
      Nguồn: Romance Book
      Bìa sách Dấu Chân của Chúa - Greg Iles


      Giới thiệu:
      “Greg Iles khiến bạn hồi hộp, huyết áp bạn luôn cao ngất khi đọc cuốn sách này.”

      "Dấu chân của Chúa" là kết hợp hoàn hảo từ những yếu tố huyền bí, kinh dị, hành động, khoa học và tôn giáo trong cuốn tiểu thuyết viễn tưởng có mạch truyện căng thẳng và hồi hộp đến nghẹt thở.

      dự án tuyệt mật siêu tham vọng của chính phủ, quy tụ những bộ óc hàng đầu.
      dự án thử nghiệm kết hợp giữa trí óc con người và máy móc để sản sinh ra loại siêu máy tính.

      Dự án Trinity.

      thành viên Trinity, tiến sĩ David Tennant tin rằng cái chết của người đồng thân thiết là ngẫu nhiên. Ông lặng lẽ tiến hành kế hoạch của riêng ông cùng với bác sĩ tâm lý Rachel Weiss để khám phá những bí mật của dự án.
      Nhưng liệu Tennant có thể dễ dàng vén bức màn bí , khi đứng sau Trinity là những kẻ quỷ quyệt đầy thế lực, khi người đồng hành Rachel Weiss cũng chưa tạo cho ông tin tưởng hoàn toàn, và liệu niềm hy vọng cuối cùng của ông là người đứng đầu quốc gia có đứng về phía ông?

      Greg Iles đặt người đọc vào gian căng thẳng tột độ, khiến họ ngỡ ngàng trước khả năng vô hạn của khoa học và rùng mình trước tham vọng tàn bạo của dự án tầm cao. "Dấu chân của Chúa" khiến độc giả ám ảnh vì câu chuyện được kể quá đỗi tài tình mang theo thông điệp sâu sắc về nhân tính và khoa học.
      kết hợp mạnh mẽ giữa khoa học và tâm linh”
      – Linda Fairstein, tác giả Bad Blood
      cuốn sách giải trí nhưng đầy thông điệp. Sau khi trang cuối cùng khép lại, dư tốt đẹp của nó hẳn còn đọng mãi.”
      – Dan Brown, tác giả của Mật mã Da Vinci.
      “Lôi cuốn đến nghẹt thở.”
      – Nelson DeMille, tác giả Night Fall.
      Tác giả:
      Greg Iles (sinh năm1960) là nhà văn trinh thám nổi tiếng người Mỹ. Ông sinh tại Stuttgart, Đức, nhưng trải qua thời thơ ấu tại Mississippi và tốt nghiệp Đại học Mississippi năm 1983. Iles từng thành lập ban nhạc rock Frankly Scarlet và chơi nhạc trong vài năm để kiếm sống. Sau đó ông lập gia đình và dốc toàn bộ tâm sức cho văn nghiệp. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông, Spandau Phoenix xuất bản năm 1993, đứng đầu trong top ten New York Times Bestseller. Ông là tác giả của mười hai tiểu thuyết, bao gồm:
      - True Evil,
      - Turning Angel,
      - Blood Memory,
      - Third Degree

      Iles giành giải thưởng văn học Richard Wright năm 2004. ông sống tại Natchez, Mississippi cùng vợ và hai con.

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 1


      “Tôi là bác sĩ David Tennant. Tôi là giáo sư y đức tại trường y, Đại học Virginia, và nếu bạn xem cuốn băng này, có nghĩa là tôi chết.”

      Tôi lấy hơi và tự chủ lại. Tôi muốn cường điệu. Tôi lắp máy ghi hình Sony giá ba chân và xoay màn hình tinh thể lỏng để có thể nhìn thấy mình trong khi . Mấy tuần qua tôi sút cân. Mắt tôi đỏ ngầu vì mệt mỏi, viền mắt thâm quầng và bóng lên. Trông tôi giống tên tội phạm bị săn lùng hơn là người bạn đau buồn.

      “Tôi biết bắt đầu từ đâu. Tôi cứ hình dung ra thi thể Andrew nằm dưới nền nhà. Và tôi biết ông bị giết. Nhưng... tôi hấp tấp rồi. Các vị cần các dữ kiện. Tôi sinh năm 1961 ở Los Alamos, bang New Mexico. Cha tôi là James Howard Tennant, nhà vật lý hạt nhân. Mẹ tôi là Ann Tennant, bác sĩ nhi khoa. Tôi ghi hình cuốn băng này trong trạng thái tinh thần hoàn toàn tỉnh táo. Và ngay khi làm xong, tôi gửi cho luật sư của mình, với điều kiện nó phải được mở ra nếu tôi chết vì bất kỳ nguyên nhân nào.”

      “Cách đây sáu giờ, người ta phát đồng nghiệp của tôi - tiến sĩ Andrew Fielding - chết bên bàn làm việc của ông vì cơn đột quỵ triệu chứng ràng. Tuy chứng minh được, nhưng tôi tin là Fielding bị giết. Trong hai năm qua, ông và tôi tham gia nhóm khoa học được NSA (1) và DARPA(2) tài trợ. Dưới cấp bảo mật cao nhất, đội ngũ khoa học và công trình của họ được gọi là Dự án Trinity(3) ”.

      Tôi liếc xuống khẩu Smith & Wesson 38 ly nòng ngắn đặt đùi. Tôi cố để khẩu súng lộ ra trước camera, nhưng có nó trong tầm tay khiến tôi thấy yên tâm. Trấn tĩnh lại, tôi lại căng mắt nhìn vào ánh sáng đỏ rực.

      “Cách nay hai năm, Peter Godin, người sáng lập tập đoàn Siêu máy tính Godin, đột nhiên nảy ra ý tưởng, khá giống thời khắc huyền thoại khi quả táo rơi trúng đầu Isaac Newton. Nó diễn ra trong giấc mơ. Người đàn ông bảy mươi tuổi ấy dường như dựa cơ sở nào, hình dung ra khả năng đột phá trong lịch sử khoa học. Khi thức dậy, Godin gọi điện cho John Skow, phó giám đốc của NSA ở căn cứ quân Meade, Maryland. Sáu giờ sáng, hai người soạn thảo và gửi bức thư cho tổng thống Hoa Kỳ. Bức thư làm chấn động Nhà Trắng đến tận nền móng. Tôi biết điều này vì tổng thống vốn là bạn thân của tôi từ ngày còn ngồi ghế trường đại học. tôi chết cánh đây ba năm, nhưng nhờ có mà tổng thống biết đến công việc của tôi, chính công việc ấy đặt tôi vào trung tâm những kiện tiếp nối sau này.

      Tôi xoa xoa nòng thép mát lạnh của khẩu 38 ly, tự hỏi biết nên ra những gì và bỏ qua gì. Trong đầu tôi vang lên giọng : bỏ qua gì cả. Giọng của ba tôi. Cách đây năm mươi năm, ông đóng vai trò riêng trong lịch sử bí mật của nước Mỹ, và gánh nặng đó rút ngắn cuộc đời ông. Ba tôi mất năm 1988, con người bị ám ảnh, tin chắc rằng cuộc Chiến tranh Lạnh mà ông tiêu phí cả sức lực tuổi trẻ để duy trì kết thúc với nền văn minh bị hủy hoại, vì việc này quá dễ dàng. bỏ qua gì cả...

      “Thông điệp của Godin” tôi tiếp tục, “có tác động như bức thư của Albert Einstein gửi tổng thống Roosevelt vào đầu Thế chiến II, phác họa về tiềm lực chế tạo bom nguyên tử và khả năng Đức Quốc xã có thể chế tạo quả. Bức thư của Einstein kích hoạt Dự án Manhattan, cuộc nghiên cứu bí mật nhằm đảm bảo rằng Mỹ phải là nước đầu tiên có vũ khí hạt nhân. Bức thư của Godin làm xuất dự án có quy mô tương tự nhưng tham vọng là vô bờ bến. Dự án Trinity khởi động sau những bức tường của cơ quan bình phong cho NSA trong Công viên Tam giác Nghiên cứu Bắc Carolina. Chỉ có sáu người hành tinh được biết đầy đủ về Trinity, và bây giờ khi Andrew Fielding chết, chỉ còn lại năm. Tôi là . Bốn người kia là Peter Godin, John Skow, Ravi Nara...”

      Tôi ngồi chôn chân với khẩu súng 38 ly trong tay. Có tiếng gõ cửa. Qua tấm rèm thưa, tôi thấy chiếc xe tải của Federal Express đậu sát vỉa hè. Khoảng trống ngay trước cửa ra vào tôi nhìn thấy được.

      “Ai đấy?” tôi hỏi.

      “FedEx,” giọng đàn ông nghèn nghẹt. “Tôi cần ông ký vào đây.”

      Tôi chờ đợi thư từ nào cả. “Là thư hay bưu phẩm?”

      “Thư.”

      “Ai gửi?”

      “Ờ... Lewis Carroll.”

      Tôi rùng mình. bưu phẩm từ người chết? Chỉ có người duy nhất có thể gửi cho tôi bưu phẩm dưới tên tác giả “Alice ở xứ thần tiên”. Andrew Fielding. Ông gửi cho tôi thứ gì vào cái ngày trước khi chết? Mấy tuần nay Fielding luôn lục lọi như bị ma ám trong các phòng thí nghiệm của Trinity, máy tính cũng như những chỗ khác. Cõ lẽ ông phát được điều gì. Mà có lẽ dù là gì nữa nó cũng dẫn đến cái chết của ông. Tôi cảm thấy có nét là lạ trong cung cách của Fielding ngày hôm qua - dễ gì nhận ra điều đó ở người nổi tiếng lập dị như ông - nhưng đến sáng nay dường như ông trở lại bình thường.

      “Ông có muốn nhận hay ?” người đưa thư hỏi.

      Tôi lên đạn khẩu súng và nhích dần ra phía cửa. Tôi thường khóa xích cửa sau khi về nhà. Tôi mở cửa bằng tay trái và kéo ra hết khoảng căng của xích. Qua khe mở, tôi thấy khuôn mặt của thanh niên cỡ ngoài hai mươi tuổi, mặc đồng phục, tóc buộc kiểu đuôi ngựa ngắn.

      “Đưa bảng giấy qua đây cùng với gói hàng. Tôi ký rồi trả lại .”

      được, vì đây là bảng kỹ thuật số.”

      “Thế lấy tay mà giữ.”

      “Hoang tưởng,” làu bàu, nhưng vẫn đưa tấm bảng dày màu vàng cam qua khe cửa.

      Tôi cầm lấy bút từ treo ở đầu sợi dây, ký tháu tên mình lên màn hình cảm ứng.

      “OK.”

      Tấm bảng điện tử biến mất và phong bì FedEx được tuồn qua. Tôi cầm lấy nó quăng lên sofa, rồi đóng cửa lại đợi đến khi tiếng xe mất hẳn.

      Tôi nhặt phong bì lên và liếc qua nhãn. Chữ “Lewis Caroll” được ký bằng bàn tay nghều ngoào của Fielding. Khi tôi rút tờ giấy ra khỏi phong bì, chất bột màu trắng trơn bóng tràn lên ngón tay tôi. Khoảnh khắc mắt tôi nhận ra màu trắng, phần não tôi lóe lên ý nghĩ, bệnh than. Khả năng này tuy thấp nhưng người bạn thân nhất của tôi vừa mới chết trong hoàn cảnh mờ ám. Có hoang tưởng đôi chút cũng hợp lý thôi.

      Tôi chạy vội vào bếp cọ rửa ngón tay bằng nước rửa chén và nước. Rồi tôi lấy từ tủ ra túi cứu thương màu đen. Trong đó có đủ các thứ thuốc quen thuộc trong nhà bác sĩ y khoa: thuốc giảm đau, thuốc kháng sinh, thuốc gây nôn, kem steroid. Tôi tìm thấy thứ mình cần trong ngăn có khóa bấm: vỉ Cipro, loại kháng sinh mạnh đa năng. Tôi nuốt viên với nước ở vòi, rồi lấy đôi găng tay mổ trong túi đeo vào. động tác phòng ngừa cuối cùng: tôi lấy chiếc áo thun bẩn từ giỏ mây ra buộc quanh mũi và mồm. Tôi nhét chiếc phong bì FedEx và bức thư vào túi Ziploc riêng, niêm kín lại rồi ném lên quầy.

      Dù rất nóng lòng muốn đọc bức thư, phần trong tôi vẫn cố cưỡng lại. Fielding có thể bị giết vì những gì được viết trong đó. Và dù nếu phải như thế việc đọc nó cũng chẳng mang lại điều gì tốt lành.

      Tôi cẩn thận dùng máy hút bụi hút hết chất bột trắng dây ra thảm ở phòng ngoài, tự hỏi liệu tôi có lầm khi cho là Fielding bị giết ? Tôi với ông lâm vào trạng thái hoài nghi suốt mấy tuần qua, nhưng khi đó chúng tôi có lý do để nghi ngờ. Mà thời gian quá kẹt. Đáng lẽ cất máy hút bụi vào tủ chứa đồ, tôi lại ra cửa sau và quẳng nó ra xa tận ngoài sân. Mua cái mới lúc nào chẳng được.

      Tôi vẫn còn bị ám ảnh lạ lùng về bức thư nằm quầy bếp. Tôi thấy mình giống như vợ người lính dám mở bức điện. Nhưng tôi biết bạn tôi chết. Vậy tôi còn sợ gì?

      Sợ cái lý do, tiếng trong đầu tôi trả lời. Fielding . muốn rúc đầu vào cát. Trò chơi dân tộc của Mỹ đấy...

      Cáu kỉnh vì phát ra rằng chết cũng phiền hà như sống, tôi nhặt cái túi Ziploc chứa thư lên, mang ra phòng ngoài. Thư ngắn và viết tay.

      David,

      Chúng ta cần phải gặp lại nhau. Cuối cùng tôi đem những nghi ngờ của mình đến đối chất với Godin. Phản ứng của làm tôi kinh hoàng. Tôi muốn viết cụ thể ra giấy, nhưng tôi biết mình đúng. Đêm thứ Bảy, tôi với Lu Li chạy xe ra chỗ nhà xanh. Hãy đến đấy với chúng tôi. Chỗ ấy gần, nhưng kín đáo. Có thể có thời gian cho tiếp xúc với người bạn cũ của trai , tuy rằng tôi tự hỏi ngay cả ông ta liệu làm được gì vào lúc này. Những việc như thế này có sức mạnh vượt mọi cá nhân. Thậm chí vượt cả loài người, tôi e vậy. Nếu có chuyện gì xảy ra với tôi, đừng quên cái vật bằng vàng hồi trước tôi nhờ giữ giùm. Thời gian gấp lắm, bạn ạ. Hẹn gặp tối thứ Bảy.

      có chữ ký, nhưng dưới các dòng chữ là bức tranh vui vẽ tay hình đầu con thỏ và mặt đồng hồ. Thỏ Trắng, cái biệt danh dễ thương ấy là của các sinh viên vật lý ở trường Cambridge dành tặng cho Fielding. Fielding luôn mang theo chiếc đồng hồ vàng bỏ túi, đó chính là “cái vật bằng vàng” hồi trước ông nhờ tôi giữ hộ.

      Hôm ấy, lúc ngang qua tôi trong hành lang, ông dúi chiếc đồng hồ treo sợi dây chuyền vào tay tôi. “Giữ hộ giờ, được bạn?” ông thầm.”Được thôi”. Rồi ông . giờ sau, ông dừng trước phòng tôi để nhận lại đồ, bảo rằng ông muốn mang nó vào phòng thí nghiệm MRI(4) , ở đó nó có thể bị văng vỡ tung tóe vào máy MRI vì từ trường cực mạnh của máy móc. Nhưng trước đó, Fielding luôn đến phòng thí nghiệm MRI mà chưa bao giờ gửi tôi chiếc đồng hồ bỏ túi ấy. Và cũng bao giờ gửi lại lần nữa. Chắc nó phải ở trong túi ông khi ông chết. Vậy ngày hôm ấy ông gặp chuyện gì?

      Tôi đọc lại bức thư. Đêm thứ bảy, tôi với Lu Li chạy xe ra chỗ nhà xanh. Lu Li là bà vợ mới người Trung Quốc của Fielding. “Nhà xanh” chắc là mật danh của căn nhà ven biển ở Nags Head, Bãi Ngoài, Bắc Carolina. Cách đây ba tháng, khi ông nhờ tôi gợi ý địa điểm cho tuần trăng mật, tôi gợi ý căn nhà Nags Head, chỉ mất độ vài tiếng lái xe. Vợ chồng Fielding rất thích chỗ đó, và ông bạn người này ràng chọn nó làm địa điểm an toàn để bàn về nỗi lo sợ của mình.

      Bàn tay tôi run lên. Người viết những dòng này giờ đây lạnh như cái bàn đặt tử thi của ông, tất nhiên nếu ông nằm trong nhà xác. ai có thể - hoặc muốn - cho tôi biết chính xác bạn tôi được đưa đâu. Và bây giờ đến thứ bột trắng! Chẳng lẽ Fielding bỏ bột trắng vào phong bì mà đả động gì đến nó trong thư? Nếu phải ông ai làm? Ai, nếu phải chính kẻ giết ông?

      Tôi đặt bức thư lên sofa, tháo đôi găng tay phẫu thuật, tua lại băng hình về điểm tôi bước ra khỏi khuôn hình. Tôi quyết định ghi hình lại vì tôi sợ bị giết trước khi có thể với tổng thống những điều mình biết. Bức thư của Fielding thay đổi được gì cả. Thế nhưng, khi chăm chú nhìn vào ống kính, đầu óc tôi lại suy nghĩ mông lung. Tôi gọi cho “người bạn của ông quá cố” của tôi trước Fielding. Lúc nhìn thấy thi thể Fielding nằm sàn phòng làm việc của ông, tôi biết mình phải gọi cho tổng thống. Nhưng tổng thống ở Trung Quốc. Tuy nhiên, ngay khi rời khỏi phòng thí nghiệm Trinity, tôi lại gọi đến Nhà Trắng từ máy điện thoại trả tiền ở nhà hàng Shoney, máy điện thoại “an toàn” mà Fielding từng kể với tôi. Bọn theo dõi ngồi trong xe nhìn thấy nó, và cấu trúc bên trong của nhà hàng khiến việc nghe trộm từ xa bằng microphone parabol rất khó thực .

      Khi tôi “Dự án Trinity”, tổng đài Nhà Trắng nối máy cho tôi tiếp chuyện với giọng đàn ông cộc cằn bảo tôi việc. Tôi xin gặp ông Evan McCaskell, chánh văn phòng của tổng thống, người tôi gặp trong lần đến Phòng Bầu dục. Evan McCaskell ở Trung Quốc với tổng thống. Tôi cầu thông báo cho tổng thống rằng David Tennant cần chuyện gấp với tổng thống về Dự án Trinity, và ai khác liên quan đến Trinity được biết chuyện này. Người đàn ông cầu của tôi được chuyển, rồi ngắt máy.

      Carolina cách Bắc Kinh mười ba múi giờ. Tức là bây giờ ở Bắc Kinh buổi sáng. Ban ngày. Thế mà bốn giờ trôi qua từ lúc tôi gọi điện, vẫn chưa có tin tức gì. Phải chăng thông tin của tôi tới Bắc Kinh trễ do tầm quan trọng của cuộc gặp cấp cao? cách gì biết được. Tôi chắc rằng nếu ai đó ở Trinity nghe được cuộc gọi của tôi trước, tôi bị thanh toán như Fielding trước khi tôi có thể chuyện với tổng thống.

      Tôi nhấn nút START điều khiển từ xa, và lại vào máy quay.

      “Trong vòng sáu tháng qua, tôi từ cảm giác được tham gia vào những cố gắng khoa học cao quý đến chỗ tự hỏi có phải tôi sống đất Mỹ đây ? Tôi thấy những người đoạt giải Nobel vứt bỏ tất cả các nguyên tắc chỉ để tìm kiếm...”

      Tôi im lặng. bóng người vụt qua cửa sổ trước. khuôn mặt. Rất gần, dòm vào trong. Tuy chỉ thấy nó qua tấm rèm mỏng nhưng tôi chắc chắn. khuôn mặt ôm gọn trong mái tóc dài chấm vai. Tôi có cảm giác đó là nét mặt phụ nữ, nhưng...

      Tôi định bật dậy nhưng lại ngồi phịch xuống. Răng tôi rung lên như điện giật, tựa hồ có lá nhôm chèn vào trong lúc trám răng. Mí mắt tôi nặng trĩu mở ra được. phải bây giờ, tôi nghĩ, thọc tay vào túi lấy lọ thuốc kê sẵn theo đơn. Chúa ơi, phải bây giờ. Trong sáu tháng, tất cả các thành viên của nội bộ Trinity đều bị hội chứng thần kinh khủng khiếp. ai giống ai. Tôi bị chứng ngủ rũ hành hạ. Ngủ rũ và mộng mị. Ở nhà, tôi thường đầu hàng chứng ngủ như hôn mê kia. Nhưng khi tôi cần đánh lui cơn mê đó - ở Trinity, hay khi lái xe - chỉ có amphetamine mới làm ngưng những đợt sóng trào dữ dội.

      Tôi rút chai thuốc ra lắc. Rỗng. Tôi nuốt viên cuối cùng hôm qua. Tôi thường lấy amphetamin từ Ravi Nara, bác sĩ tâm thần của Trinity, nhưng Nara và tôi còn chuyện với nhau nữa. Tôi cố đứng dậy, định bụng gọi cho hiệu thuốc và tự kê đơn cho mình, nhưng chuyện đó lố bịch. Tôi thậm chí đứng lên được. Chân tay tôi nặng như chì. Mặt tôi nóng rực và mí mắt bắt đầu sụp xuống.

      Kẻ rình mò lại xuất bên cửa sổ. Tôi tưởng tượng mình giơ súng nhằm mục tiêu, nhưng rồi tôi thấy súng rơi xuống đùi. Ngay cả bản năng sinh tồn cũng đủ sức làm tan màn sương mù tràn ngập óc tôi. Tôi nhìn ra cửa sổ. Khuôn mặt biến mất. khuôn mặt đàn bà. Chắc chắn thế. Chẳng lẽ chúng phái đàn bà đến giết tôi? Tất nhiên. Chúng là lũ thực dụng. Chúng sử dụng bất cứ thứ gì miễn là được việc.

      Có cái gì đó cọ vào tay nắm cửa. Qua lớp sương mù dày đặc, tôi cố sức chĩa súng ra phía cửa. Lại có tiếng gõ sầm sập lên cửa gỗ. Tôi đặt ngón tay lên cò súng nhưng khi trí óc bồng bềnh của tôi truyền lệnh bóp cò, cơn buồn ngủ sụp xuống xóa tan ý thức giống như những ngón tay phẩy tắt ngọn nến.

      Andrey Fielding ngồi mình bên bàn làm việc, điên tiết rít thuốc lá. Bàn tay ông run lên sau cuộc đối đầu với Godin. Chuyện xảy ra từ hôm trước, nhưng Fielding có thói quen tái những cảnh như vậy trong tâm trí để tự dằn vặt về việc ông trình bày trường hợp của mình cách kém hiệu quả ra sao, lẩm nhẩm những lý lẽ quật lại mà lẽ ra ông phải ra nhưng .

      Cuộc cãi vã là kết quả của mấy tuần thất vọng. Fielding thích tranh luận, phải những cuộc tranh luận ngoài phạm vi vật lý. Ông trì hoãn cuộc gặp cho đến phút cuối. Ông đủng đỉnh quanh phòng làm việc, nghĩ mông lung về trong những vấn đề hóc búa trọng tâm của vật lý lượng tử: tại sao hai hạt được bắn ra đồng thời từ cùng nguồn có thể đến cùng đích tại cùng thời điểm, trong khi hạt phải chuyển động xa hơn mười lần so với hạt kia? Giống như hai chiếc Boing 747 bay từ New York đến Los Angeles - chiếc bay thẳng, chiếc kia phải bay về hướng Nam đến Miami trước khi bay sang hướng Tây đến Los Angeles, thế mà cả hai lại hạ cánh ở sân bay L.A. cùng thời điểm. Chiếc 747 thứ nhất bay với tốc độ ánh sáng, vậy mà chiếc còn lại bay vòng qua Miami vẫn đáp xuống sân bay L.A cùng lúc. Có nghĩa là chiếc thứ hai phải bay nhanh hơn tốc độ ánh sáng. Có nghĩa là Thuyết tương đối hẹp của Einstein còn thiếu sót. Có thể lắm chứ. Fielding bỏ ra rất nhiều thời gian suy nghĩ về vấn đề này.

      Ông đốt điếu thuốc khác và nghĩ về bức thư gửi theo đường chuyển phát nhanh cho David Tennant. Nó đầy đủ. Gần như được gì. Nhưng nó phải lên được gì đó trước khi họ gặp nhau ở Nags Head. Có thể lúc nhận thư Tennant làm việc cả chiều cùng hành lang, chỉ cách chỗ ông vài bước chân, nhưng cũng có thể ta ở Fiji. mét vuông nào có bóng bọn theo dõi và các thiết bị ghi . Tennant có thể nhận được bức thư vào chiều nay, nếu nó bị ai chặn lại. Để tránh chuyện đó, Fielding hướng dẫn vợ bỏ thư vào thùng thư chuyển phát nhanh FedEx bên trong bưu điện Durham, ngoài tầm nhìn của bất kỳ kẻ nào theo dõi bà từ xa. Các bà vợ luôn bị như vậy - bị theo dõi ngẫu nhiên từ trong xe mà hề hay biết.

      Tennant là hy vọng duy nhất của Fielding. Tennant quen biết tổng thống. Dù sao ta cũng từng dự tiệc tại Nhà Trắng. Fielding nhận giải Nobel năm 1998, nhưng ông chưa hề được mời đến số 10 phố Downing (5) . bao giờ, chắc chắn đến chín mươi phần trăm. Ông có lần bắt tay thủ tướng trong buổi tiếp tân, nhưng đó lại là chuyện khác. Hoàn toàn khác.

      Ông rít hơi thuốc và nhìn xuống bàn. phương trình nằm đó, hàm sóng suy sập giải được nếu dùng toán học tại. Ngay cả các siêu máy tính mạnh nhất thế giới cũng giải nổi hàm sóng suy sập. Có cỗ máy trái đất có thể đạt được tiến bộ trong việc giải bài toán này - ít nhất ông tin rằng có cỗ máy như thế - và nếu ông đúng thuật ngữ siêu máy tính chẳng mấy chốc trở thành đồ cổ lỗ như cái bàn tính. Nhưng chiếc máy có thể giải hàm sóng suy sập phải có nhiều khả năng hơn là chỉ biết tính toán. Có lẽ đó là tất cả những gì Peter Godin hứa với các quan chức chính phủ ở Washington và còn hơn thế nữa. Cái “hơn” ấy làm Fielding sợ. Vì ai có thể trước các hậu quả mong muốn khi biến chuyện như thế thành . Đúng thực là “Trinity”.

      Ông định về sớm có gì đó bỗng lóe lên trong mắt trái. thấy đau. Rồi tầm nhìn của con mắt ấy xoắn lại thành vệt mờ, hình như có tiếng nổ trong thùy não trái trước trán. Đột quỵ, ông dửng dưng nghĩ. Mình bị đột quỵ. Bình tĩnh lạ lùng, ông với điện thoại để gọi số 911, rồi nhớ ra rằng bác sĩ tâm thần giỏi nhất thế giới làm việc cách ông có bốn phòng.

      Gọi điện chắc nhanh hơn . Ông với tay cầm ống nghe, nhưng cái tượng diễn ra trong hộp sọ ông bỗng bùng ra với tất cả sức tàn phá của nó. Cục máu đông, hay mạch máu bị vỡ, và mắt trái ông trở nên đen ngòm. cơn đau như dao cắt xuyên vào gốc não, trung khu của những chức năng trợ giúp sống. Ngã vật xuống sàn, Fielding lại nghĩ về các hạt khó nắm bắt chuyển động với tốc độ nhanh hơn ánh sáng, các hạt chứng tỏ Einstein sai bằng cách vượt qua gian như thể nó tồn tại. Ông nêu ra ý tưởng thử nghiệm: Nếu Andrew Fielding có thể chuyển động nhanh bằng hạt kia, liệu ông có kịp đến gặp Ravi Nara để được cứu?

      Trả lời: . gì có thể cứu được ông lúc này.

      Ý nghĩ mạch lạc cuối cùng của ông là lời cầu nguyện, hy vọng thầm lặng rằng trong thế giới lượng tử bản đồ, ý thức tồn tại bên ngoài cái mà con người gọi là chết. Đối với Fielding, tôn giáo là ảo tưởng, nhưng trong buổi bình minh của thế kỷ hai mốt, Dự án Trinity mở ra hy vọng về bất tử mới. Và đó phải là quái vật Rube Goldberg (6) mà họ giả vờ tạo ra cách phòng làm việc của ông có trăm mét.

      Tác động của nền nhà giống như nước.

      Tôi giật mình tỉnh dậy và nắm chặt khẩu súng. Ai đó dộng ầm ầm lên cửa trước làm căng sợi dây xích an toàn. Tôi cố đứng dậy nhưng cơn mơ làm tôi mất phương hướng. ràng của nó vượt xa tất cả những gì tôi trải nghiệm cho đến lúc này. Tôi cảm thấy mình chết, tôi là Andrew Fielding vào thời điểm ông chết...

      “Bác sĩ Tennant?” giọng phụ nữ hét lên. “David, có trong ấy ?”

      Bác sĩ tâm thần của mình? Tôi đặt tay lên trán và cố vùng vẫy để trở về với thực tại: “Bác sĩ Weiss? Rachel? đấy à?”

      “Vâng! tháo xích !”

      “Tôi đến đây,” tôi lẩm bẩm. “ mình à?”

      “Vâng! mở cửa !”

      Tôi nhét khẩu súng xuống dưới đệm văng, loạng choạng ra cửa. Khi chạm đến móc khóa xích, tôi mới giật mình nghĩ ra tôi chưa bao giờ cho bác sĩ tâm thần biết chỗ ở của mình.




      CHƯƠNG 2


      Rachel Weiss có mái tóc đen huyền, nước da ôliu và đôi mắt màu mã não. Cách đây mười tuần, tôi đến phòng khám của để khám bệnh lần đầu. Tôi nhớ đến nhân vật Rebecca trong tiểu thuyết Ivanhoe của Ngài Walter Scott. Chỉ trong tiểu thuyết mới có vẻ đẹp hoang dã và phóng túng như của Rebecca. Ở Rachel Weiss toát ra vẻ khắc khổ nét khiến ngoại hình và quần áo của tương thích, dường như phải hành xử khác để che giấu phong cách tự nhiên của mình, sợ rằng nó có thể khiến mọi người hình dung như cái gì khác hơn chứ phải bác sĩ chuyên khoa xuất sắc.

      “Cái gì thế này?” hỏi, chỉ tay vào tấm nệm văng nơi tôi giấu khẩu súng. “ lại tự kê đơn thuốc đấy à?”

      . Làm thế nào tìm được nhà tôi?”

      “Tôi biết chị ở phòng Nhân Đại học Virginia. bỏ khám hai lần liên tiếp rồi, nhưng ít ra hai lần ấy cũng gọi trước để báo hủy hẹn. Hôm nay lại để tôi ngồi đợi mà hề gọi điện. Với trạng thái tinh thần của thời gian gần đây, muốn tôi làm gì cho bây giờ?” Đôi mắt Rachel hướng tới màn hình camera “Ồ, David... lại trở lại cái này sao? Tôi tưởng thôi từ nhiều năm rồi.”

      “Nó phải cái nghĩ đâu.”

      có vẻ tin. Cách đây năm năm, lái xe say rượu tông xe của vợ tôi xuống hồ nước ven đường. Nước sâu lắm, nhưng cả Karen và con Zooey của tôi chết đuối trước khi có người đến cứu. Lúc đó tôi làm việc ở chính cái bệnh viện mà họ đưa vợ con tôi đến sau vụ tai nạn. Lòng tôi tan nát khi nhìn các nhân viên cấp cứu cố gắng trong vô vọng để làm đứa con bốn tuổi của tôi tỉnh lại. Tôi ngồi lì hàng giờ ở nhà trước màn hình ti vi, xem lại biết bao nhiêu lần băng hình quay cảnh bé Zooey lẫm chẫm tập , Zooey nắc nẻ cười trong vòng tay mẹ, ôm chầm tôi trong buổi sinh nhật lần thứ ba của nó. nghiệp y khoa của tôi lụi tàn, rồi chết hẳn. Tôi rơi vào trạng thái trầm cảm lâm sàng. Đó là chuyện đời tư duy nhất mà tôi kể chi tiết với bác sĩ tâm thần của mình, và chỉ sau lần khám thứ ba mới kể rằng năm ngoái mất đứa con trai duy nhất vì bệnh bạch cầu.

      thổ lộ điều này vì tin rằng những giấc mơ rối loạn của tôi là do nỗi đau mất mát gia đình gây nên, và muốn tôi biết chính cũng phải chịu nỗi đau như thế. Rachel cũng mất chỉ mình đứa con. chịu nổi cảnh con trai bị bệnh tật tàn phá, tay luật sư chồng bỏ về New York. Giống như tôi, Rachel rơi xuống hố sâu tuyệt vọng nhưng may sao ngoi lên được. Thuốc men và trị liệu cứu được . Nhưng giống như cha tôi, tôi luôn hết sức thu mình vào vỏ ốc, và vật lộn trở lại cuộc sống đơn chiếc. ngày trôi qua mà tôi nhớ vợ con, nhưng những ngày ngồi nức nở trước đoạn phim video cũ qua rồi.

      “Đây phải là về Karen và Zooey,” tôi bảo Rachel. “Làm ơn đóng cửa lại.”

      vẫn đứng ở ngưỡng cửa, tay cầm chìa khóa xe, là nửa muốn tin tôi nửa nghi ngờ chẳng kém. “Thế nó là cái gì vậy?”

      “Công việc. Làm ơn đóng cửa lại.”

      Rachel ngập ngừng giây lát, rồi đóng cửa và nhìn sâu vào mắt tôi. “Có lẽ đến lúc cho tôi biết về công việc của .”

      Đây là điểm bất đồng từ lâu giữa tôi và . Rachel coi tin cẩn giữa bệnh nhân với bác sĩ cũng thiêng liêng như xưng tội, và thiếu tin cậy của tôi làm bị tổn thương. cho rằng những cầu giữ bí mật và lời cảnh báo nguy hiểm của tôi chẳng qua là dấu hiệu thực tại hoang tưởng được tôi dựng lên để phòng vệ tâm lý khỏi mọi soi mói. Tôi trách . Theo cầu của NSA, tôi phải đến cuộc hẹn khám đầu tiên dưới cái tên giả. Nhưng mười giây sau khi chúng tôi bắt tay nhau, nhận ra ngay bộ mặt tôi bìa cuốn sách tôi viết. cho rằng mưu mẹo của tôi là do chứng hoang tưởng của người nổi danh trong giới y khoa, tôi cũng chẳng buồn cải chính. Nhưng sau vài tuần, khi tôi từ chối tiết lộ bất cứ điều gì về công việc của mình - và cứ khăng khăng cho là để “bảo vệ” - đâm ngờ rằng tôi bị tâm thần phân liệt.

      Có điều Rachel biết là tôi chỉ được phép đến gặp sau khi thắng cuộc cãi cọ nảy lửa với John Skow, giám đốc Dự án Trinity. Chứng ngủ rũ của tôi phát sinh do công việc ở Trinity, và tôi cần hỗ trợ chuyên môn để hiểu những giấc mơ kèm trong những cơn ngủ rũ ấy.

      Đầu tiên NSA đưa từ căn cứ quân Meade đến bác sĩ tâm thần, nhà tâm thần học-dược lý trị liệu, bệnh nhân chính của ông ta là các kỹ thuật viên luôn phải vật lộn với stress kinh niên và trầm cảm. Ông ta muốn nhồi nhét cho tôi đủ thứ thuốc hưng phấn và tìm hiểu xem làm thế nào để trở thành bác sĩ có sách được xuất bản toàn thế giới như tôi. Sau đó họ đưa đến phụ nữ, chuyên gia về rối loạn thần kinh chức năng ở những người bị buộc phải làm việc lâu dài trong bí mật. Trong suốt thời gian ở lại đây, tôi thấy kiến thức của về ý nghĩa của những giấc mơ chỉ hạn chế ở việc “tích lũy chút ít từ sách vở”. Giống như đồng nghiệp của mình, muốn quy định cho tôi chế độ điều trị chống suy nhược và và chống loạn tâm thần. Nhưng cái tôi cần là nhà phân tâm học có kinh nghiệm phân tích các giấc mộng, thể loại mà NSA có.

      Tôi gọi các bạn bè ở trường y của UVA và phát ra Rachel Weiss, chuyên gia phân tích ưu tú thuộc trường phái Jung của đất nước, ở trường y thuộc Đại học Duke, cách trụ sở Trinity chưa đến mười lăm dặm. Skow cố ngăn tôi gặp , nhưng sau cùng tôi bảo thẳng ông ta rằng chỉ có bắt tôi mới cấm được tôi, nhưng muốn thế, ông ta phải gọi cho tổng thống trước , tổng thống là người chỉ định tôi vào dự án này.

      “Có chuyện rồi phải,” Rachel . “Cái gì vậy? Ảo giác lại thay đổi à?”

      Ảo giác, tôi cay đắng nghĩ. bao giờ ta gọi là những giấc mơ.

      “Chúng mạnh lên phải ? Trở nên riêng tư hơn? sợ phải ?”

      “Andrew Fielding chết rồi,” tôi bải hoải .

      Rachel chớp mắt. “Andrew Fielding là ai?”

      “Ông ấy là nhà vật lý.”

      Mắt mở to. “Nhà vật lý Andrew Fielding chết rồi?”

      Điều này cho thấy tiếng tăm Fielding lớn đến cỡ nào, đến bác sĩ y khoa hiểu biết mấy về vật lý lượng tử cũng biết tên ông! Nhưng điều đó làm tôi ngạc nhiên. Có những đứa bé sáu tuổi cũng nghe đến “Thỏ Trắng”. Con người ấy làm sáng tỏ phần lớn những bí về vật chất tối trong vũ trụ, chỉ đứng thứ hai sau bạn ông là Stephen Hawking trong bầu trời vật lý thiên văn.

      “Ông ấy chết do đột quỵ,” tôi . “Hay người ta bảo thế.”

      “Ai bảo thế?”

      “Các đồng .”

      làm việc với Andrew Fielding?”

      “Phải. Từ hai năm nay”

      Rachel lắc đầu sửng sốt. “ tin ông ấy bị đột quỵ à?”

      .”

      khám ông ấy chưa?”

      “Có khám qua loa. Ông ấy ngã gục trong văn phòng. bác sĩ khác phát ra ông ấy trước khi ông ấy chết. ta rằng ông ấy bị liệt nửa người bên trái, và dãn đồng tử trái. Nhưng...”

      “Sao?”

      “Tôi tin ta. Fielding chết quá nhanh so với cơn đột quỵ. Trong vòng bốn hoặc năm phút.”

      Rachel mím môi. “Chuyện đó đôi khi cũng xảy ra. Đặc biệt khi bị xuất huyết nghiêm trọng.”

      “Đúng, nhưng tương đối hiếm, và dãn đồng tử phải là chuyện thường thấy.” Điều này có thể đúng, nhưng phải cái tôi nghĩ. Tôi nghĩ Rachel tuy là bác sĩ tâm thần giỏi nhưng cũng chưa qua mười sáu năm thực hành chuyên khoa nội như tôi. Người ta thường có cảm giác chính xác về số ca nào đấy, số người nào đấy. Giác quan thứ sáu. Fielding phải bệnh nhân của tôi, nhưng ông với tôi rất nhiều về sức khỏe của ông trong hai năm qua. Tình trạng xuất huyết ồ ạt phải điều mà tôi cảm nhận. “Coi này, tôi biết xác ông ấy để ở đâu, và tôi nghĩ có mổ tử thi, bởi vậy...”

      “Tại sao mổ tử thi?” Rachel ngắt lời.

      “Bởi vì tôi nghĩ ông ấy bị giết.”

      “Nhưng ông ấy chết trong phòng làm việc.”

      đúng thế.”

      cho rằng ông ấy bị giết ở nơi làm việc? Bạo lực công sở?”

      vẫn hiểu. “Tôi muốn vụ giết người có dự mưu. Tay giết người này chuyên nghiệp, có tính toán kỹ lưỡng.”

      “Nhưng... tại sao người ta lại giết Andrew Fielding? Ông ấy già rồi, đúng ?”

      “Ông ấy sáu mươi ba.” Nhớ lại Fielding nằm sõng soài sàn phòng làm việc, mồm há hốc, đôi mắt vô hồn nhìn trừng trừng lên trần nhà, bỗng nhiên tôi thấy bắt buộc phải với Rachel tất cả. Nhưng liếc nhìn ra cửa sổ, thôi thúc trong tôi bị nguội ngay. Có thể microphone parabol chĩa vào cửa kính.

      “Tôi thể điều gì quá giới hạn. Rất tiếc. nên về , Rachel.”

      tiến hai bước về phía tôi, nét mặt quả quyết. “Tôi đâu cả. Coi này, ở bang này nếu có bất kỳ ai chết mà được bác sĩ giám sát đều phải khám nghiệm tử thi. Đặc biệt trong những trường hợp mờ ám. Luật pháp cầu thế.”

      Tôi cười trước ngây thơ của . “ có cuộc mổ tử thi nào đâu. Dù sao cũng khám nghiệm công khai.”

      “David...”

      “Tôi thực thể nhiều hơn. Đáng lẽ ra tôi nên nhiều như thế. Tôi chỉ muốn hiểu... chuyện đó là . ”

      “Tại sao thể nhiều hơn?” giơ bàn tay nhắn duyên dáng lên. “, để tôi tự trả lời. Bởi vì cho tôi biết nhiều hơn đặt tôi vào thế nguy hiểm, đúng ?”

      “Đúng.”

      đảo mắt. “David, ngay từ đầu đưa ra cầu khác thường về bí mật. Và tôi tuân theo. Tôi với đồng nghiệp rằng những giờ ở phòng khám của tôi là nghiên cứu cho cuốn sách thứ hai của , chứ về những gì xảy ra.”

      “Và biết rằng tôi rất cảm kích chuyện đó. Nhưng nếu tôi đúng về chuyện Fielding, bất kỳ điều gì tôi ra bây giờ đe dọa tính mạng . hiểu ?”

      , tôi bao giờ hiểu được. Loại công việc gì mà lại có thể nguy hiểm đến thế?”

      Tôi lắc đầu.

      “Đây giống như câu đùa dở tệ.” cười với vẻ kỳ lạ. “ ‘Tôi có thể với , nhưng sau đó tôi buộc phải giết .’ suy nghĩ hoang tưởng điển hình.”

      nghĩ rằng tôi bịa ra toàn bộ chuyện này ?”

      Rachel thận trọng trả lời. “Tôi tin rằng tin mọi điều với tôi là .”

      “Như vậy, tôi vẫn còn bị ảo giác.”

      phải thừa nhận rằng, đôi lúc bị rối loạn ảo giác. Vài vụ gần đây là những ảo giác tôn giáo điển hình.”

      “Nhưng phần lớn ,” tôi nhắc . “Tôi là người vô thần, điều đó có điển hình ?”

      , tôi thừa nhận điều này. Nhưng từ chối cho nghiên cứu kỹ chứng ngủ rũ của . Hay là chứng động kinh. Hay thậm chí cả xét nghiệm đường huyết cũng .”

      Tôi được nhà tâm thần học hàng đầu thế giới nghiên cứu kỹ lưỡng. “Cái đó được điều tra ở nơi làm việc.”

      “Bởi Andrew Fielding. Ông ấy phải là tiến sĩ y khoa, đúng .”

      Tôi quyết định dấn thêm bước. “Ravi Nara đoạt giải Nobel y học ấy ư?”

      há hốc miệng. “Ravi Nara. Nghe như trong giải thưởng Nobel y học?”

      “Chính ,” tôi giọng chán ghét.

      làm việc với Ravi Nara?”

      “Phải. thằng ngu. Chính Fielding chết vì đột quỵ.”

      Rachel có vẻ bối rối. “David, tôi biết gì. Có đúng là làm việc với những người nổi tiếng ấy?”

      “Điều đó khó tin đến thế cơ à? Bản thân tôi cũng khá nổi tiếng đấy chứ.”

      “Vâng, nhưng... cùng kiểu. Lý do nào khiến những người nổi tiếng như thế phải làm việc chung với nhau? Họ ở trong những lĩnh vực hoàn toàn khác nhau.”

      “Họ như thế , cho đến cách đây hai năm.”

      “Ý muốn gì?”

      trở về văn phòng , Rachel.”

      “Tôi hoãn cuộc hẹn với bệnh nhân cuối cùng để có thể đến đây.”

      “Hãy để tôi thanh toán cho chỗ thời gian bị mất.”

      đỏ mặt lên. “ cần phải xúc phạm tôi. Làm ơn hãy cho tôi biết chuyện gì xảy ra. Tôi quá mệt vì nghe mãi về các ảo giác của rồi.”

      “Những giấc mơ.”

      “Gì cũng được. Chúng đủ để tôi làm việc.”

      “Với mục đích của . Nhưng tôi với có những mục tiêu khác nhau. Luôn luôn là như thế. cố giải câu đố về David Tennant. Tôi cố giải câu đố về giấc mơ của tôi.”

      “Nhưng câu trả lời gắn chặt với vấn đề là ai! Các giấc mơ độc lập với phần còn lại của bộ óc . ...”

      Tiếng chuông điện thoại cắt ngang lời . Tôi đứng lên vào trong bếp để nghe, cái gì rất lạ nhói lên trong ngực tôi. Người gọi điện có thể là tổng thống Hoa Kỳ.

      “Bác sĩ Tennant đây,” tôi theo thói quen từ nhiều năm.

      “Bác sĩ David?” tiếng phụ nữ bấn loạn kêu lên bằng giọng châu Á. Đó là Lu Li, người vợ Trung Quốc của Fielding. Hay bà quả phụ...

      “Tôi David đây, chị Lu Li. Tôi xin lỗi chưa kịp gọi cho chị.” Tôi cố tìm lời lẽ thích hợp nhưng chỉ thấy những câu chữ khuôn sáo. “Tôi sao bày tỏ hết nỗi đau đớn của tôi về việc Andrey qua đời...”

      tràng tiếng Quảng Đông điểm thêm vài từ tiếng ào ạt tuôn vào dây . Tôi cần phải hiểu toàn bộ mới biết rằng mình nghe phụ nữ mất chồng quẫn trí bên bờ vực suy sụp. Chỉ Chúa mới biết bọn an ninh của Trinity gì với Lu Li, và bà làm gì. Bà mới đến Mỹ được ba tháng nay, việc nhập cảnh của bà được Bộ Ngoại giao giải quyết chóng vánh sau khi có cú điện thoại thúc đẩy ra mặt từ Nhà Trắng gọi tới.

      “Tôi biết đây là ngày khủng khiếp,” tôi bằng giọng an ủi. “Nhưng tôi mong chị bình tâm lại.”

      Lu Li hổn hển.

      “Chị cố gắng hít thở sâu,” tôi , cố tìm cách tiếp cận vấn đề. An toàn nhất là dùng cái vỏ bọc đoàn thể mà NSA mực khẳng định ngay từ đầu. Theo như phần còn lại của các công ty thuộc Công viên Tam giác Nghiên cứu biết, Tập đoàn Quang học Argus phát triển các phần tử máy tính quang học được sử dụng trong dự án quốc phòng của chính phủ. Lu Li thể biết nhiều hơn điều này.

      “Công ty gì với chị?” tôi thận trọng hỏi.

      “Andy chết rồi!” Lu Li khóc. ”Họ bảo ông ấy chết vì chảy máu não, nhưng tôi biết gì cả. Tôi biết phải làm gì.”

      Tôi thấy lúc này nêu ra cái giả thiết về vụ giết người khiến bà vợ góa của Fielding kích động thêm chẳng ích lợi gì. “Chị Lu Li ạ, Andrew sáu mươi ba tuổi, và phải trong tình trạng sức khỏe tốt nhất. Đột quỵ phải là việc thể xảy ra trong trường hợp này.”

      hiểu, bác sĩ David! Andy cảnh báo tôi điều này.”

      Tay tôi nắm chặt ống . “Chị muốn gì?”

      đợt thác lũ tiếng Quảng Đông nữa tràn qua dây , nhưng sau đó Lu Li chuyển sang thứ tiếng ngắc ngứ. “Andy bảo tôi chuyện này có thể xảy ra. Ông ấy , ‘Nếu xảy ra chuyện gì với tôi, hãy gọi bác sĩ David. ấy biết phải làm gì.’ ”

      cơn đau bóp nghẹt tim tôi. Fielding đặt niềm tin như thế vào tôi... “Chị muốn tôi làm gì?”

      “Đến đây. chuyện với tôi. Cho tôi biết tại sao chuyện này xảy đến với Andy.”

      Tôi lưỡng lự. NSA có thể nghe được cuộc trò chuyện này. Đến nhà Lu Li bây giờ chỉ gây thêm rủi ro cho bà ấy, cho cả tôi nữa. Nhưng tôi còn lựa chọn nào khác. thể phụ lòng bạn tôi. “Tôi đến trong vòng hai mươi phút nữa.”

      “Cám ơn, cám ơn David. Làm ơn, cám ơn.”

      Tôi gác máy, quay vào phòng khách. Rachel đứng ngay ngưỡng cửa bếp.

      “Tôi phải đây,” tôi bảo . “Tôi rất cảm kích vì đến tận đây thăm bệnh cho tôi. Tôi biết rằng cuộc thăm này nằm ngoài trách nhiệm.”

      “Tôi cùng với . Tôi nghe được vài điều, và tôi cùng với .”

      thể được.”

      “Tại sao?”

      có lý do để đến đó. phải người trong cuộc.”

      khoanh tay trước ngực. “Đối với tôi đây là chuyện , được chưa? Nếu quả lời là đúng, tôi tìm bà góa phụ quẫn trí của Andrew Fielding, chỉ mất ít phút lái xe. Và bà ấy làm sáng tỏ những gì với tôi.”

      cần thiết. Tôi biết Andrew Fielding tiết lộ bí mật với bà ấy đến mức nào. Vả lại bà ấy hầu như tiếng .”

      “Andrew Fielding dạy vợ mình tiếng à?”

      “Ông ấy giỏi tiếng Quảng. Cộng thêm tám thứ tiếng khác nữa. Còn bà ấy mới đến đây được vài tháng.”

      Rachel dùng lòng bàn tay vuốt phẳng nếp váy. “ càng phản đối tôi lại càng thấy biết nếu tôi đến đó làm lộ tẩy câu chuyện của chỉ là ảo giác.”

      Cơn giận tràn qua người tôi. “Thôi tôi cũng đành liều để đến vậy. Nhưng chưa biết nó nguy hiểm như thế nào. có thể chết. Đêm nay.”

      “Tôi nghĩ thế. ”

      Tôi cầm lấy túi Ziploc có chứa chất bột trắng và chiếc phong bì FedEx đưa cho . “Cách đây ít phút tôi nhận được bức thư do Fielding gửi. Chất bột này ở trong phong bì thư.”

      nhún vai. “Trông nó giống như cát. Cái gì thế?”

      “Tôi cũng chẳng biết. Tôi sợ rằng nó là bệnh than. Hoặc cái gì đó giết Fielding.”

      cầm lấy chiếc túi từ tay tôi. Tôi nghĩ trước hết phải xem xét chất bột, nhưng lại đọc nhãn chiếc phong bì FedEx.

      “Đây ghi người gửi là Lewis Caroll.”

      “Đó là mật hiệu. Fielding thể liều đưa tên của mình vào hệ thống máy tính của FedEx. NSA chộp được ngay. Ông ấy lấy mật danh là Lewis Caroll bởi ông có biệt danh “Thỏ Trắng”. nghe rồi phải ?”

      Trông Rachel như nghĩ lung về chuyện ấy. “Tôi chắc nghe . Bức thư đâu rồi?”

      Tôi bước ra cửa trước. “Trong cái túi nhựa văng ấy. Đừng có mở ra.”

      cúi xuống đọc nhanh dòng chữ. “ có chữ ký.”

      “Tất nhiên là . Fielding biết những ai có thể đọc nó. Ký hiệu con thỏ là chữ ký của ông ấy.”

      nhìn tôi đầy ngờ vực. “Cho tôi theo, David. Nếu những gì tôi thấy đúng như điều , từ giờ trở tôi cẩn thận làm theo những lời cảnh báo của . còn nghi ngờ nữa.”

      “Thế chẳng khác nào quẳng xuống nước để chứng tỏ có cá mập dưới đó. Lúc thấy chúng quá muộn rồi.”

      “Trong các truyện tưởng tượng loại này bao giờ cũng thế.”

      Tôi lấy chùm chìa khóa quầy bếp. Rachel theo sát gót tôi. “Thôi được, muốn đến? Lên xe của theo tôi.”

      lắc đầu. “ đâu. bỏ rơi tôi ngay ngã tư đèn đỏ đầu tiên.”

      “Đồng nghiệp của hẳn phải với rằng cùng bệnh nhân đuổi theo những tưởng tượng hoang đường là nguy hiểm chứ? Đặc biệt là bệnh nhân bị chứng ngủ rũ.”

      “Đồng nghiệp của tôi biết . Còn về chứng ngủ rũ, còn chưa tự giết mình cơ mà.”

      Tôi lần tay xuống dưới đệm sofa, lấy khẩu súng ra, nhét vào cạp quần. “Cả cũng chưa biết tôi.”

      quan sát cái báng súng, rồi nhìn thẳng vào mắt tôi. “Tôi nghĩ rằng tôi biết . Và tôi muốn giúp .”

      Nếu chỉ là bác sĩ tâm thần của tôi, chắc tôi để lại đó. Nhưng trong thời gian dài khám bệnh, chúng tôi nhận ra điều gì đó ở nhau, tình cảm nên lời mà hai con người từng trải qua mất mát to lớn chia sẻ với nhau. Dù coi tôi là kẻ có bệnh, vẫn chăm sóc tôi trong thời gian dài theo cách khác hẳn mọi người. Đưa theo có lẽ là ích kỷ, nhưng đơn giản là, tôi muốn mình.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 3


      Geli Bauer ngồi trong bóng tối của tòa nhà Trinity, tổ hợp tầng hầm sáng hiu hắt nhờ màn hình máy tính và màn hình theo dõi. Từ đây, những sợi dây điện li ti tỏa ra để theo dõi người và máy móc thiết bị của Trinity. Nhưng đây mới là trung tâm địa hạt của ả. Chỉ cần chạm tay vào bàn phím máy tính là Geli có thể giao tiếp với siêu máy tính NSA ở căn cứ quân Meade và theo dõi các cuộc chuyện, kiện ở bên kia địa cầu. Mặc dầu trong ba mươi hai năm có mặt trái đất này ả nắm nhiều loại quyền lực, nhưng đến giờ ả mới cảm thấy kích động khi biết toàn bộ cái thế giới bị ràng buộc bởi điện tử có thể bị điều khiển chỉ bằng ngón tay chạm của mình.

      giấy tờ, Geli làm việc cho Siêu máy tính Godin, có trụ sở ở Mountain View, California. Nhưng chính cái quan hệ bán chính phủ của công ty ả với NSA nâng ả lên đến tầng bình lưu của quyền lực. Nếu ả cho rằng tình hình nào đó là khẩn cấp, ả có thể ngăn chặn những đoàn tàu, đóng cửa các sân bay quốc tế, thay đổi nhiệm vụ của vệ tinh do thám, cho trực thăng vũ trang bay lên phận nước Mỹ, hoặc lệnh cho chúng phát hỏa. phụ nữ đại nào khác nắm được những quyền lực như thế - xét mặt nào đó thẩm quyền của ả còn cạnh tranh với cả quyền lực của cha mình - và Geli có ý định từ bỏ nó.

      màn hình phẳng trước mặt ả sáng lên nội dung cuộc chuyện giữa David Tennant với quan chức nào đó của Nhà Trắng, được ghi ở nhà hàng Shoney chiều hôm ấy, nhưng Geli còn nhìn đến nó nữa. Ả qua ống nghe với nhân viên an ninh của mình, kẻ theo dõi ngôi nhà của Tennant.

      “Tôi chỉ nghe được cuộc chuyện trong bếp,” ả . “Nó có ý nghĩa gì cả. ta và bác sĩ Weiss chắc chuyện ở nơi khác.”

      “Có lẽ họ làm tình với nhau.”

      “Nếu thế chúng ta phải nghe thấy. Tôi trông Weiss cứ như con ngố. Giống ấy lúc nào cũng im lặng.”

      muốn tôi làm gì?”

      “Lọt vào trong kiểm tra mấy cái mic.”

      Geli gõ phím bàn phím trước mặt, kết nối với cựu chỉ huy Delta trẻ tuổi tên là Thomas Corelli kiểm soát căn nhà của Andrew Fielding.

      nghe thấy gì, Thomas?”

      “Tiếng động nền bình thường. Ti vi. Tiếng ầm ầm, lách cách.”

      có nghe thấy đầu dây vợ Fielding ?”

      “Có, chỉ có điều khó lòng mà hiểu thứ giọng Tàu khựa ấy.”

      ở ngoài tầm nhìn à?”

      “Tôi đậu xe bên đường vùng ngoại ô.”

      “Tennant đến chỗ các trong năm phút nữa. Có phụ nữ cùng , bác sĩ Rachel Weiss. Giữ liên lạc nhé.”

      Geli bấm thoát, rồi rành rọt “JPEG. Weiss, Rachel.”

      tấm ảnh kỹ thuật số của Rachel Weiss lên màn hình. Đó là ảnh cận mặt, chụp bằng ống kính tele khi nữ bác sĩ tâm thần bước ra khỏi bệnh viện trường Đại học Duke. Rachel Weiss lớn hơn Geli ba tuổi, nhưng Geli nhận ra típ người này. Ả biết những như thế trong trường nội trú ở Thụy Sĩ. Những con người ngừng nỗ lực. Đa số là Do Thái. Ả có thể biết Rachel là người Do Thái mà cần nghe tên hay xem lý lịch. Ngay cả với bộ tóc khá mốt tung bay trong gió, trông Rachel vẫn như người vác cả thế giới vai. ta có đôi mắt đen của người tuẫn đạo, những vết nhăn sớm hằn bên khóe miệng. ta là trong số các nhà phân tâm học theo trường phái Jung hàng đầu thế giới, và người ta thường đạt đến trình độ ấy nếu như bị ám bởi công việc.

      Geli luôn phản đối việc dính líu với Weiss. Chính Skow cho phép điều này. Lý thuyết của Skow là già néo đứt dây. Nhưng Geli gặp rắc rối to khi có vấn đề vi phạm an ninh. Để đề phòng những cố này, Geli nhận bản ghi các cuộc thăm bệnh của Weiss với Tennant và ghi tất cả các cuộc điện thoại của bác sĩ Weiss. Mỗi tuần lần, trong các thuộc hạ của Geli lẻn vào phòng làm việc của Weiss, copy tất cả hồ sơ về Tennant để đảm bảo có gì lọt khỏi tầm kiểm soát ngặt nghèo của Geli.

      Đó là phiền nhiễu khi quan hệ với thường dân. Trước đây ở Alamos, với Dự án Manhattan cũng xảy ra đúng như thế. Trong cả hai trường hợp, chính phủ cố gắng kiểm soát nhóm các nhà khoa học dân thiên tài, bọn họ vì dốt nát, ngoan cố và mơ mộng nên gây ra những mối đe dọa to lớn cho công việc của chính mình. Khi tuyển mộ những người thông minh nhất thế giới, có những kẻ lập dị.

      Tennant là kẻ lập dị. Giống như Fielding. Giống như Ravi Nara, nhà thần kinh học đoạt giải Nobel của dự án. Cả sáu yếu nhân của Trinity bản thỏa thuận về đảm bảo an ninh và bảo mật tối đa nhưng họ vẫn tin rằng họ có thể làm bất kỳ điều gì mình muốn. Đối với họ, thế giới là Công viên Disney. Và bọn bác sĩ là tệ nhất. Ngay cả trong quân đội, dường như điều lệnh cũng áp dụng cho các bác sĩ quân y. Nhưng đêm nay Tennant sắp sửa bước vượt quá xa lằn ranh, có thể khiến ta mất đầu.

      Ống nghe của ả kêu “bíp” tiếng. Ả mở mạch nối với người của mình ở nhà Tennant. “Gì thế?”

      “Tôi vào trong rồi. thể tin được đâu. Có kẻ nào trám ma tít lên các lỗ đặt mic.”

      Geli thấy ngực mình nhói lên kỳ lạ. “Làm sao Tennant biết được chỗ đặt mic?”

      “Ngoài máy quét ra thể nào.”

      “Kính phóng đại?”

      “Nếu biết tìm kính. Nhưng như vậy mất hàng giờ, mà chắc tìm ra hết.”

      Máy quét. Làm thế quái nào bác sĩ nội khoa lại có máy scan? Bỗng ả hiểu ra. Fielding! “Tennant nhận gói bưu phẩm FedEx. có thấy cái phong bì đâu ?”

      .”

      “Chắc mang theo người. còn thấy gì nữa ? Có gì lạ ?”

      “Có máy quay đặt giá ba chân.”

      Cứt . “Có băng trong đó ?”

      “Để tôi xem. có băng.”

      “Còn gì nữa?”

      máy hút bụi ở sân sau.”

      Cái khỉ gì vậy? “ máy hút bụi à. Lấy cái túi ra mang về đây. Chúng ta băm ra gửi sang căn cứ quân Meade phân tích. Còn gì nữa?”

      “Hết rồi.”

      “Xem lại lần cuối, rồi chuồn.”

      Geli bấm thoát rồi , “Skow, nhà”. Máy tính quay số dinh thự Raleigh của giám đốc điều hành Dự án Trinity.

      “Geli?” Tiếng Skow. “Có chuyện gì thế?”

      Bauer luôn luôn nghĩ Kennedy mỗi khi ả nghe giọng Skow. Skow là quý tộc Boston, với bộ óc to gấp đôi những bộ óc bình thường của dòng giống gã. Đáng lẽ theo học khoa học nhân văn và luật như thông lệ trong giai cấp của mình, gã lại có bằng cao học về thiên văn và toán, và tám năm giữ cương vị phó giám đốc các dự án đặc biệt của NSA. Khu vực quan trọng nhất mà gã chịu trách nhiệm là Trung tâm Nghiên cứu Siêu máy tính tuyệt mật của cơ quan này. lý thuyết, Skow là cấp của Geli, nhưng quan hệ giữa họ thường mấy dễ chịu. Geli chịu trách nhiệm độc lập về an ninh của Trinity, nhưng được phép giết người. Ả giữ quyền hành này vì Peter Godin - lấy cớ tình trạng kém an ninh trong các phòng thí nghiệm của chính phủ - cầu được chọn đội ngũ riêng để bảo vệ Trinity.

      Ông già tìm thấy ả đúng lúc ả vừa xuất ngũ. Geli toàn tâm toàn ý tin tưởng vào nền văn hóa binh nghiệp, nhưng ả thể chịu đựng lâu hơn nữa thói quan liêu vừa nhen thủ cựu vừa ngang ngược vênh váo của quân đội, và cái tiêu chuẩn chất lượng vô cùng tận đối với tân binh. Khi Godin xuất , lão cho ả công việc mà ả mơ ước cả đời nhưng dám tin là có đời này.

      Ả nhận 700.000 đô la năm để làm trưởng Ban An ninh cho các dự án đặc biệt của Siêu máy tính Godin. Khoản tiền lương kếch xù, nhưng Godin là tỷ phú, lão có thể trả được. Điều kiện làm việc chỉ có . Ả phải tuân theo mọi mệnh lệnh của lão, được hỏi lại và được quan tâm đến tính hợp pháp. Ả được tiết lộ bất kỳ thông tin nào về nhân viên, cơ quan, công việc của mình. Nếu làm thế, ả chết. Geli có quyền thuê nhân viên cho riêng mình, nhưng họ cũng phải chấp nhận những điều kiện và trừng phạt tương tự, và ả phải thi hành án phạt đó. Ả lấy làm lạ rằng người tiếng tăm như Godin mà dám đặt ra những điều khoản như thế. Rồi ả biết Godin tìm ra mình qua cha ả. Điều đó lên rất nhiều. Geli hầu như chuyện với cha hàng năm trời, nhưng ở cương vị của mình, ông biết ả. Theo cách Godin nhìn ả, có thể lão cũng biết ả chút ít. Có lẽ những câu chuyện ở Iraq lộ ra sau Bão táp Sa mạc. Godin cần chuyên gia an ninh, nhưng lão cũng cần sát thủ. Geli là hai trong .

      John Skow . giống như Godin, hồi trẻ từng là lính thủy đánh bộ ở Triều Tiên, Skow chỉ là lính lý thuyết. Con người của NSA này bàn tay chưa bao giờ vấy máu, và bên cạnh Geli, đôi khi gã lóng ngóng như gà gặp cáo.

      “Geli?” Skow nhắc lại. “ có đấy ?”

      “Bác sĩ Weiss đến nhà Tennant, ” ả vào ống nghe.

      “Tại sao?”

      “Tôi biết. Chúng tôi hầu như nghe được họ chuyện gì. Bây giờ họ đường đến nhà Fielding. Lu Li Fielding gọi cho ta. Hoảng loạn. ”

      Skow im lặng lúc. “Đến để an ủi bà vợ góa đau buồn chăng?”

      “Tôi chắc đó là câu chuyện của họ.” Ả muốn đánh giá mức độ lo lắng của Skow bằng cách bồi thêm. “Ta để cho họ vào chứ?”

      “Tất nhiên. có thể nghe được mọi chuyện họ , đúng ?”

      “Có thể . Có vấn đề với những con rệp ở nhà Tennant.”

      “Vấn đề gì vậy?”

      “Tennant trát ma tít lên các micro. Ở trong nhà lại còn có máy quay đặt giá ba chân. có băng bên trong.” Ả để Skow ngấm thông tin. “Hoặc là muốn gì đó vào băng mà muốn chúng ta nghe, hoặc là muốn chuyện với bác sĩ Weiss mà cho chúng ta nghe. Khả năng nào cũng tệ hại.”

      Ả nghe tiếng Skow thở lúc.

      “Thôi được,” cuối cùng gã . “Chúng ta ổn thôi.”

      “Chắc ông biết điều gì mà tôi biết, thưa ngài.”

      Skow tặc lưỡi với từ “ngài” ả bằng giọng coi thường. Con người của NSA này khá lì theo cách riêng của gã. Gã có lạnh lùng vô cảm của trí thông minh toán học.

      “Đặc quyền của lãnh đạo mà, Geli. Sáng nay làm ăn giỏi đấy. Tôi rất ngạc nhiên.”

      Geli nháy sang hình thi thể của Fielding. Việc kết liễu diễn ra khá êm, nhưng nước cờ lại khá ngu xuẩn. Lẽ ra phải khử luôn cả Tennant. Ả có thể dễ dàng điều hai người lên cùng chiếc xe, và sau đó chỉ là chuyện... dọn dẹp đơn giản. vụ tai nạn ô tô. Và Dự án lâm vào cảnh hiểm nghèo như giờ. “Liệu có Tennant chuyện với tổng thống , thưa ngài?”

      “Tôi biết. Bởi vậy nên giữ khoảng cách. Chỉ giám soát tình hình thôi, đừng xa hơn.”

      ta cũng nhận bưu phẩm do FedEx mang đến. bức thư. Dù là gì ta cũng mang nó theo mình. Chúng ta cần xem bức thư ấy.”

      “Nếu có thể đọc nó mà Tennant biết tốt. Nếu được liên hệ với FedEx xem ai gửi?”

      “Chúng tôi làm thế.”

      “Tốt. Miễn là đừng...”

      Geli nghe tiếng vợ Skow gọi tên gã.

      “Nhớ báo cho tôi,” rồi gã cúp máy.

      Geli nhắm mắt và bắt đầu thở sâu. Ả đề nghị Godin cho khử Tennant cùng với Fielding, nhưng lão phản đối. Phải, Godin thừa nhận, Tennant phá luật và cùng Fielding dành nhiều thời gian bên ngoài nơi làm việc. Phải, Tennant ủng hộ những cố gắng trì hoãn dự án của Fielding. Và chính quan hệ của Tennant với tổng thống làm cho việc trì hoãn trở thành khả thi. Nhưng có chứng cớ về việc Tennant tham gia chiến dịch phá hoại dự án của ông người , hay được chia sẻ những thông tin nguy hiểm mà Fielding có. Geli biết những thông tin đó là gì, ả đánh giá được mức độ nguy hiểm nếu để Tennant sống. Ả nhắc Godin câu châm ngôn “Giết nhầm hơn bỏ sót”. Nhưng Godin lay chuyển. Rồi lão phải chấp nhận. lâu nữa đâu.

      Geli “JPEG, Fielding, Lu Li”. Hình ảnh phụ nữ Á Đông tóc đen xuất màn hình. Lu Li, tên khai sinh là Cheng, lớn lên ở tỉnh Quảng Đông, Trung cộng. Bốn mươi tuổi. Có bằng cao học vật lý ứng dụng.

      “Lại sai lầm nữa,” Geli lẩm bẩm. Lu Li Cheng có công việc gì trong biên giới Mỹ, lại càng có việc gì trong nội bộ dự án khoa học nhạy cảm bậc nhất nước này. Geli chạm tay vào phím kết nối ả với Thomas Corelli trong chiếc xe do thám đậu bên ngoài nhà Fielding. “Có thấy gì lạ ở đó ?”

      .”

      “Khám xét xe của Tennant khi đến có dễ ?”

      “Tùy thuộc vào chỗ đậu.”

      “Nếu thấy có phong bì FedEx trong xe, lấy ra đọc, rồi bỏ lại chỗ cũ. Và tôi muốn xem băng video quay khi đến.”

      “Được thôi. muốn tìm gì?”

      “Chưa biết. Cứ làm .”

      Geli lấy từ ngăn bàn ra gói Gauloises, rút điếu, cấu đầu lọc vứt . Trong ánh lửa que diêm, ả thấy bóng mình màn hình máy tính. Tóc vàng hoe lòa xòa, gò má nhô cao, mắt xanh màu thép, vết sẹo bỏng quái ác. Geli coi vết sẹo xấu xí hằn má trái ả như bộ phận của khuôn mặt kém gì mắt hay môi. có lần bác sĩ giải phẫu thẩm mỹ đề nghị tẩy miễn phí dấu vết phai màu ấy, nhưng Geli khước từ. Những vết sẹo có mục đích: nhắc nhở người mang chúng về các vết thương. Vết thương gây ra cái sẹo, ả bao giờ cho phép mình quên.

      Ả nhấn phím chuyển tín hiệu từ các microphone trong nhà Fielding vào ống nghe. Xong ả rít hơi thuốc sâu, ngả người ghế, thở luồng khói mù mịt lên trần nhà. Geli Bauer ghét nhiều thứ, nhưng ả ghét nhất là chờ đợi.




      CHƯƠNG 4


      Chúng tôi lặng lẽ lái xe , chiếc Acura lẹ làng lướt qua hoàng hôn. Giờ này buổi tối, chạy xe từ nhà tôi ở ngoại ô đến nhà Fielding gần trường Đại học Bắc Carolina đồi Chapel khá nhanh chóng. Rachel hiểu cầu phải im lặng của tôi, và tôi cũng hy vọng hiểu. Khi tôi bắt đầu dính líu với Trinity, mức độ bài ngoại của chính sách an ninh làm tôi kinh ngạc. Các nhà khoa học khác, trong đó có Fielding, trước đây từng làm việc trong các dự án liên quan đến quốc phòng, chấp nhận tình trạng cưỡng chế an ninh ấy như điều phiền toái cần thiết. Nhưng dần dần, ngay cả những người kỳ cựu cũng than vãn rằng chúng tôi phải chịu đựng những điều chưa có tiền lệ. Mạng lưới theo dõi tỏa ra khắp nơi và vươn cả ra ngoài những khu thí nghiệm. Ai phản đối đều bị nhắc nhở cộc lốc rằng các nhà khoa học của Dự án Manhattan còn buộc phải sống giữa hàng rào dây thép gai để bảo đảm an toàn cho “thiết bị”. Chút tự do mà chúng tôi được hưởng có cái giá của nó, đường dây điện thoại riêng cũng thế.

      Fielding chịu trả giá. Các trắc nghiệm phát dối “ngẫu nhiên” được thực gần như hằng tuần, và ngay cả nhà chúng tôi cũng bị theo dõi. Hôm nay, trước khi có thể bắt đầu quay băng video, tôi phải bịt các lỗ kim giấu những microphone li ti tường. Fielding phát ra chúng nhờ cái máy quét đặc biệt ông lắp trong nhà và dùng đinh ghim đánh dấu những chỗ đặt rệp. Ông có vài trò tiêu khiển nhằm tránh nhòm ngó của bọn do thám Trinity. Ông nhắc tôi được tự do bí mật riêng trong xe. Ô tô là chỗ rất dễ đặt rệp, ngay cả xe sạch cũng có thể bị nghe trộm từ xa bằng microphone công nghệ cao đặc biệt. Trò chơi mèo vờn chuột của ông người này với NSA làm tôi lắm phen thích thú, nhưng ai cũng biết kẻ nào giành phần thắng cuối cùng.

      Tôi liếc nhìn Rachel. Được ngồi cùng xe với kể cũng là chuyện lạ lùng. Trong vòng năm năm từ ngày vợ tôi mất, tôi có quan hệ với hai phụ nữ, đều trước khi tôi làm việc với Trinity. Lần này với Rachel phải “quan hệ” theo nghĩa lãng mạn. Trong ba tháng qua, cứ mỗi tuần hai giờ, tôi ngồi trong phòng cùng thảo luận về khía cạnh rối ren nhất đời tôi: những giấc mơ. Qua những câu hỏi và giải thích của , có lẽ phát ra bản thân mình nhiều hơn là hiểu biết về tôi - song đến giờ còn rất nhiều điều giấu.

      vốn từ viện Giáo hội Trưởng lão New York xuống để nhận vị trí trưởng khoa ở Duke, ở đây dạy cho nhóm các bác sĩ nội trú khoa tâm thần về phương pháp phân tích theo trường phái Jung, nghệ thuật suy tàn trong ngành bệnh học tâm thần dược lý đại. cũng có những bệnh nhân riêng, và tiến hành nghiên cứu bệnh lý tâm thần. Sau hai năm làm việc gần như độc ở Trinity, tôi thấy kích thích khi tiếp xúc với bất kỳ phụ nữ thông minh nào. Nhưng Rachel đâu phải chỉ có trí thông minh. Ngồi trong chiếc ghế bọc da, trang phục hoàn hảo, mái tóc đen tết kiểu Pháp, tập trung nhìn tôi chớp mắt, như muốn thâm nhập vào chiều sâu tâm trí tôi, nơi mà chính tôi cũng chưa dò tới. Đôi khi gương mặt , đặc biệt là đôi mắt, là cả gian đối với tôi. Đôi mắt ấy là lãnh địa mà tôi chiếm lĩnh, là cử tọa cho tôi giãi bày, là phán quyết mà tôi chờ đợi. Nhưng đôi mắt ấy rất chậm đưa ra phán quyết, ít nhất trong thời gian đầu. hỏi tôi về những hình ảnh nào đó, rồi hỏi tiếp về mấy câu trả lời tôi vừa đưa ra. Đôi khi giải thích về các giấc mơ của tôi, nhưng hoàn toàn giống các bác sĩ tâm thần của NSA mà tôi biết, chắc như đinh đóng cột. Dường như tìm kiếm ý nghĩa cùng tôi, khơi gợi để tôi tự mình hiểu ra ý nghĩa của các hình tượng.

      “David, cần phải lái lòng vòng suốt đêm. Tôi phản đâu.”

      Đúng, tôi nghĩ. Ảo giác về mưu bí mật của chính phủ có gì sai cơ chứ? “Hãy kiên nhẫn,” tôi bảo . “ còn xa nữa đâu.”

      nhìn tôi trong bóng tối mờ mờ, ánh mắt hoài nghi.

      “Khoản tiền thưởng của giải Nobel là bao nhiêu?”

      “Khoảng triệu đô. Fielding nhận ít hơn Ravi Nara là vì...” Tôi tắt ngấm khi nhận thấy chỉ muốn thử thêm lần nữa, cố làm tiêu tan cái “ảo ảnh” của tôi.

      Tôi tập trung nhìn đường, trong bụng chắc mẩm chỉ vài phút nữa phải thừa nhận chứng hoang tưởng của tôi ít nhất cũng có phần nào cơ sở thực tế. Lúc đó nghĩ sao nhỉ? Liệu có sẵn lòng nghe tôi giải thích về những giấc mơ của mình, dù chúng có vẻ vô lý thế nào chăng nữa?

      Ngay từ buổi thăm khám đầu tiên, Rachen khăng khăng rằng thể lý giải đúng các “ảo giác” nếu được biết những chi tiết bí mật trong quá khứ và công việc của tôi. Nhưng tôi thể tiết lộ nhiều. Fielding cảnh báo tôi rằng với NSA, bất cứ ai biết bất kỳ điều gì về Trinity hoặc các yếu nhân của nó, bị coi là mối nguy hiểm tiềm tàng. Ngoài mối lo ngại đó ra, tôi thấy những hình ảnh tôi mơ trong thời gian bị chứng ngủ rũ có liên hệ gì với quá khứ của mình. Những hình ảnh ấy dường như đến từ bên ngoài tâm trí tôi. phải theo nghĩa nghe thấy ảo thanh, dấu hiệu chắc chắn của bệnh tâm thần phân liệt, mà là theo cái nghĩa xưa nay vẫn hiểu về hình ảnh thị giác. Những hình ảnh hé lộ thiên cơ như các nhà tiên tri thường mô tả. Đối với người từ bé chưa hề tin vào Chúa, đó là tình trạng nhiễu loạn kỳ quái.

      Những giấc mơ của tôi xuất ngay từ cơn ngủ rũ đầu tiên. Hồi đầu tôi bất tỉnh. Có những lỗ hổng trong đời. Những khoảng trống thời gian mất vĩnh viễn. Tôi ngồi làm việc trước máy tính văn phòng bỗng cảm thấy người rung bần bật. Ban đầu toàn thân, sau đó cơn rung nhanh chóng tập trung vào răng. Đó là triệu chứng thông thường của chứng ngủ rũ. Tôi bắt đầu cảm thấy buồn ngủ rũ rượi, rồi tự nhiên giật mình choàng tỉnh ghế, ngó đồng hồ bốn mươi phút trôi qua. Tôi thấy giống như bị gây mê. còn nhớ gì nữa cả.

      Nhưng rồi giấc mơ đến sau tuần bất tỉnh. Những giấc mơ đầu tiên luôn luôn giống nhau, chỉ là ác mộng lặp lặp lại làm tôi sợ hơn cả những lần mất ý thức. Tôi nhớ lần đầu tiên khi nghe tôi kể tỉ mỉ tượng này, Rachel ngạc nhiên thế nào, cho là mình hiểu hình ảnh ấy với vẻ chắc chắn khác thường ra sao. Tôi ngồi thụt sâu trong ghế bành lót đệm, đối diện bàn viết của , nhắm mắt lại và bắt đầu kể về những hình ảnh mà tôi thấy rất thường xuyên.

      Tôi ngồi trong căn phòng tối. có chút ánh sáng nào rọi vào. thanh nào vọng đến. Tôi có thể lấy tay sờ mắt và tai tôi, nhưng tôi nhìn nghe thấy gì. Tôi nhớ gì. Tôi có quá khứ. Và bởi vì tôi nhìn nghe thấy gì, tôi có cả tại. Tôi chỉ tồn tại. Đó là thực tại của tôi. TÔI CHỈ TỒN TẠI. Tôi cảm thấy mình như nạn nhân đột quỵ bị cầm tù trong cơ thể và bộ não còn hoạt động. Tôi có thể suy nghĩ, nhưng phải về hình ảnh nhất định. Tôi cảm nhiều hơn nghĩ. Và điều tôi cảm thấy là như thế này: Tôi là ai? Tôi từ đâu đến? Tại sao tôi có mình? Có phải lúc nào tôi cũng ở đây ? Tôi có ở đây mãi ? Những ý nghĩ ấy chỉ chất đầy tâm trí tôi. Nó chính là tâm trí tôi. có thời gian như chúng ta biết, chỉ có những câu hỏi chuyển từ câu này sang câu khác. Cuối cùng, các câu hỏi hòa tan vào câu thần chú: Tôi từ đâu đến? Tôi từ đâu đến? Tôi là người bị tổn thương não ngồi trong căn phòng vĩnh cửu, đặt câu hỏi về bóng tối.”

      thấy ?” Rachel . “ chưa hoàn toàn thoát khỏi ám ảnh về cái chết của vợ con . Do mất họ mà bị cắt lìa khỏi thế giới này, và khỏi bản thân . bị tổn hại rồi. bị thương tật rồi. Cái người bước trong thế giới ánh sáng kia là hành động. Con người của David Tennant ngồi trong căn phòng tối, có khả năng cảm và nghĩ. ai có thể cảm nhận được nỗi khổ hay đau đớn của ta.”

      phải thế đâu,” tôi . “Tôi bước ngoặt về tâm thần, lạy Chúa. phải nỗi đau chưa được hóa giải.”

      thở dài, lắc đầu. “Các bác sĩ luôn tạo ra những con bệnh tệ nhất.”

      tuần sau, tôi bảo rằng giấc mơ thay đổi.

      “Bây giờ trong phòng có thứ gì đó diện cùng tôi. ”

      “Đó là cái gì?”

      “Tôi biết. Tôi trông thấy nó.”

      “Nhưng biết nó ở đấy?”

      “Phải.”

      “Người à?”

      . Nó rất . quả cầu, trôi trong gian. quả banh chơi gôn màu đen trôi nổi trong bóng tối.”

      “Sao biết nó ở đấy?”

      “Nó giống như thứ bóng tối đậm đặc hơn ở trung tâm bóng tối. Và nó kéo tôi xuống.”

      “Kéo như thế nào?”

      “Tôi biết. Giống như trọng lực ấy. Trọng lực xúc cảm. Nhưng tôi biết điều này. Nó biết câu trả lời cho vấn đề của tôi. Nó biết tôi là ai và tại sao tôi ngồi lì trong căn phòng tối ấy.”

      Và rồi nó , thay hình đổi dạng chút ít, cho đến khi giấc mơ lại thay đổi lần nữa. Thay đổi sâu sắc. đêm, trong lúc ngồi nhà đọc sách, tôi “lịm ” theo cách thông thường. Tôi thấy mình vẫn ngồi trong căn phòng tối quen thuộc, đặt câu hỏi về quả cầu đen. Rồi hề báo trước, quả cầu nổ chói lòa. Sau hồi ngồi trong bóng tối que diêm lóe lên cũng đủ giống như vụ nổ, đằng này đâu phải que diêm. Nó nổ bung ra mọi hướng với cường độ của quả bom khinh khí. Chỉ có điều, nó tự cuộn mình vào trong mà bùng ra thành đám mây hình nấm. Nó nở ra với sức mạnh và tốc độ vô hạn, và tôi có cảm giác kinh khủng là bị nó nuốt chửng, nuốt chửng chứ nghiền nát. Khi ánh sáng lóa mắt nuốt trọn bóng tối, vốn là chính tôi, hiểu sao tôi biết được chuyện này có thể tiếp diễn hàng tỉ năm nữa mà vẫn phá hủy tôi hoàn toàn. Thế mà tôi vẫn sợ.

      Rachel hiểu những giấc mơ ấy. Trong ba tuần kế tiếp, chỉ lắng nghe tôi miêu tả ra đời của các vì sao và dải Ngân hà, sống và cái chết của chúng, những lỗ đen, siêu tân tinh, những tinh vân lấp lóe như kim cương bột rắc nền trời tối đen, các hành tinh sinh ra và mất . Tôi như nhìn suốt từ đầu này đến đầu kia vũ trụ, thấy tất cả các thiên thể cùng lúc dãn ra về phía tôi với tốc độ ánh sáng.

      “Trước đây từng thấy những hình ảnh như vậy chưa?” hỏi tôi. “Khi tỉnh thức?”

      “Làm sao tôi có thể thế được?”

      xem các bức ảnh do kính thiên văn vũ trụ Hubble chụp chưa?”

      “Tất nhiên rồi.”

      “Chúng rất giống những gì vừa miêu tả.”

      Cảm giác thất vọng trườn vào giọng của tôi. “ hiểu. Tôi chỉ trông thấy chúng. Tôi cảm thấy chúng. Giống như tôi thường cảm thấy khi nhìn trẻ con, những trận đánh, hay các cặp tình nhân với nhau. Nó chỉ là hình ảnh thị giác.”

      “Tiếp tục .”

      Đó là câu cửa miệng của . Tôi nhắm mắt lại và chìm đắm trong giấc mơ gần đây nhất.

      “Tôi ngắm nhìn hành tinh. Bay lượn phía nó. Có những đám mây, nhưng phải như chúng ta thường thấy. Chúng xanh tựa axit, bị méo mó vì giông bão. Bây giờ tôi lặn, lặn qua mây, như hình ảnh vệ tinh phóng to sát mặt đất. Phía dưới có đại dương, nhưng đại dương phải màu xanh. Nó màu đỏ, và sôi. Tôi nhào xuyên qua mặt đại dương, lặn sâu trong màu đỏ. Tôi tìm thứ, nhưng nó có đấy. Đại dương trống rỗng.”

      “Tôi nảy ra rất nhiều ý trong lúc miêu tả,” Rachel bảo. “Trước hết là những hình ảnh màu. Màu đỏ có lẽ rất quan trọng. Đại dương rỗng là biểu tượng của hoang vu, nó thể tâm trạng đau buồn của .” ngập ngừng lát. “ tìm cái gì dưới đại dương?”

      “Tôi biết.”

      “Tôi nghĩ biết.”

      “Tôi tìm Karen và Zooey.”

      “David.” thoáng bực bội trong giọng của . “Nếu nghĩ những hình ảnh ấy có tính tượng trưng đến đây làm gì?”

      Tôi mở to mắt nhìn khuôn mặt hết sức điềm tĩnh của . Bức màn chuyên môn ngăn thấu cảm, nhưng tôi nhìn thấy . phóng chiếu cảm giác mất mát gia đình của chính qua tôi.

      “Tôi đến đây vì tôi tìm thấy câu trả lời cho bản thân mình,” tôi . “Bởi vì tôi đọc cả núi sách mà cũng giải quyết được gì.”

      nghiêm trang gật đầu. “Làm sao nhớ được những ảo giác đến từng chi tiết như thế? có ghi chúng lại sau khi thức dậy ?”

      , chúng giống những giấc mơ, là cái ta càng gắng nhớ lại bao nhiêu càng khó nhớ bấy nhiêu. Đằng này lại thể tẩy được. Đó có phải là đặc điểm của giấc mơ trong cơn ngủ rũ ?”

      “Phải,” dịu dàng . “Thôi được. Karen và Zooey chết đuối. Tay Karen chắc chảy máu khá nhiều, và cả đầu nữa khi chị ấy đập đầu xuống tay lái. Có lẽ vì vậy mà nước có màu đỏ.” Rachel ngửa ghế ra và nhìn lên trần nhà. “Trong những ảo ảnh này có người, nhưng trải qua phản ứng xúc cảm cực mạnh. có nhắc đến cuộc vật lộn. bao giờ phải vật lộn chưa?”

      “Chưa.”

      “Nhưng biết rằng Karen phải chiến đấu để cứu Zooey. Chị ấy vật lộn để giành lấy sống. kể với tôi thế.”

      Tôi nhắm mắt lại. Tôi muốn nghĩ về chi tiết ấy, nhưng đôi khi tôi xua đuổi được ý nghĩ. Khi xe của Karen lao xuống đầm nước, xe lật ngửa và ngập trong gần ba mươi xen ti mét bùn nhão. Cửa sổ điện bị chập mạch, nên các cửa thể nào mở ra được. Xương tay chân của Karen dập nát chứng tỏ nàng phải chiến đấu điên cuồng để đập vỡ của kính. Nàng là thiếu phụ mảnh mai, khỏe mạnh lắm, nhưng nàng bỏ cuộc. nhân viên cứu hộ có mặt ở trường tai nạn kể với tôi rằng khi cuối cùng chiếc xe được trục vớt lên khỏi bùn nhão, và cửa xe mở ra, ta thấy nàng ngồi ở băng sau, tay ôm chặt bé Zooey, tay kia nổi bập bềnh, bàn tay bị gãy và các đốt ngón tay giập nát.

      Tình huống xảy ra cố . Khi nước vào đầy xe, Karen vật lộn để đập vỡ cửa kính, Zooey quá hoảng sợ. Ai trong cảnh ấy cũng thế, huống hồ đứa bé. Trong hoàn cảnh ấy, nhiều bà mẹ khác hẳn chỉ lo vật lộn trong khi con mình khóc thét vì sợ hãi. số khác có lẽ quay sang dỗ dành đứa bé, và cầu nguyện cho có người tới cứu. Nhưng Karen ghì chặt bé Zooey vào lòng, hứa với nó mọi việc ổn thôi, rồi với đôi chân của mình, nàng chiến đấu đến hơi thở cuối cùng để thoát khỏi cỗ quan tài chìm trong nước ấy. Việc nàng vẫn ôm chặt bé Zooey trong khi chịu nỗi đau đớn cực độ vì bị ngạt cho thấy ở nàng tình mạnh hơn nỗi sợ, và biết được điều đó khiến lòng tôi nguôi ngoai đôi chút.

      “Những đám mây màu xanh và đại dương màu đỏ chẳng liên hệ gì với tai nạn ô tô cách đây năm năm,” tôi .

      ư? Vậy tôi nghĩ nên kể cho tôi nghe thêm về thời thơ ấu của mình.”

      “Nó liên quan.”

      làm sao biết được,” Rachel khăng khăng.

      “Tôi biết.”

      “Vậy hãy kể cho tôi về công việc của .”

      “Tôi dạy môn y đức.”

      xin nghỉ hơn năm nay rồi.”

      “Do đâu mà biết được?”

      “Tôi nghe ở bệnh viện.”

      “Ai ?”

      “Tôi nhớ. Tôi vô tình nghe được. rất nổi tiếng trong ngành y. Các bác sĩ ở Duke đến cuốn sách của luôn. Cả ở viện Giáo hội Trưởng lão New York cũng thế. Vậy đúng ? Có đúng là xin nghỉ dạy ở trường y ?”

      “Chúng ta chỉ đề cập đến những giấc mơ thôi được ? Như vậy an toàn hơn cho cả hai.”

      “An toàn hơn như thế nào?”

      Tôi trả lời.

      Trong cuộc hẹn thăm khám lần sau, các giấc mơ lại thay đổi.

      “Tôi lơ lửng giữa vũ trụ, nhìn về Trái đất. Đó là vật đẹp nhất tôi từng thấy. Sắc xanh lam và lục với mây trắng cuồn cuộn. vật thể sống, hệ thống khép kín tuyệt hảo. Tôi lặn qua những dải mây, con thiên nga trăm dặm lặn vào đại dương xanh thẳm. Trái đất bừng bừng sức sống. Những phân tử khổng lồ, thể đa bào, sứa, mực ống, rắn biển, cá mập. Mặt đất cũng kín đặc. Rừng rậm bao phủ. Bản giao hưởng của màu xanh cây lá. bờ, cá nhảy lên khỏi sóng và mọc chân. Những con cua kỳ lạ chạy hối hả cát và biến thành những sinh vật khác tôi chưa từng thấy. Thời gian trôi vun vút, giống như quá trình tiến hóa máy chiếu diễn ra nhanh gấp triệu lần so với tự nhiên. Khủng long biến thành chim, loài gặm nhấm thành động vật có vú, linh trưởng rụng hết lông. Các tảng băng phủ kín rừng già rồi tan ra thành xavan. Hai mươi nghìn năm trôi qua trong hơi thở...”

      “Chầm chậm thôi,” Rachel khuyên. “ xúc động đấy.”

      “Làm thế nào tôi lại thấy tất cả những cảnh này?”

      biết câu trả lời mà. Trí óc tạo ra bất kỳ hình ảnh nào có thể tưởng tượng ra, rồi coi nó là . Bức ảnh trái đất nhìn từ vũ trụ là biểu tượng của văn hóa đại. Nó làm người xem xúc động, và hẳn nhìn thấy nó năm mươi lần kể từ thời thơ ấu.”

      “Trí óc tôi có thể tạo ra những sinh vật mà tôi chưa từng thấy hay sao? Những con vật trông rất .”

      “Tất nhiên. xem tranh của Hieronymus Bosch. Và tôi thấy ti vi những hình ảnh tốc độ cao mà vừa mô tả. Trước đây, tạp chí Life làm điều tương tự trong các ấn phẩm. ‘ Tiến hóa của loài người’ chẳng hạn. Vấn đề là, tại sao thấy những cảnh này?”

      “Đó là lý do tôi đến đây để tìm hiểu.”

      có thấy mình trong những cảnh siêu thực này ?”

      .”

      cảm thấy thế nào?”

      “Tôi vẫn tìm kiếm thứ.”

      “Cái gì vậy?”

      “Tôi biết. Tôi giống như con chim nhìn bao quát mặt đất để tìm kiếm... thứ.”

      “Trong mơ thấy mình là chim à?”

      Giọng có vẻ hy vọng. Chim phải có ý nghĩa gì đó trong việc giải đoán giấc mơ.

      .”

      “Vậy thấy mình là gì?”

      gì cả, đấy. cặp mắt.”

      người quan sát?”

      “Phải. người quan sát hồn lìa khỏi xác. T.J.Eckleburg(7) .”

      “Ai?”

      . nhân vật của Scott Fitzgerald.”

      “Ồ, tôi nhớ ra rồi.” đưa cán bút lên miệng cắn . cử chỉ bình thường ở . “ có ý tưởng gì về việc tại sao nhìn thấy tất cả những cảnh đó ?”

      “Có.” Tôi biết những lời sau đây làm ngạc nhiên. “Tôi tin rằng có ai đó cho tôi xem những cảnh tượng ấy.” mở to mắt, thực ra đó là màn diễn của Rachel Weiss. “ ư?”

      “Ai cho xem những cảnh ấy?”

      “Tôi biết. Thế sao biết tôi tưởng tượng ra chúng?”

      hết quay đầu bên nọ rồi lại quay bên kia. Tôi dường như có thể thấy tế bào thần kinh của cháy lên khi xử lý lời lẽ của tôi qua bộ lọc mà đào tạo và kinh nghiệm gắn chắc vào óc . “Tiến hóa là thay đổi. nhìn thấy thay đổi diễn ra với tốc độ phi tự nhiên. Những thay đổi kiểm soát được. Tôi cảm thấy cái này có dính dáng ít nhiều đến công việc của .”

      Có thể đúng, tôi nghĩ, nhưng tôi ra. Tôi chỉ tiếp tục. im lặng của tôi là lá chắn duy nhất cho . Cuối cùng, điều này cũng chẳng quan trọng gì, vì chủ đề tiến hóa nguội, và những gì xâm chiếm trí óc say ngủ của tôi làm tôi rung động tận đáy lòng.

      Trong giấc mơ mới của tôi có cả người. Họ nhìn thấy tôi, còn tôi chỉ thoáng thấy bóng họ. Chẳng khác nào xem những cuốn phim hỏng chắp nối lộn xộn với nhau. người đàn bà bế đứa bé bên hông. người đàn ông múc nước trong giếng. người lính mặc quân phục, mang gươm ngắn, đấu sĩ như tôi được học hồi lớp tám, trong môn La tinh của Whaley. chiến binh La Mã. Đó là đầu mối thực đầu tiên của tôi để thấy rằng đây phải chuỗi hình ảnh ngẫu nhiên, mà là những cảnh của thời đại nhất định. Tôi thấy bò kéo cày. bán thân phố. Người ta đổi tiền. Tiền vàng và tiền đồng in hình khuôn mặt nghiêng nghiêng hống hách của hoàng đế. cái tên. Tiberius. Cái tên ấy gợi lên vài điều trong óc tôi, nên tôi tìm Internet. Tiberius, cựu quân đoàn trưởng, người kế vị Augustus, dành phần lớn thời gian trong triều đại của mình lãnh đạo chiến dịch quân ở Germania. trong số ít những kiện quan trọng trong thời kỳ chấp chính của ông (mãi sau này mới được phát ) là việc hành hình nông dân Do Thái vì dám tự xưng là vua của người Do Thái.

      “Cha có sùng đạo ?” Rachel hỏi sau khi nghe kể về giấc mơ mới này.

      . Ông ấy là... ông ấy nhìn thế giới theo cách cơ bản hơn.”

      “Ý định gì?”

      “Nó liên quan.”

      tiếng thở dài bực bội. “Thế còn mẹ ?”

      “Mẹ tôi tin vào cái gì đó cao hơn loài người, nhưng bà quá lệ thuộc vào những tôn giáo có tổ chức.”

      “Khi còn được học giáo lý à?”

      “Có vài năm theo học trường Chủ nhật. có ý nghĩa gì lắm.”

      “Giáo phái nào?”

      “Giám Lý. Đó là nhà thờ gần nhà chúng tôi nhất.”

      “Họ có chiếu phim về cuộc đời Chúa Jesus ?”

      “Có lẽ có. Tôi nhớ nữa.”

      lớn lên ở Oak Ridge, Tennessee, đúng ? Thế chắc là có. Và tất nhiên tất cả chúng ta đều xem những phim sử thi Kinh thánh từ những năm năm mươi. Mười điều răn. Ben Hur. Đại loại thế.”

      gì thế?”

      “Ý tôi chỉ là những ảo ảnh này nằm trong tiềm thức của từ nhiều năm rồi. Nó có trong tất cả chúng ta. Nhưng giấc mơ của có vẻ tiến đến thứ. Và thứ đó có thể là Jesus xứ Nazareth.”

      nghe kể về những giấc mơ thế này bao giờ chưa?” tôi hỏi.

      “Tất nhiên. Nhiều người mơ về Jesus. Về việc giao tiếp riêng với Chúa, nhận thông điệp từ Chúa. Nhưng tiến trình các giấc mơ của có logic nhất định và giọng điệu tự nhiên hơn là những hoang tưởng ám ảnh rối rắm. lại tuyên bố mình là người vô thần, hay ít nhất cũng theo thuyết bất khả tri luận. Tôi rất muốn xem điều này đến đâu.”

      Tôi đánh giá cao quan tâm của , nhưng quá mệt mỏi vì chờ đợi những câu trả lời. “Nhưng cho rằng điều đó có ý nghĩa gì?”

      mím môi, lắc đầu. “Tôi còn tin những giấc mơ ấy có liên hệ với việc mất vợ con. Nhưng là tôi chưa hiểu về cuộc đời để đưa ra những đánh giá xác đáng.”

      Chúng tôi lâm vào thế bí. Tôi vẫn tin quá khứ của mình có dính dáng gì đến các giấc mơ. Tuy vậy, thời gian trôi , những thước phim kinh hoàng trong đầu tôi bắt đầu trở nên ràng, và số nhân vật trong mơ xuất trở lại. Những gương mặt tôi thấy quen thuộc hơn, như bạn bè. Rồi còn thân thuộc hơn cả bạn bè. thứ tình cảm lớn lên trong tôi, tôi nhớ những khuôn mặt này, phải chỉ từ các giấc mơ trước đó. Tôi tả cho Rachel chính xác nhất có thể.

      Tôi ngồi giữa vòng tròn. Những khuôn mặt râu ria say sưa quan sát tôi. Tôi biết mình bởi ràng họ chăm chú lắng nghe, tuy nhiên tôi nghe được tiếng mình .

      Tôi thấy gương mặt phụ nữ, thánh thiện mà giản dị, và đôi mắt tôi biết giống như mắt mẹ tôi. Tuy nhiên, chúng thuộc về mẹ tôi, phải người mẹ nuôi tôi lớn ở Oak Ridge. Thế nhưng đôi mắt ấy lại nhìn tôi với tình thuần khiết. người đàn ông có râu đứng bên bà, ngắm tôi với niềm tự hào của người cha. Nhưng cha tôi suốt đời luôn cạo râu nhẵn nhụi.

      Tôi thấy mấy con lừa... và cây chà là. Lũ trẻ trần truồng. dòng sông nâu. Tôi thấy lạnh, rùng mình tê tái như khi ngâm mình xuống nước, tiếng bàn chân cát. Tôi thấy thiếu nữ tóc đen xinh đẹp, ghé sát mặt hôn tôi rồi ngượng ngùng chạy biến. Tôi bước giữa những người lớn. Gương mặt họ như muốn , Đứa trẻ này giống những đứa trẻ khác. người đàn ông ánh mắt hoang dã đứng trong nước ngập đến hông, hàng người cả đàn ông đàn bà đứng đợi đến lượt xuống ngâm, trong khi những người khác lội từ dưới nước lên, ho và thở phì phì, mắt mở to.

      Đôi khi những giấc mơ có logic, mà chỉ là những mảnh vụn rời rạc. Cuối cùng khi logic trở lại, nó làm tôi khiếp hãi.

      Tôi ngồi bên giường cậu bé. Em cử động được. Đôi mắt nhắm nghiền. Em bị liệt hai ngày nay. Ngồi bên tôi có mẹ và dì của em. Họ mang thức ăn, nước mát, dầu để xức cho em. Tôi thầm vào tai em. Tôi bảo người phụ nữ giữ tay em, đoạn cúi xuống gọi tên em. Mắt em nhắm nghiền, nước nhầy chảy ra. Rồi đôi mắt ấy mở ra và sáng bừng khi nhận ra mẹ em. Mẹ em thở hổn hển, kêu lên rằng tay em cử động được. Bà nâng em dậy, và em ôm chầm lấy bà. Hai người phụ nữ khóc vì vui sướng...

      Tôi ngồi ăn với nhóm phụ nữ. Ô liu và bánh mì dẹt. Vài người tránh nhìn vào mắt tôi. Ăn xong, họ dẫn tôi vào buồng ngủ, có bà bầu nằm giường. Họ bảo tôi cái thai nằm trong bụng quá lâu rồi, mãi chịu chào đời. Họ sợ đứa bé chết. Tôi bảo mấy người phụ nữ ra ngoài. Người mẹ trẻ sợ tôi. Tôi nhàng vỗ về , rồi nâng chăn đặt tay lên bụng . Nó căng phồng, cứng như cái trống. Tôi để tay đó hồi lâu, khẽ thúc giục, thầm với . Tôi hiểu mình gì. Tựa khúc ca êm ái. Lát sau, hé miệng. thấy tiếng đạp. kêu to gọi những người phụ nữ khác. “Con tôi sống rồi!” Những người phụ nữ đặt tay lên người tôi, cố chạm vào tôi như thể tôi có sức mạnh vô hình. “Chắc chắn đây là người ấy rồi,” họ .

      “Đây là những câu chuyện trong Kinh thánh,” Rachel “Cả triệu học sinh đều biết. Chẳng có gì là lạ lùng cả.”

      “Tôi và vẫn đọc Kinh Tân ước,” tôi bảo . “Trong ấy có chuyện Jesus chữa lành cậu bé bị liệt. có cảnh ông ăn cơm với toàn phụ nữ, cả đỡ đẻ nữa.”

      “Nhưng cả hai cảnh đó đều là những hình ảnh chữa trị, mà lại là bác sĩ. Tiềm thức dường như đóng vai Jesus qua hình ảnh của . Hay ngược lại. Có lẽ vấn đề thực là ở công việc của . Có phải rời quá xa y học đơn thuần? Tôi biết có những bác sĩ rơi vào trầm cảm sau khi thôi chăm sóc bệnh nhân trực tiếp để chuyển sang nghiên cứu thuần túy. Phải chăng đây là trường hợp tương tự?”

      đoán đúng về chuyện tôi thôi chăm sóc bệnh nhân, nhưng những giấc mơ ràng của tôi phải biểu kỳ lạ của luyến tiếc cái thuở còn mặc áo blu trắng.

      khả năng khác,” gợi ý. “Nó gần với cách lý giải ban đầu của tôi hơn. Những hình ảnh chữa trị thần thánh ấy có thể là ước mong thầm kín trong tiềm thức của , rằng có thể mang Karen và Zooey về. Hãy thử nghĩ xem. Hai phép màu kỳ diệu nhất của Jesus là gì?”

      Tôi gật đầu miễn cưỡng. “Cứu Lazarus (8-) sống lại từ cõi chết.”

      “Phải. Và Người còn làm cho sống lại, nếu tôi nhầm.”

      “Đúng thế. Nhưng tôi nghĩ điều đó có ý nghĩa gì đối với những giấc mơ này.”

      Rachel mỉm cười với lòng kiên nhẫn vô hạn. “Được rồi, có điều chắc chắn. Cuối cùng rồi tiềm thức của làm các thông điệp.”

      Hóa ra lần thăm khám đó lại là cuối cùng. Bởi vì đêm ấy, giấc mơ của tôi thay đổi lần nữa, và tôi có ý định kể với Rachel.

      Giấc mơ cuối cùng ràng hơn tất cả các giấc mơ trước đó, và mặc dầu tôi tiếng nước ngoài, tôi vẫn hiểu lời mình . Tôi cuốc bộ xuôi theo con đường cát. Tôi đến giếng nước. Nước giếng rất sâu mà tôi có thứ gì để múc lên. Lát sau, có phụ nữ đến mang theo chiếc gầu buộc thừng. Tôi nhờ múc cho ít nước. có vẻ rất ngạc nhiên khi thấy tôi với , và tôi cảm thấy chúng tôi thuộc hai bộ lạc khác nhau. Tôi bảo nước trong giếng thể làm hết khát. Chúng tôi chuyện với nhau hồi lâu, và bắt đầu nhìn tôi bằng ánh mắt dò xét.

      “Tôi đoán ông là nhà tiên tri. Ông biết được nhiều điều bí .”

      “Tôi phải nhà tiên tri,” tôi bảo .

      im lặng nhìn tôi hồi lâu. “Người ta Chúa Cứu thế đến đây dạy chúng tôi vài điều. Ông nghĩ thế nào về điều đó?”

      Tôi nhìn xuống đất, nhưng niềm tin sâu sắc bật ra thành lời, “Người với đây chính là Chúa Cứu thế.”

      cười. quỳ xuống và chạm tay vào đầu gối tôi, rồi bỏ , ngoái nhìn qua vai nhiều lần.

      Khi thoát khỏi giấc mơ đó, người tôi đầm đìa mồ hôi. Tôi nhấc điện thoại gọi cho Rachel để hẹn gặp khẩn cấp. Tôi thấy có lợi gì. Tôi còn tin cách giải thích các giấc mơ lại giúp được mình. Đấy phải là mơ. Đấy là nhớ lại.

      nghĩ gì vậy?” Rachel hỏi từ ghế dành cho khách.

      Chúng tôi đến gần khuôn viên trường Đại học Bắc Caronlina. “Tại sao đến đây?”

      ngọ nguậy ghế và nhìn tôi vẻ lo lắng. “Tôi đến đây vì bỏ ba cuộc hẹn khám, và chắc chắn làm thế trừ khi việc biến chuyển theo hướng xấu . Tôi nghĩ các ảo ảnh của thay đổi lần nữa, và chúng khiến khiếp sợ.”

      Tôi nắm chặt tay lái nhưng gì. Ở nơi nào đó, NSA nghe lén.

      “Sao với tôi. Có hại gì chứ?”

      “Bây giờ đúng lúc. Hay đúng chỗ.”

      Phía trước bên trái là nhà hát Đại học Bắc Carolina. Bên phải chúng tôi là giảng đường ngoài trời Forest nằm giữa những lùm cây thấp hơn mặt đường. Tôi ngoặt gấp về bên phải và lao xuống dốc tối, vào con phố chạy giữa hai hàng nhà cửa nghiêm trang, khu dân cư cổng dành cho các giáo sư và dân chuyên nghiệp trẻ tuổi giàu có cư ngụ. Fielding sống trong ngôi nhà hai tầng thụt sâu vào so với mặt phố. hoàn hảo cho ông và bà vợ người Hoa mà ông hy vọng đưa về Mỹ.

      “Chúng ta ở đâu đây?” Rachel hỏi.

      “Nhà của Fielding ngay trước mặt kia.”

      Tôi nhìn về phía ngôi nhà nhưng chỉ thấy tối đen. Tôi cứ tưởng thấy đèn đuốc sáng trưng, như nhà tôi sau khi tôi mất Karen và Zooey. Tôi thoáng hoảng sợ, linh cảm mình lái xe vào bộ phim xã hội đen những năm bảy mươi, khi ta bước vào ngôi nhà quen thân và thấy trong ấy bóng người. Hoặc tệ hơn nữa, khi ta gặp trong ấy cả gia đình xa lạ.

      bóng đèn hiên bật sáng cách đường chừng ba mươi mét. Lu Li có lẽ ngồi quan sát hồi lâu bên cửa sổ tối om. Tôi quay đầu liếc dọc phố xem có xe nào khả nghi . Tôi luôn nhận ra những chiếc xe NSA phái theo dõi tôi. Hoặc là tụi an ninh quan tâm xem tôi có nhận ra chúng , hoặc là, điều này có lý hơn, chúng muốn cho bọn tôi biết mình bị theo dõi. Hôm nay tôi thấy có gì khả nghi, nhưng tôi vẫn cảm thấy bất ổn. Có lẽ kẻ bám đuôi muốn bị phát . Tôi rẽ vào cổng nhà Fielding rồi đỗ xe trước cửa ga ra đóng kín.

      “Người đoạt giải Nobel sống ở đây à?” Rachel chỉ tay vào ngôi nhà khiêm tốn và hỏi.

      từng sống,” tôi chữa lại. “ ở đây, để tôi vào mình.”

      “Lạy Chúa!” giãy nảy. “Chuyện này vớ vẩn. Sao ta coi nó chỉ là trò chơi đố chữ, rồi kiếm tách cà phê mà ngồi tìm cách giải?”

      Tôi túm tay và nhìn thẳng vào mắt .

      nghe tôi đây, chết tiệt. Có thể sao, nhưng chúng ta phải làm thế này. Nếu thấy ổn cả, tôi huýt sáo để vào.”

      Tôi bước tới cửa trước ngôi nhà của người bạn mới mất, hai tay buông cho người ngoài dễ thấy, nhưng tâm trí để cả vào khẩu 38 ly trong túi.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 5


      Geli Bauer chăm chú nghe Corelli báo cáo từ nhà Fielding.

      “Chúng vào trong rồi. Tennant vào trước. Bác sĩ tâm thần còn lưỡng lự. Bây giờ ta cũng vào rồi. Khoan... Tôi nghĩ bác sĩ mang theo gì đó.”

      “Bác sĩ nào? ”

      “À, Tennant. khẩu súng trong túi. Phía trước, bên phải.”

      nhìn thấy báng súng ?”

      , nhưng trông nó giống súng lục.”

      Tennant nghĩ định làm cái khỉ gì vậy? Tiếng điện thoại kết nối lách cách.

      muốn tôi làm gì bây giờ?” Corelli hỏi.

      “Ngồi yên đó và đảm bảo các mic phải hoạt động.”

      “Bà góa vừa ra mở cửa. Bà ta kéo họ vào nhà.”

      “Báo cáo thường xuyên cho tôi.”

      Geli cắt liên lạc với Corelli. Nếu Tennant mang theo súng, tức là lo sợ cho tính mạng của mình. Chắc hẳn tin rằng Fielding bị giết? Nhưng tại sao? Thứ thuốc độc giết chết Fielding gây chảy máu não nghiêm trọng - cơn tai biến . Nếu mổ xác, thể chứng minh được vụ giết người. Và có mổ xác. Tennant chắc hẳn biết nhiều hơn Godin tưởng. Nếu bức thư chuyển qua FedEx mà nhận được là do Fielding gửi, có thể nó chứa vài chứng cớ nào đó.

      Ả chạm vào micro tai nghe và , “Skow. Nhà.” Máy tính quay số nhà riêng của Skow ở Raleigh.

      “Giờ lại chuyện gì đây?” Skow nghe máy sau hai hồi chuông.

      “Tennant và Weiss hầu như chuyện trò gì đường đến nhà Fielding.”

      “Vậy sao?”

      “Điều này tự nhiên. Bọn chúng tránh chuyện.”

      “Tennant biết bị theo dõi. luôn muốn chúng biết điều đó mà.”

      “Đúng, nhưng chưa bao giờ Tennant lẩn tránh như thế này. mưu mô gì đó.”

      “Tennant hơi lập dị. Chuyện đó tự nhiên thôi.”

      có mang theo súng.”

      thoáng im lặng. “Thôi được. tên quá lập dị. Chúng ta biết khẩu trong nhà.”

      “Việc đó với việc mang cái của khỉ ấy khác nhau đấy.”

      Skow tặc lưỡi. “Đó là kiểu phản ứng truyền cho người khác. nghiêm túc, cần bình tĩnh lại. Phải xem xét tình hình chứ. Tôi biết Tennant nghi ngờ. Hôm nay bạn thân của chết. bị hoang tưởng tự nhiên thôi. Điều chúng ta mong muốn là để nghi ngờ hơn nữa.”

      Ả muốn chuyện với Godin. Ả thử bấm số di động riêng của lão, nhưng lão trả lời mà cũng chẳng gọi lại. Đây là lần đầu tiên có chuyện như vậy. “Coi này, tôi nghĩ...”

      “Tôi biết nghĩ gì,” Skow . “Tôi chưa cho phép đừng có manh động.”

      “Đồ khốn,” Geli , nhưng Skow buông máy.

      Ả bấm số liên lạc với trụ sở NSA ở Fort Meade. Sĩ quan liên lạc của ả ở đấy tên là Conklin.

      “Chào Bauer,” ta . “ lại hỏi về FedEx nữa sao?”

      nghĩ thế nào?”

      “Tôi có cái mà muốn. Gói đó được bỏ vào thùng thư ở bưu điện Durham, Bắc Carolina. Tên người gửi đăng ký trong danh sách là Lewis Carroll.”

      Vậy Fielding gửi gói này cho Tennant. Ả biết ông ta tự mình gửi thư, nhưng rất có thể vợ ông ta làm. Geli tắt máy và ngả người ra ghế, tái tình huống.

      Cách đây bảy giờ ả giết người theo lệnh của Godin, mà biết chính xác tại sao. Ả cóc cần quan tâm đến điều này. Fielding gây nguy hiểm cho dự án, và theo điều kiện hợp đồng của ả, thế là đủ để ả ra tay. Nếu ả cần mấy lời biện minh đạo đức, đây, dự án Trinity cực kỳ quan trọng đối với an ninh quốc gia của Hoa Kỳ. Xử lý Fielding cũng giống như giết điệp viên bị bắt quả tang phản bội. Tuy thế, ả vẫn tò mò về động cơ. Godin với ả rằng Fielding ngầm phá hoại dự án và ăn cắp dữ liệu Trinity. ai có thể mó tay mó chân đưa dữ liệu ra vào tòa nhà này. Còn về vụ trộm cắp điện tử, bọn kỹ thuật viên NSA của Skow đảm bảo rằng hạt electron nào ra khỏi tòa nhà mà qua kiểm soát của gã.

      Vây tại sao Fielding phải chết? Cách đây sáu tuần, ông ta cùng Tennant làm treo dự án bằng cách đặt ra vấn đề đạo đức và y tế. Nếu đó là lý do, tại sao giết Fielding ngay? Và tại sao chỉ giết có mình ông ta? Peter Godin có vẻ gần như thất vọng khi ghé thăm Geli đêm qua. Ả chưa từng thấy Godin thất vọng. Phải chăng lão lo lắng đến thế vì muốn đưa dự án trở lại trực tuyến. Ả hiểu mấy về khía cạnh kỹ thuật của dự án Trinity, nhưng ả biết chắc thành công còn xa vời. Ả có thể đọc điều đó mặt các nhà khoa học và các kỹ sư, khi họ báo cáo công việc hằng ngày.

      Dự án Trinity chế tạo - hoặc nỗ lực chế tạo - siêu máy tính. phải siêu máy tính truyền thống như Clay hay Godin, mà là máy tính chuyên về trí tuệ nhân tạo, cái máy biết suy nghĩ . Ả hiểu điều gì làm cho thứ máy tính lý thuyết này khó chế tạo đến thế, nhưng Godin với ả đôi chút về nguồn gốc dự án.

      Năm 1994, nhà khoa học của phòng thí nghiệm Bell đưa ra thuyết rằng, nếu dùng các nguyên lý của vật lý lượng tử, có thể chế tạo được máy tính có sức mạnh gần như vô biên bẻ hết các mã khóa. Geli chẳng biết mấy về vật lý lượng tử nhưng ả hiểu tại sao máy tính lượng tử có thể tạo nên đột phá. Mã hóa kỹ thuật số đại - hệ thống mã được các ngân hàng, tập đoàn kinh tế, chính phủ quốc gia sử dụng - dựa phân tích thừa số các số nguyên tố lớn. Những siêu máy tính truyền thống như loại mà NSA sử dụng bẻ khóa mã bằng cách thử liên tiếp các chìa khóa khác nhau, giống như thử nhiều chìa để mở ổ khóa. Phá mã cách ấy phải mất hàng trăm giờ. Nhưng máy tính lượng tử - về lý thuyết - có thể thử đồng thời tất cả các chìa khóa có thể có. Các chìa khóa sai loại trừ nhau, chỉ còn lại chìa khóa đúng duy nhất để mở khóa mã. Và quá trình đó cần đến hàng giờ, thậm chí hàng phút. máy tính lượng tử có thể tức khắc bẻ khóa được mã hóa bằng kỹ thuật số. chiếc máy như thế làm cho việc mã hóa như nay trở thành lạc hậu, và mang lại cho bất kỳ đất nước nào sở hữu nó ưu thế chiến lược khiến mọi nước khác thế giới phải choáng váng.

      Xét đến giá trị tiềm tàng của loại máy như thế, NSA khởi động nỗ lực bí mật khổng lồ để thiết kế và chế tạo máy tính lượng tử. Được mệnh danh là Dự án Ma quỷ, do trước đây Albert Einstein từng miêu tả hoạt động của số hạt lượng tử là “giống như có ma quỷ điều khiển từ xa”, dự án này được đặt dưới điều hành của John Skow, giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Siêu máy tính của NSA. Sau bảy năm và tiêu hết 600 triệu đô la trong ngân sách đen của NSA, đội ngũ của Skow vẫn chế tạo ra được mẫu chuẩn có thể đọ được với tính năng của chiếc PDA Palm Pilot.

      Skow có lẽ sắp chịu thua nhận được cú điện thoại của Peter Godin, người chế tạo siêu máy tính truyền thống cho NSA nhiều năm nay. Godin đề xuất kiểu máy có tính cách mạng như máy tính lượng tử, nhưng thuộc tính của nó chính phủ thể phản đối: có thể chế tạo nó dựa tinh túy của công nghệ tại. Hơn nữa, sau khi chuyện với Andrew Fielding, nhà vật lý lượng tử mà lão mời cộng tác cùng dự án, Godin tin rằng chiếc máy có cơ hội cực tốt để trang bị những tính năng lượng tử.

      Bằng cách nhử miếng mồi béo bở ấy trước tổng thống, Godin gần như đạt được mọi nhượng bộ mà lão đòi hỏi. nhà máy chuyên biệt để chế tạo chiếc máy mới. Nguồn ngân sách gần như vô hạn của chính phủ tài trợ cho nỗ lực đầy rủi ro theo kiểu Dự án Manhattan. Quyền thuê và sa thải các nhà khoa học riêng của lão. Về phần giám sát của chính phủ, lão chọn Skow, người mà lão lôi kéo được từ nhiều năm trước bằng cách hối lộ, để Skow chọn các máy tính của Godin chứ phải của Cray cho Trung tâm Nghiên cứu Siêu máy tính. Tổng thống chỉ có cầu duy nhất là giám sát tại chỗ khía cạnh đạo đức của dự án, điều này được cụ thể hóa bằng David Tennant. Và ban đầu, Tennant dường như chỉ là nỗi phiền toái . Mọi việc có vẻ thông đồng bén giọt.

      Nhưng hai năm trôi qua. Gần tỷ đô tiêu hết veo mà mẫu máy Trinity vẫn chưa hoạt động được. Trong các hành lang bí mật của Thành phố mật (9) thuộc NSA, người ta bắt đầu so sánh nó với Dự án Ma quỷ thất bại. Tất nhiên khác biệt nằm ở Peter Godin. Ngay cả kẻ thù của Godin cũng phải thừa nhận rằng lão chưa bao giờ hứa suông. Nhưng lần này, họ thầm với nhau, lão đảm nhận nhiều hơn khả năng xử lý của mình. Trí thông minh nhân tạo có thể lý thuyết như máy tính lượng tử, ấy thế nhưng nhiều công ty phá sản vì cung cấp được như hứa.

      Thế nên Geli hiểu tại sao Fielding nhất định phải chết. Cho đến tận hôm qua, Godin ràng còn nhìn nhận nhà khoa học lỗi lạc ấy như nhân tố thể thiếu cho thành công của Dự án Trinity. Rồi bỗng nhiên ông ta bị thanh toán. Điều gì thay đổi?

      Bốc lên, ả gõ mạnh vào bàn phím, lôi ra danh sách các vật dụng riêng của Fielding mà ả lập sau khi ông ta chết, theo cầu của Godin. Phòng làm việc của Fielding biến thành đống hằm bà lằng những đồ vật kỳ quái, những tập ghi nhớ, giống như của giáo sư đại học hơn là của nhà vật lý thực nghiệm.

      Có nhiều sách, tất nhiên. bản Upanishad (10) bằng nguyên bản chữ Phạn. tập thơ của W. B. Yeats. Ba cuốn tiểu thuyết của Raymond Chandler đọc mòn nhẵn. bản Alice qua tấm gương soi. Nhiều sách giáo khoa khoa học và luận án. Những món khác lạc lõng hơn. Bốn cặp xúc xắc, đôi tạ. răng nọc của rắn mang bành. bản mới của tạp chí Penthouse. lưỡi gà saxophone. chiếc bát cầu nguyện Tây Tạng. tờ lịch treo tường in tranh của M.C. Escher. áp phích rách quảng cáo cho Club-à-Go-Go ở Newcastle, quốc, nơi Jimi Hendrix chơi vào năm 1967, có thủ bút của tay ghi ta này. bức thư lồng khung của Stephen Hawking thừa nhận hai người đánh cuộc về bản chất của vật chất tối gì đó. Đĩa compact của Morrison, John Contrane, Miles Davis mua ngoài tiệm. Danh sách các đồ vật còn kéo dài, nhưng tất cả đều thuộc loại vô thưởng vô phạt. Geli đọc lướt qua các cuốn sách, kỹ thuật viên nghe kỹ từng bản nhạc đĩa CD nhằm bảo đảm chúng bị giả mạo để ghi dữ liệu ăn trộm. Bên cạnh đống đồ văn phòng lặt vặt của Fielding còn có ví tiền, quần áo và mấy món kim hoàn. Đồ kim hoàn chỉ có chiếc nhẫn cưới vàng và chiếc đồng hồ quả quýt bằng vàng nối với sợi dây chuyền, đầu là móc pha lê.

      nghĩ về danh sách đồ vật, Geli bỗng giật mình tự hỏi liệu tất cả có còn nguyên trong kho sau khi ả khóa cửa phòng chiều hôm qua? Ả băn khoăn vì John Skow vào phòng ấy. Biết đâu Fielding bị giết vì vật mà ông ta có sao? Có thể đó là lý do họ muốn ông ta phải chết trong phòng làm việc. Để chắc chắn lấy được thứ họ muốn. Nếu đúng vậy, đó phải là thứ đồ vật mà ông ta luôn mang theo người. Nếu họ chỉ việc lấy trộm từ phòng làm việc của ông ta. Geli sắp kiểm tra lại kho lại có tiếng bíp trong ống nghe của ả.

      “Tôi nghĩ chúng ta ổn rồi,” Corelli thông báo.

      “Gì vậy?”

      “Giống như ở nhà Tennant. Bọn chúng ở trong, nhưng tôi nghe thấy chuyện trò gì cả. Chỉ có tiếng vọng mơ hồ từ mấy cái mic xa tít, như tràn tín hiệu vậy.”

      “Cứt .” Geli chuyển tín hiệu từ nhà Fielding vào tai nghe của mình. Nhưng chỉ thấy im lặng. “Có chuyện rồi,” ả lầm bầm. “Các mang theo gì?”

      “Chúng tôi mang đến ăng ten parabol, nhưng nó bắt qua tường rất kém, còn qua cửa sổ hầu như vô dụng. Chúng tôi cần thiết bị laser.”

      “Có đây.” Ả nhẩm trong óc danh mục các thiết bị có. “Tôi gửi nó đến cho trong vòng mười hai phút.”

      “Mười hai phút sợ họ về mất.”

      “Nhìn ban đêm thế nào?”

      “Tôi chờ đợi cái gì mang tính chiến thuật.”

      Chết tiệt. “Thiết bị đường đến. Kiểm tra xe Tennant, tìm phong bì FedEx. Và báo cho tôi địa chỉ con đường đậu xe.”

      Geli ghi lại, rồi nhấn nút làm khuấy động căn phòng ở cuối khu liên hợp tầng hầm. Ở đó có giường nghỉ cho đội của ả khi cần trực 24/24. Ba mươi giây sau, thanh niên cao ráo, tóc vàng hoe dài thượt, ngái ngủ lê chân vào trung tâm điều khiển.

      “Gì dzậy?” hỏi.

      có báo động.” Ả chỉ vào chiếc máy pha cà phê sát tường. “Uống !”

      Ritter Bock là người Đức. Trong đội của Geli, là người duy nhất do Godin tuyển chọn. Vốn là cựu lính đặc công GSG-9, Ritter trước đây làm việc cho cơ quan an ninh riêng của giới chóp bu, thường cung cấp vệ sĩ cho Godin khi lão sang châu Âu hoặc Viễn Đông. Godin thuê Ritter lâu dài sau khi tay cựu đặc công này ngăn chặn được vụ bắt cóc nhà tỷ phú. Tàn nhẫn, thần kinh thép và điêu luyện trong nhiều lĩnh vực vượt ra ngoài chuyên môn chống khủng bố của mình, gã trai 29 tuổi này hóa ra lại trở thành thủ hạ đắc lực nhất của Geli. Và bởi vì trước đây ả trải qua nhiều mùa hè ở Đức nên giữa họ có khó khăn gì về ngôn ngữ.

      Ritter uống từng ngụm từ chiếc cốc bốc hơi nghi ngút và nhìn Geli qua miệng cốc. có đôi mắt pháo thủ màu xám của những cậu trai từng hút hồn ả thuở dậy hồi bố ả đóng quân bên Đức.

      “Tôi cần đưa chiếc ăng ten laser cho Corelli,” ả . “ ta đậu xe ở lối vào gần khu trường Đại học Bắc Carolina.”

      Ả xé trang đầu trong cuốn sổ ghi chép và ném lên mặt bàn bên cạnh mình.

      Ritter khụt khịt gật đầu. ghét những việc lặt vặt kiểu này, nhưng bao giờ phàn nàn. vẫn làm những việc tên và kiên nhẫn chờ đợi việc mà sinh ra để làm.

      “Phải cái laser trong phòng hậu cần ?” hỏi.

      “Đúng. Mang theo bốn máy ngắm ban đêm.”

      uống nốt cà phê, nhặt mảnh giấy bàn rồi ra lời. Geli thích thế. Người Mỹ luôn thấy cần lấp khoảng trống im lặng, như thể im lặng là cái gì đáng sợ. Ritter phí sức, trong lời cũng như trong hành động. Điều đó làm trở nên có giá. Đôi khi hai người cùng làm việc, những lúc khác ả ngủ với . Chuyện đó chẳng thành vấn đề. Ả thường làm thế khi ở trong quân đội, kiếm được chỗ nào vui vẻ là mần liền. Cũng như thời ả là học sinh nội trú ở Thụy Sĩ. Nguy cơ luôn rập rình. Cần phải có khả năng chế ngự được những gã đàn ông - hay phụ nữ - hung hăng, và xử lý được hậu quả sau khi mọi chuyện xong. Ả luôn luôn làm được cả hai chuyện đó.

      “Corelli?” ả hỏi. “Giờ nghe thấy gì?”

      “Vẫn có gì. Nghe như tràn tín hiệu. Khó hiểu.”

      “Tôi báo động. Ritter đến.”

      Chỉ có tiếng nhiễu sóng và im lặng đáp lại. Geli mỉm cười. Ritter làm mọi người khó chịu. “ có nghe tôi ?”

      . Tôi ở trong xe Tennant.”

      “Thấy gì ?”

      thấy phong bì FedEx. Chắc mang vào trong đó.”

      “OK.”

      muốn tôi làm gì bây giờ”

      “Về xe của và chờ Ritter.”

      .”

      Geli tắt máy và tiếp tục nghĩ về đồ dùng cá nhân của Fielding trong phòng lưu trữ. Ả có cảm giác bỏ sót thứ, và bản năng của ả luôn luôn chính xác. Nhưng ả muốn rời trung tâm điều khiển lúc này. khi Ritter đến trường, mọi việc tiến triển nhanh.




      CHƯƠNG 6


      Tôi kéo Rachel vào tiền sảnh nhà Fielding. Cửa đóng nhanh sau lưng chúng tôi, chúng tôi quay lại thấy phụ nữ châu Á chỉ cao khoảng mét rưỡi. Lu Li Fielding sống gần bốn mươi năm cuộc đời ở nước Trung hoa Cộng sản. Bà hiểu tiếng khá tốt nhưng được mấy.

      này là ai?” bà hỏi, chỉ vào Rachel. “ chưa lấy vợ phải , bác sĩ David?”

      “Đây là Rachel Weiss. ấy là bạn tốt của tôi. ấy cũng là bác sĩ.”

      Mắt Lu Li đầy vẻ nghi ngờ. “ ấy làm cho công ty à?”

      “Chị muốn Argus Optical?”

      “Tlinity” bà , thay r bằng l.

      hề. ấy là giáo sư trường y thuộc Đại học Duke.”

      Lu Li dò xét Rachel hồi lâu. “Vậy cũng vào . Xin mời. Nhanh lên cho, xin mời.”

      Lu Li cúi chào rồi dẫn chúng tôi vào căn phòng làm việc , cửa mở vào trong bếp. Tôi cười buồn bã. Khi Fielding ở căn nhà này hồi còn độc thân, trông nó lúc nào cũng như vừa có cơn bão tràn qua. Sách và giấy rải khắp nhà, hàng chục tách cà phê, chai bia, những cái gạt tàn đầy ngập, vung vãi khắp sàn nhà. Sau khi Lu Li đến, căn nhà trở nên ngăn nắp sạch như phòng tập thiền. Tối nay, nó thơm mùi chanh và sáp chứ phải mùi thuốc lá và bia chua.

      “Mời ngồi,” Lu Li .

      Rachel và tôi ngồi bên nhau sofa mềm. Lu Li ngồi mép chiếc phô tơi cũ, đối diện chúng tôi. Bà chăm chú nhìn Rachel còn mải ngắm tấm bảng đồng treo tường sau ghế Lu Li.

      “Giải Nobel đây phải ?” dịu dàng hỏi.

      Lu Li gật đầu, phải là tự hào. “Andy đoạt giải Nobel năm 1998. Hồi đó tôi ở Trung Quốc, nhưng chúng tôi vẫn biết công trình của ông ấy. Tất cả các nhà vật lý đều ngỡ ngàng.”

      “Chắc bà rất tự hào về ông ấy.” Rachel bình thản hỏi trong khi đôi mắt to của gây ấn tượng ngược lại. “Ông bà gặp nhau như thế nào?”

      Trong khi Lu Li trả lời bằng thứ tiếng ngắc ngứ, tôi ngớt ngạc nhiên về kết hợp giữa người đàn bà này với người bạn mất của tôi. Fielding gặp Lu Li khi ông đến Bắc Kinh giảng dạy theo sáng kiến ngoại giao - Hán. Bà dạy vật lý ở Đại học Bắc Kinh, và bà ngồi ngay hàng ghế đầu trong suốt chín buổi giảng của Fielding. Các quan chức Đảng mở nhiều tiệc chiêu đãi trong đợt giảng ấy, và Lu Li dự tất cả. Hai người nhanh chóng trở nên thể tách rời, khi đến ngày ông phải rời Trung Quốc, họ nhau say đắm. Hai năm rưỡi xa cách tiếp theo, Fielding cố gắng hết sực để xin visa xuất cảnh cho bà. Ngay cả với giúp đỡ về tiền bạc của NSA, ông vẫn tiến thêm được bước nào. Cuối cùng ông tính đến chuyện đút tiền cho bọn cò để lén đưa bà rời nước, nhưng tôi thuyết phục rằng ông cách đó quá mạo hiểm.

      Mọi việc thay đổi khi Fielding làm chậm trễ Dự án Trinity vì ông đưa ra mối nghi ngờ về các tác dụng phụ mà tất cả chúng tôi phải chịu. Như có phép lạ, thủ tục quan liêu được xóa bỏ, và Lu Li lên máy bay bay thẳng sang Washington. Fielding biết vợ chưa cưới của ông được đưa sang Mỹ chẳng qua chỉ để làm sao lãng cuộc đấu tranh của ông, nhưng ông cóc cần. Việc bà ấy đến cũng mang lại kết quả như đám người kia muốn. Ông người này vẫn cần mẫn điều tra mọi khía cạnh tiêu cực trong phòng thí nghiệm Trinity, các nhà khoa học khác vì thế càng thêm ghét ông.

      “Chị Lu Li,” tôi khi bà tạm ngừng, “trước hết cho tôi bày tỏ nỗi đau buồn lớn lao của tôi về việc Fielding qua đời.”

      Nhà vật lý lắc đầu. “Đó phải lý do tôi mời đến đây. Tôi muốn biết về sáng hôm nay. Chuyện gì xảy ra với Andy của tôi?”

      Tôi lưỡng lự muốn thẳng ra trong nhà này. Thấy biểu lo lắng của tôi, bà đến lò sưởi, quỳ xuống, với tới ống khói. Bà lấy ra chiếc hộp các tông đầy bồ hóng, đặt lên bàn cà phê. Tôi thấy chiếc hộp này từ trước. Nó chứa nhiều linh kiện điện tử tự chế ở nhà, nhắc tôi nhớ đến các công trình Heathkit mà cha con tôi làm khi tôi còn . Lu Li rút ra vật trông giống như chiếc gậy kim loại.

      “Sáng nay Andy rà soát nhà bằng cái này trước khi làm,” bà . “ bịt hết các mic rồi. Cứ chuyện, sao.”

      Tôi liếc nhìn Rachel. ý . Lu Li biết cách thắng điểm Trinity, hay ít nhất cũng biết những thủ đoạn an ninh của NSA. Geli Bauer chắc cho lục tung ngôi nhà ngay khi Lu Li rời nhà đến hiệu giặt là hay hàng tạp hóa. Tôi ngạc nhiên là ả lại chờ lâu đến thế.

      “Cả ngày hôm nay chị có ra khỏi nhà ?’’ tôi hỏi.

      ,” Lu Li đáp. “Họ cho tôi biết bệnh viện nơi họ đưa Andy đến.”

      Tôi ngờ rằng Fielding hề được đưa đến bệnh viện. Có thể ông được đưa về trụ sở NSA ở căn cứ quân Meade bằng máy bay, bang Maryland, hay bị đưa đến đơn vị y tế đặc biệt nào đó để mổ xác, hoặc tồi tệ hơn. Nước sau đó có thể phàn nàn, nhưng đó là việc của Bộ Ngoại giao, phải của NSA. Và nước - những người làm ra Luật Bí mật Chính thức và Thông báo Quốc phòng - có cách đồng thuận với Hoa Kỳ khi động đến các vấn đề an ninh quốc gia.

      “Tôi vẫn nghĩ chúng ta nên thầm,” tôi khẽ, chỉ tay vào cây gậy. “Và có lẽ tôi nên mang theo chiếc hộp khi rời đây. Tôi sợ N” - tôi ngừng lại ngay - “nhân viên an ninh của công ty lục soát nhà ngay khi chị vừa khỏi. Chị muốn bất kỳ ai tìm thấy nó đâu.”

      Lu Li lớn lên tại nước Cộng sản nơi cảnh sát hề biết thương xót ai. Sẵn sàng tin vào điều tồi tệ nhất có thể xảy ra là thứ ăn sâu vào tâm khảm bà. “Có phải họ giết Andy của tôi?” bà thầm.

      “Tôi hy vọng là . Xét đến sức khỏe, tuổi tác và các thói quen của Andrew, đột quỵ là điều có thể xảy ra. Nhưng... tôi tin đó là đột quỵ. Điều gì làm chị cho rằng có thể ông ấy bị giết?”

      Lu Li nhắm mắt lại cho nước mắt chảy ra. “Andy biết có chuyện xảy ra với ông ấy. Ông ấy bảo tôi thế.”

      “Ông ấy chuyện đó lần? Hay thường xuyên?”

      “Hai tuần cuối, nhiều lần.”

      Tôi thở ra hơi dài và chậm. “Chị có biết vì sao Andrew muốn gặp tôi ở Nags Head ?”

      “Andy muốn chuyện với . Tôi chỉ biết thế thôi. Andy rất sợ công việc. Sợ Trinity. Sợ...”

      “Cái gì?”

      “Godin.”

      hiểu sao tôi biết đó chính là Godin. John Skow dễ ghét - nhà kỹ trị vênh váo, vô đạo đức - nhưng gã gây nhiều sợ hãi. Godin ngược lại, dễ mến - thiên tài, người nước theo nghĩa tốt đẹp nhất của từ này, người có sức thuyết phục - nhưng sau khi làm việc với lão thời gian, cảm thấy rung động khó chịu phát ra từ lão, Faust (11) khao khát hiểu biết khinh thường mọi giới hạn, thèm đếm xỉa đến các ranh giới. Có điều : bất kỳ ai hay vật gì đứng chắn giữa Godin và mục tiêu của lão tồn tại được lâu ở đó.

      Godin và Fielding hợp tác khá tốt đẹp khi khởi . Hai người gần như cùng thế hệ, và Godin có cái tài năng thiên bẩm thúc đẩy những nhà khoa học tài năng của Robert Oppenheimer(12): vừa ca ngợi vừa khích lệ họ. Nhưng tuần trăng mật kéo dài lâu. Với Godin, Trinity là sứ mệnh, và lão theo đuổi nó với lòng nhiệt thành của nhà truyền giáo. Fielding khác. Ông người tin chuyện đó, đơn giản vì ông cho rằng điều gì có thể làm được nên làm. Ông cũng tin mục đích cao quý có thể biện hộ cho bất kỳ phương tiện gì để đạt được nó.

      “Andy có giấy tờ gì cho tôi ?” tôi hỏi đầy hy vọng.

      “Tôi nghĩ vậy. Tối nào ông ấy cũng ghi chép, nhưng mỗi đêm trước khi ngủ” - bà chỉ vào lò sưởi - “ông ấy lại đốt cả. Andy rất bí mật. Ông ấy luôn cố gắng bảo vệ tôi. Luôn bảo vệ tôi.”

      Ông ấy cũng làm thế với tôi, tôi nghĩ thầm. Bỗng tôi nhớ đến những lời trong bức thư của Fielding. “Hôm nay làm Andy có mang theo chiếc đồng hồ bỏ túi ?”

      Lu Li hề ngập ngừng “Ngày nào ông ấy cũng mang theo. Hôm nay trông thấy nó à?”

      . Nhưng tôi chắc họ đem trả chị cùng với những đồ đạc riêng của ông ấy.”

      Môi dưới của bà run run, và tôi cảm giác đợt nước mắt nữa sắp sửa trào ra, nhưng . Nhìn Lu Li cố nén cảm xúc, tôi cảm thấy cơn đau thắt, quen thuộc nhưng có gì đó mới lạ với tôi. Tôi lạ với chuyện tang tóc, nhưng những gì tôi cảm thấy bây giờ giống những gì tôi cảm thấy sau khi mất vợ con. Andrew Fielding là trong vài người sống cùng thế kỷ có khả năng trả lời số vấn đề cơ bản về sinh tồn của loài người. Việc biết rằng trí tuệ như thế từ trần để lại trong tôi khoảng trống sâu hoắm, tưởng như giống loài của mình suy giảm đáng kể và sao khôi phục lại được.

      “Giờ chuyện gì xảy đến với tôi?” Lu Li khẽ hỏi. “Họ đưa tôi về lại Trung Quốc ư?”

      thể có chuyện đó, tôi nghĩ. lý do khiến Trinity phải giữ bí mật đến thế là do số người liên quan cho rằng có thể những nước khác cũng nghiên cứu công cụ tương tự. Với lịch sử ăn cắp công nghệ thành thần, Trung Quốc được xếp hàng đầu trong danh sách đó. NSA bao giờ để nhà khoa học gốc Hoa từng gần gũi với dự án đến thế trở về tổ quốc. ra tôi còn lo cho tính mạng của bà. Nhưng tôi khó có thể làm được gì để bảo vệ bà cho đến khi tôi chuyện được với tổng thống.

      “Họ thể đưa chị về nước đâu,” tôi trấn an bà. “Chị đừng lo về chuyện ấy.”

      “Andy chính phủ làm bất cứ chuyện gì họ muốn.”

      Tôi định trả lời có ánh đèn pha chiếu qua sảnh. chiếc ô tô chạy chậm qua ngôi nhà.

      “Điều ấy đúng,” tôi . “Lu Li ạ, tôi thích thế này, nhưng điều tốt nhất nay chị có thể làm là hợp tác với NSA. Càng thấy chị gây ra điều gì phiền toái, người ta càng coi chị là mối đe dọa. Chị có hiểu ?”

      Mặt bà đanh lại. “Bây giờ bảo tôi nên để cho họ giết Andy mà gì hết? làm gì hết?”

      “Chúng ta biết chắc Andy có bị giết hay . Và ngay lúc này bản thân chị xoay xở được nhiều. Tôi muốn chị để tất cả chuyện đó cho tôi. Tôi gọi cho tổng thống và tôi có thể nghe ông ấy trả lời bất cứ lúc nào. Bây giờ ông ấy ở đâu đó tại Trung Quốc. Bắc Kinh.”

      “Tôi thấy ti vi. Andy bảo tôi có quen ông tổng thống này.”

      “Tôi gặp ông ấy. Ông ấy là bạn tôi, và chính ông ấy cử tôi vào việc này. Tôi hứa với chị bằng mọi cách tìm cho ra về cái chết của Andy. Tôi mắc nợ ông ấy điều đó. Và hơn thế nữa.”

      nụ cười bỗng xuất gương mặt đau khổ của Lu Li. “Andy rất tốt. Ân cần, vui tính. Và thông minh.”

      “Rất thông minh,” tôi đồng ý, mặc dầu chữ thông minh mà đem áp dụng vào những người như Andrew Fielding chưa lên được điều gì hết. Fielding thuộc trong số rất ít người hành tinh này thực nắm được bí mật của vật lý lượng tử, lĩnh vực dành riêng cho những sinh viên quá thông minh để làm tiến sĩ khoa học - như các sinh viên Cambridge của Fielding thường đùa.

      Rachel ngạc nhiên cười khúc khích khi thấy quả bóng bằng lông trắng lăn vào phòng và tót lên đùi Lu Li. Quả bóng lông là con chó giống bichon frise. Lu Li mỉm cười và xoa mạnh cổ nó.

      “Maya, Maya”, Lu Li thủ thỉ rồi thầm bằng giọng Quảng Đông ê a.

      Con chó có vẻ lo lắng trước có mặt của người lạ trong nhà, nhưng nó sủa. Đôi mắt nâu của nó dán vào tôi.

      có biết Maya , bác sĩ David?”

      “Có. Chúng tôi gặp nhau rồi.”

      “Andy mua nó cho tôi. Cách đây sáu tuần. Maya là bé cưng của tôi. Cho đến khi nào ông trời cho tôi và Andy ...”

      Lu Li chìm vào im lặng, và tôi hiểu rằng ông bạn sáu mươi ba tuổi của tôi cố gắng có con với bà vợ bốn mươi của mình.

      “Tôi rất tiếc,” tôi câu vô ích. “Tôi thực lấy làm tiếc.”

      Rachel như muốn gì đó, nhưng có những lúc nhà tâm lý trị liệu đầy tài năng cũng bất lực trong diễn đạt. Khi Lu Li nhìn vào khoảng , nỗi lo của tôi tăng lên. Nếu Fielding nghi ngờ mình bị giết, chắc ông có điều lo sợ đó với bà, và NSA có thể biết động thái của ông. Gần như chắc chắn là họ biết tôi ở đây. Nếu họ ở ngoài đó, có thể họ chụp ảnh Rachel, và có khi cố tưởng tượng xem làm gì ở đây.

      “Trông Maya có vẻ muốn ra ngoài dạo chơi,” tôi vui vẻ .

      Lu Li tỉnh người ra.

      “Tôi rất vui lòng đưa nó ra ngoài hộ chị,” tôi thêm.

      . Maya cần...”

      Tôi giơ tay lên ngắt lời bà. “Tôi nghĩ khí bên ngoài làm tất cả chúng ta dễ chịu hơn.”

      Lu Li chăm chăm nhìn tôi vài giây. “Được,” cuối cùng bà . “Hay đấy. Tôi ở trong nhà cả ngày rồi.”

      Nhìn quanh kiếm thứ gì có thể viết được, tôi thấy tập giấy nhắn đặt cạnh điện thoại. Tôi đến đó và viết, “Chị có máy ghi xách tay ?” Rồi tôi xé tờ giấy, viết số di động của mình lên trang sau.

      Khi Lu Li đọc câu hỏi của tôi, bà vào phòng làm việc của Fielding lấy ra chiếc máy ghi mi ni hiệu Sony, loại dùng để học chính tả. Tôi bỏ vào túi và dẫn hai người phụ nữ ra sân trong qua cánh cửa kính mở.

      Maya theo sau chúng tôi nhưng cứ dính chặt lấy Lu Li, bà cầm sợi dây buộc cổ chó. Nằm sâu trong rừng cách khoảng trăm mét là giảng đường ngoài trời của trường Đại học Bắc Carolina. Trước đây, có hai lần Fielding đưa tôi đến đây chuyện.

      “Tôi biết Andrew soát kỹ trong nhà,” tôi thầm với Lu Li, “nhưng tôi vẫn cảm thấy an toàn khi chuyện trong ấy. Tôi cần chuyện riêng với Rachel mấy phút. Cảm phiền chị quay trở vào nhà. Khóa cửa lại, nhưng để Maya lại cho chúng tôi. Chúng tôi dạo trong rừng cây đến chỗ giảng đường, rồi quay về ngay. Tôi có mang theo điện thoại di động và ghi số giấy nhắn của chị. Nếu có gì lạ, chị hãy gọi cho tôi ngay.”

      Lo lắng và bối rối làm mặt Lu Li nhăn lại. “ chị cần Maya à?”

      “Để ngụy trang thôi, chị hiểu ? cái cớ để ra ngoài.”

      Bà chậm rãi gật đầu, đoạn quỳ xuống, thầm với con chó rồi quay trở vào nhà. Tôi bế con chó rên ư ử lên và rảo bước băng qua sân sau tới con đường hẹp dẫn qua rừng. Rachel vất vả lắm mới theo kịp vì bị cành cây móc vào quần áo.

      làm gì vậy?” rít lên.

      “Yên lặng nào. Tôi phải chuyện với , ngắn thôi.”

      Tôi nguồn gốc nỗi sợ của tôi, nhưng tôi biết nó làm ruột gan tôi cồn cào. Vô thức, tôi chuyển con chó sang tay trái, tay phải rút súng.




      CHƯƠNG 7


      “Ritter đến rồi,” giọng Corelli trong ống nghe của Geli có vẻ căng thẳng. “ ta lắp ăng ten laser chĩa vào cửa sổ trước.”

      ta nghe được gì rồi?”

      “Tiếng , nhưng phải chuyện. Như có người quanh nhà. Chắc họ ở căn phòng phía sau.”

      “Đổi vị trí và đặt ăng ten laser ở cửa sổ sau. Nhanh lên.”

      “Được.”

      Geli hầu như thể ngồi yên ghế. Có chuyện xảy ra ở nhà Fielding, và ả chỉ có cách duy nhất để biết. phút trôi qua, rồi giọng trầm của Ritter cất lên, “Nichts (13).”

      chưa nghe được gì ở phía sau phải ?” ả hỏi.

      “Nein (14).”

      “Bọn chúng biết chỗ đặt rệp, và bịt cả rồi.”

      “A a a!” Ritter kêu lên. “Làm sao chúng biết được?”

      “Fielding.”

      “Đồ chó chết,” Corelli chửi. “Lần nào lão cũng chơi chúng ta vố.”

      Geli gật đầu. Ở Trinity, Fielding cư xử như giáo sư đãng trí, nhưng chính ông ta là tay cáo già nhất.

      “Có lẽ chúng ra khỏi nhà rồi,” Geli . “Fielding và Tennant hai lần làm thế. Dẫn chó của Fielding dạo! Tôi tung đội vào rừng ngay bây giờ.”

      “Nein,” Ritter ngăn. “Tennant nghe thấy bọn họ.”

      có ý gì hay hơn?”

      “Tôi mình.”

      “OK. Tôi cài đặt máy đo trường nhìn. Tennant có thể tìm cách chạy.”

      “Tôi nghĩ thế. Chạy quả là ngu ngốc. Mà Tennant ngu.”

      “Tại sao ngu?”

      “Khi chạy người ta đưa phụ nữ theo. Như vậy nhanh và hơn.”

      Geli cười mình. “Tennant giống đâu Liebchen (15) ạ.”

      Ritter cũng cười. “ cũng là đàn ông đấy chứ?”

      là người Mỹ và lớn lên ở miền Nam. Tôi biết nhiều gã như hồi trong quân ngũ. Những hùng bẩm sinh. Tính cách lãng mạn. Nhiều tên chết vì thế.”

      “Giống như lão người ?” Ritter hỏi.

      Geli nghĩ đến Andrew Fielding. “Đại loại thế. Thôi tiếp tục . Bảo Corelli bao vây mặt trước.”

      “Ja (16).”

      Geli ra khỏi ghế và bắt đầu dạo bước lối giữa các giá đặt các thiết bị điện tử. Ả định gọi cho Skow lần nữa, nhưng Skow muốn bị quấy rầy. Được thôi. Ả gọi khi Tennant chạy trốn, rồi xem thằng cha tự đắc này còn gì về chuyện già néo đứt dây nữa .

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 8

      Tôi lặng lẽ di chuyển giữa hàng cây tối thẫm. Rachel kêu lên như con gấu mù quờ quạng phía sau tôi. đường phố Manhattan có lẽ vận động như trung vệ lão luyện, nhưng rừng xa lạ với . Tôi chậm lại chờ theo kịp rồi bảo nắm vào sau thắt lưng tôi. làm theo.
      Khi chúng tôi khỏi nhà chừng năm mươi mét, tôi hỏi, “Bây giờ tin những điều tôi về Fielding chưa?”
      “Tôi tin làm việc với ông ấy,” Rachel đáp. “Nhưng tôi chắc ông ấy bị giết. Tôi nghĩ cũng thế.”
      Tôi nhảy qua khúc cây mới đốn, rồi giúp vượt qua. “Tôi tin rằng ông ấy bị giết. Chỉ có hai người trong Dự án Trinity phản đối những việc làm. Fielding là , và bây giờ ông ấy chết. Tôi là người thứ hai.”
      có định cho tôi nghe về Trinity bây giờ ?”
      “Nếu muốn nghe. Tôi tin giờ hiểu điều đó nguy hiểm cho .”
      xuýt xoa khi bị cành cây thạch nam cào vào tay. “Tiếp tục .”
      “Khi đến nhà tôi hôm nay, tôi quay băng video để đưa cho luật sư của tôi. Ông ấy mở nó trong trường hợp có chuyện xảy đến với tôi. Tôi bao giờ hoàn thành cuộn băng ấy được. Và là, tôi lo biết có còn sống đến sáng mai nữa .”
      dừng lại trước lối mòn bị cây cỏ che lấp. “Sao báo cảnh sát? Lu Li ràng là cũng nghi ngờ giống , và tôi nghĩ có đủ chứng cớ gián tiếp để...”
      “Cảnh sát thành phố thể điều tra NSA. Và đó là kẻ giám sát Trinity.”
      “Thế gọi cho FBI.”
      “Chẳng khác nào bảo FBI điều tra CIA. Quan hệ giữa hai cơ quan ấy tệ đến mức bất kỳ việc gì cũng mất hàng tuần mới xong. Nếu muốn giúp tôi, hãy trở thành băng ghi hình cho tôi. Nghe những điều tôi ở đây, rồi về nhà giữ kín cho mình.”
      “Và nếu có chuyện gì xảy đến với ?”
      “Gọi cho CNN và New York Times, kể với họ mọi thứ biết. càng kể sớm bao nhiêu càng an toàn bấy nhiêu.”
      “Sao làm thế? Đêm nay?”
      “Vì tôi chắc là mình đúng. Vì tổng thống có thể tìm cách liên lạc với tôi lúc tôi . Và bởi vì, dù điều này nghe có vẻ trẻ con, đây là vấn đề an ninh quốc gia.”
      Ôm con chó rên rỉ của Lu Li bên tay trái, tôi nhét khẩu súng vào túi quần và nắm tay kéo Rachel tiến lên. Thêm bốn mươi mét nữa, tôi thấy phía trước bóng tối càng dày đặc. Cây cối rẽ ra hai bên như hai hàng lính thưa thớt, và bức tường nhân tạo chắn trước mặt tôi. Khi mắt tôi điều chỉnh lại tầm nhìn, tôi thấy cánh cửa mà tôi biết nằm kia. Tôi mở nó ra bằng bàn tay rỗi và dẫn Rachel vào. Chúng tôi bước vào vùng lòng chảo ngập ánh trăng, với những dãy đá chẻ xếp hàng.
      “Trời,” thốt lên.
      Giảng đường trông như thể được phép màu đưa từ Hy Lạp đến cánh rừng Carolina này. Bên phải chúng tôi là sân khấu treo, bên trái là những bậc thang đá dẫn qua các hàng ghế ngồi lên đến hàng cao nhất. Phía xa lắm là đường Country Club. Từ con đường nhìn xuống tầm nhìn bị chắn gần hết bởi rừng thông và rừng cây gỗ cứng, nhưng tôi vẫn thấy những vệt sáng đứt quãng của đèn pha ô tô quét qua đầu chúng tôi.
      Tôi cầm tay Rachel dắt lên bậc thềm đá và dẫn đến rìa sân khấu. Ở đó tôi quấn dây xích Maya vào cột đèn thấp. Trong lúc con chó đánh hơi thứ mùi phảng phất nào đó, tôi đặt máy ghi xuống mép sân khấu và ấn nút RECORD. “Tôi là David Tennant, tiến sĩ y khoa,” tôi . “Tôi với bác sĩ Rachel Weiss của trường y, Đại học Duke.”
      Khi phát lại. Tôi có bản sao tĩnh lời của mình. Tôi nhìn đồng hồ. “Chúng ta cần chuyện dưới mười phút.”
      Rachel nhún vai, mắt đầy vẻ tò mò.
      “Trong hai năm qua, tôi làm việc cho Dự án đặc biệt của Cục An ninh Quốc gia. Nó được biết đến dưới tên gọi Trinity và đặt căn cứ trong tòa nhà của Công viên Tam giác Nghiên cứu, cách đây mười sáu cây. Trinity là công trình khổng lồ do chính phủ tài trợ, nhằm chế tạo siêu máy tính có trí tuệ nhân tạo. máy tính biết suy nghĩ.”
      có vẻ ấn tượng lắm. “Chẳng phải chúng ta có máy tính làm được điều đó rồi sao?”
      Điều lầm lẫn thông thường này giờ đây làm tôi ngạc nhiên, nhưng những ngày đầu đến làm việc ở Trinity, tôi cũng chẳng hiểu biết gì hơn. Trong vòng năm mươi năm, các nhà viết truyện khoa học viễn tưởng và các nhà làm phim tạo ra hình tượng về “bộ óc điện tử vĩ đại” chiếm lĩnh thế giới. HAL, máy tính biết trong 2001: Space Odyssey, ăn sâu vào ý thức công chúng và gắn chặt ở đấy từ năm 1968. Trong ba mươi lăm năm tiếp theo, chúng ta chứng kiến cuộc cách mạng của máy tính kỹ thuật số, đến mức người trung bình cũng tin rằng “máy tính biết suy nghĩ” là điều gần kề, nếu phải là trong tầm khả năng của chúng ta. Nhưng thực tế khác xa. Tôi có thời gian để sâu vào những thứ phức tạp của mạng lưới thần kinh hoặc trí thông minh nhân tạo mạnh mẽ. Rachel cần bài vỡ lòng đơn giản và những thực tế về Trinity.
      bao giờ nghe về người đàn ông tên là Alan Turing chưa?” tôi hỏi. “Ông ta là trong những người bẻ mã khóa Enigma của Đức trong Thế Chiến II. ”
      “Turing à?” Rachel trông có vẻ đăm chiêu. “Tôi có nghe cái gì gọi là trắc nghiệm Turing phải.”
      “Đó là trắc nghiệm kinh điển về trí thông minh nhân tạo. Turing rằng có thể tạo ra trí thông minh máy móc khi có nguời ngồi ở bên tường, đánh các câu hỏi vào bàn phím, rồi đọc câu trả lời màn hình, mà vẫn tưởng rằng những câu trả lời đó do người khác ở phía bên kia tường đánh vào. Turing tiên đoán điều đó có thể xảy ra vào cuối thế kỷ hai mươi, nhưng cho đến nay vẫn chưa có máy tính nào từng vượt qua được thử thách đó. Nếu chỉ dùng công nghệ thời có lẽ phải năm mươi năm nữa.”
      “Chẳng phải máy tính IBM cuối cùng đánh bại Garry Kasparov ở môn cờ vua sao? Tôi biết mình đọc thông tin ấy ở đâu đó.”
      muốn Deep Blue?” Tôi cười, tiếng cười nghe vang kỳ lạ trong giảng đường. “Phải! Nhưng nó thắng được là nhờ dùng thứ máy tính mà các nhà khoa học gọi là sức mạnh dã man. Bộ nhớ của nó chứa toàn bộ các ván cờ từng được chơi, và mỗi nước nó xử lý hàng triệu khả năng lựa chọn. Nó chơi cờ rất tốt, nhưng nó biết nó làm gì. Là con người, Garry Kasparov chưa bao giờ phải cân nhắc hàng tỷ khả năng - trong số đó có nhiều nước đơn giản đến mức ngớ ngẩn - như máy tính làm. Những kiến thức mà Kasparov có được giúp ta có những bước nhảy vọt theo trực giác, và mỗi lần như thế ta lại học thêm được điều gì vĩnh viễn. ta chơi bằng bản năng. Và ai hiểu được điều đó nghĩa là gì.”
      Rachel ngồi lên mép sân khấu. “Vậy, muốn với tôi điều gì?”
      “Rằng máy tính suy nghĩ như người. ra, nó chẳng suy nghĩ gì cả. Nó chỉ thực các lệnh. Trong các chương trình quảng cáo ti vi hay nghe thấy ‘phần mềm biết suy nghĩ’ chứ gì? Vớ vẩn. Các nhà nghiên cứu trí thông minh nhân tạo thậm chí còn ngại dùng thuật ngữ thông minh nhân tạo nữa là.”
      “OK. Nhưng còn Trinity sao?”
      “Chén Thánh.”
      định gì?”
      “Mọi người đều muốn chế ra máy tính hoạt động như bộ óc người, nhưng chúng ta biết bộ óc người hoạt động như thế nào. Ai cũng thú nhận thế. Ờ... hai năm trước đây, có người nghĩ rằng điều đó nhất thiết phải là trở ngại như mọi người thường nghĩ. Rằng chúng ta có thể copy bộ óc mà cần hiểu mình làm gì. Dùng những công nghệ tại.”
      “Người ấy là ai?”
      “Peter Godin. tỷ phú.”
      “Godin Siêu máy tính ấy à?”
      Bây giờ lại làm tôi ngạc nhiên. “Đúng.”
      “Có siêu máy tính Godin-4 trong căn cứ ở TUNL, phòng thí nghiệm năng lượng cao ở Duke.”
      “Đúng, Godin là người sáng tạo ra Dự án Trinity.”
      Có vẻ như nhiều chi tiết tích lũy lại thuyết phục được .
      “Loại công nghệ nào nay có thể copy được bộ não người?”
      “MRI.”
      “Máy chụp cộng hưởng từ?”
      “Đúng. Tuần nào cũng cho chỉ định chụp MRI đúng ?”
      “Tất nhiên.”
      “Trong máy chụp ấy có rất nhiều thông tin phải ?”
      “Đôi khi nhiều hơn là tôi có thể xử lý.”
      Rachel, tôi từng thấy những máy chụp MRI chứa lượng thông tin nhiều gấp trăm ngàn lần cái máy mà vẫn thấy hằng ngày. Độ phân giải trăm nghìn lần.”
      Rachel chớp mắt. “Nhưng làm sao có thể thế được. còn thấy gì nữa?”
      “Tôi thấy phản ứng giữa những khớp thần kinh cá biệt, được làm đông lạnh đúng lúc. Tôi thấy những bộ não người hoạt động ở cấp độ phân tử.”
      “Xạo.”
      Bác sĩ nào cũng như thế. “. Chiếc máy đó có . Nó ở trong căn phòng cách chúng ta mười sáu cây. Chỉ có điều là ai biết.”
      lắc đầu. “Điều đó có nghĩa gì cả. Tại sao công ty lại phải giữ bí mật việc như thế?”
      “Bởi vì nó phải chịu ràng buộc về pháp lý do chính phủ quy định.”
      “Nhưng chiếc MRI như thế có thể làm ra hàng trăm triệu đô la. Nó có thể phát các tế bào ác tính rất sớm trước khi chúng phát triển thành khối u.”
      đúng. Đó là vấn đề chủ chốt của tôi với dự án này. Giữ cho chiếc máy đó phục vụ các bệnh nhân ung thư là vô đạo đức. Nhưng giờ đây, ta chỉ cần thừa nhận rằng có máy chụp MRI có thể tạo ra các mẫu 3D của bộ não, với độ phân giải đạt kích thước phân tử.”
      “Những bức ảnh chụp nhanh của não bộ.”
      “Về cơ bản, đúng. Ravi Nara gọi đó là những ‘mẫu thần kinh’.”
      “Mẫu thần kinh. OK.”
      “Rachel, có nhận ra trong những mẫu thần kinh đó là gì ?”
      “Tôi biết rằng chỉ trong số chúng là đủ để cách mạng hóa khoa học thần kinh. Nhưng tôi có cảm giác đấy phải là điều chúng ta định .”
      mẫu thần kinh chính là con người mà từ đó mẫu được lấy ra. Đúng vậy đấy. Những ý nghĩ của ta, trí nhớ, nỗi sợ hãi... tất cả mọi thứ.”
      “Nhưng... nó chỉ là hình chụp, đúng ? bản đồ phân giải cao của bộ não.”
      . Nó là bản sao được mã hóa của tất cả các phân tử trong bộ não, trong tương quan gian và điện hóa học tuyệt hảo. Điều đó có nghĩa là...”
      “Khoan . Có phải sắp với tôi rằng họ có thể tải trong những mẫu thần kinh đó vào máy tính?”
      . Nhưng đó là điều mà họ làm 24/24 giờ trong suốt hai năm để mong đạt được. Godin tiên đoán phải mất mười lăm đến hai mươi năm, nhưng chỉ trong mười chín tháng qua họ được nửa chặng đường. Tôi chưa hề thấy cái gì như thế. Trong lịch sử chỉ có tiền lệ là Dự án Manhattan trong Thế Chiến II.”
      Rachel định , nhưng tôi giơ tay ra hiệu. đầu chúng tôi hai ánh đèn pha chậm rãi quét qua với tốc độ chậm hơn nửa tốc độ của các xe khác. Chúng chậm hẳn lại rồi tăng tốc và biến mất.
      “Chúng ta cần phải nhanh lên.”
      “Nếu Trinity là tất cả những gì vừa , vậy tại sao nó lại đặt căn cứ ở Bắc Carolina?”
      Đây phải câu hỏi mà tôi trông đợi. “ có phải là chuyên gia phân tích hàng đầu thế giới theo trường phái Jung ?”
      “Ờ... người trong số đó.”
      “Vậy tại sao công tác tại Bắc Carolina?”
      cau mày. “Bởi vì Đại học Duke ở đấy. Đó lại là chuyện khác.”
      khác lắm đâu. Peter Godin muốn lập căn cứ cho Trinity ở gần phòng thí nghiệm R&D(17) của ông ta ở Mountain View, California. NSA cung cấp tài chính và nó muốn đặt căn cứ ở căn cứ quân Meade, Maryland. Công viên Tam giác là cơ ngơi lý tưởng. Công nghệ cao mà lại xa khuất.”
      “Vậy mục đích cuối cùng là gì? NSA muốn làm gì với Trinity?”
      “Chính phủ nhìn thấy những bước tiến cách mạng nhất trong khoa học đều liên quan đến tiềm năng vũ khí. Nếu có thể chế cái máy như thế, chính phủ muốn là người đầu tiên thực .”
      “Cái máy tính này có thể là loại vũ khí gì?”
      hãy nghĩ đến Bão táp Sa mạc, Afghanistan, Iraq. Trong chiến tranh đại, mọi thứ đều có thể đưa vào máy tính. Bẻ khóa mã, thử vũ khí hạt nhân, chiến tranh thông tin, các hệ thống trận địa. Nhưng Trinity phải chỉ là cải tiến. Nó có khả năng làm cho các siêu máy tính tại trở thành lỗi thời như các mốt áo thun. Và nếu Fielding đoán đúng là nó có những khả năng lượng tử... các bộ mã đại nhất ngày nay tiêu đời. Đó là lý do NSA chịu chi hàng tỷ đô la cho Trinity.”
      Rachel tiêu hóa những gì tôi . “Nhưng đây chỉ là siêu máy tính vượt trội về tốc độ. Chúng ta về loại máy tính có thể nghĩ như con người.”
      Tôi lắc đầu. “Chúng ta thể chế tạo loại máy tính có thể nghĩ như con người. Chúng ta về việc sao chép bộ óc cá nhân. Tạo ra thực thể kỹ thuật số vốn là cá nhân, dùng cho tất cả các mục tiêu thực tiễn. Với chức năng nhận thức của ta hoặc ta, với mọi hồi ức, hy vọng, ước mơ... mọi thứ, chỉ trừ thân thể. Chỉ cần nó chạy được với tốc độ của máy tính kỹ thuật số. Nhanh hơn các hệ mạch sinh học triệu lần.”
      lẩm nhẩm như mình. “Đó là lý do tại sao Andrew Fielding và Ravi Nara làm việc chung với nhau.”
      “Chính xác. Các nhà bác học đạt giải Nobel thuộc các lĩnh vực vật lý lượng tử và thần kinh học. Peter Godin kết hợp họ lại với nhau.” Tôi kiểm tra lại xem băng ghi có còn quay . “Nhưng tôi mới chỉ với phần tiềm năng của Trinity. khi mẫu thần kinh của được nạp vào máy tính với tư cách Rachel Weiss, ưu thế về tốc độ đối với nguyên mẫu chưa phải là ưu thế duy nhất.”
      sao?”
      “Giả dụ tôi quyết định học chơi piano. Cần ba năm học hành cật lực. Điều đó gây ấn tượng cho . cũng muốn học chơi piano. cũng phải mất dưới ba năm. Đó là nhược điểm của bộ não người. Những đường cong học tập ở mỗi người gần tương tự nhau. Nhưng mẫu thần kinh của trong máy tính gặp trở ngại ấy. Toàn bộ lý thuyết nhạc có thể được tải về bộ nhớ của nó - bộ nhớ của - trong khoảng ba giây. có đường cong học tập nào cả.”
      lắc đầu. “ rằng có thể tải toàn bộ kiến thức nhân loại vào máy tính ấy - vào tôi - trong vài giờ?”
      “Về lý thuyết đúng thế.”
      “David, về cái gì đó tựa thể... tựa như Thượng đế, gần như thế.”
      hẳn thế. Vì mẫu thần kinh trong máy tính ấy chỉ là Rachel Weiss. Nó là Rachel Weiss vĩnh viễn. Nó có thể được nhân bản và lưu lại, hoặc tải sang máy tính Trinity khác. Nó bao giờ phải chết.”
      mấp máy môi định , nhưng thốt ra lời nào.
      bắt đầu tin tôi chưa?”
      “Công việc của ở Trinity là gì?”
      “Tôi được tổng thống chỉ định để đánh giá mọi tình thế khó xử về khía cạnh đạo đức có thể phát sinh. Trong Dự án Manhattan có những nhà bác học quay lại chống bom nguyên tử vì lý do đạo đức, nhưng họ có tiếng . Tổng thống muốn giảm thiểu phản đối của công chúng nhất định xảy ra khi Trinity trở thành thực. Ông ấy biết tôi ở trường đại học và đọc cuốn sách của tôi về Y đức - hoặc xem loạt phim NOVA dựa cuốn ấy, có lẽ thế. Đó là lý do ông ấy đưa tôi vào dự án. Chỉ có thế.”
      Rachel lơ đãng nhìn ra hàng cây tối đen. “Điều nghe hề đơn giản chút nào. ra, nó có vẻ điên rồ.” quay lại nhìn tôi, đôi mắt lóe lên. “ mười chín tháng qua Trinity được nửa chặng đường tới thành công. Cái gì cản trở nó trong nửa chặng sau?”
      “Chế tạo máy tính đủ mạnh để giữ được cả mẫu thần kinh trong mạch của nó. Bộ não người khá chậm chạp về phương diện tốc độ, nhưng về dung lượng lại tương đương. Nó chứa trăm nghìn tỷ mối liên hệ khả dĩ, tất cả có thể tính toán đồng thời, và đấy mới là để xử lý thôi. Nó cũng chứa lượng tương đương triệu hai trăm nghìn tỷ byte của bộ nhớ máy tính.”
      nhún vai. “Điều đó chẳng có nghĩa gì đối với tôi.”
      “Tương đương với số lượng nhật báo Wall Street phát hành trong sáu triệu năm.”
      há hốc miệng.
      “Khi Trinity bắt đầu, máy tính nào hành tinh có công năng lớn đến thế. Toàn bộ Internet có thể, nhưng nó quá phân tán và đủ độ tin cậy để có thể kiểm soát được.”
      “Còn bây giờ?”
      “Hãng IBM chế máy tính tên là Blue Gene có thể đọ với bộ não về năng lực xử lý, nhưng nó làm nổi các công việc của đứa trẻ lên năm.”
      “Và Trinity khác?”
      có thể tin như thế. Blue Gene có thể choán hết gian phòng hơn 200m2 và cần máy điều hòa khí ba trăm tấn để hoạt động. Trinity có kích thước của chiếc xe Volkswagen Beetle. Thế mà Godin còn cho là quá to. Ông ta luôn bộ óc người nặng có cân rưỡi và chỉ dùng có mười watt điện năng. Ông ta tin rằng giải pháp cho những vấn đề lớn cần phải đẹp. Thanh nhã.”
      Rachel nhìn chằm chằm vào những hàng ghế đá thoai thoải, cố sức hình dung tương lai lao nhanh vào tại. “Trinity mất bao lâu nữa để trở thành thực?”
      Tôi nghĩ đến khối than đen và tinh thể phát triển như dạng sống trong phòng thí nghiệm tầng hầm của tòa nhà Trinity. “Ngay bây giờ có chiếc máy đầu tiên với trăm hai mươi tỷ liên kết, và bộ nhớ gần như vô hạn.”
      “Nó có hoạt động ?”
      .”
      “Tại sao ?”
      “Bởi dù ta có nạp được bộ não của mình vào máy, ta chuyện với nó thế nào đây? Bộ não người giao tiếp với thế giới bên ngoài thông qua cơ thể sinh học có năm giác quan. Hãy tưởng tượng não của được nạp vào chiếc hộp. Nó mù, câm điếc và liệt. khối run rẩy vì sợ hãi. Hãy cảm ơn Chúa vì điều ấy. Bởi vì khi chiếc máy loại đó có thể được, nghe được, cử động được, ai dám trước nó có thể làm nên những chuyện gì.”
      Rachel ngước lên nhìn tôi vẻ quan tâm, “Nó có thể làm gì?”
      có nhớ HAL trong 2001: Space Odysse ?
      “Nhớ. máy tính đáng tin cậy nhất mà người ta từng chế ra. Ở Urbana, bang Illinois chứ gì?”
      Tôi khẽ chặc lưỡi. “Nó là như thế cho đến khi nó giết phi hành đoàn con tàu vũ trụ. Rồi, hãy tưởng tượng HAL làm gì khi nó được kết nối với Internet.”
      xem.”
      máy tính Trinity nối với đường dây điện thoại có thể công nghiệp hóa trò bắt cóc con tin thế giới. Nó có thể đánh sập mạng điện, đường sắt, kiểm soát lưu, hệ thống tên lửa đạn đạo, NORAD (18-) , phố Wall. Nó có thể đòi hỏi bất kỳ chuyện gì nó muốn.”
      lắc đầu bối rối. “Nhưng nó có thể muốn gì?”
      thực thể biết suy nghĩ có thể muốn gì? Đặc biệt xét về thực chất nó là người.”
      “Quyền lực?”
      “Chính xác.” Tôi nhảy lên khi chuông điện thoại di động reo. Màn hình hiển thị Andrew Fielding. Tôi nhấc máy. “Chị Lu Li à. Có chuyện gì xảy ra ?”
      có chuyện gì cả,” Lu Li trả lời giọng run run. “Tôi lo cho Maya. Hình như tôi nghe thấy tiếng động bên ngoài. Bác sĩ David, mang nó về hộ tôi.”
      Con chó thôi đánh hơi mặt đất, ngẩng lên nhìn tôi và hếch đầu như thể lắng nghe.
      “Chúng tôi về ngay đây.”
      “Bà ấy sao chứ?” Rachel hỏi khi tôi tắt máy.
      “Ừ. Bà ấy bảo chúng ta về, nhưng chúng ta còn phải đợi tí.”
      “Tại sao?”
      “Bởi vì NSA nghe được cuộc gọi vừa rồi. Nếu chúng bố trí người trong rừng cây, chắc bọn chúng di chuyển ngay bây giờ. Và chúng ta nghe được.”
      Rachel lo lắng liếc nhìn bức tường ngăn cách chúng tôi với rừng cây. “ có thực nghĩ rằng có người ngoài kia ?”
      “Đó phải điều sợ,” tôi . “Điều sợ bây giờ là nghĩ ngoài đó có người.”
      tụt khỏi sân khấu và nhìn vào cái cửa chúng tôi qua. Dễ tưởng tượng rằng có ai chờ phía sau.
      rằng Fielding bị giết vì và ông ấy chống lại dự án. Chính xác các chống lại như thế nào?”
      “Chúng tôi chỉ chống lại nó. Chúng tôi còn làm cho nó ngưng lại. Bị treo. Fielding nỗ lực hết sức để làm điều đó, nhưng tôi cần xin can thiệp của tổng thống. Nó cũng giống như đình chỉ các công việc về bom nguyên tử trong Thế Chiến II vậy.”
      “Tại sao các lại muốn đình chỉ nó?”
      “Tôi dám chắc về lý do của Fielding. Tôi cho rằng ông ấy giấu tôi nhiều điều, để bảo vệ tôi. Còn về phần tôi, lý do rất đơn giản.”
      “Sáu tháng trước, chúng tôi thử máy Siêu cộng hưởng từ MRI. Đầu tiên chúng tôi dùng động vật có vấn đề gì cả. Những người đầu tiên được máy chụp là sáu người trong nội bộ chúng tôi. Trong vòng tuần, tất cả chúng tôi thấy xuất những hội chứng thần kinh kỳ lạ. Tác dụng ngoại ý của việc bị phơi ra trước máy. Fielding tin rằng...”
      “MRI gây những tác dụng như vậy,” Rachel ngắt lời.
      phải thứ máy mà sử dụng. Từ trường mà máy MRI của Trinity phát ra có cường độ mạnh hơn theo cấp lũy thừa so với các máy nay. Chúng sử dụng vật liệu siêu dẫn cho phép những xung động dữ dội...”
      Maya gừ gừ trong cổ họng mà nhìn lên hàng ghế đá thoai thoải. Tôi nghe thấy tiếng động gì trong rừng cây, nhưng có lẽ con chó nghe được. Tôi bỏ máy ghi vào túi, bế con chó lên, rút súng và kéo Rachel ra qua cửa sân khấu.
      Bóng tối bao trùm chúng tôi
      “Bám sát sau lưng tôi,” tôi , lom khom dưới cành cây.
      có nghe thấy gì ?”
      .”
      Nếu có Rachel theo, tôi dễ dàng lẩn về nhà cách an toàn. Nhưng lúc này chỉ có cách là nhanh. Tôi rẽ qua những bụi cây thấp, nhắc Rachel mỗi khi tôi gạt cành cây có thể bật vào mặt . kêu lên hai lần và vấp lần, nhưng gượng được và cố bám sát gót tôi. Khi về gần đến nhà, tôi thấy ô cửa vàng cánh cửa dẫn ra hiên nhà Fielding. Bóng Lu Li đứng in lên đó, mục tiêu quá . Hình ảnh ấy làm tôi rùng mình.
      Khi bà mở cửa ra, tôi kéo bà vào sâu trong buồng. Maya sủa ngậu lên mãi đến lúc bà khom người giơ tay ra đón. Nó nhảy tót lên tay bà trong khi Rachel đóng cửa kính lại.
      “Gọi taxi ,” tôi thầm qua vai.
      Rachel bước đến điện thoại.
      Mắt Lu Li nhòe ướt. Tôi nắm khuỷu tay bà, con chó nhắm vào tôi sủa. “Tôi ước gì có thể ở lại với chị đêm nay,” tôi khẽ, “nhưng như thế dễ bị nghi ngờ hơn là tôi về nhà. Sáng mai làm tôi cố gắng tìm vài câu trả lời, bởi vậy tôi muốn mọi việc có vẻ bình thường nhất. Chị có hiểu ?”
      “Hiểu.”
      “Tôi mang hộp đồ chơi của Fielding theo. Tôi muốn ai tìm thấy nó ở đây. Như vậy được ?”
      Lu Li gật đầu, trìu mến vuốt ve con chó như với đứa trẻ.
      “Lúc ra về, tôi đánh xe vào ga ra sao cho ai nhìn thấy tôi mang chiếc hộp . Nếu có ai hỏi tôi làm gì ở đây, chị cứ bảo rằng tôi chỉ đến chia buồn. Nếu họ có nghe lỏm gì được từ cuộc chuyện của chúng ta, chị cứ xử đúng như chính mình. bà quả phụ quẫn trí.”
      “Quẫn trí là cái gì?”
      “Cực kỳ đau thương. Hoảng loạn.”
      Bà mỉm cười đầy can đảm. “Tôi cần phải làm thế.”
      Tôi đặt tay lên vai bà, bóp gần như thể nghe thấy. “Trong thư chuyển phát nhanh Andy gửi cho tôi, có chất bột trắng. Trông gần giống như cát. Nó ở trong chiếc túi văng kia. Chị có biết gì về chuyện này ?”
      Lu Li chăm chú nhìn văng, mặt bà nhăn lại vì suy tư. “. biết gì cả.”
      “Chị bỏ nó vào thùng thư FedEx phải ?”
      “Phải. Sao biết?”
      “Điều đó quan trọng.” Tôi biết Lu Li gửi thư vì trong giấc mơ trước tôi ở trong đầu Fielding. Tôi bỗng cảm thấy buộc phải rời khỏi ngôi nhà này ngay. “Rachel? Taxi đâu?”
      “Tới ngay sau vài phút,” trả lời ngay sau lưng tôi.
      “Nhờ chị vào trong ga ra,” tôi bảo Lu Li. “Khi nghe tôi bấm còi, chị mở cửa ra. Sau khi tôi lùi xe vào, chị đóng ngay cửa lại.”
      “OK.” Bà lẳng lặng rời khỏi phòng.
      Tôi nhặt túi Ziploc lên, dẫn Rachel qua phòng khách tối om, nơi có cửa sổ rộng trông ra phố. Tôi ném túi Ziploc lên ghế, rồi ngồi sofa đối diện cửa sổ đợi taxi đến.
      “Taxi cho tôi à?” ngồi xuống bên tôi thầm hỏi.
      “Phải.”
      “Nhưng xe tôi còn đậu ở nhà .”
      muốn quay về nhà tôi đâu. Mai có thể lấy nếu muốn. Tốt nhất là gọi taxi làm.”
      “Tôi nghe với Lu Li là mai trở lại làm việc.”
      “Phải, nếu đêm nay tổng thống gọi cho tôi.”
      “Tại sao? Nếu họ giết Fielding, lẽ nào họ giết cả nữa?”
      Câu hỏi của làm tôi thích thú cách trái khoáy. “Nghe cứ như là chia sẻ các hoang tưởng của tôi ấy.”
      Môi mím chặt, và tôi thấy sợ .
      “Coi nào, nếu họ muốn giết tôi, tôi chết rồi. Và nếu họ quyết định giết tôi trước sáng mai gì ngăn được họ. Nhưng tôi nghĩ họ vô cùng lo lắng về việc tổng thống phản ứng như thế nào, nên chưa dám ra tay. Nếu tôi còn sống đến sáng mai tôi cũng đến nơi làm việc cũng an toàn.”
      Rachel thở dài và lấy mấy ngón tay xoa thái dương.
      “Tôi biết điều gì xảy ra,” tôi thầm . “Nếu có ai hỏi cứ đúng càng nhiều càng tốt. đến nhà tôi vì tôi bỏ mấy lần hẹn khám. Tôi nhận được điện thoại từ vợ người bạn mới chết hôm nay. Bà ấy có ai thân thích ở đây, và tôi muốn đến an ủi bà ấy. Chúng ta làm cho bà ấy nguôi ngoai và dạo với con chó của bà ấy. Đấy là tất cả những điều biết.”
      dò xét khuôn mặt tôi dưới ánh sáng nhợt nhạt. “Đây phải điều tôi mong đợi.”
      “Tôi biết. nghĩ rằng tôi bị điên.”
      cắn môi, cử chỉ rất nữ tính. “Tôi nghĩ thế. Mặt khác tôi mong là mình lầm. Nhưng bây giờ tôi sợ. Tôi biết về những vấn đề tâm thần. Đây là vấn đề khác hẳn.”
      Tôi kéo lại gần và thầm vào tai . “Tôi mong hãy quên tất cả. Trừ khi có chuyện gì xảy ra với tôi. Khi đó hẵng nhớ. Nhớ và gào thét lên trời.” Tôi đẩy ra và nhìn vào mắt . “Tôi trở lại phòng khám của nữa đâu.”
      trừng trừng nhìn tôi như thể tôi vừa , “Chúng ta bao giờ gặp lại nhau nữa,” mà trong thâm tâm chính tôi cũng cảm thấy thế.
      “David...”
      “Taxi của đến rồi.” Tôi đứng đó, khi ánh đèn pha dừng lại trước cửa ngôi nhà, chú ý xem có đèn taxi nóc xe .
      lắc đầu, gần như bất lực.
      “Đừng lo,” tôi . “Tôi sao đâu. giúp tôi rất nhiều.”
      “Tôi chưa làm được cái khỉ gì cho cả.”
      Tôi kéo khỏi khung cửa sổ, rút trong túi ra chiếc máy ghi , lấy băng ra đặt vào tay . “Nếu muốn giúp, đây là cơ hội.” Tôi định tiễn , nhưng lại ngần ngừ. “Còn việc nữa có thể làm.”
      .”
      Tôi chỉ chiếc túi Ziploc ghế. “Liệu ở Duke có ai xét nghiệm được chất bột này cách an toàn xem có tác nhân lây nhiễm hoặc độc tố ?”
      “OK. Ở đó có những người sống bằng nghề này mà.”
      cái gối có vỏ bọc sofa. Tôi tuột vỏ gối ra, bỏ túi Ziplocs vào trong rồi đưa cho . “ phải hết sức cẩn thận với nó.”
      lại dạy khỉ leo cây rồi.”
      Tôi bóp tay . “Cám ơn. Thôi nào, .”
      . đứng kiễng chân, hôn lên môi tôi. “Cẩn thận, làm ơn cẩn thận.”
      Tôi chăm chăm nhìn bỏ cái vỏ gối vào dưới áo khoác rồi ra tiền sảnh. Tôi nghe tiếng cửa trước khép lại nhàng. Qua cửa sổ trước, tôi thấy đến taxi. Chiếc xe đỗ lối vào nhà Lu Li, rồi chạy ra quành lên phía đường Gimghoul.
      Tôi ra xe của mình, lùi vào trước cửa ga ra nhà Fielding, bấm còi. Lu Li mở cửa từ bên trong, rồi đóng lại sau lưng tôi.
      Bà mở cánh cửa phía khách, đặt chiếc hộp của Fielding lên ghế trước. Tôi với qua nó, nắm chặt cổ tay Lu Li, nhìn sâu vào mắt bà.
      “Chị , Lu Li. Chị biết họ cố chế tạo cái gì ở Trinity phải ?”
      Sau vài giây nhìn nhau bà gật đầu.
      “Đừng kể chuyện đó với ai,” tôi cảnh báo. “Đừng bao giờ.”
      “Tôi là người Trung Quốc, David. Biết gì đến.”
      Trong khoảnh khắc tôi vụt nhớ lại hình ảnh bà đứng đổ bóng trong khung cửa sân sau, mục tiêu sẵn sàng cho vụ ám sát.
      với tôi,” bỗng tôi . “Ngay bây giờ. Chị bế cả con chó vào, rồi chúng ta . Tôi giữ cho chị an toàn.”
      nụ cười buồn thoáng môi bà. “ người tốt. Giống Andrew. Đừng lo. Tôi tự thu xếp rồi.”
      Thu xếp? Tôi thể hình dung ra đó là gì. Tôi nghĩ bà có người quen ở Mỹ. “Họ là ai vậy?”
      Bà lắc đầu. “Tốt hơn nên biết. Được ? Tôi ổn thôi.”
      Vì lý do nào đó, tôi tin bà. Phát ra rằng Lu Li vì quá đau buồn mà trở nên bất lực, tôi hỏi thêm bà câu.
      “Trong thư Andy với tôi rằng nếu có chuyện gì xảy ra với ông ấy, tôi hãy nhớ đến chiếc đồng hồ bỏ túi. Có gì đặc biệt trong cái đồng hồ đó vậy?”
      Lu Li nhìn vào mắt tôi dò xét lúc lâu. Rồi bằng giọng hầu như thể nghe thấy, bà thào, “ phải đồng hồ. Dây chuyền.”
      “Dây chuyền nào?”
      “Dây đeo đồng hồ.”
      Tôi nhắm mắt nhớ lại hình ảnh chiếc đồng hồ của Fielding. Nó bị xước nhưng là của gia bảo quý giá, và ở đuôi sợi dây xích là viên pha lê có hình dáng như viên kim cương.
      “Viên pha lê?” tôi hỏi.
      Lu Li mỉm cười. “ thông minh đấy. đoán ra rồi.”



      CHƯƠNG 9

      Geli vừa lại lại trong trung tâm điều khiển vừa hét vào ống với John Skow. Từ trước đến nay ả chưa bao giờ tỏ ra nóng nảy với gã, nhưng nếu ả được Godin hậu thuẫn, Skow tỏ ra ngoan cố đến phát điên lên được.
      có nghe tôi lời nào đấy? biết chuyện gì xảy ra à?”
      Skow trả lời bằng giọng hạ cố, “Điều đó với tôi rồi. Bác sĩ Tennant và bác sĩ Weiss đến thăm bà quả phụ đau buồn và dạo với con chó của bà ta. Bác sĩ Weiss hôn Tennant, rồi về nhà bằng taxi.”
      Geli nhắm mắt lại cố nén cơn giận. “Tennant lùi xe vào ga ra và đóng cửa lại trước khi rời khỏi nhà Fielding. ràng mang theo vật gì đó mà muốn chúng ta biết.”
      “Có thể,” Skow , “nhưng theo đường về nhà. Có vấn đề gì nữa?”
      “Chúng ta nghe thấy cái chết tiệt gì cả! Chúng bịt kín hết những con rệp, như làm ở nhà Tennant. Còn Weiss để luôn chiếc Saab của ta lại nhà Tennant, thay vì taxi đến đó lấy về. Tại sao ta làm thế? Tennant có lẽ lên kế hoạch chạy trốn, hoặc thậm chí công bố bí mật này. Có thể cả hai.”
      “Tôi nghĩ chụp những hoang tưởng của lên đầu Tennant đấy.”
      “Ritter nghe thấy chúng về những tác dụng phụ của MRI.”
      “Đó là chuyện vặt. thể biết điều đó, tất nhiên. Máy siêu MRI là mối quan tâm ưa thích của Tennant về đạo đức, và nó chẳng liên quan gì đến vấn đề trung tâm cả.”
      “Nhưng chúng chuyện mười phút trước đó. Ritter còn cho biết ta trông thấy chiếc máy ghi .”
      Skow thở dài. “ muốn tôi xử lý chuyện này thế nào?”
      “Khử chúng .”
      Nhân vật NSA lấy hơi. “Tôi có nghe nhầm đấy?”
      thừa biết là . Chúng ta phải giả thiết rằng Weiss biết tất cả chi tiết về Trinity và mối nghi ngờ của Tennant về cái chết của Fielding.”
      “Bác sĩ Weiss là công dân vi phạm pháp luật.”
      “Nếu muốn khử chúng bắt chúng về thẩm vấn tra tấn.”
      Khoảng lặng tiếp theo như kéo dài vô tận. Cuối cùng Skow hỏi, “ có cho người theo dõi chiếc taxi chở Weiss ?”
      Ritter theo dõi Weiss. “Người khá nhất của tôi. ta có thể dễ dàng dàn dựng vụ tai nạn.”
      Giọng Skow rít lên nghe chói tai. “Nghe đây, Geli. Người của theo chiếc taxi về đến nhà bác sĩ Weiss, rồi cắt liên lạc. được để ta nhìn thấy. Thậm chí được thở mạnh về phía ta.”
      “Cái gì?”
      “Gọi chó của về. Tốp theo dõi Tennant theo về đến nhà và lập trạm theo dõi cố định như cách thường làm.”
      Geli hầu như kiểm soát được giọng của mình. “An ninh của Dự án bị xâm phạm. Nếu chúng ta cứ để mọi việc tiến triển, chúng ta mất khả năng kiểm soát tình hình, đấy là giả dụ lúc này ta vẫn còn khả năng đó.”
      Bauer, ngày mai tổng thống Mỹ có thể đòi gặp David Tennant tại Phòng Bầu dục. có hiểu điều đó ? Có thể họ chuyện với nhau rồi. Bởi vậy hãy làm tất cả những gì có thể để bình tĩnh . Uống mấy viên an thần. nằm ! Tôi ghét thô lỗ nhưng đây là bước quyết định. Bây giờ... tôi ở cùng gia đình. Đừng quấy rầy tôi nếu phải là Tennant chuyện với tổng thống, hoặc bắn ai ngoài đường.”
      “Tôi muốn công khai phản đối quyết định này.”
      “Tốt, cứ việc.”
      “Tôi muốn chuyện với Godin.”
      thể. thể tiếp cận ông ấy vào lúc này.”
      “Ông ấy ở đâu?”
      “Ở Mountain View. Giải quyết khủng hoảng.”
      “Bữa trưa nay ông ấy còn ở thành phố mà.”
      “Peter mua trực thăng để vứt trong kho.”
      Geli nghe tiếng bọn con trai tuổi teen nhà Skow cãi nhau và tiếng ti vi lảm nhảm vô nghĩa. “Tôi e rằng thể chấp nhận cách tiếp cận tình hình của . Tôi thể lơ là trách nhiệm của mình, vì chẳng dám làm gì cần thiết để bảo vệ Trinity cả.”
      mất trí hả? Tối nay tôi chuyện với Peter hai lần. Tôi biết ông ấy muốn làm gì và muốn làm gì. Và nếu cứ muốn ôm đồm như thế... ngay đến bố cũng cứu nổi đâu.”
      Geli vốn thích Skow, bây giờ ả thực ghét .
      Ả gác máy và trừng trừng nhìn màn hình máy tính, đó vẫn hiển thị danh sách các đồ vật riêng tư của Fielding. Thế chó nào mà đời lại có kẻ thích chơi với lửa? Ả muốn đến ngay kho lưu trữ để kiểm tra đối chiếu các đồ vật với bản danh sách, nhưng lúc này ả ngán tận cổ chả thiết làm gì nữa.
      Ở Trinity ả luôn phải làm việc với thông tin đầy đủ. Điều đó làm ả chán ngán vô tận. Quân đội được rèn luyện nhiều để thích nghi với chuyện này. có thể đứng gác ngôi nhà trong 24 tiếng mà biết nó chứa bom hạt nhân hay các thùng đồ lót. Nhưng đến bây giờ có quá nhiều việc ả được biết. Bí mật trong lòng Trinity là kiểm soát mọi người mọi việc quanh nó. Dù sao ả cũng chẳng thể làm gì. Ả muốn chuyện với Godin nhưng lại thể tiếp cận lão.
      Đứng trước tình cảnh bế tắc, ả gọi cho Ritter Bock bảo thôi theo dõi Weiss. Gã trai trẻ người Đức lầm lì này cần phải quay về trung tâm chỉ huy. Skow ra lệnh cho ả bình tĩnh lại, Geli biết chỉ có cách để làm điều đó. Lúc này ả cần tuân lệnh hơn là ra lệnh.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :