1. QUY ĐỊNH BOX XUẤT BẢN :

       

    Đặt Title theo mẫu [Tên truyện] [dấu cách] - [dấu cách] [Tác giả] [Số chương]

    ----•Nội dung cần:

    - Hình minh họa (bìa truyện, hình ảnh,etc,...)

    - Tác giả

    - Dịch giả

    - Đơn vị phát hành

    - Số trang ( nên có)

    - Giá bìa (nên có)

    - Ngày xuất bản (nên có)

    --- Quy định

    1 . Thành viên post có thể tự type hoặc copy từ nơi khác (để nguồn)

    2 . Trình bày topic truyện khoa học, bôi đen số chương để dễ nhìn

    3. Cần có trách nhiệm post đến hết truyện. Nếu không thể tiếp tục post liên hệ

    Ad và Mod

  2. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Dòng thời gian - Michael Crichton

Thảo luận trong 'Sách XB Đang Type'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. JupiterGalileo

      JupiterGalileo Well-Known Member

      Bài viết:
      1,336
      Được thích:
      2,342
      [​IMG]
      Tác giả: John Michael Crichton
      Người dịch: Nguyễn Vĩnh Hằng
      Thể loại: phiêu lưu ly kỳ, khoa học viễn tưởng.
      NXB LAO ĐỘNG | Nhà phát hành: Nhã Nam
      Số trang: 495 | Kích thước: 15 x 24
      Giá bán: 120.000đ
      Định dạng bìa: Bìa mềm
      Ngày phát hành: 31-03-2015
      Typer: JupiterGalileo


      Trích bìa:

      … Một bức thông điệp cầu cứu 600 năm tuổi từ vị giáo sư sử học đại học Yale gửi cho các sinh viên của mình ở thời tại. sa mạc rộng lớn bóng người, người đàn ông bỗng xuất , phương tiện di chuyển. Giữa hai kiện kì lạ cách nhau nửa vòng trái đất, có điểm chung khó ngờ, đó là trung tâm nghiên cứu công nghệ lượng tử ITC…

      Với chủ đề làm say đắm khắp các nhà khoa học gia lẫn tiểu thuyết gia viễn tưởng từ hồi các Thuyết Lượng tử và Tương đối ra đời, MICHAEL CRICHTON, cha đẻ của Công viên kỷ JuraThế giới nghịch, cưỡi lên Dòng thời gian để tiến vào cuộc “du hành thời gian”, bắt đầu thử sức với nhiệm vụ còn dở: biến “nghịch lý thời gian” trở nên có lý.

      … Đứng đầu bởi giáo sư EDWARD JOHNSTON, nhóm khảo cổ xuyên thời gian trở về thời Trung cổ. tai nạn buộc họ phải ở lại lâu hơn thời gian dự định. thời đại hùng tráng và tàn khốc – với những cuộc chiến đẫm máu liên miên, mang tới hai lựa chọn, là chết, hai là sống sót để trở về tại. Họ phải sống, để tìm câu trả lời cho những câu hỏi cốt tử của riêng mình, đồng thời hé lộ những bí mật chết người mà ITC che giấu…


      Thông tin về tác giả John Michael Crichton :

      (23/10/1942 – 4/11/2008-), nhà văn, nhà biên kịch, nhà làm phim nổi tiếng thế giới người Mỹ, Ông tốt nghiệp trường y Harvard, từng là giảng viên của đại học Cambridge và viện công nghệ Massachusetts. Các tiểu thuyết của ông bán được hơn 200 triệu bản, được dịch sang 38 ngôn ngữ và 13 tác phẩm được chuyển thể thành phim. Bộ phim Westworld (1973) do ông đạo diễn cũng là bộ phim đầu tiên sử dụng công nghệ máy tính để tạo hiệu ứng đặc biệt. Vai trò tiên phong này đem lại cho ông giải thưởng Oscar cho thành tựu về kỹ xảo điện ảnh năm 1995.


      Các tác phẩm chính:

      Tiểu thuyết: The Andromeda Stream (1969), Congo (1980), Công viên kỷ Jura (1990), The Lost World (1995), State of Fear (2004), Thế giới nghịch (2006).

      Phim: Westworld (1973), Công viên kỷ Jura (1993), ER (1994 – 2009).


      Các giải thưởng chính:

      Giải thưởng Edgar Allan Poe năm 1968, 1980; Giải thưởng hội liên hiệp nhà văn Y học năm 1970; Giải Oscar cho thành tựu về kỹ xảo điện ảnh năm 1995; Giải Emmy năm 1996.



      “Tất cả những đế chế vĩ đại của tương lai là những đế chế của trí tuệ.”

      WINSTON CHURCHILL, 1953

      “Nếu bạn nắm được lịch sử, bạn chẳng nắm được cái gì hết.”

      EDWARD JOHNSTON, 1990

      “Tôi có hứng thú với tương lai. Tôi chỉ có hứng thú với tương lai của tương lai thôi.”

      ROBERT DONIGER, 1996

    2. JupiterGalileo

      JupiterGalileo Well-Known Member

      Bài viết:
      1,336
      Được thích:
      2,342
      GIỚI THIỆU
      Khoa học cuối thế kỷ

      trăm năm trước vào giai đoạn cuối thể kỷ mười chín, các nhà khoa học khắp thế giới thỏa mãn khi vẽ nên được bức tranh chính xác về thế giới vật chất. Theo lời nhà vật lý Alastair Rae, “Đến cuối thế kỷ mười chín, có vẻ như những định luật nền tảnh quy định vận động của thế giới, vật chất đều được biết đến.” Quả thực là nhiều nhà khoa học khẳng định rằng nghiên cứu vật lý gần như hoàn thiện: có những khám phá lớn nữa mà chỉ còn những nghiên cứu chi tiết hơn nhằm hoàn thiện vấn đề nào đó.

      Nhưng đến cuối thập kỷ cuối cùng, vài vấn đề gây tò mò xuất , Roentgen phát ra những tia có thể xuyên qua da thịt; vì thể giải thích được nên ông gọi chúng là tia X. Hai tháng sau, Henri Becquerel vô tình phát ra rằng mẩu quặng uranium phát ra thứ gì đó làm mờ phim. Và electron, hạt vật chất mang điện, được phát năm 1897.

      Tuy nhiên, nhìn cách tổng quan, các nhà vật lý vẫn giữ thái độ bình thản và chờ đợi những trường hợp cá biệt này rồi cuối cùng được giải thích thông qua các lý thuyết sẵn có. ai có thể tiên đoán được rằng chỉ trong vòng năm năm cái nhìn tuyệt đối của họ về thế giới bị đảo lộn cách đáng kinh ngạc, tạo ra khái niệm hoàn toàn mới về vũ trụ và những công nghệ hoàn toàn mới có thể đem lại thay đổi ngoài sức tưởng tượng cho cuộc sống thường nhật của thế kỷ hai mươi.

      Nếu bạn với nhà vật lý tại thời điểm năm 1899 rằng vào năm 1999, tức là trăm năm sau, những hình ảnh động được truyền đến từng gia đình khắp thế giới từ vệ tinh vũ trụ; rằng những quả bom với sức mạnh thể tưởng tượng nổi đe dọa hệ sinh thái; rằng kháng sinh tiêu diệt bệnh truyền nhiễm nhưng bản thân những căn bệnh đó cũng phát triển cơ chế kháng thuốc; rằng phụ nữ có quyền bầu cử, và có thuốc giúp họ kiểm soát quá trình sinh sản; rằng hàng triệu người bay lên trung mỗi giờ trong những chiếc máy bay có khả năng cất cánh và hạ cánh mà cần đến tác động trực tiếp của con người; rằng con người có thể vượt qua Đại Tây Dương với tốc độ 3.200 ki lô mét giờ; rằng nhân loại du hành lên mặt trăng, và rồi cũng chẳng hứng thú với chuyện đó nữa; rằng kính hiển vị đủ mạnh để thấy được từng nguyên tử riêng rẽ, rằng con người mang bên mình những chiếc điện thoại nặng vài chục gam, và chuyện ở bất kì đâu thế giới mà cần dây nối; hoặc hầu hết những điều kì diệu đều phụ thuộc vào những thiết bị với kích cỡ chỉ bằng con tem, ứng dụng lý thuyết mới với tên gọi là cơ học lượng tử - nếu như bạn tất cả những điều đó nhà vật lý đó gần như chắc chắn khẳng định rằng bạn bị điên.

      Hầu hết những tiến bộ đó là thể tiên đoán được trong bối cảnh năm 1899, vì lý thuyết khoa học phổ biến thời đó cho rằng chúng là bất khả thi. Và với số ít còn lại được cho rằng bất khả thi như máy bay mức độ ứng dụn có thể tưởng tượng ra chiếc máy bay nhưng đồng thời mười nghìn chiếc trung là ngoài sức tưởng tượng.

      Do đó, hề quá lời khi rằng ngay cả những nhà khoa học am hiểu nhất, đứng ở ngưỡng cửa của thế kỷ hai mươi, cũng chẳng đoán được điều gì rồi đến trong tương lai.

      .
      .

      Vào thời điểm tại khi chúng ta đứng ở ngưỡng cửa thế kỷ hai mươi mốt, hoàn cảnh lại giống khi đó đến kỳ lạ. lần nữa, các nhà vật lý lại tin rằng thế giới vật chất được giải thích, và rằng chẳng có cuộc cách mạng tiến bộ nào trước mắt nữa. Vì từng có tiền lệ nên họ còn công khai nêu ra quan điểm này, nhưng suy nghĩ của họ vẫn thay đổi. số nhà quan sát thậm chí còn xa hơn khi cho rằng khoa học với tư cách là lĩnh vực riêng rẽ hoàn thành sứ mệnh của mình; rằng chẳng còn gì quan trọng để khoa học khám phá nữa.

      Nhưng cũng như giai đoạn cuối thế kỷ mời chín từng đưa ra những gợi ý về những điều rồi xảy ra, bối cảnh cuối thế kỷ hai mươi cũng cung cấp những đầu mối cho tương lai. trong những vấn đề quan trọng nhất là mối quan tâm đến cái gọi là công nghệ lượng tử. Đây là nỗ lực nhiều lĩnh vực để tạo ra công nghệ mới có thể tận dụng được đặc tính cơ bản của thế giới ở cấp hạ nguyên tử, và điều này hứa hẹn tạo ra cuộc cách mạng trong tư tưởng của chúng ta về điều được cho là khả thi.

      Công nghệ lượng tử hoàn toàn mâu thuẫn với những ý niệm thông thường của chúng ta về vận động của thế giới. Nó thừa nhận thế giới nơi máy tính hoạt động mà cần bật lên và chẳng cần tìm cũng có thể thấy bất kỳ đồ vật gì. máy tính với sức mạnh thể tưởng tượng có thể được tạo ra từ phân tử. Thông tin dịch chuyển tức thời giữa hai điểm mà cần dây dẫn hay mạng lưới nào. Những vật thể ở xa có thể được nghiên cứu mà cần tiếp xúc trực tiếp. Máy tính có thể thực các tính toán đối với những hệ thống thiên hà khác. Và dịch chuyển tức thời – “Phát tôi lên đó, Scotty(1)” – là bình thường và được sử dụng theo rất nhiều cách khác nhau.

      1. Nguyên văn: “Beam me up, Scotty” – câu quen thuộc trong bộ phim nổi tiếng Star Trek.

      Vào những năm 1990, nghiên cứu về công nghệ lượng tử bắt đầu cho thấy kết quả. Năm 1995, những thông điệp lượng tử bảo mật cao được gửi qua khoảng cách dài gần mười ki lô mét, gợi ra viễn cảnh về ra đời của mạng Internet lượng tử vào thế kỷ sau. Tại Los Alamos(2), các nhà vật lý đo được độ dày của tóc người bằng cách sử dụng tia laser chiếu trực tieeos vào sợi tóc. Tuy vậy, trong quá trình thực thí nghiệm, hình ảnh thu được của tia laser màn chắn lại cho thấy dường như ánh sáng bị sợi tóc cản lại. Kết quả “mâu thuẫn với thực tế” này khởi nguồn cho lĩnh vực mới về định trạng phi tương tác: cái được đến qua khái niệm “chẳng cần tìm cũng có thể thấy”.

      2. Los Alamos là Phòng thí nghiệm quốc gia của Hoa Kỳ tọa lạc tại tiểu bang New Mexico. Đây cũng là trong hai phòng thí nghiệm thực những nghiên cứu bí mật về thiết kế bom nguyên tử của nước này.

      Và vào năm 1998, dịch chuyển tức thời lượng tử được tiến hành tại ba phòng thí nghiệm thế giới – tại thành phố Innsbruck, tại Rome và tại Cal Tech(3). Nhà vật lý Jeff Kimble, người đứng đầu nhóm nghiên cứu Cal Tech, khẳng địch dịch chuyển tức thời lượng tử có thể áp dụng được cho vật thể rắn: “Trạng thái lượng tử của thực thể có thể được truyền cho thực thể khác… Chúng tôi nghĩ mình biết cách thực điều đó.” Kimble để ngỏ khả năng có thể dịch chuyển tức thời con người, nhưng ông tin rằng có ai đó có thể thử nghiệm vi khuẩn.

      3. Cách viết rút gọn của Calfornia Institute of Techonology – Viện công nghệ California.

      Những vấn đề kỳ lạ liên quan đến lượng tử này, vốn ngược lại logic thông thường, lại nhận được rất ít quan tâm của công chúng, nhưng chắc chắn trong tương lai nó là tâm điểm chú ý. Theo số dự đoán, trong những thập kỷ đầu của thế kỷ mới, mối quan tâm chính của các nhà vật lý thế giới ít nhiều liên quan đến công nghệ lượng tử.

      .
      .

      Và do đó, chẳng có gì bất ngờ khi vào giữa những năm 1990, vài tập đoàn tiến hành những nghiên cứu lượng tử. Dự án Lượng tử Fujitsu được lập ra ra vào năm 1991. IBM lập ra nhóm nghiên cứu lượng tử vào năm 1993, dưới chỉ đạo của Charles Bennett. ATT và những công ty khác lâu sau đó cũng theo hướng phát triển này, cùng với các trường đại học như Cal Tech, và các cơ quan của chính quyền như Los Alamos. Và cũng tương tự như vậy là ITC, công ty nghiên cứu tại New Mexico. Có vị trí chỉ cách Los Alamos giờ lái xe, ITC có những bước tiến đáng ghi nhận vào ngay đầu thập kỷ chín mươi. Có thể rằng ITC là công ty đầu tiên có được những ứng dụng thực tiễn và hoạt động tốt sử dụng công nghệ lượng tử tân tiến vào thời điểm năm 1998.

      Nhìn lại thời điểm đó, kết hợp giữa bối cảnh đặc biệt – và may mắn đáng kể - giúp ITC đầu trong lĩnh vực công nghệ mới đầy ấn tượng. Mặc dù công ty này khẳng định những phát của mình hoàn toàn vô hại, cái mà họ gọi là hành trình tìm lại cho thấy nguy hiểm là quá ràng. Hai người chết, biến mất, và người khác bị thương nặng. Hiển nhiên, vỡi những nghiên cứu sinh trẻ tuổi, những người thực cuộc hành trình đó, công nghệ lượng tử mới mẻ này, báo trước của thế kỷ hai mươi mốt, đem lại cho họ mọi thứ trừ chuyện vô hại.

      kiện điển hình của tình trạng chiến tranh với mục đích cá nhân diễn ra vào năm 1357. Ngài Oliver de Vannes, hiệp sĩ quý tộc danh tiếng người , chiếm đóng các thị trấn Castelgard và La Roque, dọc theo con sông Dordogne. Theo như sử sách ghi lại, vị “lãnh chúa vay mượn” này trị vì với phẩm cách trung thực, và được người dân mến. Vào tháng Tư, lãnh địa của ngài Oliver bị xâm lược bởi đội quân dữ tợn gồm hai ngàn tên cướp vốn là hiệp sĩ biến chấp dưới chỉ huy của Arnaut de Cervole, thầy tu bị rút phép thông công được biết đến với cái tên “Đại Tư tế”. Sau khi thiêu rụi Castelgard, Cervole tiếp tục san bằng tu viện Sainte-Mè re ở gần đó, giết hại các thầy tu và phá hủy cối xay nước lừng danh ở Dordogne. Cervole sau đó truy đuổi ngài Oliver đến pháo đài La Roque, và trận chiến khủng khiếp diễn ra ở đó.

      Oliver cố thủ thành trì của ông với kỹ năng và lòng quả cảm của mình. Những nghiên cứu đương thời cho rằng thành công mà Oliver có được là nhờ vào cố vấn quân của ông, Edwardus de Johnes. Rất ít tư liệu đến người đàn ông này. huyền thoại giống như phù thủy Merlin được dựng lên xung quanh ông: người ta rằng ông có thể tan biến vào hư . Nhà chép sử Audreim cho rằng Johnes đến từ Oxford nhưng những nghiên cứu khác lại ông là người Milan. Vì ông chu du với nhóm những tùy tùng trẻ tuổi nên ông có nhiều khả năng là chuyên gia đánh thuê, làm việc cho bất kỳ ai sẵn sàng trả tiền công cho mình. Ông được đào tạo để sử dụng thành thạo thuốc súng và pháo, những công nghệ mới vào thời điểm đó…

      Cuối cùng Oliver cũng đánh mất thành trì vững chắc của mình khi tên gián điệp mở lối ở trong thành để lính của Đại Tư tế tràn vào. Kiểu phản trắc như vậy là điển hình cho bối cảnh phức tạp của thời điểm đó.

      Trích cuốn Cuộc chiến trăn năm trong lòng nước Pháp
      Tác giả M. D. Backes, 1996

    3. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :