Cuốn sổ thiên mệnh: Một ghi chép khác - Những án mạng Los Angeles BB (Trinh thám, Kỳ ảo)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      [​IMG]
      Nguyên tác

      Death Note: Another Note
      The Los Angeles BB Murder Cases

      Tác giả

      Nisio Isin

      Xuất bản

      VIZ Media LLC; 1 edition (February 19, 2008-)

      Chuyển ngữ

      Acid House

      Biên tập

      Acid House

      Ngày hoàn thành

      25 tháng Mười, 2010

      www.e-thuvien.com



      Giới thiệu:

      Ai từng đọc bộ manga Death Note (ở Việt Nam: Quyển sổ thiên mệnh) nổi tiếng của Nhật, hẳn ấn tượng với nhân vật L— thám tử thiên tài có phong cách kỳ quặc. Death note: ghi chép khác - Những án mạng Los Angeles BB là tiểu thuyết độc lập của tác giả khác, viết về L và Wammy's House—trại mồ côi Watari thành lập và nuôi dưỡng các thiên tài trong đó có L, Mello và Near. Màn đấu trí tuyệt đỉnh trong bộ Manga gốc hẳn khó có thể vượt qua được, nhưng đây là cuốn sách nên đọc cho những fan của L, fan của bất kỳ ai trong Wammy's House, hay fan của Death Note.

      Death note: ghi chép khác - Những án mạng Los Angeles BB lấy bối cảnh trước khi vụ án Kira diễn ra 2 năm, kể về vụ giết người hàng loạt Los Angeles BB— được nhắc tới sơ qua trong manga. Đây là lần đầu tiên L hợp tác với điệp viên FBI Naomi Misora—người sau đó hy sinh trong vụ Kira. Được kể lại dưới góc nhìn của Mello với giọng văn thô ráp nhưng đôi khi cũng khá hài hước.

      Mời các bạn đón đọc Death note: ghi chép khác - Những án mạng Los Angeles BB của tác giả Nisio Isin



    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Mở đầu

      Khi Beyond Birthday lấy mạng nạn nhân thứ ba của mình, định làm thử nghiệm—để xem có cách nào làm con người chết vì xuất huyết trong mà cần phải hủy hoại bộ phận cơ thể nào hay . Cụ thể, cho nạn nhân chìm vào trạng thái vô thức bằng thuốc mê; trói người đó lại, đánh gãy cánh tay trái của nạn nhân mà cẩn thận làm làn da bên ngoài mảy may xước xát. hy vọng cách này có thể làm nạn nhân xuất huyết trong dẫn tới chết vì mất máu, nhưng nỗ lực này, đáng buồn, thất bại. Máu bị dồn ứ trong cánh tay, và xuất vết bầm tím dưới da, nhưng nạn nhân chết. Người đó chỉ co giật, chấn động, nhưng vẫn còn sống. từng tin rằng cách này có thể làm mất máu nhiều đến mức giết chết con người, nhưng có vẻ như đánh giá thấp vấn đề. Thực ra, Beyond Birthday mấy thích thú với những nguyên nhân dẫn đến cái chết, nên việc làm này hơn gì thí nghiệm thú vị. Đối với việc nó có thành công hay chẳng có ý nghĩa gì đặc biệt. Beyond Birthday nhún vai, và lấy ra con dao...

      , , , , .

      phải phong cách này, phải giọng kể này—Tôi bao giờ cố kiềm chế giọng kể của mình nữa. Càng cố gắng, tôi càng cảm thấy nhàm chán và càng lười viết lách hơn. Theo cách Holden Caulfield ( trong những kẻ nhảm nhí nhất lịch sử văn chương) có thể , viết chi tiết những gì Beyond Birthday suy nghĩ và hành động phù hợp với mục đích của tôi (kể cả nếu, ở vị trí của tôi, tôi có đồng cảm với lắm lắm nữa). Giải thích toàn bộ các vụ giết người của bằng những câu chữ được chọn lựa cẩn thận lý gì lại làm tăng giá trị của những ghi chép này. Đây phải báo cáo, cũng phải tiểu thuyết. Kể cả nếu nó tự nhiên trở thành trong những thứ ấy, tôi cũng chẳng vui vẻ gì. Tôi ghét phải câu nhàm thế này, nhưng tôi nghĩ rằng trước khi bất cứ ai để mắt tới những dòng này tôi còn sống đời rồi.

      Chắc tôi cũng cần nhắc độc giả về cuộc đối đầu huyền thoại giữa vị thám tử vĩ đại nhất thế kỷ, L, và tên sát nhân lố bịch đó, Kira. Công cụ giết người còn tưởng hơn cả cái máy chém (ví dụ thế), nhưng tất cả những gì Kira đạt được là triều đại của khủng bố và cách nghĩ ấu trĩ thê thảm. Nhìn lại, tôi chỉ có thể phỏng đoán rằng các vị thần chiến thắng mỉm cười với Kira vì cái mục đích tiêu khiển vớ vẩn của riêng họ. Có thể các vị thần này thực muốn thế giới đẫm máu của phản bội và những cáo tội sai. Có thể toàn bộ câu chuyện tồn tại như bài học để dạy chúng ta về khác nhau giữa Thượng đế và Tử thần. Ai mà biết được? Tôi, cá nhân, có ý định bỏ phí chút thời gian nào nữa để nghĩ về chuỗi kiện tiêu cực bậc nhất này.

      Cho chúng xuống địa ngục cùng với Kira.

      Điều có ý nghĩa đối với tôi là L.

      L.

      Vị thám tử vĩ đại nhất thế kỷ. Mặc dù có khả năng trí tuệ siêu phàm, L chết trẻ cách bất công. Chỉ tính riêng những ghi chép công khai, ta giải quyết xong 3,500 vụ án khó, và tống số tội phạm lớn gấp ba lần như thế vào tù. ta nắm trong tay quyền lực thể tin nổi, có thể huy động bất kỳ cơ quan điều tra nào toàn thế giới, và luôn được tán dương về công sức của mình. Tuy vậy, trong mọi trường hợp, L bao giờ ra mặt. Tôi muốn ghi lại từng lời của ta chính xác nhất có thể. Và tôi muốn để chúng cho ai đó tìm ra. Ai đó có được cơ hội theo gót ta. Ừ , có thể tôi thể kế nghiệp L, nhưng tôi muốn gác điều này lại .

      Vậy là những gì các bạn đọc bây giờ là ghi chép của tôi về L. Đây là lời trăn trối, phải từ tôi, và trực tiếp cho thế giới. Người đầu tiên đọc được cái này nhiều khả năng nhất là thằng đầu to phiền toái Near. Nhưng kể cả trong trường hợp đó, tôi mong đợi nó xé hay đốt những trang này. Nếu nó cảm thấy tồi tệ khi phát ra rằng tôi biết những điều về L mà nó biết, cũng tốt thôi. Cũng có khả năng Kira đọc được... và tôi hy vọng . Nếu những ghi chép này với tên sát nhân, kẻ chỉ có thể thắng nhờ trợ lực của quyển sổ giết người siêu nhiên và thằng tử thần ngu ngốc, rằng , dưới bất kỳ hoàn cảnh nào khác, thậm chí đáng hạt cát trong giày của L, những ghi chép ấy đạt được mục đích.

      Tôi là trong số ít người từng gặp L dưới danh nghĩa L. Tôi gặp ta khi nào và bao giờ... đó là kỷ niệm đáng giá nhất mà tôi có, và tôi viết ở đây, nhưng vào dịp đó L thuật lại cho tôi ba câu chuyện về chuỗi thành tích của ta, và câu chuyện liên quan tới Beyond Birthday là trong số chúng. Nếu tôi thôi thói kiểu cách mà chỉ đơn giản gọi nó là Những án mạng Los Angeles BB, tôi nghĩ rất nhiều người trong số các bạn nhận ra từng nghe về nó. Tất nhiên, việc L và quan trọng hơn là Wammy’s House, nơi nuôi tôi lớn cho tới khi tôi 15, có liên quan mật thiết tới vấn đề này—chưa bao giờ được đưa ra ánh sáng, nhưng thực tế là như vậy. L, về nguyên tắc, bao giờ tham gia vụ án mà có nhiều hơn mười nạn nhân hay đe doạ nhiều hơn triệu đô la, và đó cũng chính là lý do tại sao ta tham gia vào vụ án này—vụ án chỉ có 3 hay 4 nạn nhân— cách chậm trễ nhưng cũng xông xáo như vậy. Tôi giải thích hơn ở những trang sau, nhưng vì lý do này, Những án mạng Los Angeles BB là bước ngoặt đối với L, với tôi, và thậm chí cả Kira. Nó là kiện vĩ đại đối với tất cả chúng tôi.

      Tại sao?

      Bởi vì vụ án này là lần đầu tiên L tự giới thiệu bản thân dưới cái tên Ryuuzaki.

      Vậy chúng ta hãy bỏ qua đoạn trước đó với những mô tả chán ngắt về những gì Beyond Birthday nghĩ, về việc giết nạn nhân thứ ba như thế nào, bởi tôi có hứng ở đây, và khi chúng ta ở đấy, hãy bỏ qua những nạn nhân thứ nhất và thứ hai, đừng mất công nhìn lại những vụ trước, hãy điều chỉnh kim đồng hồ tới sáng ngày hôm sau, khoảnh khắc tuyệt vời khi vị thám tử vĩ đại nhất thế kỷ, L, lần đầu tiên bắt đầu điều tra vụ án. Ồ, tôi suýt quên mất. Trong trường hợp bất kỳ ai ngoài thằng to đầu Near hay tên sát nhân mất trí đọc những dòng này, tôi cũng nên ít nhất thực phép lịch tối thiểu về việc giới thiệu bản thân, tại đây ở cuối của phần mở đầu này. Tôi là người tường thuật, người dẫn đường, người kể chuyện của các bạn. Đối với bất kỳ ai ngoài hai người , cá nhân tôi có thể chẳng có ý nghĩa gì, nhưng tôi là kẻ đứng thứ hai của thế giới cũ, người ăn mặc sành điệu nhất và chết như con chó, Mihael Keehl. Tôi từng tự gọi bản thân là Mello và cũng được xưng hô như thế, nhưng đó là rất lâu về trước rồi.

      Chúc các bạn có những trải nhiệm thú vị và những cơn ác mộng đẹp.




      Phần 1: Thông điệp

      Mặc dù giờ đây được biết đến với cái tên Những án mạng Los Angeles BB— cái tít khá giật gân— khi vụ án đó thực xảy ra, ngay lúc gay cấn nhất, vụ này hề có cái tên ấn tượng xứng tầm. Báo giới gọi nó là Những vụ ám sát Wara Ningyou, hoặc Những vụ giết người hàng loạt trong phòng kín ở L.A., hoặc các loại tít rùng rợn khác. Điều này hiển nhiên gây khó chịu cho Beyond Birthday—kẻ bị tình nghi là hung thủ của các vụ án—nhưng thực lòng mà , tôi nghĩ những cái tên này miêu tả đúng những gì diễn ra.

      Vào cái ngày sau khi Beyond Birthday lấy mạng kẻ thứ ba, 8:15 giờ địa phương, 14 tháng Tám năm 2002, điệp viên FBI Naomi Misora nằm chiếc giường trong căn hộ của mình, vừa thức dậy. ta mặc chiếc quần da tối màu với cái áo jacket da cùng tông, nhưng có lẽ là sai lầm nếu kết luận rằng ta thường ngủ trong trang phục như thế. ta bỏ vài giờ đồng hồ phóng xe vòng quanh chiếc mô tô đêm trước, với nỗ lực hão huyền để xả stress, và khi quay về căn hộ, ta chìm vào giấc ngủ ngon lành mà buồn tắm rửa hay thay đồ. Cũng giống với cái tên của vụ án, Misora giờ đây lọt vào chú ý của công luận danh nghĩa người bẻ khoá Những án mạng Los Angeles BB, nhưng là khi những vụ này hé lộ, ta bị đình chỉ khỏi FBI. Theo những ghi chép chính thức, ta chỉ nghỉ phép, nhưng điều này đơn giản bởi vì ta hoàn toàn thể đứng vững nổi trước áp lực từ cấp và đồng nghiệp. Đình chỉ, vắng mặt, nghỉ hè. Tôi nghĩ chúng ta cần sâu vào lý do ta tạm ngừng công tác ở đây. Nhưng chắc chắn rằng nơi này là Mỹ, ta là người Nhật, giới tính nữ, rất giỏi trong công việc, và FBI là tổ chức lớn... thế là đủ. Tất nhiên, có những đồng nghiệp đánh giá cao khả năng của ta, và đó cũng chính là lý do mà ta được làm việc trong tổ chức cho đến nay. Tuy nhiên, tháng trước, ngay trước Những án mạng Los Angeles BB, Misora gây ra sai lầm lớn, lớn đến mức ngay cả ta cũng thể tin được điều đó—điều trực tiếp dẫn đến tình trạng nay của ta. Và nó giống như những vấn đề có thể giải khuây được bằng cách phóng xe mô tô lòng vòng lúc nửa đêm.

      Misora nghiêm túc xem xét việc ra khỏi FBI, vứt bỏ cả nghiệp ta, và trở về Nhật Bản. Tất nhiên, phần trong ta mệt mỏi bởi mớ điều vô nghĩa đồng hành với công việc, nhưng phần lớn hơn là cảm giác tội lỗi sau sai lầm mình gây ra, điều nay trở thành gánh nặng vai ta. Ngay cả nếu có áp lực từ những người xung quanh—giả thiết này cũng phải quá xa vời—Misora vẫn cần thời gian nghỉ ngơi.

      Hay thậm chí là thôi việc.

      Misora chậm rãi ngồi dậy, toan tắm rửa cho sạch thứ mồ hôi của đêm trước, nhưng rồi ta để ý thấy chiếc laptop bàn, vì lý do nào đó, bật lên. ta hề có ý niệm bật nó lên—dù sao ta cũng vừa thức dậy. Hay Misora bật nó lên đêm qua? Và rồi thiếp tắt? ta nhớ là làm điều đó, nhưng vì chương trình bảo vệ màn hình hoạt động, có lẽ có cách giải thích nào khác. Cũng có thể suy diễn rằng nếu có đủ sức mà bật máy tính, ta phải đủ sức để thay đồ. Misora cởi bỏ chiếc áo jacket và quần da, và khi cơ thể cảm thấy thoải mái hơn nhiều, ta ra khỏi giường, tiến đến bên bàn làm việc, và nhấp chuột. Thế là đủ để thoát khỏi chương trình bảo vệ màn hình, nhưng giờ đây Misora còn cảm thấy phân vân hơn. Chương trình email hoạt động và nhấp nháy báo tin nhắn mới. Có thể ta thiếp khi dùng máy tính, nhưng lẽ nào lại ngủ trong khi check mail? Miên man suy nghĩ về việc đó, Misora mở hòm thư. Có tin nhắn mới từ Raye Penber. Đó là bạn trai nay của ta, và cũng là điệp viên FBI. ta là ví dụ tiêu biểu nhất cho đám nhân viên đánh giá cao ta (nhưng phải điều này ngăn ta thôi thiết tha đề nghị Misora chuyển tới căn hộ ít nguy hiểm hơn mỗi khi có gì đó xảy ra). Vì kỳ nghỉ phép của ta gần hết, tin nhắn này chắc chỉ là về công việc, Misora tiếp tục mở thư...

      Naomi Misora,

      Xin lỗi liên hệ với như thế này.

      Tôi muốn thỉnh cầu giúp đỡ của để giải quyết vụ án.

      Nếu vui lòng hỗ trợ tôi, hãy truy cập tới khối thứ ba của section thứ ba tại server Funny Dish[1] vào 9 giờ sáng ngày 14 tháng Tám. Đường truyền được mở trong chính xác năm phút (hãy tự vượt tường lửa).

      L

      Tái bút: Để liên hệ với , tôi tự tiện mượn địa chỉ của bạn . Đây là cách đơn giản và an toàn nhất để liên lạc với , vì thế hãy thứ lỗi cho tôi. Cho dù có đồng ý giúp đỡ tôi hay , tôi muốn hãy phá hủy chiếc máy tính trong vòng hai mươi tư tiếng đồng hồ sau khi đọc thông điệp này.

      Sau khi đọc xong, Misora lập tức đọc lại toàn bộ bức thư và cuối cùng kiểm tra tên người gửi thêm lần nữa.

      L.

      ta có thể bị đình chỉ, nhưng ta vẫn là điệp viên FBI, và tất nhiên ta nhận ra cái tên này— thể tha thứ được nếu ta như vậy. ta cũng nghĩ tới giả thiết rằng Raye Penber, hoặc ai đó, đùa cợt ta, nhưng rồi ta cảm thấy khó có thể tin rằng bất kỳ ai lại liều lĩnh giả mạo mình dưới cái tên đó. L chưa bao giờ hé lộ về bản thân trước công chúng hay riêng tư, nhưng Misora nghe vài câu chuyện kinh dị về những gì xảy ra cho các thám tử cố gắng mạo danh L. Có thể rằng ai dám sử dụng cái tên này, cho dù chỉ là đùa vui.

      Là vậy đấy.

      “Ôi, quỷ tha ma bắt,” ta lầm bầm, và quyết định tắm rửa, gột sạch nỗi kiệt quệ của đêm trước. ta sấy khô mái tóc đen dài rồi thưởng thức tách cà phê nóng.

      Nhưng ta chỉ giả vờ xem xét nghiêm túc vấn đề— ta thực có cơ hội. có điệp viên FBI nào, nhất là kẻ cấp dưới, có thể nghĩ đến việc từ chối cầu của L. Nhưng vào lúc bấy giờ, Misora thiện cảm đặc biệt nào đối với L, vì vậy ta phải giả vờ do dự, chỉ để tự ta cảm thấy khá hơn. Nếu các bạn nghĩ tới tính cách của Misora, lý do cho việc này ràng. Có vẻ hiển nhiên là chiếc laptop của ta được bật lên bởi L “hack” nó, và ta cũng hơi phiền lòng khi tự nhiên phải phá hủy chiếc máy tính mới mà ta vừa mua tháng trước.

      “Tao cũng ngại đâu... À thực ra có, nhưng...”

      ta có lựa chọn nào khác.

      Vào đúng 8:50, Misora ngồi trước chiếc laptop, thứ giờ đây chẳng còn tồn tại đến hai mươi ba giờ nữa, và bắt đầu làm theo hướng dẫn của L. ta phải là chuyên gia hacker, nhưng ta cũng được học những quy tắc cơ bản trong khoá đào tạo của FBI.

      Ngay khi ta truy cập thành công vào server, cả màn hình máy tính biến thành màu trắng. Misora sửng sốt trong giây lát, nhưng rồi ta nhận ra chữ L cách điệu lớn lên màn hình, và cảm thấy thoải mái.

      “Naomi Misora,” giọng phát ra từ loa ngoài chiếc laptop, sau khoảng lặng ngắn. Đây tất nhiên là thứ thanh điện tử. Nhưng đó là giọng được tất cả các cơ quan điều tra thế giới nhận diện như giọng của L. Misora nghe thấy nó vài lần trước—nhưng đây là lần đầu tiên giọng này trực tiếp hướng tới ta. cảm giác lạ lùng, giống như khi nghe thấy tên mình TV—cũng phải ta chưa từng trải qua cảm giác này, nhưng ta tưởng tượng nó như vậy.

      “L đây.”

      “Xin chào,” Misora bắt đầu , nhưng rồi nhận ra điều đó vô ích. Laptop của ta chưa cài đặt microphone, và chẳng có cách nào L có thể nghe được ta .

      Vậy là ta gõ vào máy tính, “Tôi là Naomi Misora. vinh dự khi được chuyện với , L.” Nếu máy tính của ta kết nối tốt, hẳn ta có thể nhận được dòng này.

      “Naomi Misora, biết việc điều tra vụ giết người tiến hành ở Los Angeles mà chúng ta đến chưa?”

      L lập tức đề cập vào công việc, có vẻ gì quan tâm đến câu của ta. Có thể đoán rằng đó là bởi ta phải hoàn thành cuộc đối thoại này trước 9:05, nhưng cách xử và thái độ của ta chạm vào lòng tự ái của Misora. ràng là ta hợp tác với L, nhưng ta tỏ ý tôn trọng với chút nào. Misora tự cho phép mình gõ mạnh xuống bàn phím khá cách khá ầm ỹ.

      “Tôi siêu đến mức có thể theo dõi toàn bộ các vụ điều tra giết người diễn ra ở Los Angeles.”

      “Ồ? Tôi có.”

      ta đáp trả câu châm biếm của bằng chút kiêu căng.

      L tiếp tục, “Tôi đến vụ giết người hàng loạt—nạn nhân thứ ba được tìm thấy ngày hôm qua. Tôi tin là có thêm nhiều nạn nhân nữa. Hãng tin HNN gọi nó là Những vụ ám sát Wara Ningyou.”

      “Những vụ ám sát Wara Ningyou?”

      Misora chưa từng nghe về nó. ta nghỉ phép và cố tình tránh nghe những tin tức kiểu đó. sống ở Nhật cho đến khi tốt nghiệp trung học và quen thuộc với cụm từ này, nhưng nghe thấy nó được phát theo tiếng cũng khiến ta có chút lạ lẫm.

      “Tôi muốn giải quyết vụ này,” L . “Tôi phải bắt được hung thủ. Nhưng trợ giúp của ở đây là tối quan trọng, Naomi Misora.”

      “Tại sao lại là tôi?” ta gõ bàn phím. Câu này có thể hiểu là “Tại sao cần giúp đỡ của tôi?” mà cũng có thể là “Tại sao tôi lại phải giúp ?”. Tuy nhiên, L ngần ngại hiểu theo cách thứ nhất. Hẳn là những lời mỉa mai cũng phải chịu thua ta.

      “Tự nhiên thôi, bởi thám tử giỏi, Naomi Misora.”

      “Tôi nghỉ phép...”

      “Tôi biết. Như thế phải càng tốt hơn sao?”

      Ba nạn nhân, ta .

      Tất nhiên còn tùy vào danh tính của các nạn nhân, nhưng nếu chỉ dựa vào những gì L cho biết vụ này chưa đủ quy mô đến mức FBI phải vào cuộc. Dễ hiểu tại sao ta suy diễn rằng đó chính là lý do L liên hệ trực tiếp với thông qua cấp . Tuy nhiên việc này vẫn quá đột ngột. Và ta hầu như còn được cho thời gian để suy nghĩ mọi việc. Nhưng khoảng thời gian đó là đủ để ta băn khoăn tại sao L lại nhảy vào vụ án đến mức FBI cũng chẳng quan tâm. Dẫu vậy, cũng nghĩ ta trả lời câu hỏi này qua máy tính.

      Misora liếc đồng hồ.

      còn phút nữa.

      “Thôi được, tôi giúp bất kỳ cái gì có thể,” ta gõ vào máy.

      L trả lời ngay lập tức, “Cám ơn . Tôi biết là đồng ý.”

      Tuy vậy giọng ta có vẻ gì là biết ơn.

      Nhưng cũng có thể là do giọng đó bị xử lý trước khi phát ra.

      “Tôi hướng dẫn cách liên hệ với tôi sau này. Chúng ta có nhiều thời gian, nên tôi ngắn gọn. Trước hết...

      Trước hết, ta cần phải biết những chi tiết cơ bản của Những án mạng Los Angeles BB. Vào 31 tháng Bảy năm 2002, trong phòng ngủ của ngôi nhà ở phố Insist, Hollywood, người đàn ông mang tên Believe Bridesmaid bị ám sát. Ông ta sống mình, làm nghề viết bài tự do. Ông ta viết bài cho hàng tá tạp chí dưới nhiều bút danh khác nhau và cũng tương đối nổi tiếng trong giới cùng nghề— điều tưởng như chẳng có ý nghĩa gì, nhưng trong trường hợp này có vẻ khá xác đáng. Ông ta bị siết cổ chết. Trước hết ông ta bị gây mê bằng loại thuốc, và sau đó bị siết cổ từ đằng sau bằng loại dây. có dấu hiệu chống cự nào—tất cả được xem xét kỹ lưỡng, tội ác được gây ra cách suôn sẻ. Vụ thứ hai xảy ra bốn ngày sau đó, vào mồng 4 tháng Tám năm 2002. Lần này là ở khu trung tâm, trong căn hộ ở Đại lộ Thứ Ba, và nạn nhân là mang tên Quarter Queen. Nạn nhân này bị đánh đập cho tới chết, hộp sọ của ta bị đánh lõm sâu bởi vật dài và cứng. lần nữa, nạn nhân có lẽ bị gây mê trước và ở trong trạng thái vô thức trước khi chết. Về lý do tại sao người ta kết luận hai vụ này được gây ra bởi hung thủ... thực ra , bất kỳ ai nhìn thấy trường của tội ác ngay lập tức chú ý đến mối liên hệ này.

      Những hình nhân rơm được đóng đinh tường ở cả hai nơi.

      Những hình nhân này có cách gọi riêng, đó là Wara Ningyou.

      Bốn trong số chúng ở phố Insist.

      Và ba ở Đại lộ Thứ Ba.

      Được đóng đinh vào tường.

      Chuyện Wara Ningyou được nhắc đến báo chí, vì vậy nghiêm khắc mà có khả năng vụ thứ hai giả mạo theo vụ thứ nhất. Tuy nhiên cũng có vài chi tiết tương đồng khác, khiến cho cảnh sát cho rằng đây là vụ giết người hàng loạt. Mặc dù vậy, vẫn còn câu hỏi lớn nữa—hoàn toàn có gì liên quan giữa Believe Bridesmaid và Quarter Queen. ai trong số họ có số của người kia ở điện thoại, hay danh thiếp của người kia trong sổ công tác. Thực ra Quarter Queen cũng chẳng có điện thoại di động hay sổ công tác— bé mới mười ba tuổi. bé có thể có mối liên hệ gì với nhà báo tự do bốn mươi bốn tuổi cơ chứ? Cũng có thể có liên quan thông qua mẹ của bé, người có mặt trong thành phố khi án mạng xảy ra, nhưng xét khác nhau hoàn toàn giữa nơi ở và vị thế của họ, khó mà thấy được mối liên hệ lớn nào. Có thể dùng thuật ngữ trong tiểu thuyết trinh thám cổ điển để về điều này, “mắt xích khuyết”[2]. Công tác điều tra rất chú ý đến việc này, nhưng chín ngày sau khi cái tựa Vụ án Wara Ningyou được nhắc đến rộng rãi trong dư luận, vào 13 tháng Tám năm 2002, vụ thứ ba xảy ra.

      Có hai hình nhân Wara Ningyou tường. Như vậy sau mỗi vụ án số hình nhân giảm .

      Vụ thứ ba xảy ra ở phía tây L.A., trong ngôi nhà liên kế[3] gần ga Metrorail Glass, và tên nạn nhân này là Backyard Bottomslash. phụ nữ—hai mươi sáu tuổi, khoảng giữa nạn nhân thứ nhất và thứ hai—và là thư ký ngân hàng.

      lần nữa, ta có mối liên hệ gì với Believe Bridesmaid hay Quarter Queen. Thậm chí họ còn khó có thể từng gặp nhau phố. ta chết vì mất máu—xuất huyết nghiêm trọng. Siết cổ, đánh đập và bây giờ là đâm dao—mỗi vụ án lại dùng cách khác nhau, dẫn tới giả thuyết rằng hung thủ thích thử nghiệm cảm giác mới với mỗi lần giết người. Và để lại manh mối hữu ích nào tại trường. Thứ duy nhất để điều tra là mắt xích giữa các vụ án, nhưng vì chẳng có gì được tìm thấy— điều rất lạ đối với những vụ án kiểu này—vụ ám sát thứ ba cho thấy cảnh sát hoàn toàn thua cuộc. Ở khía cạnh này thủ phạm giỏi hơn cảnh sát rất nhiều.

      Tôi định ca ngợi Beyond Birthday, nhưng trong trường hợp này tôi dành tặng lời khen mà xứng đáng được nhận.

      Ồ phải rồi—ngoài Wara Ningyou, còn có điểm chung lớn khác giữa trường của các vụ án—đó là tất cả đều trong phòng kín. Giống như câu chuyện kỳ bí ngày xưa. Những thám tử điều tra vụ án đánh giá cao chi tiết này... nhưng khi Naomi Misora nhận tài liệu về vụ án từ L, đây là điều đầu tiên gây ấn tượng với ta.

      Misora bắt đầu điều tra vụ án— phải với tư cách điệp viên FBI, mà với tư cách cộng dưới quyền chỉ huy của L— ngày sau khi nhận cầu từ L, 15 tháng Tám. ta nghỉ phép, vì thế cũng bị thu phù hiệu và súng, khiến cho giờ đây hơn gì những công dân bình thường đối với quyền sử dụng vũ phí.

      Nhưng ta cũng quá quan ngại—Misora chưa từng là loại điệp viên lạm dụng quyền hạn của mình. ta hơi thu mình, và đầu óc cũng hơi khác người, vì thế ta có điều kiện tốt nhất để giải quyết vụ án. Nhưng ở điểm này, tính cách của ta tương tự như L. cách khác, ta thích hợp để làm việc theo nhóm, và tài năng của ta tỏa sáng nhất khi thoát khỏi những bó buộc của tổ chức và tự hoạt động mình—điều này có thể lý giải tại sao ta khiến L chú ý đến.

      Vào lúc chiều ngày 15 tháng Tám, Naomi Misora ở phố Insist, Hollywood, trường của vụ thứ nhất. Nhìn lên ngôi nhà, hơi quá lớn đối với người đàn ông độc thân, Misora lấy điện thoại trong túi ra và gọi tới số được cho. ta số này được mã hoá năm lần và tuyệt đối an toàn. chỉ an toàn cho L, mà còn an toàn cho cả Misora khi nghỉ phép.

      “L, tôi tới trường.”

      “Tốt lắm,” giọng điện tử trả lời, như thể ta đợi .

      Misora hơi băn khoăn L ở đâu, ở môi trường như thế nào ta có thể điều tra, nhưng rồi nhanh chóng nhận ra dù sao điều đó cũng chẳng làm nên khác biệt gì.

      “Tôi cần làm gì?”

      “Naomi Misora, ở trong hay ngoài ngôi nhà?”

      “Ngoài. Tôi định tới trường vụ án nhưng giờ chưa bước vào trong.”

      “Vậy hãy vào . Chắc được mở khoá. Tôi sắp đặt việc đó.”

      “Cám ơn.”

      Chuẩn bị là kỹ lưỡng.

      ta nghiến răng, kiềm chế gì mỉa mai. Thường ta cũng xem việc được chuẩn bị trước là điều đáng trọng, nhưng ta cảm thấy khó có thể chấp nhận rằng bất kỳ ai lại chu đáo đến vậy.

      ta mở cửa và bước vào nhà. Nạn nhân bị giết trong phòng ngủ, và Misora tham gia vào các vụ điều tra với FBI đủ nhiều để đoán được căn phòng đó đặt ở đâu khi nhìn từ bên ngoài. ngôi nhà như thế này thường có phòng ngủ tầng hai[4], ta bước theo phỏng đoán như vậy. hai tuần kể từ khi vụ án xảy ra, nhưng có lẽ người ta vẫn giữ nơi này sạch . dấu hiệu của bụi bẩn ở bất cứ đâu.

      “Nhưng, L này...”

      “Gì vậy?”

      “Theo thông tin gửi hôm qua— phải để khẳng định lại điều hiển nhiên, nhưng mà cảnh sát kiểm tra trường rồi.”

      “Đúng thế.”

      “Tôi biết làm thế nào, nhưng có trong tay báo cáo của cảnh sát bao gồm việc này.”

      “Đúng thế”.

      có ích gì lắm.

      “Vậy chẳng có lý gì tôi phải ở đây?”

      ,” L . “Tôi hy vọng có thể tìm thấy thứ gì đó mà cảnh sát tìm ra.”

      “Ồ... thế ràng rồi.”

      Cũng có thể là chút ràng.

      Sau cùng việc này chẳng lên điều gì.

      “Người ta vẫn rằng bạn nên đến trường vụ án trăm lần, vì thế đến đấy chắc hẳn vô ích. khoảng thời gian trôi qua, vậy có thể có gì đó được phơi bày ra ánh sáng. Naomi Misora, điều đầu tiên chúng ta buộc phải nghĩ đến trong vụ này là mối liên hệ giữa các nạn nhân. Điều gì kết nối giữa Believe Bridesmaid, Quarter Queen, và nạn nhân mới, Backyard Bottomslash? Hay là có gì liên hệ, mà các vụ này là hoàn toàn ngẫu nhiên? Tuy vậy kể cả trong trường hợp ấy, phải có logic nào đó mà hung thủ dựa vào để lựa chọn nạn nhân của . Điều mà tôi cần làm, Naomi Misora, là tìm ra mắt xích khuyết này.”

      “Tôi hiểu rồi...”

      Đúng ra chưa thực hiểu, nhưng bắt đầu nhận ra rằng tranh luận với L cũng thể khiến ngừng lẩn tránh và với chính xác điều cần biết. Vì thế quyết định hỏi quá nhiều. Vả lại, cũng tìm ra căn phòng ngủ. Cửa được thiết kế mở vào trong và có khoá vặn[5].

      căn phòng bị khoá trái.

      trường vụ thứ hai và thứ ba cũng có khoá vặn... đấy có phải là mối liên hệ? , bấy nhiêu thông tin được nhắc tới trong tài liệu. Cảnh sát nhận thấy điều đó. L cần tìm manh mối khác.

      Căn phòng lớn lắm, nhưng có nhiều đồ đạc, vì thế hề cảm thấy chật chội. chiếc giường lớn ngay giữa căn phòng, và thứ đồ duy nhất còn lại là giá sách. Hầu hết sách giá là những cuốn giới thiệu hay hướng dẫn về các thú vui tiêu khiển trong thời gian rảnh hoặc vài quyển truyện tranh Nhật Bản nổi tiếng, cho thấy có lẽ Believe Bridesmaid còn sử dụng căn phòng này để thư giãn. Ông ta dường như thuộc loại người rạch ròi giữa thời gian làm việc và riêng tư— điều thường thấy ở những nhà báo tự do. Có thể cho rằng người ta cũng điều tra sơ bộ về cả tầng , Misora nghĩ, lơ đãng nhìn lên trần nhà. Có lẽ sau đây cũng phải kiểm tra ở đó.

      “Nhân tiện, Naomi Misora, có suy nghĩ gì về tên sát nhân đằng sau những vụ giết người đó? Tôi muốn nghe cách nghĩ thời của về vấn đề này.”

      “Tôi nghi ngờ việc những ý kiến của tôi có ích gì đối với , L...”

      “Tất cả các ý kiến đều có ích.”

      sao?

      Misora ngẫm nghĩ lúc.

      ta dị thường,” trả lời, buồn lựa chọn từ ngữ, mà luôn những gì trong đầu . Đó là ấn tượng chính trong khi nhận và đọc những tài liệu này hôm trước. “ phải chỉ vì ta giết ba người, mà còn... mỗi hành động ta gây ra đều khiến ta nghĩ như vậy. Và ta thậm chí hề cố che giấu điều đó.”

      “Ví dụ như?”

      “Ví dụ như là... những dấu vân tay. Người ta thể tìm thấy bất kỳ dấu vân tay nào tại trường. Chúng bị xoá sạch.”

      “Đúng vậy... nhưng, Naomi Misora, hiển nhiên việc để lại dấu tay là kỹ thuật cơ bản nhất của các tội phạm.”

      phải đến mức này,” Misora , hơi bực mình— biết L hiểu muốn hướng tới điều gì và biết chắc ta kiểm tra khả năng của , cho dù ta có nữa. Kiểm tra xem có đủ khả năng thay mặt ta tại trường hay . “Nếu muốn để lại dấu tay, hầu hết mọi người chọn cách đeo găng—hoặc nếu lau chùi những gì họ chạm phải. Nhưng tên này... dường như xoá tất cả các dấu tay trong nhà. Tại cả ba trường. Đầu tiên tôi băn khoăn rằng phải chăng tới nhà nạn nhân nhiều lần đến mức thể nhớ được chạm vào những đâu. Nhưng cho đến khi tôi đọc được rằng thậm chí tháo những cái bóng đèn ra để lau chùi đui đèn, vấn đề trở nên hoàn toàn khác. Còn từ gì có thể gọi nếu phải là dị thường?”

      “Tôi đồng ý.”

      Bây giờ đồng ý chứ?

      “Vì thế, L, trở lại những gì tôi lúc nãy, nếu thận trọng đến mức như thế, tôi rất nghi ngờ việc tôi có thể tìm thêm được bất cứ cái gì mới ở đây. Đấy là hy vọng hão huyền. người như thế bao giờ gây ra sơ suất nào.”

      Sơ suất.

      Như lần gây ra tháng trước.

      “Thường việc điều tra kiểu này bắt đầu bằng việc tìm sơ suất của tên tội phạm, và ghép chúng lại như bức tranh, nhưng trong trường hợp này, tôi nghĩ chúng ta thể tìm ra được những thứ như thế.”

      , tôi nghĩ chúng ta tìm ra,” L . “Nhưng nếu đó phải là sơ suất sao?”

      phải sơ suất?”

      “Phải. thứ gì đó cố tình để lại. Và nếu các thanh tra cảnh sát nhận thấy nó... chúng ta có cơ hội.”

      Cố tình để lại manh mối? Điều như thế có thể xảy ra sao? Theo lẽ thường thể, —tại sao ai đó lại có thể cố tình để lại thứ gì mà chúng có khả năng chống lại họ cơ chứ? À khoan . Bây giờ khi ta đến nó, quả là người ta tìm thấy hai ví dụ chính xác cho tượng đó. Thứ nhất là hình nhân Wara Ningyou được đóng vào tường, và thứ hai là những cái khoá vặn tạo nên những căn phòng bị khoá trái. Những điều này chắc chắn phải là sơ suất, mà ràng được hung thủ cố ý để lại. Nhất là điều thứ hai. Đó chính là điều mà Misora cảm thấy thu hút nhất—những căn phòng kín thường là để hung thủ dựng trường giả, nhằm tạo ra suy luận sai lầm rằng nạn nhân tự sát. Nhưng nạn nhân thứ nhất bị siết cổ từ đằng sau, nạn nhân thứ hai bị đánh đập cho tới chết, và nạn nhân thứ ba bị đâm bởi hung khí tìm thấy ở trường... ai có thể nhầm đó là những vụ tự sát. Nghĩa là hung thủ chẳng được lợi gì khi khoá trái những căn phòng. Đó phải là sơ suất, mà đó là điều lạ thường.

      Những hình nhân Wara Ningyou cũng vậy.

      hiểu chúng có ý nghĩa gì.

      Bởi ở Nhật Bản, người ta dùng Wara Ningyou như loại bùa phép để nguyền rủa, có những người đưa ra giả thiết rằng hung thủ là người Nhật, hoặc là ai đó căm thù sâu sắc người Nhật. Tuy nhiên Wara Ningyou cũng là mặt hàng đa dạng và rẻ tiền có thể mua được dễ dàng ở các cửa hàng đồ chơi (với giá khoảng ba đô la), giả thiết này còn đứng vững.

      Misora đóng cánh cửa phía sau lưng , và bởi cái khoá vặn ở độ cao vừa tầm tay, lơ đãng xoay nó lại và tự khoá mình ở trong phòng.

      kiểm tra mỗi vị trí các hình nhân được ghim vào tường.

      Có bốn hình nhân.

      Mỗi hình nhân được đóng vào trong số bốn bức tường bao quanh căn phòng hình vuông. Tất nhiên chúng bị cảnh sát lấy như những chứng cứ quan trọng. Nhưng dễ dàng nhận ra chúng từng ở đâu dựa vào các lỗ đinh ở tường. Misora lấy ra sáu bức ảnh từ trong túi. Bốn bức chụp bốn hình nhân. bức chụp nạn nhân, Believe Bridesmaid, nằm ngửa giường, cho thấy dấu vết dây thừng cổ ông ta.

      Và đến bức ảnh cuối cùng.

      Bức này phải chụp trường, mà là bức chụp gần vào khuôn ngực trần của Believe Bridesmaid, được lấy từ tài liệu khám nghiệm tử thi. Có số vết cắt lớn ngực ông ta, có vẻ bị khoét sâu vào thịt bằng dao. Chúng phải quá sâu, nhưng bị khoét ở nhiều hướng. Theo báo cáo, chúng được tạo ra sau khi nạn nhân chết.

      chung, khi hung thủ gây những thương tổn vô nghĩa thế này lên thi thể nạn nhân, phải có mối thù sâu đậm lắm đối với họ... Đối với nhà báo tự do, người có thể từ thủ đoạn cho lợi nhuận của mình, tôi cũng ngạc nhiên nếu ông ta có vài kẻ thù. Ông ta phụ trách vài cột báo về những tin đồn về giới nổi tiếng...”

      “Nhưng, Naomi Misora, điều đó lý giải mối liên hệ đối với vụ thứ hai và thứ ba. Các thi thể kia cũng bị gây thương tích bằng những cách liên quan tới nguyên nhân cái chết— thực tế, các thương tích thậm chí dường như gia tăng sau mỗi vụ.”

      “Có thể chỉ có mối thâm thù đối với ông Bridesmaid, và hai vụ còn lại chỉ được dàn dựng giống để ngụy trang. Hoặc có thể phải là ông ta, mà là trong hai người còn lại... hoặc hai trong ba số họ, và vụ còn lại để ngụy trang. Việc phá hoại thi thể ngày càng tàn nhẫn có thể do đấy là phần của màn ngụy trang, hoặc là...”

      tin là tên sát nhân chỉ giả vờ giết người bừa bãi?”

      hẳn. Đây chỉ là khả năng đáng xem xét. Cách suy diễn này thể lý giải diện của những hình nhân Wara Ningyou. Ý tôi là, có thể cố tình để lại chúng tại trường để chứng minh rằng cả ba vụ này đều được gây ra bởi người—và việc những cánh cửa khoá trái cũng vì mục đích đó.”

      Với khả năng đó việc từ Hollywood đến khu trung tâm rồi tới phía tây thành phố có thể được xem như nỗ lực gây nhiễu cho công tác điều tra. Vụ án liên quan tới càng nhiều người, việc điều tra càng trở nên hỗn tạp..., và chọn tuổi làm nạn nhân thứ hai có thể là việc làm cố ý để khiến có vẻ giống kẻ rối loạn về tâm lý.

      “Giả vờ dị thường... thực ra riêng cái ý tưởng làm điều đó cũng đủ dị thường,” L .

      Misora rất ngạc nhiên khi nghe ta biểu lộ cảm nghĩ “con người” như thế. Cảm xúc mà có gần như là cảm kích, và nhanh chóng đưa cuộc hội thoại quay về chủ đề—gần như để che giấu phản ứng của mình.

      “Vậy , L, tôi thấy nực cười khi cứ cố gắng để tìm ra mối liên hệ giữa các nạn nhân. Tôi nghĩ cảnh sát làm tốt việc này, và... Thực lòng mà , kiểm tra những người quen biết của họ dường như còn có ích hơn. Ý tôi là, nạn nhân thứ ba, Backyard Bottomslash... ta nhất định phải có liên quan tới các vụ giao dịch ở ngân hàng.”

      “Nhưng Naomi Misora,” L ngắt lời. “ có thời gian để tỷ mỉ suy xét đâu. Tôi tin chắc vụ thứ tư xảy ra trong thời gian gần.”

      ta điều tương tự vào hôm trước. Rằng có thêm những nạn nhân nữa. Nhưng dựa điều gì? Tên sát nhân vẫn được tự do, đó cũng là khả năng, nhưng có vẻ số vụ án có thể dừng ở ba. Tất cả phụ thuộc vào tính thất thường của tên sát nhân—nhưng với tư cách người điều tra, cảm thấy khó có thể xem khả năng nào là lớn hơn.

      “Số hình nhân Wara Ningyou,” L . “Bốn con nơi đứng, ba con ở khu trung tâm với nạn nhân thứ hai, và hai con ở vụ thứ ba tại phía tây L.A.—sau mỗi vụ hình nhân lại giảm .”

      “Đúng thế. sao?”

      “Số hình nhân vẫn còn có thể giảm .”

      Đáng lẽ phải nghĩ tới điều này. Đúng là chẳng có ý nghĩa gì nếu đếm ngược từ bốn tới hai và dừng lại ở đó. Ngay cả nếu giả thiết của Misora đúng là , và hung thủ giết người bừa bãi chỉ để ngụy trang mục đích của , càng nhiều nạn nhân bị sát hại kế hoạch này càng phát huy tác dụng. Tất nhiên, mỗi án mạng là lần mạo hiểm, nhưng nó có thể đem lại kết quả tốt. Thực ra thể đoán được tên này thậm chí có nghĩ đến việc mạo hiểm hay —có những tên sát nhân chỉ quan tâm đến việc giết người thành công. Và việc ra vẻ dị thường dị thường...

      “Vậy, L... nghĩ rằng có tới hai vụ án mạng nữa sao?”

      “Khả năng này là hơn chín mươi phần trăm,” ta . “Tôi muốn trăm, nhưng cũng có thể có điều gì đó xảy ra về phía thủ phạm, khiến ta thể tiếp tục. Vì thế có thể là chín mươi hai phần trăm. Nhưng Misora, nếu những vụ án còn tiếp diễn, phải là hai vụ—chỉ là . Khả năng xảy ra án mạng thứ năm chỉ là ba mươi phần trăm.”

      “Ba mươi phần trăm?”

      Chênh lệch khá lớn.

      “Tại sao? Vẫn còn tới hai hình nhân Wara Ningyou, và nếu ta sử dụng những hình nhân để đại diện cho các nạn nhân của ...”

      “Nếu thế, thể để lại Wara Ningyou ở vụ thứ năm. Ở vụ thứ tư chỉ có . Hình nhân đó chứng minh rằng đó là tội ác của , nhưng...”

      “Ồ, tôi hiểu rồi,” Misora , cau mày với ngốc nghếch của . ràng là dù cho động cơ của thủ phạm có là gì nữa, việc để lại Wara Ningyou tại trường vẫn là trong các nguyên tắc của . khó có thể gây ra vụ thứ năm khi số hình nhân tiến tới .

      “Có ba mươi phần trăm khả năng tên sát nhân nghĩ sâu xa đến thế, nhưng điều đó là rất đáng ngờ. Dù sao cũng từng lau chùi cả những cái đui đèn...”

      “Vậy là chỉ có tổng cộng bốn nạn nhân. Vấn đề tiếp theo là danh sách bọn họ.”

      . Vụ thứ ba là vụ cuối cùng,” L cách kiên định, cho dù Misora chỉ nghe qua thứ thanh điện tử. “ có nạn nhân tiếp theo. khi tôi vào cuộc.”

      Tự tin?

      Hay ngạo mạn?

      lâu nay Misora thấy xa lạ với những cảm giác đó. Đặc biệt là trong những tuần gần đây.

      tự tin là như thế nào?

      ngạo mạn là như thế nào?

      Misora còn biết.

      “Nhưng tôi cần trợ giúp của , Naomi Misora. Tôi mong đợi kết quả tốt đẹp từ việc điều tra của .”

      sao?”

      “Phải. Hãy giữ trái tim lạnh khi hành động. Theo kinh nghiệm của tôi, với những vụ án như thế này điều cần nhất là tâm trí vững vàng khó có thể lay chuyển. Hãy hành động như thể chơi ván cờ băng.”

      “...”

      phải cái đó được gọi là “curling”[6] sao?

      “L, biết tôi nghỉ phép chứ?”

      “Phải. Đó là lý do tôi thỉnh cầu hỗ trợ từ . Trong vụ này, tôi cần cá nhân khôn khéo và có thể hoạt động mình.”

      “Vậy tôi đoán cũng biết lý do tôi xin nghỉ phép?”

      ,” ta khiến Misora ngạc nhiên. “Tôi biết điều đó.”

      kiểm tra sao?”

      “Tôi quan tâm việc đó. có tài, và có thể sẵn sàng[7] giúp đỡ—thế là đủ rồi—trừ phi có điều gì đó tôi cần phải biết? Nếu thế, tôi có thể tìm ra trong chưa đầy phút.”

      ,” nhăn nhó.

      cảm thấy như cả thế giới đều biết về sai lầm của , nhưng thậm chí ngay cả vị thám tử tài giỏi nhất cũng chưa biết đến. Và ta về việc nghỉ phép hay đình chỉ của Misora là lý do khiến “sẵn sàng”. chưa từng nghĩ đến điều này, nhưng có vẻ như L cũng khá hài hước.

      “Được rồi, L, nếu chúng ta cần ngăn chặn vụ thứ tư, chúng ta nên bắt đầu thôi. Tôi phải làm gì bây giờ?”

      có thể làm được gì?”

      “Tôi làm được những gì tôi có thể,” Misora . “Tôi biết tôi toàn hỏi, nhưng giờ tôi kiểm tra trường lần nữa, tìm cho được bất kỳ cái gì hung thủ để lại ngoài những Wara Ningyou... thực ra cụ thể, tôi phải tìm cái gì?”

      “Bất kỳ loại thông điệp hay lời nhắn nào.”

      “Thông điệp?”

      “Phải. Điều này chưa được nhắc tới trong tài liệu tôi gửi cho , nhưng chín ngày trước khi vụ đầu tiên xảy ra, vào 22 tháng Bảy, LAPD[8] nhận được bức thư.”

      bức thư?”

      Điều này có nghĩa là sao? LAPD...?

      “Liên quan tới vụ án?”

      nay, có thám tử nào điều tra vụ này nhận ra mối liên quan nào. Tôi cũng chưa biết chắc chắn có mối liên hệ nào , nhưng tôi nghĩ là có.”

      “Bao nhiêu phần trăm?”

      “Tám mươi phần trăm.”

      Đáp lại tức .

      “Chưa xác định được người gửi—họ sử dụng hình thức gửi chuyển tiếp[9], và có cách nào tìm ra nó được gửi đến từ đâu. Trong phong bì chỉ có mẩu giấy duy nhất với câu đố ô chữ viết đó.”

      câu đố ô chữ? Ừm...”

      “Đừng coi thường. Đó là câu đố cực kỳ khó, và ai giải được nó. Tất nhiên là, chúng ta có thể coi chưa ai hoàn toàn cố gắng cách nghiêm túc, nhưng có vẻ hợp lý khi đưa ra giả thiết rằng vài cảnh sát cùng làm việc cũng thể giải được câu đố.”

      “Tôi hiểu rồi. Vậy ?”

      “Cuối cùng họ quyết định rằng câu đố đó là trò đùa, và họ liệng nó ... nhưng người của tôi thu thập được bản copy qua những kênh khác ngày hôm qua.”

      “Ngày hôm qua...”

      Vậy đó là lý do điều này được nhắc đến trong tài liệu. Ngay cả khi Misora chuẩn bị bắt đầu việc điều tra của , L vẫn tiếp tục theo đuổi vụ án từ góc độ khác.

      “Tôi giải nó,” L .

      Dường như cái giả thiết về độ khó của câu đố chỉ là cách khoe khoang tài năng của mình. ta hẳn khiến nhiều người khó chịu lắm, Misora nghĩ. Dù sao cũng phải là người duy nhất ta có thể chuyện.

      “Nếu tôi nhầm, đáp án của câu đố chính là nơi đứng—địa chỉ của vụ thứ nhất.”

      “221 phố Insist, Hollywood? Nơi này sao? Nhưng điều đó có nghĩa... là vậy.”

      “Chính xác. thông báo với cảnh sát rằng gây án. Nhưng bởi câu đố đó khó đến mức ai giải được nó, thực tế nó có cơ hội phục vụ cho mục đích ấy...”

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      “LAPD có nhận được bức thư nào như thế nữa ? Gợi ý về địa chỉ vụ thứ hai hay thứ ba?”


      . Tôi kiểm tra toàn bộ bang California, để chắc chắn thôi. Tôi tìm thấy bất kỳ lá thư hay e-mail nào. Tôi vẫn định tiếp tục tìm, nhưng...”


      “Vậy đó chỉ là trùng hợp thôi sao? , thể như vậy được. Nếu nó chỉ đích danh địa chỉ này, chắc chắn điều đó là đúng... nhưng tại sao lại là chín ngày trước?”


      “Khoảng thời gian giữa vụ thứ hai và vụ thứ ba cũng là chín ngày. Từ ngày 4 đến 13 tháng Tám. Có thể thủ phạm thích con số chín.”


      “Nhưng thời gian giữa vụ thứ nhất và thứ hai chỉ là bốn ngày... có lẽ nào như thế?”


      “Đó chỉ là cách giải thích thôi. Nhưng có lẽ cũng cần ghi nhớ các khoảng thời gian giữa mỗi án mạng. Chín ngày, bốn ngày, chín ngày. Dù sao , hung thủ thuộc vào loại thích phô trương hành động của mình cho cảnh sát. Ngay cả nếu chỉ giả vờ như thế, vẫn có nhiều khả năng thông điệp nào đó được để lại trong căn phòng, điều gì đó ngoài những hình nhân.”


      “Ừm... vậy ...”


      điều gì đó được tính toán trước.


      thông điệp khó hiểu hơn nhiều so với những hình nhân... cái gì đó giống với câu đố ô chữ hóc búa. Misora cảm thấy cuối cùng cũng bắt đầu hiểu ra tại sao L cần giúp đỡ của . thám tử chỉ ngồi chỗ[10] thể tự tìm thấy thứ đó. cần phải quan sát trường bằng con mắt của chính , có thể tiến tới và chạm vào những đồ đạc... và điều này cần chất lượng nhiều hơn số lượng. Ai đó có thể quan sát trường dưới góc nhìn của ta, cách nghĩ của ta...


      Nhưng cũng cho rằng ta quá tin tưởng vào . Nếu cần phải là đôi mắt của L... điều này là quá sức đối với điệp viên bình thường.


      “Có vấn đề gì à, Naomi Misora?”


      ... có gì.”


      “Được rồi. Vậy bây giờ chúng ta hãy tạm ngừng cuộc đối thoại. Có rất nhiều việc tôi cần phải làm.”


      “Ồ, tất nhiên.”


      Đó là L, chắc hẳn ta phải giải quyết những vụ khó khác nữa. Những vụ án khắp thế giới. Đối với ta, vụ án này chỉ là trong số rất nhiều nhiệm vụ cần giải quyết song song. Nếu như vậy, làm sao ta có thể giữ vững danh hiệu thám tử giỏi nhất thế giới?


      Vị thám tử vĩ đại nhất thế kỷ, L.


      Vị thám tử phục vụ cho thân chủ nào.


      “Tôi chờ nghe tin tốt lành từ . Lần tới gọi cho tôi, hãy dùng đường truyền số năm, Naomi Misora,” L rồi ngắt máy.


      Misora gấp điện thoại lại và bỏ vào túi. bước tới những kệ sách để bắt đầu việc điều tra. Chẳng có gì trong căn phòng này ngoài chiếc giường và giá sách. Vì thế cũng còn nhiều thứ để nghiên cứu.


      đến nỗi như tên sát nhân, nhưng có vẻ chính Believe Bridesmaid cũng khá kỳ quặc...”


      Những cuốn sách được xếp chặt các giá và để thừa khoảng trống nào. Misora đếm nhanh—năm mươi bảy quyển. cố lôi quyển bất kỳ ra, nhưng việc này cũng khá khó khăn. ngón tay trỏ là đủ, phải dùng cả ngón cái và nguyên tắc đòn bẩy để bẩy nó ra. Giở qua các trang, rồi nhận ra điều này vô ích. chỉ muốn đôi tay được làm gì đó trong khi cố gắng tìm ra gì đó để làm. là đơn giản và tốt đẹp nếu có thông điệp được chứa trong trang sách, nhưng điều đó quả là hy vọng hão huyền. Theo các tài liệu, cũng như các đui đèn, từng trang của từng quyển sách được lau chùi kỹ, xoá sạch những dấu tay—điều đó có nghĩa là chỉ tên tội phạm tỷ mỉ quá mức, mà chính phía cảnh sát cũng kiểm tra tất cả các cuốn sách. Tức là có lời nhắn nào trong đó.


      Hoặc có thể lời nhắn được sắp đặt bằng cách mà cảnh sát nhận ra... gì đó giống như cái đánh dấu trang bình thường, nhưng thực chứa mật mã bên trong... Nhưng sau khi giở qua thêm vài quyển nữa, cũng gạt bỏ giả thiết này. Những quyển sách ở đây có đánh dấu. Believe Bridesmaid có vẻ gì thuộc loại người có thói quen đánh dấu sách. Có những độc giả kiểu cách căm ghét những vết gấp trang giấy mà việc đánh dấu sách để lại.


      Nghĩa là đến tên sát nhân cảnh vẻ nhất cũng thể mơ đến việc đặt bất cứ thứ gì vào quyển sách.


      Misora tiến ra xa khỏi giá sách. nhìn xuống chiếc giường, nhưng có lẽ tìm kiếm gì đó ở đây còn khó hơn. Chẳng có việc gì để làm ngoài lật những tấm ga và kiểm tra tấm đệm. Và cũng cần phải xem lại hồ sơ để chắc chắn rằng cảnh sát làm điều đó, và dường như hoàn toàn thể che giấu thông điệp giường mà cảnh sát lại nhận ra.


      “Dưới tấm thảm... đằng sau lớp giấy dán tường... , tại sao lại che giấu thông điệp đó? muốn người ta tìm ra nó. Đó phải là thông điệp nếu người ta tìm ra nó. gửi câu đố ô chữ tới sở cảnh sát... rất hợm hĩnh. muốn những câu đố học búa... để chứng tỏ rằng chúng ta ngu ngốc.”


      phải cố gắng thách thức họ.


      chế giễu họ.


      “‘You are beneath me, You can never beat me,’[11]—đó là điều những thông điệp muốn . Có nghĩa là... phải cố làm mọi thứ đúng hướng để bị bắt... đằng sau mục đích đó còn có điều gì hơn thế nữa... hay chế giễu chúng ta chính là mục đích quan trọng hàng đầu của ? “Chúng ta” là ai? Cảnh sát? LAPD? Xã hội? Nước Mỹ? Thế giới? , quy mô thôi... Cần phải nghiêng về cá nhân hơn. Vậy thông điệp này... hay cái gì đó như thông điệp... phải ở đâu đó trong căn phòng này... mà, khoan ...”


      có sai sót ở đâu đó.


      Mà cũng có thể phải.


      “Cái gì đó đáng lẽ phải ở đây, nhưng nó còn nữa... cái gì thất lạc, và từng ở đây... những hình nhân Wara Ningyou? , đó chỉ là biểu tượng đại diện cho những nạn nhân, phải thông điệp... căn phòng ngủ... à, phải rồi! Chủ căn phòng! Chủ của căn phòng ngủ này còn ở đây.”


      Cái gì đó thất lạc, cái gì đó còn ở đây nữa.


      Như người chủ căn phòng, Believe Bridesmaid.


      Misora lấy những bức ảnh ra lần nữa và quan sát kỹ hai bức chụp thi thể Bridesmaid— bức chụp tại trường, và bức chụp lúc khám nghiệm tử thi. Nếu tên sát nhân để lại thông điệp cơ thể ông ta, chắc hẳn đó phải là vết dây thừng, mà đó là những vết dao ngực. Như Misora với L, thường điều đó được hiểu như báo thù cá nhân, nhưng giờ đây khi nghĩ về điều đó, chúng được tự nhiên. Trong bức ảnh chụp tại trường, thi thể nằm ngửa, mặc cái áo phông có vài vết máu đó... nhưng bản thân chiếc áo phông hề bị rách. Tức là sau khi giết chết nạn nhân, thủ phạm cởi áo ông ta, tạo ra những vết cắt bằng dao, và mặc lại áo phông. Nếu chỉ là để trả mối thù sâu đậm, ta đâm qua lớp vải. Có lý do nào khiến muốn phá hỏng tấm áo? Nhưng lại ngại khi nó bị dây máu... và tấm áo hoàn toàn thuộc về nạn nhân. Nó là chiếc áo ông ta mãi mãi mặc.


      “Nếu ta... nhìn nó đúng hướng... những dấu vết này... nhìn giống những chữ cái... khá giống...”


      Tuy phải xoay bức ảnh khá nhiều lần.


      “V... C... I? , M... chữ V nữa... X? D... và có ba chữ I trong hàng... L? Trông giống L đấy... ừm, có vẻ như mình tự gượng ép nó như thế...”


      Điều này chỉ hình dung được khi các bạn thực nhìn thấy nó. giống như chữ Kanji[12] hay Hangul[13]—những chữ cái alphabet[14] được tạo ra bởi những nét thẳng và cong đơn giản, và bất kỳ hình vẽ nguệch ngoạc nào, bất kể bằng bút chì hay dao, đều có thể trông giống chữ cái nào đó.


      “Thường mình muốn xem những thám tử đương nhiệm nghĩ gì, những người thực tham gia vào vụ án này... nhưng nay mình còn phù hiệu[15], vì thế điều này là thể. Tất nhiên, L có thể giải quyết mặt này cho mình.”


      Misora bắt đầu cảm thấy khó khăn khi tự mình hành động mà hỗ trợ của tổ chức. Trước đây thường cảm thấy hoà nhập trong FBI, nhưng giờ đây nhận ra những lợi thế mà nó có thể đem lại khi điều tra.


      “Mình nghĩ là mình cũng cần kiểm tra các phòng khác nữa... mặc dù cũng khá vô ích. Nhưng nếu xoá sạch tất cả các dấu tay trong ngôi nhà...” lẩm bẩm, và bước ra khỏi căn phòng.


      Nhưng sau đó nhớ ra rằng còn nơi mà chưa kiểm tra. Đó là ở dưới gầm giường. Cũng dễ dàng để xem xét qua, và đơn giản hơn là phần dưới thảm hay đằng sau giấy dán tường—thực ra có ít khả năng cảnh sát lại bỏ lỡ nơi như vậy, nhưng có vẻ cũng đáng để tìm kiếm, chỉ để chắc chắn thôi. Biết đâu có gì đó mới mà có thể nhìn thấy từ dưới đó. Vì lý do này, Misora cúi xuống cạnh chiếc giường...


      bàn tay thò ra từ dưới gầm giường.


      “...?!”


      Misora lùi lại phía sau ngay tức khắc, cố gắng kiềm chế cảm xúc khi điều này bất ngờ xảy ra, và đưa tay nắm chặt phía trước. giữ súng— phải vì bị đình chỉ, mà đơn giản chỉ vì cũng thường xuyên đem nó bên mình. có súng, còn cách phòng vệ nào khác.


      “Ngươi là cái gì ... xin lỗi, ngươi là ai?” gầm lên, cố gắng ra vẻ đáng sợ. Nhưng bàn tay nữa thò ra, tựa hồ giọng của chỉ là làn gió thổi, và cơ thể người xuất tiếp theo đó. gã thanh niên bò ra từ gầm giường.


      ta ở đây từ khi nào?


      ta ở dưới gầm giường suốt từ nãy ư?


      ta nghe thấy hết những gì với L?


      Hàng loạt câu hỏi tràn ngập trong tâm trí Misora.


      “Trả lời tôi ! là ai?!”


      đưa tay vào túi áo, ra vẻ như có súng. Gã thanh niên giơ tay lên.


      Và chậm rãi đứng dậy.


      mái tóc đen tự nhiên.


      chiếc áo giản dị và quần jeans bạc màu.


      ta là gã trai trẻ, với những vết thâm đen dưới đôi mắt lồi và to.


      Gầy, và có vẻ khá cao, nhưng lưng ta còng xuống khiến cho đôi mắt ta thấp hơn Misora tới hai cái đầu. Thế nên trông ta như thể phải ngước lên nhìn .


      “Rất vui được gặp ,” ta , điềm nhiên cách tuyệt đối. ta cúi mình thấp hơn nữa. “Hãy gọi tôi là Ryuuzaki.”





      Phần 2: Ryuuzaki


      L có những mối hiềm khích với những thám tử khác, và những kẻ ganh ghét L gọi ta là thám tử dật, hay cái máy phá án. Tuy nhiên, tất cả những điều này đều phải là . Naomi Misora cũng nghĩ rằng L là thám tử chỉ biết ngồi yên chỗ, nhưng thực tế, ngược lại, L rất năng động và xông xáo. Mặc dù hoàn toàn thích thú gì những mối quan hệ xã hội, L tuyệt đối phải loại thám tử chỉ thích đóng cửa mình trong căn phòng tối và từ chối ra ngoài. Bây giờ có được lan truyền rộng rãi, rằng ba thám tử giỏi nhất thời nay[16], L, Eraldo Coil và Danueve thực chất là người. Tất nhiên, những ai đọc ghi chép này hầu hết đều biết... mặc dù họ có thể biết rằng L có cuộc đấu trí với Eraldo-Coil- và Danueve-, giành phần thắng, có được bí danh thám tử[17] của họ. (Chi tiết về cuộc cạnh tranh này tôi để dành cho dịp khác, nhưng bên cạnh ba cái tên này, L sở hữu rất nhiều bí danh thám tử khác. Tôi biết cụ thể là bao nhiêu, nhưng có lẽ ít nhất là con số có ba chữ số. Và cũng chừng đó là những thám tử tương đối nổi tiếng—ví dụ, như tất cả những ai đọc những dòng này biết, ta xuất trước Kira với cái tên Ryuuzaki hay Ryuuga Hideki.) Tất nhiên, Naomi Misora thể biết được những điều này, nhưng theo tôi, cái tên L đối với ta chỉ là trong số rất nhiều tên khác. ta chưa từng có mối liên hệ trực tiếp đối với danh tính này. ta cũng bao giờ nghĩ về chính mình dưới cái tên L, nó chỉ là bí danh thám tử nổi tiếng và quyền lực nhất mà ta dùng trong đời. cái tên có giá trị, nhưng lại quá nhiều người biết đến. L có tên mà chưa ai biết, và cũng ai có thể biết được, nhưng cũng là cái tên mình ta biết chưa bao giờ được dùng để đến ta. Đôi khi tôi tự hỏi liệu L có biết chính xác là cái tên nào được viết vào Cuốn sổ Tử thần, cái tên nào giết chết ta .


      Tôi rất muốn biết.


      Nhưng hãy quay lại Những án mạng Los Angeles BB.


      “Ryuuzaki...” Naomi Misora , liếc tấm danh thiếp đen ta vừa đưa cho buồn che giấu nghi ngờ của mình. “Rue Ryuuzaki, phải ?”


      “Phải. Rue Ryuuzaki,” gã thanh niên , vẫn với giọng hết sức điềm tĩnh. Đôi mắt to của ta nhìn chằm chằm qua những quầng thâm xung quanh, và ta ngậm ngón tay cái của mình.


      Họ rời khỏi căn phòng ngủ để tới phòng khách của ngôi nhà. Cả hai ngồi đối diện nhau những chiếc ghế sofa đắt tiền. Ryuuzaki ngồi co chân lên ghế và quàng tay qua đầu gối. Misora nghĩ cách ngồi này khá trẻ con, nhưng vì hiển nhiên Ryuuzaki phải là đứa trẻ, nên điều này trở nên kỳ quặc. thể có ý kiến gì về việc này sở dĩ là bởi lại quá trưởng thành. Để thoát khỏi yên lặng đến ngượng nghịu, Misora nhìn vào tấm danh thiếp lần nữa—Rue Ryuuzaki: Thám tử.


      “Như vậy, thám tử?”


      “Đúng thế.”


      “Ý là... thám tử tư?”


      , cách gọi này chính xác lắm. Tôi cảm thấy cái từ “tư” mang theo nó tự kỷ thái quá... có thể gọi tôi là phi-thám-tử-tư[18]— thám tử cần bản ngã riêng.”


      “Tôi hiểu rồi...”


      cách khác, ta có giấy phép hành nghề.


      Nếu cây bút ở đấy, viết từ “thằng ngốc” lên tấm thiếp, nhưng đáng tiếc là có gì có thể viết được trong tầm với, nên cuối cùng đặt nó xuống bàn, ở nơi xa nhất có thể, như thể tấm thiếp là thứ gì đó dơ bẩn.


      “Vậy, Ryuuzaki... tôi muốn hỏi lần nữa, chính xác là làm gì dưới đó?”


      “Cũng như thôi. Điều tra,” Ryuuzaki biểu chút thay đổi nào khuôn mặt.


      Đôi mắt thâm quầng của ta hầu như bao giờ chớp. cảm giác bất an.


      “Tôi được thuê bởi bố mẹ của gia chủ ngôi nhà này—tức là bố mẹ của ông Bridesmaid, và điều tra những vụ án mạng. Tôi nghĩ là cũng ở đây vì lý do đó, Misora.”


      Giờ Misora cần biết gã Ryuuzaki này là ai—thám tử tư hay phi-thám-tử-tư, quan tâm đến điều đó. Vấn đề duy nhất là ta nghe được bao nhiêu phần trong cuộc điện thoại của với L.... điều trong trường hợp tồi tệ nhất có thể ảnh hưởng tới nghiệp tương lai của . Nếu thông tin về thám tử L bí rò rỉ ra ngoài, có thể phải trả cái giá đắt hơn rất nhiều so với chuyện bị đuổi việc. nhắc đến vấn đề này, và ta khẳng định rằng cái giường cách tốt và ta thể hiểu được gì, nhưng dám tin chắc vào điều này.


      “Đúng vậy... tôi cũng là thám tử,” Misora , cảm thấy còn đường nào khác. Nếu phải nghỉ phép, có thể thừa nhận mình là điệp viên FBI, nhưng giờ đây thể mạo hiểm tin rằng ta đòi xem phù hiệu. Có lẽ dối an toàn hơn—dù sao có khả năng ta cũng dối. cần phải cảm thấy tội lỗi.


      “Tôi thể cho biết tôi làm việc cho ai, nhưng tôi cũng được cầu điều tra bí mật. Để tìm ra kẻ giết Believe Bridesmaid, Quarter Queen, và Backyard Bottomslash...”


      ? Vậy chúng ta có thể hợp tác!” ta đáp ngay.


      Đến nước này mọi thứ bỗng dưng trở nên thoải mái lạ kỳ.


      “Thế , Ryuuzaki này. có tìm thấy gì dưới gầm giường có ích cho cuộc điều tra ? Tôi nghĩ là tìm kiếm bất cứ thứ gì thủ phạm để lại, nhưng...”


      , chẳng có gì cả. Tôi nghe thấy tiếng ai đó bước vào, nên tôi quyết định náu mình và quan sát. Sau thời gian tôi tin rằng phải nhân vật nguy hiểm, nên tôi lộ diện.”


      nhân vật nguy hiểm?”


      “Phải. Ví dụ như chính tên sát thủ, quay lại để tìm kiếm gì đó để quên. Nếu thế cơ hội tuyệt vời! Nhưng hiển nhiên hy vọng của tôi hão huyền.”


      dối.


      có thể đánh hơi thấy màu sắc dối trá ở đây.


      Misora bây giờ hoàn toàn tin rằng ta trốn ở đó để nghe cuộc điện thoại của với L. Trong hoàn cảnh khác, có thể đó chỉ là hoang tưởng, nhưng nhân vật Ryuuzaki này giống người bình thường.


      Chẳng có gì nơi ta mà đáng ngờ.


      “Tuy nhiên thay vào đó tôi may mắn được gặp , vì thế mọi thứ cũng phải tồi tệ lắm. Đây phải là trong tiểu thuyết hay truyện tranh, vì thế chẳng có lý do gì để các thám tử đồng chí hướng phải nghi ngờ lẫn nhau. thấy sao, Misora? có đồng ý trao đổi thông tin ?”


      . Cám ơn về lời đề nghị, nhưng tôi buộc phải từ chối. Tôi có nhiệm vụ phải giữ bí mật,” Misora trả lời. L cho biết mọi thông tin về vụ án mà người ta tìm ra được—càng có vẻ gì kiếm được thêm nữa từ tay thám tử tư non nớt. Và tất nhiên, cũng định cho ta biết điều gì. “Tôi chắc là cũng có những bí mật của mình.”


      , tôi có.”


      phải có chứ. thám tử.”


      “Ồ? Thế tôi có.”


      là ba phải.


      Dù sao với ta thế cũng tốt thôi.


      “Nhưng có lẽ việc phá án cần được ưu tiên... Tốt thôi, Misora. Thế này sao: tôi cho biết mọi điều tôi có mà cần điều kiện gì.”


      “Ờ...? Ừm, tôi vẫn thể...”


      “Làm ơn. Cuối cùng việc tôi hay phá được vụ án cũng chẳng có vấn đề gì. Thân chủ của tôi muốn vụ án được giải đáp. Nếu có đầu óc nhanh nhạy hơn tôi, cho biết mọi điều có thể hữu ích.”


      ta có vẻ rất tử tế, nhưng ai mà biết ta thực nghĩ gì, vậy nên cảnh giác của Misora đối với ta còn lớn hơn nữa. Cuối cùng thực ra ta là ai? vài phút trước ta dối, rằng ta tưởng có thể là tên sát nhân quay lại trường vụ án, nhưng giả thiết đó về gã thanh niên trốn dưới gầm giường hợp lý hơn là .


      “Sau này có thể quyết định có đồng ý trao đổi với tôi hay . Giờ , đầu tiên là cái này,” Ryuuzaki , lôi ra mẩu giấy từ trong túi quần của ta. ta đưa nó cho buồn mở nó ra trước. Misora nhận lấy nó và mở ra cách hồ nghi... Đó là câu đố ô chữ. lưới ô vuông, và lời gợi ý viết rất . có linh cảm nó là cái gì.


      “Cái này là...”


      “Ồ? biết nó sao?”


      ... trực tiếp,” lắp bắp, biết nên phản ứng thế nào. Có lẽ đây chính là câu đố được gửi đến LAPD vào 22 tháng Bảy, nhưng L bản gốc của bức thư bị bỏ , vậy đây là bản copy? Làm sao gã này... làm sao Ryuuzaki có thể lởn vởn ở đây với mẩu giấy này trong túi chứ? Trong khi những câu hỏi rối tung lên trong đầu , Ryuuzaki nhìn chằm chằm. Như thể ta đánh giá khả năng của dựa vào phản ứng...


      “Để tôi giải thích. Tháng trước, vào ngày 22 tháng Bảy, ô chữ này được gửi tới LAPD bởi kẻ nặc danh. Dường như chưa ai giải được nó, nhưng nếu giải ra, nó đưa tới địa chỉ của ngôi nhà này. Như vậy có thể đoán rằng nó giống như lời cảnh báo từ hung thủ đến cảnh sát và tới toàn xã hội chung. lời tuyên chiến, có thể như vậy.”


      “Tôi hiểu rồi. Nhưng mà...”


      Mặc dù L , phần trong vẫn xem thường thứ đơn giản như trò ô chữ, nhưng giờ đây khi được thực nhìn thấy lời gợi ý, tin rằng nó vô cùng khó. Những câu đó trông đáng sợ đến nỗi hầu hết mọi người bỏ cuộc trước khi thử giải nó. Nhưng gã thanh niên trước mặt tự giải được sao?


      chắc chắn đáp án là địa chỉ này chứ?”


      “Phải. Cứ tự nhiên giữ nó và thử giải khi rảnh, nếu như tin tôi. Dù sao , những sát nhân gửi trước lời cảnh báo chung thường muốn thu hút chú ý, nếu chúng có mục đích lớn hơn. Những hình nhân Wara Ningyou và căn phòng khoá kín khớp với đặc điểm đó. Vì thế có vẻ nhiều khả năng chúng ta tìm được thông điệp gì khác... hay là gì đó giống lời nhắn nhủ, được để lại ở trường. đồng ý , Misora?”


      Những kết luận giống L.


      chàng này thực ra là ai?


      Nếu ta chỉ ra những suy luận của L, có thể tin rằng ta suy ra từ việc nghe lén cuộc điện thoại của , nhưng ta thực có trong tay bản copy của câu đố, thứ mà chỉ có người như L có thể kiếm được... Việc Ryuuzaki là ai trở nên cực kỳ quan trọng đối với lần nữa.


      “Thứ lỗi,” Ryuuzaki , đặt hai chân xuống sàn và bước tới phòng bếp, vẫn cái dáng khom lưng ấy—dường như ta cố tình rời khỏi căn phòng để cho Misora thời gian bình tĩnh lại. ta mở tủ lạnh cách thuần thục, cứ như thể đây là nhà riêng của ta, đưa tay vào trong lấy ra cái lọ—và quay lại ngồi ghế sofa, để mặc tủ lạnh mở. Có vẻ trong lọ là mứt dâu.


      “Lọ mứt này là...?”


      “Ồ, đây là của tôi. Tôi mang theo và đặt nhờ ở đó để bảo quản lạnh. Đến giờ ăn trưa rồi.”


      “Ăn trưa?”


      Cũng dễ hiểu khi có thức ăn gì trong tủ lạnh của người chết hai tuần trước, nhưng để ăn trưa? Misora cũng thích mứt, nhưng thấy có lát bánh mì nào—và ngay khi những ý nghĩ đó lướt qua đầu , Ryuuzaki mở nắp lọ, cho tay vào trong, “múc” ra ít mứt, và bắt đầu mút mứt những ngón tay.


      Naomi Misora há hốc miệng.


      nên lời.


      “Mmm? Chuyện gì vậy, Misora?”


      ... có thói quen ăn uống kỳ.”


      “Vậy sao? Tôi nghĩ thế.”


      Ryuuzaki “xúc” ít mứt nữa bằng tay và đưa lên miệng.


      “Khi tôi suy nghĩ, tôi rất thèm đồ ngọt. Nếu tôi muốn làm việc tốt, mứt là vô cùng cần thiết. Đường rất tốt cho não.”


      “Hừm...”


      Misora cho rằng não ta cần biện pháp điều trị nội khoa hơn là đường, nhưng lúc này, đủ dũng khí để ra điều đó. Những cử chỉ của ta khiến liên tưởng tới chú gấu Pooh, nhưng thực tế là Ryuuzaki có màu vàng, cũng hề đáng , và hiển nhiên ta giống gã trai dong dỏng cao nhưng có dáng vẻ lom khom hơn là chú gấu cúi mình mà chẳng để làm gì. Sau khi ăn mứt bằng cách dùng tay như thế vài lần, ta đặt môi trực tiếp lên miệng lọ, như thế đấy là tách cà phê, và húp sùm sụp. Trong giây lát ta “tiêu thụ” cả lọ mứt.


      “Xin lỗi về gián đoạn.”


      “Ồ... sao mà.”


      “Tôi còn mứt nữa trong tủ lạnh, nếu muốn chút?”


      “Kh-, cám ơn...”


      Bữa ăn đó như là tra tấn vậy. thể làm như thế ngay cả khi gần chết đói. Từng thớ thịt trong cảm thấy khó chịu với Ryuuzaki. thể chấp nhận nổi. Misora chưa bao giờ tự tin về khả năng đóng kịch của mình, nhưng nụ cười giả tạo mà cố tạo ra với ta bây giờ cực kỳ thuyết phục.


      Người ta có thể cười ngay cả khi cảm thấy ghê tởm.


      “Được rồi,” Ryuuzaki , liếm nốt chỗ mứt còn sót ngón tay, biểu lộ cảm xúc về phản ứng của .


      “Vậy, Misora, tiếp tục thôi.”


      “Tiếp tục? Tiếp tục gì?” Misora hỏi, rùng mình với cái ý tưởng làm sao để từ chối nếu đen đủi ta muốn bắt tay .


      “Tất nhiên là,” Ryuuzaki . “Tiếp tục cuộc điều tra của chúng ta về trường vụ án, Misora.”


      Lúc này, đáng lẽ Misora vẫn có thể (tùy tiện) chọn con đường nào để tiếp. có thể đuổi Ryuuzaki ra khỏi căn nhà của Believe Bridesmaid, và thậm chí chúng ta có thể rằng làm vậy đúng là phản ứng khôn ngoan nhất đối với diện của ta. Nhưng mặc dù rất muốn làm điều đó, Misora quyết định để ta ở lại. hết, khả năng ta nghe lén cuộc điện đàm của với L biến Ryuuzaki thành mối nguy, và nếu đến chuyện đó, ta cũng rất đáng nghi, quái gở, và có bản copy của câu đố, vấn đề mấu chốt. cần phải giám sát ta cho đến khi biết hơn ta là ai. Thực ra, bất kỳ ai hiểu về vụ này, ví dụ như tôi, có thể rằng đó cũng chính là điều Ryuuzaki mong muốn, chính là điều ta cố đạt được, nhưng chúng ta thể kỳ vọng quá nhiều rằng Naomi Misora nhận ra điều đó sớm. Cuối cùng , vài năm sau khi Những án mạng Los Angeles BB xảy ra, khi bị Kira giết, Misora vẫn tin rằng chưa bao giờ được gặp L, rằng chỉ nghe theo những mệnh lệnh của ta qua màn hình máy tính. Tùy vào cách bạn nhìn nhận vấn đề này, nhưng đó có thể là điều tốt đẹp đối với thế giới này. Ngay cả tên sát nhân Kira, giả như biết mối quan hệ giữa Misora và L sâu sắc như thế nào, có lẽ giết sớm như thế. Cuộc đời của L cũng chỉ được kéo dài thêm vài năm, nhưng có lẽ đó là nhờ Misora... thôi, cũng đáng nghiên cứu lại nữa.


      Trở lại vấn đề.


      Ai đọc Sherlock Holmes[19] hẳn vẫn nhớ những miêu tả sống động về vị thám tử tài ba quanh căn phòng, soi mọi thứ có thể qua chiếc kính lúp. hình ảnh mang tính biểu tượng gắn liền với những tiểu thuyết trinh thám ấy đến nỗi ai còn thấy thám tử nào khác như thế nữa. Cũng vì thế mà thuật ngữ “detective novel” hầu như rất ít được sử dụng—chúng thường được gọi là “mystery novel”, hay “thriller”[20]. Người ta muốn xem thám tử có thể suy luận được mọi điều—họ thấy hấp dẫn hơn nếu được hé lộ bằng cách nào đó. Quá trình suy luận đòi hỏi rất nhiều công sức và thiên tài thực thụ nào phải bỏ nhiều công sức. Điều này cũng đúng đối với những truyện tranh dành cho con trai[21] ở Nhật Bản, được thích toàn thế giới. Những bộ truyện nổi tiếng nhất luôn có những người hùng sở hữu những khả năng khác thường.


      Vậy nên, khi họ bước vào phòng ngủ, Ryuuzaki bất ngờ chống tay xuống đất, giống như lúc ta chui ra từ gầm giường, và bắt đầu bò quanh căn phòng (mặc dù có kính lúp) Misora thực ngạc nhiên. Để kiểm tra gầm giường có lẽ chỉ là lý do cho tư thế này. ta dường như quen với tư thế đó đến nỗi trông ta như sẵn sàng trèo tường lên đến trần nhà.


      còn chờ gì nữa, Misora? Theo tôi!”


      Misora lắc đầu nhanh đến nỗi khó có thể nhìn .


      Điều đó ảnh hưởng đến danh dự phụ nữ của . , danh dự con người—làm theo ta khiến phải vĩnh viễn rời bỏ cái điều cực kỳ quan trọng này.


      “Ồ? Tiếc ,” Ryuuzaki , chắc hẳn ta chưa bao giờ sở hữu thứ đó. ta lắc đầu buồn bã và tiếp tục tìm kiếm trong căn phòng.


      “Nh-nhưng Ryuuzaki... tôi nghĩ còn gì ở đây để chúng ta tìm nữa. Ý tôi là, cảnh sát kiểm tra khá kỹ lưỡng...”


      “Nhưng cảnh sát bỏ qua câu đố ô chữ. Tôi ngạc nhiên chút nào nếu họ cũng bỏ qua gì nữa ở đây.”


      “Nếu nghĩ như vậy... nhưng chẳng có gì để kiểm tra. Tôi ước rằng tôi có manh mối để biết tôi cần phải tìm cái gì—căn phòng này quá ít đồ đạc để có thể xới tung lên. Và căn nhà lại quá to.”


      manh mối...?” Ryuuzaki và dừng lại. Rồi ta chậm rãi gặm ngón cái của mình cách suy tư, nhưng cử chỉ ấy lại trông trẻ con đến nỗi khiến ta trông ngốc nghếch kém. “ nghĩ sao, Misora? Khi bước vào, có nghĩ đến điều gì ? Bất kỳ ý tưởng nào có thể thu hẹp phạm vi điều tra lại?”


      “Thực ra ... có, nhưng...”


      điều, đó là những vết cắt ngực nạn nhân. dám chắc có nên với Ryuuzaki điều này . Nhưng nếu , đúng là cũng chẳng đến đâu... trong vụ án này, hay với việc Ryuuzaki. Có thể nên kiểm tra ta, giống như ta quan sát phản ứng của khi ta cho xem câu đố. Nếu đúng quân bài, có thể biết ta có nghe được cuộc điện thoại lúc nãy của hay .


      “Phải rồi... Ryuzaki, cái này là để cảm ơn cho việc lúc nãy, chứ hoàn toàn là cuộc trao đổi thông tin... hãy xem bức ảnh này.”


      “Bức ảnh?” Ryuuzaki hỏi, với phản ứng cường điệu đến nỗi người ta có thể tưởng ta chưa từng nghe thấy từ này bao giờ. ta bò về phía , nhưng dường như muốn bỏ lỡ giây quan sát căn phòng, ta chỉ giật lùi mà rời mắt khỏi trường. Chỉ khi đến gần Misora, ta mới miễn cưỡng quay đầu lại nhìn , đột ngột tới mức có thể dọa đứa trẻ khóc.


      bức ảnh chụp nạn nhân,” Misora đáp, đưa cho ta bức ảnh khám nghiệm tử thi.


      Ryuuzaki cầm lấy nó, gật đầu cách trang trọng—hoặc làm cử chỉ giống như thế. Phản ứng của ta nằm ngoài dự đoán của Misora, khiến cho rốt cuộc sau lần thử này vẫn thể đoán được điều gì.


      “Rất tốt, Misora!”


      “Sao cơ?”


      “Báo chí hề đề cập đến những vết cắt này, có nghĩa là bức ảnh này chỉ có trong hồ sơ của cảnh sát. Tôi bất ngờ khi có được nó. Chắc chắn là phải là thám tử thông thường...”


      “...Vậy làm sao có được câu đố kia, Ryuuzaki?”


      “Tôi có nhiệm vụ phải giữ bí mật điều đó.”


      Thử nghiệm lần này của cũng thất bại dễ dàng như lần trước. thầm ước rằng mình đồng tình với Ryuuzaki khi ta khăng khăng mình có bí mật nào, rằng chưa từng dạy cho ta cái khái niệm về “bí mật”. Và rồi nhận ra mình nghĩ đến những điều vô nghĩa.


      “Tôi cũng hỏi làm sao có được bức ảnh này đâu, Misora. Nhưng nó liên quan gì tới suy nghĩ của ?”


      “Phải, ừ ... Tôi tự hỏi phải chăng thông điệp để lại nay còn ở trong căn phòng này, nhưng ở đây khi án mạng xảy ra. Và thứ hiển nhiên nhất đáng lẽ phải ở đây, nhưng giờ còn...”


      “Là chủ căn phòng, Believe Bridesmaid. Rất thông minh.”


      “Và nếu nhìn bức ảnh ở góc độ nào đó... có thấy những vết cắt trông giống những chữ cái ? Tôi nghĩ đó có thể là thông điệp...”


      “Ồ?” Ryuuzaki , giữ bức ảnh bất động cách hoàn hảo trong khi nghiêng đầu vòng quanh trông ngớ ngẩn. Cổ ta có xương sao? Như nghệ sỹ uốn dẻo vậy. Misora cố gắng quay mặt .


      , phải chữ cái...”


      phải sao? Tôi nghĩ những chữ cái đó thậm chí rất dễ thấy...”


      , Misora, tôi phủ nhận toàn bộ ý tưởng của , chỉ phần thôi. Đây phải là những chữ cái, mà là những chữ số La Mã.”


      Ồ.


      Phải rồi, những chữ số La Mã, những chữ số mà hầu như ngày nào cũng nhìn thấy mặt đồng hồ—V và I, tất nhiên, và C, M, D, X, và L... đãng lẽ phải nghĩ tới điều này khi thấy ba chữ I liền nhau—đó phải là ba chữ I, mà là III. Nhưng có chữ L ngay bên phải nó, và liên hệ ngay tới tên của vị thám tử, và bị xao lãng bởi ý nghĩ đó.


      “I là , II là hai, III là ba, IV là bốn, V là năm, VI là sáu, VII là bảy, VIII là tám, IX là chín, X là mười, L là năm mười, C là trăm, D là năm trăm, M là nghìn. Vậy những vết cắt này là 16, 59, 1423, 159, 13, 7, 582, 724, 1001, 40, 51 và 31,” Ryuuzaki ngừng nghỉ. ta giỏi số La Mã, hay là đầu óc ta hoạt động nhanh như vậy?


      “Đây chỉ là bức ảnh, vì thế có thể tôi đọc chính xác, nhưng có tám mươi phần trăm cơ hội rằng tôi đúng.”


      “Phần trăm?”


      “Tuy nhiên, tôi e là điều đó vẫn chưa thể thay đổi được tình thế nay. Trừ phi chúng ta có thể tìm ra những con số đó có ý nghĩa gì, có thể việc suy luận chúng là thông điệp từ tên sát nhân trở nên nguy hiểm. Rất có thể chúng chỉ gây nhiễu cuộc điều tra.”


      “Xin lỗi, Ryuuzaki,” Misora , lùi lại bước. “Tại sao?”


      “Tôi phải trang điểm lại chút.”


      đợi trả lời, Misora lập tức rời căn phòng và lên cầu thang, tới toilet tầng ba. khoá trái cửa lại và lấy điện thoại ra gọi cho L sau khi lưỡng lự chút. Đường dây số năm. Có tiếng bíp ngắn như để lọc tiếng bộ trộn , và rồi cuối cùng đường dây được kết nối.


      “Có chuyện gì vậy, Naomi Misora?”


      Giọng điện tử.


      số việc tôi cần phải báo cáo,” Misora hạ thấp giọng và sau lòng bàn tay.


      “Việc điều tra có tiến triển? Rất nhanh.”


      ... chút thôi. Có thể tôi tìm ra thông điệp tên sát nhân để lại.”


      “Tuyệt vời.”


      “Nhưng phải tôi tìm ra nó. thế nào nhỉ... thám tử tư bí ...”


      thám tử tư bí .


      Lối mô tả khiến suýt bật cười.


      “... xuất .”


      “Ồ,” giọng phát ra, rồi im lặng.


      Đó là khoảng lặng tồi tệ đối với Misora, dù sao là người quyết định cho Ryuuzaki xem bức ảnh đó và cố gắng thử phản ứng của ta. L giữ yên lặng khi Misora tiếp tục giải thích những gì Ryuuzaki về bức ảnh. Và rằng ta có bản copy câu đố ô chữ. Điều này cuối cùng có được phản ứng từ L, nhưng vì đó là giọng điện tử, thể đoán được cảm xúc ấy là gì.


      “Tôi nên làm gì? Thực lòng, tôi nghĩ rất nguy hiểm nếu tôi rời mắt khỏi ta.”


      ta hay ho chứ?”


      “Gì cơ?”


      Câu hỏi của L hoàn toàn nằm ngoài dự đoán của Misora, khiến cho ta phải nhắc lại lần nữa trước khi trả lời, mặc dù vẫn thể hiểu ta muốn đến điều gì.


      , hoàn toàn ,” đáp thà. “Kinh khủng đến thảm hại, và đáng nghi đến mức nếu phải tôi nghỉ phép, có thể tôi bắt giữ ta ngay khi tôi nhìn thấy. Nếu chúng ta chia tất cả mọi người thế giới thành hai loại, đáng chết và , chẳng nghi ngờ gì tôi xếp ta vào loại thứ nhất. kẻ quái gở đến mức tôi ngạc nhiên khi ta chưa tự kết liễu chính mình!”


      “...”


      câu trả lời.


      Điều này có nghĩa là gì?


      “Naomi Misora, hãy lắng nghe.”


      “Vâng?”


      “Tôi cho rằng nghĩ giống tôi, nhưng bây giờ cứ để gã thám tử này làm gì tùy thích. phần bởi nguy hiểm nếu để ra ngoài tầm mắt của , nhưng quan trọng hơn là vì việc quan sát hành động của là rất cần thiết. Tôi tin là có công lớn hơn trong việc suy luận về bức ảnh tử thi, nhưng gã này ràng phải bình thường.”


      “Tôi đồng ý.”


      có ở gần đó ?”


      , tôi mình. Tôi gọi từ nhà tắm tầng và ở phía sau ngôi nhà, khá xa phòng ngủ.”


      “Vậy hãy quay lại bên cạnh ta. Tôi để mắt đến gã này, và điều tra xem có phải bố mẹ của Believe Bridesmaid thuê tay thám tử nào tên là Ryuuzaki hay .”


      “Được rồi.”


      có thể gọi vào số này lần tới.” Và ta bỏ máy.


      Misora gập điện thoại lại.


      cần quay lại ngay để ta nghi ngờ, nhưng cũng ở đây hơi lâu, nghĩ và mở cửa.


      Ryuuzaki đứng ngay bên ngoài.


      “Misora. lên tận đây ư?”


      ta còn bò nữa, nhưng... Misora cố nuốt khan. ta ở đây từ khi nào?


      “Sau khi rời căn phòng, tôi phát ra điều thú vị, và thể đợi được. Nên tôi tìm . xong chưa?”


      “R-rồi...”


      “Lối này.”


      ta bước chậm rãi, vẫn với cái dáng khom lưng, tới cầu thang. Misora theo sau thôi bồn chồn. Có phải ta nghe trộm qua cánh cửa? Câu hỏi ấy cứ dằn vặt tâm trí . ta phát ra điều gì thú vị à? Đó có thể chỉ là lý do... hạ giọng mình và rất khẽ, ta rất khó có thể nghe thấy tiếng . Tuy nhiên có thể ta cố tình lắng nghe. Mà như thế có nghĩa là...


      “Ồ, Misora,” Ryuuzaki buồn quay đầu lại.


      “V-vâng?”


      “Sao tôi nghe thấy tiếng giật nước nhỉ?”


      “Hỏi phụ nữ như thế là quá khiếm nhã đấy, Ryuuzaki,” Misora cố gắng giữ giọng bình thường, trong khi nhăn nhó vì sơ suất của mình.


      Ryuuzaki vẫn rất thản nhiên.


      “Vậy sao? Dù sao ... nếu quên xả nước, giờ cũng chưa muộn đâu. vẫn có thể quay lại. về lối hành xử cho hợp vệ sinh giới tính nào cũng như nhau cả.”


      cách diễn đạt là kinh khủng.


      Theo từng ý nghĩa của từ đó.


      “Tôi vừa điện thoại. Chỉ là cuộc giao dịch thông thường với khách hàng. Nhưng tôi muốn nghe thấy.”


      “Ồ? Nhưng dù sao , từ bây giờ, tôi khuyên nên giật nước. Nó khiến cho màn kịch hoàn hảo hơn.”


      “Chắc chắn rồi.”


      Khi họ vừa tới phòng ngủ, Ryuuzaki lại chống tay xuống sàn gần như nằm ngang qua ngưỡng cửa. Giờ đây cử chỉ này khiến ta trông giống chướng ngại xúi quẩy hơn là bắt chước phong cách điều tra của Sherlock Holmes.


      “Đằng này.” Ryuuzaki xô tấm thảm phía trước những kệ sách.


      Giá sách của Believe Bridesmaid, với năm mươi bảy cuốn sách được xếp chặt. Đó cũng là nơi đầu tiên Misora kiểm tra sau khi chuyện với L.


      tìm ra điều gì ư?”


      “Phải. điều mới mẻ—thôi, chúng ta thẳng thắn với nhau . Tôi phát ra quan trọng.”


      Lối làm ra vẻ kiểu cách của ta khiến khó chịu. cố gắng bỏ qua điều này.


      “Ý tìm ra manh mối gì đó nơi giá sách?”


      “Hãy xem đây,” Ryuuzaki , chỉ vào phía bên phải của kệ sách thứ hai từ dưới lên. Đó là bộ mười cuốn của bộ truyện tranh Nhật Bản nổi tiếng có tên Akazukin Chacha.


      “Thế sao?”


      “Tôi thích bộ truyện này.”


      “Thế à?”


      “Đúng thế.”


      nên đáp lại như thế nào đây? Trái ngược với mong ước, cảm thấy biểu của mình dịu bớt nhiều, nhưng vẫn có nỗ lực nào để thể đấu tranh nội tâm. Ryuuzaki vẫn tiếp tục .


      là người Nhật phải ?”


      “Người Nhật...? Bố mẹ tôi đều là người Nhật. Quốc tịch của tôi bây giờ là người Mỹ rồi, nhưng tôi sống ở Nhật Bản cho đến hết trung học...”


      “Vậy phải biết bộ truyện tranh này chứ. tuyệt tác của Min Ayahana-sensei[22]. Tôi đọc từng trang trong series này. Tôi cũng thích bộ anime nhiều như bộ manga[23]. Tình , lòng can đảm và hy vọng—Holy Up![24]”


      “Ryuuzaki, tiếp tục như thế này lúc phải ? Nếu vậy, tôi có thể chờ ở phòng bên cạnh...”


      “Tại sao lại làm thế khi tôi chuyện với ?”


      “Ờ, ừm... Ý tôi là, tôi cũng thích Akazukin Chacha. Tôi xem bộ anime. Tôi cũng học được tình , lòng can đảm, hy vọng và Holy Up.”


      hy vọng ta hiểu rằng hứng thú với sở thích của ta chút nào, nhưng thực giả thiết ta có thể hiểu được những suy nghĩ của người khác về ta qua những câu hàm ngôn thông dụng nhất là rất đáng hồ nghi. Giống như chính bản thân Ryuuzaki vậy.


      Hay cường điệu hoá mọi thứ?


      “Tốt. Chúng ta bàn luận về những khoảnh khắc thú vị mà bộ anime mang lại cách chi tiết vào dịp khác, còn bây giờ hãy xem này.”


      “Sao cơ...” Misora và đồng ý quan sát vào những cuốn truyện Akazukin Chacha kệ sách.


      nhận thấy gì cả.


      thực ...”


      Đó chỉ là bộ sách. Cùng lắm có thể suy ra rằng Believe Bridesmaid khá thông thạo tiếng Nhật, và thích truyện tranh... nhưng có rất nhiều người như thế ở Mỹ. Cũng có gì lạ khi sưu tầm những bản gốc bằng tiếng Nhật thay vì bản dịch. Ngày nay việc đặt mua chúng qua Internet trở nên rất dễ dàng.


      Đôi mắt to thâm quầng của Ryuuzaki nhìn chằm chằm vào . Cảm thấy thoải mái, Misora cố gắng tránh ánh mắt ấy bằng cách kiểm tra từng cuốn sách. Nhưng ngay cả khi hoàn thành việc đó, cũng tìm thấy điều gì đặc biệt để có thể coi là manh mối.


      “Tôi thấy gì cả... điều gì liên quan tới những cuốn truyện này?”


      phải chúng.”


      “Sao cơ?” Biểu tức giận hình thành ràng trong giọng của . thích bị lấy làm trò cười. “ phải chúng? Ý là sao?”


      phải là những cuốn đó,” Ryuuzaki . “Những thứ đáng lẽ phải ở đây, nhưng thực tế còn. Misora, chính là người phát ra điều này—thông điệp của tên sát nhân nằm những thứ thất lạc và còn ở đây nữa. Chính nghĩ ra rằng điều đó ám chỉ tử thi của Believe Bridesmaid. Tôi nghĩ tôi cần phải giải thích điều này cho —hãy nhìn kỹ , Misora. Những thứ ở đây. Ở đây thiếu tập bốn và tập chín.”


      “Ồ?”


      “Akazukin Chacha có mười ba tập. phải là mười .”


      Misora nhìn xuống những cuốn sách lần nữa, những con số được sắp xếp theo thứ tự từ , hai, ba đến năm, sáu, bảy, tám và mười. Nếu Ryuuzaki đúng, thực có mười ba tập trong bộ truyện, hai cuốn bị thiếu—tập bốn và chín.


      “Ừm... phải rồi. Nhưng... Ryuuzaki, vậy sao? Ý là tên sát nhân lấy hai cuốn? Đó cũng có thể là khả năng, nhưng cũng hoàn toàn có thể ngay từ đầu thiếu hai tập này. Có thể ông Bridesmaid định mua chúng sau. phải ai cũng đọc manga theo thứ tự, biết đấy. Ý tôi là, có thể ông ta dừng giữa chừng để đọc bộ Dickwood này chẳng hạn...”


      thể nào,” Ryuuzaki khẳng định. “ có ai đời này có thể bỏ lỡ hai tập giữa chừng của bộ Akazukin Chacha. Tôi hoàn toàn chắc chắn lập luận này có thể được toà chấp nhận.”


      Gã thanh niên này liệu bao giờ ra toà chưa?


      “Hoặc ít nhất là trong trường hợp các thành viên của ban hội thẩm hiểu biết nhiều về truyện tranh Nhật Bản.”


      “Ban hội thẩm đó thiên vị.”


      còn nghi ngờ gì nữa, tên sát nhân lấy chúng ,” Ryuuzaki , mảy may quan tâm đến lời của .


      Lần này thể để mặc ta tiếp tục với suy luận thiếu căn cứ đó.


      “Nhưng có bằng chứng nào để chứng minh việc đó, Ryuuzaki. Có thể ông ta cho bạn bè mượn.”


      “Akazukin Chacha?! Thậm chí thể cho cha mẹ mượn! phải bảo họ tự mua mà đọc! Khả năng hợp lý duy nhất ở đây là thủ phạm mang chúng !” Ryuuzaki khăng khăng cách khá quyết liệt.


      ta chịu dừng lại.


      “Thêm nữa, ai thế giới này có thể chấp nhận chỉ đọc tập bốn và chín—Tôi dám đánh cược lọ mứt của tôi về điều này.”


      “Nếu ý là lọ mứt mà ăn lúc nãy, lọ như thế chỉ đáng giá khoảng năm đô la.”


      Min Ayahana-sensei có lẽ thất vọng.


      “Tiếp tục thôi, Misora, khi hung thủ lấy hai tập truyện từ căn phòng này, phải có động cơ nào đó.”


      “Được rồi, đúng là ở đây thiếu hai quyển, tạm bỏ qua logic và những khả năng khác, và theo giả thiết của ... vẫn rất lạ, đúng ? Ý tôi là, Ryuuzaki, giá sách này...”


      đầy. Và sách được xếp chặt đến nỗi muốn lấy ra quyển cũng dễ dàng gì. Nếu lấy hai tập truyện, để lại khoảng trống khá lớn... mà khoan ...


      “Ryuuzaki. có biết tập bốn và tập chín bộ Akazukin Chacha dày bao nhiêu trang ?”


      “Tôi biết. 192 và 184 trang.”


      thực hy vọng ta trả lời được câu hỏi đó.


      192 cộng với 184 là 376 trang. Misora nhìn lướt qua giá sách, tìm trong số năm mươi bảy cuốn quyển sách dày khoảng 376 trang. Việc này khó khăn gì. Chỉ có cuốn duy nhất dày như thế ở kệ—Insufficient Relaxation của tác giả Permit Winter.


      Khi lấy nó xuống và mở ra, quyển sách đó có đúng 376 trang.


      Tràn trề hy vọng, Misora giở qua các trang sách, nhưng tìm thấy gì đặc biệt.


      “Gì vậy, Misora?”


      “Ờ... tôi tự hỏi phải chăng tên sát nhân thay thế hai cuốn ta lấy bằng quyển nào đó và phải chăng đó chính là thông điệp của hung thủ.”


      Có thể Believe Bridesmaid ngay từ đầu sắp xếp những cuốn sách để lấp đầy đến chính xác giá sách của ông ta. Cũng có thể thủ phạm mới là người làm việc đó bằng cách đem những quyển sách từ những phòng khác sang - và nếu theo cách nghĩ này, ai biết có phải thực những cuốn Akazukin Chacha thuộc về Believe Bridesmaid ngay từ đầu hay . cuốn nào có đánh dấu trang - tất cả những việc đó có thể đều nằm trong kế hoạch của hung thủ - nhưng nếu thế sao? Chỉ có thể thuyết phục hơn về khả năng tên sát nhân để lại thông điệp ở đây. Nhưng nếu có gì lạ trong những cuốn sách đó, toàn bộ giả thiết này sụp đổ. Nó hơn gì tưởng tượng hão huyền trong lúc nhàn rỗi.


      “Ý tưởng tồi. , khá tốt là đằng khác,” Ryuuzaki , với tay về phía Misora.


      Trong giây tưởng ta muốn bắt tay , và lấy làm khiếp đảm về điều đó, nhưng rồi nhận ra ta chỉ muốn cuốn Insufficient Relaxation. đưa nó cho ta. Ryuuzaki chộp lấy cuốn sách bằng ngón trỏ và ngón cái rồi bắt đầu đọc. Đọc rất nhanh - toàn bộ quyển sách 376 trang trong chưa tới năm phút.


      Misora định bụng nhất định phải giới thiệu cho ta sách của Natsuhiko Kyogoku.


      “Tôi thấy rồi.”


      “Sao? tìm thấy gì rồi à?”


      . Tuyệt đối có gì ở đây. Đừng nhìn tôi như thế. Tôi thề, tôi đùa. Đây chỉ là cuốn tiểu thuyết giải trí bình thường, chứa thông điệp gì hết, thậm chí là hình ảnh dụ kiểu như những hình nhân Wara Ningyou. Và tất nhiên, chữ nào được giấu sau các trang, hay được ghi chú vào lề sách.”


      “Lề sách?”


      “Phải, chẳng có gì viết ở lề sách trừ số trang.”


      “Số trang?” Cụm từ này như vang lên trong tâm trí Misora. Số trang... số? Số, giống như... số La Mã?


      “Ryuuzaki, coi như những vết cắt ngực nạn nhân là số La Mã , vậy đó là những số nào?”


      “16, 59, 1423, 159, 13, 7, 582, 724, 1001, 40, 51, và 31.”


      Trí nhớ tuyệt hảo. ta thậm chí cần liếc qua bức ảnh lần nữa. trí nhớ gần như máy tính điện tử - đầu tiên là số trang trong mấy tập sách, và giờ là những con số này.


      định làm gì với chúng?”


      “Tôi nghĩ phải chăng những con số đó ám chỉ những trang trong cuốn sách này, nhưng... hai trong số chúng có tới bốn chữ số. Quyển sách lại chỉ có 376 trang. Vì thế giả thiết này hợp lý.”


      “Đúng... mà , Misora, nếu chúng quay vòng sao? Ví dụ, 476 có thể coi là 376 cộng với 100, và chỉ trang 100.”


      “Thế có ý nghĩa gì nhỉ?”


      “Tôi cũng chưa biết. Nhưng cứ thử xem sao... 16 dễ rồi. Trang 16. 59, 1423, 159, 13, 7, 582, 724, 1001, 40, 51, 31...”


      ta khép hờ đôi mắt thâm quầng.


      Thậm chí giở sách ra lần nữa? đùa chứ? Với cái tốc độ ta đọc, ta có thể nhớ được toàn bộ nội dung sao? Chuyện như thế có thể có sao? ta có thể làm được như thế ư? Dù sao , Misora cũng chỉ có thể đứng chờ.


      “...Tôi thấy rồi.”


      “Rằng có gì ở đấy?”


      ... có đấy. Có điều rất cụ thể, Misora.” Ryuuzaki đưa lại quyển sách cho Misora. “Mở trang 16 ra,” ta .


      “Được.”


      “Từ đầu tiên trong trang đấy là gì?”


      “Quadratic.”


      “Tiếp theo hãy mở trang 59. Từ đầu tiên trong trang đấy?”


      “Ukulele.”


      “Tiếp đến trang 295. 1423 quay vòng ba lần, và gặp 295 ở vòng thứ tư. Từ đầu tiên là?”


      “Tenacious.”


      Họ tiếp tục như vậy. 159 chỉ trang 159, 13 là trang 13, 7 là trang 7, 582 là trang 206, 752 là trang 348, 1001 là trang 249, 40 là trang 40, 51 là trang 51, và 31 là trang 31, và ở mỗi trang, Misora đọc lên từ đầu tiên. Theo thứ tự: “rabble,” “table,” “egg,” “arbiter,” “equable,” “thud,” “effect,” “elsewhere,” and “name.”


      “Vậy đấy.”


      “Vậy... là sao?”


      “Lấy chữ cái đầu tiên của mỗi từ.”


      “Chữ đầu tiên? Ừm...”


      Misora phải xem lại mỗi trang lần nữa. Trí nhớ của phải là tệ, nhưng cũng đến mức có thể nhớ hết hai mươi từ trong lần đầu tiên. Ít nhất là khi trước đó biết là mình cần phải ghi nhớ.


      “Q-U-T-R-T-E-A-E-T-E-E-N. . .qutr teae teen? Gì vậy?”


      “Rất giống với tên của nạn nhân thứ hai, thấy thế sao?”


      “Tôi nghĩ là có...”


      Nạn nhân thứ hai. bé mười ba tuổi. Quarter Queen.


      “Có tương đồng... Quarter Queen... chỉ khác nhau bốn chữ cái.”


      “Đúng vậy. Tuy nhiên,” Ryuuzaki cách miễn cưỡng. “Bốn chữ cái tổng số mười hai là quá nhiều. phần ba số đó sai. Thậm chí nếu chỉ chữ khác, toàn bộ giả thiết cũng sụp đổ. Trừ phi khớp hoàn toàn, còn nếu chúng đáng gọi là thông điệp. Tôi nghĩ có thể có gì ở đây, nhưng thực ra, có thể đó chỉ là trùng hợp...”


      “Nhưng... so với trùng hợp...”


      Nó quá hiển nhiên.


      Sao có thể như thế được?


      Chắc chắn là có chủ tâm.


      Cố ý... hoặc là dị thường.


      “Nhưng, Misora... nếu nó khớp tức là nó khớp. Chúng ta tới rất gần, nhưng...”


      , Ryuuzaki. Nghĩ lại . Cả bốn chữ cái sai đều là ở những con số vượt quá 376. Chúng là những con số mà ta cho rằng phải quay vòng.”


      giở lại các trang giấy lần nữa. Trang 295, từ đầu tiên: tenacious, chữ đầu tiên: T, chữ thứ hai E, chữ thứ ba N, chữ thứ tư... A.


      “Quay vòng ba lần, và lần thứ tư mới tới trang đó... ta lấy chữ cái đầu tiên, mà lấy chữ thứ tư. phải T, mà là A. Và với 582, arbiter, vòng thứ hai cho ta chữ R thay vì chữ A. Vậy là phải Qutrtea mà là Quarter.”


      Tương tự như thế, “equable” ứng với con số 724, vậy là phải tính chữ cái thứ hai: Q. Và với 1001 - từ “thud”, phải T mà là U. Như vậy biến Eteen thành Queen. Quarter Queen.


      L đúng.


      Tên sát nhân để lại thông điệp.


      Những vết cắt ngực nạn nhân, hai tập truyện thất lạc - tên sát nhân để lại thông điệp. Cũng như câu đố ô chữ gửi cho cảnh sát, thông điệp liên quan tới nạn nhân tiếp theo của ...


      “Làm tốt lắm, Misora,” Ryuuzaki vẫn giữ vẻ điềm nhiên. “Suy luận rất sắc sảo. Tôi thể nghĩ ra điều đó.”

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Phần 3: Đối nghịch


      Nếu bắt buộc phải trả lời tại sao L cương quyết hé lộ bản thân mình, chúng ta có thể lý giải điều đó cách rất đơn giản: làm như vậy quá nguy hiểm. Cực kỳ nguy hiểm. Trong khi những nhà lãnh đạo thế giới luôn nỗ lực để đảm bảo an toàn cho những trí tuệ kiệt xuất, chỉ riêng những thám tử, là hệ thống an ninh xã hội nay chưa cho phép việc đó. Và L tin rằng ta còn cách nào khác ngoài tự bảo vệ bản thân nhờ khả năng của chính mình. Bằng tính toán đơn giản, năng lực của L trong năm 2002 bằng với năm văn phòng điều tra thông thường, và bảy cơ quan tình báo (cho tới trước thời điểm ta tham gia truy bắt Kira, những con số này còn lớn hơn nữa). Các bạn có thể dễ dàng cho rằng đó là lý do tuyệt vời để kính trọng và ngưỡng mộ ai đó, nhưng hãy cho phép tôi khẳng định điều này ràng nhất có thể: khả năng như vậy trong con người là cực kỳ nguy hiểm. Những kỹ thuật quản lý hiểm họa đại hoạt động chủ yếu dựa việc khuếch tán rủi ro, nhưng tồn tại của L hoàn toàn ngược lại. cách khác, nếu ai đó muốn gây tội ác, cơ hội thành công của được tăng lên đáng kể nếu có thể “khử” L trước khi bắt đầu. Đó là lý do tại sao L bao giờ để lộ bản thân mình. phải vì ta nhút nhát, hay vì ta bao giờ ra khỏi nhà. Điều đó chỉ để bảo đảm an toàn cho ta. Đối với thám tử giỏi như L, tự bảo vệ bản thân và giữ gìn hoà bình thế giới là , và như vậy nếu hành động của ta là hèn hạ hay tự coi mình là trung tâm hoàn toàn chính xác. Tôi thực thích thú với cái ý tưởng so sánh bọn họ, nhưng nếu Kira có khả năng giết bất kỳ ai bằng cách viết tên họ vào cuốn Tử ký ta cũng bao giờ công bố này cũng vì lý do như vậy. Những người thông minh nhất luôn che giấu việc họ thông minh. Những kẻ khôn ngoan đeo bảng tên mình. Người khoe khoang về khả năng của mình bao nhiêu thực ra lại là kẻ liều lĩnh bấy nhiêu - hãy để những gì họ làm được tự lên điều đó.


      Vì thế, bất cứ khi nào L hành động, ta ai đó đại diện cho ta trước công chúng - và trong vụ án này, điệp viên FBI Naomi Misora giữ vai trò đó. Ngay từ đầu Misora hiểu cái “quyền” này. Rằng là tấm lá chắn của L. Và cũng nhận thức được việc liên quan trực tiếp tới L đẩy tới mối đe dọa lớn đến mức nào... Misora cố gắng nhiều lần để tìm ra bản chất của Ryuuzaki, nhưng dù có nhìn nhận hoàn cảnh đó lạc quan bao nhiêu, cũng thể nào nghĩ khác hơn rằng, “ ta có thể nghe được nhiều trong cuộc điện đàm,” và thể cảm thấy an tâm với phỏng đoán đó. Nếu Ryuuzaki nhận ra mối liên hệ giữa Misora và L, và ta hé lộ thông tin đó với đúng người, gặp nguy hiểm tệ hại trước khi bạn có thể gì... thậm chí trước khi bạn có thể nghĩ tới việc gì đó, và suy nghĩ đó khiến Misora bồn chồn. Thêm vào đó là khả năng suy luận của Ryuuzaki... ngày sau khi họ giải mã được thông điệp tên sát nhân để lại trong phòng ngủ của Believe Bridesmaid, Misora bắt đầu tự hỏi phải chăng suy luận của có được phần nhiều dựa dẫn dắt tài tình của Ryuuzaki. Vào thời điểm đó, có cảm giác tất cả là suy luận của . Nhưng nghĩ lại, những số trang, quay vòng cuốn sách, chỉ nhận ra nó vì Ryuuzaki hỗ trợ phần nền tảng. Liệu có lý do gì để tự xem những trang sách mà lần mò được những từ đó? thể gạt bỏ cái ý nghĩ rằng tất cả những điều này được diễn ra chỉ để Misora cảm thấy thực có tham gia vào việc giải đố, và rằng ta gần như để tự mình tìm ra bước ngoặt cuối cùng sau khi giải quyết tỷ mỷ mọi thứ khác giúp . Điều này hoàn toàn có thể chỉ là hoang tưởng mà chính cái áp lực có L đứng sau đem lại... nhưng việc tìm ra danh tính của nạn nhân thứ hai kệ sách của Believe Bridesmaid dấu ấn quan trọng cho việc điều tra của . kiểm tra lại, nạn nhân này là người duy nhất toàn Los Angeles mang cái tên Quarter Queen, nhưng điều này cũng làm khuây khỏa hơn.


      16 tháng Tám.


      Naomi Misora ở trung tâm thành phố, tại Đại lộ Thứ Ba, tới thăm trường vụ thứ hai, sau khi phải mò mẫm tấm bản đồ. Khi biết vụ thứ tư diễn ra khi nào, phần trong muốn tới đây ngay từ nhà của Believe Bridesmaid, nhưng cần phải kiểm tra những điều khác nữa. Quá nhiều bằng chứng để sàng lọc trước, thêm vào đó là vấn đề lại khiến buộc phải đợi đến ngày hôm sau. Giờ là ba ngày kể từ án mạng thứ ba–chín ngày, bốn ngày, chín ngày, và nếu hung thủ có kế hoạch lại gây án sau bốn ngày, vụ tiếp theo xảy ra vào ngày hôm sau, nhưng cũng còn lựa chọn nào khác. Chẳng có cách nào để ngăn chặn được điều đó diễn ra. Nên làm cái điều duy nhất mà có thể. Tìm kiếm những chứng cứ có thể giúp trong vụ án tiếp theo.


      Theo điều tra của L, thám tử có tên Rue Ryuuzaki thực được bố mẹ của Believe Bridesmaid thuê—và chỉ có họ, mà cả thân nhân của nạn nhân thứ hai, Quarter Queen, và của nạn nhân thứ ba, Backyard Bottomslash, cũng cầu Ryuuzaki điều tra. quá khó để tin rằng thực tế lại có thể tuyệt vời như vậy, Misora nghĩ, nhưng khi L như vậy, buộc phải chấp nhận nó. Chẳng có cách nào nghi ngờ. Nhưng ngay cả khi L chưa thể tìm ra điều gì về Ryuuzaki, vẫn cần phải tiếp tục theo dõi, phải cộng tác với Ryuuzaki và giả đò như họ cùng nhau điều tra vụ án này.


      Liệu có phải thực L chưa thể đưa ra kết luận nào về Ryuuzaki? Misora dành vài phút cân nhắc đến điều này. Có thể đơn giản là với về trở nên quá nguy hiểm... Misora chưa từng nghĩ rằng L cho mọi thông tin mà ta có. Vấn đề Ryuuzaki có thể rơi vào trường hợp này—nhưng có lẽ đây cũng chỉ là hoang tưởng vô căn cứ. Ryuuzaki hiển nhiên là quá đáng ngờ, tuy vậy ta cũng chưa gây nên tội ác nào công khai.


      Cái ý nghĩ lại thấy ta bò trường vụ án hôm nay kinh khủng thể chối cãi ( gặp ác mộng về nó. Thường Misora chẳng khi nào thức dậy dễ dàng, nhưng giấc mơ đặc biệt này gần như khiến bay ra khỏi giường). Và khi đó, ngày 16 tháng Tám, vào lúc mười giờ sáng...


      Misora bị tấn công.


      tắt qua con hẻm vắng vẻ và tối tăm khi ai đó đánh từ đằng sau bằng chiếc dùi cui[25]. Hay chính xác hơn là, suýt đánh trúng —bởi cúi xuống kịp thời và tránh được. Dùi cui là vũ khí khá vật đơn giản, chẳng có gì bên trong ngoài túi cát. Nhờ cấu tạo đơn giản mà nó dễ che giấu, và thể chối cãi rằng đó là vũ khí hiệu quả. nghe thấy thanh khí bị cắt làm đôi khi nó lướt qua mái tóc . Misora phải đối mặt với hiểm nguy kể từ giây phút chấp nhận làm cánh tay, đôi mắt và cả lá chắn của L, thế nên quá hoảng hốt và phản ứng mau lẹ. Chuyện xảy ra nhanh chóng đẩy lùi những ý nghĩ về Ryuuzaki ra khỏi tâm trí , điều mà có lẽ cũng tốt cho Misora. tiếp đất bằng cả hai bàn tay, nhấn xuống để dồn lực vào đôi chân khi lộn ngược hè, rồi tung cú đá ngang cằm kẻ tấn công. trúng đích. Cũng sao—mục đích chính của hành động này chỉ là để có thể quay lại nhìn . Chỉ có tên, và mang mặt nạ. thấy ngạc nhiên khi có vẻ thiếu phòng bị như vậy, nhưng ngoài chiếc dùi cui, tay trái còn cầm cây gậy to và nặng khác, khiến lâm vào tình thế lép vế hoàn toàn. Đây ràng phải là tên côn đồ tầm thường. Cũng như hôm trước, Misora có súng. Và, hiển nhiên, phù hiệu hay còng tay. Tháo chạy có lẽ là lựa chọn khôn ngoan nhất, nhưng Misora phải là loại người như vậy. Biệt danh của ở FBI là Misora Massacre[26]—có vẻ độc ác trong cái tên này, nhưng hoàn toàn phải là vô cớ. bật lên, tiếp đất bằng chân, giơ tay phải ra trước mặt và giữ trọng tâm thấp, đối mặt với kẻ tấn công trong tư thế sẵn sàng chiến đấu.


      ngập ngừng trong giây lát trước thế đứng này, rồi nhanh chóng ra đòn— phải bằng chiếc dùi cui, mà là cây gậy. xoay người né tránh—sau đó gần như lộn nhào qua chiều ngang của con hẻm hẹp, nhắm gót giày tới thái dương . tránh được, nhưng cuộc đối đầu kết thúc. Misora hề định chạy , nhưng đối thủ của có vẻ đủ hung hăng như vậy. Khi Misora đặt chân xuống đất, quay đầu bỏ chạy. nghĩ ngay đến việc đuổi theo nhưng rồi gạt ý tưởng đó sau khi thực vài bước. khá chắc gã đàn ông. khá chắc có thể đánh nhau với , nhưng phải là chạy đua. phải là vận động viên điền kinh giỏi. muốn phí sức.


      vuốt lại mái tóc rối rồi lấy điện thoại gọi cho L. Tín hiệu đổ chuông, nhưng ai nghe máy. Vị thám tử vĩ đại nhất thế kỷ luôn bận rộn, và khó có thể liên lạc được ngoài những khung giờ định trước. Cũng may bị thương, nên việc báo cáo có thể trì hoãn. Có lẽ tới trường vụ án ngay bây giờ là ý tưởng tốt hơn, khi vụ tấn công vừa qua càng gia tăng mối nghi ngờ về Ryuuzaki. Chẳng có cách nào để xác định tên đó có liên quan tới vụ án hoặc biết về mối quan hệ của và L hay , nhưng dựa vào thời điểm của vụ tấn công, khả năng gã Ryuuzaki có nhúng tay vào phải thấp. Có lẽ nên tự điều tra về thay vì dựa vào L để bảo vệ chính bản thân mình. xét đến việc gọi cho Raye để nhờ làm giúp việc này, nhưng trước hết Misora phải rời khỏi con hẻm.


      Đúng như dự đoán, Naomi Misora đuổi theo.


      rời khỏi con hẻm rồi nhảy vào chiếc ô tô mở máy đỗ đường. quẹo vài lần và kiểm tra gương hậu, rồi đậu vào vị trí chọn trước. Chiếc xe chỉ là đồ ăn cắp và thể truy ra , nên có kế hoạch bỏ nó ở đây. Để ý những camera chống trộm, khỏi bãi đậu xe khi để chiếc mặt nạ, dùi cui và cây gậy xe. nhét chúng dưới ghế ngồi. để lại dấu tay nào.


      Đúng ra, định làm gì Naomi Misora ngày hôm nay, càng phải ở đó. chỉ bắt gặp ta và muốn kiểm tra khả năng của ta. tấn công từ phía sau, nhưng định gây thương tích cho ta, và tất nhiên, muốn giết ta.


      Đó là lý do ta thể chết.


      biết né được.


      Nhưng ngay cả vậy, ngay cả tính trước như thế, này ấn tượng. Tránh được cú tấn công mà hề ngoái đầu lại, và nhanh chóng chiếm được thế chủ động— có thể thấy tại sao L lại chọn con tốt này. ta có đầu óc và can đảm khi cần.


      ta có chính kiến.


      ta xứng đáng làm đối thủ của .


      gập cổ.


      Và với cái đầu treo cổ ở góc kỳ cục, bước phố.


      Kẻ tấn công Misora...


      Tên sát nhân đằng sau Những án mạng Los Angeles BB, Beyond Birthday, bước phố với nụ cười man rợ.


      “A, Misora. đến muộn,” Ryuuzaki buồn quay đầu lại, khi bước vào căn hộ 605 nơi Quarter Queen sống. “Hãy cố gắng đúng giờ. Thời gian là tiền bạc, và vì thế, là cuộc sống.”


      Ôi...


      Ryuuzaki bò. đến ngay khi ta nghiên cứu kệ cùng của chiếc tủ ngăn kéo. Nhưng khó có thể coi hành động này là căn giờ chuẩn. Ngăn tủ có vẻ toàn là đồ lót của bé mười ba tuổi. Ryuuzaki vì thế mà trông giống tên râu xanh mân mê quần chíp hơn là thám tử điều tra trường. phải là cách hay nhất để bắt đầu ngày mới. tính che giấu khiếp hãi sau vụ tấn công bằng thái độ hung hăng đối với Ryuuzaki, nhưng ta làm cụt hứng biết bao. Nếu đó thực là chủ tâm của ta, rất ngạc nhiên, nhưng khó có vẻ như vậy. Có lẽ Ryuuzaki thực thích thú với đồ lót của trẻ em.


      Misora lại thở dài, nhìn quanh căn phòng—cả căn hộ này còn hơn phòng ngủ của Believe Bridesmaid. Mức sống chênh lệch đến nỗi càng khó có thể nhận ra mối liên hệ giữa hai nạn nhân.


      “Có vẻ là bà mẹ độc thân ở đây, phải ?”


      “Phải. Những căn hộ này được xây cho sinh viên hoặc những người độc thân, vì thế bé và mẹ ta sống ở đây khá gây chú ý. Sáng nay tôi hỏi xung quanh chút, và nghe được nhiều chuyện thú vị. Nhưng chúng hầu hết nằm trong báo cáo của cảnh sát cho tôi xem hôm qua. Người mẹ rời khỏi thành phố khi án mạng xảy ra, và thi thể được nữ sinh hàng xóm phát . Bà ta chỉ được thấy con trong nhà xác.”


      Trong khi nghe Ryuuzaki , Misora kiểm tra những bức tường để xem xét những cái lỗ đóng đinh những hình nhân. Trong bốn bức tường, chỉ bên có cửa ra vào có lỗ. Giống như trong phòng ngủ của Believe Bridesmaid, những cái lỗ này chỉ ra vị trí của đám Wara Ningyou.


      băn khoăn gì à, Misora?”


      “Ờ... hôm qua, chúng ta...” Misora , nhấn mạnh vào đại từ số nhiều ấy, “... chúng ta giải mã được thông điệp tên sát nhân để lại trường vụ thứ nhất, nhưng... những hình nhân và căn phòng khóa kín vẫn là điều bí .”


      “Đúng,” Ryuuzaki . ta đóng cửa lại và bắt đầu bò tứ chi.


      Nhưng giống trường thứ nhất, hai người sống trong phòng này, và có khá nhiều đồ đạc—khá bừa bộn. Bò quanh đây có vẻ dễ dàng gì. Tuy thế, Ryuuzaki vẫn nhất định giữ tư thế đó khi di chuyển trong căn phòng. Misora thầm ước ta thôi .


      “Nhưng Misora, tôi nghĩ cần phải phí thời gian vào vấn đề trường bị khóa kín. Đây phải tiểu thuyết trinh thám—thực tế mà , có thể đơn giản sử dụng chìa khóa sơ cua. Chẳng có chìa khóa nào thể làm giống hệt.”


      “Cũng đúng. Nhưng có thực tin rằng lại làm điều tầm thường như thế ? Ngay từ đầu có lý do gì để dựng nên trường bị khóa kín như vậy. Thế mà lại làm điều đó. Tức là nó có thể là dạng câu đố...”


      “Câu đố?”


      “Hoặc là trò chơi gì đó.”


      “Đúng... phải, có khả năng...”


      Misora quay lại nhìn cánh cửa vừa qua. Thiết kế có khác so với trường vụ thứ nhất ( khác nhau giữa cửa chính của căn hộ với cánh cửa nội thất trong ngôi nhà), nhưng cơ cấu và kích thước cơ bản giống nhau. Vẻ ngoài chung chung, đơn giản—rất dễ đột nhập khi vắng người bằng cách khoan và vặn chốt cửa từ phía trong (được gọi là khóa vặn) nhưng ràng, ở cả ba vụ chẳng có cái lỗ nào cửa cả.


      làm gì, Ryuuzaki? Nếu muốn khóa cửa từ bên ngoài?”


      “Dùng chìa khóa.”


      , phải thế... nếu bị mất chìa khóa.”


      “Dùng chìa khóa sơ cua.”


      , phải thế... cũng có chìa khóa sơ cua.”


      “Thế tôi khóa nữa.”


      “...”


      Điều ta phải là sai.


      Misora ra ngoài và sập cửa lại.


      “Nếu đây là tiểu thuyết trinh thám... những căn phòng bị khóa trái thường được tạo ra bằng thủ thuật, ví dụ bằng cây kim và sợi chỉ, hoặc là... Ý tôi là, chúng ta gọi nó là căn phòng bị khóa trái, nhưng thực ra chúng chỉ là những căn phòng thông thường, nên an toàn đến thế. giống như giá sách của Bridesmaid—chúng có khá nhiều kẽ hở quanh khung cửa. Sợi dây có thể lọt qua dễ dàng... để đoạn dây dưới cửa, buộc vào đầu của thanh chốt, và kéo...”


      thể nào. Khe hở lớn đến thế, và góc quá triệt tiêu lực tác động. có thể thử, nhưng phần lớn sợi dây gây áp lực lên cánh cửa. Trước khi có thể vặn chốt được chút nào, toàn bộ lực kéo của trở thành lực kéo cạnh cửa. Kéo cánh cửa về phía .”


      “Phải... nhưng cái khóa đơn giản thế này có chỗ cho thủ thuật. Những cánh cửa trong truyện trinh thám thường sử dụng những loại khóa phức tạp hơn nhiều.”


      “Có rất nhiều cách để khóa trái căn phòng. Và chúng ta cũng thể loại bỏ khả năng có chìa khóa. Quan trọng hơn, Misora, là tại sao tên sát nhân lại làm thế. cần thiết làm vậy, nhưng lại làm. Nếu là để tạo ra câu đố, tại sao?”


      “Như trò chơi. Cho vui.”


      “Tại sao?”


      Bạn có thể hỏi như thế đối với bất kỳ tình tiết nào.


      Tại sao gửi đến LAPD ô chữ đó, tại sao để lại thông điệp kệ sách... và tất cả, tại sao giết ba người bọn họ? Nếu tên sát nhân có động cơ ràng, đó là gì? Ngay cả nếu việc giết người chỉ là ngẫu nhiên, vẫn có lý do đằng sau nó... L như thế. Nhưng họ vẫn biết điều gì kết nối các nạn nhân.


      Misora dựa vào tường và lấy ra vài bức ảnh từ túi của .


      Những bức ảnh chụp nạn nhân thứ hai bị giết trong căn phòng này— bé tóc vàng, đeo kính, nằm úp mặt xuống. Đầu bé hằn vết lõm theo hình dạng của hung khí, và cả hai mắt đều bị móc ra. Điều này được thực sau khi nạn nhân chết—giống như những vết cắt ngực Believe Bridesmaid, đây cũng là hành động gây thương tích cho tử thi mà liên quan đến nguyên nhân dẫn đến cái chết. biết tên sát nhân làm thế nào để hủy hoại đôi mắt, nhưng Misora cảm thấy muốn bệnh khi cố tưởng tượng hình ảnh người có thể móc đôi mắt của bé dễ thương tuổi. Misora là điệp viên FBI, hoàn toàn là đại diện của chính nghĩa—nhưng ràng có những việc thể tha thứ được. Hành động của hung thủ đối với nạn nhân thứ hai này nên được xếp vào loại đó.


      “Giết hại đứa bé... xấu xa làm sao.”


      “Giết hại người lớn cũng xấu xa, Misora. Giết hại trẻ con và người lớn—xấu xa như nhau,” Ryuuzaki kết luận, với thái độ hoàn toàn dửng dưng.


      “Ryuuzaki...”


      “Tôi kiểm tra mọi nơi,” Ryuuzaki và đứng lên. ta xoa xoa tay vào chiếc quần jeans. Có lẽ ít nhất ta cũng nhận thức được rằng bò sàn nhà như vậy làm bẩn tay.


      “Nhưng tôi tìm thấy đồng nào.”


      tìm tiền?” Như là kẻ trộm.


      tên trộm buồn giấu giếm mưu đồ của mình.


      , tùy hoàn cảnh thôi. Có khả năng hung thủ hành động vì tiền, nhưng nếu thế, bé này hiển nhiên là nghèo khó hơn hai nạn nhân kia. Cũng có thể họ phô trương những thứ có giá trị, nhưng có vẻ phải. Chúng ta nghỉ giải lao thôi. có muốn tách cà phê , Misora?”


      “Ồ... có chứ.”


      “Đợi lát,” Ryuuzaki rồi tiến đến khu bếp. Misora tự hỏi có phải ta lại để mứt ở tủ lạnh , nhưng rồi quyết định quan tâm nữa. bỏ lửng luồng suy nghĩ đó và ngồi xuống bàn. gần như tìm được thời điểm nào để với Ryuuzaki về vụ tấn công. Ôi thôi được. cũng có thể tránh đề cập đến chuyện đó, và xem ta phản ứng thế nào. có bằng chứng gì về việc kẻ tấn công có liên quan gì với Ryuuzaki, nhưng bằng cách làm lơ việc này có lẽ khiến ta chủ quan hơn.


      “Của đây.”


      Ryuuzaki trở lại từ phía bếp, bê cái khay với hai tách cà phê ở . ta đặt tách trước mặt Misora và tách còn lại ở phía đối diện, rồi kéo ghế và ngồi lại tư thế kỳ cục của ta hôm trước, với ngực tựa vào đầu gối. kể đến thói bất lịch , có vẻ ngồi như thế cũng dễ dàng gì—đúng nhỉ? Misora tự hỏi, rồi nhấp ngụm cà phê.


      “A!” la lên rồi phun ra. “Khụ khụ...”


      “Chuyện gì vậy, Misora?” Ryuuzaki hỏi, ngây thơ uống tách cà phê của ta. “Khi có gì vào miệng, bao giờ nên nhổ ra như thế. Và tiếng rên đó cũng tốt cho hình ảnh của . trông khá xinh đẹp, nên cũng nên thể bản thân mình như thế.”


      “Ng-ngọt cách kinh khủng... như chất độc!”


      có chất độc nào cả. Đường thôi.”


      “...”


      Vậy là kẻ giết người?


      Misora nhìn xuống cái thứ trong tách của mình... giống keo hơn là chất lỏng. Giống cà phê thấm ướt đường hơn là đường hòa tan trong cà phê— thứ hỗn hợp sền sệt, lấp lánh trong tách. Khi chú ý của bị điệu bộ của Ryuuzaki làm sao lãng, để thứ vật chất ấy chạm vào môi mình...


      “Tôi cảm giác như mình vừa uống bùn đất.”


      “Nhưng bùn đất ngọt như vậy.”


      “Bùn đất ngọt...”


      Nghe như thể câu chuyện về những kẻ tiên phong bất chấp khốn khó, lạc quan vì mục đích cao đẹp hơn. Cái cảm giác lạo xạo khó chịu như nhai sạn đọng lại rất lâu trong miệng . Phía đối diện, Ryuuzaki vẫn rất vui vẻ nhấp từng ngụm, thậm chí nốc ừng ực. Dường như ta hề cố tình chơi xấu khi pha tách cà phê ấy, mà đối với ta, đó là lượng đường tuyệt đối vừa phải.


      “À... cà phê luôn giúp tôi tỉnh táo,” Ryuuzaki , dốc nốt tách cà phê với ít nhất là hai trăm gram đường tinh luyện. “Giờ , quay lại với công việc nào.”


      Thực lòng, Misora rất muốn đứng lên súc miệng sạch lượng đường “uống” phải, nhưng cố gắng kiềm chế mình lại. “Bắt đầu ,” .


      “Về chuyện mắt xích khuyết.”


      tìm ra gì rồi à?”


      “Có lẽ thủ phạm hành động vì tiền... nhưng tối qua, sau khi tôi rời công ty, tôi để ý thấy điều thú vị. điểm chung giữa các nạn nhân mà hình như chưa ai từng nhắc tới.”


      “Gì vậy?”


      “Tên viết tắt của họ, Misora. Cả ba nạn nhân đều có cái tên viết tắt khá độc đáo. Believe Bridesmaid, Quarter Queen, Backyard Bottomslash. B.B., Q.Q., B.B. Cả tên và họ đều bắt đầu bởi chữ cái... gì vậy, Misora?”


      có gì...”


      Chỉ thế thôi à? Vẻ thất vọng lộ gương mặt làm gián đoạn dòng suy nghĩ của Ryuuzaki, nhưng buồn che giấu điều đó. là phí thời giờ. Misora thấy điều này ngay khi mới đọc được danh tính các nạn nhân lần đầu tiên. Chẳng có gì đáng để đưa ra bàn luận như thế này.


      “Ryuuzaki... có biết có bao nhiêu người có tên lặp đầu như vậy thế giới ? Hoặc ở Los Angeles? Chỉ có hai mươi sáu chữ cái trong bảng chữ latin, tức là nếu tạm coi các chữ cái có vai trò như nhau, tính ngay được cứ hai mươi sáu người người có tên như thế. Chẳng có gì đáng để gọi là mối liên quan.”


      “Ồ? Thế mà tôi tưởng tôi nghĩ ra gì đó,” Ryuuzaki , vẻ thất vọng. khó để biết bao nhiêu phần trong phản ứng của ta là .


      ta tỏ ra hờn dỗi, điệu bộ mà ràng là, với ta, chẳng có gì dễ thương hết.


      cách tệ hại để thể mình.


      “Ý tôi là, chính cũng có tên Rue Ryuuzaki—R.R.”


      “Ừ nhỉ! Tôi cũng nghĩ tới cái đó.”


      vô ích.”


      Lẽ ra bao giờ nên kỳ vọng vào ta. Tất cả những thứ ngớ ngẩn về cái việc ta giúp suy luận ngày hôm qua chỉ là mớ hoang tưởng hơn kém.


      R.R.?


      “Misora.”


      “Ừ? Gì thế?”


      “Suy luận của tôi trở thành vớ vẩn, thế có ý tưởng gì chưa?”


      “Chưa có gì. Tôi cũng như ... chưa nghĩ ra được hướng nào ngoại trừ tìm kiếm thông điệp khác như chúng ta làm ngày hôm qua. Tôi cảm giác như mình chờ khiêu vũ với tên sát nhân, ý nghĩ ấy làm tôi phát ớn, nhưng...”


      “Thế chúng ta cùng khiêu vũ. Chơi đùa với kẻ thù của cho đến khi buông lỏng bản thân và để lộ ra điều gì đó là chiến lược hay ho. Vậy, Misora, nếu có thông điệp ở đây ... nó nằm ở đâu?”


      “Ừm, chúng ta có thể thử đoán trước nội dung của thông điệp. Có thể là tên của nạn nhân thứ ba, Backyard Bottomslash, hoặc địa chỉ của ta. Câu đố ô chữ dẫn tới vụ thứ nhất, các trang sách dẫn tới vụ thứ hai, vậy ...”


      “Tôi đồng ý.”


      “Nhưng thông điệp đó chứa ở đâu tôi biết. Nếu chúng ta có thể tìm ra được quy luật nào đó, chúng ta có thể bắt được ta...”


      thứ đáng lẽ phải ở đây, nhưng thực tế còn.


      Ryuuzaki miêu tả như thế.


      Để về nạn nhân và những cuốn sách.


      Có cái gì như thế ở đây ? thứ đáng lẽ phải ở đây nhưng giờ còn? ‘ thứ đáng lẽ phải ở đây nhưng giờ ở đây’ bắt đầu nghe như cách diễn đạt bằng ngôn ngữ của dải băng Mobius[27].


      “Vậy,” Ryuuzaki cất lời, “nếu bất cứ cái gì chúng ta tìm ra đều chỉ dẫn ta đến án mạng thứ ba, có lẽ hiệu quả hơn nếu chúng ta bỏ qua trường này và đến thẳng địa điểm thứ ba. Dù sao tất cả, mục tiêu của chúng ta là ngăn chặn vụ thứ tư cũng như phá được vụ án.”


      “Phải.”


      Chính là người chỉ ra khả năng xảy ra án mạng nữa... nhưng phản ứng của Ryuuzaki cho thấy ta cũng nhận thức rất điều này. Ý nghĩ đó khiến cảm thấy ấp úng.


      “Vụ thứ ba xảy ra rồi, và chúng ta thể làm gì nữa, nhưng vẫn còn hy vọng chúng ta ngăn chặn được vụ thứ tư. Còn hơn là phung phí thời gian tìm kiếm thông điệp mà chúng ta biết ý nghĩa rồi. Tìm kiếm thông điệp dẫn tới vụ thứ tư có ích hơn nhiều.”


      “Nhưng làm vậy cứ có cảm giác phục tùng thế nào ấy... như là chúng ta làm theo chỉ dẫn của . Ý tôi là, biết đâu chúng ta bỏ lỡ manh mối quan trọng về danh tính tên sát nhân nếu chúng ta bỏ qua căn phòng này. Kể cả nếu có bằng cớ gì ràng, chúng ta vẫn có thể tìm thấy linh cảm gì đó mà sau này giúp ích được chúng ta. Tôi hiểu rằng việc ngăn chặn vụ thứ tư cũng rất quan trọng, nhưng nếu chúng ta quá chú tâm vào nó, chúng ta mất thế chủ động.”


      “Đừng lo. Tôi là tên trùm sỏ.”


      “Trùm sỏ?”


      “Luôn nắm thế chủ động,” Ryuuzaki giải thích. “Tôi chưa bao giờ tuân lệnh ai. trong số ít thứ tôi có thể tự hào. Chưa bao giờ tuân lệnh ngay cả tín hiệu đèn giao thông.”


      nên thế.”


      bao giờ.”


      cứng đầu cứng cổ.


      “Ngăn chặn vụ thứ tư có thể dẫn ta đến việc tìm ra và bắt được tên sát nhân. Đó là điều thân chủ của tôi mong muốn, tất cả mọi thứ. Nhưng tôi cũng hiểu ý , Misora. Tôi kiểm tra căn phòng rồi, vậy trong lúc làm điều đó, tôi muốn nghiên cứu trước về vụ thứ ba. có phiền nếu tôi muốn nhìn lại tập tài liệu cho xem hôm qua lần nữa?”


      “Chúng ta điều tra theo các hướng khác nhau? Được thôi...”


      chưa bao giờ có ý định hợp tác với ta.


      lấy cặp tài liệu trong túi ra, tìm tập báo cáo về vụ thứ ba rồi đưa cho Ryuuzaki qua chiếc bàn.


      “Còn đây là những bức ảnh trường...”


      “Cảm ơn.”


      “Nhưng như tôi , có gì mới đâu. Vẫn y như hôm qua thôi.”


      “Phải, tôi biết. Có vài điểm tôi muốn kiểm tra lại... mà tấm ảnh này kinh dị quá phải ?” Ryuuzaki , đặt bức ảnh xuống bàn để Misora có thể trông thấy. Đó là tấm chụp thi thể của Backyard Bottomslash. Trong nghiệp của mình ở FBI, Misora chứng kiến rất nhiều điều khủng khiếp, nhưng quả là tấm hình này tệ đến mức làm sởn gai ốc. So với thứ này, những vết cắt ở ngực hay mống mắt bị móc ra chẳng là gì cả.


      Thi hài nằm ngửa, tay trái và chân phải bị chặt đứt sát tận gốc.


      Máu tung tóe khắp nơi toàn trường gây án.


      “Người ta thấy cẳng chân phải trong phòng tắm, nhưng tìm ra cánh tay trái ở đâu đâu. Có lẽ tên sát nhân mang nó . Nhưng tại sao?”


      “Vẫn câu hỏi đó à, Ryuuzaki? Nhưng chẳng phải đó là ví dụ khác về thứ đáng lẽ phải ở đó, nhưng còn sao? Trong trường hợp này, đó là cánh tay trái.”


      “Hung thủ mang theo cánh tay trái nhưng lại lấy cẳng chân phải. Y chỉ quẳng nó vào phòng tắm. Thế có nghĩa là gì?”


      “Dù là gì chúng ta cũng đến đó chiều nay. Tôi chỉ muốn ở đây lúc .”


      “Vậy cũng được. Ồ, đằng kia có quyển album ảnh của nạn nhân trong cái tủ kìa, Misora. Có thể xem qua để biết thêm về tính cách của bé hay bạn bè ta...”


      “Được, để tôi xem.”


      Ryuuzaki quay trở về với tập tài liệu tay, còn Misora quyết định đứng lên và thẳng tới bồn rửa mặt. thể chịu được cảm giác nhộn nhạo trong miệng thêm nữa. súc miệng nhanh, nhưng chỉ mà thêm hai, ba lần nữa.


      tính liên lạc với L lần nữa. Lần trước có ai nghe máy. , hôm qua là cả ngôi nhà, nhưng lần này trong căn hộ như thế có cách nào tránh xa Ryuuzaki. Ngay cả khi gọi điện trong phòng tắm, ta cũng chẳng cần phải đến gần cửa mới nghe thấy. phải kể cho L về vụ tấn công... hay đó phải là thứ mà L cần quan tâm?


      Misora ngẩng lên và nhìn thấy chính trong gương.


      Naomi Misora.


      Đấy là .


      Vậy là .


      Mọi người đều biết cái cảm giác nhìn vào từ lâu cho đến khi bắt đầu tự hỏi liệu có viết sai chính tả hay . Theo cách đó, người có thể nghi ngờ chính mình, có thể hiểu nổi người đó là chính mình trong bao lâu. Vậy, Misora vẫn còn là chứ?


      Đó là lý do tại sao điều này quan trọng.


      Lý do tại sao nhìn đăm đăm vào hình ảnh của chính mình để xác nhận lại điều này lần nữa.


      “Nhưng liệu L có làm như vậy ?”—Bỗng dưng băn khoăn. Vị thám tử vĩ đại nhất thế kỷ, người chưa bao giờ xuất trước công chúng, với danh tính bí . Có bao nhiêu người có thể chắc chắn L là L? Có bất kỳ ai có thể ? Naomi Misora thể trả lời, nhưng nghĩ, liệu có khi nào, L nhìn vào tấm gương rồi tự hỏi ai nhìn lại ta.


      tấm gương... gương?”


      Hmm.


      Dường như thấy gì đó.


      tấm gương... phải và trái bị đảo lộn trong hình ảnh phản chiếu... phản chiếu ánh sáng... ánh sáng bị phản xạ khi gặp bề mặt nhẵn... kính tráng bạc nitrat... bạc? , chất liệu phải là vấn đề, mà là chất lượng... phản xạ ánh sáng... , đảo ngược giữa bên trái và bên phải... đối lập?


      “Đối lập... đảo ngược!”


      Misora vội vàng ra khỏi nhà tắm, trở về vị trí chiếc bàn. Ryuuzaki ngước lên ngạc nhiên, đôi mắt thâm quầng của ta mở to.


      “Chuyện gì vậy?” ta hỏi.


      “Bức ảnh!”


      “Gì cơ?”


      “Tấm ảnh chụp ấy!”


      “Ồ, ý là tấm ảnh chụp trường vụ thứ ba?” Ryuuzaki hỏi, đặt tấm ảnh xuống bàn lần nữa. Thi thể mất cánh tay trái và cẳng chân phải. Misora rút hai bức ảnh khác từ trong túi ra và đặt chúng bên cạnh. Ảnh chụp tử thi vụ thứ nhất và vụ thứ hai. Những bức ảnh chụp tất cả các nạn nhân, cho thấy tình trạng họ được tìm thấy.


      “Thấy gì , Ryuuzaki?”


      “Gì cơ?”


      “Bất kỳ điều gì trong những tấm ảnh khiến thấy thiếu tự nhiên?”


      “Họ đều chết rồi?”


      “Chết phải là trái với tự nhiên.”


      triết lý.”


      “Nghiêm túc . Nhìn xem—tử thi ở những tư thế khác nhau. Believe Bridesmaid nằm ngửa, Quarter Queen nằm sấp, và Backyard Bottomslash nằm ngửa. Ngửa, sấp, ngửa.”


      “Vậy cho đó là quy luật? Liên quan tới chín ngày, bốn ngày, chín ngày? Nghĩa là ngày mai nạn nhân thứ tư được tìm thấy nằm sấp?”


      , chẳng liên quan. Ý tôi là, có thể là thế, nhưng tôi nghĩ đến khả năng khác. cách khác, cái việc thi thể của Quarter Queen bị đặt nằm sấp là thiếu tự nhiên rồi.”


      Phản ứng của Ryuuzaki được vừa ý lắm—ít nhất là có vẻ như thế. Có lẽ điều Misora cố bày tỏ chưa chạm được vào suy nghĩ của ta. mới bật ra ý tưởng này và ngay bằng tất cả hào hứng, mà chưa suy nghĩ kỹ để khiến nó trở nên dễ hiểu. “Để tôi nghĩ chút,” Misora , ngồi xuống chiếc ghế đối diện với ta.


      “Misora, khi suy nghĩ, tôi đề xuất tư thế này.”


      “‘Tư thế này’?”


      Tựa ngực vào đầu gối như thế? ta đề xuất tư thế đó?


      “Nghiêm túc đấy. Nó giúp tăng thêm 40% khả năng suy luận. phải thử.”


      , tôi... ừm... thôi được.”


      phải ta muốn bò, và điều này cũng tổn hại gì. Có thể nó còn giúp bình tĩnh lại chút khỏi hứng thú quá mức. thử đưa chân lên ghế.


      “...”


      Và lấy làm rất tiếc về điều đó.


      Buồn hơn nữa là khi suy đoán của đáng lẽ đúng.


      “Sao, Misora? rằng Quarter Queen nằm sấp là thông điệp từ tên sát nhân? Ám chỉ đến nạn nhân thứ ba...”


      , phải thông điệp—đây là mắt xích khuyết, Ryuuzaki. Phần mở rộng của giả thuyết về những cái tên viết tắt...”


      Misora lo ngại việc hai con người ngồi trong tư thế kỳ cục để lý giải về những điều kỳ cục kỳ cục quá mức. Tuy nhiên, chỉ ra từng bức ảnh, cảm thấy bỏ qua cơ hội để chân xuống đất. Và thực ra giữ nguyên tư thế này dễ hơn nhiều so với nghĩ trước đây.


      “Tên viết tắt của các nạn nhân—B.B., Q.Q., B.B. Có chữ cái đầu tên giống nhau chưa đủ để được coi là mối liên hệ, nhưng... cả nạn nhân thứ nhất và thứ ba đều có cùng tên viết tắt—B.B. Nếu nạn nhân thứ hai cũng là B.B. thay vì Q.Q. đó hẳn là manh mối, phải ?”


      Bằng tính toán đơn giản, hai mươi sáu nhân hai mươi sáu bằng 676 người. Tỷ lệ người có tên viết tắt bằng chữ cái cụ thể duy nhất, so với tên có chữ cái đầu giống nhau, giảm đáng kể... và khi có khá ít cái tên bắt đầu bằng B, con số thực tế còn hơn nữa.


      “Thú vị đấy. Nhưng Misora, tên của nạn nhân thứ hai là Quarter Queen, viết tắt là Q.Q. Có phải muốn ám chỉ rằng bé bị giết nhầm? Rằng tên sát nhân nhắm tới ai đó tên là B.B. nhưng lại may giết phải người tên Q.Q.?”


      cái gì đấy? Thông điệp ở trường thứ nhất là Quarter Queen. có gì là nhầm lẫn ở đây.”


      “Ồ, phải. Tôi quên mất.”


      Có phải ta quên ? Câu nghe giả tạo... nhưng nếu cố giải thích từng phản ứng của Ryuuzaki, họ chẳng đến đâu cả.


      “Chín ngày, bốn ngày, chín ngày. B.B., Q.Q., B.B. Ngửa, sấp, ngửa. là có thể thấy quy luật xen kẽ ở đây, như , và tôi nghĩ kỹ về giả thiết này, nhưng... cách tiếp cận vấn đề của tên sát nhân khiến cho điều đó dường như hợp lý. hợp với tính cách của . Những người như vậy thường hành động nhất quán hơn...”


      “Nhưng phương thức giết người—siết cổ, đánh đập hay đâm dao... chúng cho thấy chút nhất quán nào.”


      “Ngoại trừ việc chúng luôn thay đổi cách nhất quán. ta luôn cẩn thận thử nghiệm những điều mới mẻ trong mỗi lần gây án. Nhưng xen kẽ phải là đa dạng. Đó là lý do tại sao, Ryuuzaki, khi tôi nhìn vào gương lúc nãy, tôi chợt nhận ra—B và Q có hình dạng giống nhau.”


      “B và Q? Hoàn toàn khác nhau!”


      “Đó là khi chúng được viết hoa. Nhưng khi viết thường sao?” Vừa , Misora vừa viết những chữ cái lên bàn bằng đầu ngón tay. b và q. b và q. b và q.


      thấy ? Chính xác là giống hệt nhau! Chỉ ngược lại mà thôi!”


      “Vậy đấy là lý do mà nạn nhân này nằm sấp?”


      “Đúng thế,” Misora gật đầu. “Tạm ước tính cứ 676 người có người tên là B.B., vậy nếu ta coi đó là mối liên hệ, tên sát nhân hẳn phải gặp khó khăn rất lớn để tìm nạn nhân. đơn giản, nhưng hai, ba, thậm chí bốn... hoặc hơn nữa. ta buộc phải chọn Q.Q. thay vào đó.”


      “Tôi đồng ý với mọi điều , ngoại trừ câu cuối cùng. Tôi tin là tìm nạn nhân tên Q.Q. dễ hơn tìm người tên B.B. Mà nếu có đúng là như thế, tôi nghĩ rằng việc thay thế đó là phần của lời thách đố cho phía điều tra hợp lý hơn. Nếu tất cả các nạn nhân đều tên là B.B., mối liên hệ trở nên quá ràng. Nhưng đây cũng chỉ là suy diễn. Khả năng đúng quá ba mươi phần trăm.”


      “Ba mươi phần trăm...”


      Thấp cách đáng ghét.


      Nếu đây là kỳ thi trượt.


      “Tại sao?”


      “Theo ý , kết luận của chỉ ra lý do vì sao Quarter Queen bị đặt nằm sấp. Việc nằm sấp dẫn tới suy diễn ngược với b và q... nhưng quá trình này logic, Misora.”


      “Tại sao ?”


      “Tên viết tắt luôn luôn được viết hoa,” Ryuuzaki chỉ ra.


      “Ồ...”


      Chính xác.


      Tên viết tắt bao giờ viết thường. Bao giờ cũng phải viết hoa. Quarter Queen phải là Q.Q., thể nào là q.q. Cũng như B.B. bao giờ viết là b.b.


      “Vậy mà tôi nghĩ mình đúng hướng,” Misora , gục đầu giữa hai chân.


      Rất gần... nhưng ngay cả việc khẳng định tên sát nhân bao giờ thay đổi đơn thuần chỉ là suy diễn. Mà ngay cả thế, mối liên hệ giữa b và q dường như có ý nghĩa...


      “Bình tĩnh, Misora. Đừng thất vọng quá.”


      Thở dài...


      “Thành , tôi mừng là giả thuyết của sai. Nếu Quarter Queen bị giết như vật thay thế... lý do kinh khủng cho đứa trẻ tuổi teen phải chết.”


      “Đúng... nếu nghĩ theo khía cạnh đó...”


      Mmm? Misora đột nhiên cau mày. Vừa mấy phút trước, Ryuuzaki khăng khăng rằng giết trẻ con hay người lớn có gì khác nhau, nhưng nay động cơ cho hành động đó ta lại quan tâm? lý do như thế... có liên quan với bất kỳ điều gì ? đứa trẻ tuổi teen...


      đứa trẻ? Đứa trẻ?


      “... , Ryuuzaki.”


      “Trong trường hợp này—chữ viết thường là hoàn hảo,” Misora , giọng run run.


      Run run vì giận dữ.


      “Đó là lý do tại sao chọn đứa trẻ.”


      đứa bé mười ba tuổi.


      Tên viết tắt của bé.


      Viết hoa, viết thường.


      “Bởi vì đó là đứa bé—chữ viết thường. Và lý do bé bị đặt nằm sấp đó là viết ngược lại.”


      Phải mất thời gian sau này để Naomi Misora nhận ra rằng chính Ryuuzaki là người nhiệt tình chỉ ra những chữ viết tắt giống nhau, rằng nạn nhân là đứa bé, và cũng là người cho cốc đường tẩm cà phê để khiến phải vào phòng tắm, nơi mà tấm gương cho lời gợi ý cho mọi suy luận sau đó.


      Dù sao , quay lại Những án mạng Los Angeles BB.


      Mắt xích khuyết được tìm ra, chi tiết quan trọng mà sau này trở thành tên riêng cho chuỗi kỳ án.

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Phần 4: Tử thần


      Hãy tưởng tượng rằng bạn chuẩn bị giết ai đó. Bạn nghĩ rằng phần nào là khó nhất? Ba, hai, ... hết giờ! Đáp án: giết ai đó. Bình tĩnh nào—tôi thề là tôi hề trêu bạn, hay là chơi đố chữ gì gì ở đây. Tôi hoàn toàn nghiêm túc đấy. Loài người được sinh ra để chết dễ dàng như thế—ít nhất, người ta hầu như bao giờ rên lên tiếng rồi chết ngay cả. Siết cổ, đánh đập hay đâm xuyên— có cách nào là giết người cách dễ dàng. Con người là sinh vật mạnh mẽ đáng ngạc nhiên. Thêm vào đó, con người có bản năng tự vệ. Chẳng ai muốn bị giết, và có cơ hội tốt rằng người ta cố gắng giết lại bạn. Sức mạnh thể chất của mỗi người chênh lệch nhau quá nhiều, và trong cuộc chiến -đối-, chiến thắng có thể mấy dễ dàng. Dưới góc độ này, khả năng giết người bằng cách viết tên họ vào quyển sổ là lối chơi xấu trắng trợn và bất công, tôi chắc chắn là các bạn có thể hình dung được.


      Tuy là thế.


      Khi Beyond Birthday gây ra chuỗi án mạng này, gặp khó khăn gì để giết những nạn nhân của mình. Dù sao việc ám sát bản thân nó phải là mục đích của , và có ý định bỏ nhiều công sức hơn cần thiết vào bọn họ. Nhưng kể cả thế, dễ dàng để hình dung chính xác cách tránh những phiền phức. Tất nhiên là, dùng vũ khí và gây mê cho họ, nhưng ở điểm này, cả ba nạn nhân của đều bị giết mà để lại bất cứ dấu vết nào của việc chống cự. Trong hầu hết các vụ án, những vết thương do chống cự là yếu tố quan trọng để xác định tên sát nhân, nhưng ở trường hợp này, các nạn nhân đều chết như thể đó là lẽ tự nhiên buộc họ phải vậy. Điệp viên FBI Naomi Misora chưa bao giờ có thể hiểu được lý do, còn vị thám tử vĩ đại nhất thế kỷ, L, cũng thể nghĩ ra giả thuyết hoàn hảo cho đến tận vài năm sau khi vụ án kết thúc.


      Mở đầu thế đủ rồi.


      Để tôi giải thích.


      Beyond Birthday sở hữu đôi mắt của tử thần từ bẩm sinh. khó khăn gì cho ta để theo dấu người nào với tên viết tắt B.B., hay để tìm ra kẻ bị định mệnh sắp xếp phải chết vào thời điểm nhất định vào ngày nhất định. Dù sao cũng có hơn hai mươi triệu dân ở Los Angeles.


      Giết người, đối với ta, là bình thường.


      Giết những người đến lúc tận số lại càng có gì phải nhọc công.


      Mmm, tôi đoán là tôi phải giải thích khái niệm về đôi mắt của tử thần. Cụm từ này quá quen thuộc với tôi, nhưng nếu tôi giải thích nó, có thể vài người trong số các bạn cảm thấy khó hiểu phát khóc. Đôi mắt của tử thần. Đôi mắt này có thể có được từ bất kỳ tử thần nào nếu bạn chấp nhận đánh đổi nửa phần đời còn lại của mình. Thông thường, điều kiện tiên quyết là phải giao tiếp được với tử thần. Nhưng Beyond Birthday hề đánh đổi điều gì cả— nhìn thế giới qua đôi mắt ấy từ khi có nhận thức.


      biết tên bạn trước khi bạn ra.


      biết đích xác thời điểm chết của mỗi người gặp.


      Chắc tôi cần phải giải thích điều này có ảnh hưởng gì tới nhân cách của . Bạn có thể nghĩ rằng đôi mắt đó chẳng có tác dụng gì nếu như có cuốn Tử ký, nhưng trường hợp này đơn giản là như thế. Khả năng nhìn thấy phần đời còn lại của ai đó là khả năng nhìn thấy cái chết. Cái chết, cái chết, cái chết. Beyond Birthday sống cả cuộc đời của mà luôn được gợi rằng tất cả mọi người cuối cùng chết. Từ ngày được sinh ra, có thể biết cái ngày bố của bị tên côn đồ tấn công và chết, cái ngày mẹ của chết trong vụ đụng tàu. có đôi mắt này trước khi được sinh ra, đó là lý do tự đặt cho mình cái tên Beyond Birthday, là lý do đứa trẻ kỳ lạ là được đưa vào ngôi nhà thân của chúng ta, Wammy’s House.


      là B.


      Đứa trẻ thứ hai ở Wammy’s House.


      “Giá mà ta có thể nhìn thấy cái chết của thế giới,” Beyond Birthday lẩm bẩm, vào lúc 6 giờ sáng ngày 19 tháng Tám, ngay khi thức dậy. nằm chiếc giường đơn ở tầng hai của căn nhà kho, đứng tên thuê của công ty còn hoạt động, khu ngoại ô phía tây thành phố. trong số rất nhiều những hang ổ bí mật toàn lãnh thổ đất nước, toàn thế giới. Tại sao lại là phía tây L.A.? Bởi vì vào ngày hôm đó, Naomi Misora, điệp viên FBI Naomi Misora, đại diện cho vị thám tử vĩ đại nhất thế giới, L, ở đó.


      “Naomi Misora. Naomi Misora. Cánh tay của L. Đôi mắt của L. Lá chắn của L. Ha ha ha ha ha ha ha ha ha! , phải như thế... ta phải cười to hơn nữa như thế này... Kya ha ha ha ha ha ha ha ha ha ha ha ha! Rồi, tốt hơn rồi đấy.”


      Kya ha ha ha ha ha ha ha ha ha ha ha ha.


      Kya ha ha ha ha ha ha ha ha ha ha ha ha.


      Cùng tiếng cười man dại, Beyond Birthday ra khỏi giường. Tiếng cười thô bạo, tàn nhẫn, nhưng lại thiếu tự nhiên, giả tạo. Như thể cười cũng là nhiệm vụ khác mà phải hoàn thành.


      Beyond Birthday nhớ lại cách tấn công Naomi Misora ba ngày trước, vào 16 tháng Tám, nơi con hẻm ở khu trung tâm thành phố.


      Tất nhiên, biết khi nào ta chết— thấy phần đời còn lại của dài bao nhiêu. Phần đời của Naomi Misora. phải là hôm ấy, 16 tháng Tám, mà là rất lâu, rất lâu sau đó.


      Điều đó có nghĩa là...


      Nếu tấn công ta với ý định giết, chắc chắn thất bại. biết . Đảm bảo lối thoát thân quan trọng hơn nhiều. Naomi Misora chẳng là gì hơn kẻ tay sai cho L, và nếu ta chết có hàng tá người để thay thế—ở FBI, CIA[28] hay NSA[29]–hay thậm chí Secret Service[30]. Vì thế chỉ thử . Thử xem Naomi Misora có đủ khả năng thay thế cho L.


      “Hmmm... mmmm... hmmm... Huh huh huh huh... no, hee hee hee? Có thể là ho ho ho ho, nhưng như vậy nghe hơi giỡn chơi. Ồ, Naomi Misora, khá lắm. FBI bỏ phí người như đáng xấu hổ.”


      Đến lúc này, ta qua kỳ kiểm tra.


      Hôm nay, ta tới thăm trường vụ thứ ba, và điều cần làm nhất là tìm ra thông điệp Beyond Birthday để lại. Và cố gắng để ngăn chặn vụ thứ tư, nạn nhân mà Beyond Birthday chọn sẵn.


      Tốt thôi.


      Chỉ có thế cuộc đọ sức mới bắt đầu.


      Chỉ có thế trò chơi mới thực khởi động.


      Cuộc đọ sức giữa L và B.


      Câu đố của L và B.


      “Nếu L là nhân tài, B là thiên tài. Nếu L là kỳ nhân, B là siêu kỳ nhân. đến lúc sẵn sàng. Có số điều ta phải làm trước khi vượt qua L. He he he he he.”


      Ý nghĩ này là thứ duy nhất khiến cười mà phải nghĩ về nó. Những người biết điều này nhận ra tiếng cười của tử thần.


      Vẫn cười mình, đối diện trước gương, chải tóc và bắt đầu cải trang. Hình ảnh trong gương. Chính . Nhưng như mọi khi, thể nhìn thấy thời điểm chết của chính mình. hơn so với cái chết của thế giới.


      19 tháng Tám.


      Naomi Misora có mặt tại phía tây thành phố, trong ngôi nhà liên kế nơi nạn nhân thứ ba, Backyard Bottomslash từng sống. này ở chung với người bạn, nhưng người bạn đó công tác khi ta bị giết. Cũng giống như mẹ của nạn nhân thứ hai, người bạn cùng phòng chuyển về ở với bố mẹ sau khi án mạng xảy ra.


      Phòng ngủ của Backyard Bottomslash ở tầng hai. Chốt khóa vặn nằm dưới nắm cửa. Hai lỗ đinh tường nơi những hình nhân Wara Ningyou bị bỏ lại. bức tường phía đối diện cánh cửa, bức tường bên tay trái. Sàn nhà có đầy những thú nhồi bông, quá nhiều cho người hai mươi tám tuổi, và cả căn phòng đều được trang trí tỉ mỉ. số thú nhồi bông treo mỗi bức tường, theo thứ tự là hai, năm, chín và mười hai. Hai mươi tám con tất cả. Trong khi đó, mặc dù căn phòng được dọn sạch, mùi máu tanh vẫn đọng lại trái ngược với hình ảnh của căn phòng.


      “Ryuuzaki đâu rồi?”


      nhìn vào chiếc đồng hồ đeo tay màu bạc, và nhận ra là hai rưỡi chiều.


      Họ hẹn nhau lúc hai giờ.


      Misora ở đây từ sáng sớm, kiểm tra toàn bộ nơi này trước. kiểm tra toàn bộ ngôi nhà, chỉ căn phòng này, và sau năm tiếng đồng hồ hết việc để làm. thể tìm ra bất kỳ cái gì đáng lưu tâm, điều đó khiến nản lòng. cắn môi, muốn thừa nhận rằng thể điều tra được gì khi có Ryuuzaki ở bên.


      Điện thoại đổ chuông trong túi . bắt máy nhanh chóng, nghĩ rằng đó là L, nhưng thay vào đó lại là bạn trai và cũng là đồng nghiệp của , Raye Penber.


      “A lô? Raye?”


      “Ừ... để nhanh, Misora,” Raye bằng giọng thấp. Vào giờ này chắc chắn có những người khác ở quanh ấy. “ kiểm tra những thứ em cầu.”


      “Ồ, cám ơn .”


      nhờ vào ngày 16, và bây giờ là 19, mà ấy rất bận rộn, như vậy là nhanh lắm. Khi nghĩ về những việc làm cho , luôn thấy mình cần cảm ơn mỗi khi chuyện với .


      “Thế nào?”


      “Cơ bản là, thám tử tư nào tên Rue Ryuuzaki.”


      “Vậy là có giấy phép?” phi thám tử tư, chính cũng vậy.


      . dữ liệu nào về bất cứ ai tên là Rue Ryuuzaki. phải chỉ ở Mỹ, mà là ở tất cả các nước thế giới. Họ Ryuuzaki cũng khá phổ biến ở đất nước em, nhưng có ai trong số họ tên là Rue.”


      “Ồ. tiếng Nhật sõi như người bản xứ, vì thế em nghĩ rằng sống ở đó... vậy đó là cái tên giả?”


      “Có thể kết luận như vậy.” Raye im lặng lúc, sau đó bật ra câu hỏi, “Naomi! Em làm gì vậy?”


      hứa là hỏi.”


      biết. Nhưng hạn nghỉ phép của em hết tuần sau, và nghĩ về tương lai... em có quay lại FBI ?”


      “Em chưa nghĩ về điều đó.”


      biết luôn điều này, nhưng mà...”


      “Đừng. Em biết định gì, vì thế đừng . Em có thời gian. Em gọi lại sau.”


      Misora tắt máy mà để trả lời. xoay xoay cái điện thoại giữa các ngón tay, cảm thấy chút tội lỗi. phải là chưa nghĩ đến việc đó, chỉ là muốn nghĩ đến nó.


      là tuần sau rồi ư? Thôi tập trung vào vụ án này .” Đáng lẽ ra vẫn điều tra, nhưng Ryuuzaki vẫn chưa tới...


      ( nghi ngờ rằng cái tên đó là giả ngay từ khi gặp ta, vì vậy thực quan tâm... mặc dù băn khoăn sao ta lại chọn cái tên đó. Nhưng vấn đề ở đây là tại sao bố mẹ của nạn nhân lại chọn thuê thám tử hề tồn tại.)


      Misora tự nhắc mình quên điều này và tiếp tục với những điều họ chưa tìm ra lần nữa.


      Đầu tiên là thông điệp tên sát nhân để lại ở trường vụ thứ hai, Naomi Misora phát ra khoảng giờ sau khi họ tìm thấy mắt xích khuyết, rằng các nạn nhân có liên quan đến nhau bằng tên viết tắt của họ. Đó là đôi mắt kính mà nạn nhân, Quarter Queen, đeo. Mặc dù chưa từng bò tứ chi như Ryuuzaki, Misora lục soát khắp căn phòng từ tất cả các góc độ, cho đến khi mỏi cả mắt vì tìm kiếm—mà thấy gì cả. Sau đó nghĩ đến cơ thể của nạn nhân, giống như vết cắt ngực Believe Bridesmaid, và nhìn vào những bức ảnh lần nữa, nhưng vẫn chẳng thấy gì ngoài hình ảnh bé nằm sấp, đôi mắt lòi ra...


      Khi Misora thể tiếp tục, Ryuuzaki , “Có thể đôi mắt là thông điệp.” Nghe cũng có lý... chính xác hơn là đó dường như là khả năng duy nhất. Có nghĩa là... đôi mắt của nạn nhân?


      Misora quay lại ngăn tủ và lấy những bức ảnh ra lần nữa. xem kỹ từng bức ảnh của bé tóc vàng.


      Và nhận ra...


      có bức ảnh nào chụp bé đeo kính.


      Bức ảnh duy nhất bé đeo kính đó là trong những bức ảnh thi thể nạn nhân. phải là mắt có tật gì—điều này có trong hồ sơ, cho biết mắt phải cận 0.1 và mắt trái cận 0.05—nhưng bé thường xuyên đeo kính áp tròng. Sau khi bé bị giết, tên sát nhân đeo kính cho và bỏ đôi áp tròng. Phía điều tra nhận ra điều này. Misora liên lạc với mẹ của nạn nhân, bà ta xác nhận rằng Quarter Queen hầu như bao giờ đeo kính, ngay cả ở nhà, và hơn nữa, cặp kính bé đeo trong bức ảnh trường còn phải của bé.


      thể tin được... ai mà có thể nghĩ đến việc hỏi cái kính mà nạn nhân vụ giết người đeo có thuộc về họ cơ chứ? Đúng là điểm mù... có thể đó là ý nghĩa của đôi mắt?” Ryuuzaki . “Và đôi kính trông tự nhiên khuôn mặt nhóc... khiến cảnh sát còn khó nhận ra hơn nữa. bao giờ hiểu rằng mình được sinh ra để đeo nó.”


      “Ừm Ryuuzaki... chuyện này trở nên bông lơn rồi đấy.”


      “Tôi đùa mà.”


      “Đó chính là ý nghĩa của từ ‘bông lơn’.”


      “Thế tôi nghiêm túc.”


      “Vẫn bông lơn.”


      “Thế tôi cực kỳ nghiêm túc. Nhìn xem! nghĩ là thế này xinh hơn à?”


      “Ờ ừ... tôi nghĩ vậy...”


      Nực cười.


      Lần đầu tiên người mẹ thấy thi thể con mình là ở trong nhà xác, và cặp kính bị gỡ ra. Đó có thể chính là kế hoạch của hung thủ... vào lúc đó, họ còn có thể nghĩ ra điều gì khác chứ?


      “Vụ thứ ba xảy ra tại phía tây L.A., gần ga Glass—kính mắt[31]. Rất hợp nghĩa. Nhưng nó cho ta địa chỉ ràng, chỉ là khu vực...”


      , nếu mà muốn cụ thể đến thế, phải cụ thể hóa mọi thứ, Misora. Tất cả những gì cần làm là tìm ai đó trong khu vực đó với cái tên B.B., và có thể xác định được địa chỉ. cách khác, hung thủ cho rằng ở thời điểm xảy ra vụ thứ hai, chúng ta tìm ra mối liên hệ.”


      “Ồ? Nhưng... chúng ta chỉ có thể phát ra Q chính là B bởi vì vụ thứ ba thực xảy ra. Ở thời điểm mới có vụ thứ hai, làm sao ai đó có thể nghĩ ra điều này?”


      cần phải thế. Ý tôi là, ngay cả khi xảy ra vụ thứ ba, chúng ta thể biết có phải B mới là chữ cái chính, và Q là chữ viết ngược, hay là ngược lại. Vụ thứ tư có thể là đứa bé khác với tên Q.Q. và giả thuyết bị đảo ngược lại. Có thể ta chỉ chủ yếu giết trẻ con, và thực theo đuổi những nạn nhân tên Q. Từ thông tin của chúng ta nay, chúng ta biết nhắm vào B.B., hay Q.Q. Nhưng điều đó quan trọng. Tất cả những gì phải làm là tìm ai đó có tên nằm trong hai khả năng đó.”


      “Ồ... phải.”


      Nhưng vào 16 tháng Tám, họ mới hiểu ra được điều này, quá muộn, và vụ thứ ba xảy ra lâu rồi. Chỉ để chắc chắn, kiểm tra toàn bộ khu vực trong phạm vi bán kính năm trăm mét quanh ga Glass. ai có tên Q.Q., và chi người có tên B.B., chỉ người tên B.B., đó chính là Backyard Bottomslash.


      Thông điệp cặp kính quá đơn giản nếu so sánh với thông điệp giá sách ở trường vụ thứ nhất, nhưng họ chỉ có thể giải nó khi họ có sẵn cụm từ “ga Glass” trong đầu—nếu , ai mà có thể hiểu được đôi mắt kính mà hung thủ thêm vào thi thể nạn nhân là thông điệp? đơn giản của nó chính là thứ làm nó khó hiểu hơn vụ thứ nhất. Giờ đây, Misora cần phải ngăn chặn được vụ thứ tư, nhưng liệu có thể tìm ra thông điệp tại trường vụ thứ ba? rất lo lắng về điều này. lần nữa, chính Ryuuzaki mở đầu chủ đề về đôi mắt nạn nhân, chính Ryuuzaki đề ra ý tưởng xem kỹ lại các bức ảnh—nếu ta, thể tìm ra nó. Hoặc là ít nhất cũng tốn thời gian hơn rất nhiều. Lúc đó là chiều tối, vì vậy họ quyết định kiếm gì đó ăn và tiếp theo nên hành động như thế nào. Ryuuzaki mời Misora ăn cùng ta, nhưng từ chối. thể biết được lần này ta gán cái thứ đồ ngọt độc hại đến thế nào cho , mà cũng cần phải chuyện với L. Những bí mật họ tìm ra cần phải được báo cáo. xa khỏi căn hộ, nhìn xung quanh kỹ lưỡng, tựa vào bức tường và quay số.


      “L nghe máy.”


      “Misora đây.”


      quen với giọng điện tử. nhanh chóng kể lại những gì xảy ra trong ngày, và những gì họ phát , để phí lời nào. thấy chính mình khá có công trong việc tìm ra lý do tại sao nạn nhân bị đặt nằm sấp, nhưng cố kiềm chế nó. Ít nhất là nghĩ mình thành công.


      “Được rồi, tôi hiểu rồi. Tôi đúng khi lựa chọn , Naomi Misora. Thực lòng mà , tôi ngờ những kết quả ấn tượng như vậy.”


      ... có gì đâu. Tôi xứng đáng với lời khen ngợi. Quan trọng hơn là... tôi phải làm gì bây giờ? có ý tưởng gì ? Chúng ta biết khi nào vụ thứ tư xảy ra, vì thế tôi nghĩ tôi nên đến ngay tây L.A. bây giờ.


      cần đâu,” L . “Tôi muốn cẩn thận với hành tung của mình. Dựa những gì , có khá nhiều thời gian trước khi vụ thứ tư xảy ra.”


      “Eh?”


      như vậy sao?


      “Hung thủ gây ra vụ thứ tư vào ngày 22 tháng Tám. còn sáu ngày nữa.”


      “Sáu ngày?”


      Vậy là chín ngày sau vụ thứ ba. Chín ngày, bốn ngày, chín ngày và chín ngày lần nữa? ta dựa vào gì mà kết luận như vậy? Misora sắp sửa lên câu hỏi này, nhưng...


      “Tôi e rằng tôi có thời gian để giải thích bây giờ,” ta .


      “Hãy thử tự tìm hiểu vì sao. Nhưng vụ thứ tư xảy ra... hoặc là hung thủ có ý định như vậy vào ngày 22, và tôi muốn hành động dựa kết luận đó.”


      hiểu.”


      ta có vẻ muốn tranh luận vào lúc này. Nhưng 22 tháng Tám... nghĩ về điều này, LAPD nhận được câu đố ô chữ vào 22 tháng Bảy. Cùng ngày đó. Đấy có phải mối liên quan ?


      “Vậy , trong sáu ngày tới, tôi chuẩn bị kỹ lưỡng và điều tra trường vụ thứ ba.”


      “Xin hãy làm như vậy. Và–Naomi Misora, hãy hết sức cẩn thận cho an toàn của chính . là người duy nhất có thể giúp tôi trong vụ này. ai có thể thay thế cho .”


      ta hẳn muốn ám chỉ vụ tấn công bất ngờ con hẻm. ai có thể thay thế cho ? Đối với L đó có thể là lời rất hay phải , hoặc lời dối trắng trợn, nhưng Misora vẫn cảm thấy khó có thể tin được ta cũng với điều này.


      “Đừng lo. Tôi sao đâu.”


      ý tôi là, chú ý đừng đặt bản thân vào những tình thế nguy hiểm. Tránh những con hẻm hay những nơi vắng vẻ. Có thể phải xa hơn, nhưng hãy chỉ trong những khu phố đông đúc.


      “Tôi ổn mà, L. Và tôi có thể tự lo cho mình. Tôi có võ.”


      sao? Karate? Hay Judo?


      “Capoeira.[32]”


      Thậm chí chỉ qua điện thoại, có thể biết rằng L biết trả lời ra sao. học Capoeira, lựa chọn hơi lạ cho điệp viên FBI người Nhật. Trong khoảnh khắc Misora cảm thấy hơn tự hào, như thể có thể giỏi hơn L—dù biết điều đó là thể.


      “Phải, tôi nghĩ nó rất tệ cho đến khi tôi thực tập nó, nhưng tôi tham gia vào điệu nhảy đường phố ở trường đại học, và gia nhập câu lạc bộ Capoeira. nó rất hữu dụng cho phụ nữ để tự vệ. Những kỹ thuật cơ bản đều là né tránh đòn tấn công của đối phương, có nghĩa là thể thắng áp đảo như karate hay judo. Sức mạnh thể lực của phụ nữ thể so sánh với đàn ông. Và những ngón nhào lộn và mánh lới trong Capoeira cho thời gian để nhìn kẻ tấn công.”


      ư? Điều đó có ý nghĩa rồi đấy,” L có vẻ ấn tượng.


      bị ấn tượng, phải chỉ là lời .


      mô tả nghe là hay. Nếu có thời gian, tôi xem thử vài đoạn băng... nhưng dù tự tin thế nào, nếu chúng có súng và bắn , tình thế khác ngay. Hãy cảnh giác mọi nơi mọi lúc có thể.”


      “Tất nhiên rồi. Đừng lo lắng, tôi luôn cảnh giác. Ừm, L này?” Cuối cùng Misora cũng cất tiếng.


      “Gì vậy, Misora?”


      “Tôi tự hỏi... tìm ra mục đích của thủ phạm phải ?


      “...Đúng,” ta , sau khoảng lặng dài.


      Misora gật đầu. Nếu , ta thể chắc chắn đến thế về thời điểm xảy ra vụ án thứ tư. Nhưng ta lại bảo hãy tự tìm hiểu lý do. Có nghĩa là ta có đủ thông tin để xác định danh tính hung thủ ư? Ngay khi ý tưởng này lướt qua đầu Misora, L cắt đứt luồng tư duy của bằng câu ngắn gọn.


      là, tôi luôn biết tên sát nhân là ai.”


      “...Eh?”


      “Hung thủ...” L , “... là B.”


      Chúng tôi được nuôi dưỡng tại Wammy’s House ở Winchester, Quốc, với tư cách như những người kế nghiệp L, hay thay thế cho L, nhưng điều đó có nghĩa chúng tôi biết về L nhiều hơn bất cứ ai. Tính cả tôi, chỉ vài trong số chúng tôi từng gặp L là chính L, và thậm chí tôi còn biết gì về L trước khi ta gặp Watari—Quillish Wammy, nhà phát minh thiên tài thành lập Wammy’s House. ai biết điều gì trong đầu L. Nhưng tôi biết Watari cảm thấy thế nào. Nhìn thấy khả năng siêu việt của L, dưới góc độ của nhà phát minh—tất nhiên ông ấy muốn tạo bản copy, bản backup[33]. Mà ai cũng nghĩ vậy thôi. Như tôi giải thích, L chưa bao giờ xuất trước công chúng. L biết rằng cái chết của ta làm gia tăng tỷ lệ tội phạm toàn thế giới vài tá phần trăm. Nhưng nếu người ta có thể copy ấy sao? Nếu người ta có thể tạo bản sao?


      Đó là chúng tôi.


      Những đứa trẻ của L, thu nhặt từ mọi xó xỉnh thế giới.


      Những đứa trẻ được tập hợp với nhau, chưa bao giờ với nhau tên của mình.


      Nhưng ngay cả với thiên tài như Watari, tạo ra L giả khó hơn nhiều so với việc điều đó. Ngay cả với Near và tôi, những người được cho là giống L nhất... chúng tôi càng cố gắng giống ta, chúng tôi càng tiến đến gần, ta lại càng xa hơn, như chạy theo ảo vọng. Vậy nên tôi chẳng cần phải với các bạn mọi việc ra sao khi Wammy’s House ra đời, khi ta vẫn trong thử nghiệm. Đứa trẻ đầu tiên, A, thể chịu đựng được sức ép của việc phải lớn lên cho L và sống cuộc đời cho riêng mình. Đứa trẻ thứ hai, Beyond Birthday, thực kiệt xuất và tỏa sáng.


      B nghĩa là Backup.


      Nhưng B cố gắng vượt qua L, chứ phải trở thành ta... , cũng có thể phải thế. Tôi làm cách nào để biết được nghĩ gì. ta... thế hệ của họ giống như thế hệ thứ tư, với Near và tôi, tất cả những đứa trẻ bó buộc với những L. Họ là những mẫu thử đầu tiên, thậm chí chưa từng được cho biết về L, được dự tính thất bại. Tôi muốn kiềm chế những suy đoán dựa kinh nghiệm của chính mình, nhưng, Beyond Birthday thực có thể nghĩ thế này:


      Chỉ cần có L, B bao giờ là L. Chỉ cần bản gốc vẫn tồn tại, bản sao mãi chỉ là bản sao.


      Những án mạng Los Angeles BB.


      L.A.B.B.—L is After Beyond Birthday.


      Đó là lý do vì sao tôi cho rằng cái tên này gần với ý định của kẻ sát nhân hơn rất nhiều, so với Những án mạng Wara Ningyou, hay là Những án mạng trong phòng kín ở Los Angeles. Tôi về phong cách đặt tên. Beyond Birthday có thực suy nghĩ thâm thúy đến như thế , tôi , nhưng nếu ta thực có lý do cụ thể để chọn gây án tại L.A., đấy có thể là lý do. Tôi chắc chắn ta bị ám ảnh về bản thân L nhiều hơn Near hay tôi. Tôi có thể hiểu tại sao ai đó phạm tội để chống lại thám tử, vì thế mà tôi có thể viết về nó theo cách này, nhưng kể cả như vậy. ta suy nghĩ gì khi giết những người liên quan? Hay đơn giản B chỉ muốn gặp L. Để có thể sử dụng đôi mắt tử thần của mình và nhìn tên của L và xem xem khi nào L chết. có thể tìm ra L là ai. Beyond Birthday chưa bao giờ với ai có đôi mắt của tử thần, và tôi ngạc nhiên gì nếu tin rằng mình cũng như loại thần chết.


      Tất cả những điều này lại thành cuộc đấu trí kỳ lạ giữa L và B. Nó giống như những cuộc đấu giữa L và Eraldo Coil hay Danueve. Nhưng bởi người vĩ đại nhất trong các thám tử tạo nên tội phạm giỏi nhất, chuyên gia điều tra cũng là chuyên gia gây án. Ở góc độ này, đây hoàn toàn là cuộc chiến về tư duy phá án.


      Beyond Birthday thách thức L.


      Và L chấp nhận thách thức.


      toạc ra, Những án mạng Los Angeles BB chính là cuộc nội chiến trong nhà của chúng tôi—Wammy’s I-Inuse. Đáng tiếc cho những nạn nhân bị lôi vào vụ này, nhưng thực ra nếu Beyond Birthday giết chết họ, tất cả những nạn nhân này cũng được định mệnh sắp đặt cái chết vào thời điểm ấy, vào ngày hôm ấy, vì lý do nào khác, tức là cái chết của họ là thể tránh khỏi. Như vậy , người duy nhất thực bị liên lụy trong cuộc chiến của họ là Naomi Misora.


      “Mmm… mm... mm-hmm-hmm hmmm... mm, mm, mm... Zo zo zo zo... , đó là điệu cười kinh khủng... henh henh henh.”


      sẵn sàng rồi.


      nghiêng đầu...


      Và Beyond Birthday bắt đầu hành động.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :