Cuộc Chiến Chốn Mê Cung - Rick Riordan (Huyền Huyễn)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      [​IMG]
      -o0o-

      Thông tin:

      Quản lý dự án: skypeaful

      Đánh máy: skypeaful

      Làm ebook: skypeaful

      Tài trợ chính: t0mbe0

      -o0o-

      Thông tin ấn phẩm:

      Tên sách: Cuộc chiến chốn mê cung

      Tác giả: Rick Riordan

      Di: Cẩm Chi

      Khổ: 14,5 x 20,5 cm

      Năm xuất bản: 2011

      Ngôn ngữ: Tiếng Việt

      Thể loại: Truyện ngắn - tiểu thuyết

      Số trang: 432 trang

      Giá bìa: 83,000 VNĐ




      ––––•(-• CUỘC CHIẾN CHỐN MÊ CUNG •-)•––––



      THUỘC SERIES PERCY JACKSON VÀ CÁC VỊ THẦN ̉NH OLYMPUS


      RICK RIORDAN - TIỂU THUYẾT GIA VĂN HỌC THIẾU NHI ĂN KHÁCH NHẤT NƯỚC MỸ​


      RICK RIORDAN là tác giả có sách bán chạy nhất do tờ New York Times bình chọn cho Series truyện dành cho trẻ em Percy Jackson và các vị thần Olympia và Series Tiểu thuyết trinh thám dành cho người lớn Tres Navarre. Ông có mười lăm năm giảng dạy môn tiếng và lịch sử ở các trường trung học cơ sở công và tư ở San Francisco Bay Area ở California và ở Texas, từng nhận giải thưởng Giáo viên Ưu tú đầu tiên của trường vào năm 2002 do Saint Mary’s Hall trao tặng. Ông hiện sống ở San Antonio, Texas cùng vợ và hai con trai, dành toàn bộ thời gian cho sáng tác.

      Series Percy Jackson và các vị thần ̉nh Olympus đã bán được hơn 20 triệu bản toàn thế giới (tính tới ngày 1.3.2011), chiếm 153 tuần trong danh sách Sách bán chạy nhất New York Times cho thể loại sách thiếu nhi. Bộ sách đã bán bản quyền cho hơn 40 nước. Kẻ cắp tia chớp đã đã được chuyển thể thành phim truyện nhựa cùng tên (đạo diễn: Chris Columbus, các diễn viên chính: Uma Thurman, Pierce Brosnan…) và video ga


      PERCY JACKSON mong đợi gì ở khóa học ̣nh hướng cho các học sinh mới vào trường Goode. Nhưng khi một người quen cũ bí ẩn xuất hiện ở trường, theo sau là các hoạt náo viên ma quỷ, mọi việc nhanh chóng trở nên xấu .

      Trong cuốn sách thứ tư của bộ sách bán chạy nhất này, thời gian ngày càng ít khi cuộc chiến giữa các vị thần ̉nh Olympus và người đứng đầu các thần Titan-Kronos ngày càng gần kề. Ngay cả nơi ẩn náu an toàn ở Trại Con Lai cũng dễ dàng bị công kích vào bất cứ lúc nào khi quân đội của Kronos tìm cách xuyên qua ranh giới phép thuật của trại. Để ngăn chặn điều đó, Percy và các người bạn á thần phải lên đường thực hiện cuộc tìm kiếm xuyên qua Mê Cung – một thế giới ngầm đầy hỗn độn, mang đến cho họ những sự kinh ngạc đầy choáng váng ở mỗi góc rẽ.

      Dọc đường Percy sẽ phải đương đầu với các kẻ thù đầy sức mạnh, khám phá ra sự thật về vị thần Pan đã mất tích, và đối mặt với bí mật kinh khủng nhất của người đứng đầu các thần Titan-Kronos. Cuộc chiến cuối cùng bắt đầu… với Cuộc chiến chốn Mê Cung đầy ly kỳ và hấp dẫn.


    2. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Dịch từ bản tiếng : The Battle of the Labyrinth, của Rick Riordan




      I

      Thổi bay một ngôi trường nữa là điều tôi hoàn toàn muốn làm trong kỳ nghỉ hè này. Nhưng giờ tôi, vào một buổi sáng thứ Hai tuần đầu tiên của tháng Sáu, ngồi trong ô tô của mẹ trước ̉ng trường trung học Goode ở 81 phố Đ

      Goode là một tòa nhà lớn làm bằng đá kết nâu quay mặt ra Sông Đông. Một đống xe BMW và Lincoln Town Car đậu phía bên ngoài. Liếc nhìn chiếc ̉ng tò vò bằng đá xinh đẹp, tôi tự hỏi biết mình sẽ trụ được bao lâu trước khi bị tống ̉ khỏi đây.

      “Thư giãn .” Mẹ tôi nói, nhưng nghe giọng bà chẳng có vẻ gì là thư giãn cả. “Đây chỉ là một buổi học ̣nh hướng. Và nhớ rằng, con , đây là trường của Paul. Vì vậy hãy ́ ... con biết đấy.”

      “Phá hủy?”

      “Đúng.”

      Paul Blofis, bạn trai của mẹ tôi, đứng ngoài chào đón những học sinh lớp chín tương lai khi họ bước lên các bậc thềm. Với mái tóc hoa râm, quần áo bằng vải jean và áo khoác da, ông ấy làm tôi nghĩ đến một diễn viên truyền hình, nhưng ông ấy thực ra chỉ là một giáo viên tiếng mà thôi. Ông đã thành công trong việc thuyết phục trường trung học Goode nhận tôi vào lớp chín của trường, dù sự thật là tôi đã bị đuổi khỏi mọi trường học mà tôi từng đặt chân qua. Tôi đã ́ gắng cảnh báo ông rằng đó phải là một ý tưởng hay ho, nhưng ông ấy chẳng thèm nghe.

      Tôi nhìn mẹ. “Mẹ vẫn chưa nói cho ông ấy sự thật về con sao?”

      Mẹ tôi gõ gõ ngón tay vô lăng một cách bối rối. Bà mặc đẹp cho một buổi phỏng vấn xin việc – với chiếc váy và đôi giày cao gót màu xanh đẹp nhất của bà.

      “Mẹ nghĩ chúng ta nên chờ đợi,” bà thú nhận.

      “Để ông ấy sợ hãi và bỏ chạy mất.”

      “Mẹ tin là buổi học ̣nh hướng sẽ tốt thôi, Percy. Chỉ một buổi sáng thôi mà.”

      “Tuyệt,” tôi lẩm bẩm. “Con thậm chí có thể bị đuổi khỏi trường trước khi bắt đầu năm học.”

      “Lạc quan lên nào. Ngày mai con sẽ được tới trại. Sau buổi học ̣nh hướng, con sẽ có buổi hẹn hò...”

      “Đó phải là hẹn hò!” tôi phản đối. “Đó là Annabeth mà mẹ. Trời ạ...!”

      “Con bé lặn lội từ trại tới đây để gặp con đấy.”

      “Ừm, vâng.”

      “Bọn con sẽ xem phim.”



      “Và chỉ có hai con thôi.”

      “Mẹ!”

      Bà giơ hai tay lên như đầu hàng, nhưng tôi dám chắc là bà hết sức ́ gắng để bật cười. “Tốt hơn hết là con nên vào trong , con . Mẹ sẽ gặp con tối nay.”

      Khi chuẩn bị bước ra khỏi xe, tôi ngước nhìn lên các bậc thềm của trường. Paul Blofis đón một bé có mái tóc đỏ uốn quăn thành búp. gái mặc áo phông màu hạt dẻ và quần jean kiểu rách rưới được trang trí bằng các hình vẽ được vẽ bằng bút lông. Khi gái quay người, tôi thoáng nhìn thấy gương mặt của ta, gương mặt làm lông tay tôi dựng đứng cả lên.

      “Percy?” mẹ tôi hỏi. “Có chuyện gì ổn sao?”

      “Kh... có gì ạ,” tôi lắp bắp. “Trường có ̉ng phụ chứ mẹ?”

      “Phía cuối dãy nhà ở bên phải. Sao vậy con?”

      “Con sẽ gặp mẹ sau.”

      Mẹ tôi ̣nh nói thêm điều gì đó nhưng tôi đã chui ra khỏi xe và chạy , trong lòng hy vọng gái tóc đỏ kia sẽ thấy được tôi.

      ta làm gì ở đây nhỉ? Ngay cả may mắn của tôi cũng tệ như thế này chứ.

      Đúng vậy. Tôi sẽ dần khám phá ra rằng may mắn của tôi có thể làm cho toàn bộ chuyện này trở nên tệ hơn nhiều.

      ***


      Việc lén lút vào lớp ̣nh hướng diễn ra cũng suôn sẻ. Hai hoạt náo viên trong bộ đồng phục màu tía và trắng đứng ở ̉ng phụ, chờ đợi để sẵn sàng phục kích những học sinh mới.

      “Chào!” Bọn họ cười, điệu cười mà tôi nghĩ rằng đó là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng tôi thấy một hoạt náo viên thân thiện với tôi đến vậy. Một tóc vàng hoe với đôi mắt xanh dương nhạt. còn lại là người Mỹ gốc Phi với mái tóc đen quăn tít như đầu tóc của mụ Medusa (và hãy tin tôi , tôi biết mình nói đến cái gì). Cả hai gái đều có tên thêu đồng phục, nhưng với chứng khó đọc của tôi thì mấy chữ ấy chẳng khác nào những sợi mì ống vô nghĩa.

      “Chào mừng đến với Goode,” gái tóc vàng nói. “Cậu chắc chắn sẽ quý nơi này.”

      Nhưng khi ta người tôi, biểu hiện của ta lại nói, Eo, cái gã đần này ở đâu ra vậy?

      gái còn lại bước tới gần tôi một cách khó chịu. Tôi quan sát tên thêu đồng phục của ta và đọc được chữ: Kelli. ta có mùi thơm của hoa hồng và một mùi nữa – tôi nhận ra nhờ bài học cưỡi ngựa khi ở trại – mùi của những con ngựa khi vừa được tắm. Với một hoạt náo viên thì mùi đó thật kỳ cục. Có thể ta sở hữu một con ngựa hoặc cái gì đó. Dù sao thì ta cũng đứng quá gần và tôi cảm tưởng ta sắp sửa đẩy tôi ngã xuống bậc thang. “Tên cậu là gì, con cá kia?”

      “Cá?”

      “Học sinh mới.”

      “Ừm, Percy.”

      Hai gái nhìn nhau.

      “Ồ, Percy Jackson,” gái tóc vàng nói. “Bọn tôi đợi cậu đấy.”

      Ôi trời, tôi lạnh cả sống lưng. Bọn chúng đứng chắn lối , môi nở một nụ cười mấy thân thiện. Theo bản năng tay tôi lần xuống dưới túi, nơi tôi cất cây bút vũ khí gây chết người của mình – cây Thủy Triều.

      Một giọng nói khác vọng lại từ bên trong tòa nhà: “Percy?” Đó là Paul Blofis, giọng nói phát ra từ đâu đó phía cuối hành lang. Tôi chưa bao giờ cảm thấy vui mừng đến thế này khi nghe giọng ông ấy.

      Hai gái hoạt náo viên lùi lại. Tôi vội vã chạy vụt qua họ nên đã vô tình húc đầu gối vào đùi Kelli.

      Keng!

      Chân của ta tạo ra một thanh của kim loại rỗng, giống như tôi vừa húc phải cái ̣t cờ vậy.

      “Á,” ta càu nhàu. “Phải nhìn đường chứ, con cá kia.”

      Tôi liếc nhanh xuống, nhưng chân của ta trông vẫn bình thường. Tôi quá sốc để có thể đặt ra bất cứ một câu hỏi nào. Tôi lao vào hành lang, sau lưng còn vang lên tiếng cười nhạo báng của hai gái.

      “Cháu đây rồi!” Paul nói. “Chào mừng cháu đến với Goode!”

      “Chào Paul – vâng, bác Blofis.” Tôi liếc nhìn lại đằng sau, nhưng hai hoạt náo viên kỳ lạ kia đã biến mất.

      “Percy, nhìn cháu giống như vừa gặp ma vậy.”

      “Dạ,

      Paul vỗ vào lưng tôi. “Nghe này, ta biết cháu hồi hộp, nhưng chớ có lo lắng. Ở đây có rất nhiều đứa trẻ cũng bị tăng động giảm chú ý và chứng khó đọc. Các thầy sẽ biết cách giúp các cháu.”

      Tôi chỉ muốn phì cười. Phải chi tăng động giảm chú ý và chứng khó đọc là nỗi lo lớn nhất của tôi. Thực ra tôi biết Paul ́ gắng giúp tôi, nhưng nếu tôi nói cho ông ấy biết sự thật về tôi, hoặc ông ấy sẽ nghĩ tôi bị điên, hoặc sẽ thét lên và bỏ chạy. Hai đứa hoạt náo viên kia là một ví dụ. Tôi có một linh cảm rất xấu về bọn họ...

      Tôi nhìn về cuối hành lang, chợt nhớ ra tôi còn một vấn đề khác nữa. gái tóc đỏ mà tôi nhìn thấy ngoài ̉ng trường vào từ ̉ng chính.

      Đừng nhìn thấy tôi nhé, tôi thầm cầu nguyện.

      Nhưng ta đã để ý thấy tôi và đôi mắt ta mở lớn.

      “Lớp ̣nh hướng ở đâu vậy?” Tôi hỏi Paul.

      “Trong phòng tập thể dục. Phía đó. Nhưng...”

      “Tạm biệt.”

      “Percy?” ông ấy gọi, nhưng tôi đã chạy mất.

      Tôi nghĩ mình đã bỏ rơi được ta.

      Một đám trẻ tiến đến phòng thể dục và trong chốc lát tôi trở thành một trong ba trăm đứa trẻ mười bốn tuổi ngồi chật ních khán đài. Ban nhạc diễu hành chơi sai điệu bài hát của đội, thanh của nó nghe như người ta đánh cây gậy bóng chày bằng kim loại vào một túi đựng toàn mèo vậy. Những đứa trẻ lớn hơn, có lẽ là thành viên của hội học sinh, đứng lên đằng trước làm mẫu đồng phục của trường Goode, trông đúng kiểu: Này, chúng ta nhìn thật bảnh! Các giáo viên đứng quanh cười và bắt tay các học sinh. Những bức tường của phòng tập dán đầy biển hiệu lớn màu tía và màu trắng viết CHÀO MỪNG NHỮNG HỌC SINH MỚI TƯƠNG LAI, GOODE RẤT TỐT, TẤT CẢ CHÚNG TA LÀ MỘT GIA ̀NH, và hàng đống những khẩu hiệu vui vẻ khác tuyệt vời đến nỗi làm tôi cảm thấy buồn nôn.

      Chẳng có một học sinh mới nào trông sung sướng khi ở đây cả. Ý tôi là chẳng vui vẻ gì khi phải theo học lớp ̣nh hướng vào tháng Sáu trong khi phải đến tháng Chín năm học mới mới bắt đầu, nhưng ở Goode, “Chúng tôi chuẩn bị sớm để trở nên vượt trội!” Ít nhất thì đó là điều được nói trong tài liệu giới thiệu của trường.

      Ban nhạc diễu hành đã ngừng chơi. Một chàng trai trong bộ quần áo kẻ sọc đến chỗ micro và bắt đầu nói, thanh vọng khắp cả phòng tập nên tôi cũng chẳng rõ ta nói gì. Có lẽ ta mới ở khúc dạo đầu.

      Có ai đó túm lấy vai tôi. “Cậu làm gì ở đây vậy?”

      Chính là ta: cơn ác mộng tóc đỏ của tôi.

      “Rachel Elizabeth Dare,” tôi nói.

      ta há hốc miệng như thể ta thể tin được là tôi còn dám nhớ cái tên của ta. “Và cậu là Percy gì đó. Tôi kịp hỏi họ tên đầy đủ của cậu khi cậu ́ giết tôi vào tháng Mười hai năm ngoái.”

      “Ồ, tôi làm – tôi – cậu làm gì ở đây vậy?”

      “Giống cậu thôi, tôi đoán vậy. Lớp học ̣nh hướng.”

      “Cậu sống ở New York à?”

      “Cái gì, cậu nghĩ tôi sống ở Đập Hoover chắc?”

      Tôi chưa bao giờ nghĩ đến điều đó. Bất cứ khi nào tôi nghĩ về ta (tôi nói là tôi từng nghĩ về ta, ta chỉ thỉnh thoảng thoáng qua trong tâm trí của tôi thôi, ok?), tôi luôn cho rằng ta sống ở khu vực Đập Hoover, bởi đó là nơi chúng tôi gặp nhau. Chúng tôi đã có khoảng mười phút ở cùng nhau, trong thời gian đó tôi đã vô tình vung kiếm vào ta, ta đã cứu sống tôi, và tôi bỏ chạy vì bị những ̃ máy giết người siêu nhiên rượt đuổi. Bạn biết đấy, một kiểu gặp gỡ tình cờ điển hình!

      Một vài gã con trai đằng sau chúng tôi thì thầm, “Này, im nào. Các hoạt náo viên nói đấy!”

      “Xin chào, các chàng trai!” một gái hét vào micro. Đó chính là gái tóc vàng tôi đã nhìn thấy ở lối vào. “Tên tôi là Tammi, và đây là Kelli.” Kelli thực hiện một động tác nhào lộn.

      Bên cạnh tôi, Rachel kêu léo nhéo như thể ai đó dùng ghim đâm ấy. Một vài đứa nhóc nhìn qua và cười khúc khích, nhưng Rachel chỉ nhìn chằm chằm vào nhóm hoạt náo viên với vẻ khiếp sợ. Tammi dường như hề để ý đến đám đông. ta bắt đầu nói về tất cả những điều tuyệt vời mà chúng tôi có thể có trong năm học đầu tiên.

      “Chạy ,” Rachel nói với tôi. “Ngay bây giờ.”

      “Tại sao

      Rachel giải thích. ta tìm cách chen lấn qua đám đông để ra phía lối của khán đài, bất chấp những cái cau mày của giáo viên và cả tiếng làu bàu của những đứa nhóc khác mà giẫm chân lên.

      Tôi do dự. Tammi giải thích cho chúng tôi lý do của việc chia thành từng tốp và thăm thú quanh trường. Kelli bắt gặp ánh mắt của tôi và tặng cho tôi một nụ cười thích thú, giống như ta chờ đợi xem tôi sẽ phản ứng thế nào. Sẽ thật tệ nếu tôi rời ngay lúc này. Paul Blofis ở bên dưới với các giáo viên khác. Chắc hẳn ông sẽ tự hỏi biết có điều gì bất ổn với tôi.

      Sau đó tôi nghĩ về Rachel Elizabeth Dare và khả năng đặc biệt mà ta đã trình diễn mùa đông năm ngoái ở Đập Hoover. ấy có thể nhìn thấy đám nhân viên bảo vệ, những kẻ chẳng làm bảo vệ giờ nào, những kẻ thậm chí phải con người. Tim tôi đập thình thịch, tôi theo ta ra khỏi phòng tập.

      Tôi tìm thấy Rachel trong phòng của ban nhạc diễu hành. ấy trốn sau cái trống cái.

      qua đây!” ấy nói. “Cúi thấp đầu xuống!”

      Tôi thấy mình thật ngu ngốc khi trốn sau một bộ trống bongo(1), nhưng tôi vẫn núp bên cạnh ấy.

      “Bọn họ có theo cậu ?” Rachel hỏi.

      “Ý cậu là các hoạt náo viên ấy hả?”

      ấy gật đầu lo lắng.

      “Tôi nghĩ vậy đâu,” tôi nói. “Bọn họ là cái gì vậy? Mà cậu đã nhìn thấy cái gì?”

      Đôi mắt xanh của ấy bừng lên nỗi sợ hãi. có một chút tàn nhang má, làm tôi nhớ đến những chòm sao. Chiếc áo phông màu hạt dẻ của có chữ NGÀNH NGHỆ THUẬT HARVARD. “Cậu... cậu sẽ tin tôi đâu.”

      “Ồ có chứ, tôi sẽ tin,” tôi hứa. “Tôi biết cậu có thể nhìn thấu Màn Sương Mù mà.”

      “Nhìn thấu cái gì cơ?”

      “Màn Sương Mù. Đó là... ừm, nó giống như một tấm màn che giấu sự thật. Một số người bình thường sinh ra đã có khả năng nhìn xuyên qua nó. Như cậu chẳng hạn.”

      ấy nhìn tôi cẩn trọng. “Ở Đập Hoover cậu cũng nói vậy. Cậu gọi tôi là con người. Cứ như cậu phải vậy.”

      Tôi cảm thấy tim như đánh trống. Tôi nghĩ gì vậy nhỉ? Tôi thể giải thích. Thậm chí tôi muốn làm điều đó.

      “Nói cho tôi biết ,” ấy nài nỉ. “Cậu biết nó có nghĩa là gì mà. Tất cả những thứ khủng khiếp tôi đã nhìn thấy ấy?”

      “Nghe này, điều này nghe có vẻ thật điên rồ. Cậu biết chút gì về thần thoại Hy Lạp ?”

      “Giống như... Quái vật Minotaur và Hydra à?”

      “Đúng rồi, hãy ́ đừng nói tên chúng khi ở cạnh tôi, được ?”

      “Và Furies,” ấy trở nên sôi nổi. “Và Sirens, và...”

      “Được rồi!” Tôi nhìn quanh sảnh của phòng nhạc, chắc mẩm rằng việc làm vừa rồi của Rachel khiến một lũ quái vật xấu xa khát máu sẽ nhảy xổ ra khỏi các bức tường, nhưng may mắn chúng tôi vẫn chỉ có một mình. Cuối hành lang, tôi nghe thấy đám trẻ chạy ra khỏi phòng tập thể dục. Bọn họ bắt đầu tham quan theo nhóm. Chúng tôi có nhiều thời gian để nói chuyện với nhau.

      “Tất cả lũ quái vật đó,” tôi nói, “tất cả những vị thần Hy Lạp – là có thật.”

      “Tôi biết mà!”

      Tôi sẽ cảm thấy thoải mái hơn nhiều nếu ấy gọi tôi là một kẻ nói dối, nhưng biểu hiện của Rachel giống như tôi vừa khẳng ̣nh sự nghi ngờ tồi tệ nhất của ấy.

      “Cậu biết tôi đã khổ sở thế nào đâu,” ấy nói. “Bao năm qua tôi cứ nghĩ mình bị điên. Tôi thể nói điều đó với bất kỳ ai. Tôi thể...” Đôi mắt ấy nheo lại. “Đợi đã. Cậu là ai? Ý tôi là cậu thực sự là ai?”

      “Tôi phải là quái vật.”

      “Ồ, tôi biết điều đó. Tôi có thể biết nếu cậu là quái vật mà. Cậu trông giống... cậu thôi. Nhưng cậu phải là người, đúng ?”

      Tôi nuốt nước miếng. Mặc dù tôi đã có ba năm để làm quen với việc tôi là ai, nhưng tôi chưa bao giờ nói điều này với bất cứ một người thường nào – ý tôi là, ngoại trừ mẹ tôi, nhưng bà đã biết từ trước rồi. Tôi biết tại sao, nhưng tôi quyết tâm nói ra.

      “Tôi là con lai. Tôi chỉ có một nửa là người.

      “Và một nửa còn lại?”

      Ngay sau đó Tammi và Kelli bước vào phòng tập nhạc. Cánh cửa đóng sầm lại đằng sau họ.

      “A! Percy Jackson đây rồi,” Tammi nói. “Đã đến lúc bắt đầu buổi học ̣nh hướng của ngươi rồi đấy.”

      “Nhìn họ thật khủng khiếp!” Rachel thở hổn hển.

      Tammi và Kelli vẫn mặc bộ đồng phục ̉ vũ màu tía và trắng, tay là những quả bông ̉ vũ.

      “Trông họ như thế nào?” Tôi hỏi, nhưng Rachel có vẻ quá kinh hãi để có thể trả lời.

      “Ồ, quên ta .” Tammi trao cho tôi một nụ cười rạng rỡ và bắt đầu về phía chúng tôi. Kelli vẫn đứng chỗ cánh cửa để chặn đường ra.

      Bọn chúng dồn chúng tôi lại. Tôi biết chúng tôi sẽ phải chiến đấu để thoát ra, nhưng nụ cười của Tammi quá rạng rỡ, nó làm tôi phân tâm. Đôi mắt xanh của ta rất đẹp, và nhìn những lọn tóc của ta rớt xuống đôi vai ...

      “Percy,” Rachel cảnh báo tôi.

      Tôi trả lời một câu thể thông minh hơn: “Ừmmm?”

      Tammi tiến ngày càng gần hơn. ta đưa quả bông ra.

      “Percy!” Tiếng của Rachel dường như vọng lại từ một nơi rất xa. “Tỉnh lại nào!”

      Nó làm tiêu tan hết ý chí của tôi, nhưng tôi cũng lấy được cây bút ra khỏi túi và mở nắp nó. Thủy Triều trở thành một thanh kiếm bằng đồng dài một mét, lưỡi kiếm rực sáng với ánh sáng vàng mờ ảo. Nụ cười của Tammi đã trở thành một nụ cười khinh bỉ.

      “Ồ, thôi nào,” ta cự nự. “Cậu cần phải làm thế đâu. Mình hãy thay bằng một nụ hôn nhé?”

      ta có mùi hoa hồng và mùi lông động vật mới được tắm rửa – một mùi thật kỳ quặc nhưng lại làm người ta say mê.

      Rachel véo cánh tay tôi một cái đau điếng. “Percy, ta muốn cắn ̉ cậu đấy! Hãy nhìn ta !”

      ta ghen đấy.” Tammi ngoái lại nhìn Kelli. “Tôi có thể , chủ?”

      Kelli vẫn đứng chắn ở cửa, liếm môi một cách thèm thuồng. “Tiến lên đTammi. làm rất tốt đấy.”

      Tammi tiến về phía trước thêm một bước nữa, nhưng tôi đã kịp chĩa mũi kiếm của tôi vào ngực ta. “Lùi lại.”

      ta gầm gừ. “Học sinh mới,” gái nói với thái độ căm phẫn. “Đây là trường của chúng ta, con lai. Chúng ta ăn những người mà chúng ta chọn!”

      Sau đó ta bắt đầu thay đổi. Màu sắc dần biến mất khỏi mặt và hai cánh tay của ta. Da ta chuyển thành màu trắng như phấn và đôi mắt thì đỏ rực. Răng ta biến thành những cái nanh.

      “Một con ma cà rồng!” Tôi lắp bắp. Và tôi để ý chân của ta. Ngay bên dưới gấu của chiếc váy ̉ vũ, chân trái của ta có màu nâu và xù xì với móng guốc của con lừa. Chân phải của ta có hình dạng giống chân người, nhưng nó được làm bằng đồng. “Uhhh, một con ma cà rồng với ...”

      “Đừng đề cập tới đôi chân!” Tammi cáu kỉnh nói. “Làm thế thật là hỗn láo!”

      ta tiến lên với đôi chân cọc cạch và kỳ cục. Nhìn ta vô cùng kỳ quái, đặc biệt là với quả bông ̉ vũ, nhưng tôi thể cười nổi khi đối diện với cặp mắt đỏ và bộ răng nanh sắc nhọn ấy.

      “Ngươi nói là một con ma cà rồng à?” Kelli cười lớn. “Một truyền thuyết ngu ngốc ăn theo bọn ta, đồ đần. Bọn ta là empousai, đầy tớ của Hecate(2).”

      “Mmmm.” Tammi tiến gần hơn về phía tôi. “Ma thuật bóng tối tạo ra bọn ta từ động vật, đồng, và những hồn ma! Bọn ta tồn tại để hút máu những chàng trai trẻ. Giờ thì đến đây nào, để ta hôn ngươi một cái !”

      ta nhe nanh ra. Tôi đã tê liệt đến nỗi thể cử động được, nhưng Rachel đã ném một cái trống con có dây chằng vào đầu con empousai.

      Con quái vật rít lên và hất cái trống ra xa. Nó lăn tròn dọc lối giữa các giá nhạc, những cái lò xo đập bùng bùng vào mặt trống. Rachel ném một cái mộc cầm, nhưng con quái vật lại tiếp tục hất nó ra.

      “Ta hay giết bọn con gái đâu,” Tammi gầm gừ. “Nhưng với đứa con gái người trần như ngươi, ta sẽ có ngoại lệ. Thị lực của ngươi tốt quá mức cần thiết đấy!”

      ta lao vào tấn công Rachel.

      !” Tôi vung Thủy Triều lên. Tammi đã ́ gắng tránh cú đánh, nhưng tôi đã chém ngang bộ đồng phục ̉ vũ của ta, với tiếng gào lớn ta nổ tung thành đám bụi phủ lên Rachel.

      Rachel ho sặc sụa. Trông giống như ấy vừa bị một túi bột đổ vào đầu. “Thật kinh khủng!”

      “Là do lũ quái vật đấy,” tôi nói. “Xin lỗi.”

      “Ngươi đã giết người tập sự của ta!” Kelli gào lên. “Ngươi cần một bài học về tinh thần đấy, đồ con lai!”

      Sau đó ta bắt đầu biến hình. Mái tóc cứng đơ của ta chuyển thành những đốm lửa lập lòe. Đôi mắt chuyển sang màu đỏ. Và những cái nanh. ta lao về phía chúng tôi, bàn chân bằng đồng và bộ móng gõ của ta gõ lọc cọc nền phòng nhạc của ban nhạc diễu hành.

      “Ta là empousa cấp cao,” ta gầm gừ. “ một hùng nào có thể chiến thắng ta hàng ngàn năm nay.”

      “Vậy sao?” Tôi nói. “Giờ thì ngươi đã quá hạn rồi!”

      Kelli nhanh hơn Tammi rất nhiều. ta tránh được cú tấn công đầu tiên của tôi và lăn vào bộ trống, hất ngã đống kèn trombon tạo nên thanh loảng xoảng cực lớn. Rachel bò ra khỏi chỗ trốn. Tôi đứng giữa ấy và con empousa. Kelli xoay vòng quanh chúng tôi, mắt ta di chuyển từ tôi về phía thanh kiếm.

      “Một thanh kiếm nhỏ xinh xắn đấy,” ta nói. “Thật đáng tiếc là nó chắn giữa hai chúng ta.”

      Hình dáng ta lấp lóe – lúc là một con quỷ, lúc lại là một hoạt náo viên xinh đẹp. Tôi ́ gắng giữ cho tinh thần tập trung, nhưng nó đã thật sự bị xao nhãng mất rồi.

      “Đáng thương quá.” Kelli chặc lưỡi. “Ngươi thậm chí còn chẳng biết chuyện gì diễn ra đúng ? Sẽ nhanh thôi, cái trại nhỏ xinh đẹp của ngươi sẽ chìm trong biển lửa, bạn bè ngươi sẽ trở thành nô lệ cho Chúa tể Thời gian, và ngươi chẳng thể làm gì để cứu vãn điều đó! Ta sẽ ban ân huệ chấm dứt cuộc sống cho ngươi ngay bây giờ, trước khi ngươi phải chứng kiến cảnh ấy nhé.”

      Tôi nghe được giọng nói vọng lên từ cuối hành lang. Một nhóm học sinh tham quan đến gần. Một người đàn ông nói điều gì đó về những cái khóa số.

      Mắt con empousa sáng lên. “Tuyệt! Chúng ta sắp có bạn đồng hành rồi đấy!”

      ta nhấc một cây kèn tuba lên và ném nó vào tôi. Rachel và tôi cúi nhanh xuống để tránh. Chiếc tuba bay qua đầu chúng tôi và đâm xuyên qua cửa sổ.

      Những giọng nói trong hành lang tắt ngúm .

      “Percy!” Kelli hét lên, giả vờ sợ hãi, “tại sao cậu lại ném nó ?”

      Tôi ngạc nhiên đến nỗi thốt được lời nào. Kelli nhặt một cái giá để nhạc và quẳng mạnh một dàn kèn và sáo. Những chiếc ghế và dụng cụ chơi nhạc đổ rầm xuống sàn nhà.

      “Dừng lại!” Tôi nói.

      Giờ tiếng bước chân về phía chúng tôi ngày càng nhiều và rõ hơn.

      “Đã đến lúc chào đón những vị khách của chúng ta rồi!” Kelli nhe nanh ra và chạy về phía cửa. Tôi đuổi theo ta với thanh Thủy Triều tay. Tôi phải ngăn ta làm bị thương những người thường.

      “Percy, đừng!” Rachel hét. Nhưng tôi đã kịp nhận ra Kelli ̣nh làm gì cho tới khi quá muộn.

      Kelli mở tung cánh cửa. Paul Blofis và một đám học sinh mới dừng bước ngỡ ngàng. Tôi vung kiếm lên.

      Vào giây phút cuối cùng, con empousa hướng về phía tôi giống như một nạn nhân co rúm vì sợ hãi. “Ôi, , xin đừng!” ta khóc thét lên. Tôi thể dừng lưỡi kiếm của mình được nữa. Nó đường của nó.

      Ngay trước lưỡi kiếm bằng đồng celestial chạm vào người ta, Kelli đã nổ tung trong một quầng lửa lớn như khi bạn ném một trái bom xăng vậy. Ngọn lửa nhanh chóng bao trùm mọi thứ. Tôi chưa bao giờ thấy một con quái vật nào làm như vậy trước đây, nhưng tôi có thời gian để băn khoăn về điều đó. Tôi lùi lại vào phòng nhạc khi ngọn lửa bao phủ toàn bộ cửa ra vào.

      “Percy?” Paul Blofis choáng váng, nhìn tôi qua ngọn lửa. “Cháu đã làm gì vậy?”

      Những đứa trẻ la hét và chạy về cuối hành lang. Còi báo cháy rú lên. Vòi phun nước từ trần nhà phun xuống.

      Trong sự hỗn loạn ấy, Rachel kéo mạnh tay áo tôi. “Cậu cần phải khỏi đây ngay!”

      ấy nói đúng. Ngôi trường bốc cháy và tôi sẽ phải chịu trách nhiệm. Người thường thể nhìn thấu Màn Sương Mù. Với họ chỉ giống như là tôi vừa tấn công một hoạt náo viên bất lực trước sự chứng kiến của một nhóm nhân chứng. Tôi có cách nào giải thích. Tôi quay người khỏi Paul và chạy thật nhanh qua những ô cửa sổ bị vỡ

      Tôi lao ra khỏi con hẻm thông với Phố 81 Đông và đâm sầm vào Annabeth.

      “Chào, cậu ra sớm thế!” ấy cười, giữ vai tôi để tôi khỏi ngã nhúi mặt xuống đường. “Nhìn đường chứ, Óc Tảo Biển.”

      Trong một phần giây ấy trong tâm trạng tốt và mọi thứ đều ổn thỏa. ấy mặc quần jean, áo phông màu cam của trại và đeo chuỗi hạt bằng đất sét. Mái tóc vàng của được ̣t đuôi ngựa. Đôi mắt xám tro sáng lấp lánh. Trông ấy như sẵn sàng cho một buổi xem phim, một buổi chơi cùng nhau vào một buổi chiều mát mẻ.

      Thế rồi Rachel Elizabeth Dare, vẫn còn đầy bụi của con quái vật, chạy ra khỏi hẻm, hét lớn, “Percy, đợi đã!”

      Nụ cười của Annabeth tắt ngúm. ấy nhìn chằm chằm vào Rachel, sau đó là ngôi trường. Có lẽ đến giờ ấy mới chú ý tới đám khói đen và chuông báo cháy.

      ấy cau mày nhìn tôi. “Lần này cậu lại làm gì thế? Và đây là ai?”

      “Ồ, Rachel – Annabeth. Annabeth – Rachel. Ừm, ấy là một người bạn. Tớ đoán vậy.”

      Tôi chắc có một từ nào khác để gọi Rachel. Ý tôi là, tôi chỉ mới biết ấy, nhưng sau hai lần ở cùng nhau trong các tình thế sống-hoặc-chết, tôi thể chỉ gọi ấy là -ai-cả.

      “Chào,” Rachel nói. Sau đó quay sang tôi. “Cậu gặp rất nhiều rắc rối. Và cậu vẫn nợ tôi một lời giải thích đấy!”

      Còi xe cảnh sát kêu inh ỏi phố FDR Drive.

      “Percy,” Annabeth lạnh lùng nói. “Chúng ta nên thôi.”

      “Tôi muốn biết nhiều hơn về con lai,” Rachel nài nỉ. “Và quái vật, và những câu chuyện về các vị thần.” ấy nắm lấy cánh tay tôi, lấy ra một cây bút lông dầu và viết một số điện thoại lên tay tôi. “Cậu sẽ gọi cho tôi và giải thích, đúng ? Cậu nợ tôi điều đó. Còn giờ thì !”

      “Nhưng ...”

      “Tôi sẽ bịa ra một vài câu chuyện,” Rachel nói. “Tôi sẽ nói với họ đó phải là lỗi của cậu. Cậu !”

      Nói rồi ấy chạy về lại trường, bỏ lại Annabeth và tôi ở đó.

      Annabeth nhìn tôi một giây. Sau đó ấy quay lưng bỏ .

      “Này!” Tôi chạy theo sau Annabeth. “Ở đây có hai con empousa,” tôi ́ giải thích. “Chúng là hoạt náo viên viên, cậu hiểu , và chúng nói rằng trại sẽ bị đốt cháy, và...”

      “Và cậu kể cho một đứa con gái người trần mắt thịt về chuyện con lai à?”

      ấy có thể nhìn thấu Màn Sương Mù. ấy còn nhận ra bọn quái vật trước cả tớ.”

      “Nên cậu kể cho ta hết sự thật.”

      ấy nhận ra tớ từ lúc ở Đập Hoover, nên...”

      “Cậu đã gặp ta từ trước à?”

      “Ừm, mùa đông năm ngoái. Nhưng nghiêm túc mà nói, tớ chỉ biết ấy qua loa.”

      ta khá dễ thương đấy!”

      “Tớ... Tớ chưa bao giờ nghĩ về điều đó.”

      Annabeth vẫn tiếp tục về phía Đại lộ York.

      “Tớ sẽ giải quyết chuyện ở trường,” tôi hứa, lo lắng thay đổi chủ đề. “Thật đấy, sẽ ổn cả thôi.”

      Annabeth thậm chí thèm nhìn tôi. “Tớ nghĩ buổi chiều của chúng ta thế là xong rồi. Giờ phải rời khỏi đây, vì chắc giờ cảnh sát chuẩn bị tìm bắt cậu đấy.”

      Đằng sau chúng tôi, khói bốc lên từ trường Trung học Goode. Trong ̣t khói đen của tro tàn, tôi nghĩ có thể mình đã nhìn thấy một khuôn mặt gian xảo với đôi mắt đỏ cười nhạo tôi.

      Trại nhỏ đáng của ngươi chìm trong lửa, Kelli đã nói. Bạn của ngươi sẽ trở thành nô lệ cho Chúa tể Thời gian.

      “Cậu nói đúng,” tôi nói với Annabeth, tim tôi se lại. “Chúng ta phải về Trại Con Lai. Ngay bây giờ.”

    3. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      II


      có điều gì làm kết thúc một buổi sáng tuyệt đẹp bằng việc ngồi một chiếc taxi đường dài với một gái giận dữ.

      Tôi ́ nói chuyện với Annabeth, nhưng ấy hành động như thể tôi vừa mới đấm vào người bà ấy vậy. Tôi nỗ lực hết mình cũng chỉ moi được ở ấy vài thông tin, đại loại như là: mùa xuân lúc nhúc đầy quái vật của ấy ở San Francisco; ấy đã quay trở lại trại hai lần kể từ khi Giáng sinh nhưng nói cho tôi biết tại sao (điều này làm tôi hơi bực, vì Annabeth thậm chí còn thèm chẳng nói cho tôi là ấy đã ở New York); và ấy chẳng có thông tin gì về chỗ ở của Nico di Angelo (một câu chuyện dài).

      “Có thông tin gì về Luke ?” tôi hỏi.

      ấy lắc đầu. Tôi biết đây là một chủ đề nhạy cảm đối với ấy. Annabeth đã luôn ngưỡng mộ Luke, cựu ́ vấn cấp cao cho thần Hermes, người đã phản bội chúng tôi theo Chúa tể Kronos độc ác. ấy sẽ thừa nhận, nhưng tôi biết rằng ấy vẫn còn thích hắn ta. Khi chúng tôi chiến đấu với Luke núi Tamalpais mùa đông năm ngoái, hiểu bằng cách nào hắn có thể sống sót khi rơi xuống từ vách đá cao mười lăm mét. Giờ đây, như tôi được biết, hắn ta vẫn chu du con thuyền lúc nhúc quái vật trong khi chờ đợi Chúa tể Kronos bị băm thành từng mảnh nhỏ của hắn tái sinh, từng chút từng chút một, trong một cái quách vàng và chờ đợi cho đến khi hắn đủ sức mạnh để thách thức với các vị thần ̉nh Olympus. Trong ngôn ngữ của á thần, chúng tôi gọi nó là một “rắc rối.”

      “Núi Tam vẫn đầy quái vật,” Annabeth nói. “Tớ dám lại gần, nhưng tớ nghĩ Luke ở đó. Tớ nghĩ mình sẽ biết nếu ta ở đó.”

      Điều đó chẳng hề làm tôi cảm thấy dễ chịu hơn. “Còn Grover thì sao?”

      “Cậu ấy ở trại,” ấy nói. “Hôm nay chúng ta sẽ gặp cậu ấy.”

      “Cậu ấy có gặp chút may mắn nào ? Ý tớ là, trong việc tìm kiếm thần Pan ấy?”

      Annabeth sờ sờ chuỗi vòng ̉, cách ấy vẫn thường làm mỗi khi lo lắng.

      “Cậu sẽ biết thôi,” Annabeth nói. Nhưng giải thích gì thêm.

      Khi chúng tôi qua Brooklyn, tôi lấy điện thoại của Annabeth gọi cho mẹ tôi. Con lai như chúng tôi ́ sử dụng điện thoại di động nếu chúng tôi có thể tránh, vì việc truyền tiếng nói của chúng tôi cũng tương tự việc bắn pháo sáng thông báo cho bọn quái vật rằng: Ta ở đây này! Hãy đến ăn ta ! Nhưng tôi nghĩ cuộc điện thoại này là quan trọng. Tôi để lại một tin nhắn hộp thư thoại ở nhà, ́ gắng giải thích chuyện đã xảy ra ở Goode. Có lẽ tôi đã làm tốt. Tôi nói với mẹ rằng tôi ổn, bà cần phải lo lắng, nhưng tôi sẽ ở lại trại cho đến khi mọi chuyện dịu . Tôi bảo bà nói với Paul Blofis rằng tôi xin lỗi.

      chúng tôi trong im lặng. Thành phố khuất dần cho đến khi chúng tôi rời khỏi đường cao tốc và chạy qua vùng nông thôn phía bắc Long Island, qua những vườn cây ăn quả, các nhà máy rượu vang và các cửa hàng bán sản phẩm tươi.

      Tôi chăm chú nhìn số điện thoại mà Rachel Elizabeth Dare đã ghi vội vào tay tôi. Tôi biết điều này là điên rồ, nhưng có gì như thôi thúc tôi phải gọi điện cho ấy. Có thể ấy sẽ giúp tôi hiểu về những điều mà empousa đã nói – việc trại bị thiêu cháy, bạn bè tôi bị bắt giữ. Và tại sao Kelli nổ tung thành lửa?

      Tôi biết lũ quái vật bao giờ thật sự chết cả. Cuối cùng – có thể sau vài tuần, vài tháng, hoặc vài năm – Kelli sẽ hồi sinh trong hình dáng nguyên thủy xấu xí của nó từ phủ. Tuy nhiên, lũ quái vật thường chẳng bao giờ để cho mình bị tiêu diệt một cách dễ dàng. Đó là nếu ta đã thật sự bị tiêu diệt.

      Chiếc taxi ra khỏi tuyến đường 25A. Chúng tôi thẳng xuyên qua các khu rừng North Shore cho đến khi một dãy đồi thấp xuất hiện phía bên trái. Annabeth bảo người lái xe dừng xe tại số 3.141 Farm Road, dưới chân Đồi Con Lai.

      Người lái xe cau mày. “Ở đây chẳng có gì cả, gái. có chắc là muốn xuống xe ?”

      “Vâng, đúng ạ.” Annabeth đưa cho ta một cuộn tiền mặt, và người lái xe quyết ̣nh tranh luận nữa.

      Annabeth và tôi bộ lên ̉nh đồi. Chú rồng con bảo vệ lơ mơ ngủ, cuộn tròn quanh cây thông, nhưng nó ngẩng cái đầu bằng đồng lên khi chúng tôi tiến đến và để Annabeth gãi gãi bên dưới cằm nó. Hơi nước kêu xì xì từ lỗ mũi của con rồng như một cái ấm nước và nó lim dim mắt đầy sung sướng.

      “Chào, Peleus,” Annabeth nói. “Giữ mọi thứ an toàn chứ?”

      Lần cuối cùng tôi nhìn thấy con rồng là khi nó dài gần hai mét. Bây giờ nó đã dài ít nhất là gấp đôi rồi, và to như cái cây mà nó cuốn quanh vậy. đầu nó, ở nhánh thấp nhất của cây thông, Bộ Lông Cừu Vàng sáng lấp lánh, ma thuật của nó bảo vệ biên giới của trại khỏi bị tấn công. Con rồng dường như nghỉ ngơi, như thể mọi thứ đều yên ổn. Dưới kia, Trại Con Lai nhìn có vẻ yên bình – những cánh đồng cỏ, rừng cây, những tòa nhà kiểu Hy Lạp sáng trắng. Căn nhà kiểu trang trại bốn tầng mà chúng tôi gọi là Nhà Lớn tự hào nằm giữa những cánh đồng dâu tây. Về phía bắc, qua bãi biển, Long Island Sound lấp lánh dưới ánh nắng mặt trời.

      Nhưng... có gì đó vẫn ổn. ́ căng thẳng, như thể ngọn đồi nín thở, đợi chờ điều tồi tệ xảy ra.

      Chúng tôi xuống thung lũng và nhận ra khóa học mùa hè bắt đầu rất sôi nổi. Hầu hết các trại viên đã đến từ thứ Sáu tuần trước, vì thế tôi thực sự cảm nhận được điều đó. Các thần rừng thổi sáo cánh đồng dâu, khiến cho các cây dâu lớn nhanh như thổi với ma thuật của rừng sâu. Các trại viên theo học bài học cưỡi ngựa bay, nhào xuống từ bên các khu rừng bên lưng những con pegasus của họ. Khói bốc lên từ các lò rèn, tiếng búa kêu vang khi bọn trẻ tự tạo vũ khí của mình trong giờ học nghệ thuật và thủ công. Các đội thuộc nhà nữ thần Athena và nữ thần Demeter có một cuộc đua xe ngựa quanh đường đua, và phía xa xa ở hồ chứa xuồng, một vài đứa trẻ một tàu chiến ̉ ba tầng Hy Lạp chiến đấu với một con rắn biển lớn màu da cam. Một ngày đặc trưng ở trại.

      “Tớ cần nói chuyện với Clarisse,” Annabeth nói.

      Tôi nhìn ấy chăm chú như thể ấy vừa mới nói Tớ cần ăn một chiếc giày ống lớn bốc mùi vậy. “Để làm gì?”

      Clarisse ở nhà thần Ares là một trong những người tôi ít ưa nhất. ta là một kẻ hay bắt nạt vô ơn và hèn hạ. Cha ta, thần chiến tranh, luôn muốn giết tôi. Còn ta lúc nào cũng muốn đánh tôi nhừ tử mới thôi. Ngoài những điều đó, ta thật tuyệt.

      “Chúng tớ làm dở một số việc,” Annabeth nói. “Tớ sẽ gặp cậu sau.”

      “Làm việc gì?”

      Annabeth nhìn về phía cánh rừng.

      “Tớ sẽ nói với bác Chiron là cậu đã đến,” ấy nói. “Chắc bác ấy sẽ muốn nói với cậu trước khi nghe được.”

      “Nghe cái gì?”

      Nhưng ấy đã chạy chầm chậm xuống con đường dẫn đến khu vực bắn cung mà thèm nhìn lại.

      “Ừ,” tôi thì thầm. “Tớ cũng rất vui được nói chuyện với cậu.”

      đường băng qua trại, tôi chào hỏi một vài người bạn. đường lái xe vào Nhà Lớn, Connor và Travis Stoll thuộc nhà thần Hermes đấu dây khởi động chiếc SUV của trại. Silena Beauregard, ́ vấn trưởng của khu nhà nữ thần Aphrodite vẫy tay chào tôi từ lưng ngựa khi ấy bay qua. Tôi tìm kiếm Grover, nhưng thấy cậu ấy đâu cả. Cuối cùng tôi tha thẩn vào khu vực đấu kiếm, nơ tôi vẫn thường tới khi tâm trạng được tốt. Luyện tập luôn làm tôi cảm thấy bớt căng thẳng hơn. Có lẽ do đánh kiếm là điều duy nhất mà tôi thật sự hiểu được.

      Tôi bước vào đấu trường, tim tôi như ngừng đập. Ở giữa sàn, ngồi quay lưng lại với tôi là con chó ngao lớn nhất mà tôi từng thấy.

      Ý tôi là tôi đã từng nhìn thấy một số con chó ngao to lớn xinh đẹp. Một con to bằng con tê giác đã ́ gắng giết tôi khi tôi mười hai tuổi. Nhưng con chó ngao này thì to hơn cả một cái xe tăng. Tôi hiểu làm sao nó có thể vượt qua ranh giới phép thuật của trại. Giống như ở nhà, nó nằm bẹp dí xuống, gầm gừ một cách hài lòng khi nó nhai đứt đầu một chú lính đánh trận giả. Nó vẫn chưa chú ý đến tôi, nhưng nếu tôi gây tiếng động, tôi biết nó sẽ cảm nhận được. đủ thời gian để kiếm tìm sự trợ giúp. Tôi lấy cây Thủy Triều ra và mở nắp nó.

      “Yaaaaaaah!” Tôi lao tới tấn công. Khi thanh kiếm tiến dần xuống mặt lưng vĩ đại của con quái vật thì một thanh kiếm khác biết xuất hiện từ đâu đã chặn lưỡi kiếm và hóa giải cú tấn công của tôi.

      Con chó vểnh tai lên. “Gâu!”

      Tôi nhảy lùi lại phía sau và theo bản năng tấn công người kiếm sĩ kia – một người đàn ông có mái tóc hoa râm trong bộ giáp Hy Lạp. Ông ta dễ dàng tránh được các đòn tấn công của tôi.

      “Nào nào!” ông ta nói. “Tạm ngừng!”

      “Gâu!” Tiếng sủa của con chó làm rung chuyển cả đấu trường.

      “Nó là một con ngao!” tôi gào lên.

      “Nó vô hại mà,” người đàn ông nói. “Đó là O’Leary.”

      Tôi chớp mắt, “O’Leary?”

      Nghe thấy tên mình, con chó lại tiếp tục sủa. Tôi nhận ra nó giận dữ. Nó thích thú. Nó đẩy đẩy cái đầu đẫm nước, nhai dở về phía người kiếm sĩ kia.

      “Giỏi lắm,” người đàn ông nói. Với tay còn lại ông ấy nắm phần thân của chàng lính ma-nơ-canh ở ̉ ném nó về phía khán đài. “Bắt lấy kẻ Hy Lạp đó! Bắt lấy kẻ Hy Lạp đó!”

      Con O’Leary nhảy vọt đuổi theo sau con mồi của mình và nện vào hình nộm, khiến lớp áo giáp của nó trở nên bẹp dí. Con chó bắt đầu nhai cái mũ sắt của nó.

      Người iếm sĩ cười lạnh nhạt. Ông ta khoảng chừng năm mươi tuổi, tôi đoán vậy, với mái tóc hoa râm ngắn và bộ râu xám được cắt tỉa. Ông ta có ngoại hình đẹp theo tiêu chuẩn của một người đàn ông đứng tuổi. Ông ta mặc quần leo núi màu đen và một tấm giáp che ngực bằng đồng được phủ lên chiếc áo cam của trại. Dưới ̉ ông ta có một vết lạ, một vết màu đỏ tía giống như vết bớt hoặc một hình xăm, nhưng trước khi tôi kịp nhận ra nó là cái gì, ông ấy kéo dây đai của bộ giáp và cái dấu biến mất đằng sau ̉ áo.

      “O’Leary là thú cưng của ta,” ông ta giải thích. “Ta thể để cậu đâm vào mông nó được, đúng ? Điều đó có thể khiến nó sợ hãi đấy.”

      “Ông là ai?”

      “Hãy hứa được giết ta nếu ta quăng thanh kiếm chứ?”

      “Tôi nghĩ vậy.”

      Ông tra kiếm vào vỏ và chìa tay ra. “Quintus.”

      Tôi bắt tay ông ta. Nó xù xì như tấm giấy nhám vậy.

      “Percy Jackson,” tôi nói. “Xin lỗi về... Sao ông, hừm...”

      “Có một con chó ngao làm thú cưng? Một câu chuyện dài, liên quan đến nhiều lần suýt chết và một vài con chó khổng lồ nhai đồ chơi. À, nhân tiện giới thiệu, tôi là thầy dạy kiếm mới, giúp đỡ Chiron khi Ngài D vắng.”

      “Ồ.” Tôi ́ gắng nhìn chằm chằm khi con O’Leary xé toạc cái áo giáp của người nộm với cánh tay dính lủng lẳng và lắc nó như lắc một cái ̃a ném. “Chờ nào, Ngài D vắng à?”

      “Đúng vậy, ừm... khoảng thời gian bận rộn mà. Ngay cả Dionysus già nua cũng đã phải giúp đỡ. Ngài ấy thăm vài người bạn cũ, để đảm bảo rằng họ vẫn còn ở chung chiến tuyến. Có lẽ tôi nên nói nhiều hơn nữa nhỉ?”

      Nếu thần Dionysus vắng thì đó là tin tốt lành nhất mà tôi được nghe trong ngày. Ông ta làm giám đốc của trại chỉ vì thần Zeus muốn trừng phạt ông ta vì dám trêu đùa quá lố với các nữ thần rừng. Ông ta ghét các trại viên và luôn tìm cách làm cho cuộc sống của chúng tôi khốn khổ. Với sự vắng mặt của ông ta, mùa hè này có lẽ thật sự tuyệt vời. Mặt khác, nếu thần Dionysus đã chịu nhấc mông lên và thực sự bắt đầu giúp đỡ các thần tuyển người chống lại sự đe dọa của các thần Titan, thì mọi việc ắt trở nên tệ hại.

      Phía trái tôi bỗng có một tiếng va lớn. Sáu thùng gỗ có kích cỡ của những chiếc bàn ăn ngoài trời xếp chồng lên nhau, và chúng kêu lạch cạch. Con O’Leary hếch mặt lên và nhảy vọt về phía chúng.

      “Nào, nào, bé!” Quintus nói. “Chúng phải dành cho mày đâu.” Ông ta làm con chó phân tâm bằng chiếc ̃a bay được làm từ bộ áo giáp bằng đồng.

      Những chiếc thùng va đập mạnh và rung chuyển. Có một vài chữ được in ở cạnh thùng, nhưng với chứng khó đọc của tôi thì phải mất vài phút tôi mới giải đoán được:

      NÔNG TRẠI BA G


      DỄ VỠ


      ĐÂY LÀ CUỐI CÙNG


      Dọc theo đáy, có những dòng chữ nhỏ hơn: MỞ CẨN THẬN, NÔNG TRẠI BA G CHỊU TRÁCH NHIỆM VỀ NHỮNG THIỆT HẠI TÀI SẢN, THƯƠNG TẬT HAY NHỮNG CÁI CHẾT ĐẦY ĐAU ĐỚN.

      “Cái gì trong những chiếc thùng đó vậy?” tôi hỏi.

      “Một bất ngờ nho nhỏ,” Quintus nói. “Hoạt động huấn luyện dành cho tối mai. Cậu sẽ thích cho mà xem.”

      “Vâng, được thôi,” tôi nói, mặc dù tôi vẫn hiểu rõ về phần “cái chết đầy đau đớn” cho lắm.

      Quintus ném cái khiên bằng đồng, và O’Leary chạy ầm ầm đuổi theo sau. “Những người trẻ tuổi như cậu cần nhiều thách thức hơn nữa. Khi tôi còn nhỏ chẳng có những trại thế này để tập luyện đâu.”

      “Ông... ông cũng là con lai?” Tôi ̣nh nói với vẻ ngạc nhiên thế này, nhưng từ trước đến nay tôi chưa nhìn thấy một á thần già như vậy bao giờ.

      Quintus cười khúc khích. “Một số chúng tôi đã sống được tới tuổi trưởng thành, cậu biết đấy. có ai trong chúng tôi phải là đối tượng của những lời tiên tri khủng khiếp.”

      “Ông biết lời tiên tri về tôi?”

      “Ta có nghe một vài điều.”

      Tôi muốn hỏi vài điều đó là gì, nhưng ngay lúc đó bác Chiron lộp ̣p bước vào đấu trường. “Percy, cháu đây rồi!”

      Chắc hẳn bác ấy vừa từ lớp bắn cung về. Bác ấy có bao đựng tên và cung được đeo ngang chiếc áo phông có dòng chữ: “NHÂN MÃ SỐ MỘT”. Bác ấy đã cắt bộ tóc quăn màu nâu và bộ râu vì mùa hèa dưới của bác ấy là hình dáng của một con ngựa trắng, lốm đốm bởi bùn và cỏ.

      “Bác thấy cháu đã gặp được người hướng dẫn mới của chúng ta.” Bác ấy nói nhẹ nhàng nhưng có một ánh nhìn khó chịu trong mắt bác ấy. “Quintus, ông phiền nếu ta mượn Percy chứ?”

      có gì, Thầy Chiron.”

      cần gọi ta là ‘Thầy’ đâu,” bác Chiron nói, mặc dù bác ấy cũng khá khoan khoái với cách gọi đó. “ nào Percy. Chúng ta có nhiều điều cần nói đấy.”

      Tôi liếc nhìn con O’Leary thêm một lần nữa, nó nhai đứt chân con rối.

      “Thôi, gặp lại ông sau,” tôi nói với Quintus.

      Khi đã xa, tôi thì thầm với bác Chiron, “Quintus có vẻ rất...”

      “Bí ẩn?” Chiron gợi ý. “Khó hiểu?”

      Bác Chiron gật đầu. “Một á thần rất đủ tư cách. Kiếm sĩ tuyệt vời. Bác chỉ ước gì bác hiểu...”

      Dù là ̣nh nói tiếp điều gì thì rõ ràng là bác ấy đã đổi ý. “Điều đầu tiên, Percy. Annabeth nói với bác cháu đã gặp vài empousai.”

      “Vâng.” Tôi nói với bác ấy về vụ đánh nhau ở Goode, và cách Kelli nổ tung thành lửa.

      “Ừ,” bác Chiron nói. “Những con quái vật mạnh hơn có thể làm điều đó. ta chết, Percy. ta chỉ đơn giản là bỏ trốn. Điều tệ hại là những ma nữ bắt đầu xôn xao.”

      “Bọn chúng làm gì ở đó?” Tôi hỏi. “Chờ cháu sao?”

      “Có thể.” Bác Chiron cau mày. “Thật bất ngờ là cháu còn sống. Chúng có sức mạnh của sự lừa dối... hầu hết các hùng đều bị bùa chú và bị chúng xé xác.”

      “Đáng lẽ cháu cũng vậy,” tôi thừa nhận. “Nhưng nhờ Rachel.”

      Bác Chiron gật đầu. “Thật mỉa mai là một người trần lại cứu cháu thoát chết, chúng ta nợ ấy một món nợ. Những điều empousai nói về việc tấn công trại – chúng ta phải bàn thêm về điều này. Nhưng bây giờ thì thôi, chúng ta phải vào rừng. Grover sẽ cần cháu đấy.”

      “Ở đâu hả bác?”

      “Ở phiên tòa quan trọng của cậu ta,” bác Chiron nói dứt khoát. “Hội đồng Trưởng lão Cloven họp để quyết ̣nh số phận của Grover.”

      Bác Chiron nói chúng tôi cần khẩn trương, nên tôi để bác ấy cõng tôi lưng. Khi chúng tôi phi nước kiệu qua các căn nhà, tôi liếc nhìn sảnh ăn – một cái sảnh ngoài trời kiểu Hy Lạp nằm ngọn đồi nhìn thẳng ra phía biển. Đó là lần đầu tiên tôi nhìn khung cảnh này kể từ mùa hè năm ngoái, và những ký ức buồn lại tràn về.

      Bác Chiron lao vào rừng. Các nữ thần cây hé các thân cây ra nhìn trộm khi chúng tôi băng qua. Những hình thù to lớn lao xao trong bóng tối – những con quái vật được thả ở đây để tạo ra thách thức cho các trại viên.

      Tôi cứ nghĩ mình đã biết khu rừng này khá rõ sau khi chơi trò cướp cờ ở đây qua hai mùa hè, nhưng bác Chiron đưa tôi theo một con đường mà tôi nhận ra nổi, xuyên qua một đường hầm được tạo ra từ những cây liễu già, qua một thác nước nhỏ và vào một chỗ rừng thưa được bao phủ bởi hoa dại.

      Một nhóm thần rừng ngồi quay tròn bãi cỏ. Grover đứng giữa, đối mặt ba thần rừng già và cực kỳ béo ngồi những chiếc ngai tạo hình từ các bụi hoa hồng. Tôi chưa từng nhìn thấy ba vị thần rừng này trước đây, nhưng tôi đoán họ ắt hẳn là Hội đồng Trưởng lão Cloven.

      Grover có lẽ kể cho họ nghe một câu chuyện. Cậu ấy xoắn vạt dưới áo phông, bồn chồn chuyển đổi móng guốc dê. Cậu ấy thay đổi nhiều kể từ mùa đông năm ngoái, có thể bởi vì tốc độ lão hóa của thần rừng chỉ bằng một nửa con người. Mụn của cậu ấy bắt đầu mọc. Cặp sừng đã lớn hơn một chút đủ để chúng thò ra ngoài mái tóc xoăn. Tôi nhận ra tôi giờ đã cao hơn cậu ấy rồi.

      Đứng tách rời ra phía bên kia vòng tròn là Annabeth, một gái khác tôi chưa từng nhìn thấy, và Clarisse. Bác Chiron để tôi ở cạnh bọn họ.

      Mái tóc xơ xác màu nâu của Clarisse được buộc chặt bằng chiếc khăn tay in hoa sặc sỡ. Nếu có thể, ta trông rắn chắc hơn, như thể ấy tập thể hình. Clarisse liếc nhìn tôi và lẩm bẩm “Gã vô dụng,” chứng tỏ ta có tâm trạng tốt. Thường thì ta sẽ chào hỏi bằng cách xông vào ̣nh giết chết tôi kia!

      Annabeth choàng tay qua người gái kia, có vẻ ta khóc. ta nhỏ – nhỏ nhắn, tôi đoán bạn sẽ gọi như vậy – với mái tóc mỏng lưa thưa màu hổ phách và khuôn mặt tinh xinh xắn. ấy mặc một chiếc áo chiton màu xanh lá và xăng đan buộc dây, dùng khăn tay dặm dặm vào đôi mắt. “Việc này s trở nên rất tệ,” gái sụt sịt.

      , .” Annabeth vỗ vai gái. “Cậu ấy sẽ sao đâu, Juniper.”

      Annabeth nhìn tôi và nói ra tiếng: Bạn gái của Grover.

      Ít nhất tôi nghĩ đó là những gì ấy nói, nhưng điều đó chẳng có ý nghĩa gì mấy. Grover có bạn gái? Rồi tôi nhìn Juniper kỹ hơn, tai ta hơi nhọn. Mắt ta, thay vì có màu đỏ vì khóc lóc, lại có màu xanh nhạt, màu của diệp lục. ta là một nữ thần cây.

      “Cậu Underwood!” Một thành viên ngồi phía bên phải hét lên, cắt ngang những gì Grover ́ nói. “Cậu thực sự muốn chúng tôi tin những điều này à?”

      “Như... nhưng, Silenus,” Grover cà lăm. “Đó là sự thật!”

      Một thành viên của Hội đồng, Silenus, quay sang phía đồng nghiệp và lẩm bẩm một vài điều gì đó. Bác Chiron chạy nước kiệu nhỏ lên phía trước và đứng bên cạnh họ. Tôi nhớ ra bác ấy là một thành viên danh dự của Hội đồng, nhưng mấy quan tâm đến điều đó. Hội những bô lão đó có gì ấn tượng cho lắm với tôi. Họ làm tôi nhớ đến những con dê trong vườn thú dành cho trẻ con – những cái bụng bự, vẻ mặt ngái ngủ, và đôi mắt đờ đẫn thể nhìn quá một nắm thức ăn dành cho dê. Tôi hiểu tại sao Grover lại hoảng sợ đến vậy.

      Silenus kéo chiếc áo phông polo vàng qua bụng và điều chỉnh lại chỗ ngồi của mình cái ngai bằng bụi hoa hồng của ông ta. “Cậu Underwood, trong sáu tháng qua – sáu tháng – chúng tôi đã nghe thấy những tin đồn đáng hổ thẹn rằng cậu nghe thấy giọng nói của thần Pan – vị thần của Thiên nhiên.”

      “Nhưng tôi đã nghe thấy mà!”

      “Láo xược!” Ông già ngồi bên trái nói.

      “Thôi nào, Maron,” bác Chiron nói. “Hãy bình tĩnh.”

      “Tôi bình tĩnh đấy chứ!” Maron nói. “Tôi đã chán ngấy với những thứ nhảm nhí này rồi. Cứ làm như thần Thiên nhiên sẽ nói chuyện với... với cậu ta vậy.”

      Trông Juniper như muốn lao vào lão thần rừng già và đánh ông ta một trận, nhưng Annabeth và Clarisse đã giữ ta lại. “ được đâu gái,” Clarisse nói nhỏ. “Chờ đợi.”

      Tôi biết điều gì có thể làm tôi ngạc nhiên hơn: việc Clarisse ngăn người khác khỏi đánh nhau, hay sự thật rằng ta và Annabeth, những người luôn khinh tường nhau ra mặt, dường như lại hợp tác rất ăn ý với nhau.

      “Trong sáu tháng,” Silenus tiếp tục nói, “chúng tôi đã nuông chiều cậu, cậu Underwood. Chúng tôi để cậu khắp nơi. Chúng tôi đồng ý cho cậu giữ giấy phép tìm kiếm. Chúng tôi chờ cậu đem về bằng chứng cho những gì cậu nói. Và sau sáu tháng cậu đã tìm được gì?”

      “Tôi chỉ cần thêm thời gian,” Grover năn nỉ.

      gì cả!” thần rừng già ngồi giữa trả lời. “Cậu chẳng tìm thấy gì cả.”

      “Nhưng, Leneus...”

      Silenus đưa tay lên. Bác Chiron rướn người nói điều gì đó với mấy vị thần rừng. Trông họ có vẻ vui vẻ cho lắm. Họ chụm đầu lẩm bẩm rồi lại cãi cọ lẫn nhau, rồi bác Chiron nói thêm câu gì nữa, và Silenus thở dài. Ông ta ngần ngại gật đầu.

      “Cậu Underwood,” Silenus tuyên bố, “chúng tôi sẽ cho cậu thêm một cơ hội.”

      Grover sáng bừng lên. “Cảm ơn!”

      “Một tuần nữa.”

      “Cái gì cơ? Nhưng thưa ngài! Điều đó là thể!”

      “Một tuần nữa, cậu Underwood. Và sau đó, nếu cậu thể chứng minh được lời nói của mình, thì lúc đó cậu nên tìm một nghề khác . Cái gì đó hợp với khả năng diễn kịch của cậu ấy. Nhà hát múa rối chẳng hạn. Hoặc là nhảy gõ nhịp.”

      “Nhưng thưa ngài, tôi... tôi thể mất giấy phép tìm kiếm được. Cả đời tôi...”

      “Buổi họp của Hội đồng ngừng ở đây,” Silenus nói. “Giờ thì chúng ta ăn trưa thôi!”

      Vị thần rừng già vỗ tay và một đám các nữ thần cây hiện ra từ những thân cây với những ̃a rau, quả, những hộp thiếc và những cao lương mỹ vị khác của loài dê. Vòng tròn các bô lão tách ra và lấy đồ ăn. Grover bước về phía chúng tôi với vẻ chán nản. Chiếc áo phông màu xanh da trời bạc phếch của cậu ta có in hình một thần rừng. áo viết: Có móng ?

      “Chào Percy,” cậu ấy chán chường đến nỗi thậm chí đề nghị bắt tay tôi nữa. “Mọi việc ổn chứ?”

      “Mấy lão dê già!” Juniper nói. “Ôi, Grover, họ hiểu đã ́ gắng đến thế nào!”

      một sự lựa chọn khác,” Clarisse nói một cách cay độc.

      . .” Juniper lắc đầu. “Grover, em sẽ để làm thế đâu.”

      Mặt cậu ta tái . “Tớ... tớ phải suy nghĩ đã. Nhưng thậm chí chúng ta còn chẳng biết tìm ở đâu.”

      “Các cậu nói về chuyện gì vậy?” Tôi hỏi.

      Ở phía xa, tiếng tù và vang lên.

      Annabeth mím môi. “Tớ sẽ kể cho cậu nghe sau, Percy.

      Chúng ta quay về nhà của chúng ta thôi. Bắt đầu kiểm tra rồi đấy.”

      Thật công bằng chút nào khi diễn ra cuộc kiểm tra nhà trong khi tôi vừa mới tới trại, nhưng luật là như vậy. Cứ mỗi buổi chiều, một trong những trại viên lâu năm sẽ quanh trại với cuộn giấy cói ghi chép trong tay. Nhà nào tốt nhất sẽ được tắm trước, và chắc chắn là có nước nóng. Nhà tệ nhất sẽ phải rửa bát ở nhà bếp sau bữa tối.

      Vấn đề của tôi là: tôi là người duy nhất ở nhà thần Poseidon, và tôi thì chắc chắn thể gọi là gọn gàng được. Các nữ quái mình người cánh chim làm nhiệm vụ dọn dẹp vệ sinh chỉ đến vào những ngày cuối cùng của mùa hè. Vì thế nhà của tôi vẫn còn nguyên hiện trạng trước kỳ nghỉ đông: giấy gói kẹo và túi khoai tây chiên vương vãi giường, bộ giáp trong lần chơi cướp cờ rã ra từng mảnh rải rác khắp nhà.

      Tôi chạy nhanh về khu sinh hoạt chung, nơi mười hai ngôi nhà – mỗi một cái dành cho một vị thần ̉nh Olympus – tạo thành hình chữ U bao quanh một bãi cỏ xanh. Mấy đứa con của nhà nữ thần Demeter quét dọn nhà và trồng hoa mới bậu cửa sổ. Chỉ cần một cái búng tay, bọn họ có thể khiến những những dây hoa rạng đông vàng nở rộ ̉ng ra vào và hoa cúc dại phủ đầy mái. Thật công bằng chút nào! Chắc bọn họ chẳng bao giờ bị về bét trong cuộc đua dọn dẹp này. Mấy nhóc ở nhà thần Hermes bò lổm nhổm đầy lo sợ, giấu đống quần áo chưa giặt dưới gầm giường và đổ tội ăn cắp cho nhau. Bọn họ tuy lười biếng thật nhưng ít ra vẫn còn thuận lợi hơn tôi.

      Ở phía nhà nữ thần Aphrodite, Silena Beauregard vừa mới bước ra, kiểm tra danh sách các việc cần làm cuộn giấy. Tôi thầm thì chửi rủa. Silena rất tốt, nhưng ấy vô cùng gọn gàng, và do đó là vị thanh tra tồi tệ nhất. ấy muốn mọi thứ phải sạch đẹp, còn tôi thì thể làm “đẹp” được. Tôi có thể gần như cảm thấy được đôi tay tôi dần trở nên nặng tri với tất cả chén bát mà tôi sẽ phải rửa vào tối nay.

      Nhà của thần Poseidon nằm ở cuối dãy nhà dành cho các “nam thần” ở bên phải của bãi cỏ. Nó được làm từ đá biển xám và điểm xuyết những vỏ sò. Nó dài và lùn xủn trông như cái boong-ke, chỉ là nó có các cửa sổ nhìn ra biển và luôn luôn có những làn gió nhẹ thổi vào qua đó.

      Tôi lao vào trong nhà, tính toán xem có thể giấu giếm được cái gì xuống gầm giường như bên nhà thần Hermes hay . Và tôi thấy người em cùng cha khác mẹ của tôi – Tyson – quét nhà.

      Percy!” cậu ấy rống lên. Tyson vứt chổi và chạy lại phía tôi. Nếu bạn chưa bao giờ bị tấn công bởi một Cyclops đầy nhiệt tình đeo tạp dề hoa và găng tay sao su thì để tôi miêu tả cho các bạn nghe, sẽ tỉnh hẳn ngủ đấy!

      “A, chào em trai!” tôi nói. “Ôi, cẩn thận mấy cái xương sườn. Xương sườn.”

      Tôi ́ chống đỡ cái ôm như gấu vật của cậu ấy. Tyson đặt tôi xuống, cười nhăn nhở như điên, con mắt duy nhất màu nâu ánh lên vẻ vui sướng. Răng cậu ấy vẫn vàng và vặn vẹo như xưa, và tóc vẫn như tổ cú. Bên trong cái tạp dề hoa của cậu ấy là một cái quần jeans cỡ XXXL và chiếc áo sơ mi bằng vải flanen rách rưới, hình ảnh của cậu em tôi thật khiến người ta đau mắt. Đã gần một năm nay tôi gặp cậu ấy, kể từ khi cậu ấy xuống biển làm việc trong lò rèn của các Cyclops.

      vẫn ổn chứ?” Tyson hỏi. “Chưa bị quái vật ăn thịt à?”

      “Chưa, cho dù chỉ là một tẹo.” Tôi giơ chân giơ tay khoe mình vẫn còn đầy đủ tứ chi, trong khi Tyson vỗ tay vui sướng.

      “Tuyệt!” cậu ấy nói. “Vậy giờ chúng ta có thể ăn sandwich bơ đậu phộng và cưỡi cá ngựa này! Chúng ta có thể chiến đấu với quái vật, và gặp Annabeth và làm mọi thứ nổ BÙM BÙM nữa!”

      Hy vọng Tyson ̣nh làm tất cả những việc đó cùng một lúc, nhưng tôi vẫn nói với cậu ấy chắc chắn rằng mùa hè này sẽ có rất nhiều trò thú vị. Tôi thể cười, cậu ấy quá hăng hái về tất cả mọi thứ.

      “Nhưng đầu tiên,” tôi nói, “chúng ta vẫn còn cuộc kiểm tra đây này. Chúng ta phải...”

      Sau đó tôi nhìn quanh và nhận ra Tyson đã phải bận rộn như thế nào. Sàn nhà đã được quét. Giường đã được xếp gọn ghẽ. Cái bể phun nước mặn đặt góc phòng cũng mới được cọ rửa, khiến đám san h sáng lung linh. bậu cửa sổ, Tyson đã đặt những cái lọ đựng đầy nước với hải quỳ và những thứ cây phát sáng kỳ lạ chỉ mọc sâu dưới đáy biển. Chúng đẹp hơn bất cứ loại hoa nào mà nhà nữ thần Demeter biến hóa ra.

      “Tyson, nhà của chúng ta... đẹp thể tin được!”

      Mặt cậu ấy rạng rỡ. “ thấy lũ cá ngựa chưa? Em để chúng trần ấy!”

      Một bầy cá ngựa thu nhỏ bằng đồng được treo những cái dây mắc lên trần, trông giống như chúng bơi trong khí vậy. Tôi thể tin nổi Tyson, với đôi tay to cục mịch như thế, lại có thể làm được những thứ tinh tế như vậy. Tôi nhìn lên phía chiếc giường của mình, và thấy chiếc khiên cũ của tôi được treo tường.

      “Em đã sửa nó!”

      Cái khiên bị hỏng nghiêm trọng sau cú tấn công của con Manticore vào mùa đông năm ngoái, nhưng giờ thì nó đã hoàn hảo như xưa – một vết xước! Tất cả những bức tranh bằng đồng vẽ cuộc phiêu lưu của tôi với Tyson và Annabeth ở Biển Quái Vật đã được đánh bóng và sáng lấp lánh.

      Tôi nhìn Tyson và biết phải làm sao để cảm ơn cậu ấy nữa.

      Rồi một ai đó đằng sau tôi lên tiếng, “Ôi, trời ơi.”

      Silena Beauregard đứng ở cửa ra vào với cuộn giấy ghi chép trong tay. ấy bước vào nhà, liếc nhanh xung quanh rồi rướn lông mày nhìn tôi. “Hừm, tớ hơi nghi ngờ. Nhưng cậu đã dọn dẹp thật sạch sẽ, Percy. Tớ sẽ nhớ việc này.”

      ấy nháy mắt với tôi và rời khỏi phòng.

      Tyson và tôi dành cả buổi chiều nói chuyện và chơi với nhau, thật tuyệt sau một buổi sáng bị các hoạt náo viên quái vật tấn công.

      Chúng tôi xuống chỗ lò rèn và giúp Beckendorf ở nhà thần Hephaestus trong việc tạo ra các tác phẩm nghệ thuật bằng kim loại. Tyson chỉ cho chúng tôi biết cậu ấy đã học cách tạo ra các vũ khí ma thuật như thế nào. Chỉ một loáng cậu ấy đã chế xong một cái rìu chiến hai lưỡi rực rỡ, làm Beckendorf lác mắt.

      Trong khi làm việc, Tyson kể cho chúng tôi nghe về một năm qua của cậu ấy dưới biển. Mắt Tyson sáng lên khi miêu tả các lò rèn của các Cyclops và cung điện của thần Poseidon, nhưng cậu ấy cũng nói với chúng tôi mọi việc trở nên căng thẳng như thế nào. Những vị thần biển già cả, những người đã trị vì trong thời đa của các thần khổng lồ Titan, bắt đầu gây chiến với cha chúng tôi. Khi Tyson , chiến sự đã rải rác khắp Đại Tây Dương. Nghe điều đó khiến tôi vô cùng lo lắng, tôi muốn tham gia giúp cha, nhưng Tyson nói cha muốn cả hai chúng tôi ở trại.

      bờ cũng có nhiều người xấu lắm,” Tyson nói. “Ta có thể khiến chúng nổ bùm mà!”

      Sau khi xong việc ở lò rèn, chúng tôi đã vui chơi ở hồ chứa xuồng với Annabeth. ấy rất vui mừng được gặp lại Tyson, nhưng tôi biết ấy vẫn bị phân tâm. Annabeth liên tục nhìn về phía cánh rừng, như nghĩ ngợi về vấn đề của Grover với Hội đồng. Tôi thể trách ấy. Tôi chẳng thấy Grover ở đâu cả, và tôi cảm thấy vô cùng tồi tệ dành cho cậu ấy. Việc tìm kiếm thần Pan – vị thần mất tích đã lâu – là mục tiêu cả đời của cậu ấy. Cha và chú cậu ấy đều mất tích vì theo đuổi giấc mơ đó. Mùa đông năm ngoái, Grover đã nghe thấy một giọng nói trong đầu: Ta đợi ngươi – một giọng nói mà cậu ấy chắc chắn là của thần Pan – nhưng rõ ràng cuộc tìm kiếm của cậu ấy chẳng đến đâu cả. Nếu giờ Hội đồng tước mất giấy phép tìm kiếm, đó sẽ là đòn trí mạng đối với cậu ấy.

      “ ‘Cách khác’ ở đây là cách gì vậy?” tôi hỏi Annabeth. “Điều mà Clarisse đề cập ấy?”

      ấy nhặt một viên đá và liệng nó nhảy mặt hồ. “Một thứ Clarisse đã do thám được. Mùa xuân vừa rồi tớ giúp ấy ít việc. Nhưng nó sẽ rất nguy hiểm. Nhất là đối với Grover.”

      “Cậu dê đó làm em sợ,” Tyson lẩm bẩm.

      Tôi nhìn chằm chằm vào cậu ấy. Tyson đã đối mặt với những con bò thở ra lửa, các con quái vật biển và những tên khổng lồ ăn thịt người rồi cơ mà. “Sao em lại sợ Grover?”

      “Móng và sừng,” Tyson lẩm bẩm đầy lo lắng. “Và lông dê làm mũi em ngứa.”

      Và điều đó đã làm cuộc hội thoại của chúng tôi về đề tài Grover kết thúc.

      Trước buổi ăn tối, Tyson và tôi xuống trường đấu kiếm. Quintus rất vui vì có bạn đồng hành. Ông ta vẫn nói cho tôi những thùng gỗ kia chứa cái gì, nhưng ông ta dạy tôi vài đường kiếm mới. Ông ta rất giỏi. Ông ta đánh kiếm theo cách mà người ta chơi cờ – đó là ông ta tung ra các đường kiếm liên tiếp và bạn thể nhìn rõ hướng của mũi kiếm, cho đến khi ông ta thực hiện cú tấn công cuối cùng và dành được chiến thắng với thanh kiếm chĩa thẳng vào ̉ bạn.

      “Tốt lắm,” ông ta bảo tôi. “Nhưng khả năng phòng thủ của cậu kém quá.”

      Ông ta tấn công và tôi chặn lại.

      “Ông là kiếm sĩ chuyên nghiệp từ lâu rồi sao?” Tôi hỏi.

      Ông ta tránh cú chém ngang đầu của tôi. “Tôi từng làm nhiều thứ.”

      Quintus đâm mạnh và tôi tránh sang một bên. Dây buộc vai ông ta rớt xuống, và tôi nhìn thấy cái dấu đó vai ông – một cái nhọt màu đỏ tía. Nhưng đó phải là một cái nhọt bình thường. Nó có hình dạng hẳn hoi – hình một con chim gập cánh – chim cút hay cái gì đó tương tự.

      ̉ ông có cái gì vậy?” Tôi hỏi câu đó có lẽ hơi thô lỗ, nhưng bạn có thể đổ cho chứng rối loạn tăng động giảm chú ý của tôi. Tôi có khuynh hướng thốt ra mọi thứ.

      Quintus để lỡ mất nhịp. Tôi đánh vào cán kiếm của ông ta và hất thanh kiếm khỏi tay Quintus.

      Ông ta xoa xoa các ngón tay, rồi kéo áo giáp để che vết bớt. Đó phải là một hình xăm, tôi nhận ra. Đó là một vết bỏng cũ... giống như ông ta từng bị đóng dấu(3).

      “Một lời nhắc nhở.” Ông ta nhặt kiếm lên và ́ nở một nụ cười. “Giờ thì chúng ta làm lại chứ?”

      Quintus tấn công tôi liên tục, cho tôi thời gian để hỏi thêm một câu nào.

      Khi chúng tôi đấu kiếm, Tyson chơi với O’Leary, con vật mà cậu ấy gọi là “cún con.” Cậu ấy với con chó đánh vật để tranh nhau cái khiên bằng đồng và chơi trò bắt bóng. Một điều lạ lùng là tận khi trời xẩm tối mà Quintus vẫn chưa toát một giọt mồ hôi; trong khi Tyson và tôi thì nóng bức và nhớp nháp, vì thế chúng tôi tắm và chuẩn bị sẵn sàng cho bữa ăn tối.

      Tôi cảm thấy thật tuyệt. Một ngày như bao ngày bình thường ở trại. Rồi sau đó đến giờ ăn tối, tất cả trại viên xếp hàng trước cửa từng ngôi nhà và diễu hành đến sảnh ăn. Hầu hết mọi người đều lờ vết nứt được bịt kín sàn nhà bằng đá hoa cương ở cửa ra vào – một vết sẹo dài ba mét mà mùa hè năm ngoái vẫn còn chưa xuất hiện. Còn tôi thì cẩn thận bước qua nó.

      “Vết nứt to thế,” Tyson nói khi chúng tôi ngồi ở bàn của mình. “Chắc là động đấ

      , phải động đất.” Tôi trả lời.

      Tôi biết có nên nói cho cậu ấy nữa. Đó là một bí mật chỉ có tôi, Annabeth và Grover biết. Nhưng nhìn vào con mắt lớn của Tyson, tôi biết mình thể giấu cậu ấy điều gì.

      “Nico di Angelo,” tôi hạ thấp giọng và kể cho cậu ấy nghe. “Đó là một cậu nhóc con lai mà bọn đưa về trại vào mùa đông năm ngoái. Cậu ta, ừm... cậu nhóc muốn bảo vệ chị gái của cậu ấy khi bọn làm nhiệm vụ, nhưng đã thất bại. Chị gái cậu ấy đã chết. Và giờ thì cậu ấy đổ lỗi cho .”

      Tyson nhíu mày. “Và vì thế cậu ta vạch lên sàn à?”

      “Những bộ xương tấn công bọn ,” tôi nói. “Nico bảo chúng biến , và mặt đất chỉ việc hở ra, nuốt gọn bọn chúng. Nico...” Tôi nhìn quanh để đảm bảo ai nghe thấy. “Nico là con trai của thần Hades.”

      Tyson gật đầu đầy chín chắn. “Vị thần của người chết.”

      “Đúng vậy.”

      “Vậy giờ cậu bé Nico đó rồi à?”

      ... đoán thế. đã ́ tìm kiếm cậu ta. Annabeth cũng vậy. Nhưng may mắn đã mỉm cười với bọn . Đây là bí mật đấy, Tyson. Được ? Nếu mọi người biết cậu bé là con trai thần Hades, cậu bé sẽ gặp nguy hiểm. Kể cả bác Chiron, em cũng được nói nhé.”

      “Lời tiên tri nguy hiểm,” Tyson nói. “Các thần khổng lồ Titan sẽ lợi dụng cậu ta nếu biết sự thật này.”

      Tôi nhìn Tyson đăm đăm. Thỉnh thoảng tôi quên khuấy mất cậu ta to xác và trẻ con như thế nào, Tyson thực sự rất thông minh. Cậu ấy biết rằng đứa con tiếp theo của Bộ Tam Vĩ Đại – thần Zeus, thần Poseidon, hay thần Hades – khi lên mười sáu tuổi được tiên đoán hoặc sẽ bảo vệ, hoặc sẽ tiêu diệt ̉nh Olympus. Hầu hết mọi người đều cho rằng đó là tôi, nhưng nếu tôi chết trước khi qua tuổi mười sáu thì lời nguyền sẽ dễ dàng chuyển sang cho Nico.

      “Chính xác,” tôi khẳng ̣nh. “Vậy...”

      “Kín miệng,” Tyson hứa. “Giống như vết nứt sàn vậy.”

      Tối đó tôi lại ngủ được. Tôi nằm giường và nghe sóng vỗ ngoài bờ biển, và tiếng cú và quái vật trong các cánh rừng. Tôi sợ khi ngủ thiếp , tôi sẽ lại gặpcơn ác mộng.

      Mà các bạn thấy đấy, đối với các á thần thì giấc mơ chỉ đơn thuần là giấc mơ. Đó là những thông điệp. Chúng tôi thấy những sự việc xảy ra đối với bạn bè mình hoặc là với kẻ thù. Thỉnh thoảng thậm chí chúng tôi còn thấy lờ mờ quá khứ hoặc tương lai. Và khi ở trại, các giấc mơ của tôi thường xảy ra và sống động hơn rất nhiều.

      Vì thế mà đến nửa đêm tôi vẫn còn thức, nhìn chằm chằm vào tấm đệm giường bên tôi. Và lúc đó tôi nhận ra có một thứ ánh sáng kỳ lạ trong phòng. Bể phun nước mặn phát sáng.

      Tôi tung chăn ra và cẩn trọng bước tới gần nó. Hơi nước bốc lên từ dòng nước biển nóng. Màu sắc cầu vồng mờ ảo, mặc dù trong phòng hề có chút ánh sáng nào, ngoại trừ ánh trăng ở bên ngoài. Một giọng phụ nữ dịu dàng cất lên từ làn hơi nước: Hãy đặt một đồng drachma vào.

      Tôi nhìn về phía Tyson, nhưng cậu ấy vẫn còn ngáy. Cậu ấy ngủ say như con voi bị bắn thuốc mê vậy.

      Tôi biết phải nghĩ gì nữa. Tôi chưa bao giờ nhận được một thông điệp Iris mà người nhận phải trả tiền nào trước đây. Một đồng drachma sáng lấp lánh dưới đáy bể. Tôi nhặt nó lên và ném nó vào Màn Sương Mù. Đồng xu biến mất.

      “Thưa nữ thần Iris, Nữ thần của Cầu vồng,” tôi thì thầm. “Hãy cho tôi thấy... ừm, bất cứ điều gì người muốn cho tôi thấy.”

      Màn Sương Mù tỏa sáng lung linh. Tôi nhìn thấy một bờ sông tối đen. Những làn sương trôi lững lờ ngang qua làn nước đen ngòm. Bờ sông được trải một lớp đá núi lửa lởm chởm. Một cậu bé ngồi xổm bên bờ sông và đốt lửa trại. Ngọn lửa cháy có màu xanh khác thường. Rồi sau đó tôi nhìn thấy khuôn mặt cậu bé. Đó là Nico di Angelo. Cậu ta ném từng mẩu giấy vào trong ngọn lửa – những quân bài ma thuật trong trò chơi mà cậu ta mê mẩn suốt mùa đông năm ngoái.

      Nico mới chỉ mười tuổi, hoặc đến giờ này có lẽ là mười một, nhưng trông cậu nhóc trông già hơn tuổi nhiều. Tóc cậu ta đã dài hơn. Nó bờm xờm và đã gần chạm đến vai. Mắt cậu ta đen sẫm. Làn da ô liu của cậu bé trở nên xanh xao hơn. Nico mặc một chiếc quần jean rách màu đen, áo sơ mi đen và bên ngoài là chiếc jacket sờn và nhăn nhúm to hơn cậu đến vài cỡ. Mặt cậu bé đầy bụi bẩn và đôi mắt hơi dại. Cậu trông giống như một đứa trẻ sống lang thang các đường phố.

      Tôi chờ đợi cậu ta nhìn tôi. C cậu ta sẽ giận điên lên, bắt đầu buộc tội tôi vì đã để chị cậu ta chết. Nhưng cậu bé dường như chẳng chú ý gì đến tôi.

      Tôi vẫn im lặng, dám cử động. Nếu phải cậu ta gửi bức thông điệp Iris này, vậy ai đã làm?

      Nico vứt một quân bài nữa vào đống lửa màu xanh. “Vô dụng,” cậu lẩm bẩm. “ thể tin là có thời mình lại thích những thứ này.”

      “Một trò chơi rất trẻ con, thưa cậu chủ,” một giọng nói khác đồng tình. Giọng nói đó phát ra gần đống lửa, nhưng tôi thể nhìn rõ người nói là ai.

      Nico nhìn sang bên kia sông. Ở bờ phía xa là bờ sông tối đen được bao phủ bởi sương mù. Tôi nhận ra nơi đó: ̣a Ngục. Nico cắm trại bên bờ sông Styx.

      “Ta đã thất bại,” cậu bé lẩm bẩm. “Chẳng có cách nào đưa chị ấy quay trở lại.”

      Người kia nói gì.

      Nico quay về phía người đó và hỏi một cách nghi ngờ: “Có còn đó ? Nói chứ.”

      Cái gì đó mờ ảo hiện ra. Tôi cứ tưởng đó chỉ là ánh lửa. Sau đó tôi nhận ra nó có hình dáng một con người – một làn khói xanh, một cái bóng. Nếu bạn nhìn thẳng thì sẽ chẳng thấy hắn ta đâu, nhưng nếu nhìn qua khóe mắt bạn sẽ nhận ra hình dạng đó. Một con ma.

      “Chưa có ai làm được cả,” con ma nói. “Nhưng có lẽ có một cách.”

      “Nói cho ta nghe,” Nico ra lệnh. Mắt cậu bé sáng lên với sự mãnh liệt.

      “Một sự hoán đổi,” con ma nói. “Một linh hồn đổi lấy một linh hồn.”

      “Ta đã đề nghị rồi!”

      phải của ngài,” con ma nói. “Ngài thể đưa cho cha ngài một linh hồn mà cuối cùng thì cũng về tay ông ấy. Ông ấy cũng chẳng lo về cái chết của con trai mình. Ý tôi là một linh hồn đáng lẽ đã phải chết rồi kia. Một người đã chết hụt.”

      Mặt Nico tối lại. “ nói chuyện đó nữa. Ngươi nói về việc giết người.”

      “Tôi nói về công lý,” con ma nói. “Sự báo thù.”

      “Đó là hai việc khác nhau.”

      Con ma cười gàn. “K ngài lớn lên ngài sẽ nhìn sự việc theo cách khác.”

      Nico nhìn đăm đăm vào ngọn lửa. “Tại sao? Ít nhất thì ta cũng phải triệu tập được chị ấy chứ? Ta muốn nói chuyện với chị ấy. Chị ấy... chị ấy sẽ giúp ta.”

      “Tôi sẽ giúp ngài,” con ma hứa hẹn. “ phải tôi đã cứu ngài rất nhiều lần rồi sao? phải tôi đã dẫn ngài qua mê cung và dạy ngài cách sử dụng quyền năng của ngài sao? Ngài có muốn trả thù cho chị gái mình hay ?”

      Tôi thích giọng lưỡi của con ma đó. Hắn làm tôi nhớ đến một gã ở trường cũ của tôi, một kẻ luôn bắt nạt và thuyết phục những đứa trẻ khác làm những điều ngu xuẩn như: ăn cắp thiết bị trong phòng thí nghiệm, phá hoại ô tô của giáo viên. Gã đó chẳng bao giờ gặp chuyện gì rắc rối, nhưng lại luôn khiến những đứa trẻ khác bị phạt.

      Nico quay mặt về phía đống lửa vì thế con ma nhìn thấy được cậu ta, nhưng tôi thì thấy. Một giọt nước mắt chảy xuống má cậu. “Tốt lắm. Ngươi có kế hoạch gì ?”

      “Ồ, có chứ,” con ma vui vẻ nói. “Chúng ta có rất nhiều con đường tăm tối để . Chúng ta phải bắt đầu...”

      Hình ảnh mờ dần. Nico biến mất. Giọng người phụ nữ trong Màn Sương Mù cất lên, Hãy bỏ thêm một đồng drachma để có thêm năm phút nữa.

      Chẳng còn đồng vàng nào cạnh đài phun nước nữa. Tôi sờ túi, nhưng tôi lại mặc pyjama. Tôi chạy tới chỗ cái bàn đầu giường để tìm tiền lẻ, nhưng thông điệp Iris đã chập chờn và tắt ngúm, căn phòng lại tối tăm trở lại. Việc kết nối đã bị cắt đứt.

      Tôi đứng giữa nhà, lắng nghe tiếng nước chảy róc rách từ chiếc bể phun nước mặn và tiếng sóng biển bên ngoài.

      Nico vẫn còn sống. Cậu ta ́ mang chị mình quay trở về từ cái chết. Và tôi có linh cảm tôi biết được linh hồn nào cậu ta muốn trao đổi – người đã từng chết hụt. Sự báo thù.

      Nico di Angelo sẽ đến tìm tôi.

    4. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      III


      Sáng hôm sau, bữa ăn sáng có khá nhiều điều thú vị.

      Hình như vào khoảng ba giờ sáng, một con rồng Aopian đã được phát hiện ở rìa trại. Tôi đã quá mệt nên ngủ say như chết bất chấp những tiếng huyên náo ngoài kia. Các đường ranh giới phép thuật đã chặn con quái vật ở ngoài, nhưng nó vẫn lảng vảng quanh khu đồi tìm kiếm những điểm yếu trong phòng ngự của chúng tôi, và cũng muốn bỏ cho đến khi Lee Fletcher đến từ nhà thần Apollo cùng hai em rượt đuổi nó. Sau một vài tá mũi tên bắn vào những khe hở bộ giáp của nó, con rồng mới chịu hiểu ra và rút lui.

      “Nó vẫn còn ngoài đó,” Lee cảnh báo chúng tôi. “Hai mươi mũi tên găm vào da nó, và điều đó chỉ làm nó thêm tức giận”. “Nó dài hơn chín mét và có màu xanh lá non. Mắt nó...” nói đến đây Lee rùng mình.

      “Cháu đã làm rất tốt, Lee.” Bác Chiron vỗ vào vai cậu ta và nói tiếp, “Mọi người hãy cảnh giác và bình tĩnh nhé. Chuyện này đã từng xảy ra trước đây rồi mà.”

      “Ái chà,” Quintus lên tiếng từ chiếc bàn lớn. “Và nó sẽ lại xảy ra lần nữa. Ngày càng thường xuyên hơn nữa đấy.”

      Các trại viên thì thào với nhau.

      Ai cũng biết những tin đồn đó: Luke và đội quân quái vật của hắn lên kế hoạch tấn công khu trại. Phần lớn chúng tôi hiểu điều đó sẽ xảy ra vào mùa hè này, nhưng biết cụ thể khi nào và như thế nào. Bất lợi hơn nữa là số lượng trại viên của chúng tôi đã giảm. Chúng tôi chỉ còn khoảng tám mươi người tham gia. Cách đây ba năm, khi tôi mới gia nhập, con số trại viên lúc đó là hơn một trăm người. Một vài người đã chết, một vài người khác theo Luke, và một vài người thì biến mất.

      “Đây là một lý do tuyệt vời cho các trò chơi đánh trận mới,” Quintus tiếp tục, một tia sáng chợt lóe lên trong mắt ông ta. “Chúng ta sẽ xem liệu tất cả các cậu sẽ làm được gì vào tối nay.”

      “Đúng vậy...” bác Chiron nói. “Được rồi, thông báo như vậy là đủ. Chúng ta hãy cầu nguyện và ăn thôi.” Bác Chiron nâng ́c. “Vì các vị thần!”

      Tất cả chúng tôi đều nâng ́c và nhắc lại lời cầu nguyện.

      Tyson và tôi mang ̃a thức ăn đến lò than bằng đồng và trút một phần thức ăn của chúng tôi vào ngọn lửa. Tôi hy vọng các vị thần thích bánh mỳ nho khô nướng và món Froot Loops(4).

      “Thần Poseidon,” tôi nói. Sau đó thì thầm, “Xin cha hãy giúp con giải quyết các vấn đề liên quan đến Nico, Luke và

      Có quá nhiều điều để lo lắng đến nỗi tôi còn có thể đứng đó cả buổi sáng, nhưng sau đó tôi đã quay về bàn.

      Khi mọi người ăn, bác Chiron và Grover ghé ngang qua chỗ tôi. Mắt Grover vẫn còn lờ đờ và cậu ấy còn mặc lộn áo trái nữa. Grover đẩy chiếc ̃a lên bàn và ngồi thụp xuống cạnh tôi.

      Tyson nhấp nhổm đầy khó chịu. “Em , ừm..., đánh bóng mấy con cá ngựa con của em đây.”

      Rồi cậu ấy uể oải đứng lên, bỏ lại bữa sáng ăn dở.

      Bác Chiron ́ nở một nụ cười. Có lẽ bác ấy muốn chúng tôi yên tâm, nhưng trong hình dạng của một nhân mã, bác ấy cao vượt hẳn so với tôi và cái bóng của bác ấy bao trùm cả cái bàn. “À, Percy, cháu ngủ ngon chứ?”

      “Vâng, cháu ngủ ngon.” Tôi thắc mắc tại sao bác ấy lại hỏi tôi điều đó. Có thể bác ấy biết được điều gì đó về thông điệp Iris kì lạ mà tôi nhận được chăng?

      “Bác đem Grover tới chỗ cháu,” bác Chiron nói, “vì bác nghĩ hai cháu có thể sẽ muốn nói chuyện với nhau. Còn bây giờ thì xin lỗi nhé, bác cần phải gửi một thông điệp Iris. Gặp lại các cháu sau.” Bác Chiron nhìn Grover một cách đầy hàm ý, rồi sau đó chạy lóc cóc ra khỏi sảnh ăn.

      “Bác ấy nói về chuyện gì thế?” Tôi hỏi Grover

      Grover nhai nốt miếng trứng. Tôi nghĩ Grover bị phân tâm, bởi cậu cắn cả răng của chiếc nĩa và nhai luôn nó. “Bác ấy muốn cậu thuyết phục tớ,” Grover nói nhỏ.

      Một người khác ngồi xuống cạnh tôi chiếc ghế dài: Annabeth.

      “Tớ sẽ nói cho cậu biết đó là cái gì,” Annabeth nói. “Mê Cung.”

      Thật khó để tập trung vào những gì Annabeth nói, bởi vì mọi người trong sảnh ăn lén nhìn chúng tôi và thì thầm. Còn Annabeth thì ngồi kế bên tôi. Ý tôi là sát ngay bên cạnh.

      “Cậu nên ở đây,” tôi nói.

      “Chúng ta cần nói chuyện,” ấy khăng khăng.

      “Nhưng luật đã đề ra là...”

      Cả hai chúng tôi đều biết trại viên được phép đổi bàn của mình. Các thần rừng thì khác. Họ hẳn là những á thần. Nhưng các con lai phải ngồi theo nhà của mình. Thậm chí tôi còn chắc về hình phạt dành cho việc đổi bàn là như thế nào. Tôi chưa chứng kiến chuyện này bao giờ cả. Nếu Ngài D ở đây, hẳn ông ta chắc chắn sẽ siết ̉ Annabeth bằng những dây nho ma thuật hoặc một cái gì đó tương tự như vậy rồi. Nhưng Ngài D lại có ở đây. Bác Chiron đã rời khỏi sảnh ăn, còn Quintus thì nhìn qua chỗ chúng tôi và nhướn mày nhưng nói gì.

      “Nghe này,” Annabeth nói. “Grover gặp rắc rối. Chỉ có một cách chúng ta có thể giúp được cậu ấy. Đó chính là Mê Cung. Đó là điều mà Clarisse và tớ tìm hiểu.”

      Tôi nhấp nhổm, ́ suy nghĩ một cách rõ ràng. “Ý cậu là cái mê cung mà Minotaur đã bị giam giữ trước đây?”

      “Chính xác.” Annabeth nói.

      “Vậy... nó còn nằm bên dưới cung điện nhà vua ở Crete nữa,” tôi đoán. “Mê Cung hiện nằm dưới một tòa nhà nào đó ở nước Mỹ.”

      Thấy chưa? Chỉ mất có vài năm để tôi hiểu ra mọi thứ. Tôi biết rằng những ̣a điểm quan trọng luôn theo Nền Văn minh phương Tây, như ̉nh Olympus hiện ở phía tòa nhà Empire State, và lối vào ̣a Ngục lại ở Los Angeles. Tôi cảm thấy khá tự hào về bản thân mình.

      Annabeth đảo tròn mắt. “Ở dưới một tòa nhà ư? Làm ơn , Percy. Mê Cung thật khổng lồ. Nó còn thể nằm dưới một thành phố, thì nói gì đến một tòa nhà.”

      Tôi nghĩ tới giấc mơ về Nico ở dòng sông Styx. “Vậy... Mê Cung là một phần của ̣a Ngục à?”

      .” Annabeth nhíu mày. “Nhưng có những con đường từ Mê Cung hướng thẳng xuống ̣a Ngục. Tớ chắc. Nhưng ̣a Ngục ở rất, rất sâu bên dưới. Mê Cung chỉ ở ngay bên dưới bề mặt của thế giới loài người, giống như một lớp da thứ hai vậy. Nó đã phát triển hàng ngàn năm nay, các con đường đan vào nhau dưới các thành phố phương Tây, nối tất cả mọi thứ dưới lòng đất với nhau. Cậu có thể khắp mọi nơi thông qua Mê Cung này.”

      “Nếu cậu bị lạc và phải chết một cách tàn khốc,” Grover lẩm bẩm.

      “Grover, phải có cách nào chứ.” Annabeth nói. Tôi có cảm giác họ đã nói về chuyện này trước đây. “Clarisse đã sống sót.”

      “Trong đường tơ kẽ tóc!” Grover nói. “Còn người kia thì...”

      “Cậu ta chỉ bị điên. Cậu ta

      “Ồ, mới vui làm sao.” Môi dưới của Grover run rẩy. “Điều đó khiến tớ cảm thấy dễ chịu hơn đấy.”

      “Oa, từ từ đã nào. Chuyện về Clarisse và chàng bị điên đó là thế nào?” Tôi hỏi.

      Annabeth liếc qua bàn nhà thần Ares. Clarisse nhìn chúng tôi như thể ta biết chúng tôi nói về chuyện gì, nhưng sau đó ta lại dán mắt vào chiếc ̃a.

      “Năm ngoái,” Annabeth hạ giọng, “Clarisse thực hiện nhiệm vụ cho bác Chiron.”

      “Tớ vẫn còn nhớ,” Tôi nói. “Đó là một bí mật.”

      Annabeth gật đầu. Mặc dù ấy tỏ vẻ rất nghiêm trọng nhưng tôi thấy vui vì ấy còn tức điên lên với tôi nữa. Và tôi khá là thích việc ấy phá luật để đến ngồi cạnh tôi.

      “Đó là một bí mật,” Annabeth đồng ý, “vì ấy đã tìm được Chris Rodriguez.”

      chàng ở nhà thần Hermes ấy hả?” Tôi biết cậu ta cách đây hai năm. Chúng tôi đã nghe lỏm được từ Chris Rodriguez con tàu của Luke mang tên Công Chúa Andromeda. Chris là một trong số những con lai đã bỏ trại và gia nhập quân đội của thần khổng lồ Titan.

      “Ừm,” Annabeth nói. “Mùa hè năm ngoái hắn vừa mới xuất hiện ở Phoenix, bang Arizona, gần nhà của mẹ Clarisse.”

      “Ý cậu vừa mới là thế nào?”

      “Hắn ta thơ thẩn khắp sa mạc, trong cái nóng lên đến 120 độ C, với bộ áo giáp Hy Lạp và lảm nhảm về sợi dây.”

      “Sợi dây,” tôi nhắc lại.

      “Hắn đã bị điên hoàn toàn. Clarisse đã mang hắn về nhà mẹ ấy để con người mang hắn vào nhà thương điên. ấy ́ gắng chăm sóc hắn khỏe lại. Bác Chiron đã đến và nói chuyện với hắn, nhưng cũng thu được kết quả gì nhiều. Thông tin duy nhất moi được từ hắn là: đội quân của Luke đã và thăm dò Mê Cung.”

      Tôi rùng mình, mặc dù biết tại sao lại như thế. Tội nghiệp Chris... ta đến nỗi tệ. Điều gì đã khiến ta phát điên? Tôi nhìn Grover, cậu ấy nhai nốt phần còn lại của chiếc nĩa.

      “Được rồi,” tôi hỏi “Tại sao bọn chúng lại thăm dò Mê Cung?”

      “Bọn tớ rõ,” Annabeth nói. “Đó là lý do tại sao Clarisse có mặt trong cuộc tìm kiếm. Bác Chiron giữ kín mọi chuyện vì bác ấy muốn mọi người hoảng sợ. Bác ấy để tớ tham gia vì... ừm, vì Mê Cung luôn là một trong những đề tài hấp dẫn tớ. Nghệ thuật kiến trúc được sử dụng...” Vẻ mặt ấy chuyển sang hơi mơ màng. “Người xây dựng nên nó, Daedalus, là một thiên tài. Nhưng vấn đề là lối vào Mê Cung ở khắp mọi nơi. Nếu Luke có thể tìm ra được lối xuyên qua nó, hắn ta có thể cùng đội quân của mình di chuyển với tốc độ thể tin được.”

      “Mỗi tội đó là một mê cung phải ?”

      “Đầy những cái bẫy khủng khiếp,” Grover đồng ý. “Ngõ cụt. Ảo ảnh. Những con quái vật bị bệnh thần kinh thích ăn thịt dê.”

      “Nhưng sẽ như thế nếu cậu có sợi dây của Ariadne,” Annabeth nói. “Ngày xưa, sợi dây của Ariadne đã dẫn dắt Theseus ra khỏi mê cung. Nó là một công cụ hoa tiêu ở một dạng nào đó và được Daedalus nghĩ ra. Và Chris Rodriguez lại lẩm bẩm về sợi dây.”

      “Vậy Luke ́ tìm kiếm sợi dây của Ariadne,” tôi nói. “Tại sao? Hắn mưu gì đây?”

      Annabeth lắc đầu. “Tớ biết. Tớ nghĩ có thể hắn muốn qua mê cung để xâm chiếm trại, nhưng điều đó chẳng có nghĩa gì cả. Những lối vào gần nhất Clarisse tìm được là ở Manhattan, chúng sẽ giúp Luke vượt qua các ranh giới của chúng ta được. Clarisse đã thử thăm dò một con đường nhỏ dẫn vào những đường hầm, nhưng... nó rất nguy hiểm. Clarisse đã nhiều lần thoát chết trong gang tấc. Tớ đã nghiên cứu mọi thứ tớ có thể tìm kiếm về Daedalus, nhưng e rằng điều này cũng giúp được nhiều. Tớ biết chính xác Luke mưu gì, nhưng tớ chắc chắn một điều: Mê Cung có thể là lời giải cho vấn đề của Grover.”

      Tôi chớp mắt. “Cậu nghĩ thần Pan ở dưới lòng đất sao?”

      “Điều này giải thích tại sao bọn tớ thể tìm thấy ông ấy.”

      Grover run bắn lên. “Các thần rừng ghét xuống lòng đất lắm. Chẳng có người tìm kiếm nào muốn thử đến nơi đó cả. hoa cỏ. ánh mặt trời. quán cà phê!”

      “Nhưng,” Annabeth nói, “Mê Cung có thể dẫn cậu đến hầu như bất cứ nơi đâu. Nó đọc được ý nghĩ của cậu. Nó được xây nên để lừa cậu, cho cậu vào bẫy và giết cậu; nhưng nếu cậu có thể khiến Mê Cung tuân lệnh thì...”

      “Nó có thể đưa cậu với vị thần thiên nhiên,” tôi nói.

      “Tớ thể làm điều đó.” Grover ôm bụng. “Chỉ nghĩ về nó thôi đã khiến tớ muốn nôn tất cả đồ bạc của tớ ra rồi.”

      “Grover, đây có thể là cơ hội cuối cùng của cậu,” Annabeth nói. “Hội đồng rất nghiêm túc đấy. Một tuần hoặc cậu sẽ phải học nhảy gõ nhịp bằng bàn chân.”

      Ở bàn chính, Quintus hắng giọng. Tôi có cảm giác ông ta muốn gây chuyện, nhưng Annabeth thực sự làm tới vì ngồi quá lâu ở bàn của tôi.

      “Chúng ta sẽ nói chuyện sau.” Annabeth siết cánh tay tôi hơi mạnh. “Cậu sẽ thuyết phục cậu ấy chứ?”

      Annabeth quay về bàn nhà nữ thần Athena, lờ tất cả ánh mắt nhìn chằm chằm vào mình của mọi người.

      Grover lấy hai tay ôm đầu. “Tớ thể làm việc đó, Percy. Giấy phép tìm kiếm của tớ. Thần Pan. Tớ sẽ mất tất cả. Tớ sẽ phải xây dựng một nhà hát múa rối.”

      “Đừng nói thế. Chúng ta sẽ nghĩ ra cách nào đó.”

      Grover nhìn tôi mắt giàn giụa nước. “Percy, cậu là bạn tốt nhất của tớ. Cậu đã từng thấy tớ ở dưới lòng đất. Trong cái hang của quái vật Cyclops. Cậu có thực sự nghĩ rằng tớ có thể...”

      Grover ngập ngừng. Tôi nhớ đến Biển Quái Vật, khi Grover bị nhốt trong hang của Cyclops. Ngày trước Grover chưa bao giờ thích những nơi dưới lòng đất, và bây giờ thì cậu ấy căm ghét chúng. Cyclops khiến cậu ấy sởn tóc gáy. Thậm chí cả Tyson... Grover ́ giấu điều đó, nhưng tôi và cậu ấy phần nào có thể đọc được cảm xúc của nhau nhờ vào sợi dây giao cảm Grover đã tạo ra giữa chúng tôi. Tôi hiểu cậu ấy cảm thấy như thế nào. Grover khiếp sợ gã to lớn.

      “Tớ phải đây,” Grover nói một cách khổ sở. “Juniper đợi tớ. Thật may là ấy lại thấy những thằng nhát gan như tớ hấp dẫn!”

      Sau khi Grover rời , tôi nhìn sang Quintus. Ông ta gật đầu một cách nghiêm nghị cứ như chúng tôi cùng nắm giữ một bí mật đen tối nào vậy. Sau đó ông ta quay lại dùng dao găm cắt xúc xích ̃a của mình.

      Vào buổi chiều, tôi xuống chuồng ngựa pegasus thăm bạn Blackjack.

      A, chào sếp. Blackjack vui mừng nhảy cỡn lên trong chuồng ngựa, đôi cánh màu đen đập mạnh trong khí. Sếp có mang cho tôi một ường miếng chứ?

      “Blackjack, cậu thừa biết chúng tốt cho cậu mà.”

      Phải, nhưng sếp có mang cho tôi chứ?

      Tôi phì cười và cho cậu ta một nắm. Blackjack và tôi đã có thời gian dài bên nhau. Đại loại là tôi đã cứu nó từ con tàu ma quỷ của Luke cách đây vài năm, và kể từ đó nó cứ khăng khăng đòi trả ơn tôi.

      Vậy sắp tới chúng ta có bất cứ cuộc tìm kiếm nào ? Blackjack hỏi. Tôi đã sẵn sàng bay, thưa sếp!

      Tôi vỗ vào mũi nó. “ chắc, bạn ạ. Mọi người vẫn nói về những mê cung dưới lòng đất.”

      Blackjack hí lên đầy lo lắng. Khôngggg. phải dành cho con ngựa này chứ! Sếp khùng đến mức vào mê cung phải ? Sếp sẽ kết thúc cuộc đời trong một nơi rối như tơ vò!

      “Có thể cậu đúng, Blackjack. Chúng ta sẽ xem thế nào.”

      Blackjack nhai những viên đường miếng một cách giòn giã. Nó lắc lắc cái bờm thể bị co giật do đường vậy. Oa, ngon quá! Sếp, khi ngài tỉnh táo và muốn bay bất kì đâu, chỉ cần huýt sáo một tiếng. Blackjack và các bạn của mình sẽ làm cho bất cứ người nào cong mông chạy tán loạn vì ngài.”

      Tôi nói với Blackjack rằng tôi sẽ khắc ghi điều này. Sau đó, một nhóm trại viên trẻ vào chuồng ngựa để bắt đầu bài học cưỡi ngựa, và tôi thấy đã đến lúc phải . Tôi có cảm giác hay rằng tôi sẽ gặp lại Blackjack trong một thời gian dài.

      Đêm hôm đó, sau bữa tối, Quintus ra lệnh cho chúng tôi mặc áo giáp trận giống như chúng tôi chuẩn bị chơi trò cướp cờ, nhưng khí lại nghiêm túc hơn nhiều. biết lúc nào trong ngày, những chiếc thùng trong đấu trường đã biến mất, và tôi có cảm giác dù những thùng này đựng cái gì thì chúng cũng đã bị mang vào rừng.

      “Được rồi,” Quintus đứng chiếc bàn lớn và nói. “Tập hợp thành vòng tròn.”

      Quintus mặc bộ đồ bằng da đen và đồng. Trong ánh đuốc, mái tóc muối tiêu khiến ông giống như một bóng ma. Con O’Leary nhảy vui vẻ xung quanh ông ta, nhặt nhạnh những mẩu thức ăn vụn của bữa tối.

      “Các cậu sẽ hoạt động theo nhóm hai người,” Quintus thông báo. Khi mọi người bắt đầu nói chuyện và lôi kéo bạn bè vào nhóm, ông ta hét lớn: “Theo như tôi đã chọn sẵn.

      “Aaaaaaaa!” mọi người kêu lên.

      “Mục tiêu của các cậu rất đơn giản: sống sót và tìm được vòng nguyệt quế vàng. Vòng nguyệt quế được bọc trong một gói lụa và buộc vào sau lưng của một trong những con quái vật. Có sáu con quái vật tất cả. Mỗi con có một bọc lụa, nhưng chỉ có một con giữ vòng nguyệt quế mà thôi. Các cậu phải tìm được vòng nguyệt quế trước các đội khác. Và tất nhiên... các cậu phải giết con quái vật để lấy được nó, và sống sót.”

      Các trại viên bắt đầu thì thầm một cách háo hức. Nhiệm vụ nghe rất dễ hiểu. Này nhé, trước đây chúng tôi đều từng giết quái vật, và chúng tôi được huấn luyện để làm việc đó.

      “Bây giờ tôi sẽ thông báo các cặp đôi,” Quintus nói. “ thương lượng. trao đổi. phàn nàn.”

      “Húuuuu!” O’Leary vùi mặt vào một ̃a pizza.

      Quintus đã ghi sẵn một cuộn giấy dài và bắt đầu đọc tên. Beckendorf cùng nhóm với Silena Beauregard, và điều này khiến Beckendorf khá vui vẻ. em nhà Stoll, Travis và Connor, sẽ chung một đội. Điều này chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Họ lúc nào cũng làm mọi việc cùng nhau. Clarisse cùng Lee Fletcher của nhà thần Apollo – sự kết hợp giữa hỗn chiến và tham trận có kế hoạch, họ sẽ là một cặp đôi khó đánh bại. Quintus cứ ra rả đọc tên cho đến khi, “Percy Jackson và Annabeth Chase một đội.”

      “Tuyệt.” Tôi cười toét với Annabeth.

      “Áo giáp của cậu bị cong kìa,” là câu bình luận duy nhất của ấy, và thắt lại đai áo cho tôi.

      “Grover Underwood,” Quintus nói, “cặp với Tyson.”

      Grover suýt nữa nhảy ra khỏi bộ lông dê của cậu ta. “Gì cơ? Nhưng...”

      , ,” Tyson rên rỉ. “Chắc là nhầm lẫn rồi. chàng người dê...”

      phàn nàn!” Quintus ra lệnh. “Hãy tập hợp với ̣ng sự của mình. Các cậu có hai phút để chuẩn bị.”

      Tyson và Grover đều nhìn tôi khẩn nài. Tôi ́ gật đầu khuyến khích họ, và ra dấu rằng họ nên kết hợp với nhau. Tyson hắt xì hơi. Grover bắt đầu nhai cái dùi cui gỗ một cách lo lắng.

      “Họ sẽ ổn thôi,” Annabeth nói. “ nào. Hãy nghĩ về việc chúng ta làm thế nào để sống sót thì tốt hơn

      Trời vẫn còn sáng khi chúng tôi vào rừng, nhưng các bóng cây khiến gian giống như lúc nửa đêm. Trời lạnh nữa, dù bây giờ là mùa hè. Annabeth và tôi gần như tìm thấy ngay dấu vết – những dấu vết chạy trốn vội vã của một thứ gì đó có rất nhiều chân. Chúng tôi bắt đầu lần theo các dấu chân đó.

      Chúng tôi nhảy qua một con suối và bỗng nghe thấy tiếng cành cây nhỏ gãy răng rắc gần đó. Chúng tôi núp vào sau một tảng đá cuội, nhưng hóa ra đó là em nhà Stoll vấp ngã trong rừng và làu bàu nguyền rủa. Cha của họ là vị thần của những tên trộm, nhưng họ lại rón ra rón rén như những con trâu vậy.

      Khi em nhà Stoll khỏi, chúng tôi tiến sâu hơn vào các cánh rừng phía tây, nơi những con quái vật trở nên hung dữ hơn. Chúng tôi đứng gờ trông ra một cái đầm lầy. Annabeth hồi hộp. “Đây là nơi chúng ta đã ngừng việc tìm kiếm.”

      Phải mất một giây để tôi nhận ra ý của Annabeth. Mùa đông năm ngoái, khi chúng tôi tìm kiếm Nico Di Angelo, đây là nơi chúng tôi từ bỏ hy vọng tìm thấy cậu bé. Grover, Annabeth và tôi đã đứng tảng đá này, và tôi đã thuyết phục họ đừng nói với bác Chiron sự thật rằng Nico là con trai của thần Hades. Vào lúc ấy, đây dường như là một việc làm đúng đắn. Tôi muốn bảo vệ danh tính của cậu ấy. Tôi muốn mình là người tìm thấy cậu ấy và chuộc lại lỗi lầm vì những gì đã xảy ra với chị cậu bé. Giờ đây, sáu tháng đã trôi qua, tôi thậm chí còn chưa tìm thấy cậu bé đâu cả. Tôi cảm thấy vị đắng trong miệng.

      “Tớ đã thấy cậu nhóc đêm qua,” tôi nói.

      Annabeth nhíu mày. “Ý cậu là gì?”

      Tôi kể cho ấy nghe về thông điệp Iris. Khi tôi nói xong, Annabeth lại nhìn chăm chú vào bóng đêm trong khu rừng. “Cậu ấy triệu hồi những người đã chết ư? Thật chẳng tốt chút nào.”

      “Con ma đưa cho cậu ấy những lời khuyên xấu,” tôi nói. “Nó còn bảo cậu ấy trả thù.”

      “Ừ... những linh hồn bao giờ là một quân sư tốt cả. Chúng có ý đồ của riêng chúng. Những hận thù trong quá khứ. Và chúng căm thù người sống.”

      “Nico sẽ tìm đến tớ,” tôi nói. “Linh hồn đó đã nhắc đến một mê cung.”

      Annabeth gật đầu. “Điều này giải quyết tất cả. Chúng ta phải tìm ra Mê Cung.”

      “Có thể nói được thoải mái lắm. “Nhưng ai đã gửi thông điệp Iris? Nếu Nico hề biết rằng tớ đã ở đó...”

      Một cành cây gãy rắc trong rừng. Lá khô lạo xạo. Một cái gì đó rất lớn di chuyển giữa các cây trong rừng, ngay phía dải đất hẹp ̉nh đồi.

      “Đó phải em nhà Stoll,” Annabeth thì thầm.

      Chúng tôi cùng rút kiếm ra.

      Chúng tôi lên tới ̉nh Nắm Tay Của Thần Zeus, một núi sỏi cao ở giữa rừng phía tây. Đó là một mốc quan trọng nơi các trại viên thường hẹn nhau trong những chuyến săn, nhưng bây giờ thì chẳng có ai ở đó.

      “Ở đằng kia,” Annabeth thì thầm.

      , đợi đã,” tôi nói. “Nó ở sau chúng ta.”

      Thật kì lạ. Những tiếng động vụt qua dường như đến từ nhiều hướng khác nhau. Khi chúng tôi quanh núi sỏi với lưỡi kiếm tay thì một tiếng nói cất lên từ ngay sau lưng chúng tôi, “Chào.”

      Chúng tôi xoay người lại, và nữ thần cây Juniper hét lên.

      “Bỏ chúng xuống! Nữ thần cây thích những lưỡi kiếm nhọn đâu, được ?” ấy kháng nghị.

      “Juniper,” Annabeth thở phào nhẹ nhõm. “Cậu làm gì ở đây vậy?”

      “Tớ sống ở đây.”

      Tôi hạ kiếm xuống. “Trong đá sỏi ư?”

      ta chỉ tay về phía rìa khoảng rừng trống. “Trong cây bách xù. Ngốc ạ.”

      Đúng vậy, và tôi thấy mình khá là ngốc. Tôi đã ở bên các thần cây trong nhiều năm, nhưng tôi chưa bao giờ thực sự nói chuyện nhiều với họ. Tôi biết họ thể quá xa cái cây của họ vì đó là nguồn sống của mỗi người. Ngoài ra tôi biết thêm gì nữa.

      “Các cậu bận à?” Juniper hỏi.

      “Ừm, bọn tớ có một trò chơi chống lại một đám quái vật và ́ gắng để mất mạng đây!” tôi nói.

      bận đâu, có chuyện gì vậy Juniper?”Annabeth trả lời.

      Juniper sụt sịt. ta lấy ống tay áo bằng lụa lau nước mắt: “Là về Grover. Cậu ấy dường như quẫn trí. Cả nay cậu ấy tìm thần Pan. Và mỗi lần cậu ấy trở về, mọi việc lại tệ hại hơn. Đầu tiên, tớ nghĩ có lẽ cậu ấy hẹn hò với một cái cây khác.”

      ,” Annabeth an ủi trong khi Juniper bắt đầu khóc. “Chắc chắn phải như vậy đâu.”

      “Cậu ấy từng cảm nắng một bụi cây việt quất đấy thôi,” Juniper nói với vẻ mặt đầy đau khổ.

      “Juniper,” Annabeth nói, “Grover thậm chí còn nhìn một cái cây nào khác. Cậu ấy chỉ căng thẳng vì giấy phép tìm kiếm của mình thôi.”

      “Cậu ấy thể xuống lòng đất!” Juniper phản đối. “Các cậu được để Grover làm thế.”

      Annabeth trông hơi khó chịu. “Đó có thể là cách duy nhất để giúp cậu ấy; nếu bọn tớ biết được nơi để bắt đầu.”

      “À.” Juniper lau một giọt nước mắt xanh má. “Về chuyện đó...”

      Một tiếng lạo xạo khác trong rừng, và Juniper hét lên, “Trốn !”

      Trước khi tôi kịp hỏi tại sao, ta đã biến mất vào làn sương màu xanh.

      Annabeth và tôi quay lại. bò ra khỏi rừng là một con côn trùng sáng lấp lánh màu hổ phách, dài hơn ba mét với những cái càng có răng cưa lởm chởm, một cái đuôi được bọc sắt và một cái vòi dài bằng thanh kiếm của tôi. Một con bọ cạp. Một bọc bằng lụa đỏ được buộc lưng nó.

      “Một trong hai chúng ta sẽ luồn ra đằng sau nó,” Annabeth phân công, trong khi con quái vật rầm rầm tiến về phía chúng tôi. “Chặt đứt đuôi nó, còn người kia sẽ đứng đằng trước đánh lạc hướng.”

      “Tớ sẽ đứng đằng trước,” tôi nói. “Cậu có mũ tàng hình mà.”

      Annabeth gật đầu. Tôi và ấy đã cùng nhau chiến đấu nhiều lần đến mức chúng tôi biết rõ từng cử động của nhau. Chúng tôi có thể làm việc này, một cách dễ dàng. Nhưng mọi thứ diễn ra đơn giản như dự tính của chúng tôi khi có thêm hai con bọ cạp nữa xuất hiện ở rìa rừng.

      “Ba con ư?” Annabeth nói. “ thể nào! Cả khu rừng thế này mà một nửa số quái vật tấn công chúng ta à?”

      Tôi nuốt nước miếng. Một con, chúng tôi có thể xử lý được. Hai con, chúng tôi cần một chút may mắn. Ba con ư? Tôi nghi ngờ

      Những con bọ cạp di chuyển nhanh về phía chúng tôi, quất mạnh những cái đuôi đầy gai như thể mục tiêu duy nhất khi đến đây là lấy mạng chúng tôi. Annabeth và tôi dựa lưng vào tảng đá gần nhất.

      “Trèo lên nhé?” Tôi gợi ý.

      có đủ thời gian đâu.”

      ấy nói đúng. Những con bọ cạp đã bao quanh chúng tôi. Chúng ở gần đến nỗi tôi có thể nhìn thấy những cái miệng gớm ghiếc chảy dãi, mong chờ một bữa đánh chén ngon lành các á thần.

      “Coi chừng!” Annabeth gạt được một cái vòi bằng thanh kiếm của mình. Tôi dùng thanh Thủy Triều đâm mạnh, nhưng con quái vật đã lùi ra sau và tránh được. Chúng tôi trèo lên bên hông tảng đá, nhưng lũ bọ cạp vẫn đuổi theo. Tôi vung kiếm chém vào một con khác, nhưng việc bắt đầu tấn công là quá nguy hiểm. Nếu tôi nhằm vào thân nó, cái đuôi sẽ đâm từ xuống. Nếu tôi nhằm vào đuôi nó, những chiếc càng của con quái vật sẽ xuất hiện từ hai bên để tóm lấy tôi. Tất cả những gì chúng tôi có thể làm là phòng vệ, và chúng tôi sẽ thể cầm cự được lâu.

      Tôi trèo thêm một bước nữa sang bên, và đột nhiên phía sau tôi là khoảng trống. Đó là khe nứt giữa hai tảng đá cuội lớn nhất, cái mà tôi đã qua cả triệu lần rồi, nhưng...

      “Trong này,” tôi nói.

      Annabeth chém một con bọ cạp rồi quay sang nhìn tôi như thể tôi bị điên vậy. “Trong đó ư? Nó quá hẹp!”

      “Tớ sẽ yểm hộ cậu. !”

      ấy lùi ra phía đằng sau tôi và bắt đầu ép mình luồn qua khe giữa hai tảng cuội. Sau đó Annabeth hét lên và túm lấy dây đai áo giáp của tôi. Và đột nhiên, tôi ngã xuống một cái hố mà cách đó một giây vẫn còn chưa xuất hiện. Tôi có thể trông thấy lũ bọ cạp bên chúng tôi, màu trời đêm đỏ tía và cây ́i xung quanh. Sau đó cái lỗ đóng lại như ống kính máy ảnh, và chúng tôi hoàn toàn chìm trong bóng tối.

      Hơi thở của chúng tôi dội lại từ những phiến đá. khí ẩm và lạnh. Tôi ngồi một mặt sàn mấp mô, có lẽ được làm bằng gạch.

      Tôi nhấc thanh Thủy Triều lên. Ánh sáng yếu ớt từ lưỡi của nó vừa đủ để soi vào gương mặt đầy sợ hãi của Annabeth và những bức tường đầy rêu ở hai bên.

      “Chúng ta... ở đâu?” nói.

      “Dù sao thì ta cũng đã thoát khỏi lũ bọ cạp.” Tôi ́ gắng nói bằng giọng bình tĩnh, nhưng thực sự tôi cũng sợ chết được. Rõ ràng khe hở giữa hai tảng đã thể dẫn vào một cái hang được. Nếu có một cái hang ở đây thì tôi phải biết; tôi khá chắc về điều đó. Sự việc xảy ra giống như lòng đất đã mở ra và nuốt gọn chúng tôi. Tất cả những gì tôi nghĩ được là khe nứt ở sảnh ăn, nơi mà các chiến binh xương đã bị nuốt chửng mùa hè năm ngoái. Tôi băn khoăn liệu có phải điều tương tự đã xảy đến với chúng tôi hay .

      Tôi nhấc thanh kiếm lên để lấy ánh sáng một lần nữa.

      “Đây là một căn phòng dài,” tôi lẩm nhẩm.

      Annabeth nắm chặt tay tôi. “Đây phải là một căn phòng. Nó là một hành lang.”

      ấy nói đúng. Bóng tối phía trước chúng tôi dường như có vẻ... trống rỗng hơn. Một cơn gió nhẹ ấm áp thổi qua, giống như trong đường hầm xe điện ngầm, chỉ có điều nó có vẻ “cũ” hơn và có gì đó nguy hiểm hơn.

      Tôi ̣nh tiến lên phía trước nhưng Annabeth ngăn tôi lại. “Đừng bước thêm. Chúng ta cần tìm lối ra.”

      Bây giờ thì Annabeth có vẻ thực sự sợ hãi.

      “Được rồi,” tôi hứa với ấy. “Mọi việc sẽ ổn...”

      Tôi ngẩng lên và chợt nhận ra tôi biết được chúng tôi đã rơi xuống chỗ nào. Phía đường hầm làm bằng đá rắn chắc. Hàng lang dường như kéo dài bất tận về cả hai phía.

      Tay của Annabeth luồn vào tay tôi. Vào những lúc khác có lẽ tôi sẽ bối rối lắm, nhưng ở đây, trong bóng tối, tôi thấy vui vì nhờ thế mà tôi biết ấy ở đâu. Gần như đó là điều duy nhất tôi cảm thấy chắc chắn.

      “Lùi lại hai bước,” Annabeth khuyến cáo.

      Chúng tôi cùng nhau bước giật lùi giống như ở một bãi mìn.

      “Được rồi,” ấy nói. “Hãy giúp tớ kiểm tra các bức tường.”

      “Để làm gì?”

      “Dấu hiệu của Daedalus,” ấy nói, như thể điều này có tác dụng gì lắm vậy.

      “Ừ, được thôi. Dấu hiệu kiểu gì...”

      “Đây rồi,” Annabeth thở phào nhẹ nhõm. ấy đặt tay lên bức tường và ấn vào một khe nứt nhỏ xíu, và nó bắt đầu tỏa ánh sáng màu xanh. Một ký hiệu Hy Lạp xuất hiện: , một chữ cái tiếng Hy Lạp ̉, Delta.

      Trần phía của đường hầm mở ra, và chúng tôi nhìn thấy bầu trời đêm, những ngôi sao tỏa sáng lấp lánh. Trời tối hơn mọi khi. Một cái thang kim loại xuất hiện ở một bờ tường, hướng lên , và tôi nghe thấy mọi người gọi tên chúng tôi.

      Percy! Annabeth!” Giọng của Tyson vang lên rõ nhất, và những người khác cũng kêu tên chúng tôi.

      Tôi lo lắng nhìn Annabeth. Và chúng tôi bắt đầu trèo lên.

      Chúng tôi vòng qua các tảng đá và đâm bổ vào Clarisse cùng một số trại viên khác cầm đuốc.

      “Các cậu đã ở đâu thế?” Clarisse hỏi. “Chúng tớ tìm các cậu mãi.”

      “Chúng tớ mới có vài phút mà,” tôi nói.

      Bác Chiron chạy tới, theo sau là Tyson và Grover.

      Percy!” Tyson hỏi. “ sao chứ?”

      “Bọn ổn mà,” tôi nói. “Bọn bị ngã xuống một cái hố.”

      Những người khác nhìn tôi, và sau đó nhìn Annabeth một cách nghi ngờ.

      “Thật đấy!” tôi nói. “Có ba con bọ cạp đuổi theo chúng tớ, vì vậy chúng tớ chạy và trốn vào mấy tảng đá. Nhưng chúng tớ chỉ biến mất có một phút thôi.”

      “Các cháu đã biến mất gần một tiếng đồng hồ,” bác Chiron nói. “Trò chơi đã kết thúc.”

      “Ừm,” Grover lẩm bẩm. “Đáng lẽ bọn tớ đã thắng, nhưng một Cyclops đã ngồi lên người tớ.”

      “Chỉ là may thôi!” Tyson phản đối, và sau đó thì hắt xì.

      Clarisse đội vòng nguyệt quế vàng, nhưng ta ba hoa về chiến thắng lần này, điều đó chẳng giống ta một chút nào. “Một cái hố ư?” Clarisse nói với vẻ nghi ngờ.

      Annabeth hít một hơi thật sâu. ấy nhìn các trại viên khác xung quanh. “Bác Chiron... có lẽ chúng ta nên nói chuyện này ở Nhà Lớn.”

      Clarisse há hốc miệng. “Cậu đã tìm ra nó, đúng ?”

      Annabeth cắn môi “Tớ... Ừm, ừm, bọn tớ đã tìm ra.”

      Một đám trại viên bắt đầu lao nhao hỏi và chờ đợi, trông cũng bối rối chẳng khác gì tôi, nhưng bác Chiron giơ tay ra hiệu im lặng. “Đêm nay phải là thời điểm thích hợp, và đây cũng phải là chỗ thích hợp.” Bác ấy nhìn vào những tảng đá, có vẻ như bác ấy hiểu chúng nguy hiểm đến mức nào. “Tất cả các cháu quay về nhà. Hãy ngủ. Trò chơi rất vui, nhưng đã quá giờ giới nghiêm rồi.”

      Có nhiều tiếng xì xào và phàn nàn, nhưng các trại viên đều giải tán. Họ nói chuyện với nhau và nhìn tôi một cách đầy ngờ vực.

      “Điều này giải thích nhiều thứ,” Clarisse nói. “Nó giải thích điều Luke tìm kiếm.”

      “Đợi đã,” tôi nói. “Ý cậu là gì? Chúng tớ đã tìm thấy cái gì thế?”

      Annabeth quay sang tôi, đôi mắt ấy đầy lo lắng. “Một lối vào Mê Cung. Một con đường xâm lược dẫn thẳng vào giữa trại.”

    5. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      IV


      Bác Chiron cứ khng khăng bắt chúng tôi nói chuyện đó vào sáng hôm sau, việc đó chẳng khác gì, Này, mạng sống của cậu bị nguy hiểm đấy. Ngủ ngon nhé! Đêm đó tôi bị khó ngủ, và khi cuối cùng ngủ được thì tôi lại mơ về một nhà tù.

      Tôi trông thấy một cậu bé mặc áo chùng kiểu Hy Lạp, xăng-đan co ro một mình trong một căn phòng lớn bằng đá. Trần nhà thông ra ngoài trời, nhưng các bức tường cao đến sáu mét và làm bằng đá cẩm thạch được mài bóng, hoàn toàn nhẵn mịn. Rải rác trong phòng là những hộp gỗ. Một vài cái bị nứt vỡ và đổ, giống như chúng đã bị quăng vào đó. Các dụng cụ bằng đồng rơi ra ngoài – một cái compa, một cái cưa và một số thứ khác mà tôi thể nhận ra.

      Cậu bé co ro trong góc phòng, run rẩy vì lạnh, hoặc vì sợ hãi. người cậu đầy những vết bùn bắn tóe tung. Chân, tay và mặt mũi cậu bé trầy xước như thể cậu bị kéo lê đến đây cùng những chiếc hộp này.

      Sau đó hai cánh cửa bằng gỗ sồi ì ạch mở ra. Hai tên lính canh gác trong bộ áo giáp bằng đồng bước vào cùng một người đàn ông già nua giữa. Chúng quẳng đàn ông già vào đống hỗn độn đó.

      “Cha!” Cậu bé chạy đến bên ông. Áo của ông ta rách tả tơi, tóc điểm một vài sợi bạc, râu dài và xoăn. Mũi của ông bị gãy và môi thì chảy máu.

      Cậu bé lấy tay ôm lấy đầu ông. “Chúng đã làm gì cha?” Sau đó cậu bé hét vào mặt những tên lính gác, “Tao sẽ giết chúng mày!”

      “Hôm nay sẽ có giết chóc gì cả,” một giọng nói vang lên.

      Bọn lính canh dạt sang bên. Đứng đằng sau chúng là một người đàn ông mặc áo choàng trắng. Hắn đeo một chiếc vòng nhỏ bằng vàng mỏng đầu. Râu của hắn nhọn như một lưỡi giáo. Mắt hắn ánh lên sự tàn ác. “Nhà ngươi đã giúp gã người Athen kia giết chết Minotaur của ta, Daedalus. Ngươi đã khiến con gái ta chống lại ta.”

      “Chính ngài đã tự tạo ra điều đó, thưa bệ hạ,” giọng người đàn ông già rên rỉ.

      Một tên lính đá vào mạng sườn ông lão. Ông ấy rên rỉ trong đau đớn. Cậu bé kêu lên, “Dừng lại!”

      “Nhà ngươi cái mê cung của mình quá,” vị vua nói. “Nên ta đã quyết ̣nh cho nhà ngươi ở đây. Đây sẽ là xưởng làm việc của ngươi. Hãy tạo ra cho ta những kì quan mới. Hãy làm cho ta vui. Mọi mê cung đều cần một con quái vật. Nhà ngươi sẽ là con quái vật đó của ta!”

      “Tôi sợ ngài đâu,” người đàn ông già kêu rên.

      Vị vua cười lạnh lùng. Mắt hắn nhìn chăm chăm vào cậu bé. “Nhưng một người đàn ông sẽ quan tâm đến con trai của mình, phải ? Cứ làm ta thất vọng , lão già, và lần tới lính của ta sẽ trừng phạt thằng bé!”

      Vị vua đường bệ khỏi cùng bọn lính canh, và hai cánh cửa đóng sầm, bỏ lại hai cha con cậu bé trong bóng tối.

      “Chúng ta sẽ làm gì đây?” Cậu bé than vãn. “Cha, chúng sẽ giết cha mất.”

      Ông lão chịu đau và ́ gắng nở một nụ cười, nhưng miệng ông đầy máu trông thật đáng sợ.

      “Can đảm lên con trai của ta.” Ông nhìn lên các vì sao. “Cha-cha sẽ tìm cách.”

      Một then chắn hạ xuống ngang cửa cùng thanh chết người. Tôi choàng tỉnh, mồ hôi lạnh ngắt.

      Sáng hôm sau, khi tôi còn chưa hết run thì bác Chiron triệu tập một hội đồng chiến tranhhúng tôi gặp nhau ở khu đấu kiếm, một điều được bình thường cho lắm – chúng tôi bàn bạc về số phận của trại trong khi con O’Leary nhai kèn kẹt một con bò bằng cao su màu hồng có kích thước như thật.

      Bác Chiron và Quintus đứng ở đằng trước, bên cạnh giá để vũ khí. Annabeth và Clarisse ngồi cạnh nhau và cùng thảo ra chỉ thị quân sự. Tyson và Grover ngồi cách xa nhau hết mức có thể. Cùng ngồi ở bàn còn có nữ thần cây Juniper, Silena Beauregard, Travis và Connor Stoll, Beckendorf, Lee Fletcher, và thậm chí cả Argus, người đứng đầu bộ phận an ninh trăm mắt của chúng tôi. Đó là lý do tại sao tôi biết mọi việc đã trở nên nghiêm trọng. Argus hiếm khi xuất hiện trừ khi có việc gì đó cực kỳ quan trọng diễn ra. Trong lúc Annabeth nói, ta dồn cả trăm con mắt xanh của mình vào ấy, chăm chú đến nỗi cả thân mình ta đỏ ngầu lên.

      “Chắc chắn Luke đã biết về lối vào Mê Cung,” Annabeth nói. “Hắn biết mọi thứ về trại của chúng ta.”

      Tôi nghĩ mình có thể cảm nhận được một chút kiêu hãnh trong giọng nói của Annabeth, như thể ấy vẫn kính trọng hắn, cho dù hắn xấu xa đến mức nào.

      Juniper hắng giọng. “Đó là điều tớ ̣nh nói với cậu tối qua. Lối vào hang đó đã có ở đó từ rất lâu rồi. Luke đã từng dùng nó.”

      Silena Beauregard nhíu mày. “Cậu đã biết về lối vào Mê Cung, sao cậu nói gì?”

      Mặt Junifer chuyển sang màu xanh lá. “Tớ biết điều đó quan trọng. Chỉ là một cái hang thôi mà. Tớ thích những những cái hang cũ gớm ghiếc.”

      ấy rất tinh tế mà,” Grover nói.

      “Tớ sẽ để ý đâu, nếu đó phải là... là Luke.” Mặt ta trở nên hơi xanh hơn một chút như thể ta đỏ mặt vậy.

      Grover nổi cáu. “Quên cái gì tinh tế mà tớ vừa nói nhé.”

      “Hay đấy.” Quintus vừa lau bóng thanh kiếm vừa nói. “Và mọi người tin rằng chàng đó, Luke, sẽ dám sử dụng Mê Cung như một con đường hành quân để chiếm trại sao?”

      “Chắc chắn,” Clarisse nói. “Nếu hắn có thể đưa cả một đội quái vật vào bên trong Trại Con Lai, có thể đột ngột xuất hiện giữa rừng mà chẳng mảy may lo lắng về hàng rào phép thuật của trại, thì chúng ta sẽ chẳng có một cơ may nào đâu. Hắn có thể tiêu diệt chúng ta dễ dàng. Chắc chắn hắn đã chuẩn bị việc này trong nhiều tháng rồi.

      “Hắn đưa người do thám mê cung,” Annabeth nói. “Bọn tớ biết việc này vì... vì bọn tớ đã tìm được một tên.”

      “Chris Rodriguez,” bác Chiron nói và ném cho Quintus một cái nhìn đầy ý nghĩa.

      “À,” Quintus nói. “Cái tên trong... Được rồi. Tôi đã hiểu.”

      “Cái tên trong cái gì?” tôi hỏi.

      Clarisse nhìn tôi trừng trừng. “Vấn đề là, Luke ́ tìm đường xuyên qua mê cung. Hắn tìm kiếm xưởng của Daedalus.”

      Tôi nhớ đến giấc mơ của mình đêm hôm trước – một người đàn ông già đầy máu trong bộ quần áo rách tả tơi. “Người đã tạo ra mê cung đúng ?”

      “Phải,” Annabeth nói. “Kiến trúc sư vĩ đại nhất, nhà phát minh vĩ đại nhất mọi thời đại. Nếu các truyền thuyết hoàn toàn có thật, thì xưởng của ông ấy nằm ở tâm của Mê Cung. Ông ấy là người duy nhất biết cách qua mê cung an toàn. Nếu Luke tìm thấy xưởng và thuyết phục được ông ấy giúp hắn, hắn sẽ phải mò mẫm tìm đường với nguy cơ mất cả đội quân trong những cái bẫy ở mê cung. Hắn có thể đến bất kì nơi đâu hắn muốn – nhanh chóng và an toàn. Đầu tiên là đến Trại Con Lai để quét sạch hết tất cả chúng ta. Sau đó... hướng thẳng đến ̉nh Olympus.”

      Đấu trường trở nên im lặng trừ tiếng CHÍT! CHÍT! phát ra từ con bò đồ chơi đã bị moi ruột của con O’Leary.

      Cuối cùng Beckendorf đặt hai bàn tay lớn lên bàn. “Lùi lại một giây nào. Annabeth, cậu nói ‘thuyết phục Daedalus’ ư? Chẳng phải Daedalus đã chết rồi sao?”

      Quintus cằn nhằn. “Tôi cũng hy vọng như vậy. Ông ta sống, bao nhiêu nhỉ, cách đây ba ngàn năm năm phải ? Và thậm chí nếu ông ta còn sống, chẳng phải những câu chuyện ̉ nói rằng ông ta đã khỏi Mê Cung hay sao?”

      Bác Chiron ngừng gõ lộp ̣p móng guốc. “Đó là vấn đề đấy, Quintus thân mến ạ. Chẳng ai biết cả. Có những lời đồn... đúng rồi, có rất nhiều lời đồn gây xôn xao về Daedalus, một trong số đó là ông ta đã quay lại và biến mất vào trong Mê Cung khi về già. Có thể ông ta vẫn còn ở dưới đó.”

      Tôi nghĩ về người đàn ông già mà tôi đã thấy trong giấc mơ. Trông ông ta thật yếu đuối, thật khó tin rằng ông ta có thể sống thêm được một tuần nào nữa, chứ đừng nói là tới những ba

      “Chúng ta cần vào bên trong,” Annabeth nói. “Chúng ta phải tìm ra xưởng trước Luke. Nếu Daedalus còn sống, chúng ta sẽ thuyết phục ông ấy giúp chúng ta, chứ phải Luke. Nếu sợi dây của Ariadne vẫn còn, chúng ta phải chắc chắn nó rơi vào tay hắn.”

      “Đợi đã,” tôi nói. “Nếu chúng ta lo sợ về việc tấn công, tại sao cho nổ tung lối vào và bít đường hầm lại?”

      “Sáng kiến đấy!” Grover nói. “Tớ sẽ lấy thuốc nổ!”

      dễ dàng như thế đâu, đồ đần ạ,” Clarisse càu nhàu. “Bọn tớ đã thử làm điều đó với lối vào tìm thấy ở Phoenix. Nhưng thành công.”

      Annabeth gật đầu. “Mê Cung là một công trình kiến trúc có phép thuật, Percy. Sẽ cần một sức mạnh khổng lồ chỉ để bịt một trong số các lối vào của nó. Ở Phoenix, Clarisse đã phá sập cả một tòa nhà với một quả bóng thép(5), thế nhưng lối vào mê cung cũng chỉ dịch chuyển có một vài phân. Điều tốt nhất chúng ta có thể làm là ngăn Luke khỏi việc tìm được đường xuyên qua Mê Cung.”

      “Chúng ta có thể chiến đấu,” Lee Fletcher nói. “Giờ chúng ta đã biết lối vào ở đâu. Chúng ta có thể lập một tuyến phòng thủ và đợi chúng. Nếu đội quân của Luke ́ qua, chúng sẽ thấy ta cầm cung tên đợi sẵn.”

      “Đương nhiên chúng ta sẽ lập ra các tuyến phòng thủ,” bác Chiron đồng ý. “Nhưng bác sợ rằng Clarisse đúng đấy. Hàng rào phép thuật đã giữ cho trại an toàn hàng trăm năm nay. Nếu Luke thành công trong việc đưa được đội quân quái vật đông đúc đó vào trung tâm trại, bằng cách đường vòng để tránh hàng rào phép thuật... chúng ta có thể đủ người để đánh bại chúng.”

      ai vui vẻ gì trước tin này. Bác Chiron thường ́ tỏ ra lạc quan và vui vẻ. Nếu bác ấy nói chúng tôi thể ngăn cản được cuộc tấn công, thì điều đó phải là điều tốt lành gì.

      “Chúng ta phải đến được xưởng của Daedalus trước đã,” Annabeth khăng khăng với quyết ̣nh của mình. “Tìm ra sợi dây của Ariadne và ngăn Luke sử dụng nó.”

      “Nhưng nếu ai có thể biết lối trong mê cung,” tôi nói, “thì làm sao chúng ta có cơ hội chứ?”

      “Tớ đã nghiên cứu về kiến trúc nhiều năm,” Annabeth nói. “Tớ biết về Mê Cung của Daedalus nhiều hơn bất kì ai.”

      “Qua sách vở à?”

      “Ừ, phải.”

      “Như thế chưa đủ.”

      “Vậy là đủ!”

      đủ.”

      “Cậu có ̣nh giúp tớ ?”

      Tôi nhận ra mọi người nhìn tôi và Annabeth như xem một trận tennis. Con bò cao su của con O’Leary tạo ra một tiếng KÍT! khi nó xé toạc cái đầu màu hồng của nó ra.

      Bác Chiron hắng giọng. “Việc gì cần làm trước sẽ làm trước. Chúng ta cần một cuộc tìm kiếm. Ai đó phải vào Mê Cung, tìm ra xưởng của Daedalus, và ngăn cản Luke dùng mê cung để chiếm Trại Con Lai.”

      “Tất cả chúng ta đều biết ai sẽ là người dẫn đầu cuộc tìm kiếm này,” Clarisse nói. “Đó là Annabeth.”

      Mọi người rì rầm tán thành. Tôi biết Annabeth đã mong chờ một nhiệm vụ do ấy dẫn đầu từ khi còn bé xíu, nhưng trông ấy được thoải mái cho lắm.

      “Cậu cũng đã làm nhiều điều như tớ mà, Clarisse,” ấy nói. “Cậu cũng nên .”

      Clarisse lắc đầu. “Tớ sẽ quay lại đó.”

      Travis Stoll cười lớn. “Đừng nói với tớ là cậu sợ nhé. Clarisse, cậu mà thỏ đế thế sao?”

      Clarisse đứng phắt dậy. Tôi nghĩ ta sẽ nghiền nát Travis, nhưng thay vào đó, ta nói với giọng run run: “Cậu chẳng hiểu gì cả, đồ thô lỗ. Tớ sẽ bao giờ quay lại nơi đó. bao giờ!”

      Clarisse lao ra khỏi đấu trường.

      Travis ngượng ngùng nhìn quanh. “Tớ ́ ý...”

      Bác Chiron giơ tay lên ra hiệu. “ bé tội nghiệp đã có một năm đầy khó khăn rồi. Bây giờ chúng ta có đồng ý để Annabeth dẫn đầu cuộc tìm kiếm này ?”

      Chúng tôi đều gật đầu trừ Quintus. Ông ta khoanh tay và nhìn chằm chằm xuống bàn, nhưng tôi chắc có ai để để ý đến điều này .

      “Rất tốt.” Bác Chiron quay sang Annabeth. “Cháu , giờ là lúc đến thăm Oracle. Khi cháu quay lại, chúng ta sẽ bàn xem nên làm gì tiếp theo

      Chờ đợi Annabeth còn khó khăn hơn nhiều so với việc tự mình đến chỗ Oracle.

      Tôi đã được nghe nó nói hai Lời Sấm Truyền trước đây. Lần đầu tiên là ở gác mái đầy bụi của Nhà Lớn, nơi linh hồn của Delphil ngủ trong xác ướp của một người phụ nữ hippie. Lần thứ hai là khi Oracle ra khỏi gác mái để và dạo một vòng nhỏ trong rừng. Tôi vẫn còn gặp các cơn ác mộng về việc đó.

      Tôi chưa bao giờ cảm thấy bị đe dọa bởi sự hiện diện của Oracle, nhưng tôi đã được nghe các câu chuyện: có những trại viên bị điên hoặc chết vì sợ hãi vì họ đã thấy được hình ảnh thật của bà ta.

      Tôi bước tới bước lui trong đấu trường và chờ đợi. Con O’Leary ăn bữa trưa bao gồm năm chục ký thịt bò xay và một vài chiếc bánh quy cho chó to bằng nắp đậy thùng rác. Tôi chỉ thắc mắc biết Quintus lấy những chiếc bánh quy cho chó to thế này ở đâu ra. Tôi thể hình dung ra được hình ảnh bạn bước vào Pet Zone, chọn chúng và bỏ vào xe đẩy mua hàng.

      Bác Chiron mải nói chuyện với Quintus và Argus. Theo tôi thấy thì hình như họ đồng ý về một vấn đề gì đó. Quitus cứ lắc đầu liên tục.

      Ở phía bên kia của đấu trường, Tyson và em nhà Stoll chơi trò đua xe ngựa bằng những ̃ xe ngựa bằng đồng thu nhỏ mà Tyson đã làm ra từ các mảnh áo giáp bị vứt bỏ.

      Tôi ngừng việc lại và ra khỏi đấu trường. Tôi liếc nhìn ngang qua các cánh đồng dâu vào cửa sổ gác mái của Nhà Lớn, im lìm và tối tăm. Điều gì khiến Annabeth ở đó lâu đến thế? Tôi khá chắc là tôi sẽ mất nhiều thời gian như thế này nếu đến lượt tôi dẫn đầu cuộc tìm kiếm.

      “Percy,” giọng một gái thì thầm.

      Juniper đứng trong bụi cây. Cách ấy trở nên gần như tàng hình khi được bao bọc bởi cây ́i xung quanh thật kỳ lạ.

      ấy ra hiệu cho tôi một cách cấp bách. “Cậu cần biết điều này: Luke phải là người duy nhất tớ nhìn thấy ở cạnh cái hang ấy.”

      “Ý cậu là gì?”

      ấy liếc nhìn lại đấu trường. “Tớ ́ gắng nói ra điều đó, nhưng ông ta ở ngay đó.”

      “Ai?”

      “Thầy dạy kiếm,” ấy nói. “Ông ta moẫm xem xét quanh những tảng đá.”

      Dạ dày tôi thắt lại. “Quintus ư? Khi nào?”

      “Tớ nhớ. Tớ để ý đến thời gian. Có thể là cách đây một tuần, khi ông ta xuất hiện lần đầu tiên.”

      “Lúc đó ông ta làm gì? Ông ta có vào bên trong ?”

      “Tớ... tớ rõ. Percy, ông ta làm tớ sởn gai ốc. Tớ thậm chí còn thấy ông ta vào khoảng rừng thưa đó. Đột nhiên ông ta xuất hiện ở đó. Cậu phải nói với Grover rằng việc này rất nguy hiểm...”

      “Juniper?” Grover gọi từ bên trong đấu trường. “Cậu đâu thế?”

      Juniper thở dài. “Tớ nên quay vào thôi. Hãy nhớ những gì tớ nói. Đừng tin người đàn ông đó!”

      Juniper chạy vào đấu trường.

      Tôi nhìn chăm chăm vào Nhà Lớn và cảm thấy bất an hơn bao giờ hết. Nếu Quintus mưu điều gì... tôi cần lời khuyên của Annabeth. ấy có thể biết cần làm gì với thông tin của Juniper. Nhưng ấy ở chỗ quái quỉ nào nhỉ? Cho dù có bất cứ điều gì xảy ra với Oracle, ấy cũng thể lâu như thế này.

      Cuối cùng tôi cũng thể chịu đựng được việc chờ đợi nữa.

      Tôi biết điều mình sắp làm là phạm luật, nhưng rồi vì chẳng có ai ở đó cả. Tôi chạy xuống đồi và băng thẳng qua các cánh đồng.

      Phòng khách phía trước của Nhà Lớn yên ắng lạ thường. Tôi đã quen nhìn thấy thần Dionysus ngồi cạnh lò sưởi, chơi bài, ăn nho và phàn nàn với các thần rừng, nhưng hôm nay Ngài D cũng vắng.

      Tôi về cuối hành lang, ván sàn dưới chân kêu kèn kẹt. Khi đến chân cầu thang, tôi hơi lưỡng lự. Phía tầng bốn có một cánh cửa sập dẫn lên gác mái. Annabeth sẽ ở đâu đó ấy. Tôi đứng yên lặng và nghe ngóng. Nhưng những gì tôi nghe được phải là những gì tôi mong đợi.

      Tiếng ai đó khóc. Và nó phát ra bên dưới chân tôi.

      Tôi vòng ra phía sau cầu thang. Cửa tầng hầm mở. Tôi thậm chí còn biết Nhà Lớn có một tầng hầm. Nhìn vào bên trong, tôi thấy hai bóng người ở phía góc tầng hầm, ngồi lọt thỏm giữa một lô một lốc những thùng thức ăn thần thánh và mứt dâu dự trữ. Một người là Clarisse. Người kia là chàng người Hispanic trong một hiếc quần lính rách tả tơi và một chiếc áo phông màu đen bẩn thỉu. Tóc hắn bóng nhờn và rối bù. Hắn ôm ghì lấy hai vai mình và khóc nức nở. Đó là Chris Rodriguez, một con lai đã từng theo phe của Luke.

      “Được rồi,” Clarisse nói với cậu ta. “Thử một ít rượu thánh nào!”

      là ảo ảnh, Mary!” Chris lùi ra xa hơn về góc phòng. “Tr... tránh... tránh ra.”

      “Tên tớ phải là Mary.” Giọng của Clarisse nhẹ nhàng nhưng cực kỳ buồn bã. Tôi chưa bao giờ biết Clarisse lại có thể nói chuyện theo cách này. “Tên tớ là Clarisse. Nhớ lại . Xin cậu đấy.”

      “Ở đó thật tối,” Chris hét lên. “Cực kỳ tối!”

      ra ngoài nào,” Clarisse vỗ về. “Ánh mặt trời sẽ giúp cậu.”

      “Một... một nghìn cái đầu lâu. Đất mẹ vẫn chữa lành cho hắn.”

      “Chris,” Clarisse van nài. Nghe như Clarisse sắp khóc. “Cậu phải khỏe lên. Xin cậu đấy. Ngài D sẽ quay lại ngay thôi. Ông ấy là chuyên gia về bệnh tâm thần. Cậu hãy kiên trì nhé.”

      Đôi mắt của Chris trông giống như mắt của một con chuột bị dồn vào chân tường – điên cuồng và tuyệt vọng. “ có lối ra đâu, Mary. thể nào ra khỏi đó.”

      Thế rồi cậu ta bất chợt thoáng thấy tôi và kêu lên đầy kinh hãi như thể bị ai đó siết ̉. “Con trai của thần Poseidon! Hắn ta thật xấu xa!”

      Tôi lùi lại, hy vọng Clarisse nhìn thấy tôi. Tôi chờ Clarisse nhảy bổ ra và hét vào mặt tôi, nhưng ta vẫn tiếp tục nói với Chris bằng giọng cầu xin đầy buồn bã, ́ để hắn uống chỗ rượu thánh đó. Có thể ta nghĩ đó chỉ là ảo giác của Chris, nhưng... con trai của thần Poseidon ư? Lúc đó Chris nhìn tôi, nhưng tại sao tôi có cảm giác hắn nói về tôi nhỉ?

      Và sự nhẹ nhàng của Clarisse – tôi chưa bao giờ biết ta lại có thể thích một ai đó, nhưng cái cách ta gọi tên Chris... ta đã biết hắn từ trước khi hắn phản bội. ta biết về hắn nhiều hơn tôi nhận thức được. Và giờ hắn run rẩy trong tầng hầm tối tăm, sợ ra ngoài, và lẩm bẩm về một ai đó tên Mary. Thảo nào Clarisse muốn liên quan gì đến Mê Cung. Điều gì đã xảy ra với Chris ở đó?

      Có tiếng cọt kẹt ở – giống như cửa gác mái mở – và tôi chạy ra cửa trước. Tôi cần phải ra khỏi ngôi

      “Cháu ,” bác Chiron nói. “Cháu đã làm được.”

      Annabeth bước vào đấu trường. ấy ngồi ghế đá và nhìn chằm chằm xuống sàn nhà.

      “Thế nào?” Quintus hỏi.

      Annabeth nhìn tôi trước. Tôi biết liệu ấy ́ cảnh báo tôi, hay ánh mắt của ấy chỉ đơn thuần là sự sợ hãi. Sau đó ấy nhìn chăm chú Quintus. “Cháu đã có được Lời Sấm Truyền. Cháu sẽ dẫn đầu cuộc tìm kiếm xưởng của Daedalus.”

      ai reo hò. Ý tôi là, tất cả chúng tôi đều mến Annabeth, và chúng tôi đều mong ấy tham gia vào một cuộc tìm kiếm, nhưng lần này dường như quá mức nguy hiểm. Sau những gì tôi nhìn thấy ở Chris Rodriguez, tôi thậm chí còn muốn nghĩ đến việc Annabeth sẽ xuống cái mê cung huyền bí đó một lần nữa.

      Bác Chiron quẹt móng guốc xuống nền đất. “Chính xác thì Lời Sấm Truyền đã nói gì, cháu ? Cách diễn đạt rất quan trọng.”

      Annabeth hít một hơi thật sâu. “Cháu, à... ừm, bà ấy nói là, Ngươi sẽ vào bóng tối của một mê cung bất tận...”

      Chúng tôi chờ đợi.

      “Người chết, kẻ phản bội, và người mất tích sẽ được triệu hồi.”

      Grover ngẩng đầu lên. “Người mất tích! Đó là thần Pan! Thật tuyệt!”

      “Cả người chết và kẻ phản bội,” tôi thêm vào. “ hay ho đến thế đâu.”

      “Và?” bác Chiron hỏi. “Phần còn lại là gì?”

      “Ngươi sẽ đứng lên hoặc ngã xuống dưới bàn tay của ma vương,” Annabeth nói, “và sự kháng cự cuối cùng của đứa con nữ thần Athena.”

      Mọi người nhìn quanh lo lắng. Annabeth là con gái của nữ thần Athena, và sự chống cự cuối cùng nghe ổn chút nào.

      “Này... chúng ta nên vội kết luận.” Silena nói. “Annabeth phải là đứa con duy nhất của nữ thần Athena, phải ?”

      “Nhưng ai là ma vương?” Beckendorf hỏi.

      ai trả lời. Tôi nghĩ đến hình ảnh Nico triệu hồi các linh hồn mà tôi đã thấy qua thông điệp Iris. Tôi có cảm giác hay rằng Lời Sấm Truyền có liên quđiều này.

      “Còn gì nữa ?” bác Chiron hỏi. “Lời Sấm Truyền vẫn chưa hoàn chỉnh.”

      Annabeth ngập ngừng. “Cháu nhớ chính xác.”

      Bác Chiron nhướn mày. Annabeth nổi tiếng có trí nhớ tốt. ấy bao giờ quên những gì ấy nghe thấy.

      Annabeth nhúc nhích người ghế. “Một điều gì đó về... Phá hủy với hơi thở cuối cùng của một hùng.”

      “Và còn gì nữa?” bác Chiron hỏi.

      Annabeth đứng lên. “Thực ra, vấn đề là cháu cần phải vào mê cung. Cháu sẽ tìm ra xưởng của Daedalus và ngăn cản Luke. Và... cháu cần người giúp đỡ.” ấy quay sang tôi. “Cậu sẽ chứ?”

      Tôi chần chừ một giây. “Tớ .”

      Lần đầu tiên trong ngày Annabeth nở một nụ cười, và điều này đã đền đáp mọi nỗ lực của tôi. “Grover, cậu cũng chứ? Thần thiên nhiên đợi.”

      Dường như Grover quên mất cậu ấy ghét lòng đất như thế nào. Lời tiên tri về “người mất tích” đã tiếp thêm nghị lực cho cậu ấy. “Tớ sẽ mang thêm ít vật dụng tái chế để ăn vặt!”

      “Và Tyson,” Annabeth nói. “Tớ cũng cần cậu.”

      “Tuyệt! Đã đến lúc cho nổ tung mọi thứ lên rồi!” Tyson vỗ tay mạnh đến nỗi đánh thức cả con O’Leary ngủ trong góc.

      “Đợi đã, Annabeth,” bác Chiron nói “Điều này trái với các luật lệ ̉ xưa. Một hùng chỉ được phép có hai người tháp tùng.”

      “Cháu cần tất cả các cậu ấy,” Annabeth khăng khăng. “Bác Chiron, điều này thực sự quan trọng.”

      Tôi biết tại sao ấy lại chắc chắn đến thế, nhưng tôi mừng vì ấy đưa cả Tyson cùng. Tôi thể tưởng tượng được việc để cậu ấy lại. Cậu ấy to lớn, mạnh khỏe và hiểu biết về tất cả các loại máy móc. giống các thần rừng, các Cyclops gặp vấn đề gì dưới lòng đất cả.

      “Annabeth.” Bác Chiron vẫy nhẹ đuôi một cách lo lắng. “Hãy cân nhắc cẩn thận. Cháu sẽ phạm các luật lệ ̉, và việc đó luôn để lại hậu quả. Mùa đông năm ngoái, năm người tham gia cuộc tìm kiếm – giải cứu nữ thần Artemis. Chỉ có ba người trở về. Hãy nghĩ về điều đó. Ba là một số thần thánh. Có ba Nữ thần Mệnh, ba Nữ thần Báo thù, và ba người con trai của thần Kronos ở ̉nh Olympus. Đó là một con số mạnh mẽ có thể chống lại mọi nguy hiểm. Bốn... như vậy là liều lĩnh.”

      Annabeth lại hít một hơi thật sâu. “Cháu biết. Nhưng tất cả chúng cháu phải . Xin bác đấy.”

      Tôi cá là bác Chiron thích điều này. Quintus xem xét chúng tôi, như kiểu ông ta tính toán xem ai trong số chúng tôi sẽ sống sót trở về.

      Bác Chiron thở dài. “Được rồi. Kết thúc cuộc họp ở đây. Các thành viên trong đội tìm kiếm phải tự chuẩn bị cho mình. Ngày mai, vào lúc bình minh, chúng ta sẽ đưa các cháu vào Mê Cung.”

      Quintus kéo tôi sang một bên khi mọi người trong hội đồng giải tán.

      “Ta có linh cảm hay về việc này,” ông ta nói với tôi.

      Con O’Leary đến, vẫy đuôi mừng rỡ. Nó thả cái khiên dưới chân tôi, và tôi nhặt lên ném cho nó. Quintus ngắm con chó nô đùa chạy theo cái khiên. Tôi nhớ những gì Juniper đã nói về việc ông ta lùng sục bên ngoài mê cung. Tôi tin ông ta, nhưng khi ông ta nhìn tôi, tôi thấy rõ sự lo lắng thực sự trong mắt ông ta.

      “Ta thích ý tưởng các cậu xuống đó chút nào,” ông ta nói. “Bất kì ai trong các cậu. Nhưng nếu các cậu phải , ta muốn các cậu nhớ một điều. Mê Cung tồn tại là để đánh lừa các cậu. Nó sẽ làm các cậu rối trí. Điều đó rất nguy hiểm đối với con lai. Chúng ta rất dễ bị rối trí.”

      “Ông đã từng vào đó ư?”

      “Cách đây lâu rồi.” Giọng ông ta nghe mệt mỏi. “Ta đã thoát chết trong gang tấc. Phần lớn những người vào đó may mắn như vậy đâu.”

      Ông ta nắm vai tôi. “Percy, hãy tập trung vào những việc quan trọng nhất. Nếu cậu có thể làm được điều đó, cậu có thể tìm thấy đường . Và đây, ta muốn cho cậu thứ này.”

      Ông ta trao cho tôi một cái ống bằng bạc nhỏ. Nó lạnh đến mức tôi suýt đánh rơi nó.

      “Một cái còi ư?” tôi hỏi.

      “Một cái còi gọi chó,” Quintus nói. “Để gọi con O’Leary.”

      “Ồ, cảm ơn ông, nhưng...”

      “Nó sẽ có tác dụng gì trong mê cung? Ta chắc một trăm phần trăm là nó sẽ có tác dụng. Nhưng O’Leary là một con chó ngao. Nó có thể xuất hiện khi được gọi, dù nó ở xa đến thế nào. Tôi sẽ yên tâm hơn khi biết cậu có nó. Nếu cậu thực sự cần giúp đỡ, hãy dùng nó, nhưng hãy cẩn thận, cái còi được làm từ băng ở sông Styx.”

      “Băng gì cơ?”

      “Từ dòng sông Styx. Rất khó để làm ra nó. Rất mỏng manh. thể tan chảy, nhưng nó sẽ bị phá hủy hoàn toàn khi cậu thổi nó, vì vậy cậu chỉ có thể dùng nó một lần.”

      Tôi nghĩ về Luke, kẻ thù cũ của tôi. Ngay trước khi tôi tham gia cuộc tìm kiếm lần đầu của mình, Luke cũng đã tặng tôi một món quà – một đôi giày phép thuật được thiết kế để kéo tôi đến với cái chết. Quintus có vẻ thật tử tế. Thật quan tâm. Và con O’Leary thích ông ta, cái này phải có nguyên nhân gì đó. Con chó nhả cái khiên mỏng xuống chân tôi và sủa một cách hào hứng.

      Tôi cảm thấy xấu hổ vì tôi đã tính chuyện tin tưởng Quintus. Nhưng rồi tôi nhớ ra trước kia mình cũng đã từng tin tưởng Luke.

      “Cảm ơn,” tôi nói với Quintus. Tôi nhét cái còi giá lạnh đó vào túi, tự hứa với chính mình rằng tôi sẽ bao giờ dùng đến nó, và chạy ra khỏi đó tìm Annabeth.

      Dù đã là thành viên của trại lâu đến thế nhưng tôi chưa bao giờ vào bên trong nhà nữ thần Athena.

      Đó là một tòa nhà màu bạc, có gì khác thường, rèm cửa chỉ toàn một màu trắng và có một con cú tạc bằng đá phía cửa ra vào. Đôi mắt bằng mã não của con cú dường như theo dõi tôi khi tôi đến gần.

      “Có ai ở nhà ?” tôi gọi vào bên trong.

      ai trả lời. Tôi bước vào và nín thở. Nơi này là một xưởng làm việc của những đứa trẻ thiên tài. Giường được đẩy vào một bên tường như thể việc ngủ quan trọng lắm. Phần lớn diện tích căn phòng là để chứa bàn làm việc, các bộ dụng cụ và các loại vũ khí. Phía cuối căn phòng là một thư viện khổng lồ với những cuộn giấy ̉, sách bọc da và sách bìa mềm Có một bàn vẽ của kiến trúc sư với một lô lốc các loại thước kẻ và thước đo góc, và một vài tòa nhà mô hình gian ba chiều. Những bản đồ chiến tranh ̉ khổng lồ được dán lên trần nhà. Những bộ áo giáp treo bên dưới cửa sổ với những mảnh đồng lấp lánh dưới nắng.

      Annabeth đứng ở phía cuối căn phòng, lục tìm khắp các cuộn giấy ̉

      ̣c ̣c?” tôi nói.

      ấy giật mình quay lại. “Ồ... chào. Tớ biết cậu đến.”

      “Cậu ổn chứ?”

      ấy nhíu mày nhìn vào cuộn giấy tay. “Chỉ ́ thực hiện một nghiên cứu. Mê Cung của Daedalus thật khổng lồ. Chẳng có câu chuyện nào có một chi tiết chắc chắn cả. Những bản đồ chỉ ra điểm bắt đầu và điểm cần đến.”

      Tôi nghĩ về điều Quintus nói, mê cung sẽ làm người ta rối trí như thế nào. Tôi băn khoăn liệu Annabeth đã biết điều đó chưa.

      “Chúng ta sẽ tìm ra thôi,” tôi cam đoan.

      Tóc Annabeth xõa xuống như một tấm rèm vàng bao quanh khuôn mặt ấy. Đôi mắt màu xám của Annabeth giờ trông gần như màu đen.

      “Từ khi lên bảy, tớ đã muốn dẫn đầu một cuộc tìm kiếm,” ấy nói.

      “Cậu sắp làm được một việc vĩ đại.”

      Annabeth nhìn tôi biết ơn, nhưng sau đó nhìn chằm chằm xuống tất cả các cuốn sách và cuộn giấy vừa lấy ra từ giá. “Tớ lo lắm, Percy. Lẽ ra tớ nên cầu các cậu làm việc này. Cả Tyson và Grover nữa.”

      “Này, bọn tớ là bạn cậu mà. Bọn tớ sẽ bỏ lỡ cơ hội này.”

      “Nhưng...” Annabeth khựng lại.

      “Có chuyện gì vậy?” tôi hỏi “Lời Sấm Truyền ư?”

      “Tớ chắc mọi việc sẽ ổn thôi,” ấy nói nhỏ lại.

      “Dòng cuối cùng của Lời Sấm Truyền là gì?”

      Sau đó Annabeth làm một việc khiến tôi thực sự ngạc nhiên. ấy chớp chớp ngăn dòng nước mắt và dang hai tay ra.

      Tôi bước đến và ôm Annabeth. Sự lo lắng khiến dạ dày tôi thắt lại.

      “Này, mọi chuyển... sẽ ổn thôi.” Tôi vỗ vào lưng ấy.

      Tôi nhận rõ được mọi vật trong căn phòng. Tôi cảm thấy như tôi có thể đọc được hàng chữ nhỏ nhất in bất cứ quyển sách nào các giá sách. Mùi tóc của Annabeth giống như xà bông hương chanh. ấy run rẩ

      “Có thể bác Chiron đúng,” ấy thì thầm. “Tớ phạm luật. Nhưng tớ biết phải làm gì khác. Tớ cần cả ba cậu. Tớ cảm thấy như thế mới ổn.”

      “Vậy thì đừng lo lắng về điều đó nữa,” tôi nói. “Chúng ta đã từng có nhiều khó khăn, và chúng ta đã giải quyết được hết.”

      “Lần này khác. Tớ muốn có chuyện gì xảy ra với... bất kì ai trong các cậu.”

      Có ai đó hắng giọng sau lưng tôi.

      Đó là Malcom, một trong số những người em cùng mẹ của Annabeth. Mặt cậu ta đỏ lên. “Ừm, xin lỗi,” cậu ta nói. “Buổi luyện tập bắn cung đã bắt đầu, Annabeth. Bác Chiron bảo em đến gọi chị.”

      Tôi buông Annabeth ra. “Bọn tớ chỉ nhìn các bản đồ,” tôi giải thích một cách ngu ngốc.

      Malcom nhìn tôi chằm chằm. “Được rồi.”

      “Nói với bác Chiron là chị sẽ có mặt ngay,” Annabeth nói, và Malcom vội vã bỏ .

      Annabeth dụi mắt. “Cậu trước , Percy. Tớ phải chuẩn bị cho buổi luyện tập bắn cung.”

      Tôi gật đầu và cảm thấy bối rối hơn bao giờ hết. Tôi muốn chạy nhanh ra khỏi đó... nhưng rồi tôi đã làm thế.

      “Annabeth?” tôi nói. “Về Lời Sấm Truyền của cậu. Cậu nói về hơi thở cuối cùng của người hùng...”

      “Cậu băn khoăn là người hùng nào chứ gì? Tớ biết.”

      , cái khác cơ. Tớ nghĩ câu cuối cùng thường vần với câu đằng trước nó. Nó nói về một điều gì đó – có phải nó kết thúc bằng từ cái chết ?”

      Annabeth nhìn chằm chằm vào những cuộn giấy ̉. “Cậu nên , Percy. Hãy chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc tìm kiếm. Tớ... tớ sẽ gặp cậu vào sáng mai.”

      Tôi quay , bỏ lại Annabeth nhìn trân trân vào những chiếc bản đồ rõ điểm đầu và điểm cuối. Nhưng tôi thể rũ bỏ cảm giác rằng một trong số chúng tôi sẽ sống sót trở về từ chuyến này.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :