Con Quỷ Truyền Kiếp - Jessie D. Kerruish(Kinh dị)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Con Quỷ Truyền Kiếp - Jessie D. Kerruish
      [​IMG]
      Nguồn: http://vnthuquan.net

      Phát hành: Nguyễn Kim Vỹ.​


      Dịch giả: Thế Lữ

      LỜI GIỚI THIỆU




      Bên cạnh nỗi ám ảnh về lời nguyền là tham vọng muốn chiếm được vật báu bằng tà thuật với thanh gươm và bàn tay danh vọng chặt từ cái xác người bị treo cổ, tất cả tạo thành con “quái vật truyền kiếp” bao đời xô đẩy người thuộc dòng họ Hammond phạm vào những tội ác đẫm máu, để sau đó lại sa vào niềm hối hận triền miên đến phải kết liễu đời mình để chuộc lỗi. Bí mật qua từng thế kỷ lại dày đặc thêm ấy chỉ được soi rọi qua ánh sáng của khoa học hình và phân tâm học đại, những giải mã được những câu đố bí hiểm xa xưa mà còn mang lại thăng bằng cho tâm hồn con người khi tìm thấy điểm tựa của lương tâm. Chỉ có tình thương mới cứu rỗi được cho con người, phải chăng đó là điều mà nhà văn J.D. Kerruish muốn với chúng ta qua tiểu thuyết Con Quỷ Truyền Kiếp.

      LỜI ĐẦU SÁCH


      Truyền thuyết về ma sói và tín ngưỡng đa thần giáo Bắc Âu, được bọn cướp biển Viking, mũ trụ đè lên bím tóc vàng, mang gươm đồng, mang đến nước những chiếc tàu buồm đầu mũi khắc hình quái vật từ mấy năm trước công nguyên. Đến xứ sở bị sương mù bao phủ này, nó lại quyện chặt với những ký ức lịch sử thời chiến tranh Hai Hồng và thời Mary Tuder, thiêu sống những kẻ phản đạo dàn củi, sau khi nhúng thân thể họ vào thùng hắc in nấu lỏng… Mùi hắc in nấu lỏng những để lại những nhiễm sắc thể trong “gien” di truyền của giòng họ Hammond qua bao thế hệ, mà còn gây những cảm giác và phản xạ về sinh lý cho những người thuộc dòng họ này mãi đến thời đại văn minh của chúng ta ngày naỵ Bên cạnh nỗi ám ảnh về lời nguyền là tham vọng muốn chiếm được vật báu tà thuật với thanh gươm và bàn tay danh vọng chặt từ cái xác người bị treo cổ, tất cả tạo thành con “quái vật truyền kiếp” bao đời xô đẩy người thuộc dòng họ Hammond phạm vào những tội ác đẫm máu, để sau đó lại sa vào niềm hối hận triền miên đến phải kết liễu đời mình để chuộc lỗi. Bí mật qua từng thế kỷ lại dày đặc thêm ấy chỉ được soi rọi qua ánh sáng của khoa học hình và phân tâm học đại, những giải mã được những câu đố bí hiểm xa xưa mà còn mang lại thăng bằng cho tâm hồn con người khi tìm thấy điểm tựa của lương tâm. Chỉ có tình thương mới cứu rỗi được cho con người, phải chăng đó là điều mà nhà văn C.Kerruish muốn với chúng ta qua tiểu thuyết Con quỷ truyền kiếp.


      Để vào thế giới nửa hư nửa thực, pha trộn giữa khí tâm linh và màu sắc khoa học này, may mắn chúng ta có người dẫn đường thông thạo, đó là dịch giả Thế Lữ, cũng là nhà văn sáng tạo nên những tiểu thuyết truyền kỳ – thực Việt Nam như Vàng và máu. Bên đường thiên lôi, Trại Bồ tùng Linh, Tiếng hú hồn của mụ Ké… và là người mở đầu cho thể loại tiểu thuyết trinh thám Việt Nam.

      Qua bao nhiêu năm “học đạo” với thầy Thế Lữ, có lần tôi hỏi ông về ý nghĩa của Con quỷ truyền kiếp, ông nheo mắt cười bảo: “Mỗi tác phẩm bao giờ cũng là câu đố, chờ đợi những lời giải thông minh”. Thể theo ý nhà văn, muốn bạn đọc tham gia vào trò chơi giải đố, nên tôi dám dài dòng thêm về nội dung cuốn sách này, và chỉ nguyên cái tên dịch giả: Thế Lữ, cũng đủ đảm bảo cho giá trị của tác phẩm.

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 1


      NỖI LO SỢ CỦA SWANHILD



      đọc sách, Swanhild dừng lại. Trong khoảng có nửa giờ nàng trông lên đồng hồ những năm lần. Mỗi phút nàng thêm nóng ruột. Mười hai giờ ba mươi lăm rồi. Sao vằng vặc đầy trời và đêm lạnh giá như thế này mà Oliver, nàng vẫn chưa thấy về.

      Oliver với Swanhild là hai người cuối cùng còn lại trong dòng họ Hammond, ở với nhau vẫn rất thuận hòa, rồi từ sau chiến tranh và từ ngày Reggie, người cả chết , dây thân ái của hai người càng thêm khắng khít.

      Tối hôm đó tâm trí người thiếu nữ lại bị ám ảnh vì câu sấm truyền lại từ đời tổ tiên nhà nàng.

      Ở đâu thông mọc um

      Đêm sao tạnh và rét,

      Gia trưởng nhà Hammond

      gặp phải lúc chết.

      Bên ngoài gió bão tự miền bể thổi tới, bao vây cả lớp dinh cợ Những tiếng ồ ạt ngớt tưởng như thấy mông mênh vô cùng. Bốn phía tường đầy tiếng gió gầm rít tới được tai người thiếu nữ và trong gian phòng Holbein (#1) là nơi nàng tĩnh trú, im lặng như chết kia trùm phủ quanh nàng lại có vẻ đáng e ngại hơn lên giữa những trận giông tố hoành hành.

      Quang cảnh khắp gian phòng càng khiến nàng thêm băn khoăn lo sợ. Hai bên lò sưởi, hai bức ảnh mập mờ (chưa chắc là do Holbein vẽ) phô diễn chân dung Godfrey Hammond và bà vợ, cả hai đều bị con quỷ nghìn đời ở Dannow ám hại năm 1556 trong đêm giá lạnh như băng. Giữa hai bức treo đó, chân dung ông thân sinh Godfery tục danh là Sir Magnus Pháp sư: ông này tự tử chết sau lúc thắng nổi con quái vật.

      Swanhild lại nhìn lên đồng hồ lần nữa và mắt nàng trông lướt qua ba bức tranh. Nhà chỉ thắp có ngọn đèn, khác nào khu ấm áp, sáng sủa nhoi, ở lẻ loi giữa cả miền mênh mông vắng lạnh của gian phòng tường lát gỗ và đầy những hình bóng chập chờn. Khi lửa bập bùng cháy nữa trong lò bao nhiêu hoạt động của cả nhà đều tắt hết.

      Swanhild là hai mươi, dáng dong dỏng cao nhưng vẻ người khỏe mạnh, nét mặt quả quyết, đôi mắt mờ xanh lặng lẽ và mở tọ Mớ tóc hung vàng trùm sau khuôn mặt màu vàng ánh tuyệt đẹp, phơn phớt màu từ da đồng tới màu sáng tương tự như bạc. Nàng quả là dòng dõi của ông Magnus Pháp sư kia. Dòng dõi người có khuôn mặt phai mờ, nét mặt rắn rỏi, dưới cái mũ kiểu Tudor và nổi bật nền đen tối của bức tranh.

      Người đầu bếp Walton lúc ấy vào, ngoài mặt ra điệu vào để mấy câu chuyện với chủ. Thực ra lão ta vào đây là cốt để khuây khỏa bớt nỗi lo ngại của chính mình. Lão ngượng ngập bảo Swanhild:

      - Cậu Oliver nhà về khuya quá nhỉ!

      - Miễn là đừng xảy ra những điều chẳng lành cho ấy là may rồi.

      - Thưa , thiết tưởng bao giờ cũng nên ngại rằng cậu nhà phải gặp chuyện haỵ Đêm như đêm nay thế nào cũng có em nhà tên Ades.

      - em nhà ấy chỉ là những tên đánh bẫy thôi, sợ gì.

      - Nhưng thưa , còn lạ gì những kẻ đặt cạm mắc bẫy để bắt những con vật vô tội như thế còn cái gì mà chúng chẳng làm? em nhà Ades là những đứa hay mang oán, mà thằng Charlie vẫn còn tức giận về chuyện cậu Oliver sửa phạt nó tháng vừa rồi.

      - Đúng lý ra họ có tức tức tôi mới phải, vì chính tôi bảo tôi đến chỗ họ mắc bẫy. Oliver chỉ muốn người ta bắt giam Charlie lại thôi.

      - Dẫu sao thằng Bed với nó vẫn thề rằng hễ cứ gặp cậu Oliver ra ngoài trại là báo thù.

      - Chính vì thế mà tôi yên lòng đấy, lão Walton ạ; Chúng nó ra miệng như thế dám làm gì nữa đâu.

      - Ồ, ạ, biết đâu là chừng mà…

      Malton ngập ngừng rồi lại tiếp:

      - Cậu Oliver nhà xuống Lower Dannow (Đa-nô-hạ) giá đừng chọn lối tắt qua rừng hay.

      Swanhild chưa trả lời vội; người lão bộc vừa thốt ra những điều lo ngại của chính nàng. Sau cùng nàng mới :

      - Về phần con quái vật phải lọ Bốn mươi năm nay rồi mà chưa lần nào thấy nó.

      - Nhưng thưa , đó phải là lẽ. có hồi nó ở yên ròng rã trăm hai mươi năm rồi, lúc ra lại càng ghê gớm hơn trước.

      Lão bất giác đưa mắt nhìn bức chân dung Warlock Swanhild rùng rợn khắp người. Nàng đành phải bỏ thể giữ được mãi cái vẻ thản nhiên bề ngoài. Nàng thở dài, :

      - Giá mà ta biết trước được lúc nào nó ra nhỉ!

      - Biết trước định làm gì?

      - ta mời thầy Doyle đến, hay giáo sư Lodge hay Bartendale đến giúp ta.

      - Bartendalẻ này đến Dannow lần nào chưa ạ?

      - Chưa. Tôi chỉ biết tiếng ta là người cao tay nhất trong những người có phép trừ tà giải nạn. Hình như ngoài cái khiếu tìm mạch nước, ta còn có tài trinh thám nữa kia!

      Walton lắc đầu:

      - Ôi chao! Đối với con quái vật nhà ta tôi chỉ sợ ai có phép gì trừ được. còn trẻ tuổi quá, ạ, chứ tôi tôi vẫn nhớ hồi Blavastsky với giáo sư Grookes đến đây sau cái ngày cụ thân sinh ra ông nhà ta khuất . Đến họ cũng chẳng tìm được phương kế gì nữa là…

      Tôi xem ý ra có phàn nàn lão cũng chỉ phàn nàn đôi chút thôi. Vì nếu con quái vật nhà này còn nữa cái thánh giá nhà này cũng kém bớt, có phải nhỉ, chính thức ra hàng ngàn năm nay dòng dõi nhà Hammond bao giờ cũng gặp những cái chết dị kỳ với những vận rất may mắn…

      Nàng chợt dừng lại: từ căn ngoài, tiếng chuông điện thoại văng vẳng đưa vào. hiểu tại sao, thiếu nữ với người lão bộc cũng thấy rùng rợn. Hai người vội vàng cùng ra.

      Căn ngoài, đại sảnh chạy dài ngang phòng, ánh đèn được sáng. Ở phía xa nhất, người đầy tớ hầu phòng vẫn ngồi đợi chủ về, lúc đó trả lời vào ống . Chị ta ngoảnh lại, khuôn mặt nổi điểm sáng trong bóng mờ tối của căn nhà.

      Cụ Walton ơi! ơi! (chị ta tiếng và nhát gừng) nhà gác cổng (#2) gọi dây vào bảo rằng con quỷ ở trong rừng… họ nghe thấy tiếng nó rú… vậy mà cậu Hammond vẫn chưa thấy về!

      Swanhild tưởng chừng quả tim ngừng đập, song nàng cố sức bình tĩnh lại. Nàng cần phải giữ sáng suốt để cứu Oliver. Nàng cầm lấy ống điện thoại ở tay giá lạnh của chị đầy tớ . Tiếng con trai người gác cổng hỏi:

      - Allô, allô!… sao vào gọi Hammond ra?

      - Tôi đây. Gì thế Will?

      - Thưa , con quỷ ở trong rừng đấy! Biết đâu phải là con chó bị mắc cạm?

      - Ồ ! Tôi ở dưới Lower Dannow về đây, tôi xuống đất lấy thuốc cho thầy tôi, lúc qua cầu tôi nghe thấy những tiếng rú nửa như tiếng chó tru, nửa như tiếng con mẹ điên hú.

      - Được rồi. sắp sẵn cho tôi cái đèn rồi đợi đấy nhé, hễ thấy xe ra tức khắc mở cổng cho tôi.

      Ba hồi chuông điện đánh thức người tài xế dậy.

      - Srewick, bác cho xe chạy và đánh xe ra ngay.

      Swanhild chạy nhanh lên phòng riêng, rồi tức thời trở xuống với chiếc áo khoác ngoài. Tiện thể, nàng cầm theo cả khẩu súng lục của nàng Walton với chị hầu phòng (cả đầy tớ trong nhà chỉ có hai người này khuya thế vẫn còn thức) ngồi lì ở bên máy điện thoại.

      Lão bộc kêu lên:

      - Swanhild! vào rừng bây giờ được!

      khủng khiếp in đôi mắt lão ta khiến người thiếu nữ nghĩ đến thực. Từ ngày còn trẻ lão trông thấy lúc chính Reginald Hammond, tổ phụ Swanhild, trở về nhà sau khi gặp con quái vật trong rừng: chỉ trong mấy giờ đồng hồ mà tóc lão bạc hết.

      Swanhild mở cửa chính cố tình xua đuổi nỗi sợ hãi xâm chiếm tâm hồn nàng.

      Gió bên ngoài liền vây quấn lấy người thiếu nữ từ đầu đến chân.

      Bên ngoài bức tường rào, những khóm cây, bụi rậm trông giống như những xe tang cắm lông chỏm. Đằng xa, miền thung lũng tắm trong bầu sương phủ giá băng. Những ngọn sóng sau cùng phía bể bắc dồn về cồn cát, vật mình tan tác đỉnh cồn Thunderbarrow Beacon. Nhô lên khỏi khu rừng và nổi ra ngoài màn sương, hình tượng quái gỡ vươn thân, đen sì nền trời sao điểm.

      “Thằng người Dannow” là hình thù khổng lồ mà thời gian tạc vào những hang núi đá bờ bể, tượng huynh đệ với hình Trường Nhân (Leng Man) gần Eastbourne và những hình “bạch mã” ở rải rác nhiều nơi trong nước . Đêm hôm ấy “người Dannow” trông khác nào con quỷ lớn lao phi thường vặn mình trong cơn hấp hối.

      Trước lặng lẽ đáng gờm của ban đêm trống rỗng. Swanhild thấy mình vô cùng yếu đuối; đủ sức để chống chọi với cái vật kinh ngạo tâm lực và can đảm của ba mươi thế hệ nhà nàng. Xe chưa đánh đến ngay được khiến nàng bực dọc. giờ lúc ấy quí từng giây từng phút. Nếu Oliver mà thực mắc phải tay con quái vật ở trong khu rừng bí mật kia, trong cái nơi mà bao nhiêu tổ tiên nàng gặp cái chết kinh khủng, chỉ có nàng có thể cứu được nàng, rồi chính dù có chết cách ghê gớm hoặc phát điên rồ đến hủy hoại tính mệnh, nàng cũng cam tâm. Bởi vì trong dòng họ Hammond tất cả những người mắt trông thấy cái ấy đều quyên sinh hết: từ tổ phụ nàng rồi Warlock, Sir Magnus, rồi vợ chồng Godfrey cho đến bao nhiêu người khác nữa cũng vậy! Họ đều muốn thà chết còn hơn là sống để phải nhớ mãi cái ác mộng quái gở mà người nào chịu tiết lộ ra.

      Swanhild mở to mắt nhìn và lắng tai nghe ngóng chiếc xe hơi, bỗng cái mõm lạnh giá chạm vào bàn tay nàng:

      - Alex! (nàng vừa vừa vuốt ve con chó lúc nãy theo nàng ra) Alex! Suýt nữa tao quên mất mày đấy.

      Nàng định cho con vật có nghĩa cùng, vì nàng thừa biết rằng khắp vùng đó, người nào dám xông pha vào rừng trong cái đêm kinh hoàng ấy.

      - Thưa (lời lão Walton) mình bây giờ tôi thể nào đành lòng được. Tôi cũng với .

      Lão câu ấy với giọng quả q uyết của lòng tuyệt vọng. Hàm răng cầm cập va vấp từng tiếng; tay lão bấm chặt lấy khung cửa hình như chính cả gan quá sức khiến lão đứng được vững vàng.

      Swanhlid lắc đầu:

      - Thôi, được! Có lẽ đây cũng chỉlà chuyện dè chừng thôi, chưa có gì đáng sợ. Tôi muốn ông cứ ở nhà coi nhà. Ông cho bà ấy đỡ lo !

      Lão mở miệng toan cãi đương lúc ấy ánh đèn pha chiếu sáng lụt nhà: chiếc xe hơi tiến đến đỗ trước cửa. Người lái xe, bộ áo tài xế mặc vội lên bộ quần áo ngủ, nhảy xuống.

      Swanhild bảo :

      - Stredwick, đến rừng Thuderbrrow.

      kinh khủng lên gương mặt người tài xế! run run tiếng đáp:

      - Bẩm… tôi thể đến đấy được. Con quái vật ngày xưa cũng bắt mất người họ nhà tôi.

      Chuyện ấy quả có xảy ra thực, Swanhild muốn ép . Nàng bảo:

      - Mở cửa xe ra.

      Nàng tự cầm lái, để con chó Alex ngồi bên cạnh; cho xe băng sấn qua chiếc cầu kéo(3) tiếng ầm như sấm dậy, rồi theo lối thẳng chạy ra phía cổng trang.

      Chú thích:

      (1-)Holbein: Phòng treo những bức vẽ của Holbein (1497 – 1543), họa sĩ trứ danh dưới triều vua Herry VIII, bên .

      (2-) Nhà gác cổng: Nhà giàu miền quê bên , ngoài cổng vẫn có nhà riêng cho gia đình người gác ở. Dây điện thoại liên lạc vào tận tư thất của chủ nhân (ND).

      (3-) Chiếc cầu kéo: Thứ cầu kéo lên hạ xuống được ở cửa thành cổ hay dinh thự cổ. Khi hạ xuống là lối ra vào, khi cất lên là thứ cửa đóng rất kiên cố.)





      Jessie D. Kerruish


      Con Quỷ Truyền Kiếp


      Dịch giả: Thế Lữ


      Chương 2


      TRONG RỪNG



      Chiếc xe chạy đều lớp sỏi trải phẳng. Gió vụt hai bên má Swanhild. Đến những khuỷu đường, ánh sáng đèn pha tràn phủ lên các khóm lá và những thân cây lớn hình như chen chúc xô đẩy dưới vòm xanh chằng chịt những nhánh cành.

      thấy được nhà người gác rồi. Ánh lửa đỏ của treo chiếu lên những cột sắt lớn vặn mình ở hai bên cổng mở. Vì có đèn đường xe lửa chạy qua, đường đá phải ngoặt về phía tay phải, rồi ăn dốc xuống phía cầu. Swanhild cố lắng tai mà thể nhận được tiếng tăm gì khác lạ. Nàng thấy như con chó săn lớn ở cạnh nàng nhô người lên, rồi lại ngồi xệp xuống nệm xe, vừa run sợ vừa nép vào bên chủ. Nàng chợt nhiên tái hẳn người , vì nàng hiểu rằng linh giác loài vật bao giờ cũng vẫn rất tinh tường: chỉ mới đánh hơi thấy gió thổi từ Beacon lại mà con chó săn rất bạo dạn kia cũng đến len lét khiếp sợ đến thế!

      Chiếc xe hơi qua cầu, rẽ sang tay phải rồi bon bon quãng đường dài, bên có rặng cây mọc như hàng rào phủ đầy bụi cát chạy thoải đến tận cái suối lấp loáng từ phía đồi núi ăn ra. Những bụm cây, những tường đổ nát, vây quanh những khu nhà cửa tiều tụy mù tối, chỉ có những điểm sao làm đèn. Đằng xa là thung lũng mờ sương và cái mô đất đó sừng sững cái hình thù quái gở.

      Qua khỏi chỗ làng xóm những mỏm cao miền Beacon hạ thấp dần xuống, con đường nổi cách tuyệt diệu, chạy dài ở giữa khoảng bát ngát của vùng cây cối hoang vu.

      Swanhlid biết rằng tối hôm ấy nàng sang bên Mansby Place, đến chơi nhà Goidard Covert là bạn thân của chàng. Nàng thầm mong rằng Oliver vẫn còn ở đấy chuyện trò cho đến bấy giờ. Mắt nàng thuộc phong cảnh ở đây nên nhận được lớp nhà hình đen ngòm nhô nền đất. Chỉ thấy có ánh sáng mờ yếu ở cửa sổ thượng. Thế Oliver hẳn ra rồi vì người bạn của chàng về phòng riêng và chắc cặm cụi luyện, tán những chất hóa học.

      Nàng đồ chừng có lẽ nàng qua rừng trở về nhà bằng lối xuyên lâm, con đường do những đàn súc vật vạch sẵn, Theo lối đó, chàng cũng có thể qua thung lũng mà về trang trại của nhà.

      Bao nhiêu điều phỏng đoán ấy hỗn loạn trong óc Swanhild trong lúc nàng phóng xe vào con đường . Nàng quặt xe ra phía tay phải, bánh xe lướt trơn mặt đồng tuyết đóng và sau cùng lăn lối cỏ mọc rậm rì. Nàng để cho tâm linh dìu dắt, qua bể sương sa mù mịt phủ đầy khu thung lũng. Chiếc xe xông lên tiếng máy rầm rầm và đôi lúc chồm vấp.

      Dưới vòm trời vằng vặc ánh trăng lạnh lẽo, nàng cho xe leo lên dốc đồi Beacon và sau cùng tới cửa khu rừng.

      Con Alex còn vẻ nào là sợ hãi nữa.

      Những tiếng rên rĩ thầm trong những vừng cây bị gió to hành hạ dồn đến quanh người thiếu nữ. Cả trận dông tố của những thanh thê thảm vây bọc lấy nàng: tiếng lắc rắc của cành nhánh vật mình, tiếng rì rào của những bụi cây khóm lá, tiếng xào xạc của lớp cỏ bị dày vò.

      Ngọn đèn cầm chắc trong tay, tâm hồn điên cuồng khiếp sợ, Swanhild tiến bước lên, người vừa nóng ran vừa giá ngắt. Cây trong rừng phần lớn là thông, sam – mộc và dẻ, vươn những thân hình ảm đạm trong đêm và che kín cả bầu trời. Thỉnh thoảng, chút sáng lọt xuống, qua những cành cao của cây bạch – mộc trụi lá.

      Giữa cảnh trí hãi hùng ấy, Swanhild chỉ sợ những xảy đến thình lình, chẳng hạn rơi xuống tự chòm cây nay bật lên từ dưới ty, ngay cạnh người thiếu nữ.

      Con Alex trước mặt nàng, đầu lắc lư.

      Chốc chốc nàng lại lớn tiếng gọi tên nàng, vừa mong được trả lời lại vừa sợ tiếng nàng lọt vào những tai khác. Trong khu rừng om tối như hầm kín này, biết đâu chẳng chất chứa cái sức giết người ghê gớm!

      tiếng chưa rệt khiến nàng quay lại, nàng chỉ thấy đằng xa hai mắt đèn xe của nàng. Nàng rẽ sang nẻo quặt trông thấy ánh đèn kia nữa, thế là nàng mất cả liên lạc cuối cùng với trần gian.

      Đến chỗ, đường phân nhiều ngả, nàng nhận ra như có người vừa quạ mặt đất đóng váng còn dấu vết nào, nhưng cỏ ở đầy dẹp xuống và bị dầy xéo. Hốt nhiên con Alex chạy đến con đường ăn ra gần cây sến mọc ở khu quang đãng . Con chó ngừng lại chỗ ấy hít khoảng đất ra vẻ sợ sệt. Swanhild hạ thấp ngọn đèn xuống, soi thấy vũng máu đọng và màu thâm, rồi đến khoảng thẫm hơn thấy thân cây, tầm ngang đầu người, đống thịt bị xé nát trông rất ghê tởm, be bét dưới gốc cây.

      Tim người thiếu nữ như ngừng đập. Nàng nhận ra đó là con chó của nàng, giống chó to lớn như con bệ chân sau con chó bị rứt ra khỏi mình, còn mình con vật bị vặn nhàu bóp nát trông ra hình thù gì nữa, rồi bị quật mạnh vào thân cây sến: đủ biết nó bị giết hại bởi sức quái gở phi thường.

      Sau khi buồn rầu hít ngửi cái thây chết của đồng loại, con Alex lại bước và dừng chân trước cây thông cực lớn bị sét đánh thủng phần thân cây; Oliver nằm sóng sượt giải lá thông và quả thông khô, đầu gối lên vũng máu.

      Swanhild đặt chiến đèn xuống đất, xốc nàng lên cho dựa vào thân cây sến. Cái khăn quàng dây bằng lụa của Oliver vừa bẩn, vừa nhàu nát và các đường nếp giá băng; hai ống tay chiếc áo khoác bươm rách. Mặt chàng sưng vều lên gần hết, hai cánh tay và bàn tay vừa lấm đen, vừa bầm đỏ lạnh ngắt và cứng đờ. Máu các chỗ đông lại từ lâu. Swanhild biết máu cầm là vì người chết rồi hay vì trời rét. Nàng cố nghe quả tim của nàng nhưng thể nhận thấy nhịp nào, vì trống ngực nàng đập mạnh quá.

      Nàng đứng dậy, thẳng người nhìn ra quanh mình: những bụi cây gai góc bị gẫy nát, dày xéo, thuật lại cuộc vật lộn vô cùng dữ dội. Bỗng nhiên, có tiếng kêu rất , đưa ra từ cái hốc cây bị sét đánh. Swanhild sởn tóc gáy, tai hết sức nghe ngóng, chân bước lại gần Oliver và trỏ mãi ngón tay vào cái cây có tiếng lạ cho con Alex sục tìm xem. Con chó ngoảnh đầu , lưỡng lự, đánh hơi về phía tay chủ khiến rồi đến bên chân chủ đứng nhìn. Gió thổi dồn lẫn muôn nghìn tiếng dị kỳ, ào ào trút như phong ba xuống những khóm cây và đầu dốc.

      Sau cùng, người thiếu nữ hướng về trước, dõng dạc , giọng lạc :

      - Muốn sống ra ngay, ta bắn!

      thấy đáp lại, nàng liền bắn phát súng lục về phía cây. Vẫn thấy gì ngoài mấy tiếng vỏ cây vỡ, rơi xuống. Phát đạn nổ vừa rồi như trừ diệt hết mọi tiếng tăm khác: kế đó là im lặng nặng dầy. kịp để ý đến cử chỉ của mình, nàng cầm ngay chiến đèn lên và soi ánh vào trong hốc tối, nàng hét lên tiếng:

      - Chị Kate Stringer!

      Cái cảnh tượng nàng trông thấy kia, bút nào tả nổi. Tất cả kinh khủng thấy ở cái thây nát của con chó lớn lúc nãy cũng còn gì, nếu đem ra so sánh với điều nàng mới nhận ra.

      Tâm thần nàng thành ra hỗn loạn. Nàng lấy hết sức mạnh trong cơn nguy khốn tuyệt vọng, xốc cho nàng đứng được lên. Rồi, cố gò người xuống, nàng vừa cõng Oliver lưng; chân nàng buông thõng kéo lê dưới đất. Nàng chụm hai cánh tay Oliver giữ chặt trong tay mình, quàng hai cánh tay ấy vào cổ mình, rồi bỏ cây súng lục vào túi bên phải chiếc áo phủ ngoài, đề phòng lúc nguy cứ việc đưa tay và lấy ngay được. Nàng dùng bàn chân đẩy cho đèn quay chiếu ra lối , để có ánh sáng tới chỗ nàng có thể trông thấy đèn pha được. Gắng sức cuối cùng nữa, nàng ngước lên, khom cúi dưới cái vác nặng đè trĩu lưng.

      Lúc bước gần thây con chó lớn, Swanhild chợt nhận thấy rằng chính nàng có thể là cái đích rất để cho cái sức tàn hại độc ác kia nhằm lên. ngành gai chơm chởm quấn vào chân nàng, khác nào bàn tay kêu quào những móng sắc. Nàng phải ấn mình nàng vào thân cây giữ cho khỏi tụt xuống, mới gỡ thoát được nhành gai. Mắt quen tối, nàng trông thấy cái mình lông trắng của con Alex tiến trước mặt như điểm sáng mờ. Rồi ánh đèn pha chiếc xe hơi cũng ra, xuyên qua những hình đen sì của cây cối.

      Swanhild giữ chặt chẽ lấy chút đảm lực còn lại và sau hết ra khỏi được bóng cây rừng. Nàng buông dần cho nàng tụt xuống đất và gieo người ngồi xệp bên đợi hoàn hồn. Nàng kéo người thiếu niên vào lòng: đầu chàng ngặt ra cách thảm hại. Nàng ngẩng trông về phía rừng và thầm tạ Ơn rằng được thoát nạn, trong lúc này Oliver việc gì nữa, vì chỉ ở dưới bóng thông trong rừng con quái vật mới giết hại người.

      Nhưng nàng còn phải làm nốt việc nữa, khó khăn nhất: còn phải trở vào rừng tìm kẻ bị nạn thứ hai. Trong lúc ngần ngừ, nàng tìm cách tự nhủ lòng rằng nàng vẫn còn sống và nếu tìm ngay thầy thuốc chữa chạy tức khắc có lẽ cứu được mệnh chàng. Vậy bổn phận đầu tiên của nàng là hãy săn sóc đến nàng trước . Còn như Kate, tuy mấy phút trước còn thoi thóp thực đấy, nhưng bây giờ chắc cũng chết rồi.

      Swanhild xốc Oliver lên, bế đặt lên xe, lấy tấm chăn nàng mang theo sẵn đắp kín cho chàng, rồi mở máy. cuộc chiến đấu kịch liệt nổi lên trong tâm trí nàng. Nàng tự nghĩ: thế ngộ chị Kate vẫn còn sống sao? Mà Oliver chết rồi cũng chừng? Chính nàng, nàng thoát khỏi tay quái vật lần vừa rồi, nhưng nếu nàng lại trở vào trong rừng liệu nó có để yên cho nàng lần nữa ? Sau cùng, Swanhild tính đến kế nước đôi: là nàng về nhà rồi trở lại tìm chị Kate… Phải đấy. Nhưng mà nếu thế ra Oliver sống được là bởi bỏ liều người con đáng thương kia sao? , người dòng dõi quý phái ở Dannow như nàng đây thể làm việc như thế được, dù để cứu sống nàng cũng đành.

      Swanhild lại chạy vào rừng sau khi giao cho con Alex đứng canh giữ Oliver. Nàng băng băng xông vào trong bóng tối, nghĩ đến khủng khiếp quanh đó, cũng nghĩ đến táo tợn của chính mình, chỉ thấy hăng hái vì những ý niệm về nghĩa vụ.

      Khi tới chỗ hốc cây lớn và khi lại trông thấy cái người bạn vẫn chơi đùa với mình xưa nay, người thiếu nữ mà mới buổi chiều vừa rồi còn cùng nàng cười cợt bông đùa, giờ thành cái đống trông kinh sợ như thế nàng phát hoảng cả người lên. Giữa khuôn mặt trước xinh đẹp nhất vùng, hai con mắt lờ lờ xanh mở nhìn nàng lát trước khi nhắm lại.

      Mấy phút sau Swanhild trở ra được và đặt người con đáng thương ấy bên Oliver. Muốn quay xe, nàng phải cho tiến vào trong bóng rừng cây nhưng xảy ra rủi ro nào hết.

      Lại thấy đường cái rồi. Nàng phóng xe xuống dốc, xông vào khu thung lũng mù sương. Nàng tưởng chừng từ lúc ở Dannow cho đến lúc xe hơi lại trở về đến xóm, cách nhau kể có hàng nghìn năm. Nàng tính: cách tốt nhất bây giờ là về thẳng trong trang. Mấy phút nữa xe tới cổng, nàng bảo người gác tức tốc mời bác sĩ, ông này ở cách nhà nàng hơn giờ rưỡi đường đất.





      Jessie D. Kerruish


      Con Quỷ Truyền Kiếp


      Dịch giả: Thế Lữ


      Chương 3


      OLIVER CÒN NHỚ



      Lão Walton cùng với người lái xe Stredwick, mặt xám còn hột máu, kinh hoảng đôi mắt mở to, xúm lại bên xe hơi khênh Oliver vào trong đại sảnh. Cùng với người đầy tớ , bà vợ lão Walton chờ sẵn ở đó; bà này lúc chưa lấy chồng làm nữ khám hộ, người đứng đắn, đảm bối rối trước những cơn nguỵ Bà ta bảo hai người đàn ông:

      - Đặt cậu ấy lên ghế bành kia!

      Swanhild bước vào theo, tay bế Katẹ Lúc ấy nàng mới mơ hồ nhận thấy rằng mình vừa làm được phi thường. Nàng đặt cái ôm nặng trong tay xuống cái ghế bành khác.

      Bà lão Walton xem xét Oliver lát rồi :

      - Đầu bị thương khá nguy hiểm! Cũng may cái khăn quàng đỡ được đôi chút; còn những dấu vết ở cổ ở mặt cũng thôi. Vì trời rét mà máu đông ngay được. Mà kìa! Cậu ấy dần tỉnh lại rồi đấy. Ông Walton! Mau rót cho cậu ấy ít rượu mạnh.

      Trong giây lát, Swanhild thấy khắp phòng quay lộn lượt: Oliver còn sống, thế là nàng yên lòng. Bà lão Walton đến bên Kate nhắc cái áo phủ đắp kín người nàng lên. Tuy quen mắt thấy nhiều kẻ bị thương, bà ta cũng khỏi rùng mình. Bà kêu lên tiếng khiếp sợ:

      - Trời đất ơi! Thựa tôi chưa từng trông thấy những cái gớm ghiếc đến thế này bao giờ. Ấy thế mà chính tay tôi hai lần lượm xác những người bị nạn xe lửa rồi đấy! Tội nghiệp! Kate Stringer đây, mà tôi nhận ra được nữa! Trông cứ như làbị cọp cào xé cũng bằng! Swanhild, với tôi hãy cứ đặt ấy nằm thẳng xuống , đợi bác sĩ đến cũng vừa!

      Ngay lúc ấy Oliver mở mắt ra, hai mắt sáng cách kỳ quái trong cái gương mặt máu đỏ nhuộm hoen.

      Chàng ngoảnh nhìn bốn phía quanh mình, ra vẻ ngơ ngác.

      - Sao lại?…

      Chàng chưa dứt bỗng nhìn thấy người Katẹ Vẻ kinh dị mất hẳn, nhường chỗ cho vẻ khiếp sợ. để kịp ai giữ lại, chàng đứng dậy, cúi xuống nhìn người thiếu nữ bị nạn hồi lâu.

      Chàng khẽ kêu lên:

      - Kate! Trời ơi! Kate bị con quái vật hại rồi!

      Rồi chàng ngất người trong tay em . Bà lão Walton :

      - Bị xúc động mạnh quá, thể gượng được nữa. Walton với Stredwick, hai người khiêng cậu sang phòng ngủ.

      Bà ta quay lại, giọng quả quyết với Swanhild:

      - với tôi lên buộc lấy vết thương cũng được.

      Chuông điện thoại reo. Người đầy tớ tiếng bảo chủ:

      - Bác gác báo tin bác sĩ Newton mấy phút nữa đến. Lúc ấy Oliver lại hồi tỉnh dần dần.

      Diện mạo Oliver giống em như đúc, nhưng mớ tóc rất đậm của chàng màu đen và hai mắt xanh thẫm hơn. Trừ bên thái dương mang chỗ sưng u lên khá lớn, cả khuôn mặt chỉ bị xây xát thôi.

      Chàng cất tiêng hơi rè, gọi em:

      - Này Swan! Sao tôi lại ở nhà thế? Tôi cứ tưởng vẫn ở bên Gođard đấy!

      Chàng đưa tay quấn băng sờ lên trán ngượng ngập hỏi:

      - Lại có băng buộc!… Tại sao tôi lại phải nằm thế này?

      Swanhild vội đáp:

      - Em tìm thấy ở trong rừng đấy.

      - Nhưng sao lại trong rừng!… Tôi còn nhớ được tí gì hết. Sau khi ở dưới Dannow ra về…

      Tiếng của chàng thấp xuống, nghe được .

      - À, à! Tôi sắp nhớ ra rồi… Tôi đánh nhau với con quái vật… Này Swan ạ! Khốn nạn Kate!… thể nào đánh lui được con quái vật.

      Swanhild cúi xuống giường và đặt bàn tay mát rượi lên cái trán nóng bừng của Oliver. Nàng dịu dàng an ủi chàng:

      - Thôi! ạ, đừng quan tâm đến việc ấy.

      Chàng nức nở khóc:

      - Lần này là lần đầu tiên con quỷ truyền kiếp của nhà ta xông đến hại người đàn bà! Mà cũng lỗi tại : nếu chống cự kịch liệt với nó hại đến Kate!

      Swanhild ngắt lời :

      - Oliver, thế… trông thấy thế nào?

      Chàng nhíp mắt lại:

      - Em muốn cho tránh khỏi cái số phận của tổ phụ chúng ta chứ gì? Bây giờ chẳng còn nhớ gì cả.

      Nhưng trong lúc đó, nàng thấy ánh lên trong mắt chàng tia lửa đỏ, dấu hiệu xúc động mạnh. Chàng hét lên:

      - Reggie (#1)!

      Swanhild cũng kêu:

      - Oliver! Chẳng lẽ mà cũng tưởng… điên rồi! (Nàng câu ấy vì thấy Oliver cãi). Tôi mong rằng điên thực đấy.

      - , điên. biết trước người quê vùng này họ bàn tán những gì rồi. Họ cho rằng… (chàng thấy rất khó ) Reggie hóa ra… thần trùng hút máu (#2), mà từ khi ấy mất đến nay bây giờ trời rét mới đóng giá lần này là lần đầu…

      Swanhild vội ngăn lại:

      - Suỵt! cứ thuật lại những việc xảy ra đêm hôm nay cũng có thể phá tan cái thuyết dị đoan khả ố ấy.

      - Nhưng trông thấy gì hết, hay là có thể nhớ tí gì. (Chàng đưa tay lên ấn thái dương và tiếp). Đầu có bị thương ko?

      - Có vết sưng lớn. Chắc ngã nên bị.

      - Có lẽ… Mà chắc hẳn vì cái ngã mạnh ấy mà thể nhớ được các điều.

      Bác sĩ Newton bước vào.

      Ông là người to béo, mặt mày tỉnh táo, dù giữa lúc đêm khuya. Bao giờ cũng lạc quan trước , ông quyết ngay:

      - Ông Hammond, ông kêu to được, thế là triệu chứng tốt rồi đó.

      - Thưa bác sĩ, tôi bây giờ chỉ thấy trong người mệt lắm. Còn bệnh tình Kate thế nào?

      - Bọn thanh niên thường vẫn dai sức chịu đựng; tôi mới chỉ được thế thôi. Bà Walton dọn cho ấy căn phòng ở đây vì ta thể nào mang xa được.

      Ông xem xét cẩn thận Oliver, rồi kết luận:

      - có gì đáng lo ngại hết. Khâu mũi vào chỗ rách, thế là xong.

      Ông gài nốt được chiếc kim băng nữa chàng lại ngả mình xuống đám gối nệm. Ông hỏi:

      - Thế nào? Hai người gặp tai nạn gì mà đến nỗi thế?

      - Tôi ở Mansby Place trở về theo đường tắt qua rừng gặp Katẹ ở với người ông, ở túp nhà cuối Dannow – hạ. Ông cụ Ốm nên ta đến nhà người gác kiểm lâm gọi điện thoại mời ông đến xem.

      - À! Nếu thế được rồi! Bà Walton lúc nãy bảo gọi điện thoại mời ông bác sĩ Albury và Blacke nữ khán hộ. Họ đến là ta bảo đến ngay nhà cụ Stringer. Thế rồi sao? Ông bảo ông gặp Kate, rồi sao nữa?

      - Tôi bảo để tôi gọi điện thoại hộ, vì tôi vừa qua nhà gác kiểm lâm. Kate liền cùng với tôi trở gót lại cho đến chỗ cây thông bị sét đánh lủng. Lúc ấy tôi ngửi thấy ràng mùi thối nát đưa ra…

      Oliver lại đưa tay lên thái dương, ngập ngừng. Ông bác sĩ liền đưa cho chàng cốc thuốc ông vừa pha xong; chàng đỡ lấy uống ngay, nghĩ ngợi. Swanhild nhận thấy mùi laudanum (#3) pha trong cốc thuốc.

      - Tôi lấy làm lạ về cái mùi thối đó. Lúc ấy chúng tôi trong bóng tối hoàn toàn. Con Holder, con chó của tôi, nép sát mình vào tôi. Hốt nhiên, Kate hét lên tiếng khiếp sợ! Tôi cảm trước rằng tiến đến trước mặt tôi. Tôi chắc chắn rằng con quái vật có ở đây, nhưng cũng chắc chắn rằng tôi thoát thân.

      Swanhild gật đầu:

      - Em hiểu rồi, ạ.

      Chàng có ý tức giận:

      - , đừng có cho tôi là đứa nhút nhát hay người điên! Vả lại bây giờ tôi cho cái gì là lạ lùng hết: sao sáng trời, thông trong rừng, cái rét lúc ấy và con quái vật bò trong bóng tối, tất cả mọi thứ ấy như lôi cuốn tôi vào cơn sóng hỗn độn những cảm giác mơ hồ và quen thuộc. ấy có gì độc ác dữ dội, cũng phũ phàng, nhưng chỉ kinh khủng! Thực kinh khủng!… Con Holder rên lên những tiếng sợ hãi, mà tóc tôi dựng đứng cả đầu! Chừng như con chó biết trước được khủng khiếp sắp xảy ra. Tôi nghe thấy tiếng tôi kêu Trời, Kate rú lên, con Holder cũng tru lên đáp lại. Trong nháy mắt, cái vật ấy chiếm lấy tôi. Tôi liền cuống cuồng chống cự lại, chống cự với sức mà tôi hiểu sức gì, ở trong thứ bóng đen hình như có lóe ra nhiều tia sáng. Thế rồi tất cả thành tối tăm và có lẽ chính lúc đó là lúc tôi ngã quật xuống. Tôi mở mắt ra thấy ở phòng ngoài nhà này. Em Swan cũng ở đó, với Kate nữa… Trời!

      Oliver úp tay che mặt mà rên lên những tiếng buồn thảm.

      Khi thấy con chó Alex đứng bên cạnh giường và nhìn chàng vẻ quý mến, Oliver hỏi:

      - Con Holder đâu?

      Tưởng cứ nên ngay cho chàng biết, Swanhild đáp gọn tiếng:

      - Chết rồi.

      - Con Holder chết rồi?

      - Sau khi bảo vệ Kate con chó bị xé nát cả mình. Đối với con chó trung thành thực còn cái chết nào đẹp được hơn thế.

      Chàng than thở:

      - Giá tôi đừng kháng cự tất con quái vật hại Kate với con Holder!

      Giọng hạ thấp dần. tới lúc buồn ngủ thể cưỡng được nữa, chàng cũng gắng trỗi dậy:

      - Swanhild, mà chết em là gia trưởng. Vậy lại đến lượt em thành tội nhân trong họ nhà ta…

      Nỗi khổ sở của chàng mạnh đến nỗi trong giây lát có thể làm tan được hiệu lực của thuốc ngủ vừa uống. Chàng tiếp theo:

      - Swanhild, em thề quyết với nhé: em phải thề rằng dù sống hay dù chết, dù ra điên ra dại hay vẫn khôn như thường, em cũng tìm, hết cách để khám phá bí mật kia nhé?

      - Em xin hứa theo lời .

      - Em mời thầy Lodge, hoặc hỏi nhà thần linh học, hoặc người đàn bà nhà Kynaston mời về.

      - Em xin lấy danh dự hứa theo lời

      - Balavasty và Crookes thất bại hồi ông chúng ta mất, nhưng từ hồi ấy đến nay khoa học tiến hơn.

      Trí chàng minh mẫn được trong vài phút: chàng nhận biết cái trách nhiệm của người sống hay chết có ảnh hưởng đến số mệnh người đàn bà.

      - Em mà thề với , quyết để tâm đến cái việc kia ngay từ sáng sớm mai thể nào yên lòng được. Em phải nhớ đấy: sống hay chết, bình thường hay điên dở cũng vậy, nghe ?

      - Vâng, em xin thề theo ý .

      Oliver ngả người xuống, thở tiếng dài: chàng nhọc mệt hết sức. Nhưng chàng vẫn căn dặn:

      - Nếu còn có em là gia trưởng, em phải lĩnh cái hương hỏa là lời nguyền tai hại của dòng họ nhà tạ Em nên mời Lodge về điều tra hay mời bà thầy… Em phải thề… lấy danh dự mà…

      Tiếng chàng chìm vào trong những lời lầm rầm, sau cùng chàng ngủ mất.

      Chú thích:

      (1-) Reggie: Tên người cả chết.

      (2-) thần trùng hút máu: Theo dị đoan bên Âu châu, người chết có thể về ban đêm hút máu người sống.

      (3-) Laudanum: (đọc là lô- đa-nôm) là thuốc ngủ, trong có chất nha – phiến tinh.




      Jessie D. Kerruish


      Con Quỷ Truyền Kiếp


      Dịch giả: Thế Lữ


      Chương 4


      TÌM BÀ THẦY



      Những giờ tiếp theo đó thực là giấc ác mộng ghê gớm đối với Swanhild. Trong khi ấy, nàng nhớ lại những giờ hấp hối của người cả trong gia đình nàng. Cũng những mùi thuốc ấy trong nhà, cũng bầu khí nặng nề đêm nay và cũng kinh khủng y như thế. Nàng nóng lòng mong trời chóng sáng.

      Mọi người trong nhà ai ngủ. Mấy ông thầy thuốc tiếc công sức. khán hộ coi giấc ngủ của Oliver. Đối với Kate cũng thiếu phép cứu chữa nào.

      Ngồi mình trong phòng Holbein và nỗi kích thích ban đầu dẹp, Swanhild nhận thấy ngay cả tình thế bi đát bấy giờ. Oliver vẫn còn sống đành nhưng nếu chàng nhớ chi tiết trong tấn thảm kịch thể nào ngăn nổi chàng quyên sinh. Muốn tránh điều nhục nhã kia cho gia đình nàng. Swanhild phải làm thế nào thành công được trong cái việc ba mươi đời ông cha đều thất bại: là khám phá ra con quái vật truyền kiếp xem thuộc về giống nào.

      Chẳng biết hình thù nó ra sao? Mà tại sao nó lại ra hại nàng? Lúc nàng vào trong rừng nó nấp ở đâu? Nó lại ở đâu mà đến? Bao nhiêu phen xảy ra những thảm kịch ngày trước, người ra tìm được qua dấu vết nào.

      Swanhild chỉ còn phương độc nhứt. Nàng bèn rắp tâm theo và giở tìm trong tập sách hằng năm của nhà bưu điện.

      Căn phòng mở ra, bác sĩ Newton bước vào. Nàng lẳng lặng dò ý tứ mặt ông tạ Ông nghiêng mình :

      - Ông Albury cũng đồng ý với tôi sau khi xem bệnh: ông thoát khỏi nguy rồi. Mạch chạy như thường và giấc ngủ bình yên, các vết thương mấy chốc lành. Tôi xin khen phục biết phòng độc và buộc các vết thương mau lẹ được đến thế, nếu để máu ra nhiều quá đến nguy cho tính mệnh chứ chẳng .

      - Thế còn bệnh tình Kate?

      - Thực đáng buồn! ấy khó lòng qua khỏi được. Tôi muốn biết ý kiến vị chuyên môn.

      - Cái đó xin ông cứ tùy tiện. Về phần tinh thần tôi bây giờ thế nào?

      - Tôi chưa biết thế nào ngay được. Phải đợi ông ấy thức dậy . Ngoài vết thương bị sưng do lúc ngã, xem ra ông cũng đến nỗi nào.

      - Ngã như thế có thành mất trí nhớ được ạ?

      - Tôi cũng được . Xương đầu bị dập thế chỉ ngủ ngon giấc, cái bệnh quên kia cũng mất .

      - Nhưng nếu bệnh cứ dai dẳng liệu thành bất trị ạ?

      - thể quyết được điều gì bây giờ. Nếu đến nước ấy tôi với mời bác sĩ chuyên trị về tâm thần.

      Swanhild giọng chua xót:

      - Tôi sợ rằng mời cũng ích gì.

      Ông ôn tồn:

      - Ồ, ồ! Có lý nào! cứ yên tâm ạ, nào có gì là trầm trọng đâu!

      Người thiếu nữ chợt nhớ ra ông bác sĩ đến miền này mới được ít lâu thôi. (Chuyện nhà nàng hẳn ông ta được ). Nàng hỏi nữa:

      - Theo ý kiến ông, những vết thương ông buộc kia là do gì gây nên?

      - Điều này khiến tôi làm lạ. Những vết tích được . con vật đói nào xổng ra cũng chừng. Tôi báo tin cho viên tuần tra cảnh liệu. Tôi lại nghe người quản gia kể lại với tôi rằng em nhà Ades có lần đe dọa ông cộ Cả ba tên ấy đều có những con chó hung dữ, có lẽ những con chó kia giữ việc sủa con có mặt đấy, là người làm chứng đáng lo ngại, trong lúc chúng đánh cộ Dẫu sao, tôi mong rằng lúc ngả dậy, bệnh nhân của tôi buồn cười cho những câu điên rồ thốt ra đêm naỵ Tôi thử hỏi , cái chuyện con quái vật kia có nghĩa lý gì nào? Ông Oliver chẳng qua mê sảng đấy.

      Swanhild lạnh lùng đáp:

      - Những câu ấy phải chuyện điên rồ chút nào hết, vì tôi mà nhớ được những điều trông thấy trong rừng tôi đến tự tử. (Nàng đưa tay cho ông Newton trông thấy những búc chân dung của tổ phụ và ý mình). Từ trước đến nay, những người kia đều như thế này cả đấy, ông ạ.

      Ông tỏ vẻ mặt tin và nhạo báng:

      - Những chuyện vô lý ấy có những gì là thực nào?

      - Tổ phụ tôi chết y như thế năm 1890. Báo :”Times” ra ngày 18 tháng 10 năm ấy tường thuật cả vụ điều tra về việc ấy.

      Ông nhìn người thiếu nữ, vẻ ngẫm nghĩ:

      - Hình như tôi cũng có đọc bài ấy rồi. Tôi, tôi cho là những câu chuyện truyền khẩu của bọn vú nuôi, con ở. Lúc này vẫn còn bị hốt hoảng vì những kích động vừa qua, nhưng đến sáng mai là lại tỉnh trí được như trước ngay, rồi nhà chuyên trách chắc là tìm ra được con vật hung ác. Bây giờ tôi thử xem hai người bệnh của tôi xem nào!

      Swanhild lại cầm cuốn chỉ nam bưu điện và biên ra bản những tên và địa chỉ của nhiều người. Cửa bỗng lại mở ra. Người thiếu nữ reo lên:

      - Kìa, Gođard!

      Người vừa vào khẽ đáp:

      - Swanhild!

      Và giọng đầy ý trách móc, thương hại và kinh sợ.

      Gođard hơn Swanhild vài tuổi, người nhắn, mảnh khảnh. khuôn mặt xương xương, dưới mái tóc đen và rậm, tươi sáng đôi con mắt nâu lóng lánh và cái miệng của người sắc sảo hữu duyên. Chàng ăn mặc sơ sài bộ quần áo hàng mỏng được thẳng nếp, đầu đội cái mũ cáp lưỡi trai mềm và dẹt và xách lủng lẳng ngọn đèn xe lớn trong bàn tay trái đeo găng. Gođard bị thương nặng hồi chiến tranh, phải mang cánh tay gỗ. Thấy Swanhild ngạc nhiên nhìn chiếc đèn, chàng ngiêm giọng :

      - Phải, chính đèn của đấy.

      Nàng nghẹn tiếng hỏi:

      - Ồ! Gođard, cũng vào rừng đấy sao?

      Chàng làu nhàu:

      - Giá rủ tôi cùng vào mới phải. Đêm qua tôi làm việc khuya. Lúc nằm, thấy có lửa đèn thấp thoáng trong rừng, tôi mới thử vào đó xem cho biết, , trời ơi! Tôi trông thấy các con chó…

      Chàng đặt chiếc đèn xuống và nắm chặt bàn tay lạnh lại, tiếp:

      - Tôi cứ nghĩ đến cái việc vào rừng có mình, (giọng chàng vẫn trách móc) lại vào sau những việc xảy ra này!… Ồ, lão Walton cho tôi biết hết đầu đuôi rồi… tôi thực thể nào bực mình hơn được nữa.

      Chàng vo tròn mãi cái mũ trong tay, Swanhild cảm động nhắc câu lúc nãy:

      - Thế ra có vào trong rừng!…

      - có gì đáng kể? Trong rừng còn nguy hiểm nữa vì trời lúc ấy mưa.

      Trước thấy ông bác sĩ tỏ thái độ tin lời mình, nay được nghe Gođard nhận theo những giả thuyết về con quái vật, Swanhild cũng thấy được dễ chịu trong lòng. Nàng đem cái việc mạo hiểm đêm qua ra vắn tắt thuật lại. Gođard hỏi:

      - Thế là Oliver thoát nạn và tâm trí vẫn yên lành rồi. còn lo sợ gì bây giờ?

      Nàng đáp:

      - ấy mà nhớ lại được tất theo gương ông tôi. Chốc nữa ấy ngủ dậy, bà vợ lão Walton với tôi coi chừng ấy có ý tự sát chăng, như thế trong vài ba giờ còn được, nhưng bất thần ấy nhớ lại lúc nào biết, liệu có thể suốt đời canh giữ ấy được sao?

      Tiếng nàng sau cùng thành tiếng nức nở. Gođard cũng lấy làm khó nghĩ:

      - Vâng, tôi hiểu rồi. Giờ biết làm thế nào? Swanhild:

      - Tôi định cố tìm cho biết tính cách hình thể con quái vật xem. Việc ấy mà thành và nếu tôi có thể cứ dễ dàng phân giải các điều cho Oliver nghe, kích động kia giảm bớt được.

      - Thế định theo cách nào bây giờ?

      Nàng trỏ vào cuốn chỉ nam.

      - Lúc vào đây tôi tìm hội khảo cứu S.P.R và địa chỉ Bartendale, nhưng tên thấy in trong sách.

      - Bartendale, ư? Cái tên này làm tôi lại mang máng nhớ ra việc…

      - Bà Grace Kynaston có lần chuyện với tôi về tạ Chả hồi năm ngoái ta có tìm giúp bà ấy cái nguyên nhân những việc hồn kỳ dị xảy ra trong nhà bà. Nhưng nay bà Grace lại ngoại quốc mất rồi! Mà tôi chỉ biết được có mỗi điều là Bartendale ở London thôi! Chắc hẳn ta ngụ Ở nhà họ hàng nào đấy chớ chẳng . Tôi mới tìm xem có bao nhiêu địa chỉ nhà Bartendale, đem kê ra thành bản: có mười nơi tất cả. Hễ lúc nào xem có thể rời Oliver ra được tôi London hỏi thăm.

      Gođard khẽ lắc đầu:

      - Như thế khác nào tìm chiếc kim trong đống cỏ. (#1)Bartendale… Bartendale… hừ!

      Chàng nhăn trán nghĩ ngợi, miệng cứ lẩm nhẩm nhắc lại tiếng Bartendale hoài.

      Swanhild mở cửa sổ hướng Bắc ra. Gió bên ngoài ùa vào ướt nặng những hạt mưa. Hai người đứng ngắm cảnh đồng quê mịt mùng lan xa tới cái hình thằng người Dannow. màu sáng hỗn mờ tuôn xuống từ mây. Khu rừng xa thành dải đen xám.

      Bỗng nàng thể im lặng được nữa.

      - Cái tình cảnh thực ghê gớm, tai ác biết ngần nào! Oliver thoát chết, mà nếu ta thể tìm được cách khám phá được cái bí mật nghìn năm kia ấy đến hóa điên mất, rồi ấy lại…

      Nàng được dứt, nghẹn ngào lát rồi lai lớn tiếng kêu lên:

      - Tôi thực là đứa hèn nhát! Gođard ạ. Tôi hèn nhát cách khả ố! Nhưng nghĩ coi: đời tôi bây giờ chỉ còn lại có mình Oliver nữa là hết! Hồi ấy với Reggie đánh trận trở về, các thầy thuốc bảo là ấy thể sống được. Tôi cố công cùng sức cứu được ấy sống. Mà thế này thà cứ để yên cho ấy chết có lẽ lại hơn.

      Gođard khuyên:

      - Swan, đừng nên nghĩ thế! Tại Swan nhọc mệt quá mới ngã lòng đấy. Độ vài ba giờ nữa Swan lại có đủ nghị lực chiến đấu để che chở cho Oliver.

      - Ta làm thế nào mà thắng nổi được kẻ thù kỳ quái, kẻ thù vô hình kia được!

      Chàng âu yếm dỗ:

      - , em cứ vững tâm. Mới hai năm trước đây, tôi còn trong đường hố ngoài trận, lấy xẻng xúc đào trong lớp bùn kinh tởm: cái chết treo đầu. thể nào biết nó đến theo hình thể nào để lôi chúng tôi . Chỉ có cách duy nhất để tránh khỏi nỗi lo sợ là đừng nghĩ ngợi lắm. Bây giờ cũng thế đấy! Bây giờ ta cũng cứ thế; ta chỉ nghĩ đến việc tìm ra nữ pháp sư kia là hơn.

      Chàng nhìn Swanhild bằng đôi mắt hóm hỉnh, vẻ trách móc khôi hài:

      - Mà này, lúc nãy Swan bảo: đời Swan chỉ còn có Oliver nữa thôi. Câu ấy đúng mà cũng được tử tế cho lắm. Tôi cứ tưởng là Swan vẫn hiểu bụng tôi.

      Từng trận gió quay cuồng, khác nào tiếng lớn lao của gian vô cùng tận, bao bọc cả lấy căn phòng kia, giây phút buông thả bình tĩnh này thực dịu ngọt cho lòng người thiếu nữ. Nàng tưởng chừng như khắp vũ trụ đều tiêu diệt thành hư ảo chỉ còn lại tình thương mến chung của hai người. Nàng dịu dàng bảo chàng:

      - Gođard, lòng đối với Oliver của chúng ta thân thiết biết chừng nào!

      Chàng ôm lấy nàng trong tay và đặt môi hôn nàng. Sau lúc người cả nàng là Reggie tắt nghỉ, Oliver nàng cũng tỏ với nàng cử chỉ âu yếm y như thế. Swanhild nhớ đến lại rùng mình kinh sợ, nhưng nàng cũng thấy được phấn khởi tâm hồn. Nàng vui vẻ như gần quên hết lo âu:

      - Nhờ trời, Oliver vẫn còn đấy.

      - chính thế, mà giữ được ta mãi mãi là do ở chúng mình. Ta phải làm thế nào tìm cách giữ lấy mọi điều lợi để có cơ thành công.

      Chú thích:

      (1-) tìm chiếc kim trong đống cỏ: Cũng như ta : “Đáy bể mò kim”.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Jessie D. Kerruish


      Con Quỷ Truyền Kiếp


      Dịch giả: Thế Lữ


      Chương 5


      SUEZ WEST OF SUEZ



      Sau đó giờ rưỡi, Swanhild bước xuống dưới đại sảnh.

      Trời gần về sáng, lạnh lẽo càng thêm giá ngắt và im lặng càng sâu xạ Những cây leo khô cóng bao phủ khắp tường khiến cho tòa nhà lớn có vẻ hoang tịch của ngày tận cùng thế giới.

      người nữ khán hộ qua đường hành lang, quyện theo mình mùi nồng thuốc.

      Swanhild thể yên lòng được. Nàng trở vào căn phòng lớn Holbein là nơi ấm áp vì có đèn sáng và lửa cháy trong lò. Con Alex và lũ chó khác tranh nhau ăn với mấy con mèo. Ở bàn sắp sẵn thức ăn điểm tâm, Gođard với bà lão Walton vẻ mặt đăm đăm thầm chuyện. Chàng ngẩng lên bảo nàng:

      - Swanhild ạ, tôi bảo đánh chiếc xe Mercedes rồi. Tôi tưởng độ hai giờ ngồi xe có lợi cho tâmthần lúc này; bà Walton cũng nghĩ như thế đấy.

      Swanhild hỏi:

      - Mà ngay bây giờ sao?

      Bà Walton gật đầu:

      - Vâng, ngay bây giờ. Trong lúc vắng mặt có tôi coi sóc mọi việc ở nhà.

      Gođard cho nàng biết trước:

      - Ta tìm cho được Bartendalẹ Tôi mong tìm thấy ấy rất chóng.

      Người thiếu nữ ngạc nhiên hỏi:

      - Ồ! Gođard, làm thế nào mà?…

      - Đừng hỏi gì bây giờ vội. Swan hãy ăn điểm tâm .

      - Tôi thấy đói.

      - đói? Nếu vậy Swan phải uống xong chén cà phê kia rồi ta mới lên đường. Xe đánh ra sẵn sàng là ta liền, về Suez West of Suez.

      Swanhild kinh ngạc nhìn chàng. Gođard cắt nghĩa:

      Suez West of Suez là cái tên hiệu thân mật tôi đặt cho bờ bể Brighton. Tôi nghe thấy miss Bartendale đến nghỉ ở đó được hai hôm rồi, đến cùng với bọn người sang trọng ưa tắm biển.

      - biết địa chỉ ấy chứ?

      - , nhưng kiếm người có tiếng đến chơi Brighton vẫn dễ hơn kiếm người ở London trong cuốn chỉ nam của sở bưu điện.

      Swanhild vẫn còn lưỡng lự:

      - Nhưng ngộ Oliver thức dậy sau lúc tôi khỏi sao?

      - có bà Walton ở nhà.

      Bà Walton cũng vào:

      - Uống liều thuốc lúc nãy cậu ấy ngủ được ít ra năm sáu giờ. Lúc nào thức dậy tôi liệu chừng cho cậu dùng bữa hoặc uống thuốc an thần. xa bây giờ rất tốt. Ở nhà mà tâm trí rối loạn như bây giờ cũng chẳng có ích gì cho cậu ấy đâu.

      Người thiếu nữ thuận ngay, phải để nài thêm nữa.

      Quả nhiên lúc ngồi vào chỗ lái xe, những nỗi lo ngại bối rối trong lòng bớt nhiều. Khí trời thông thoáng bên ngoài, ngày lại gần về sáng, cùng với cái ý tưởng rằng tìm được cách bận rộn về việc cứu vớt Oliver, bằng ấy khiến nàng vững lòng lên. Khi xe qua cầu, nàng hỏi Gođard:

      - định làm cách nào để tìm thấy ấy?

      - Ta hỏi thăm những người gác cổng ban đêm ở các khách sạn. Cách ấy mà ăn thua, ta tìm đến bán báo mở hàng sớm mà có biên tên những du khách đến Brighton hôm thứ bảy.

      Mưa tạnh, sao điểm lóng lánh tỏ dưới bầu trời trong xanh. Khi xe qua Beeding, những ngôi còn lại sau cùng lần lần tắt. Đến Sorcham rồi mà bóng đêm vẫn còn đen tối. Hai người cùng ít, vì Swanhild chăm chú lái xe. Sau cùng, xe vượt khỏi miền đồi Porslade cái hình Brighton mờ xám ra trước mặt hai người dưới màu hồng sơ khai rung động của cảnh hửng sáng mùa đông.

      Con đường sao mà thấy vắng vẻ lạ lùng! Ánh đèn pha càng làm rệt thêm vẻ hiu quạnh tiêu điều của cảnh vật: bầu trời với mặt đất, nhà cửa cùng những bờ cát xa xa, tất cả hình như huyền ảo. Chỉ có tiếng máy kêu rền với tiếng gió than dài thoảng đưa tiếng sóng ồn ào, làm tan vỡ bề tĩnh mịch.

      Swanhild, mà lòng áy náy khiến giọng và có chiều mỏi mệt, hỏi Gođard:

      - Nếu tìm thấy miss Bartendale ở Brighton làm thế nào?

      Chàng chỉ đáp.

      - tìm chỗ khác. Ta cần gì phải băn khoăn lắm. cứ cho xe rẽ vào phố đầu bên trái, rồi ta bắt đầu hỏi thăm.

      Những lúc chàng xuống hỏi thăm bọn gác đêm nàng vẫn ngồi lại trong xe. Miss Bartendale trọ trong khách sạn đâu, mà đến khách sạn thứ hai cũng vậy. suốt dãy phố mà chẳng được ích gì, chốc chốc lại ngừng xe, khi để hỏi thăm, khi tìm kiếm hàng bán báo. Đến lúc mặt trời hửng đông hai người thông thuộc được hết các chừng độ thức dậy dần dần của khách sạn. Sau cùng mới có người trong bọn người làm đưa bản kê tên du khách cho Gođard coi.

      Chàng reo lên:

      - Đây rồi! Swan trông đây này: Hesse House, Hesse Square: thứ năm, lady(#1) Adams, miss L. Bartendale… qua Ship Street ta hãy đỗ xuống .

      Swanhild ngoan ngoãn vừa cho xe quanh lại vừa hỏi:

      - Xuống đấy để làm gì?

      - Để gọi điện thoại. Đến nhà ấy sớm quá thế này được. Ta phải có lễ độ với nạn nhân của ta(#2) !

      Vào cái giờ sớm sủa ấy, thành phố buồn bã và có vẻ còn ngủ yên. Hai bàn tay Swanhild xâm xấp ướt, mặt tái mét như người chết rồi, vì nàng chỉ cách có vài ba phút hoặc nỗi mừng hoặc tuyệt vọng.

      Trong máy , giọng rề rà của người đầy tớ trả lời nàng:

      - Miss Bartendale ở trong phòng ngủ. ấy sắp sửa chuyến xe lửa thứ nhất về London. Tên là gì? Xin cho biết. Vâng, được, miss Hammond, xin cứ đợi đấy nhé!

      Đợi lát, nàng bỗng lại nghe thấy tiếng đầu dây bên kia:

      - Allô! Miss Bartendale đây. Con quái vật hẳn lại về phải , miss Hammond?

      Swanhild kinh ngạc hết sức:

      - Vâng, phải rồi, nhưng sao mà…?

      - Sao mà tôi biết, phải ? Này em ạ, khi dòng dõi nhà Hammond ở tận cư thất miền Dannow mà gọi đến người đàn bà được tiếng là có tài về linh hồn học, câu chuyện đoán cũng chẳng khó khăn gì!

      Giọng và nâng cao, nhưng rành rẽ từng tiếng hỏi:

      - Nó về bao giờ thế?

      - Mới được mấy giờ thôi.

      Swanhild liền vắn tắt thuật lại những việc xảy ra đêm vừa rồi. Người kia lại hỏi:

      - Nhưng tôi làm sao được bây giờ.

      - Năm ngoái có lần giúp cho lady Grace Kynaston, vì thế tôi chắc rằng…

      - Cái bí mật của nhà Kynaston phải là cái bí mật lưu truyền nghìn năm. Được, tôi cũng cố hết sức xem sao, nhưng đừng tin ở tôi nhiều quá đấy! giờ ở đâu?

      - Ở nhà điện báo Ship Street. Tôi xe hơi đến cùng với God… à, cùng với ông Covert.

      - Liệu tôi có thể xem xét chỗ xảy ra trước các nhà chuyên trách được ?

      - Được ạ, mặt trời chưa lên cao chưa ai làm gì vội, cả đến viên chánh cảnh sát ở Dannow cũng vậy. Mà ta chỉ giờ nữa đến đấy được rồi.

      - Nếu vậy lại đây, nhưng cứ thong thả thôi, vì tôi chưa kịp sửa soạn gì cả.

      Nàng bảo Gođard:

      - ấy nhận lời và xem ra người nhã nhặn lắm.

      Rồi nàng gì thêm.

      Hess Suare ở về mé tây nam bờ biển Brighton, thuộc khu của hạng quý phái trong thành phố, nơi ở dễ chịu nhất hồi chưa có những gia đình đua nhau lập nên. Bình yên và tĩnh mịch trong những ngày tưng bừng nhất của mùa hè, khu ấy trong buổi sáng mùa đông kia trông thực quạnh vắng. Chiếc xe hai người lăn bánh những đường phố buồn tẻ dưới những hàng cây thầm. Tòa nhà Hess Hourse dựng gần mấp mé thành đá bờ biển.

      Gođard khen:

      - Thực là nơi biệt thự mộng tưởng đối với người như miss Bartendale.

      Swanhild xe vừa nhảy xuống bỗng cửa tòa nhà mở. người đàn bà nhắn bước ra, dẫn theo con chó rất lớn, nửa thuộc giống cho hiếm, nửa là giống chó săn.

      Giọng nghe trong máy lúc nãy, cất lên hỏi, trong lúc bàn tay người ấy đưa ra:

      - Miss Hammond đấy phải ?

      Người đâu mà có khuôn mặt dễ thương đến thế! Những món tóc uốn kia cuộn dưới mép chiếc mũ mềm giữ gió, có màu vàng lụa mấy khi còn được sau tuổi trẻ thợ Nét mặt thanh tú, nước da sữa mịn, hai má phơn phớt điểm hồng. Duy chỉ có đôi mày đậm nâu, đôi lưỡng quyền lộ và cái mũi hơi to là bớt lại cái vẻ non dại thơ ngây thấy toàn diện mạo. Chiếc cằm tròn ấn xuống đường hình lõm phía dưới môi. Thường thường miss Bartendale giữ đôi mí mắt buông thấp, nên gương mắt nàng trông đen lay láy sau cái riềm lông mi lụa vàng. Thân hình nàng mảnh dẻ, đứng thẳng thắn trong cái áo măng-tô rộng bằng len.

      Swanhild tiếng hỏi trong vẻ ngạc nhiên:

      - Miss Bartendale, người đàn bà tìm mạch suối đây sao?

      Người ấy mỉm cười chữa lại:

      - , nhà nữ thần linh học mới phải. Trông tôi bề ngoài thế này nhưng tôi nhiều tuổi hơn vẻ người tôi đấy! ( thêm câu này để đáp lại những ý nghĩ thầm của Swanhild). Mà tôi cho những công việc của tôi làm có vẻ nên thơ như bọn người Mỹ đâu.

      cúi đầu đưa mắt lên nhìn Swanhild cách rất đáng , khiến cho khi gặp đôi mắt xanh sáng kia, trong vắt như thủy tinh hay như ngọc kim cương và như thấu suốt lòng nàng, nàng lấy làm sung sướng rằng còn điều chi phải giấu giếm nữa.

      Miss Bartendale ngoảnh lại nhìn chàng trai:

      - Ông này là ông Gođard đây hẳn rồi. Nhờ có ông mà hôm nay tôi được cái may mắn điều tra về việc này đấy. Được! Bây giờ quen biết nhau rồi ông lên ngồi cầm lái, còn miss Hammond kể cho tôi biết tường tận những điều cần biết. Tôi xem ý con chó của tôi ác cảm với hai người. đỡ lấy chiếc ví da người hầu đưa ra và bảo: Được! Ổn thỏa lắm rồi. Chị nhớ gọi điện cho bà tôi dùm nhé!

      ngồi yên ấm bên cạnh Swanhild, để con chó nằm dưới chân. Chiếc xe quay về Dannow trở lại con đường trước.


      Chú thích:

      (1-) Lady: Tiếng gọi những đàn bà quí phái bên .

      (2-) Ta phải có lễ độ với nạn nhân của ta: tiếng đùa để chỉ miss Bartendale.






      Jessie D. Kerruish


      Con Quỷ Truyền Kiếp


      Dịch giả: Thế Lữ


      Chương 6


      NHỮNG CỤ TỔ THÀNH TRÙNG



      Miss Bartendale ngồi gọn về góc nệm xe và mỉm cười với thiếu nữ ngồi cạnh. bảo Swanhild:

      - Hình như lấy làm lạ rằng sao tôi nhận lời với nhanh đến thế nhỉ?

      Swanhlid đáp:

      - Là vì tôi chỉ lo sớm quá, từ chối muốn bận mình.

      - Tôi như thế quen rồi. Lúc gọi điện thoại cho tôi ăn mặc chỉnh tề và gần điểm tâm xong; ăn bữa sáng dưới đèn! Như thế cũng ngược đừi y như uống sâm banh giữa ban ngày. Bây giờ kể lại lần nữa cho tôi nghe những việc xảy ra hôm vừa rồi !

      Swanhild liền thuật cả lại lượt nữa. Miss Bartendale hỏi:

      - Trong câu chuyện đó có những gì là khác thường?

      Swanhild thưa:

      - Tôi biết thế nào mà được.

      Miss Bartendale chậm rãi từng tiếng, giọng nâng cao nghe ngọt ngào rất êm tai:

      - Tôi chỉ thấy trong cái việc kia có chỗ được tự nhiên lắm, có lẽ vì ông quên cho ta biết rằng… Nhưng để xem ông ấy thế nào . Bây giờ ta hãy xem xét về con quái vật. Các sách chỉ nam về những nhà có ma quái, sách nào cũng đến con quái vật ấy, đấy, tôi tóm tắt những điều tôi biết cho nghe, những điều có liên quan đến con quái vật tôi đọc trong các sách khảo về chuyện mạ Họ hàng nhà , từ bao nhiêu thế kỷ nay, vẫn bị giống ma quỷ quấy nhiễu. Người ta gọi nó là con quái vật bất tử. Trong dòng họ Hammond có nhiều người chết cách bí mật: người ta đều bảo là con quái vật kia. Có phải đúng thế ?… Thế, con quái vật ấy ở yên sinh chuyện gì được bao nhiêu lâu rồi?

      - từ năm 1890 là năm nó giết hại ông tôi cùng hai người nữa.

      - Đầu đuôi việc ấy thế nào?

      Lưỡng lự chút rồi Swanhild liền kể:

      - Hôm ấy , ông tôi có hẹn hò gặp nhau trong rừng với bà ở Mansby Placẹ Cả hai bên đều có vợ có chồng rồi. Giữa chừng họ bị người lính kiểm lâm bắt gặp… Cả người lính kiểm lâm cùng bà kia bị chết, bị tàn sát cách kinh khủng y như Kate đêm vừa rồi, nghĩa là lối hung ác ghê gớm và chỉ có con quái vật vẫn dùng xưa naỵ Hai con chó lớn của ông tôi với con chó của người lính gác cùng bị xé nát nhưng bị ăn thịt. Thây người và xác chó, bọn tuần cảnh tìm thấy ở gần Gò Sét (Thunder Barrow) ở bên kia rừng, còn ông tôi họ thấy lang thang, mình đầy những vết thương trông rất ghê sợ. Trong có đêm trời mà tóc ông tôi hóa bạc. Ông cụ nhất định chịu kể lại những việc xảy ra và hôm sau tự tử chết. Vì thế mà tôi lấy làm lo cho tôi.

      Luna Bartendale nắm lấy tay nàng tỏ vẻ thân mến:

      - Nếu vậy được! em cứ yên lòng. Nếu ông định quyên sinh tôi tìm cách để biết quyên sinh vì cớ gì. Dannow là lâu đài cổ nhất nước , phải ?

      - Vâng. Căn đại sảnh bây giờ là dinh thất cũ.

      - Chi phái nhà tậu được lâu đài Dannow từ hồi nào?

      - Chính tổ tiên nhà tôi xây dựng nên

      - còn những cảo thư cũ ?

      - Nhà tôi giữ tập cảo có ấn tín của vua Canute chứng nhận rằng Réginald, con trai Hammond là chủ nhân tòa cổ thất trước.

      - Tập gia phả lập năm 1650, có biên chép các hồi nó lên giáng họa, và những tên người bị hại đều ghi chú bằng mực đỏ. tập gia phả nữa thuật lại những việc xảy ra từ năm 1650 đến năm 1890.

      - còn biết những di tích chứng chỉ nào nữa ?

      - Còn. Trong nhà thờ thuộc lâu đài Dannow có phiến đá mặt tạc nổi hình người chiến sĩ quân Thập tự (#1) và dưới chân người ấy, hình thù to lớn có ý tả con quái vật. Thứ bia ấy dựng lên để kỷ niệm công đức sir Oliver Hammond(#2) , người đương đầu với con quái vật mà chết, xin theo quân Thập tự lần chinh phạt thứ nhất để khỏi phải nhớ lại và bỏ mình trong hồi này. Nhà chúng tôi lại có bức tranh đề tặng cho Godfrey Hammond năm 1387. Bức tranh vẽ con vật rất dị kỳ. Ông Godfrey Hammond này có lần trông thấy con quái vật và từ đó cho đến hết đời chỉ lấy cầu nguyện ăn năn làm công việc, sống như nhà tu hành dật, hãm mình trong phòng kín hẹp xây áp với nhà thờ. Người nào trong họ Hammond có gặp con quái vật cũng đều tự sát hết, trừ ra chỉ có hai ông kia là , nhưng vào đội quân thập tự hay là làm nhà tu cũng là hai cách tự tử rồi.

      - Con vật tạc ở phiến đá với con vật trong bức họa trông hình thù thế nào?

      - Cũng khó lắm. Con phiến đá chẳng ra hình thù gì hết, mà con họa bức tranh bị cạo xóa nhem nhuốc hình như để khỏi nhận được.

      - Ngoài ra, còn ai là những người khác trông thấy nó, hay có ai mô tả hình dạng nó ?

      - . Họ bị giết chết cũng vì sợ hãi quá mà chết mất.

      - Tuy vậy, con kia, Kate Stringer ấy mà, ấy cũng vẫn còn sống đấy thôi?

      - Chưa chắc. Mấy ông bác sĩ đều bảo ấy thể cứu chữa được.

      - Tôi nghe như câu hát cổ có đến con quái vật, phải ?

      - Vâng. Câu hát ấy thế này:

      Linh hồn quái vật Dannow

      Kiếp nổi kiếp cùng dòng giống

      Con quái mà còn cứ sống

      Dòng Hammond thịnh lâu dài

      Con quái mà tắt được hơi

      Dòng họ Hammond tuyệt diệt

      Cầu cho yên lành mà chết

      Kẻ gặp thấy quái Dannow

      Gặp mà vẫn chẳng làm sao

      Sống cực bằng muôn cái chết.

      Luna lẩm nhẩm :

      - Lạ thực! “Con quái vật mà còn cứ sống chừng nào họ Hammond còn thịnh vượng mãi”. Thành thử cái họa cũng là cái phúc rồi chứ sao? (Ngừng lát, lại ). Tôi đọc nhiều bài khác nhau đến những lúc nó lên. Trong số đó có bài quả quyết rằng trong tòa cổ thất Dannow có phòng bí mật, phòng ấy ở đâu và có những gì, người nhà giữ rất kín, chỉ đợi khi nào người con kế tự đủ hai mươi lăm tuổi mới cho biết. Bài ấy lại bảo rằng cái việc giữ kín kia ghê gớm quá chừng, đến nỗi có ai dám tiết lộ.

      Swanhild muốn ngắt lời, nhưng Luna Bartendale đưa tay ngăn lại và tiếp:

      - Theo lời tục truyền trong dân gian người ta vẫn tin rằng ông thủy tổ dòng họ Hammond kết ước với ma quỷ để cho con cháu về sau kế nghiệp làm chủ nhân Dannow cho đến ngày Phán Xét sau cùng (#3) mà mình được sống khá lâu, đủ thời giờ để thấy thành hiệu điều giao ước đó. Chính ông cụ tổ này ở trong cái phòng bí mật và nhiều lần đúng tuần đúng tiết, đem hy sinh mạng người để cho tuổi mình thọ lâu. Tóm lại, nghĩa là theo ý tưởng kia chính cụ thủy tổ nhà là con quái vật đấy.

      Swanhild cũng nhận ra lời bàn ấy là đúng. Nàng :

      - Vâng, trong dân gian họ quả có tin là như thế thực. Họ cho rằng ông thủy tổ ấy vẫn thành hình thể ghê sợ gớm ghiếc đến nỗi ai trông thấy cũng phải quyên sinh. Nhưng có điều này thực chắc chắn: là có phòng bí mật nào đâu. Tôi thường vẫn đến cái phòng người ta tưởng đâu là bí mật nhiều lần rồi.

      Miss Bartendale lại :

      - Người ta lại kể chuyện rằng, có từng hồi thỉnh thoảng nhà này lại sinh ra thú vật nửa người nửa thú và vật ấy giấu kín trong lâu đài. Cứ mỗi lần trông thấy cái vật quái dị ấy là lại có những thảm kịch ghê gớm xảy ra. Cố nhiên đó là những chuyện vừa rồi người ta bịa đặt ra rồi lan truyền khắp nơi để làm thỏa cái lòng thèm khát chuyện kỳ quái của quần chúng; tuy vậy ta cũng phải xét đến. còn biết những điều gì khác về việc này nữa ?

      - Còn. (Swanhild to lên). Mà lại là những lời độc địa hơn cả: người ta đồn rằng nhà Hammond có những trùng hút máu mà tự những người ấy ngờ rằng khi người trong họ này chết non cái hồn quỷ – quỷ nhập trong người ấy – thoát ra mà trở về Dannow. Mà… họ lại bảo rằng…

      tức giận đưa lên tận cổ, nàng ngừng lại nghẹn ngào, Luna vội hỏi:

      - Họ bảo sao?

      - Họ bảo rằng chính là Reggie, cả tôi! mới chết được ba tháng nay!

      Nàng rồi ôm mặt khóc. Luna khẽ kêu lên:

      - Ba tháng! Tức là cái kỳ hạn…

      - Vâng. Mà người trong vùng đó ai cũng tin chắc như thế. Sau khi ông tôi chết, họ bảo rằng chính người tôi, tức là người con út của ông tôi bị nạn săn chết về mùa thu trước năm ấy… họ bảo rằng chính tôi giết chết người đàn bà với người lính gác ở trong rừng. Việc quyên sinh của ông tôi cũng chỉ khiến cho họ càng tin chắc chắn điều đó.

      Luna Bartendale âu yếm nhìn Swanhild. Trong đôi mắt đẹp vẻ thần tiên của nàng, trước ánh sáng dịu của buổi mai, điểm đồng tử mở rộng ra như ở đôi mắt mèo trong bóng tối. Nàng dịu dàng :

      - Tôi còn lạ gì những điều người thôn quê họ vẫn tưởng tượng. Ở nhà quê tôi bây giờ vẫn còn cái lệ cũ: bảy năm lần người ta đem quẳng xuống sông con vật còn sống để cúng con ma tên là Peg ÓNell… Cố nhiên, về chuyện nhà cái thói dị đoan kia cũng làm cho ông phiền muộn lắm đấy nhỉ?

      Swanhild sốt sắng đáp:

      - tôi lúc nào cũng chỉ quan tâm về những chuyện này. Cha chúng tôi chết ở ngoài trận, mẹ chúng tôi chẳng mấy chốc cũng lại chết theo. Hai em tôi thành trơ trọi ở đời, họ hàng chẳng còn ai nữa… Mà, tôi cũng hiểu tại sao lại đem chuyện nhà tôi ra làm bận tai thế này?

      - Đó là vì tôi được lòng tin cậy của đấy. (Luna đổi chuyện). Chẳng hay ngoài khu rừng cây ra con quái vật kia có bao giờ hiển ở nơi khác ?

      - Có ạ! Ngày xưa Oliver Hammond là cụ thân sinh ra ông cụ Godfrey Hammond tu, với con bị con quái vật giết chết trong cuộc viếng nhà thờ ở Rocamadour. Hồi ấy Godfrey Hammond cùng với cha và em , trông thấy việc ấy mà chết, rồi về sau mới hãm mình trong đời tu hành.

      - Tại sao con quái vật chỉ ra những đêm mùa rét nhỉ?

      Swanhild đáp:

      - Có bài hát khác đến điều đó. Bài hát thế này:

      Ở đâu thông mọc um,

      Đêm sao, lạnh và rét.

      Gia trưởng nhà Hammond,

      gặp phải lúc chết.

      Luna lại :

      - Xét cho cùng tai họa chỉ nhè giáng xuống những người làm chủ nhân của khu trang trại kia thôi. bao giờ thấy con quái vật ở ngay trong lâu đài chứ?

      - Có đấy ạ, có lần. Người gia trưởng hồi ấy là sir Magnus Pháp sư, cháu cụ Hammond tu.

      - Có phải sir Magnus chính là nhân vật trong những chuyện dị đoan truyền lại đấy ?

      - Vâng, chính phải đấy. Sir Magnus thường làm những phép phù thủy trong cái phòng bí mật – phòng này có cửa sổ ngay dưới bóng thông. Tôi nghe lại rằng ông cầu được con quái vật giúp phép rồi luyện tập theo cách bảo ban của nó; ông cụ lại hy sinh đứa cháu của mình để tạ Ơn. Có nhiều người lại quả quyết những: nào ông cụ bán hồn cho quỷ Satan; nào ông cụ cử hành những ác lễ, những cuộc thuật; nào ông cụ giết những trẻ làm lễ vật, hoặc nữa cho con quái vật bắt sống những trẻ ăn thịt, thôi đủ các lời độc địa bàn ra vào?

      Luna ra chiều hết sức chăm chú đến các điều đó. Sau cùng nàng hỏi:

      - Về sau, cái chết của cụ Pháp sư ấy ra sao?

      - Ông cụ tự tử sau khi bà vợ bị chết cách tàn ác: chính mắt bà này trông thấy con quái vật giết chết và ăn thịt con bà. Ông cụ tự tử rồi người nhà đem táng trong nhà thờ. Bọn dân quê ở vùng Dannow, người vẫn tin rằng vong hồn ông cụ làm cho những người trong dòng họ Hammond hóa ra trùng hút máu; kẻ bảo rằng ông cụ chết rồi, quái vật vẫn sống và ở ngay trong cái phòng bí mật.


      Chú thích:

      (1-) Chiến sĩ quân Thập tự: Chiến sĩ Thập tự là những người sung vào đội quân chinh phạt của khắp châu Âu hồi thế kỷ thứ XI để chiếm lấy thành Jérusalem của dân Hồi. Họ lấy hình Thập tự giá đính chiến phục để làm dấu hiệu, nên gọi là quân Thập tự.

      (2-) sir Oliver Hammond: Tuy trùng tên họ, nhưng nên lầm với Oliver, Swanhild.

      (3-) Ngày Phán Xét sau cùng: Tức là đến lúc tận thế, người ta đều chết hết, khi ấy cùng đến trước tòa án (tòa Phán Xét) để nghe Thượng Đế (đức Chúa Trời) tuyên án về những phúc và tội của mỗi người trong lúc sống ở trần gian. (Theo tin tưởng trong đạo Cơ Đốc).





      Jessie D. Kerruish


      Con Quỷ Truyền Kiếp


      Dịch giả: Thế Lữ


      Chương 7


      CHIỀU THỨ NĂM



      Miss Bartendale trầm ngâm lát, cằm đặt lên lòng bàn taỵ hồi lâu, :

      - bao giờ có khói mà có lửa, ít khi những chuyện truyền khẩu lại có dựa lên có thực nào. Mà, cái phòng bí mật kia…

      - được thấy cái phòng ấy. Chỉ có em nhà tôi là được vào đấy, sợ cho tôi tớ vào chúng làm khác chỗ những thứ trong phòng.

      - Những thứ nào trong phòng?

      - Những pho sách, những bình hóa học của cụ Warlock để lại trong ấy, khác nào như thứ phòng thí nghiệm. Lúc ông cụ hấp hối, có trối lại rằng cái chìa khóa bí mật, sau này tìm thấy ở đó.

      Luna mở to mắt, ngạc nhiên:

      - Thế mà bốn trăm năm trời nay vẫn ai khám phá được điều gì! Thế căn phòng có còn y nguyên các thứ ?

      - Ngoài vài cái bị bọn quân lính của Cromwell(#1) lấy mất hay làm vỡ hồi họ đóng binh trong lâu đài Dannow, còn ai đụng chạm tới những vật ở đâu vẫn ở nguyên đấy. Theo lời bà Blavatsky và sir Williams Crookes có lẽ bọn quân lính lấy mất hoặc hủy hoại mất những dấu tích cốt yếu nhất rồi.

      - Nếu thế đến tôi, tôi biết có được may mắn hơn ?

      Swanhild bàn góp:

      - Từ 1890 đến nay, vài khoa học chuyên môn cũng tiến được nhiều rồi.

      Luna trịnh trọng gật đầu:

      - Có thế. Bà Blavatsky là nhà thần linh học, còn tôi, tôi là nhà siêu linh học kia!

      - Siêu linh nghĩa là gì ạ?

      - Nghĩa là tôi có giác quan thứ sáu(#2)rất sắc sảo và nhờ giác quan ấy tôi có thể tìm thấy được dấu vết con quái vật trong rừng.

      - Nhưng giác quan thứ sáu là thế nào?

      - Đó là trực giác. Hẳn cũng có lần tự nhiên thấy lòng mình gớm sợ, ác cảm ngay với vài người rồi, mãi sau, biết người ta hơn, quả nhiên thấy mình nghĩ lầm, có phải thế ?

      - Vâng, chính thế đấy.

      - Đó là nhờ giác quan thứ sáu của báo cho biết trước đó. Cái trực giác của ta kia chính là cái ý niệm về hòa đối trong cuộc đời, về , công bằng, minh bạch ở đời. Khi nào người ta ra khỏi cái cõi phải, và minh bạch ấy hoặc bằng lời hoặc ở trong tâm ý hoặc nửa lộ ra diện mạo bề ngoài, khi ấy tức khắc có ngang chướng mà ta nhận thấy được ngay; những ý nghĩ sâu xa, tính khí ưa vật dục, hay cái số chết về tai họa, đó là những điều làm mất hòa đối – mất hòa đối hay ngang hướng ấy, nếu gặp ở nhân vật nào là chúng tôi cảm thấy được ngaỵ Nhà thần linh học có khiếu riêng về mặt này, cũng như những người khác có khiếu riêng về hội họa hay về nhạc. Vậy, nếu đêm vừa rồi, có xảy ra trong rừng việc kỳ quái nào, chuyện phi thường nào, tôi có thề tìm ra được dấu vết (Luna hỏi tiếp). Thế, lúc tìm trong rừng, ngoài ông con tên Kate, con chó còn đánh hơi giúp cho thấy được cái gì khác nữa ?

      - , tôi nhận thấy gì lạ hết. Chỉ thấy con chó lúc được ra khỏi rừng có vẻ bằng lòng lắm.

      - Trong câu chuyện ông kể lại có chỗ tôi lấy làm lạ: là con chó theo ông ấy sao sủa báo trước cho chủ biết rằng kẻ thù tiến tới gần?

      - Trời! Quái lạ thực.

      Gođard vẫn lẳng lặng cầm lái từ nãy giờ, lúc đó bỗng quay đầu lại:

      - Vâng. Quái lạ thực. Nhưng ta nên nhớ rằng lúc Oliver thuật câu chuyện trong trí được bình tĩnh. ấy quên sót vài điều cũng nên.

      - Hẳn thế.

      Rồi Luna lại đăm đăm suy nghĩ hoài. Swanhild yên tâm được, lo ngại hỏi nàng:

      - Theo ý bây giờ việc này thế nào?

      Luna đáp:

      - Việc điều tra của tôi chắc khó nhọc lắm đây. Tôi xem chừng bí mật kia khám phá ra được cũng chỉ do việc nhặt xảy ra trong khoảng vài ba trăm năm trước, việc nhặt ấy ta phải tìm để biết xem là việc gì. Tôi thực lòng mong rằng ông có thể cho tôi biết rằng con chó của ông ta có báo trước cho ông ta biết hay , bởi vì dù là biểu , con chó cũng phải coi chừng chứ!

      - Mà nếu biết điều ấy thấy được những mối manh gì?

      Luna trầm ngâm đáp:

      - phải chỉ có bốn chiều(#3) đâu, ạ.

      - Ra thế kia đấy!

      - Khoa chiêm tinh học ngày nay được hầu hết các nhà triết học tân tiến nhất công nhận. Phần tôi, tôi cũng khảo cứu về khoa học này cách riêng. Miss Hammond! Cái hình ta trông thấy kia kìa, có phải là “thằng người khổng lồ” đấy ?

      Dãy núi mặt tây bắc, dựng đứng như thành, từ từ tiến đến trước mặt ba người như trùng sống vĩ đại. Xe hơi lên tới dốc, lọt qua đường rẽ và sau cùng trông thấy phía làng xóm và chỗ đất cao.

      Gođard vừa hãm đà xe vừa chỉ tay :

      - Khu rừng kia kìa, miss Bartendale ạ!

      Luna đứng dậy để trông cho dễ, còn Swanhild nhìn đám cây rừng, ngờ vực như trước cảnh chiêm bao. Nắng chói khắp mặt cao nguyên: đỉnh đồi nổi bật nền trời xanh mờ ám. Những dải suối loáng biếc như thép sáng. Cây lá lặng lẽ giọt vì nắng ấm làm tan hết giá băng.

      Gần lối , lặng lẽ từng đám người nhà quê khiếp sợ, lãng quên trong chốc lát những công việc thường ngày. Phía bên kia thung lũng và ở tận đầu con đường hẹp, chiếc xe hơi đỗ ngay ở mép rừng. Cạnh chiếc xe hơi có hai người đứng chờ: người cao lớn nhất trong hai người, đầu và tay bị băng bó.

      Gođard lái sang ngang và cho xe chạy vào con đường hẹp trong lúc Swanhild kinh ngạc kêu lên:

      - Oliver bỏ nhà ra đây, kìa! điên rồ thực.

      Xe chưa đỗ hẳn Swanhild chạy ngay lên; đằng kia nàng cũng vội vã đến đón. Thái dương và bên mặt chàng bị vết thương trông rất ghê sợ nhưng chàng vẫn ra vẻ khỏe mạnh như thường.

      Chàng lớn tiếng gọi:

      - Swanhlid! Em đừng trách nhé, mà cũng đừng lo sợ gì nữa, nhớ gì về những việc trông thấy tối quạ Lúc nãy thức dậy, bác sĩ rằng vẫn khỏe mạnh… tội nghiệp cho con Holder quá, nỡ để nó suốt ngày trong rừng này được… này, Swan, người cùng em kia là người tìm mạch suối đấy, phải ?

      Swanhild cảm động ôm lấy nàng rất khắng khít. Giá có người ngoài ở đấy, dễ nàng nức nở khóc cũng chừng. Nàng quay lại giới thiệu:

      - Oliver tôi đấy, miss Bartendale ạ.

      Oliver vui vẻ :

      - đến vừa dịp quá! (Chàng đưa tay trái bắt tay Luna). Vừa thoạt trông thấy , tôi ngửi thấy cái hương cỏ thơm mới cắt.

      Luna mỉm cười vẻ khoan dung như bác sĩ muốn làm phật ý người ốm. trả lời:

      - hai năm nay, tôi dùng thứ nước hoa đó nữa đâu.

      Chàng đáp:

      - Tôi nhớ được lâu thực. Hồi ấy, khăn tay của bao giờ cũng thơm thứ nước hoa ấy. (Quay lại phía em , chàng bảo Swanhild): Em đừng tưởng vớ vẩn, thế là vì trước kia gặp miss Bartendale, mà chính Bartendale chữa cho khỏi mất trí đấy.

      Luna ra vẻ ngẫm nghĩ, vừa nhìn Oliver vừa thấp giọng :

      - Hồi hai năm về trước tôi có được bổ vào làm việc trong nhà thương Sloane-Shell. Thế ra hồi ấy ông nằm chữa ở đấy sao?

      - Vâng. Nhưng sau tôisẽ cho về chuyện này. Hồi ấy là vị phúc tinh cho biết bao nhiêu người cùng lớp với tôi, nhiều thế nhớ sao được hết. Nhưng họ chẳng bao giờ quên đâu.

      có vẻ ngạc nhiên cho tình cờ và đáp:

      - Vâng, càng haỵ Bây giờ , ông Hammond ạ, công việc của tôi là ở trong rừng kia. ( nhàng gỡ tay mình ra khỏi bàn tay Oliver giữ lại trong lúc chàng chuyện. Rồi hỏi) Bệnh tình ra sao?

      Sắc mặt Oliver bỗng sầm ngay xuống:

      - ấy mê sảng, luôn miệng rằng vật “lù lù to bằng cái nhà” xông đến hại mình. Xem chừng ta thể cứu chữa được nữa.

      - Ông còn điều nào thêm vào những lời ông thuật lại chứ?

      - còn điều nào. Các lời tôi , bác sĩ ghi chép cả, tôi cũng đọc lại hết rồi, có chỗ nào thay đổi hết.

      - Vâng, thế được. Ta vào trong rừng ! Giá từ lúc xảy ra các việc chưa có ai bước chân vào hay, nhỉ.

      - Nhưng Warren lại vào trước mất rồi. ấy kia, kìa!

      Chàng trỏ tay về phía người to lớn và còn trẻ, mình mặc quần áo săn. đứng chuyện với Gođard, vẻ mặt lầm bầm. Oliver cắt nghĩa:

      - ấy là vị hôn phu của Katẹ mực cho hung thủ chính là em nhà Ades và chỉ muốn chúng phải chịu tội. Để ta lại các điều cho nghe. Ê này, Warren!

      chàng bước lại gần hai người. Mặt sọp hẳn và sắc lại vì căm giận. mang tấm chăn ngựa và cây súng trường. Luna :

      - Tôi cứ muốn được vào xem xét khu rừng trước khi chưa có ai vào.

      nhìn nàng vẻ buồn chán:

      - Xin bà thứ lỗi cho, là vì tôi tưởng vào đó hại gì và ngờ trái ý bà… Chả lúc ấy trời chưa sáng mà cái thằng đồ khốn là thằng Will vào kháo chuyện khắp làng, mà nó gì là những thằng ngu ngốc liền kháo lại đúng như thế. Chúng nó bảo nhau: “Từ ngày ông cả Reggie mất đến nay, lần này trời mới có tuyết đọng là !”.

      Gođard vội ngắt:

      Chàng mỉm cười với Swanhild, lo ngại, nhưng Warren cứ nữa:

      - Tôi hiểu thế này là phải lắm, song tôi phải thực, bổn phận tôi là phải cả cho ông Hammond biết những lời người ta thầm bàn ra vào. ( nén giận, tiếp) Chúng dám ông Reggie! Mà ông Reggie cùng đăng lính với tôi với cả ông nữa, ông Oliver nhỉ! Hồi ở mặt trận Cambrai, trong bình sắt còn nửa nước uống, ông ấy nhường cả cho tôi, rằng chính ông ấy uống hết nửa trước rồi! Thế mà tôi cũng xin nhận tôi uống, ngờ ông Reggie dối để tôi yên lòng! Đến bây giờ em Kate của tôi gặp thảm họa này chúng nó cũng chưa vừa lòng, chúng còn tìm cách đổ tiếng xấu cho ông Reggie nữa!

      phải cố sức mới giữ được bình tĩnh để tiếp:

      - Vì thế, tôi mới qua lối trong rừng, tra xét dò hỏi về bọn Ades. Rồi sau ông Hammond cùng với tôi trở vào rừng định để đem con chó của ông ấy về nhà.

      Swanhild hỏi:

      - Thế về em nhà Ades, hỏi được những gì?

      - Thưa , thằng Charlie què chân, nằm bẹp chỗ, còn thằng Joe bị trận nên thân. Chúng nó đánh nhau với lão Miles, bác gác ở cho ông Hudson: hai đứa say rượu nhưng đêm tối, lão Miles nhận ngay được mặt chàng.

      Luna :

      - Ta cố nhiên phải liệu trước cách phân giải những việc xảy ra ban đêm.

      Nàng mở túi xách lấy ra cành cây(#4) có ngạnh và cầm lủng lẳng trong taỵ Gođard hỏi:

      - Cành cây tìm mạch đấy, phải ạ?

      Luna đáp:

      - Cành này tìm được mạch nước, mà cũng tìm được cái khác nữa kia.

      Nàng bảo con chó theo nàng:

      - Ngồi xuống, Roska!

      Con chó lớn vâng lời ngay.

      Luna cầm lung lẳng cành cây trong mấy ngón tay, người đứng thẳng, mặt ngẩng lên, đôi lông mày chíu lại. Nàng quay mình vòng tứ phía ngừng chân. Mớ tóc vàng lục với khuôn mặt trắng xanh của nàng là những khoảng sáng đơn trong vừng bóng ban ngày, mờ xám. Cây lá rủ dương tàn rợp ở đầu nàng và phía sau Luna, người ta thấy những điểm mạ kền của mấy chiếc xe hơi bóng loáng. Cạnh xe, mấy người đàn bà nhà quê sán gần lại, chăm chú nhìn Luna, mắt xanh sáng những bộ mặt rám nắng màu nâu.

      Swanhild cảm thấy cách kỳ dị như được mục kích cảnh tượng kia lần nào: những quả đồi vắng lặng, hình thằng người khổng lồ vươn lên khoảng núi, với thứ bóng mập mờ quanh người đàn bà lặng lẽ niệm chú kia, tất cả mọi vật nàng thấy như đều quen thuộc cả.

      Chú thích:

      (1-) Cromwell: Bậc vĩ nhân nước 1599 – 1658-), người gây ra cuộc cách mệnh lớn nước (1645), rồi chiếm lấy quyền độc tài trị nước

      (2-) Giác quan thứ sáu: Thêm vào ngũ quan: trông nghe, nếm, ngửi và sờ mó, của người thường

      (3-) Bốn chiều: Chiều rộng, chiều dài, chiều sâu và chiều thời gian

      (4-) Cành cây: thứ cành rất mềm, mà những người có khiếu riêng bên Âu châu vẫn dùng để làm vật báo hiệu trong lúc tìm mạch suối ngầm để đào giếng. Cành cây này ở trong tay họ, người ta cho là có tính cách dễ cảm động, khiến cho khi gặp mạch ngầm dưới chỗ người ta tìm mạch, tự khắc cong nhánh lên để báo hiệu. nay vẫn còn nhiều nơi sử dụng cách này





      Jessie D. Kerruish


      Con Quỷ Truyền Kiếp


      Dịch giả: Thế Lữ


      Chương 8


      CHIỀU THỨ NĂM, GIÁC QUAN THỨ SÁU



      quay vòng, Luna bỗng dừng lại, chân dặm hoài lát mặt đất, rồi sau cùng ngừng im: nhánh ở cái cành nàng đương cầm choãi ra, như ngóc lên, ưỡn mình thẳng ngang và cứ ở nguyên như thế mãi. Nàng bèn cúi mình nhìn xuống chỗ đất ẩm ướt: cỏ ở đây đẫm những máu đông lại. Swanhlid nhận ra nơi đó là nơi mình đặt Oliver nằm lúc ở trong rừng ra.

      Luna Bartendale tiến bước vào cái lối dẫn đến chỗ cây cối quang rộng, qua chỗ đó và tiến nữa lên. Bọn người cùng (cả con chó Roska nữa), bước theo sau nàng. Cành cây choãi nhánh lên rồi lại xuôi xuống. Đến khi Luna bước tới lối dẫn đến khoảng quang rộng thứ hai nhánh cây nghiêng trở về phía tay phải. Oliver gần nàng hơn cả, thấy thế kêu lên tiếng “Ồ!” ngạc nhiên. Luna chăm chú nhìn con Roska lúc ấy hít ngửi vũng máu thứ nhất.

      Xa chút nữa, những dấu vết thẳng hàng, ăn ngoằn nghèo theo những vết máu rải rác., mà mỗi khi tới gần, cành cây trong tay Luna lại lủng lẳng lúc. Nhưng đến khi tới cạnh thây con chó Holder, cành cây ngoáy tít hẳn lên.

      Oliver thở tiếng dài buồn bực và tức giận.

      Luna nhìn cái thây con vật rồi nhìn chủ nó vẻ dịu dàng, rồi lại bước lên. Qua chỗ gốc cây lớn, là chỗ Swanhild đêm qua tìm thấy , Luna lại do dự, hai chân dặm nhịp đất, rồi đến bên cây thông sét đánh quanh vòng. Cành cây chỉ cử động có lúc cái lối mà vừa rồi mấy người quạ Những nhành gai chi chít quấn phủ thân cây, ken khít đến nỗi chỉ có giống rắn mới có thể chuồi qua mà làm tuột xuống.

      Luna lẩm nhẩm :

      - Kẻ thù kia, chẳng biết theo đường nào mà đến, rồi lại theo đường nào mà ?

      trở gót bước về, ngừng lại ở đầu mỗi lối. Cái cành mềm trong tay thấy cử động nữa trừ khi tới chỗ thây con chó nằm. Oliver ngay:

      - còn quên cái lối trước nhất mà Kate với tôi cùng đến đây…

      ngoảnh nhìn người thanh niên, đôi mắt mở to, đen láy, thầm – vẻ nhìn buồn và êm dịu.

      - , ông ạ, tôi có ý tìm những dấu vết người thường đâu. Từ nãy tới giờ tôi chỉ thấy có tang chứng quan trọng là những vết máu mà thôi.

      Nàng chỉ thây con chó:

      - Ông làm ơn bảo người đem để riêng nó nơi để rồi tôi có thể xem xét lại được ?

      Swanhild hỏi:

      - Nhưng xem xét con chó làm gì?

      - Để may ra tìm được những dấu hiệu gì, có thể giúp tôi biết kẻ giết nó là vật như thế nào chăng.

      Oliver có vẻ tin, chàng hỏi:

      - Thế ra vẫn công nhận có nguyên nhân hữu hình thực tại, trong vụ này sao?

      - Vâng.

      - Dù biết trước rằng con Holder báo hiệu gì cho tôi biết trước.

      Luna gật đầu:

      - Dù thế nữa! Cho cả đến ma quái, vong hồn chăng nữa cũng ra khỏi cái thông lệ của vật hữu hình. Gây nên được những thương tích như thế này vật hiển kia dù ở hạng nào mặc lòng, cũng phải khoác lấy hình thể chắc chắn, cũng phải nguyên hình.

      Theo lời Oliver, Warren gói con chó vào tấm chăn dạ mang theo. lễ phép :

      - Xin bà thứ lỗi chọ Tôi cũng nghĩ rằng cần phải viện đến ma, cũng có thể phân giải được vật này rất dễ.

      Oliver vội hỏi:

      - Ồ! Warren! Thế cứ sức liệu có xé nát con chó lớn như con Holder được như thế này nào?

      - Thưa ông, mình tôi , nhưng hai người đàn ông có thể được lắm.

      Luna lại trầm ngâm lát, rồi sau nàng bàn:

      - Nếu ta bỏ giả thuyết có nhiều hung thủ trong vụ này ta phải đồ rằng án mạng gây nên do giống có sức như con ngựa có bốn chân, khỏe mạnh ghê gớm, lại có thể đến đây và khỏi đây ai biết được bằng cách bí mật nào.

      Warren lại bàn:

      - Hay con khỉ đột lớn cũng nên? Ta phải hỏi xem có con vật nào xổng ra ở miền tây này . Nhưng tôi mong rằng, , hơn, vì tôi còn muốn trả thù.

      - Mọi người quay trở về, yên lặng.

      Luna Bartendale :

      - Ông Hammond, ông nên cho nhà chức trách biết việc này .

      Oliver đáp:

      - Xin vâng. Warren, giúp ông Gođard đem con Holder lên xe, rồi về ngay bên nhà tôi bảo lão Walton để nó vào nơi để rồi miss Bartendale còn khám xét lại. Xong rồi, trình cảnh sát nghe ?

      Khi Gođard với Warren cùng mang cái bọc thảm hại kia , Luna mới :

      - Nếu ta thể tìm được manh mối nào khác, ta vẫn có thể cho vụ án mạng này vào loại vụ án mạng ở phố Morgue trong truyện của Edgar Poe kia mà.

      Olievr hỏi nàng:

      - Nhưng tin chuyện ấy chứ?

      - , nhưng cũng phải lấy chuyện làm quà cho nhà chức trách chứ? Bây giờ, tôi lại muốn thử tìm lần nữa xem.

      , Swanhild, Gođard (lúc ấy xong việc ngoài xe) với Oliver lại quay vào rừng, nhưng Luna vẫn tìm được manh mối nào khác. Đến chỗ phân giới bên kia của khu rừng, Luna đứng lại trước gò thông nhô lên ở khoảng giữa khu rừng và miền bờ bể.

      Swanhild giảng giải:

      - Gò này chính là Gò Sét (Thunder s Barrow), di tích của ngôi lăng huyệt cổ.

      Bốn người cùng lên dốc, Luna ngắm cái hình “Thằng người Dannow” lát rồi hỏi:

      - Cái mô đất kia có liên lạc gì với con quái vật nhỉ?

      Swanhild vừa nhìn vừa đáp:

      - Cái đó tôi được .

      Oliver cũng lắc đầu:

      - Cả tôi cũng vậy. Thực ra, ngày còn bé, chúng tôi được phép nghe những tích về con quái vật, mà về sau, lớn lên cũng có mấy giờ rảnh để lưu tâm đến.

      - Tôi hiểu. Bây giờ xin ông đưa tôi xem những hình ảnh về con quái vật còn trong nhà thờ di.

      Oliver giữ Luna lại lúc nàng toan bước xuống:

      - Miss Bartendale, cho tôi hỏi câu . Vừa rồi, ở trong rừng, tìm thấy dấu hiệu huyền bí nào, cũng thấy vết tích tỏ ra rằng có giống thú to lớn nào đến đây… Vậy, nếu vật trần gian nào, lại cũng vật ma nào trong việc này, phỏng đoán cái gì được?

      - Ông Hammond ạ, tôi xin nhắc lại câu thứ nhất tôi hỏi ông: Con Holder có báo trước cho ông để ý đến đến bấy giờ ? Có lẽ vì ông bị ngã choáng đầu nên nhớ được nữa chăng? Nếu quả ông quên – nếu quả con chó tỏ ra dấu hiệu có kẻ lạ tiến đến – chứng cứ rệt: con quái vật nhà ông thuộc về cõi khác, chiều khác: đó là chiều thứ năm. Vì nếu là giống ở cõi trần, hay ở cõi vong hồn chăng nữa, bản năng của giống chó cũng có thể cảm thấy được.

      - Cái cõi thứ năm kia là thế nào?

      - Cả khoa học lẫn tôn giáo đều có quyền lực gì đối với cái cõi đó. Tôi hết lòng cầu mong cho con quái nhà ông phải là giống trong cái cõi này.

      Rồi giảng giải gì thêm, dần dà trở xuống, Swanhild đến bên nắm lấy cánh tay , giọng nài nỉ:

      - Cành cây dò mạch của phải là tìm được đủ mọi thứ. Tuy nó dò được các vết máu đấy, nhưng nên biết rằng ngay dưới chân vừa rồi, có cả thế giới người chết, vậy mà có thấy cành cây ấy động đậy qua tí nào đâu:

      Luna đưa mắt nhìn quanh mình, ôn tồn :

      - Vết máu rơi là đằng, ạ; còn những người chết và chôn cất theo lễ thường mà họ tin thờ lại là đằng khác. Những kẻ chết dưới gò đấy kia vẫn được yên nghỉ, hay ít ra vẫn được yên nghỉ còn ban ngày. Ban đêm có lẽ cái đó lại là chuyện khác.

      ngừng lời và bỗng rùng mình:

      - Ở đây lạnh thực! Thôi ta vào nhà thờ !

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Jessie D. Kerruish


      Con Quỷ Truyền Kiếp


      Dịch giả: Thế Lữ


      Chương 9


      ÂN XÁ LẦN…

      HAI VẠN SÁU NGÀN NĂM VÀ HAI MƯƠI SÁU NGÀY



      Bốn người thong thả xuống dãy phố đầu làng. Trời lạnh dần dịu. Gió thổi chỉ thoáng , đẩy dồn những dải sương mỏng phớt trong thung. Từ lối này trông xuống, thấy mập mờ những lớp nhà ở sau những khu vườn lưa thưa. Bên kia xóm làng, vì đồi núi cản đường, lớp sương mù chập chờn bay trở lại.

      Bốn người khiến mấy con chó ngồi lại trong xe rồi cùng tiến lên lối có những tấm bia mồ xây hai bên cạnh; lối dẫn đến cửa nhà thờ. Nhà thờ dựng khu đất cao như gò, cây mọc chung quanh sầm uất và cách xa làng xóm năm trăm thước.

      Trong miền như ở đây, hiếm gì những cảnh thi nhân tả. Người ta thường thấy “những nhà thờ tịch, bé ở nơi bờ cát, nguyện cầu cùng đấng dựng nên các núi non”. Kiến trúc theo lối nào, cửa phần nhiều nhà thờ xây kiểu gô-tích, lòng nhà thờ theo kiểu cổ điển bản xứ và những hàng lang trở lại theo kiểu normand.

      Nhà thờ Dannow này lại ra vẻ cái nhà kho nghèo nàn, duy chỉ có những ngôi lăng mộ nguy nga của dòng họ Hammond làm cho có bề thế. vùng bóng tối sâu thẳm lạnh lùng. Swanhild thắp đèn lên soi, còn Luna lặng lẽ và trang nghiêm khởi công xem xét. Dải ánh sáng mỏng manh ở chiếc đèn chiếu qua lượt những tên khắc đá lấp lánh rồi lại lần lượt biến ngaỵ Và lần lượt lên tượng người Thập tự binh trong khung ổ(#1), rồi những hình tạc ở dưới đất, và tường – những tường đá họa chân dung Warlock và bà vợ – lên giữa quang vinh lộng lẫy những nét chạm trổ uốn éo cùng những biểu thếp vàng. Rồi đến cái bàn thờ trong bóng tối ra với bản chép lai bức tranh dầu của James Clarek cùng tấm bia ghi nhiều tên họ Ở giữa những vinh hạnh của những hình lá kết chung quanh.

      Luna qua tiếng, bao nhiêu chăm chú dồn cả đôi mắt mở tọ dạo lượt khắp lòng nhà thờ, dừng gót trước bàn thờ rồi lại đến đứng trước bức hình tạc nổi mà Swanhild trước. tỉ mỉ đưa ngón tay sờ theo các nét tròn rũa ở mình cái vật nằm dưới chân người Thập tự binh.

      thấp tiếng xuống :

      - Kỳ dị lắm!

      rồi Luna lại chăm chú xem xét. trầm ngâm trước tấm biển đồng gắn vào mặt tường: biển khắc tên Reginald Hammond, mệnh chung năm 1918.

      Đoạn ta quay lại :

      - Ta thử đến xem bức chân dung cụ tu xem có biết thêm được gì về bốn chân của con vật kỳ dị này , !

      Bức chân dung khắc trổ phiến đá đóng kháp liền mặt đất. Gođard kéo tấm thảm che mặt phiến đồng lên thấy lộ ra người mặc y phục thầy tu; dưới chân người ấy là con vật dị kỳ thể mô tả được. Bên dưới đó là câu giải thích còn đọc được những gì. Trông con vật cái đầu gần giống như đầu chó, mõm dãi và hai tai vểnh. Mình nó thon ở phần lưng phía bụng, cái đuôi uốn vòng khúc rắn có túm lông ở tận cuối như thường thấy ở đuôi những ma quỷ vẽ trong các bức tranh.

      Luna quỳ xệp xuống, lấy ngón tay lần theo các đường nét khác. bảo những người theo:

      - Con vật này xem ra như có bốn chân. Xưa kia, những tài liệu về vạn vật thường thiếu sót, được rệt, các họa sĩ ngày trước chỉ hay lấy kiểu giống chó dùng vào tác phẩm mình. Song, ở đây, cái đuôi thực lạ lùng, mà những cái chân kia, … Hừm! Thực là khó hiểu quá!

      Oliver và Swanhild theo đến xem chỗ mộ đá táng Warlock. Ở đấy, sừng sững hai bức tượng vị tu và người vợ, mặt mày nghiêm nghị, y phục cứng thẳng, bàn tay chắp lại trong dáng cầu nguyện từ bốn thế kỷ naỵ Swanhild bảo Luna để ý nhìn cái hình đứa bé nằm cái sọ người chết.

      Oliver giảng:

      - Theo lời người vùng này, đứa bé là trong những kẻ bị thí mạng cho quỷ Satan. Nhưng chính thực ra đây là đứa con của Warlock. Kìa, đứng dậy ! (Chàng thấy Luna vừa quỳ vừa lê gối để xem kỹ những phiến đá lát dưới phần mồ). đừng quỳ như thế nữa!

      ngoảnh lên, mỉm cười:

      - Tôi thử tìm xem có đường nào để trong mồ này được .

      - Trời ơi! Chẳng lẽ lại cho rằng ban đêm Magnus ở trong này ra ngoài được sao?

      - Tôi chỉ coi thường các điều trong những truyện truyền lại.

      gấp gối ngồi tì gót rồi mở túi lấy cái cành cây ra. Nhưng thấy nó động đậy. đứng lên :

      - Cụ tu lúc này xem chừng được yên nghỉ.

      Swanhild chỉ những hàng chữ tấm bia mồ bảo :

      - Thế kia có dám chắc ông cụ được yên ổn thực ?

      Tấm bia ghi tên Warlock và tên vợ cùng với ngày tháng hai người mệnh chung: ngày 8 và ngày 10 tháng hai năm 1526. Và phía dưới những hàng chữ này:

      Ân xá đọc năm kinh Pater (Lạy cha) và năm kinh Ave (Kinh mừng) và kinh Credo (Tin kính) là hai vạn sáu ngàn năm và hai mươi sáu ngày.

      Swanhild cắt nghĩa thêm:

      - Hai vạn sáu ngàn năm với hai mươi sáu ngày lửa luyện tội(#2)ân xá cho kẻ nào đọc những kinh này để chỉ cho linh hồn ông cụ bà cụ.

      Luna gật đầu:

      - Vâng, quả có nhiều ý tứ trong lời đó thực.

      Oliver hỏi:

      - Nhưng có tin rằng cách ấy có được như nguyện gì ?

      - lòng tin tưởng chí thành bao giờ cũng được như nguyện, nhưng tôi tin ở hiệu lực cái lời hứa tiền trao cháo múc. Dẫu sao, những lời ghi bia này cũng kỳ dị, bởi lẽ rằng hồi ấy, ân xá lâu dài đến thế là việc bất thường. Chẳng biết ông cụ Warlock phạm tội ác nào đến nỗi phải dụ người sau bằng câu hứahẹn tốt đẹp đến thế để mong chuộc tội.

      Swanhild nhắc:

      - Hay tại cái chết của bà vợ và của đứa con.

      Luna bĩu môi lắc đầu. Đôi mắt nàng lại long lanh như trước. Mớ tóc sáng với khuôn mặt linh động của nàng nổi lên màu xám mờ của những phiến đá mà nàng tựa lên với vẻ trầm ngâm. Tiếng nàng vang lên trong bầu yên lặng.

      - Cụ Warlock sinh ra đời, con quái vật cũng làm được nhiều tội ác từ trước rồi! Vậy ông cụ phải chịu trách nhiệm nào về những việc xảy ra sau hồi đó, những việc xem ra thể nào tránh được. Ông cụ sau này vốn là người có gan khinh thường phép đạo đến nước dám học tập làm những tà thuật mà hội thánh vẫn nghiêm cấm; ấy thế mà phải kêu cầu lấy ân xá, tất nhiên ông cụ tự biết mình phạm thứ tội nào khác, tội có tính cách khác hẳn kia!

      Swanhild vội hỏi:

      - Thế, nghĩa là thế nào?

      - Nghĩa là… cái bia này làm chứng rằng, những lời người ta bảo cụ Warlock thí nhiều mạng người để cúng con quái vật, phải là những lời ngoa. Nếu ta cứ chỗ ấy mà tìm được manh mối về việc này chắc ta dò la được con đường chính của bí mật.

      Gođard gặng:

      - Nếu tìm được?

      - Phải, nếu tìm được. Thế mới phiền!… Vì theo những điều các ông cho tôi biết lúc nãy, trong cái phòng giữ kín cũng còn mấy tí những vật giúp ích cho ta, phải ?

      - Vâng, tôi tưởng cũng còn mấy. tóm lại, cho rằng con quái vật chính là con quỷ mà cụ Warlock phụ lên rồi cứ thế mà thành hình sống mãi cả sau khi cụ Warlock chết phải ?

      - Ấy là theo lời tục truyền như thế đấy. Dù sao, cầu van xin ân xá ý nghĩa vẫn rành rành ra đấy, mà cái bức ảnh tượng kia

      Nàng ngừng lại, đưa mắt về phía giữa nhà thờ.

      Sanhild lo ngại hỏi:

      - sao kiả thấy điều gì đáng quan tâm trong đó?

      - điều mà tôi thể hiểu được. Lúc nãy tôi muốn bận trí về điều ấy vội, tôi hãy trở lại xét việc cụ Warlock xem . Chẳng biết ông cụ phạm thứ tội ác quái gở nào đến nỗi phải cần ân xá cứu chuộc? (Vừa lẩm bẩm , vừa nhìn bức tượng ở ngôi mộ). Ông cụ có vẻ độc ác, trông chỉ nghiêm nghị là cùng. Dù sao, xem chừng ông cụ vẫn được yên nghỉ, mà thế

      Swanhild, là người khôn lớn trong cái nơi người ta tin tưởng rằng “người chiến sĩ can trường vẫn được hưởng ít nhiều xá tội”, thấy vậy liền cãi:

      - Ông cụ đánh trận ở Bosworth, giữ chức hiệu cờ cho vua Henry thứ VIII, và được phong hiệp sĩ chiến trường. trông kia kìa, mũ giáp và gươm của ông cụ treo tường kia.

      Oliver ôn tồn:

      - Ồ! Swan! (Giọng chàng có ý trách móc) Swan! Miss Bartendale mà cho rằng cụ Warlock là người phạm tội ác, hẳn thực quả có như thế.

      Luna cũng cãi:

      - đâu, tôi có thế đâu? Song chắc hẳn trong cái hồi từ lúc chiến đấu oanh liệt ở Bosworth đến ngày ông cụ mất, ông cụ cũng có làm những chuyện phù phép tai hại. Thời đại thứ nhất của triều Tudor, cũng như của triều Windsor, việc đáng ghi nhất trong lịch sử hồi ấy là tiến triển trí thức rất mạnh. Nhiều bậc thông thái uyên bác khám phá được nhiều cái bí mật của hóa công. Bên họ, có những trí thức khác, trong óc chứa chất những chuyện ma quái, đâm đầu làm những việc kinh khủng độc ác của thời đại cổ. Ngày nay ta thể tưởng tượng được cái học pháp thuật quyến rũ những bậc thượng lưu trí thức tới mức nào. Mà con quái vật do nhà pháp sư dựng thành hình trần gian có thể sống mãi được lắm và có thể quấy nhiễu con cháu nhà pháp sư sau này… vừa bảo rằng cái mũ này là của cụ Warlock phải ? ( đến bên, đưa ngón tay lên mặt sắt nổi u và tiếp). Mục đích của tôi là tìm thấy chuyện giữ kín của con người đội cái mũ này đây.

      Oliver :

      - Nhưng Warlock chết bốn trăm năm rồi kia mà!

      Luna đáp:

      - Bốn trăm hay bốn ngàn cũng vậy, cũng có gì đáng ngại khi là việc làm cho hai linh hồn người ta giao tiếp với nhau.

      Swanhild hỏi:

      - Thế ra định gọi hồn ông cụ về sao?

      - đâu, em ạ. Tôi hề bao giờ nhúng tay làm cái trò chơi cổ xưa và nguy hiểm là ngồi trong buồng tối mà đợi thấy bóng lên. Bây giờ ta thử vào trong cái phòng bí mật xem có quân lính của Cromwel ngày xưa còn để lại cái gì đáng chú ý nữa nào.

      Lúc qua, Luna lại đưa mắt nhìn các bức hình khắc ở giũa nhà thờ rồi để mặc Oliver với Swanhild cứ ra trước, quay trở vào xem xét bức hình lại lần nữa. Được chừng phút cũng ra theo và ở giữa hai người. có vẻ mệt nhọc nên hai người dám hỏi câu nào. Bỗng lẩm nhẩm :

      - Khiếp! Trời rét quá mất!

      Hai em đưa mắt nhìn nhau. Họ nhận thấy giọng Luna yếu , như là vừa gặp kích động mạnh. Trong cái khoảng mấy giây đồng hồ trở lại xem bức hình khắc kia, nhận những điều gì mà đến nỗi biến đổi hẳn người như thế được?


      Chú thích:

      (1-) Khung ổ: khoảng trống đục vào bề dày của bức tường, để đặt những pho tượng

      (2-) Luyện tội: nơi hành phạt hữu hạn những linh hồn có tội trước khi được lên thiên đàng, khác với hỏa ngục là nơi hành phạt, vĩnh viễn (Gia tô giáo).





      Jessie D. Kerruish


      Con Quỷ Truyền Kiếp


      Dịch giả: Thế Lữ


      Chương 10


      BÀN TAY DANH VỌNG



      Mấy người tới khu lâu đài Dannow sương mù tan hết. Lá leo trùm phủ khắp nơi như bức khăn liệm u buồn. Từ những ống cao mái lầu, khói lò sưởi đưa lên uốn éo vòng vèo dưới bầu trời nhạt sắc. Hào nước men chân bốn phía tường vây, mọc lên đầy rẫy những cỏ cằn.

      Trước khi qua cầu treo, Swanhild đỗ xe lại. Oliver chỉ tay khóm thông cao đứng che khuất phần lâu đài và bảo Luna:

      - Cái phòng bí mật ở ngay sau rặng thông kia đấy. Nếu trời ẩm lạnh tôi đưa xuống xem và thấy cái cửa sổ có song sắt.

      - Thế ra đứng ngoài cũng xem xét được căn phòng ư?

      - . Vì tường dầy những hơn thước, mặt tường ngoài cũng như mặt tường trong đều đục khoảng để làm cửa sổ, nhưng đục xuyên thẳng: khoảng khung cửa sổ phía trong đối diện với khung bên ngoài nhưng chếch hẳn nhau. Cả những khi trong phòng thắp đèn, bên ngoài chỉ trông thấy được tia sáng thôi.

      Lúc đó trong phòng Holbein, lão Walton dọn sẵn mấy món điểm tâm và đốt sẵn lò sưởi; mọi người quây quần quanh lửa ấm trong lúc người lão bộc lấy chìa khóa để rồi mở những nơi cần vào thăm. Oliver xem qua các món ăn và cười:

      - Mụ nấu bếp với người lão bộc nhà này thực là những vị phúc tinh! Những món này chính là những món ăn tôi thèm hôm nay đây! Từ lúc tôi thức dậy đến giờ, các bác ấy sao mà cố công săn sóc đến tôi cách dễ chịu đến thế? Có lẽ họ sợ rằng tôi trốn mất để thắt cổ tự tử ở đâu chăng?

      Swanhild trách:

      - Khiếp! Oliver! chỉ dại!

      - Chứ ư? Mà cả đến cả nữa, miss Bartendale ạ! Tôi thấy cứ chốc chốc lại để mắt coi chừng tôi lúc lâu.

      - Cái đó có gì là lạ? Thế ông chẳng bảo tôi rằng ông với tôi trước kia từng gặp nhau đấy sao? Tôi có ý nhìn ông để cố nhớ xem gặp về dịp nào. Mà kìa, chìa khóa đây rồi!

      Họ cùng nhau vào nơi cổ nhất của lớp dinh thự; mấy con chó thong thả theo sau. Gođard soi đường. Oliver vì hai tay cử động được dễ dàng nên để phần cho Swanhild việc mở các cửa.

      hết đường hành lang, nàng vặn thứ khóa ổ riêng, rồi đến chiếc khóa móc giữa then cánh cửa sắt. Cửa mở, hơi thấp lạnh ở trong ùa đến tận mặt họ. Vì dù là giữa mùa nực, cả phần lớp dinh cơ này vẫn giá ngắt cùng với những đường khúc khuỷu, những bức tường ẩm sũng: những rầm gỗ mốc thuếch, những mặt vách chốc lở, những cửa sổ chằng mạng nhện và những đường bậc lung lay.

      Tới lối hẹp lát đá, Luna nghe ngóng và :

      - Ô này! Ở đây có tiếng nước chảy.

      cánh cửa sắt nữa quay trục han rĩ. Tiếng róc rách nghe hơn lên. Dưới bước cửa, trong hỏm tối mò, ánh đèn của Gođard chiếu tới làn phẳng đen sì và lay động.

      Oliver giảng giải:

      - Đây là chỗ trữ nước để tháo ra các hào. Gođard, lại đây! Đến chỗ rẽ tay phải rồi.

      Trong góc có cánh cửa lẩn vào giữa bề tường dầy. Oliver bảo mọi người:

      - Phải cẩn thận đấy. khéo chỗ này có phiến đá long cũng nên.

      Gođard dẫn đầu, bước xuống những bậc gỗ sến ghép rất xấu. Luna vừa toan bước theo, hốt nhiên rùng mình lùi lại, mặt tái mét, mắt mở trừng trừng. Gođard lo sợ hỏi:

      - Kìa, làm sao thế?

      thấp giọng đáp:

      - Có cái gì dưới ấy chứ chẳng .

      Swanhild tiến đến cạnh Luna, nhưng đôi mắt rèm tơ vàng của nàng yên lặng Luna chăm chú nhìn con chó Roska nó nhìn lại nàng ra chiều đồng ý. Con Alex hiểu biết gì. Oliver vừa được nửa chừng câu:

      - Giá đừng nên…

      Nhưng bước xuống. Chàng đành phải xuống theo và sẵn sàng cái cánh tay bị thương của mình để chống với những việc có thể bất kỳ xảy tới.

      lát sau, mọi người đều vào cả trong căn phòng bí mật. Luna đứng bên cạnh cái bàn gỗ sến ở giữa phòng, :

      - Trong này vẫn còn sức ác hại làm chủ. Song ngay bây giờ nó chưa làm hại được tạ Đó là việc ở ngoài thường, nhưng phải là phi thường với cái đại danh quan trọng của nó, phải là cái phi thường viết bằng chữ hoa.

      Swanhild hỏi ngay:

      - Thế có thuộc vào cái thế giới u linh “chiều thứ năm” kia ?

      - Quyết là ! Nếu phải hai con chó kia cảm được thấy. Vậy mà chúng nó vẫn đứng yên có tỏ ra vẻ gì khác đâu?

      - con Holder ở trong rừng cũng vậy, tôi thấy nó báo trước gì.

      Luna Bartendale lẳng lặng cầm lấy chiếc đèn xem xét khắp phòng. Gođard theo sau để có xảy ra việc nguy hại gì đấy.

      Phòng này là công trình xây dựng rất vững chắc. Tường và mặt đất toàn bằng những phiến đá lớn. Từng súc gỗ sến khỏe mạnh nâng đỡ lấy mặt trần ghép bằng những phiến đá hơn. Có hai lò sưởi thắp dầu hỏa, lơ láo trong nơi cổ kính này, người ta mới vỡ lẽ ra rằng căn phòng tuy ở gần những hào nước mà vẫn là nơi ít ẩm thấp hơn cả mọi nơi khác trong tòa lâu đài. Duy bức tường đối diện vơi bậc thang xuống phòng là để ra mấy khoảng mốc rêu quanh những cánh cửa sổ. Gođard mở những cửa ấy ra: hơi gió lạnh đưa vào trùm quấn lấy mọi người. Họ nhìn qua cái khung bưng chấn song sắt, chỉ thấy được những hình đá đen sì vì trải qua bao năm tháng và hỗn độn khóm thông in hình nền trời sáng mờ.

      Mặt trần cũng như khoảng , bốn mặt tường đều có khói ám đen, có lẽ là do cái bếp lò bằng gạch xây ở giữa khoảng chỗ bậc thang và cửa sổ. cái bàn giữa phòng, bốn pho sách lớn, đóng bìa da và hơi lỗ chỗ ẩm mốc, đặt nằm cạnh chừng hơn chục bình và bát bằng đất nung. Trước mặt cái bếp lò, sắp hàng những phẫu lửa hắt vàng khè và mẻ lọ phủ đầy bụi và chằng chịt mạng nhện. Trong góc phòng, chồng chất những miếng đá xám và đá hoa.

      Luna lấy chiếc cành cây ra và hỏi:

      - Có phải chỉ có độc phòng này là làm trong bề dầy của bức tường ?

      Swanhild đáp:

      - Có lẽ. Vì còn chỗ tường nào khác là nghe có tiếng rỗng kêu trong. Chúng tôi dò xét mặt vách khắp nhà mà thấy gì.

      Luna:

      - Bọn quân lính có lẽ phá hủy mất cái cốt yếu, nhưng vẫn còn lại vài cái haỵ Phiến đá vỡ kia là thế nào?

      - Chính là phiến đá khắc cái bài hát mà tôi chuyện với đấy. Chắc là vì người ta nậy ra khỏi tường nên mới vỡ ra như thế, mà nậy ra chắc hẳn họ mong tìm được chìa khóa bí mật tưởng giấu ở trong. Chỗ tường lõm kia là chỗ đặt phiến đá đấy.

      Luna úp hai tay lại giữ cho cành cây lung lẳng ở giữa rồi vòng quanh phòng. Cành cây cất lên hay hạ xuống tùy theo lúc gần tới hay xa dần cái bếp lò. dừng chân lại cạnh lò xem cành cây giơ ra phía lò nhè quay mình. Luna lẩm nhẩm :

      - Kỳ dị lắm. Song những dấu hiệu này còn mơ hồ lắm, mà cũng chưa đủ.

      lật ngửa những cái hũ úp và đặt chân lần lượt từng cái . Cành cây chợt nhiên ngóc thẳng lên ở cái hũ lớn bụi bám đen két vung. Swanhild nhấc cái hũ lên xe nhờ Gođard đến đỡ lấy hộ. Lau cho sạch bụi rồi chàng thò tay vào sờ xem trong đựng vật gì. Chàng với miss Bartendale:

      - khối gì đóng rắn lại y như là cát với muối vậy.

      Oliver đưa cho bạn miếng đá và bảo:

      - hãy đập cái hũ này ra xem nào.

      Tức cái hũ biến thành đống mảnh vụn lẫn với sạn cát và những hòn muối đóng vừng. Gođard gật đầu:

      - Cát với muối thực.

      Cành cây rung động khi mũi giầy Luna đặt lên cái chất luyện lạ lùng ấy. giảng giải:

      - Chắc hẳn trong nầy còn có gì khác nữa kia. Chốc nữa tôi hãy xem lại.

      đến bức tường thứ ba: cành cây liền ngoáy tíu tít. Luna thở gấp và đưa ngón tay lần từ xuống dưới mặt tường. Khi tay đưa cao lên cành cây cử động thêm; khi tay đưa lên cao nữa cho đến hết tầm lại thấy nó dịu dần. Nhưng lúc hạ xuống ngang tầm vai, nhịp lay động gấp lên rồi bỗng nhiên cành cây tuột khỏi tay , rơi xuống đất. Tiếng rơi động ấy khiến mọi người nhận thức bầu im lặng bao bọc lấy cái quang cảnh diễn ra vừa rồi.

      quay lại phía các người theo, đưa tay vuốt trán mình và nhìn họ bằng đôi mắt sợ hãi. trỏ phiến đá tường mà , giọng quả quyết:

      - Chìa khóa bí mật chính ở đây đấy. Mà gớm ghiếc lắm, kinh tởm lắm kia đó!

      Gođard đập tay lên mặt đá :

      - Nhưng bức tường này đặc kia mà?

      - Tôi thế nào là quả quyết tin như thế đó!

      Mặt xanh tái , miệng mím lại, lộ ra dụng công phi thường của trí não. đứng lại lát gần cửa sổ rồi vừa sửa gọn lại mớ tóc uốn vừa bước lại gần mấy người: nét mặt tìm về được vẻ bình tĩnh. bảo họ:

      - Tôi theo học khoa học này đến nay có mười ba năm trời rồi, mà lần này mới là lần thứ ba tôi thấy cách báo hiệu giống như thế. Tôi dám quyết rằng tuy bề ngoài có vẻ gì nhưng phiến đá kia giấu vật ghê tởm lắm đó!

      Gođard xem xét lại hòn đá cẩn thận.

      - Vâng. phải đấy. Chỗ kẽ đá gắn bằng bột đá mà lại bằng đất sét! Tôi lại chắc rằng phiến đá này có thể lấy ra, lắp vào được chứ chẳng .

      Swanhild :

      - Thế phải có cái gì lấy ra mới được.

      Nàng liền rứt cái lưỡi gà ở chiếc giầy của nàng ra, lấy trong túi con dao con và đoạn dây gai, cắt cái lưỡi gà thành miếng hình tròn mà nàng dùi lỗ ở chính giữa; nàng xỏ qua lỗ ấy sợi dây thắt nút đầu. Nàng cắt nghĩa:

      - Dùng cái này đến gạch xây tường cũng giựt ra được. Tôi học được cái mẹo vặt này ở người buôn lậu đấy.

      Trong khi ấy, Gođard cạo chỗ đất nhét ở kẽ phiến đá, còn Luna đọc những nhan đề mấy pho sách để bàn.

      - ước muốn của lòng ước muốn này, Abraham tâm thư này, Duodeeim Portarum này. Ông Hammond ạ, sách hay cả đấy, mà xét ra cũng hiền lành thôi. Nhưng ta nên quên rằng có lẽ quân lính của Cromwell hủy mất sách cấm hồi ấy.

      Swanhild dán cái miếng da cho hút chặt lấy mặt phiến đá. Vừa kéo có cái tảng đá dài chừng hơn nửa mét tụt ra. Gođard ghé vai đỡ lấy mang đặt bàn. Rồi chàng kêu lên:

      - Ô lạ này! Nửa phần đáy mở được lên như cái nắp đậy! Miss Bartendale, lại đây mà xem.

      Luna đến xem.

      Cái nắp mở. mùi tù hãm lâu ngày, khô khan lạnh nhạt và tanh tởm đưa ra. Swanhild rùng mình, bất giác đứng lùi lại.

      Trong phiến đá rỗng lòng có hai khúc dài và dẹp bọc trong thứ khăn mốc meo. Gođard rũ cái gói thứ nhất ra và dưới ánh đèn làm rơi xuống vật nhăn nheo dài chừng 20 phân. Oliver đoán phỏng:

      - Dễ thường là gói xì gà giấu trong ấy từ bốn trăm năm nay, chắc?

      Swanhild vẻ khó chịu, lắc đầu:

      - , cuộn da có lẽ đúng hơn.

      Gođard lật lên xem, hốt nhiên chàng chùi vội tay lên áo măng-tô mặc người. Chàng cằn nhằn :

      - Ồ! bàn tay! Bàn tay của cái xác ướp(#1).

      Họ ngoảnh nhìn cả về Luna vẫn thản nhiên nhìn họ.

      - Bàn tay danh vọng đấy!

      Đó là lời truyên ngôn của .


      Chú thích:

      (1-) Xác ướp: là xác người chết ướp bằng những thứ thuôc riêng để tiêu nát được, chỉ khô đét lại, như xác vua Ai Cập ngày xưa.




      Jessie D. Kerruish


      Con Quỷ Truyền Kiếp


      Dịch giả: Thế Lữ


      Chương 11


      VẾT CHỮ THƯỢNG CỔ



      bầu yên lặng nặng nề chìm phủ khắp phòng: Swanhild, Oliver với Gođard trầm ngâm tưởng nhớ đến cổ tích ghê sợ. Ánh sáng bên ngoài lọt qua cửa sổ chỉ vừa đủ để khiến cho có vẻ huyền ảo những bộ mặt (đổi khác vì thứ bóng tranh ngày tranh tối bên trong) cũng như cái vật nâu sẫm và ghê tởnm rơi mặt bàn. Duy chỉ có mình Luna là có vẻ thực .

      Mãi sau Oliver mới hỏi:

      - Bàn tay danh vọng nghĩa là thế nào, miss Bartendale?

      - Là bàn tay kẻ giết người, bị thắt cổ chết. Người ta ướp tay ấy bằng liễu thạch với muối sau khi đốt lá cỏ phượng vĩ đực và cỏ mã tiền để sấy cho khô.

      Oliver đưa mắt nhìn cái bếp lò. Chàng hỏi:

      - Thế còn những vết kinh tởm ở đầu những ngón tay kia tự đâu mà có?

      - Ở những ngọn sáp nấu bằng mỡ người. Những điều ấy đều có ở trong sách Tà thuật Tự điển và cũng ở trong pho sách ông tỳ tay lên kia.

      Gođard rùng mình lên. Luna lại :

      - Có “bàn tay danh vọng” này, người ta dễ tìm được những kho của chôn giấu.

      Swanhild hỏi:

      - Thế, nó liên hệ ra sao đến chuyện con quái vật.

      - Cái đó chỉ có trời biết! Có lẽ ta tìm được dấu hiệu có ích trong cái gói thứ hai này.

      Gođard cẩn thận giơ cái gói ra:

      - Nặng.

      vật rất đẹp màu xanh và vàng lấp lánh rơi xuống mặt bàn. Đó là cái đốc gươm bằng đồng rỉ. Hình hai giải băng bằng đồng quấn lấy cái nắm chuôi gươm. Lần này mới thấy Luna tỏ ra vẻ kinh lạ. ngắm nghía kỹ càng cái vật mới tìm được đó và :

      - Thứ gươm này thuộc vào loại cổ kiếm. Tôi rất lấy làm lạ sao nó lại có trong này. Cụ Pháp sư chắc hẳn chế cái bàn tay kia để dùng vào việc riêng của mình, nhưng còn thanh gươm này chẳng biết ông cụ lấy được ở đâu rả Mà tại sao ông cụ lại giấu nó cùng với cái bàn tay nhỉ? chỉ cho Swanhild thấy hai miếng băng vàng khảm vào mặt đồng cũ. Tuy nhẵn mòn, song vẫn còn được những dấu hiệu đó. bảo:

      - Đấy là cổ tự Bắc Âu. Những chuyện cổ tích miền Bắc thường vẫn đến những lời thần chú khắc các đồ binh khí. Nếu quả thực thanh gươm này phải là của già có được hai ngàn năm rồi. Chỗ khảm vàng kia có lẽ mãi lâu lám về sau mới thêm vào đó.

      Oliver kinh ngạc, nhìn người thiếu phụ hỏi:

      - Chả lẽ cho rằng con quái vật phát khởi từ miền Bắc, vào thời đại loài người mới biết đồng, sao?

      - , tôi bảo thế. Bởi vì cái ta tìm thấy đây ta cũng chẳng biết có dính dáng đến nó kia. Nhưng từ trước tới nay, việc khảo cứu môn quái vật và phù thủy, dân miền Bắc Âu người ta vẫn xao lãng cách kỳ dị (ta thể căn cứ vào đâu được để mà ); song cổ tục ghê ghớm lưu truyền từ cái miền u ám và giá rét kia tới đây cũng có thể có được lắm chứ! Nhưng tôi xin thú rằng giờ tôi chưa tìm được đường lối nào mà dò.

      Olievr có ý để an ủi :

      - Trong ngày cho chúng tôi biết được nhiều điều hơn kẻ khác trong bốn trăm năm nay.

      - Tôi chỉ mới thấy nhất được điều này, nó làm câu chuyện rắc rối thêm lên: là những việc xảy ra với những ngày tháng có gì ăn nhập với nhau hết. Nếu, quả như lời cụ Warlock trối lại, bí mật khám phá ra được là nhờ bàn tay với thanh gươm này, sao trước khi chết, ông cụ lại cho biết chỗ giấu những của ấy? Mà nếu những của ấy có gì liên lạc với con quái vật, sao ông cụ lại phải giấu giếm những của ấy cách khôn khéo đến thế?

      Swanhild bàn:

      - Hay là ta tìm mãi thấy được điều gì khác nữa cũng nên.

      - Cái đó chưa chắc! Cái bàn tay, cũng như cái hũ sành và cái bếp lò dùng để nấu chất muối ướp và sấy cái bàn taỵ Duy chỉ có những thứ ấy là những vật khác thường mà khoa thuật của tôi thấy được.

      Swanhild thử ngỏ ý:

      - Thế ngộ lại là vong hồn sao?

      - Nếu có vong hồn nào lần khuất trong đây mấy con chó kia và cả tôi nữa cảm biết được ngay tức khắc.

      Swanhild lại hỏi:

      - Nhưng, nếu bí mật lại ở trong cái trời thứ năm kia sao?

      Luna hơi nhíu mày. Nàng chậm rãi đáp:

      - Tôi chưa để tâm xem xét đến điều ấy.

      Theo cách thức dặn bảo, mọi người gõ các mặt tường, nhưng thấy gì. Rồi giao cho mỗi người dò xét cẩn thận trong pho sách, để xem có những dấu ghi chú bên cạnh trang hoặc có những chữ gạch dưới có thể ghép thành thứ di ngôn bí mật nào chăng. Khi Luna xem xong pho sách về phần mình liền nhìn lại khắp phòng trong lúc bọn kia tiếp theo công việc của họ. Cái phiến đá khắc chữ khiến chú ý đến. Luna lau chùi cẩn thận cho hết bụi cát bám . Swanhild bảo nàng:

      - Tôi có tấm ảnh chụp rất , nếu muốn xem, tôi đưa cho xem. ảnh cũng chỉ có những câu vè mà nghe tôi đọc trước.

      Luna:

      - Phiến đá này có lẽ bị nậy lên từ trước khi xảy ra cái thảm kịch cho cụ Warlock, vì chỗ trống dưới đất (chỗ đặt viên đá khi trước) tôi thấy cũng ám két những muội khói như mọi chỗ khác trong phòng này, mà cái bếp lò kia từ ngày ông cụ mất đốt lên lần nào cả. Thế ra cái phiến đá này vẫn ở nguyên chỗ trong cả cái thời kỳ ông cụ làm việc ở đây.

      Swanhild:

      - Ồ! . phần mãnh vỡ dùng để làm cái bếp kia. Đấy trông, vẫn còn những chỗ vỡ còn mới hơn.

      Luna:

      - Vậy, thế ra ông cụ Warlock cho là những câu vè khắc phiến đá ý nghĩa đặc biệt nào ư?

      - Những câu ấy bí mật nào. Đó chỉ là lời dặn trước.

      - em nên biết rằng, còn cái gì khêu gợi ngờ vực của tôi bằng những việc bề ngoài có vẻ minh bạch nhất. Trong việc này, nếu những câu vè kia ý nghĩa nào hết vì cớ gì người ta lại mất công khắc vào phiến đá ấy?

      Swanhild vẻ trầm ngâm:

      - Tôi chưa lần nào ngẫm nghĩ đến điều đó. Thế còn , có ý kiến nào ?

      - vì những ngày tháng hỗn độn khiến tôi cũng khó nghĩ. Mỗi chi tiết trong các việc, từ thanh gươm tối cổ cho đến việc cụ Warlock lấy những mảnh đá để bắc lò, đều có liên lạc đến vấn đề này mới phải. Nhưng giờ tôi lại thấy liên lạc! Kìa, hai ông kia xem sách xong rồi. Thế nào? Các ông có tìm được gì lạ ?

      Oliver lắc đầu:

      - Ông cụ để dấu tích nào đáng để ý về các tội của ông cụ.

      Luna sửa lại:

      - Hay là bề ngoài có gì đáng để ý. Nhưng thôi, ở đây thấy lạnh rồi đấy, mà tôi tưởng giờ chúng ta cũng chẳng làm được việc gì trong này nữa. Mang những cái này ra khỏi phòng có được , hở ông Hammond?

      - Được ạ. muốn đem cái gì cư đem. Nhưng chẳng nhẽ định lấy cả bàn tay ra nữa sao?

      - Cái bàn tay ma quái ấy ư? ! Đến cầm gậy mà đụng vào tôi cũng chịu! Nhưng tôi muốn đem cái đốc gươm kia trao cho nhà bác học chuyên môn khảo về cổ ngữ Bắc Âu, thôi.

      - lấy tay cầm đến cũng có gì đáng lo ngại chứ?

      - . Phép tai họa của quái chỉ nhập ở bàn tay kia với những vật liệu dùng để chế hóa cái bàn tay ấy thôi. ( chìa cái đốc gươm ra). Đây này, ông cứ nhìn xem vật đẹp đẽ như cái đốc gươm này lẽ gieo họa cho người được.

      - Nếu vậy, xin cứ đem lên. Còn cái bàn tay kia tính sao bây giờ?

      - Ông lại bỏ nó vào nơi giấu nó. Tôi có cách khiến nó thành vô hại được.

      Gođard lại đầy phiến đá dựng bàn tay vào hõm tường như trước. Luna lấy trong sắc ra chất dẻo màu trắng và lấy thứ cỏ lá khô đem trát vào đường kẽ. giảng giải:

      - Lá tôi trục được ma quỷ, còn sáp ong làm chúng bại liệt ở nơi. (Thấy bọn kia giương mắt ngạc nhiên nhìn, tiếp luôn). Tôi tôi nhất quyết tin ở hiệu lực của những thứ này lắm, nhưng nếu nó giúp được ích gì nó cũng chẳng hại gì.

      Lúc mọi người ở trong cái phòng bí mật cùng bước ra, lúc tai lại nghe tiếng ồ ồ thê thảm của nguồn nước đen tối, họ cùng lấy làm vui mừng. Oliver thở ra tiếng dài và rùng mình.

      Gođard :

      - Mãi đến bây giờ tôi mới nhận ra rằng những cái ta trông thấy vừa rồi thực là gớm ghiếc.

      Oliver lầu nhầu:

      - Tôi tôi muốn nghĩ đến nữa! Khiếp! Cái mùi xông ra mới kinh tởm làm sao! Mà lạ thực, hình như tôi ngửi thấy mùi này ở đâu rồi. khí lúc bấy giờ như là đầy những…

      Gođard vui vẻ chêm vào:

      - Những con bướm đen khổng lồ có những con quỷ xanh mình, phải ? Thôi , chàng này! Đầu cũng khá lộn xộn rồi đấy, còn quấy những tư tưởng hắc ám làm gì nữa. Sáng hôm nay như thế cũng đủ rồi.

      Luna đưa mắt cho chàng tỏ ý khen phải, nhưng Oliver có vẻ bực tức ngoảnh lại bảo chàng:

      - Gođard ạ, tôi đùa đâu. Nếu tôi ở trong phòng ấy lâu hơn nữa tôi có thể nhớ ra cái nơi mà tôi ngửi thấy cái mùi kỳ quái kia là nơi nào cũng nên.

      Giọng chàng khàn và tay chàng đưa lên thái dương.

      Swanhild cảm động quá biết ngăn giữ cách nào, chỉ lo ngại nhìn chàng rồi đưa mắt cho Luna vẻ khổ sở tuyệt vọng.

      Luna nghiêm nghị :

      - Bao giờ tôi truyền lệnh cho ông được nhớ lại ông hãy nhớ!

      Giọng dõng dạc vang lên như tiếng kèn quân lệnh bên tai chàng. Oliver khe khẽ nhắc lại.

      - Khi nào … truyền lệnh cho tôi ư?

      - Phải. Mà từ giờ cho đến lúc đó, nếu ông muốn cho em được yên ổn và ông được yên ổn, ông được để tâm nhớ lại tý gì, ông nghe chưa?

      Chàng lặng im. Rồi bỗng :

      - Tôi chắc hẳn giải quyết được việc này rồi.

      - Cũng có lẽ. (Giọng được ôn tồn). Nhưng nhà chuyên khoa bao giờ hồ đồ ra những điều chưa nghĩ chín. Khi nào tôi biết ý nghĩa những hàng cổ tự kia, lúc đó là lúc lập luận. ( dịu giọng xuống). Còn bây giờ, ông Hammond ạ, bây giờ mọi người chúng ta đều cần phải nghỉ ngơi. cất tiếng khẽ cười, nhưng trong giọng và trong tiếng cười kia có gì khiến mọi người ái dám hỏi han câu nào nữa.





      Jessie D. Kerruish


      Con Quỷ Truyền Kiếp


      Dịch giả: Thế Lữ


      Chương 12


      ??????? HAMMOND



      Khi trở về tới những căn lầu dùng để ở, họ có cái cảm tưởng như vừa thoát khỏui giấc ác mộng. Thấy lão Walton nóng lòng nóng ruội qua lại trong hành lang, lo ngại bout rout, họ mới nhận thức đến những giờ lâu ở lại trong căn phòng bí mật.

      Lúc ấy viên thanh tra liên phóng Steying đợi họ trở về để khởi cuộc chất vấn. Miss Bartendale cần phải có mặt ở đó nên Swanhild đưa vào phòng Holbein và trao cho những bản cảo gia phả cuỳng bức ảnh chụp nàng hứa trước. Sau khi viên thanh tra xong việc khỏi, ba người đến tìm thấy Luna cúi mình bản giấy rất lớn mặt thảm. Oliver gieo người xuống cái ghế bành và hỏi:

      - Cái này là gì thế, ?

      Luna:

      - Ông nhận ra cái gia phả đồ của nhà ông từ trước đến năm 1650, ư?

      - Chúng tôi chưa bao giờ mở đến hết cuộn giấy.

      - À, ra thế kia đấy! Ông chỉ cần biết rằng đời mình về trước có những ai trong tôn tộc thế là đủ chứ gì? Vậy chắc hẳn ông cũng biết rằng dòng dõi ông phát tích từ Đan Mạch ấy nhỉ.

      - Từ Đan Mạch kia?

      - Phải. Bao nhiêu việc đều cho ta tin được như thế: Cái tên Swanhild ít có kia ở thế hệ nào cũng thấy có, cái vẻ người Bắc Âu rệt khuôn mặt dáng người của em nhà này cũng giống các vị tổ tiên trước theo như các bức chân dung kia. (Nàng trỏ bản gia phả đồ). Đây, ông trông cái hình ngành nhánh này mà coi(#1) : đó là chi nhánh của vị thủy tổ nhà này đó. Tôi dịch nghĩa những câu chú thích cho mà nghe: Con trai Magnus Hammond, chi phái của tôn thất Đan Mạch, kết hôn với bà này. Bà này tức là bà Edith, người và là người thừa tự những trang trại gia sản về hồi đó.

      - Trời! Mà cái gươm về “tuổi đồng” kia cũng là gươm miền Bắc Âu!

      - Ta tiến được nhanh lắm rồi đó, có phải ? Ta biết rằng người Đan Mạch ngang tàng táo tợn ngày xưa kết duyên với con thừa tự họ có lâu đời ở nước . Kẻ hung đồ kia hẳn là tàn sát cả họ nhà người vợ mình ngay hôm ăn cưới. Nhưng chuyện đó ta hãy gác ra ngoài. Phụ thân người chàng rể tất là nhân vật có địa vị cao, vì ngành ăng-lê về sau lấy tên họ người ấy làm tên họ nhà. Ông trông đây này: đây là dấu mực đỏ cho ta biết rằng ông cụ kia là người đầu tiên bị con quái vật hại, ít ra cũng là nạn nhân đầu tiên bị hại ở nước .

      Swanhild hỏi:

      - Thế nghĩa là con quái vật xuất trong dòng họ cùng thời kỳ với người Đan Mạch tên là Magnus, phải ?

      - Chính thế đó. Rồi mấy thế kỷ sau, trong bọn họ con cháu, có người cũng tên là Magnus chuyên tâm học tà thuật, tìm được cách giấu kỹ cái gươm Băc Âu tối cổ kia. Người chàng rể hung đồ, thanh gươm và cả những cây thông đến trong những câu hát – bằng ấy điều là bằng ấy dấu tích đưa đường cho ta dò tới xứ Đan Mạch. Buổi sáng hôm nay thực ta làm được nhiều điều hay đó. ( đổi giọng, tiếp). Bây giờ hai giờ chiều rồi. Trong lúc phần thực của tôi ăn cơm phần tiềm thức của tôi sắp đặt các tài liệu gom góp được, rồi tôi do đó mà suy ra xem các việc xảy ra trong căn phòng bí mật có những ý nghĩa gì.

      Oliver mở miệng toan hỏi, nhưng khoác tay Swanhild vừa luôn:

      - Thôi, bàn luận nữa; làm việc thế là đủ. Giờ ăn cơm phải coi là giờ thiêng liêng.

      Gođard vui vẻ khen phải. Chàng bảo riêng với Swanhild:

      - Tôi chẳng biết về mặt linh hồn học cái nhà kia có những tài năng gì, nhưng quả thực ta ngăn cấm Oliver, cho ấy nhớ lại chuyện trước đấy chứ?

      Bữa ăn hôm ấy vui vẻ lắm. dè dặt mà Luna giữ trong lúc tìm xét trước, bây giờ biến mất: chỉ còn là người xinh đẹp nhất trong mấy người quanh bàn ăn. đưa câu chuyện về những buổi ca vũ Nga, đến việc home rule(#2) và bình phẩm những cuốn sách mới xuất bản. em nhà Hammond tưởng chừng như quen biết lâu ngày rồi. Oliver chưa bao giờ chuyện mình nhiều đến thế. Chàng cho người thiếu phụ biết hằng mớ những chuyện về ngày thơ ấu của mình và em mình, về tính nết và thói quen của hai em. Còn Swanhild trái lại, nàng gì qua: tâm tính nàng có những điều mâu thuẫn.

      Sau khi bình tĩnh uống xong chén cà phê, Luna ngỏ ý lại làm việc nữa. Oliver khuyên:

      - hãy nghỉ ngơi lấy vài giờ nào.

      đáp:

      - Nhưng mấy giờ nữa tôi lên đường Hassocks và ra hẳn phòng Holbein rồi còn gì.

      cầm lấy bản cảo và bức ảnh chụp ở bàn rồi :

      - Mà tôi có thể được cho các ông biết đoạn những lai lịch mà tôi tìm được trong truyện này. Con quái vật bắt đầu vào dòng họ nhà ông cùng với người Đan Mạch Magnus và cho đến năm 1456 các vị tổ tiên nhà này vẫn biết cái hình thể, tính cách của con quái vật và biết cả cái lẽ tại sao nó lại về.

      Swanhild nghi hoặc:

      - Cho đến năm 1456?

      Luna đưa ra tấm ảnh chụp:

      - Phải ạ. Đây này! Bức ảnh này đủ chứng tỏ rằng chuyện người nối nghiệp trong họ được người nhà cho biết việc bí mật ở căn phòng giữ kín và những câu vè kia cũng vậy, được cho người nào khác được biết đến nên chữ phiến đá vụng dại phải là do tay nhà nghề khắc lên. Bài vè mà ngày nay dân gian đều biết cả, hồi ấy vẫn giữ ý nghĩa kín.

      Oliver :

      - Bài hát xem ra nghĩa lắm kia mà.

      - Xem ra thế! Lời quả là kỳ ảo biết chừng nào! Vậy, bởi lẽ kia, tôi đoán rằng những người kế ngiệp về sau trong dòng họ này đều lần lượt được dẫn đến căn phòng kín để biết nghĩa những câu vè.

      Swanhild:

      - Thế làm thế nào mà lại quên cái nghĩa ấy được?

      Luna:

      - Bao nhiêu đàn ông trong dòng họ đều bị giết hết trong cuộc chiến tranh Blore Heath năm 1456, chỉ trừ có Magnus (vị Pháp sư) hồi ấy mới sơ sinh: mà Magnus lại được ai trối lại bí mật cho biết nữa. Về sau dụng công dò xét, ông cụ Pháp sư mới khám phá được đôi phần: con quái vật biến hẳn ròng rã thế kỷ rồi, ông cụ lại phụ nó về, nhưng có phép nào giam cầm được nó như trước nữa. Cái phép ấy tất có chỉ trong cách cúng lễ truyền dạy cho con cháu trong nhà phải cứ mà theo.

      Oliver:

      - Vâng, tôi hiểu ra rồi. Rồi đến sau, khi bọn quân liùnh phá phách trang trại khu này, chúng tiêu hủy mất mọi dấu vết, cả đến cái biển đá khắc, chúng cũng bẩy lên.

      Gođard vẫn chăm chú đọc những bản gia phả đồ, và thấy ở bản thứ hai, khởi đầu là tên: “Oliver, sinh năm 1893”. Chàng cũng :

      - Các điều kia xem ra đều có lý cả. Tuy thế, miss Bartendale ạ, thử trông đây này: từ đời cụ Magnus tủy tổ(#3) vào khoảng năm 830 cho đến đời ông cụ tu vào năm 1392, trải qua năm trăm sáu mươi hai năm trời, trong vòng chừng ấy năm, con quái vật trước sau lên tám bận. Rồi từ đời Warlock, vào năm 1526 cho đến ngày nay, bốn trăm năm trời, con quái vật xuất có bảy bận. Vậy thế ra vào cái hồi người nhà còn biết được cái phép cúng lễ mà cho là cách hộ mệnh kia, con quái vật lại lên nhiều gấp rưỡi sau này (nghĩa là từ cái hồi mất phép hộ mệnh?) Như thế là tại sao?

      Chàng soi mói nhìn Luna đợi trả lời. đáp:

      - Có lẽ vì trong cuộc hành lễ ngày trước có hiến cho con quái vật những thứ hy sinh nhiều hơn cũng nên.

      Oliver vội kêu:

      - Vậy là hy sinh nhân mạng rồi còn gì! Ồ miss Bartendale! Nếu thế thực kinh tởm độc ác quá!

      - Chưa chắc! Vả lại việc thí mạng ấy cũng đến nỗi ghê sợ quá nếu do ở tình nguyện tâm thành.

      - Nhưng những kẻ thí mạng có phải tự mình muốn chết đâu?

      - Tôi chưa thể thêm điều nào bây giờ trước khi biết rệt các ngày tháng.

      vừa tay mơn nghịch cái rãnh cằm dưới môi, vừa cuộn bức ảnh chụp lại. Oliver trầm ngâm ngắm nghía cộ Ngượng vì chàng cứ chăm chăm nhìn như thế hoài. Luna lại xem bứa ảnh lần nữa. :

      - Hai câu đầu của bài hát:

      Ở đâu thông mọc um,

      Đêm sao, lạnh và rét…

      Còn đủ mọi chữ, nhưng ở dưới, mặt đát sứt mẻ, những chữ đầu câu thứ ba mất hẳn. Vậy những chữ thiếu là những chữ gì?

      Swanhild đáp:

      - Chữ: “Chief of” (gia trưởng của)

      - Thế câu vè thành ra: “Người gia trưởng của Hammond tìm thấy lúc chết”, phải ? Tôi, tôi nghĩ như thế. “Người gia trưởng của họ Hammond” nghe xuôi hơn, nhưng vẫn còn đáng ngờ lắm.

      Gođard bàn:

      - Hay là tại cách gò câu trong bài bắt buộc người làm thơ phải xoay đổi ý câu thơ?

      - Cũng phải. Trong các khúc hát về trung cổ thời đại bao giờ cũng chỉ có nhịp câu là bị coi thường thôi.

      Oliver cúi nhìn bức ảnh và :

      - Chữ đầu tiên là chữ C.

      - Ta có thấy được cả chữ đâu? Chỉ còn có nửa chữ mà có thể là phân nửa chữ O, chữ Q, chữ G hay chữ S cũng được.

      - Thế sao?

      - Cũng theo cách đoán này, chữ cuối cùng chắc cũng phải là chữ F, mà là thể biến hình của chữ cổ hay là đầu chữ Z hay chữ L.

      Nàng lấy bút chì đo những hàng chữ.

      - Sau nữa, dù hình thể có kỳ dị mặc lòng, những chữ này từng khoảng bằng nhau và mỗi tiếng cách nhau bởi hai điểm vừa vặn đặt chữ. Nếu là những tiếng “Chief of” phải có tám khoảng cách đều nhau. Vậy mà ở đây ta chỉ thấy có bẩy. Thế đáng lẽ Chief of Hammond (gia trưởng của nhà Hammond) như người ta vẫn tưởng, những chữ khắc đá phải là những chữ khác mà ta chưa đoán được. Ta cứ tạm đặt thế này:

      ?????? HAMMOND

      Chú thích:

      (1-) Ngành nhánh: Gia phả bên Âu thường mượn cái cây chia ra các cành để chia ngành nhánh từ tổ tiên đến con cháu. L.N.D.

      (2-) home rule: Địa phương ngự tri.

      (3-) Magnus tủy tổ: Xin nhớ trong dòng họ này có hai người cùng tên Magnus: người sau là Magnus Pháp sư

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Jessie D. Kerruish


      Con Quỷ Truyền Kiếp


      Dịch giả: Thế Lữ


      Chương 13


      CHỮ C, G, O, Q VÀ L HAY CHỮ Z?



      Gođard chăm chú đọc mảnh giấy:

      - Thực là bài đố rắc rối làm sao! có chắc rằng những tiếng thiếu mất kia đổi được ý nghĩa câu hát ?

      - Cái đó cũng chắc lắm, vì tiếng thiếu chỉ có tất cả sáu chữ. Ta thử xem nào. (Vừa vừa biên những chữ có thể ghép theo nhiều cách khác nhau). Cái tiếng thiếu kia có thể như thế này:

      C x x x x L C x x x x Z

      G x x x x L G x x x x Z

      O x x x x L O x x x x Z

      Q x x x x L Q x x x x Z

      ngẫm nghĩ lát rồi lại :

      - Dù sao, cái đó cũng có gì quan hệ trong lúc này.

      bỏ mảnh giấy , nhưng Gođard cầm lấy và :

      - Tiếng đầu tiên có thể là C-R-U-E-L. Thiếu chữ nhưng cruel có lẽ người ta viết có hai chữ L.

      Luna:

      - Cũng có nghĩa gì.

      Gođard vẫn chưa chịu thôi:

      - Hay là C-O-R-B-E-L. càng tồi thêm. Thử tìm đến chữ G xem nào. G-O-S-P-E-L chăng? Lại càng dở hơi hơn nữa. Đến chữ O: O-R-I-E-L HAY O-ĐU-L-L phân làm hai tiếng O dull Hammond? Kể cũng xuôi, nhưng vẫn có nghĩa lý gì. Còn những tiếng đằng sau có chữ Z tôi chẳng tìm được tiếng nào.

      Luna vẫn cúi đầu nhìn bức ảnh chụp. :

      - Những câu khác trong bài hát đều cả:

      Where grow pines and firs amain

      Under stars sans…

      bỗng ngừng bặt, giấu mặt úp trong lòng bàn tay và gõ đầu ngón tay hai bên thái dương. lát sau ngửng đầu lên :

      - Tìm tòi mãi được ích gì đâu? Tôi mệt lắm rồi, muốn nghĩ đến những cái vặt vãnh vô nghĩa lý ấy nữa. Trước khi lên đường, tôi muốn được xem cái xác con chó kia của ông Oliver .

      Ba người đứng dậy để cùng . Nhưng :

      - ! Xin cứ để lão quản gia dẫn tôi cũng được. Mấy người chuốc thêm phiền muộn nữa cũng ích gì. Với lại, tôi muốn được xem xét mình thôi.

      Nửa giờ sau Luna trở lại, Oliver kêu lên:

      - Trời ơi! Miss Bartendale! Người nặc những hơi xú uế!

      nàng nhăn mũi lại :

      - Đối với người quý mến loài vật công việc ấy thực là việc thương tâm. Nhà chuyên trách ở đây chưa hề động đến.

      - Vâng. Viên cảnh sát đánh điện tín xin London phái viên thanh tra ty Scotlandyard về tận nơi.

      - Viên thanh tra cũng tìm được gì đâu. Xác con chó mang dấu nào khác lạ; mà tôi chắc con chó chưa hề cắn bất cứ người nào hay vật nào. Thôi, thế bây giờ xin từ giã mọi người, tôi về đây.

      Swanhild khẽ :

      - Nhưng mà…

      Luna đỡ lời:

      - Nhưng mà ta chưa điều kết luận nào về việc này, chứ gì! Tôi còn chưa biết gì được ý nghĩa câu cổ tự vẫn chưa làm được chuyện gì thêm.

      Swanhild giọng như van nài:

      - Thế nhưng…

      Oliver an ủi nàng:

      - Swan! Nếu miss Bartendale nghĩ rằng chưa nên cho ta biết điều gì bây giờ ta chỉ nên nghe theo, đừng căn vặn làm gì nữa.

      Giọng chàng vừa ôn tồn vừa quả quyết. Swanhild thất vọng năn nỉ.

      - Thế ra miss Bartendale định bỏ mặc chúng tôi hay sao?

      Luna ngay:

      - ! Mọi người ở đây có chuyện gì xảy ra nữa đâu. Vả lại chỉ có mình ông, ông Hammond ạ, chỉ có ông là người có thể gặp nạn được, ông đừng có vào trong phòng bí mật mà cũng đừng bao giờ đến bất cứ chỗ nào có thông mọc, cứ giữ như thế cho đến lúc giáp mặt tôi.

      - Thế bao giờ lại đến?

      - Chính ông tự đến chỗ tôi ngày mai.

      - Ngày mai ư?

      Chàng tỏ vẻ sung sướng nhắc lại câu đó.

      - Vâng, ngày mai. Vì ông mạnh rồi đó, có thể được đấy. Ông có cam đoan với tôi rằng ông phải theo đúng lời tôi cho đến lúc gặp tôi ?

      - Xin cam đoan. Mà địa chỉ của ở đâu?

      - Số nhà 15, Bispham Gardens, Chelscạ Tôi ở với tôi, bà Yorke, nữ nhạc sĩ dương cầm ấy mà. Tôi muốn gói cái đốc gươm kia được chứ?

      Oliver nhanh nhảu:

      - Ồ, tôi có cái hộp xì gà cũ, đựng cái ấy tiện lắm.

      Rồi chàng tìm ngay hộp xì gà. Gođard khẽ huýt tiếng sáo dài ngạc nhiên; chàng bảo Swanhild:

      - Swanhild này, chàng Oliver tự nhiên thành vui vẻ nhanh nhẹn đến lạ, phải !

      Luna:

      - Đó là vì tôi cho ông ấy phương thuốc riêng để phấn khởi tinh thần đó.

      Swanhild:

      - Thế mà sao chẳng gì cho chúng tôi biết với?

      - Đó là ở trong kế hoạch của tôi. Mặc dù tôi ái ngại cho cứ phải lo lắng đến đâu mặc lòng, tôi cũng chỉ cho biết đến thế là hết.

      đặt bàn tay lên vai Swanhild và đăm đăm nhìn người thiếu nữ. Đôi mắt lúc đó có vẻ trầm mặc, cũng long lanh sáng, nhưng mà dịu dàng, hiền hậu xiết bao! Hai tay kia khép lại giữ thêm khăng khít bên vai, khiến Swanhild tức khắc thôi run sợ và vẻ mặt tươi tắn ngaỵ Luna bảo nàng:

      - cứ tin ở tôi. Tôi hiểu những việc tôi làm. Lần này phải là lần thứ nhất tôi phải giải quyết chuyện bí mật. Tôi xin thú thực rằng việc này khó khăn cách khác thường. quay đầu lại phía Gođard qua vai. Ông Covert ạ, những lời tôi dặn Swanhild vừa rồi cũng là với ông nữa đó.

      Gođard ngượng ngịu mỉm cười, trong lúc đôi mắt chàng vẫn trang nghiêm. Chàng đáp:

      - Tôi biết rằng đem hết tài lực ra làm việc thực, nhưng tôi chưa được chắc rằng khỏi lầm đường. Nếu quả như lời tưởng, cái phép bí nhiệm kia, người dòng họ này từ hồi phân tranh Đôi Hồng(#1) trở về trước vẫn còn biết, nếu quả thế sao về thời ấy người bị chết lại còn nhiều hơn các thời về sau?

      - Tôi chưa cho ông biết tôi cắt nghĩa việc đó thế nào đấy nhỉ. Vậy lời tôi phân giải có lẽ cũng được ông bỏ ngoài tai. Từ hồi phân tranh Blore Health trở về sau, ta chỉ thấy có những hành vi của con quái vật, những chuyện tai hại nó gây nên. Còn từ hồi phân tranh kia trở về trước, người ta biết được hình thể con quái vật thế nào, nhưng lại nó khởi thuỷ từ đâu và vì những nguyên nhân gì mà có liên lạc với họ Hammond. Phần tôi, tôi tưởng định được hình thù của nó; tôi lại có hy vọng tìm được nó xuất phát từ đâu mà đến.

      Gođard:

      - Tôi mong rằng thành công.

      Swanhild lo lắng hỏi:

      - Mà nếu biết nó phát khởi từ đâu mà ra liệu có cách khiến nó tác hại được nữa ?

      - Điều đó , chậm lắm đến chiều mai là cùng, tôi trả lời cho biết.

      Chú thích:

      (1-) Đôi Hồng: Cuộc nội chiến ở nước từ năm 1455 đến 1485 trong hai nhà quyền phiệt, York bên và Lancastre bên. nhà lấy hoa Hồng trắng và nhà lấy hoa Hồng đỏ làm biểu




      Jessie D. Kerruish


      Con Quỷ Truyền Kiếp


      Dịch giả: Thế Lữ


      Chương 14


      HÌNH THỂ THỨ NHẤT



      Khi Luna Bartendale ra khỏi lâu đài Dannow sương mù tan hết. Vừng mặt trời ló qua những kẽ mây lơ lửng cồn cát, trông khác nào con mắt giống ma quái hóm hỉnh nhìn xuống cõi thế giới hỗn mờ và xam xám, thoai thoải ở dưới chân mình và nghĩ cách để trêu ghẹo.

      Vì Oliver nài mãi, để cho chàng tự lái xe đưa đến tận nhà ga Hassocks. Lúc chiếc xe ra khỏi thung lũng, Luna ngoảnh lại nhìn lần sau cùng cái lâu đài vươn hình ở dưới bầu trời hâm hẩm.

      Chàng bảo Luna:

      - ngày kia, thế nào có lần đến thăm miền Sussex của chúng tôi mới được.

      thôi ngắm cảnh và quay lại. Chàng đăm đăm nhìn Luna: đôi mắt đẹp long lanh kia hề lẩn tránh.

      - Ngắm phong cảnh Dannow, vừa rồi nghĩ ngợi gì thế?

      - Tôi nghĩ thế này: giá tôi mà địa vị Ông tôi làm cho tan tác hết mọi viên đá. Tôi phá hết các rừng cây trụi nhẵn và bừa xới thực sâu các ruộng đất. Tôi đổi tên làng xóm, thay đổi tên họ thế rồi tôi bỏ , sống ở xứ thuộc địa, xa biệt hẳn bao nhiêu điều kinh khủng gây nên bởi cái hương hỏa tổ truyền ghê gớm kia .

      Oliver dịu mắt nhìn , ôn tồn :

      - mệt nhọc trong người đấy, Bartendale ạ.

      Mặc dầu có vết thương cạnh trán và vẻ tinh tường. Chàng thêm:

      - Thôi, nhắc đến chuyện Dannow nữa, ta đến những điều làm ơn cho tôi ngày gặp gỡ đầu tiên. Hồi ấy tình cảnh tôi khổ hơn bây giờ kia.

      Luna rùng mình:

      - ! có việc gì tai hại bằng con quái vật.

      - Có chứ: có cái việc khiến cho người đàn ông suýt nữa phát khóc. Bartendale ạ, nhân từ quá đấy: tôi chắc cố ý muốn quên việc trước để nương lòng tự ái của tôi đấy thôi. (Chàng sắc mắt tiếp). Thế nào, nhớ ra rồi đấy chứ.

      vừa để tâm tìm lại cảm tưởng chóng biến vừa hỏi:

      - Ở đâu thế nhỉ.

      - Thôi, để tôi kể đầu đuôi nghe. hãy tưởng tượng ta ở nhà ga London: sân ga, chuyến tàu nhà thương vắng khách. Tôi nằm trong toa trơ trọi mình và tủi cực hết sức. ai biết ra đón tôi cả vì bức điện vẫn báo trước được ràng. Lúc ấy tôi cho đó là điềm gở của chết. Đáng lẽ Swan phải ở đó, lại lại sân ga để đợi đón thuyền tàu của tôi.

      Chàng thở dài, hạ thấp tiếng xuống:

      - Miss Bartendale ạ, nếu trong hồi chiến tranh, bọn đàn ông biết thế nào là cái khổ của địa ngục, cũng có những người hiểu thế nào là thiên đàng chỉ vì được rời bỏ chuyến tàu nhà thương để lại được thấy mặt người đàn bà vẫn thương họ.

      Luna nhìn đôi mắt, dịu dàng hỏi:

      - Thế ra ông lúc đó, chỉ có thân mình thôi sao?

      - Vâng, chỉ trọi có mình. Tôi cố tìm cách trỗi dậy, nhưng ai để mắt đến tôi: bọn khán hộ bận túi bụi lên vì những người bị thương nặng. Thành ra tôi cứ sụt sùi khóc mãi, thiếu chút nữa đến gào lớn lên. Ồ! Những cái khổ sở nhặt kia trong cái khoảng từ năm 1914 đến 1918, sao mà có vẻ to tát quan trọng đến thế! Ấy, giữa lúc đó người đàn bà ở đám đông ra, lăng xăng như con ong trong đám hoa hồng… người ấy đưa tôi đến chỗ yên tĩnh, lấy chiếc khăn tay được hương cỏ mới ra lau nước mắt cho tôi; muốn tránh cho tôi khỏi bị những con mắt tò mò của đám người dòm ngó, người ấy đứng che khuất trước mặt tôi – mà tôi to lớn gấp hai người ấy – rồi đặt và miệng tôi điếu thuốc lá và châm lên cho tôi hút. Và trong khi làm các việc đó, người ấy nhìn tôi vẻ nhìn vỗ về phấn khởi, đôi con mắt sáng như gợi can đảm và sống vào lòng tôi.

      Rồi yên tâm, chàng tiếp:

      - Những điều tôi vừa kể hình như làm được vui lòng phải.

      Nàng khẽ đáp:

      - ! Ông cứ nữa .

      - Người ấy căn vặn hỏi han tôi diều, đánh bức điện tín thứ hai, rồi lại tìm người bị thương khác mà có săn sóc, cho chúng tôi ở chỗ rồi đưa chúng tôi lên chuyến hẳn hoi. Miss Bartendale ạ, trong cái hồi dài dặc tôi chịu bệnh, cái buổi gặp gỡ kia thêm được sức mạnh cho tôi. Tôi muốn được sống mãi để tìm thấy người đàn bà nhắn kia, người đàn bà có đôi mắt sáng trong và được mùi hương cỏ mới.

      Luna :

      - Chỉ chút xíu cũng đủ làm hởi lòng người binh sĩ bị thương.

      - Về sau, tôi tìm kiếm người ấy khắp London, nhưng bao nhiêu nhân viên nhà ga đều thay đổi cả. Tuy thế, tôi biết rằng thế nào ngày kia tôi cũng lại được gặp người ấy.

      Luan nhìn chàng, và lần ấy mới là lần đầu tiên trông thấy chàng thực. Từ sáng đến lúc ấy đối với , Oliver chẳng qua chỉ là khách hàng thôi. Từ bây giờ trở đột nhiên chàng là hạng riêng biệt như trước nữa, chàng thành chàng trai, thái độ lặng lẽ, đứng mực nhưng hoạt bát tự nhiên, nét mặt thanh tú như em và đôi mắt cũng đẹp như em. đoán biết ở chàng tâm hồn khí khái, cương quyết và tính tình u trầm. thấu hiểu chàng ngay và nhận thấy chàng qua những tổ tiên chàng là số người quyên sinh ngay sau khi gặp thấy con quái vật.

      gì mới lạ và bất ngờ nảy ra trong tâm hồn trong lúc mắt cùng dò sâu trong mắt. ruồng đuổi cái ý tưởng chưa thành lời, nhưng đàn bà là hạng người cần đến ngôn từ mới định nghĩa được tình . bối rối vì im lặng quá nặng nề, bỗng hỏi:

      - Đến Hassocks rồi đây, phải ?

      Oliver cũng cảm động trả lời:

      - Phải, đến rồi.

      Chàng nhận thấy rằng cái phép lạ quan trọng nhất và giản dị nhất vừa mới làm trọn. Nhưng Luna lại vừa trải qua những phút đau khổ nhất đời , lòng vò xé bởi điều bí khám phá ra được từ lúc còn ở Dannow.

      đến nhà ga Hassocks rồi.

      Swanhild lúc đó cũng theo kịp hai người trong chiếc Mercedes. Nàng băn khoăn hỏi Luna:

      - chắc rằng đêm nay việc gì chứ?

      - Chắc. Sáng mai gửi cho tôi bức điện tín và đừng ngại cho tôi biết bất cứ việc gì xảy ra, cũng đừng quên rằng 11 giờ mai tôi chờ hai người ở nhà tôi đấy nhé.

      Đứng trong cửa sổ toa xe lửa. Luna dặn dò nốt những điều phải làm cho Swanhild lúc đó đứng dưới sân gạ Chắc hẳn năm xưa, lúc ở mặt trận trở về quê Oliver cũng thấy em chàng đứng như thế.

      Gặp mắt chàng, Luna hiểu rằng chàng cũng nghĩ như mình. tự trách về đồng tâm ấy, và rắp định từ nay giữ gìn tình ý cách kín đáo hơn.

      Ngồi mình trong toa, nghe tiếng đều đều điệu như ru của đoàn tàu chạy, trông ánh sáng cuối ngày soi qua cửa sổ, để tâm hồn chìm đắm trong suy nghĩ trầm ngâm. Con Roska ghếch đầu lên gối : mắt nó như phản chiếu nỗi xốn xang trong lòng chủ. Tên ga gần tới London kéo ra khỏi nguồn mơ tưởng. bực mình vì thấy con chó có vẻ ngần ngại:

      - Cần quái gì! Roska! Nghề nghiệp của ta là phải thế kia mà!

      mở cửa kính để liệng ra ngoài sương mù gói gì nho . Rồi vừa soi gương sửa lại mũ, và đánh lại mặt phấn, tiếp:

      - Ta chỉ nên nghĩ đến công việc là hơn.

      Xuống ga Victoria, mua số Evening Post, bản phát hành buổi tối. Mấy hàng chữ lớn in đầu báo:

      Ma quái về chăng?

      án mạng ly kỳ trong miền Sussex

      Và ở dưới, chữ hơn:

      bí mật khu lâu đài cổ Dannow càng ngày càng thêm dầy đặc. Tin tức sau cùng.

      chàng người xương xương, ở toa khác vừa xuống, cùng đến lúc với Luna bên hàng bán báo. Chàng ta nhã nhặn biếu người thiếu phụ số báo còn gấp có buộc kèm theo túm cỏ (primrose) và cành thông con. Vừa cười, chàng vừa bảo Luna:

      - Cỏ lá hái được ở Dannow trong cuộc săn tin tức đặc biệt đấy! Thưa nữ thám tuyền đáng quý của tôi.

      Luna do dự cầm lấy túm cỏ và đáp:

      - Tommy, thực là đứa tai quái trơ trẽn nhất đời. Gọi cái xe cùng với tôi, rồi tôi hứa cho giọt nước mắt khi nào bị treo cổ.

      Thomas Curtiss cười. chàng phóng viên nhà báo United Press ấy công nhận:

      - Phải ạ, phần nhiều bọn nhà báo chúng tôi đều đáng treo cổ tuốt thực, nhưng chính , cũng vẫn bảo tôi là người ở trong cái số ít tội nhất kia. Có lẽ vì thế mà đánh điện tín cho tôi ngay từ lúc biết có những việc xảy ra ở Dannow chứ gì?

      - Biết đâu chỗ đó?

      Luna bước lên xe hơn, Thomas ngồi bên ngọt ngào dỗ:

      - Luna ơi, người bạn của Luna từ lúc còn thơ ấu là Tommy(#1)này, liệu có thể tách bạch hẳn với chàng đặc phóng viên tên là Curtiss này được để xin Luna cho biết rằng Luna khám phá được cái bí mật ở Dannow chưa?


      Chú thích:

      (1-) Tommy: Tên Thomas, gọi hoặc tự xưng trong lúc thân mật




      Jessie D. Kerruish


      Con Quỷ Truyền Kiếp


      Dịch giả: Thế Lữ


      Chương 15


      TỘI ÁC HOÀN TOÀN MỚI MẺ



      Người thiếu phụ lấy giọng nũng nịu đáp:

      - Người bạn trẻ tuổi của tôi muốn hỏi gì tôi cũng xin chiều ý. Nhưng…

      Và trở lại đứng đắn, tiếp:

      - Nhưng hãy cho tôi biết trước trong bài tường thuật của , những gì .

      Chàng ta cất tiếng cười:

      - Tôi tả cảnh làng xóm, trụ sở của viên cảnh sát, đến lúc tới Dannow và tường thuật cuộc phỏng vấn cộ Bài ấy tôi từ Hassock đọc về nhà báo rồi, trong lúc ăn cơm ấy. Bài ấy để đăng trang đầu số báo ngày mai, bản phát hành chiều hôm nay chỉ ra đoạn tóm tắt. À mà, tiện thể tôi hỏi Luna câu này nhé: Luna làm ơn viết giúp bài về các ma quái, cho tuần trương Weckly ra ngày chủ nhật được ?

      Để tôi xem . Trong bài phỏng vấn tôi, bảo tôi với những gì rồi?

      - Rặt những điều thông thường mọi khi cả. Ban chiều tôi chụp mấy bức ảnh để in vào phần tranh ảnh của báo, tôi tìm cách chụp người thiếu nữ bị hại, nhưng được: lão đầy tớ nhà ấy nể nang gì, nhất quyết gạt tôi ra. đủ ánh sáng để chụp mấy nơi trong nhà, tôi phải chụp ở nhà thờ với cả gia đình nhà khổ chủ. Luna nhỉ, tôi đoán chừng trong việc này muốn ai quấy rầy phải ?

      - Phải. Càng được yên thân càng tốt, nhà làm báo quý hóa của tôi ạ.

      - Tôi viết về các việc cách rất tường tận, bọn khác chỉ cứ thế mà theo. Như thế tránh được cái nạn quấy rầy của phóng viên nhà báo. Vậy, đền cái công khó nhọc ấy cho tôi, chỉ phải cho tôi biết rằng tìm ra manh mối trong việc này chưa?

      - Điều ấy tôikhông thể trả lời cho được.

      - Thế ngộ tôi tìm ra được sao? Cái căn phòng giữ kín ở lâu đài Dannow khiến tôi để tâm ngay từ lúc còn bé.

      Xe hơi đỗ lại trước cái nhà dưới bóng cây rậm. Tommy xách hành lý của người thiếu phụ, theo sau nàng. Trước khi mở cửa, ngập ngừng :

      - Tôi vẫn thường tự nghĩ chẳng biết bụng dạ bọn phóng viên nhà báo thế nào. Này, Tommy này, giả dụ trong cuộc điều tra của , biết được việc khi công bố lên có thể thương hại được , làm thế nào?

      Chàng ta trang trọng đáp:

      - tôi lảng ngay, nếu việc điều tra kia là do ý tôi định. Nhưng nếu nhà báo phái tôi theo đuổi tới cùng, tôi làm trọn phận của tôi.

      Từ phòng khách đưa ra mấy nhịp dạo: bà Yorke ở nơi hòa nhạc về. Lúc Luna bước vào, bà :

      - Cuộc hòa nhạc hay lắm, cháu ạ.

      Bà Yorke là người đàn bà to béo, nở nang vẻ tươi cười. Mái tóc trắng bạc, nước da tươi tắn với đôi mắt lánh đen, bà già này vẫn giữ lấy cái ý tưởng mình còn thanh xuân. Mà bảo cháu là:

      - xem ra cháu mệt mỏi lắm phải. đọc các báo rồi. Cháu chả phải , cũng đoán rằng cháu soi thấu được những bí ở Dannow rồi!

      Luna lẩm bẩm:

      - Vâng, thực cháu muốn đến chuyện ấy chút nào hết. Trong các việc kinh khủng từ xưa tới nay cái việc này…

      gieo người xuống cái ghế bành. Con mèo cái và con mèo con sưởi bên lò lửa, đến nhảy lên lòng. Con chó Roska đặt mõm trong lòng bàn tay củ, nhưng vẫn giữ vẻ trầm ngâm. Bà Yorke lại gần hỏi:

      - Cháu làm sao thế. Hôm nay sao cháu có vẻ khác mọi khi thế này?

      trả lời:

      - Trưa hôm nay, sau khi tìm được ý nghĩa mấy chữ bị xóa mất, cháu phải đóng vai kịch nặng nề hết sức, nên bây giờ cháu cần phải nghỉ ngơi đôi chút mới được.

      - Việc ấy thế nào, cháu kể lại cho nghe với ! Tuy chẳng giúp đỡ cháu được điều gì, nhưng có chuyện gì bàn bạc với bao giờ cháu cũng bớt được phiền muộn.

      Luna bỗng sẵng giọng đáp:

      - Tôi chẳng có chuyện gì mà hết!

      Rồi vội xin lỗi về bẳn gắt đột ngột đó:

      - Là vì vô tình nhắc đến chuyện phiền muộn rắc rối của cháu. Được, để rồi cháu xin kể đầu đuôi nghe.

      - Lúc nào cũng được cháu ạ. Sắp đến bữa ăn tối rồi đó, cháu nên nghỉ ngơi chút .

      Luna tìm lại được bình tĩnh thường ngày trời tối lắm. Đến giờ dùng cà phệ vừa hút thuốc lá vừa đem hết các điều kinh tởm ghớm ghiếc trong chuyện bí nhà Hammond, kể ra với bà nàng. Quen nghe thứ chuyện này đến như bà Yorke mà lúc ấy bà cũng phải lấy làm khiếp sợ. Bà như rền rĩ:

      - Trời ơi! Kinh khủng thực!… Thế cháu định thế nào với những người thiếu niên tội nghiệp ấy? Tại sao tội ác ấy khởi truyền tự nghìn năm về trước? Mà cái tội ác mới quái gở làm sao! tội ác hoàn toàn mới mẻ!

      - phải. số người ngày xưa bị cáo là phạm vào cùng tội như thế rồi.

      - hoàn toàn mới mẻ là nhớ đến những lời nêu trến các báo đó. Nguyên do tại sao mà biết bao nhiêu ngưởi trong họ Hammond lại tự tử như thế, người ta hiểu quá rồi!

      Luna nhún vai:

      - Việc của nhà này là việc đặc biệt. Cháu gọi điện thoại chuyện với giáo sư Bergstrom về thành gươm đây.

      Miss Bartendale vẫn có cái lệ bao giờ cũng nhờ đến tay bác học chuyên môn. tuy biết qua những điều sơ lược của phần nhiều khoa thuật, nhưng trong những cuộc tra xét, thường hay gây lấy những mối giao du có ích cho công việc.

      Luna bảo bà :

      - Ông ấy thuê xe lại đây. tiếp hộ cháu nhé. Tối hôm nay cháu thể làm gì được nữa: cháu ngủ đây. Bây giờ chưa mười giờ, nhưng cháu làm việc suốt ngày, mệt nhọc hết sức rồi. Cháu già đó ạ.

      Bà Yorke lo ngại nhìn:

      - sao cháu bỏ cái nghề này có được ?

      - Là vì cháu muốn lợi dụng những khiếu riêng của cháu. nhớ những việc cháu giúp cho bao nhiêu người thất vọng, rồi sao?

      - biết lắm. Nhưng nếu những khiếu riêng kia mất sao? thú thực với cháu rằng chực mong như thế đó. Cháu theo nghề này nữa biết phải chịu thiệt thòi là được cháu làm bạn với nữa, nhưng nghĩ đến điều ấy mãi dần dà cũng quen rồi, cũng lấy làm buồn lắm, vì phải là người ích kỷ đâu.

      Luna đáp:

      - bao giờ cháu mất những thiên bẩm của cháu. À mà, này: ông giáo sư chỉ biết cháu tìm được thanh gươm trong lâu đài cổ thôi, còn những chuyện khác, ông ấy biết gì hết nhé!

      Lần đầu tiên, lấy làm tiếc rằng nàng biết được là có hai nguyên nhân có thể làm mất phép của nhà linh hồn học; hai là nguyên nhân đó là: trọng tội, hoặc say mê đắm đuối chiếm hết tâm và trí người.





      Jessie D. Kerruish


      Con Quỷ Truyền Kiếp


      Dịch giả: Thế Lữ


      Chương 16


      PHỤ HỒN CỤ PHÁP SƯ



      Sáng hôm sau vừa trở dậy được lát, Luna nhận được điện tín của Swanhild. Trong bữa điểm tâm, nàng bảo bà Yorke:

      - Người con tên là Kate vừa chết đêm hôm qua rồi, ạ.

      Bà Yorke chỉ khẽ kêu:

      - Tội nghiệp!

      tìm được lời nào khác. Luna lại :

      - Đằng sau ta cũng qua khỏi được, điều đó biết từ trước. Sống được thêm vài giờ như thế cũng là may rồi. Về cuộc điều tra của các nhà chuyên trách cháu dặn dò dự bị mọi điều, duy chỉ sợ bọn bẫy trộm trong rừng bị liên can vào vụ án mạng. đọc các báo chưa?

      - . Bọn phóng viên, người nào cũng rằng phỏng vấn cháu. Báo Dally Speculum đăng cả trang ảnh. Có bức chụp cháu ở cổng nhà thờ đứng cùng với gia đình nhà Hammond. Oliver Hammond trông có vẻ cao lớn hơn cả cái nhà thờ, em và vị hôn phu của ta mặt, còn cháu chỉ là cái hình mờ đánh dấu chữ thập. bức ảnh khác chụp phiến hình tạc nổi và bức tranh. Lại có cả ảnh chân dung viên thanh trạ Những bài hát in bằng chữ mập.

      Luna:

      - Hừm! Thực là đẹp đẽ cho mấy khách hàng của cháu lắm nhỉ! Những câu vè trứ danh kia giờ được khắp nước bàn ra tán vào! Chỉ mong sao cho báo Daily Post đừng có cái ý kiến đặt giải thưởng để tặng những lời bàn hay nhất về ý nghĩa những câu hát kia thôi! Ối, mà trong lúc này cháu chưa muốn nghĩ đến việc này vội.

      Tuần lễ đó, nhân trong nước có vụ ly dị nào làm sôi nổi dư luận, nên Curtiss khiến được công chúng hết sức chú ý đến tấn thảm kịch mới xảy ra. các báo, kỳ phát hành nào cũng đăng Bí Mật ở Dannow hoặc Chuyện Khủng Khiếp miền Sussex. Cả cái tin Kate Stringer chết, tờ Stop press cũng thấy đăng rồi!

      Lúc em nhà Hammond đến London, Luna phải tìm cách khôn khéo chối từ cuộc phỏng vấn của ba người phóng viên nhà báo ngồi đợi sẵn phòng ngoài. Bọn phóng viên rồi, nàng lại phòng khách là chỗ Swanhild, Oliver và Gođard trò chuyện với bà Luna.

      Trong căn phòng hẹp này, Oliver trông to lớn lạ. Ngoài cái vết bầm tím ở thái dương còn dấu nào còn lại ở những rủi ro xảy ra cho chàng. Chàng vui vẻ bảo Luna:

      - Tôi trông có vẻ lại sức rồi, nhọc mệt như hôm qua nữa.

      Rồi, đôi mắt sầm tối lại:

      - nhận được điện tín của Swan rồi chứ?

      - Vâng, nhận được rồi. Mà tôi cũng biết trước điều đó.

      Nàng trông thấy kinh khủng thâm độc dồn đến đôi mắt chàng và những ý tưởng khiếp nhược mơ hồ vẫn ám ảnh trí não chàng lúc đó cũng thêm rệt. Chàng hỏi thành tiếng:

      - Miss Bartendale, cũng biết rằng việc thí mạng phải đủ bộ chứ?

      Bề ngoài tuy giữ vẻ bình tĩnh, Swanhild cũng cuống cuồng lo ngại mà nhìn Luna qua vai cộ Luna sẵng tiếng ngay:

      - Thôi, chuyện ấy nữa, ông Hammond ạ. Những việc quá khứ nhắc lại ích gì. Hoài hơi đâu mà ân hận vô ích, ông nên giúp tôi tránh những rủi ro sau này là hơn.

      Những lời ấy, bằng chất giọng có sức huyền diệu khiến cho Oliver vững tâm cứng cỏi ra mặt. vui mừng lóng lánh trong đôi mắt Swanhild.

      Bà Yorke chăm chú nhìn hết cháu bà rồi lại nhìn Oliver. Sau cùng, Gođard :

      - Đấy nhé! Tôi cứ hết hơi bảo thế mà có nghe tôi đâu! Bây giờ miss Bartendale cũng thế hẳn tin tôi rồi chứ?

      Oliver đáp:

      - Tôi vẫn biết phải lắm, nhưng có phải bao giờ người ta cũng làm chủ được những ý nghĩ của mình đâu.

      Luna:

      - Cứ muốn là được đó.

      Swanhild hỏi:

      - dịch xong những câu cổ tự chưa?

      Luna mỉm cười:

      - Chưa. Ông giáo sư tôi nhờ dịch hộ cặm cụi suốt đêm qua, và sáng hôm nay tôi với ông ta lại đến hỏi cả ý kiến ông giám đốc bảo tàng coi về cổ vật Bắc Âu trong British Museum. Những chữ cổ kia, họ bảo phải là chữ thường có, nhưng họ cũng đoán ra có từ khoảng đệ bát thế kỷ rồi kia.

      Swanhild có vẻ thất vọng. Gođard nhắc lại cho Luna nhớ:

      - Nhưng miss Bartendale, trước bảo thanh gươm có từ trước hồi kỷ nguyên Cơ Đốc kia mà!

      Luna:

      - Chỉ có lưỡi gươm mới thế.

      Swanhild hỏi:

      - Hôm nay chúng tôi đến đây phải làm những việc gì?

      - Để bà tôi tiếp hai ông kia, còn giúp tôi việc này.

      - Tôi giúp ?

      - Vâng.

      Nàng khoác tay Swanhild rồi dìu ra khỏi phòng. Oliver gì, chỉ có Gođard cau mày ra vẻ vừa ý. Ngay từ lúc đến nhà Luna, chàng cũng dè dặt từng ly từng tý, vì bao nhiêu hành vi bí mật của Luna chàng chưa hiểu được duyên cớ, chàng vẫn chưa yên lòng.

      Sau đó nửa giờ, người đầy tớ dẫn Oliver và Gođard vào trong phòng làm việc của nhà nữ siêu linh học. Căn phòng nhắn, bài trí trang nghiêm: cái divan, cái bàn giấy lớn, tủ sách và đôi ba chiếc ghế bành rất tiện cho người đến thỉnh vấn ngồi đó mà trầm ngâm. Bốn mặt tường phủ lượt giấy màu u và cả căn phòng chìm trong bầu tranh sáng tranh tối.

      Swanhild lúc ấy có vẻ bứt rứt khó chịu. Luna bình tĩnh và yên lặng, giữ thái độ trang trọng của nhà nghề.

      Oliver hỏi:

      - Thế nào?

      Luna đáp:

      - Tôi cần muốn biết thêm mấy điều nữa và định nhờ ông bảo cho biết.

      Chàng ngạc nhiên:

      - Tôi tôi cho biết được gì?

      - Ông cho tôi biết những điều về cụ Warlock biết về con quái vật chẳng hạn.

      - Nhưng tôi có biết gì đâu!

      - Khi tỉnh thức biết gì thực. Nhưng ông là người dòng dõi cụ Warlock, vậy ông ngờ đâu rằng cái điều mà chúng tôi tìm biết đây có lẽ vẫn tiềm tàng trong đường khuất của khối óc ông cũng nên.

      - À! Thế ra định phụ hồn ông cụ lên sao?

      - Tôi có lần với ông rằng nếu có lời thỉnh cầu bao giờ tôi có thói tọc mạch tìm biết những việc thế giới bên kia. Việc bây giờ giản dị hơn thế nhiều; tôi dùng cách thôi miên, mà trong giấc thôi miên người ta đôi khi nhớ lại được những việc mà chính mình biết trong lúc tỉnh thức.

      - định thôi miên tôi ư? Xin vâng. Nhưng tôi thấy việc đó cũng có mất thể diện cho tôi chút đỉnh phải.

      - Đó là vì ông tưởng đến công việc của những tay thầy vườn. Ông hãy ngồi xuống cái ghế bành này và trả lời những câu hỏi tôi hỏi ông, cũng như miss Hammond ban nãy.

      Gođard kêu:

      - Thế nào? Swanhild? Swanhild chả lẽ lại ưng thuận cho…

      Swanhild đáp:

      - Sao lại ưng thuận? Tôi chỉ ngủ lúc, rồi bây giờ chẳng còn nhớ tý gì.

      - Miss Bartendale ạ, tôi xem ra phương pháp của nguy hiểm mà chưa chắc có hiệu quả gì…

      Nhưng Gođard thôi ngay vì chàng biết có phản đối cũng muộn. Oliver có ý trách móc chàng:

      - Gođard ạ, miss Bartendale biết việc gì nên làm mới làm.

      Luna cắt nghĩa:

      - em thể trả lời tôi được lấy câu nào quạ Tôi mong rằng với ông tôi may mắn hơn thế.

      Oliver sốt sắng, quả quyết , đôi mắt long lanh thấy câu chuyện hay hay:

      - Tôi xin tuân lệnh, dù xảy ra việc gì mặc lòng.

      Trong mắt Luna cũng thoáng có ánh lửa.

      Nàng với người thanh niên đối diện nhau, tay cầm lấy tay như đôi bạn đồng hành sắp sửa con đường tối tăm và xa lạ.

      Luna với mọi người:

      - Chúng tôi sắp ngược lại nguồn thời gian, trở lên đến tận đời ông cụ Pháp sư trong dòng họ nhà này. Nàng dìu người thụ pháp của nàng ngồi xuống cái ghế bành quay mặt ra cửa sổ, rồi khiến:

      - Ông Hammond! Ông trông cái đồng hồ quả quít kia, ông cứ nhìn cái vỏ đồng hồ bóng loáng ấy cho đến lúc tôi bảo thôi hãy thôi.

      lặng lẽ chăm chú và hồi hộp chiếm lấy bầu khí căn phòng ấy.





      Jessie D. Kerruish


      Con Quỷ Truyền Kiếp


      Dịch giả: Thế Lữ


      Chương 17


      TỪ KẺ CHỊU CỰC HÌNH ĐẾN NHỮNG BÍM TÓC VÀNG



      - Đây rồi xem lúc nãy với tôi làm thế nào bây giờ với ông Hammond tôi cũng làm như thế; cũng nghe thấy đúng những câu tôi hỏi .

      Mắt Oliver vẫn rời cái mặt đồng hồ bóng loáng.

      Sau đó vài phút, Luna hỏi chàng:

      - Ông thấy trong người thế nào?

      - Tôi thấy hơi mệt.

      - Mắt ông mỏi đó. Mí mắt cứ rung động hoài kìa! Ông cố chống mắt cũng được kia đó!

      Chàng bắt đầu chớp mắt rất mau,. Nàng khiến:

      - Ông nhắm mắt vào, mà nhắm mắt là thể mở mắt ra được nữa.

      Mí mắt chàng liền buông xuống. Luna đưa tay khoa mấy điệu làm phép cho đến lúc chàng hoàn toàn chìm vào giấc thôi miên. Nàng bảo Swanhild:

      - Ông con đồng tốt nhất đó.

      Oliver theo các cử chỉ của nàng, mắt chàng lúc ấy mở và đờ đẫn như người ngủ mơ hay như người lòa. Swanhild vào câu:

      - Tôi cứ tưởng là lầm. Miss Hammond, chuyện với ông ấy xem.

      Nhưng Swanhild hỏi mấy câu đều đáp lại:

      Luna cắt nghĩa:

      - Ông ấy chìm trong giấc thôi miên nặng lắm rồi đó, và hoàn toàn ở trong tay tôi, chịu theo thế lực sai khiến của tôi.

      Nàng mỉm cười thấy vẻ kinh ngạc của Swanhild:

      - Lúc nãy, cũng y như thế.

      Đến ngồi đối diện Oliver, nàng bảo:

      - Ông Hammond! Tôi muốn biết những điều ông còn nhớ về lịch sử nước .

      Nàng hỏi chàng hết câu nọ đến câu kia, từ triều vua George V trở lên đến đời quyền phiệt Guelfes và đến nhà Stuarts. Có những câu thông thường, đến Swanhild với Gođard cũng có thể đáp được, nhưng lại có những câu xa xôi quá sức biết của hai người. Khi Oliver trả lời được trơn tru, giọng đều đều, khi phải ngẫm nghĩ đôi lúc. Lúc nhắc đến cái tên của Charles Đệ Nhứt, ánh sáng chăm chú thoáng trong mắt Oliver. Chàng ngay:

      - Người bị trảm quyết.

      Luna khen:

      - Phải đó. Vậy ông có nhớ hoàng hậu Mary Tudor ?

      - Mary… Mary Tudor ử… A! Phải rồi, Mary ác phụ! Có, có lẽ tôi cũng… nhớ ra.

      Bỗng chàng ngập ngừng, Luna khiến:

      - Ông cứ nghĩ đến người đàn bà ấy ! Và nghĩ đến cái triều đại của bà ấy, nghĩ trong ba phút.

      Chàng cau trán lại, nhìn trân trân phía trước mặt rồi :

      - Tôi nghĩ đến rồi.

      Luna thình lình hỏi:

      - Thế ông có nghĩ cả đến Derek Carver ?

      Chàng khẽ giật mình rồi thẳng người lên, khẽ kêu lên câu đáp:

      - Derek Carver! Tôi biết cái tên Carver này rồi! Derek Carver!… Trời, sao mà kinh khủng thế! Tôi thấy thứ mùi… thứ mùi kinh tởm… Derek Carver… Trời ơi! Cái tên này sao mà gợi ra những điều khủng khiếp thế!

      Gương mặt chàng lộ lo sợ quá sức. Năm ngón ghì nắm lại ở cái bàn tay bị thương, chàng run cầm cập khắp mình, trông chẳng khác gì người mắc vào trong giấc mộng kinh hoàng hay chịu cực hình thể tả được.

      Hoảng hốt cũng gần như Oliver, Swanhild muốn đến gần xem, nhưng bà Yorke nắm giữ tay nàng ngồi lại. Luna mím miệng thành đường nghiêm nghị, nét mặt giống như khuôn mặt nạ trơ trợ Nàng dằn từng tiếng:

      - Hoàng hậu Mary… Derek Carver.

      Oliver cất cao tiếng đáp:

      - Tôi biết! Tôi biết rồi! Mà cái mùi kia, chính là cái mùi tôi với em tôi ngửi thấy khi qua Stréatham là chỗ họ chữa đường… Phải, phải: cái mùi hắc ín nấu lỏng… , mùi hắc ín đốt cháy… Với mùi khét ở những tội nhân thiêu sống! Trời! Ghê gớm quá!

      Luna liền tay vuốt trước trán, lẩm bẩm :

      - Quả thực, tôi tưởng là… Mà tôi vừa ngủ dậy phải ? À, tôi nhớ ra rồi, miss Bartendale, tôi nhớ nhìn mãi đôi mắt của cộ Tôi thấy đôi mắt đó mông mênh lớn và tôi tưởng chừng bị lôi cuốn trong luồng sáng chói lói. Thế rồi mọi đều biến .

      Luna mở cuốn sách lớn đến trang có mảnh giấy đánh dấu trước: mảnh giấy chi chít lời ghi chú viết taỵ Nàng quay ngoắt lai và reo lên:

      - Thực là kỳ diệu! Bây giờ ta làm tiếp việc lúc nãy , ông Hammond.

      Sau đó lát, Oliver lại chịu giấc thôi miên nữa. Những dấu hiệu lo sợ lại lên trong lúc chàng lẩm bẩm hoài:

      - Mary Tudo… Carver…Nhựa đường bốc cháy…

      Luna truyền lệnh:

      - Thôi! Đừng nghĩ đến Mary nữa. Bây giờ triều Henry Tudor, Harry of Richmond. Hãy tưởng tượng đến người này; và đến thanh gươm. Thế nào, liên tưởng kia khắc ông đến những điều gì?

      - Tôi nhớ đến Magnus Pháp sư làm hiệu cờ ở trận Bosworth.

      - Được lắm. Nghĩ đến cụ Pháp sư Magnus . Ông thấy những gì?

      - Tôi thấy ngôi mộ của cụ này… Cái phòng bí mật này… bức chân dung này…

      Chàng trở lại bình tĩnh và những lời ấy cách rẽ ràng.

      - Ông hãy cầm trí lại và lần lượt kể từng thứ , theo cái thứ tự diễn ra cho ông thấy. Cái ngôi mộ kia khiến ông nghĩ đến cái phòng bí mật phải ?

      - , bức chân dunbg mới làm tôi nghĩ đến. Bức tranh này dẫn đường cho tôi tưởng đến phòng Holbein và do phòng Holbein tôi tới phòng thí nghiệm, nó nhắc tôi nhớ đến những vật ta tìm thấy hôm qua, tức là cái bàn tay với thanh gươm cổ.

      - Về chuyện cái bàn tay ông biết được những điều gì?

      Chàng nghĩ lát rồi mới :

      - biết gì hết. Còn về thanh gươm , ồ này…

      - Ông nhớ được những gì?

      - Tôi thể được.

      Luna liền mở ngăn kéo bàn giấy lấy ra chiếc lưỡi gươm đồng rồi đặt vào tay Oliver mà khiến:

      - Ông nhìn thanh gươm này , nắn sờ nó cẩn thận đưa lên mũi mà ngửi rồi cho tôi biết nó gợi cho ông thấy những gì.

      Chàng nhất nhất vâng lời. lát sau chàng :

      - Tôi biết rồi. Tôi nhận thấy mùi… mùi ở đây…

      Luna có vẻ ngac nhiên.

      Oliver vẫn giữ vẻ mặt chăm chú nghe ngóng, hai cánh mũi mấp máy như người cố tìm biết tên hiệu mùi hương nào. Đoạn chàng đứng lên, bước thẳng về phía bàn giấy. Chàng trỏ vào vào cái bình trong đó cắm cái bó cỏ lá mà người phóng viên Thomas Curtiss tặng cho nàng.

      Chàng trỏ vào cành lá thông, bảo nàng giọng đắc ý:

      - Đây rồi. Tôi tưởng đến khu rừng… Còn thanh gươm … Có ba kỷ niệm liên lạc với nhau: những cây thông, thanh gươm và… Ồ! Đó là những vật giống nhau, dài mảnh và bóng loáng… phải! Bóng loáng.

      Chàng bỗng ngẩn người ra, im bặt. Rồi bỗng lại reo lên tiếng, chàng bước đến trước mặt Swanhild lúc đó nín hơi, lặng người vì hồi hộp.

      - À đây, đây rồi! Những mớ tóc, mớ tóc hung vàng và tết bím, hai cái bím to chẳng kém gì cổ tay tôi đây này và hai đầu cùng tụm lại thành búi! Và ở cạnh hai món tóc ấy tôi vẫn còn thấy… Ồ! Tôi nhớ ra rồi, tôi thấy có…

      Chàng khoa tay lên khí để tiếp theo câu dở dang.

      Luna reo lên:

      - Ông thấy dấu chữ thập ngoặc, phải ?

      Chàng lửng lơ đáp:

      - Ngày xưa chúng tôi gọi như thế.

      - Gọi là Fyl fot, chứ gì?

      - Phải: Fyl fot.

      - Ông có thể đọc được những chữ khắc đốc gươm kia ?

      - . Nhưng mà (chàng tiếp sau khi nhìn kỹ thanh gươm), bên những chữ khắc lại còn thứ khác nữa. nhìn ở phía trái miếng đồng mà xem, ở dưới lớp hoen rỉ ấy.

      Luna đến bên, đặt tay lên trán chàng để giúp chàng thấy cái cảnh tượng gợi lên. Trong mắt của Oliver chiếu ra vẻ tuyệt vọng thê thảm.

      Bà Yorke lặng lẽ bảo cháu:

      - Thôi , Luna.

      - Chính Luna lúc đó cũng quá nhọc mệt. Nàng liền truyền bảo:

      - Ông lại ngồi xuống. Ông tỉnh dậy, quên hết và tỉnh dậy!

      Nàng đưa đầu ngón tay lướt mí mắt chàng. Oliver mở mắt ra, hết sức bình tĩnh. Chàng ân cần hỏi Luna:

      - Miss Bartendale xem chừng mệt nhọc lắm phải.

      - Vâng, có thế. Buổi thí nghiệm cũng khá lâu.

      Bà Yorke giảng giải cho mọi người hiểu:

      - Là vì trong những cuộc này, gắng sức của trí não làm nhược người cả đôi bên: nhà thôi miên cũng như người chịu thôi miên.

      Swanhild hỏi Luna:

      - Miss Bartendale, có biết rằng cả hai em chúng tôi đều ghét cay ghét đắng cái mùi hắc ín nấu, nhỉ?

      - Tôi biết.

      - Đấy là tính gia truyền của nhà tôi.

      Cái đó cố nhiên. Nếu vậy tôi tìm thấy duyên cớ tại sao lại có cớ sợ ghét cái mùi đó rồi, miss Hammond ạ. Nó có từ cái hồi tàn sát năm 1555 kia. Bây giờ, tôi xếp gọn lại những điều tôi ghi chép vừa rồi, còn trong lúc đó kể lại cho ông những câu ông ấy trả lời tôi. Xong rồi tôi đọc cho với ông Hammond biết thiên lịch sử gia đình nhà từ cổ chí kim, theo những tài liệu mà tôi lượm được.





      Jessie D. Kerruish


      Con Quỷ Truyền Kiếp


      Dịch giả: Thế Lữ


      Chương 18


      LAI LỊCH TỔ TIÊN



      Khi Swanhild kể xong các lời vấn đáp lúc nãy, Oliver nhắc lại:

      - Bím tóc vàng!…

      Chàng có vẻ ngạc nhiên cách khó chịu,. Lunahỏi:

      - Bây giờ ông tỉnh thức ông có nhớ điều gì về chuyện ấy chăng?

      - Để tôi nghĩ xem … Có, có. Em Swan tôi ngày trước cũng tết bím như thế.

      - Nhưng, những bím tóc ông đến lúc nãy có liên lạc với thanh gươm kia mà.

      - Nếu vậy tôi biết gì hết.

      Luna:

      - Trong giấc thôi miên ông lại biết được đó. Có những điều kích thích mạnh, vui thái quá hay buồn thái quá cũng vậy, lòng cảm khái bát ngát về tôn giáo hay kinh hãi dữ dội, những điều đó in vào trí não dấu vết sâu dần nỗi những cảm xúc kia còn vang bóng mãi đến các đời con cháu sau này. Lệ thường, những kỷ niệm tổ truyền kia vẫn tiềm tàng trong dòng dõi và chỉ khi nào có việc xảy ra giống cái việc gây nên chúng, đánh thức những kỷ niệm kia dậy chúng mới lên.

      Oliver kêu:

      - Trời ơi! Thế ra cái tính ghê tởm mùi hắc ín đun nóng kia chính là…

      - Phải, chính là kỷ niệm ngờ do kích thích của tổ tiên ông đó, của con trai cụ Warlock đó. kích thích ấy là do lúc ông này trông giống thấy cái cảnh hành hình ở Lewes năm 1555. Ở ông, cái mùi kia tương tự khó chịu của tâm hồn, mà vì cái cảm giác khó chịu ấy còn yếu nên chưa thành kinh tởm hay khiếp sợ. Nhưng chỉ đến cái tên cũng đủ cho ký ức ông nhớ lại rành mạch trong giấc thôi miên.

      Swanhild hỏi:

      - Các đó có liên lạc gì đến con quái vật ?

      - Điều đó tôi chưa biết được. Cuộc thí nghiệm thứ nhất cho tôi biết rằng tôi sai đường. Hôm qua, tôi dự tính các kế hoạch để theo, sau khi biết chắc chắn rằng ông Oliver với chưa bao giờ tra cứu để biết lai lịch dòng dõi từ năm 1650 trở về trước: trong đoạn gia phả từ khoảng ấy có ghi chép vài chi tiết về những người chính trưởng trong dòng họ, nhất là về con trai cụ Warlock; tức là Godfrey, là người bỏ công giáo để theo đạo thệ phản cuối triều hoàng hậu Mary Tudor, sau hồi người bạn thân của ông cụ là Derek Carver chịu cực hình. Sáng hôm nay tôi nhờ vị mục sư lượm lặt các điều về chuyện Carver biên lại cho tôi và vừa rồi tôi mới đọc đến. Tôi nhận thấy rằng ký ức của ông sai chút nào.

      - Sao đọc những điều biên chép kia từ trước.

      - Là vì tôi muốn tránh truyền giao tư tưởng. Đây, những điều đại lược tôi nhờ biên lại đây: “Derek Carver, người Flaman theo đạo mới trốn sang . Ngụ Ở Brigton và mở quán rượu Sư Tử Đen ở phố Bliack Lion. Bị kết tội phản đạo năm 1555 và hành hình ở Lerves, trước cửa nhà hàng Ngôi Sao. Y bị chết thiêu cùng với tập Kinh Thánh thệ phản, giàn củi chất và trong cái thùng gỗ hắc ín”.

      Oliver và Swanhild cùng kêu lên tiếng kinh tởm. Luna đặt mảnh giấy vừa đọc bàn. Nàng trầm tiếng :

      - Tôi chỉ cần biết bằng ấy điều là đủ.

      Swanhild đưa người về phía trước, đôi mắt lóng lánh tia lửa khác thường. Nàng hỏi Luna:

      - Chắc có thể khêu gợi trong ký ức nặng di truyền của Oliver để đánh thức dậy những điều mà tổ tiên nhà tôi từng biết về chuyện con quái vật chứ?

      Luna đáp:

      - Tôi chắc may ra cũng được. Ông là nơi tàng trữ những kỷ niệm về cụ Warlock nhà này.

      Oliver cũng ngả người về phía Luna, vẻ mặt đăm đăm chăm chú. Chàng :

      - Tôi hiểu rồi. Còn Gođard, nghĩ sao?

      Gođard:

      - Tôi bao giờ ngờ vực cái tài của miss Bartendalẹ Duy chỉ có những cử chỉ bí mật của miss Bartendale làm tôi cứ phải nghĩ ngợi.

      - Tôi phải biết chắc chắn những lời chỉ dẫn của ông Hammond có là chân thực lắm mới được. Bây giờ ta lấy thanh gươm và những bím tóc làm căn cứ mà dò tìm xem những việc xảy ra cho cụ Pháp sư là những việc gì. Khi biết những điều đó, ta dò tìm xa hơn lên.

      Oliver reo:

      - Lần giở được trong trí não người như lần từng trang trong cuốn sách thực là kỳ diệu! Thế , nếu cụ Warlock trông thấy con quái vật, tất nhiên trí não cụ cũng bị kích thích mạnh, cũng mang dấu vết sâu chẳng kém gì trí não Godfrey bị kích thích vì cái chết thảm độc của Carver.

      Luna lắc đầu:

      - . giản dị đến thế đâu. Thấy con quái vật được có vài ba ngày ông cụ Pháp sư chết, mà con cái ông cụ có từ lâu rồi. Vậy mà kích thích chỉ có thể di lại cho con cháu sau này khi cha mẹ chưa có con bị kích thích.

      - À, ra thế. Nếu vậy ra lại dò tìm lấy người dòng họ Hammond nào trông thấy con quái vật trước khi người ấy có con, phải ?

      - Vâng. Mà tìm như thế mất nhiều giờ lắm, vì mỗi lần thôi miên được lâu quá giờ. Như vậy, trong khoảng dăm ba ngày, ngày nào ta cũng phải có lần thí nghiệm mới được.

      Oliver đáp ngay:

      - Xin sẵn lòng theo ý .

      Swanhild hỏi:

      - Còn tôi, tôi có giúp được việc gì ?

      - Tôi tiếc rằng, giúp được gì hết.

      Oliver:

      - Lạ nhỉ. Tôi cứ tưởng rằng người đàn bà là người dễ cảm xúc hơn cả, tất dễ nhận những dấu vết xúc cảm hơn mới phải chứ?

      Luna:

      - phải đâu! Người đàn bà là người dễ nóng nẩy rối loạn hơn, có thế thôi. Vả lại, những ký ức di truyền cũng như đặc tính của dòng dõi, truyền lại cách oái oăm lắm:: cứ định lệ nào; thường thường ở mỗi thế hệ chỉ lưu lại và chỉ phát triển ở riêng người nào trong họ đó thôi. Miss Hammond cũng có thể giúp đỡ tôi việc là lục tìm trong các nhà kho, hầm chứa, các hòm rương, các ngăn kéo để thu nhặt những giấy má cổ tìm thấy trong các nơi đó. Cái bản cảo đưa tôi xem hôm qua có rằng nhà bác học và chiêm tinh học Nicholas Culpeper năm 1651 có điều tra về con quái vật. Culpeper chắc cũng có viết tường tận về công cuộc đó, bây giờ mà tìm ra được bản ấy hay cho tôi vô chừng!

      Swanhild mừng rỡ :

      - Vâng, tôi về nhà xin tức khắc tìm ngay.

      - Thế là mỗi người chúng ta đều việc. Đến mai, tôi Dannow để theo cuộc điều tra của các nhà chuyên trách, ông Hammond ạ. (Oliver rất vui lòng). Còn bây giờ ta nghỉ ngơi thôi. Gần hai giờ rồi, ta hút điếu thuốc lá và xoay chuyện khác để đợi bữa cơm vừa. nên làm việc quá sức.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :