Cô gái có hình xăm rồng - Stieg Larsson (Trinh thám)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      [​IMG]
      Thẻ:Trinh Thám, Hình

      Nguồn: e-thuvien

      Được bạn: Mọt Sách đưa lên

      vào ngày: 13 tháng 11 năm 2013


      Chế bản ebook: Phạm Huy Hùng.



      Tác giả: Stieg Larsson. - Dịch giả: Trần ̃nh.
      Nhà xuất bản: Nxb Phụ Nữ

      Giới thiệu



      C ô có hình xăm rồng là tập 1 trong bộ ba tiểu thuyết Millennium của nhà văn Thụy Điển Stieg Larsson. Ngay từ khi ra mắt vào năm 2004 tại Thụy Điển, bộ tiểu thuyết gây được tiếng vang lớn, và năm 2009 trở thành tác phẩm bán chạy nhất châu Âu, với khoảng 26 triệu ấn bản được phát hành toàn thế giới. Nhà xuất bản Phụ nữ xuất bản ấn bản tiếng Việt của bộ tiểu thuyết này, với tập 1 có hình xăm rồng được phát hành toàn quốc vào tháng 3 năm 2010. Hai tập tiếp theo dự kiến ra mắt độc giả Việt Nam cùng trong năm 2010.


      Nhân vật xuyên suốt của bộ ba tiểu thuyết là Lisbeth Salander, trẻ có tuổi thơ và tuổi trưởng thành hết sức đặc biệt. Bị coi là có vấn đề về mặt tâm thần, từ năm 13 tuổi Salander được nuôi dạy trong bệnh viện dành cho thiếu nhi, mô hình nửa giống trại trẻ mồ côi, nửa giống bệnh viện tâm thần. bé lớn lên độc và mất lòng tin vào phần lớn những người xung quanh. Vẻ bề ngoài cứng rắn gai góc, cách cư xử, giao tiếp như ngược lại những nguyên tắc xã hội, nhưng Salander có trí thông minh tuyệt vời, trí nhớ đáng ngạc nhiên, cộng với liều lĩnh và quyết đoán đến ngờ.

      Trong tập đầu tiên, có hình xăm rồng, Salander bị cuốn vào cuộc điều tra cùng với Mikael Blomkvist, nhà báo lão luyện nhưng uy tín suy giảm do bài báo viết về vụ bê bối tài chính của Tập đoàn Wennerstrom bị cho là “ có căn cứ”. Blomkvist được Henrik Vanger, người đứng đầu dòng họ giàu có và danh giá, thuê để tìm hiểu đằng sau vụ mất tích từ hơn 40 năm trước của cháu Harriet. Henrik Vanger hứa rằng nếu Blomkvist vén màn được câu chuyện, ông cung cấp cho những bằng chứng chống lại Tập đoàn Wennerstrom.

      Blomkvist nhận lời với Henrik Vanger, từ đó tình cờ quen biết Lisbeth Salander. Với hiểu biết xuất sắc (nhưng bất hợp pháp) của tin tặc về mọi ngóc ngách trong thế giới mạng, Salander giúp Blomkvist lần ra được sau vụ mất tích của Harriet Vanger và phát bí mật của những vụ giết người hàng loạt có liên quan đến người của dòng họ Vanger. Hơn thế nữa, còn giúp đưa ra ánh sáng những gian lận thương mại của Tập đoàn Wennerstrom. bất chấp nguy hiểm và nhiều chuẩn mực xã hội thông thường để cứu chỉ uy tín nhà báo của Blomkvist mà còn cứu chính mạng sống của .

      Với có hình xăm rồng, những bí của dòng họ, những góc đen tối của thế giới tài chính, những mặt trái của chế độ giám hộ thanh thiếu niên – vốn được coi là tiến bộ của xã hội Thụy Điển, những vấn đề đạo đức nghề nghiệp đặt ra với người làm báo… tất cả đều được phơi bày khoan nhượng. Cuốn sách dày hơn 500 trang, nhưng khó có thể dứt ra cho tới khi đọc hết dòng cuối cùng.


      Stieg Larsson

      Có Hình Xăm Rồng

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      LỜI DẪN

      thứ Sáu tháng Mười


      V iệc này diễn ra hằng năm gần như là nghi thức. Và đây là ngày sinh lần thứ tám mươi hai của ông. Như thường lệ, khi hoa được đem đến, ông lại lột tờ giấy bọc và nhấc điện thoại gọi sĩ quan cảnh sát điều tra Morell, ông này khi về hưu chuyển đến hồ Siljan ở Dalarna. Họ chỉ cùng tuổi mà còn sinh cùng ngày, điều này có chút gì đó nhạo cợt trong hoàn cảnh nay. Người cảnh sát già ngồi đợi với tách cà phê, chờ cuộc gọi.

      - Đến rồi đấy.

      - Năm nay nó thế nào ?

      - Tôi biết là loại gì. Phải hỏi ai đó mới được. Màu trắng.

      - thư, tôi ngờ thế.

      - Chỉ hoa thôi. Khung cũng như kiểu năm ngoái. Kiểu tự làm lấy ấy mà.

      - Dấu bưu điện?

      - Stockholm

      - Viết tay?

      - Như mọi bận, bằng chữ hoa hết. Thẳng đứng nhưng chữ viết ràng.

      Đến đây đề tài cạn và trong chừng phút lời trao đổi lại. Viên cảnh sát già về hưu ngả người vào chiếc ghế bếp, hút tẩu thuốc. Ông biết ông còn được mong đưa ra lời bình luận súc tích hay câu hỏi sắc sảo nào nữa, câu hỏi có thể rọi ánh sáng mới vào vụ án. Những ngày ấy qua lâu rồi và trao đổi giữa hai người xem ra giống như gắn bó về nghi thức với bí mật mà có ai khác thế gian này gỡ ra cũng chẳng được lợi lộc gì.

      Với cái tên Latin là Leptospermum (Myrtaceae) rubinette, đó là loại cây cao khoảng mười centimét với bộ lá giống như thạch nam, hoa trắng với năm cánh xòe ngang chừng hai centimét rưỡi.

      Loài cây này gốc gác từ các bụi rậm và cao nguyên nước Úc, người ta tìm thấy chúng ở trong các trảng cỏ bên đó. Ở đấy nó có tên là Tuyết Sa mạc. Sau này ai đó ở Vườn thực vật học tại Uppsala xác nhận ở Thụy Điển ít trồng giống cây này. Nhà thực vật học viết trong báo cáo của bà rằng nó có họ với cây trà và đôi khi nó thường bị lẫn nhiều hơn với cây Leptospermum scoparium, người em họ phổ biến của nó vốn mọc vô vàn ở New Zealand. Bà chỉ ra chỗ để phân biệt chúng là thứ rubinette này có vô sô các chấm li ti màu hồng ở đầu các cánh hoa, đem cho hoa ánh hồng hồng nhạt.

      Rubinette gần như là thứ hoa tham vọng. Nó có thuộc tính y học nào được biết đến và nó cũng gây ảo giác. ăn được, nó cũng có ứng dụng nào trong sản xuất thuốc nhuộm từ thực vật. Mặt khác, thổ dân Úc coi vùng núi Ayers Rock và thực vật quanh đó là thiêng liêng.

      Nhà thực vật học bản thân bà trước đây chưa hề nhìn thấy cây nào như thế này, nhưng sau khi tham vấn các đồng nghiệp bà báo cáo rằng bà có ý định du nhập cây này vào vườn ươm ở Goteborg và nó có thể được các nhà thực vật học nghiệp dư trồng, dĩ nhiên thôi, khó trồng nó ở Thụy Điển vì nó hợp với khí hậu khô và phải ở trong nhà nửa năm trời. Nó hợp đất có đá vôi và nó cần được tưới từ bên dưới. Nó cần được nuông chiều.

      thứ hoa hiếm như thế chắc tiêu bản đặc biệt này làm cho người ta dễ dàng tìm ra gốc tích của nó hơn, nhưng trong thực tế lại thể được. có sổ đăng ký để kiểm tra nó, có bằng phát minh để khai thác. Ở bất cứ đâu, ai hoa hoặc ham thích những thực vật mới lạ cũng đều có thể tiếp xúc được với hạt giống hay cây của nó. Và ở bất cứ đâu tại Châu Âu, ở bất cứ đâu tận bên kia bán cầu nhiều người có thể sang tay giữa bạn bè hay mua nó qua đường bưu điện.

      Nhưng đây chỉ là trong sêri những đóa hoa bí hằng năm cứ vào ngày đầu tiên của tháng Mười lại đến bằng đường bưu điện. Chúng luôn đẹp và phần lớn là loại hoa hiếm, luôn được ép và bày xếp giấy màu nước ở trong cái khung đơn giản ngang mười lăm centimét, dọc hai mươi bảy centimét rưỡi.

      Chỉ ít người biết câu chuyện kỳ lạ về các bông hoa mà báo chí bao giờ đến. Ba chục năm trước, việc những bông hoa đến đều đặn là đối tượng của nhiều soi mói - ở phòng hóa nghiệm Pháp y Quốc gia, của các chuyên gia vân tay, chuyên gia chữ viết, các nhà điều tra hình hai họ hàng hay bạn bè của người được nhận hoa. Nay các diễn viên của vở kịch này chỉ còn có ba; ông già hằng năm chờ đến ngày sinh nhật, viên cảnh sát về hưu và cái người đem hoa đến bưu điện gửi. Hai người đầu ít nhất cũng tới cái tuổi mà chả còn mấy nỗi.

      Viên cảnh sát là người kỳ cựu lọc lõi. Ông chẳng bao giờ quên vụ án đầu tiên của mình, cái vụ ông phải bắt giam công nhân hung hãn và say xỉn đến phát sợ ở trạm điện nhánh phụ trước khi gây ra những rắc rối khác. Trong đời cảnh sát của mình, ông tóm về đồn những tay gian lận vặt, những ông chồng vũ phu, những kẻ ăn cắp xe hơi và lái xe say rượu. Ông phải xử lý những kẻ đục tường bẻ khóa, bán ma túy, hiếp dâm và gã đánh bom loạn óc. Ông dính vào chín vụ án mạng hay tàn sát nhẫn tâm. Năm trong chín vụ này, kẻ giết người tự ý trình báo cảnh sát, đầy ăn năn, thú nhận giết vợ mình hay em hay vài họ hàng khác. Hai vụ khác được giải quyết trong ít ngày. vụ nữa đòi Cảnh sát Hình Quốc gia giúp đỡ và kéo dài những hai năm.

      Vụ thứ chín được giải quyết trong hài lòng của cảnh sát, ý họ biết kẻ giết người là ai nhưng vì tang chứng đủ vững chãi nên bên công tố quyết định xét xử. Viên sĩ quan cảnh sát điều tra thất vọng, cuối cùng cũng đến lúc hết thời hiệu nên vụ án phải chấm dứt. Nhưng chung ông có thể ngoái nhìn lại nghiệp đầy ấn tượng.

      Ông chả thấy gì trừ vui.

      Với người điều tra, “Vụ hoa ép” – cái vụ cuối cùng, giải quyết được và khiến ông nản lòng – vẫn hằng năm trời ray rứt ông. Tình hình thế là thành những hai lần phi lý. Vì sau khi bỏ cả hàng nghìn giờ ra nghiền ngẫm, trong giờ làm việc hay lúc nghỉ ngơi, ông vẫn thể yên tâm mà được rằng vụ án quả là được gây ra.

      Hai người đàn ông biết rằng người bày xếp những bông hoa chắc chắn phải găng tay, rằng hề có vân tay ở khung hay miếng kính. Cái khung có thể mua ở cửa hàng camera hay các tiệm văn phòng phẩm khắp thế giới. Khá là đơn giản, gần như có manh mối nào để lần theo. Phần lớn gói hàng gửi qua bưu điện ở Stockholm nhưng ba bận ở London, hai bận ở Paris, hai bận ở Copenhagen, bận ở Madrid, bận ở Born và bận ở Pensacola, Florida. Viên sĩ quan cảnh sát điều tra phải dò tìm nó trong tập bản đồ thế giới.

      Sau khi đặt điện thoại xuống, ông già vừa trải qua sinh nhật lần thứ tám mươi hai ngồi lúc lâu nhìn các bông hoa đẹp nhưng vô nghĩa mà ông biết đến cả tên. Rồi ông nhìn lên bức tường ở bên bàn giấy. Ở đấy treo bốn mươi bông hoa ép trong các khung. Bốn hàng mười và ở dưới cùng có bốn khung. Hàng cùng ở khung thứ chín hoa bị mất. Tuyết sa mạc là số bốn mươi tư đây.

      Ông bất thần bật khóc. Ông ngạc nhiên về chính cơn xúc động bùng phát đột ngột sau gần bốn chục năm.


      Stieg Larsson

      Có Hình Xăm Rồng

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      PHẦN 1


      DỮ KIỆN


      20 THÁNG MƯỜI HAI – 3 THÁNG GIÊNG

      PHẦN 1


      Chương 1

      Thứ Sáu, 20 tháng Mười hai


      P

      Mười tám phần trăm phụ nữ ở Thụy Điển

      từng lần bị đàn ông đe dọa

      hiên tòa kết thúc hẳn hoi; mọi cái có thể đều nhưng bao giờ ngờ là thua. Bản nghị án viết tay trao xuống lúc 10 giờ sáng thứ Sáu và tất cả những gì còn lại là kết luận của các phóng viên chờ ở hành lang bên ngoài tòa án quận.

      Nhìn thấy họ qua lối cửa ra vào, “Carl” Mikael Blomkvist bước chậm lại. có hy vọng kháng án nhưng các câu hỏi thể tránh được và - người của bàn dân thiên hạ - biết rằng chúng được đặt ra và phải được trả lời. Là tội phạm là thế này đây, nghĩ. Ở phía bên kia cái micro. thẳng người lên và cố mỉm cười. Các phóng viên đáp lại bằng vẻ thân thiện, gần như bối rối.

      Blomkvist :

      - Ta xem nào… Aftonbladet, Expressen, hãng tin TT, kênh truyền hình TV4 và … ở đâu nhỉ? … à đúng, Dagens Nyheter 1, chắc tôi là tên tuổi nổi tiếng rồi đây.

      Phóng viên tờ báo chiều lên tiếng:

      - Kalle Blomkvist2, xin hãy ý kiến của mình với báo chí.

      Nghe thấy biệt hiệu, Blomkvist cố trợn mắt lên như mọi lần. lần, khi hai mươi ba tuổi và vừa bắt đầu công việc làm thêm trong dịp hè như phóng viên, Blomkvist may mắn vớ được băng nhóm thoát khỏi năm vụ cướp ngân hàng trong hai năm liền. Chắc ở tất cả mọi vụ vẫn là cái băng này. Thương hiệu của chúng là nẫng hai nhà băng luôn lèo mà chính xác như quân . Chúng đeo mặt nạ các nhân vật Disney nên cảnh sát cho chúng cái biệt hiệu là Băng Vịt Donald. Báo chí đổi tên chúng ra là Băng Gấu nghe rùng rợn hơn, hợp hơn với thực tế là ở hai trường hợp chúng thẳng cánh bắn cảnh cáo và nạt những người qua.

      Lần thứ sáu chúng cướp ngân hàng tại Ostergotland là vào lúc mùa nghỉ lễ rộ. phóng viên đài phát thanh địa phương tình cờ lại ở ngân hàng lúc ấy. Bọn cướp vừa ta đến ngay điện thoại công cộng đọc bài tường thuật của mình để cho đài phát thanh phát trực tiếp.

      Blomkvist ở vài ngày với bạn tại nhà bố mẹ ta, căn nhà gỗ mùa hè gần Katrineholm. thể giải thích chính xác, ngay cả với cảnh sát, tại sao có mối quan hệ này, nhưng khi nghe tường thuật báo chí, nhớ đến nhóm bốn người đàn ông ở trong căn nhà gỗ mùa hè bên dưới đường chừng trăm mét. thấy họ chơi cầu lông ngoài sân: bốn gã lực sĩ tóc vàng mặc quần soóc và bỏ sơ mi. Họ ràng là những người luyện thể hình và có cái gì đó ở họ khiến nhìn thêm lần nữa – có thể vì trận cầu lại chơi ở dưới cái nắng nóng rẫy.

      Chả có lý do rệt nào để nghi họ là những tên cướp ngân hàng nhưng vẫn lên quả đồi rồi nhìn xuống căn lều của họ. Được khoảng chừng bốn chục phút chiếc Volvo lên đỗ ở trong sân. Những người trẻ tuổi vội vã ra và ai cũng mang túi thể thao cho nên có thể chỉ là họ bơi trở về chứ chả làm gì. Nhưng người trong bọn họ quay lại xe, lấy ở trong cốp ra cái gì mà hấp tấp che áo jacket lên. Ngay ở chỗ quan sát khá xa của mình, Blomkvist vẫn có thể thấy đó là khẩu AK4 cũ ngon lành, thứ súng vẫn là bạn đồng hành thường xuyên của trong những năm làm nghĩa vụ quân .

      gọi cảnh sát và thế là bắt đầu cuộc phong tỏa ba ngày ngôi nhà gỗ, báo chí thoải mái đưa tin với Blomkvist ở ghế cùng và nhận khoản thù lao hậu hĩ của tờ báo chiều. Cảnh sát đặt bản doanh trong đoàn xe trong vườn của nhà gỗ mà Blomkvist ở.

      Băng Gấu bị tóm gọn làm cho thành ngôi sao số dách, tâng lên làm nhà báo trẻ. Mặt trái của nổi tiếng này là chuyện tờ báo chiều khác thể kìm nổi giật tít “Kalle Blomkvist phá án”. Do bà có tuổi giữ chuyên mục viết, bài báo mỉa mai này có gợi đến nhà thám tử trẻ tuổi trong các sách cho thiếu nhi của Astrid Lindgren. Tệ hơn nữa, kèm với bài viết, tờ báo còn đăng bức ảnh Blomkvist há hốc mồm ra ngay cả khi giơ ngón tay trỏ lên cảnh báo.

      Chả hề hấn gì vì Blomkvist cả đời dùng tên Carl. Nhưng từ đấy, bị các đồng nghiệp đặt cho biệt hiệu Kalle Blomkvist và nó làm ngán ngẩm, tính từ này được dùng đề khiêu khích, thân thiện nhưng cũng hẳn là thân thiện. Tuy kính trọng Astrid Lindgren – sách của bà – vẫn ghét cái biệt hiệu này. Phải mất nhiều năm và sau những thành công báo chí nặng ký hơn nữa, cái biệt hiệu ấy mới bắt đầu nhạt , nhưng mỗi khi người ta dùng cái tên ấy cốt để nghe thấy vẫn ngỡ mình khuỵu chân xuống.

      Còn ngay lúc này, cho chấm hết bằng nụ cười tỉnh bơ rồi với tay phóng viên tờ báo chiều:

      - Ô, thôi nào, hãy tự nghĩ lấy cái gì chứ. vẫn quen thế cơ mà.

      Giọng khó chịu. Họ tất cả đều ít nhiều hiểu nhanh và sáng hôm đó những lời phê phán Blomkvist hiểm độc nhất chưa đến. trong những nhà báo ở đó có lúc cùng làm việc với . Và trong bữa tiệc vài năm trước, gần như ngon lành nhót được trong những phóng viên – phóng viên của chương trình She TV4.

      - Hôm nay ông nổi – người của Dagenes Nyheter, ràng tay trẻ tuổi làm thêm – Ông cảm thấy sao?

      Mặc dù khí nghiêm túc, cả Blomkvist lẫn các nhà báo lớn tuổi hơn đều thể nén cười. liếc nhìn TV4 – Ông cảm thấy sao? Chỉ có tay phóng viên thể thao cả ngố mới chĩa micro mặt chàng vận động viên vừa chạy hết hơi về đến đích mà hỏi câu ấy.

      - Tôi chỉ tiếc là tòa án ra kết luận khác, - , hơi giận dỗi đôi chút.

      - Ba tháng tù ngồi và 150.000 curon tiền bồi thường. Tòa khá là nghiêm khắc – Phóng viên của She TV4 .

      - Tôi sống sót.

      - Ông xin lỗi Wennerstron ? Bắt tay ông ta chứ?

      - Tôi nghĩ là .

      - Vậy ông vẫn ông ấy là kẻ lừa đảo? – Dagens Nyheter hỏi.

      Tòa xử Blomkvist là vu cáo hạ nhục nhà tài chính Hans-Erik Wennerstron. Phiên tòa kết thúc và Blomkvist có ý khiếu nại. Nếu ở các bậc tam cấp của tòa án này, nhắc lại các tuyên bố của mình cái gì xảy ra? Blomkvist quyết định là muốn tìm ngả đó.

      - Tôi nghĩ tôi có lý do tử tế để công bố cái thông tin mà tôi giữ. Tòa xử khác và tôi phải thừa nhận quá trình xét xử là làm đúng quy trình. Những người của chúng tôi ở bộ phận xã luận phải thảo luận việc xét xử rồi chúng tôi mới quyết định làm gì. Tôi có gì để thêm cả.

      - Nhưng sao ông lại quên mất rằng các nhà báo phải thẳng thắn ủng hộ các khẳng định của họ? – phóng viên của She ở TV4 hỏi. Nét mặt ta trông có vẻ là trung lập nhưng Blomkvist nghĩ thoáng thấy ánh mắt lộ vẻ bất bình đầy thất vọng.

      Các phóng viên ở đó, ngoài cậu con trai ở Dagens Nyheter, đều là những dân kỳ cựu trong nghề. Với họ thể quan niệm nổi câu hỏi kia lại được trả lời.

      - Tôi có gì để thêm, - nhắc lại. Nhưng khi những người khác đành bằng lòng với câu trả lời ấy, TV4 chẹn lại ở cửa tòa án để phỏng vấn ngay trước camera. ta rất tử tế và có đủ các câu trả lời rành rọt để thỏa mãn tất cả các phóng viên đứng ở sau ta. Câu chuyện rồi lên các tít báo, nhưng tự nhắc mình rằng họ đâu có tìm kiện truyền thông của năm ở đây. có cái họ cần, các phóng viên quay về các phòng tin tức riêng của họ.

      tính bộ nhưng hôm nay là ngày tháng Mười hai gió quật đùng đùng và sau phỏng vấn thấm rét. Khi xuống các bậc tam cấp tóa án, trông thấy William Borg ra khỏi xe hơi. chắc ngồi ở đây suốt cuộc phỏng vấn. Mắt họ gặp nhau và Borg mỉm cười.

      - Đến tận đây để thấy cầm tờ giấy này trong tay là bõ công rồi.

      Blomkvist rằng. Blomvist và Borg biết nhau mười lăm năm. Họ cùng làm với nhau như phóng viên mới vào nghề cho bộ phận tài chính của tờ báo sáng. Có thể là vấn đề thuộc về hóa chất nhưng nền móng cho thù hận suốt đời được đặt nền móng từ đấy. Trong mắt Blomvist, Borg là phóng viên hạng ba chuyên chọc kháy tất cả những ai ở quanh , làm họ khó chịu bằng những trò đùa bẩn thỉu và bằng những nhận xét hạ uy tín các phóng viên có kinh nghiệm, nhiều tuổi hơn. hình như đặc biệt ưa các nữ phóng viên có tuổi. Họ từng có những cãi cọ đầu tiên rồi sau đó còn tiếp diễn, rồi bao lâu đối kháng quay ra thành chuyện cá nhân.

      Họ đều đặn vập phải nhau trong nhiều năm nhưng chỉ tới cuối những năm 90 họ mới trở thành những kẻ thù đáng gờm. Blomkvist ra quyển sách về nghiệp vụ báo chí tài chính trích la liệt từ số bài báo ngu ngốc của Borg. Xuất như gã đần độn, Borg đổi trắng thay đen nhiều việc làm và viết ca ngợi các công ty “.com” 3 bờ vực phá sản. Sau đó, khi tình cờ gặp nhau ở quán bar tại Soder, họ dùng đến mọi chiêu trừ quả đấm. Borg bỏ nghề báo và bây giờ làm việc trong lĩnh vực quan hệ công chúng (PR) – với mức lương cao hơn đáng kể – ở hãng mà, làm cho chuyện càng tệ hại hơn, chính lại là bộ phận trong vòng ảnh hưởng của nhà công nghiệp Hans-Erik Wennerstrom.

      Hai người nhìn nhau hồi lâu rồi Blomkvist quay ngoắt . Chỉ có người như Borg mới lái xe đến tòa án chỉ để ngồi đó cười nhạo .

      Chiếc xe buýt số 40 phanh lại ở bến ngay trước xe của Borg. Và Blomkvist nhảy phóc lên để trốn tránh. xuống xe ở Freidhemsplan, phân vân nên làm gì. vẫn cầm tờ phán quyết ở trong tay. Cuối cùng bộ tới quán Kafé Anna, cạnh lối vào gara dẫn xuống bên dưới đồn cảnh sát.

      Nửa phút sau, gọi cốc cà phê latte và miếng sandwich; radio phát tin tức buổi trưa. Câu chuyện tiếp theo là tin kẻ đánh bom tự sát ở Jerusalem và tin Chính phủ chỉ định tiểu ban điều tra cái được cho là hình thành của cácten mới trong công nghiệp xây dựng.

      Nhà báo Mikael Blomkvist của tạp chí Millennium sáng nay bị tuyên án 90 ngày tù vì vu khống nhà công nghiệp Hans-Erik Wennerstom. Trong bài báo đầu năm nay từng làm cho cái gọi là vụ Minos được chú ý đến, Blomkvist với Wennerstom buôn bán vũ khí bằng vốn mà Nhà nước dự định đầu tư vào công nghiệp ở Ba Lan. Blomkvist cũng bị tuyên án trả 150.000 curon tiền bồi thường. Bertil Cammermarker, luật sư của Wennerstom trong phát ngôn thân chủ của ông hài lòng về xét xử. Ông đây là vụ vu khống đặc biệt xúc phạm.

      Bản án dài hai mươi sáu trang. Nó trình bày các lý do cho thấy Blomkvist phạm tội ở mười lăm điểm vi phạm về vu khống chồng chất nhà doanh nghiệp Hans-Erik Wennerstom. Nên phải trả cho mỗi điểm vi phạm mười nghìn curon và sáu ngày tù. Và rồi lại còn án phí và tiền trả cho luật sư của . thể bắt mình cứ nghĩ đến tất cả các chi phí này nhưng suy tính lại thấy rằng lẽ ra còn tệ hại hơn thế nữa kia; tòa cho trắng án ở bảy điểm vi phạm khác.

      Trong khi đọc bản xét xử, cảm thấy dạ dày trướng dần lền và khó chịu. ngạc nhiên. Khi phiên tòa bắt đầu, biết rằng nếu bị kết án là điều kỳ lạ và rồi giải hòa được với kết quả của phiên tòa. ngồi suốt hai ngày xét xử, bình tĩnh đến mức ngạc nhiên và trong hơn mười ngày tiếp theo chờ tòa kết thúc nghị án vẫn cảm thấy có gì đặc biệt trong người để rồi tới chỗ cầm tờ phán quyết này ở trong tay như nay. Bây giờ chỉ còn cảm giác thoải mái về thân xác lan khắp người .

      Khi cắn miếng sandwich, miếng bánh như phồng to ra ở trong miệng. thấy khó nuốt và gạt đĩa thức ăn sang bên.

      Đây là lần đầu tiên Blomkvist đối mặt với cuộc luận tội. Thực ra vụ xét xử này chỉ là chuyện . tội vào hạng cân. Dẫu sao cũng phải cướp có vũ khí, giết người hay hiếp dâm. Nhưng xét từ quan điểm tài chính nó lại nghiêm trọng – Millennium phải là soái của truyền thông thế giới với nguồn tiền vô hạn, tờ tạp chí chỉ vừa xoẳn hòa vốn – nhưng tòa xử báo hiệu có thảm họa. Vấn đề nằm ở chỗ Blomkvist là trong các chủ đồng sở hữu Millenium và đồng thời, khá là ngu ngốc, vừa viết lại vừa là chủ bút tờ tạp chí. có thể tự trả 150.000 curon bồi thường tuy như thế gần như là xóa sổ món tiền tiết kiệm của . Tờ tạp chí có thể lo án phí. Nếu chi tiêu khôn ngoan chuyện này có thể ổn.

      loay hoay với ý định bán căn hộ của mình, tuy tan nát lòng. Vào cuối những năm 80 lên như diều, trong thời kỳ có công việc chắc chắn và đồng lương khá hậu, tìm đây đó lấy nơi thường xuyên để sống. chạy khắp lượt các hãng giới thiệu nhà rồi cuối cùng loạng quạng gặp căn hộ áp mái hơn 200 mét vuông ở ngay cuối đường Bellmansgatan. Người chủ trước làm dở nó thình lình nhận việc trong công ty “.com” ở nước ngoài nên Blomkvist có thể mua nó đắt lắm.

      bỏ hết các thiết kế đầu tiên của người thiết kế nội thất, tự làm lấy công việc này. bỏ tiền vào sửa khu vực buồng tắm và bếp nhưng thay vì làm sàn gỗ và các bức tường bên trong để làm cho nó thành căn hộ hai phòng mhư dự định lấy cát đánh bóng gỗ sàn, sơn trắng các bức tường xù xì rồi dấu các mảng xấu nhất vào sau hai bức tranh màu nước của Emanuel Bernstone. Kết quả là gian sinh hoạt mở với khu vực buồng ngủ ở sau giá sách, khu vực ăn uống và buồng sinh hoạt cạnh ngay cái bếp sau quầy bar. Ngôi nhà có hai cửa sổ mái và cửa sổ ở đầu hồi có thể nhìn thấy các mái nhà đến Gamla Stan, khu vực cổ kính nhất ở Stockholm và con sông Riddarfjarrden. nhìn thấp thoáng thấy nước sông ở gần cửa cống Slussen và quang cảnh Tòa thị chính thành phố. Nay thể cho mình căn hộ như thế và thiết tha muốn giữ lấy nó.

      Nhưng việc có thể mất căn hộ là cái gì bên cạnh việc nhận lấy cú đập vào giữa mặt về mặt nghề nghiệp. Để sửa chữa các tổn thất cũng phải mất thời gian - nếu quả như có thể sửa chữa được.

      Đây là vấn đề về uy tín. Trong tương lai có thể thấy trước, các vị biên tập viên ngại ngùng đăng các bài báo có tên . Vẫn có nhiều bạn bè trong nghề báo nhận thấy rằng là nạn nhân của vận đen và hoàn cảnh trớ trêu chứ thể nào phạm phải sai lầm sơ đẳng đến như vậy.

      Cái làm đau nhất là bị bẽ mặt. nắm mọi con bài chủ thế nhưng chịu thua kẻ găngxtơ hạng bét mặc bộ hàng hiệu Armani. kẻ đầu cơ thị trường chứng khoán ti tiện. tên lưu manh cùng gã luật sư tên tuổi nhăn nhở cười nhạo nông nỗi của trong suốt phiên toà.

      Sao nhân danh Chúa mà tình lại đến oan trái như thế này chứ?

      Vụ Wennerston bắt đầu từ câu chuyện trong buồng lái của chiếc Malar-30 hơn mười hai mét vào Đêm Giữa mùa hè 4 năm rưỡi trước. Nó tình cờ xảy ra, tất cả do cựu đồng nghiệp nhà báo nay là chân PR xun xoe ở hội đồng hạt, muốn trộ bạn mới của gã. Gã quýnh quáng thuê chiếc Scampi làm chuyến dong buồm lãng mạn vài ngày trong quần đảo Stockholm. Vừa từ Hallstahammar đến Stockholm để học hành, sau khi cho ra vài dấu hiệu phản đối nhận lời nhưng với điều kiện chị ta và cậu bạn trai của chị cũng được cùng. Cả bộ ba ở Hallstahammar đều chả có chút kinh nghiệm lái du thuyền, còn đồng nghiệp cũ của Blomkvist may lại có nhiều nhiệt tình hơn kinh nghiệm. Ba hôm trước khi dong buồm họ tuyệt vọng gọi và thuyết phục đến làm thành viên thứ năm trong đoàn, thành viên biết hàng hải.

      màng lắm đến đề nghị này nhưng rồi khi được hứa hẹn vài ngày thư giãn trong quần đảo với thức ăn ngon và bạn cùng vui vẻ Blomkvist đổi ý. Các hứa hẹn này thành mây khói và chuyến viễn du quay ra là thảm họa ngoài tưởng tượng. Họ con đường đẹp nhưng gây ấn tượng lắm từ Bullando qua eo biển Furusund với chỉ 9 hải lý giờ, nhưng bạn mới say sóng liên hồi kỳ trận. Chị bắt đầu cãi nhau với cậu bạn trai và chả ai trong bọn họ tỏ ra quan tâm mảy may đến việc học lái tàu. Mau chóng thấy là người ta chờ đợi Blomkvist gánh vác lấy con tàu còn họ cho những lời khuyên có thiện ý nhưng ngu xuẩn. Sau đêm đầu tiên ở vịnh Angso, sẵn sàng neo tàu vào cảng ở Furusund rồi xe buýt về nhà. Chỉ có những lời kêu gọi tuyệt vọng của họ mới thuyết phục được ở lại.

      Trưa hôm sau, khá sớm để vẫn còn có ít khoảng trống, họ cột tàu vào cầu tàu ở đảo Arholma đẹp như tranh. Họ cùng làm chút bữa trưa thịnh soạn và lúc vừa ăn xong Blomkvist để ý thấy con tàu M-30 màu vàng lướt vào trong vịnh, dùng chỉ buồm cái. Con tàu nghiên sườn kiều chạy vát tới trong khi người cầm lái tìm chỗ ở cầu tàu. Cũng lục soát gian xung quanh, Blomkvist nhìn thấy cái khe duy nhất còn lại ở khoảng cách giữa con tàu của bọn con tàu H ở mạn. Con tàu M-30 hẹp thân vào lọt khuýp chỗ này. đứng lên ở đuôi tàu, chỉ chỗ; người đàn ông trong chiếc M-30 giơ tay cảm ơn rồi cho tàu hướng đến cầu tàu. thủy thủ đơn độc ngần ngại chuyện khởi động máy, Blomkvist nhận xét. nghe thấy tiếng xích neo cọ và vài giây sau tấm buồm chính hạ xuống, trong khi như con mèo phải nước sôi, thuyền trưởng di chuyển để ngắm bánh lái thẳng băng với khe đậu, đồng thời ở đằng mũi tàu chuẩn bị đưa tàu vào bến.

      Blomkvist leo lên lan can thành tàu chìa tay ra nắm dây neo. Con tàu mới đến chỉnh lần cuối cùng đường rồi lướt hoàn hảo đến đuôi con Scampi, lúc này dịch chuyển rất chậm. Chỉ lúc người đàn ông tung dây neo cho Blomkvist họ mới nhận ra nhau và toét miệng cười khoái trá.

      - Chào, Robban. Sao dùng động cơ của cậu để cho các con tàu ở bến này bị bong sơn hả?

      - Chào, Mike. Tớ nghĩ thấy có gì đó quen quen ở cậu. Tớ chỉ thích dùng máy tớ nếu như tớ khởi động được cái của khỉ ấy. Nó chết hai hôm trước ở ngoài Rodloga rồi.

      Họ bắt tay nhau qua lan can tàu.

      Cách đây lâu, từ hồi những năm 70, ở trường Kungsholmen, Blomkvist và Robert Lindberg là bạn, thậm chí bạn rất tốt của nhau. Như thường xảy ra với các chí cốt thời học, sau khi mỗi người ngả riêng rẽ, tình bạn nhạt . Trong hai chục năm qua, có lẽ họ gặp nhau đến nửa tá lần, lần cuối vào bảy tám năm trước. Nay hai người thú vị xem xét nhau. Lindberg có bộ tóc rối tung, nước da rám nắng và chòm râu hai tuần chưa cạo.

      Blomkvist vụt thấy phơi phới chín tầng mây. Khi thằng cha PR và bạn ngố nghế của ta lên bờ nhảy loanh quanh ở Cực Giữa Mùa hè đằng trước cửa hàng tạp phẩm ở phía bên kia hòn đảo Blomkvist ở lại trong buồng lái của chiếc M-30, với cá trích và rượu aquavit 5, cùng gã bạn cũ thời học trò đấu hót.

      Tối hôm đó, sau khi hai người ngừng cuộc chiến chống lại đám muỗi Arholma nổi tiếng và chuyển xuống cabin, sau vài ngụm aquavit, câu chuyện quay sang giỡn thân mật đến đạo đức ở trong thế giới các tập đoàn. Lindberg từ nhà trường đến trường Kinh tế Stockholm rồi vào ngân hàng. Blomkvist tốt nghiệp trường Báo chí Stockholm rồi dành nhiều năm tháng nghiệp của mình vào việc vạch ra nạn tham nhũng trong thế giới ngân hàng và doanh nghiệp. Câu chuyện của họ bắt đầu khai thác sang những điều từng được cho là vừa ý về đạo đức ở trong số hiệp định có lọng vàng 6 vào những năm 90. Cuới cùng, Lindberg thừa nhận hai tên xấu xa vô luân ở trong thế giới kinh doanh. bỗng nhìn Blomkvist, vẻ mặt chợt nghiêm túc.

      - Tại sao cậu viết về Hans-Erik Wennerstrom?

      - Tớ chẳng biết gì về lão ta viết làm sao.

      - Đào, đào , nhân danh Chúa. Cậu biết bao nhiêu về chương trình AIA?

      - À, thứ chương trình cứu trợ trong những năm 90 để giúp vực nền công nghiệp ở cái Khối Đông Âu cũ đứng dậy. Nó mới đóng lại hai ba năm trước. Tớ có nhìn vào và thấy gì cả.

      - Hỗ trợ Công nghiệp (AIA) là dự án được nhà nước hậu thuẫn và được khoảng hơn tá các công ty lớn của Thụy Điển quản lý. AIA được Chính phủ bảo lãnh cho số dự án đề ra trong hiệp định với các chính phủ ở Ba Lan và các nước vùng Baltic. Liên hiệp công đoàn Thụy Điển, LO, cũng tham dự với tư cách người bảo lãnh để tăng cường phong trào công nhân ở Đông Âu và đưa nó làm theo mô hình Thụy Điển. Về lý thuyết, đây là dự án hỗ trợ xây dựng nguyên tắc trợ giúp để rồi có thể tự lực cánh sinh; người ta cho rằng nó tạo cơ hội cho các chế độ ở Đông Âu tái cấu trúc lại nền kinh tế của họ. Nhưng trong thực tế, cái đó có nghĩa rằng các công ty Thụy Điển được nhà nước trợ cấp để thành ra các chủ nhân đồng sở hữu trong các công ty ở các nước Đông Âu. Lão Bộ trưởng mẹ kiếp trong đảng Thiên chúa là tay bênh vực hăng hái cho AIA và AIA sắp xây cất nhà máy giấy ở Krakhôngw và cung cấp trang bị mới cho công nghiệp kim loại ở Riga, cho nhà máy xi măng ở Tallinn, v.v… Ngân sách được ban lãnh đạo AIA phân phối, ban này gồm số những cha nặng ký trong giới ngân hàng và tập đoàn kinh doanh.

      - Vậy thế là tiền trả cho trách nhiệm ư?

      - Khoảng nửa là đóng góp của Chính phủ, chỗ còn lại là của các ngân hàng và các tập đoàn. Nhưng để thành chuyện làm ăn lý tưởng còn mệt. Các ngân hàng và công nghiệp tính kiếm lợi nhuận êm ả. chúng nó tội gì động đậy chân tay cho mệt.

      - Tiền này độ chừng bao nhiêu?

      - Bình tĩnh nhé, nghe đây. Ban đầu AIA bàn với các công ty lớn ở Thụy Điển để vào thị trường Đông Âu. Các công nghiệp nặng như ASEA Brown Boveri và Xây dựng Skanska v.v… đại loại thế. cách khác là có các công ty kinh doanh đầu cơ.

      - Cậu bảo Skanska mà đầu cơ ư? Hội đồng quản trị của nó chẳng bị sa thải sau khi để cho vài thằng của nó đầu cơ mất nửa tỉ trong những lần lướt sóng cổ phiếu đấy sao? Rồi những vụ thương lượng như điên của chúng nó về sở hữu ở London và Oslo nữa?

      - Đúng rồi, công ty nào ở thế giới cũng có những thằng ngu nhưng cậu hãy biết cho là tớ muốn cái gì ở đây. Ít ra các công ty cũng còn sản xuất cái gì. Cột xương sống của nền công nghiệp Thụy Điển và tất cả các cái đó chứ chơi à!

      - Thế Wennerstrom ở vị trí nào trong bức tranh này?

      - Wennerstrom là quân J trong cỗ bài. Có nghĩa rằng là cái gã thình lình xuất đầu lộ diện, có bất cứ quá khứ nào trong công nghiệp nặng, có làm ăn gì dính dáng đến các dự án này. Nhưng vun vén được cơ nghiệp khổng lồ ở thị trường chứng khoán và đầu tư vào các công ty vững chãi. lọt vào bằng cổng hậu, hãy cứ như thế .

      Khi ngồi con tàu đó, Blomkvist rót rượu brandy Reimersholm vào đầy cốc rồi ngả người lại sau, cố nhớ lại chút xíu những cái biết về Wennerstrom. Sinh ra ở Norrland, những năm 70 Wennerstrom dựng lên công ty đầu tư ở đấy. Kiếm được tiền chuyển đến Stockholm và những năm 80 nghiệp của cất cánh lên ở đây. lập nên Wennerstrom-gruppen, tập đoàn Wennerstrom. buôn bán cổ phần và các quyền mua bán có thời hạn, thích giao dịch xử lý nhanh và báo chí chuyên về các tên tuổi nổi lên như trong nhiều nhà tỉ phú Thụy Điển, với nhà ở thành phố tại Strandvagen, biệt thự mùa hè huyền thoại đảo Varmdo, và du thuyền động cơ dài hai mươi bảy mét mua lại của ngôi sao quần vợt vỡ nợ. vốn là nhân viên giữ quầy thu tiền lẻ, dĩ nhiên, nhưng những năm 80 là thập niên của các dân giữ quầy thu tiền lẻ và đầu cơ nhà đất. Wennerstrom chơi trò khoe của. Trái lại giữa các đồng , vẫn cứ giữ là cái gì đó của người ở trong bóng tối. thiếu cái rờ rỡ của Jan Steinbeck và hắng như Percy Barnevik dàn mình chình ình ra ở khắp các tờ báo lá cải. chào tạm biệt với bất động sản và quả là đầu tư ồ ạt vào Khối Đông Âu cũ . Khi các bong bóng bị vỡ những năm 90 và các giám đốc quản lý bị buộc phải lần lượt từng người đến bám vào lọng vàng của công ty của Wennerstrom bước ra khỏi cơn cớ, khỏa khoắn đến mức trội vọt lên. Tờ Financial Times gọi đó là“ câu chuyện thành công của Thụy Điển”.

      - Đó là năm 1992, - Lindberg – Wennerstrom tiếp xúc với AIA và muốn gây dựng vốn. giới thiệu kế hoạch, hình như được hậu thuẫn bằng các lợi tức ở Ba Lan, kế hoạch này nhằm lập ra công nghiệp chế tạo các thứ đóng gói thực phẩm.

      - Ý cậu là công nghiệp hộp thiếc.

      - hẳn, nhưng cái gì đó cũng thuộc các dòng đó. Tớ biết quen ai ở AIA nhưng từ đó ra với sáu chục triệu curon.

      - Nghe bắt đầu thú vị đấy. Để tớ đoán: đó là người nào đó cuối cùng nhìn thấy tiền.

      - Sai. – Lindberg mỉm cười kín đáo rồi nhấp thêm tí brandy cho thêm bốc.

      - Điều xảy ra sau đó là bài bản kế toán kinh điển. Wennerstrom có lập ra nhà máy đóng gói ở Ba Lan, tại Lodz . Công ty là Minos. Năm 1993 AIA nhận được ít báo cáo phấn khởi rồi im lìm. Năm 1994, thình lình Minos sập.

      Lindberg đặt ly rượu xuống, mặt thoáng nghiêm trang.

      - Với AIA vần đề là có chế độ hợp thức để báo cáo được về dự án. Cậu nhớ những ngày ấy: ai cũng rất lạc quan khi bức tường Berlin sụp. Dân chủ sắp được đưa vào, mối đe dọa chiến tranh hạt nhân còn và những người bônsêvich chỉ đêm là quay sang thành những nhà tư bản nho chính quy. Chính phủ muốn đóng chốt nền dân chủ vào Đông Âu. Nhà tư bản nào cũng muốn nhảy lên cỗ xe vận động giúp xây dựng Châu Âu mới.

      - Tớ lại lạ chuyện các nhà tư bản quá náo nức muốn dính líu vào công việc từ thiện.

      - Tin tớ , đó là cơn mộng tinh của nhà tư bản. Nga và Đông Âu có thể là những thị trường chưa khai thác lớn nhất thế giới, sau Trung Quốc. Chung tay với Chính phủ, công nghiệp trót lót, đặc biệt khi các công ty chỉ được cầu đề ra việc đầu tư làm vì. AIA tổng cộng nuốt khoảng ba chục tỉ curon tiền thuế của dân. Nó nhắm trở lại trong các khoản lợi sắp tới đây. Chính thức mà , AIA là sáng kiến của Chính phủ nhưng ảnh hưởng của giới công nghiệp lại lớn đến nỗi trong thực tế ban lãnh đạo của AIA hoạt động độc lập.

      - Nên xảy ra chuyện gì đó trong tất cả trò này?

      - Đừng sốt ruột. Khi khởi động dự án, có chuyện gì với tài trợ sất. Cú sốc lãi suất giáng vào Thụy Điển. Chính phủ sung sướng khen ngợi AIA như là trong những cố gắng lớn nhất của Thụy Điển trong việc xúc tiến dân chủ ở Đông Âu.

      - Và chuyện này do Chính phủ Bảo thủ làm?

      - Đừng pha chính trị vào . Đây chỉ có toàn là tiền thôi, trong việc chỉ định Bộ trưởng Đảng Xã hội Dân chủ hay cánh ôn hòa cũng chả khác gì nhau hết. Vậy hãy hết tốc lực mà lao tới . Rồi các vấn đề ngoại hối diễn ra, sau đó vài cha điên rồ ở Đảng Dân chủ Mới - cậu nhớ các cha này chứ? - bắt đầu nhai nhải là thiếu giám sát công việc AIA làm. trong các tay sai của đám này lại còn lầm AIA với ban lãnh đạo Quốc tế của Thụy Điển, ngỡ rằng nó chỉ là dự án lý tưởng nào đó giống như cái làm ở Tanzania. Mùa xuân năm 1994, lập ra tiểu ban điều tra. Lúc ấy người ta thắc mắc về nhiều dự án nhưng cái đầu tiên phải điều tra là Minos.

      - Và Wennerstrom thể cho thấy tiền vốn được dùng vào việc gì.

      - Còn khuya. đưa ra báo cáo rất hay cho thấy khoảng năm mươi tư triệu curon được đầu tư vào Minos. Nhưng trong khoản tiền dành cho Ba Lan để xây dựng ngành công nghiệp đóng gói đại có thể vận hành được thế nào quay ra lại có quá nhiều vấn đề. Trong thực tế, bị dự án tương tự của Đức cạnh tranh, nhà máy của họ phải đóng cửa. Đức trổ tài mua lấy toàn bộ Khối Đông Âu.

      - Cậu bảo được cấp cho sáu chục triệu ruron.

      - Chính xác. Tiền này được dùng để cho vay lấy lãi. Dĩ nhiên là các công ty hoàn trả dần trong số năm. Nhưng Minos chìm và thể khiển trách Wennerstrom chuyện đó. Đến đây những bảo lãnh của Nhà nước góp phần vào và Wennerstrom được bảo đảm vô . Tất cả những gì cần làm là hoàn trả lại khoản tiền bị mất khi Minos chìm và cũng có thể cho thấy mất khoản tiền riêng tương ứng.

      - Để xem tớ nhìn nhận chuyện này có đúng nào. Chính phủ cung cấp hàng tỉ bằng tiền thuế và các nhà ngoại giao mở cửa. Các ngành công nghiệp lấy tiền và dùng tiền đó đầu tư vào các liên doanh mà sau này họ vớ được những khoản lợi lớn. cách khác, vẫn là kinh doanh như thường tình.

      - Cậu là chúa đa nghi. Người ta tin rằng các món nợ này là phải trả lại cho nhà nước.

      - Cậu bảo là chúng chịu lãi mà. Như thế có nghĩa là người đóng thuế đưa tiền mặt ra mà chả được cái quái gì. Wennerstrom được sáu chục triệu và đầu tư năm mươi tư triệu. xảy ra những gì với sáu triệu còn lại kia?

      - Khi là sắp điều tra dự án AIA, Wennerstrom gửi cho AIA séc sáu triệu cho khoản chênh lệch ấy. Thế là vấn đề được giải quyết, ít nhất là có vẻ hợp pháp.

      - Nghe như Wennerstrom vung ít tiền cho AIA. Nhưng so với nửa tỉ biến mất khỏi Skanska hay so với cái ô dù vàng son hơn tỉ curon từ CEO 7 của ABB – cái này người ta phải giật mình đây – hình như lại chẳng có gì nhiều để mà bõ công viết cả, – Blomkvist . – Người đọc hôm nay khá là mệt với chuyện về những gã đầu cơ kém cỏi, cho dù đó là bằng tiền của công quỹ. Có gì thêm nữa cho câu chuyện này ?

      - Nó tốt hơn lên.

      - Sao cậu lại biết tất cả chuyện làm ăn của Wennerstrom ở Ba Lan?

      - Tớ làm ở Handelsbanlen trong những năm 90. Đoán xem ai viết các báo cáo cho người đại diện của ngân hàng ở AIA?

      - A hay đấy! Bảo thêm cho tớ .

      - Được, chính Wennerstrom nộp các báo cáo cho AIA. Các văn kiện được thảo ra. Sai ngạch tiền nong được hoàn trả. Cho sáu triệu kia quay trở lại là rất thông minh.

      - Đạt mục đích.

      - Nhưng, bạn Blomkvist thân mếm, cái đó là đích đấy. AIA hài lòng về bản báo cáo của Wennerstrom. Đây là đầu tư vào cửa tử nhưng chẳng có ai phê phán cách quản lý nó hết. Chúng tớ xem các hóa đơn, các chuyển khoản và các tài liệu. Mọi cái đều được giải thích tỉ mỉ. Tớ tin nó. Sếp tớ tin nó và Chính phủ chả có gì để mà cả.

      - Mắc ở đâu?

      - Ở chỗ câu chuyện thành ra tế nhị, - Lindberg , nom đúng mực đến phát ngạc nhiên. – Và do cậu là nhà báo nên cái này cấm ghi lại.

      - Dẹp cái giọng ấy . Cậu thể ngồi với tớ các trò đó rồi lại bảo tớ là được dùng.

      - Chắc chắn là tớ có thể chứ. Cho đến bây giờ, những cái tớ với cậu bàn dân thiên hạ đều biết cả. Nếu muốn, cậu có thể xem. Cậu có thể viết phần còn lại của câu chuyện. – chỗ tớ chưa với cậu – nhưng cậu phải coi tớ như nguồn tin giấu tên.

      - OK, nhưng trong thuật ngữ thời “ cho ghi chép” lại có nghĩa là tôi nghe theo nguồn tin đáng tin cậy nhưng tôi được viết về nó.

      - Quăng ba cái thuật ngữ đó . Muốn viết cái chó gì cậu cứ việc viết, nhưng tớ là nguồn tin giấu tên của cậu. Đồng ý chứ?

      - Dĩ nhiên, - Blomkvist .

      Nghĩ lại đây là sai lầm.

      - Thế được. Câu chuyện Minos xảy ra hơn thập niên trước kia, ngay sau khi Bức Tường Berlin sụp và những người cộnng sản bắt đầu làm ăn như những nhà tư bản chính cống. Tớ trong những người phỏng vấn Wennerstrom và suốt thời gian ấy tớ cứ ngợ rằng có cái gì đó là lạ ở câu chuyện của .

      - Tại sao khi thôi nhắc đến bản báo cáo của cậu lại như thế?

      - Tớ bàn với sếp của tớ. Nhưng vấn đề là ở chỗ có gì để mà xác nhận được. Các tài liệu đều ổn, tớ chỉ có việc ký vào báo cáo. Mỗi lần thấy tên của Wennerstrom ở báo tớ lại nghĩ đến Minos, nhất là vì vài năm sau đó, khoảng giữa các năm 90, ngân hàng của tớ có chút công chuyện với Wennerstrom, việc làm ăn khá lớn, đúng thế nhưng rồi quay ra hay lắm.

      - lừa cậu?

      - , có gì ràng là thế. Cả hai bên kiếm tiền ở chuyện làm ăn này. Còn hơn thế nữa… Tớ biết giải thích sao được cái này và bây giờ tớ đến người chủ thuê mướn tớ và tớ muốn làm như thế. Nhưng cái làm tớ ngạc nhiên – cái ấn tượng bền và bao trùm như họ chắc chắn. Trong truyền thông, Wennerstrom được giới thiệu như bậc tiên tri ghê gớm về tài chính. ăn nên làm ra ở chỗ đó. Đó là “cái vốn tín nhiệm” của .

      - Tớ hiểu cậu muốn gì.

      - Cảm tưởng của tớ là cha này chỉ toàn là bịp. Là nhà tài chính, thậm chí cũng chả có gì là đặc biệt xuất sắc. ra tớ nghĩ dốt nát hoàn toàn về số vấn đề mặc dù có vài ba tên lính chiến trẻ bén nhọn làm cố vấn. hết, về mặt cá nhân tớ quan tâm đến .

      - Thế ư?

      - Vài năm trước, tớ tới Ba Lan về vài chuyện khác. Nhóm chúng tớ ăn tối với vài nhà đầu tư ở Lodz và tình cờ thế nào tớ lại ngồi cùng bàn với ông Thị trưởng. Chúng tớ đến chuyện khó vực nền kinh tế Ba Lan lên và tất cả các thứ, rồi chả biết sao tớ lại nhắc đến dự án Minos. Ông Thị trưởng mất lúc trông khá là sửng sốt - tựa như ông chưa từng nghe đến Minos bao giờ vậy. Ông bảo tớ đó là chuyện làm ăn bé rẻ mạt nào đó và chả đem lại được cái gì. Ông ta cười phá lên và - tớ dẫn ra từng lời ông ta đây - rằng nếu đây là cái tốt nhất mà các nhà đầu tư của chúng tôi có thể quản lý được Thụy Điển cũng chẳng có gì là đáng kể cho cuộc đời này. Cậu vẫn nghe tớ đấy chứ?

      - Ông Thị trưởng Lodz ấy tay sắc sảo đấy, nhưng tiếp .

      - Hôm sau tớ có cuộc họp buổi sáng nhưng cả ngày rảnh. Con khỉ thế nào tớ lại lái xe ra xem cái nhà máy Minos đóng cửa. Cái nhà máy khổng lồ này giờ đổ nát nằm ở thị trấn bên ngoài Lodz. khu nhà kho bằng tôn múi mà Hồng quân xây nên trong những năm 50. Tớ tìm ra người làm bảo vệ ở đó có thể được đôi chút tiếng Đức và phát ra ông ta có người em họ từng làm ở Minos, thế là chúng tớ đến nhà ông này gần đấy. Người bảo vệ phiên dịch. Cậu có thích nghe những cái ông ta ?

      - Tớ có tính khó chờ.

      - Minos mở vào mùa thu năm 1992. Có nhiều nhất mười lăm người làm thuê, phần lớn là phụ nữ có tuổi. Lương họ đại khái trăm rưỡi curon tháng. Lúc đầu có máy cho nên phần lớn giờ là làm vệ sinh địa điểm. Đầu tháng Mười, ba máy làm hộp các tông từ Bồ Đào Nha đến. Cổ lỗ và hoàn toàn lỗi thời. Giá trị đống sắt vụn này thể cao hơn vài nghìn curon. Máy chạy nhưng luôn bị pan. Dĩ nhiên là có linh kiện thay thế cho nên Minos khổ sở về chuyện máy liên miên ngừng chạy.

      - Bắt đầu nghe như có chuyện rồi đấy, - Blomkvist . - Họ làm cái gì ở Minos?

      - Suốt năm 1992 và nửa năm 1993 họ sản xuất hộp các tông đựng bột giặt và khay đựng trứng, đại loại vậy. Rồi họ bắt đầu làm túi giấy. Nhưng nhà máy bao giờ có đủ nguyên liệu cho nên thành được khối lượng sản phẩm.

      - Nghe cái này có vẻ là vụ đầu tư lớn.

      - Tớ nêu con số nhé. Tiền thuê đất đai trong hai năm tổng cộng chắc ở quãng 15.000 curon. Lương sá nhiều nhất có thể lên đến 150.000 curon – và ở chỗ này tớ hơi xông xênh đây. Chi phí máy và chi phí vận tải… xe tải để giao nộp các khay đựng trứng… tớ đoán là 250.000… Cộng phí cho các giấy phép, chút trao đổi qua lại – người từ Thụy Điển đến chỗ này vài ba lần. Xem vẻ như là toàn bộ công trình tốn kém chừng dưới hai triệu. Vào mùa hè năm 1993, hôm quản đốc xuống nhà máy bảo nó đóng cửa và sau đó, xe tải đường trường của Hung đến chở hết máy móc . Bái bai, Minos!

      Trong suốt phiên tòa xét xử, Blomkvist thường nghĩ đến cái Đêm Giữa Mùa hè ấy. Gần hết buổi tối, cuộc chuyện trò khiến cho họ như quay lại thời học trò, họ cuộc cãi vã thân mật. Vào lứa tuổi thiếu niên, hai người cùng chia sẻ cái gánh nặng chung ở giai đoạn đó của cuộc đời. Khi trưởng thành họ thành ra người xa lạ , bây giờ là những loại người khá khác nhau; trong khi chuyện trò Blomkvist nghĩ tình thể nhớ ra cái gì làm cho hai người thành bè bạn ở trường. nhớ lại Lindberg là cậu trai giữ gìn, cả thẹn đến khó lòng tin nổi trước mặt con . Dần dà, đủ lông đủ cánh, Lindberg leo ngày càng cao lên chiếc thang thành đạt trong thế giới ngân hàng.

      hiếm khi uống rượu, nhưng cuộc gặp may mắn ấy biến chuyến dạo biển tai họa thành ra buổi tối vui vầy. Và vì câu chuyện mang quá nhiều vang vọng của lối học trò nên ban đầu coi câu chuyện Lindberg về Wennerstrom là nghiêm túc. Dần dần bản năng nghiệp vụ của trỗi dậy. Cuối cùng nghe chăm chú và các phản biện lôgích nổi lên.

      - Khoan, - . – Wennerstrom là cái tên chóp bu thị trường đầu cơ. kiếm được tỉ, đúng thế ?

      - Tập đoàn Wennerstrom chễm chệ ở đâu đó gần với hai trăm tỉ. Cậu lại sắp hỏi tại sao tỉ phú mà lại lừa để lấy năm chục triệu vặt đây.

      - Thôi được, hãy thế này : tại sao lại có thắng cha dám liều cả thanh danh cá nhân lẫn công ty của mình vào cú lừa mười mươi như thế?

      - mười mươi đâu bởi vì ban lãnh đạo AIA, Chính phủ, các kiểm toán viên của Nghị viện đều thông qua hạch toán của Wennerstrom mà lá phiếu phản đối nào hết.

      - Với nguy cơ lớn như thế đó vẫn là khoản tiền bé đến phát buồn cười.

      - Hẳn là thế. Nhưng cậu hãy nghĩ xem: Tập đoàn Wennerstrom là công ty đầu tư làm ăn về bất động sản, chứng khoán, mua bán có kỳ hạn, hối đoái ngoại tệ, cậu hãy kể nốt ra . Wennerstrom tiếp xúc với AIA đúng vào lúc thị trường sập năm 1992. Cậu có nhớ mùa thu năm 1992 ?

      - Tớ mà lại nhớ?! Khi lãi suất vọt lên năm trăm phần trăm hồi tháng Mười, tớ mua nhà trả góp với lãi suất cố định, kẹt cứng với cái lãi mười chín phần trăm năm.

      - Đúng là những ngày ghê rợn, - Lindberg . - Bản thân tớ mất cả tay nải năm ấy. Và giống như các tay chơi khác thị trường, Hans-Erik Wennerstrom cũng phải vật lộn với chuyện này. Công ty có hàng tỷ bị trói vào đủ các kiểu chứng từ có giá nhưng tiền mặt lại có nhiều lắm. Đùng cái, thể vay bao nhiêu tùy ý được nữa. Trong tình thế ấy cái điều quen làm là tháo dỡ ít bất động sản rồi tự liếm láp lấy các vết thương, nhưng năm 1992 chẳng ai muốn mua bất động sản sất cả.

      - Các vấn đề về quay vòng tiền mặt.

      - Chính xác. Và Wennerstrom phải là người duy nhất. Tất cả những người kinh doanh…

      - Đừng người kinh doanh . Thích gọi họ là gì tùy cậu nhưng gọi họ là người kinh doanh là cậu chửi cha cái nghề nghiêm chỉnh lên rồi đấy.

      - Được, kẻ đầu cơ nào cũng đều có các vấn đề về quay vòng tiền mặt. Hãy nhìn chuyện ấy như thế này: Wennerstrom được sáu chục triệu curon. hoàn lại sáu triệu nhưng chỉ là sau ba năm. Chi phí thực của Minos lên quá hai triệu. Lợi tức chỉ sáu chục triệu trong ba năm, cái đó thực ra cũng ít thôi. Dựa vào cách đầu tư, có thể tăng tiền của AIA lên gấp đôi hay hơn mười lần. Vậy là chúng ta đến chuyện thối này nữa nha. Hoan hô!


      Chú thích

      1 Dagens Nyheter (Tin tức buổi sáng): trong những tờ báo sáng có số lượng phát hành lớn nhất tại Thụy Điển. (Tất cả các chú thích trong cuốn sách này là của người dịch 2Kalle Blomkvist: cậu bé có tài thám tử và ưa phiêu lưu mạo hiểm, nhân vật chính trong truyện KalleBlomkvist của Astrid Lidgren (1970-2002), nhà văn Thụy Điển chuyên viết cho thiếu nhi – chú thích của tác giả 3 (Các công ty kinh doanh mạng – chú thích của tác giả) 4 ( trong những ngày lễ lớn tại Thụy Điển, thường được tổ chức vào khoảng cuối tháng sáu. Rất đông người, từ già đến trẻ, đều tham gia vào ngày lễ này. Họ thường mặc trang phục truyền thống, hát múa và đốt lửa suốt đêm – chú thích của tác giả) 5 ( loại rượu mạnh khá phổ biến ở các nước Bắc Âu. – chú thích của tác giả) 6 (Tức là có tiền thưởng hậu cho các nhà lãnh đạo công ty hay ngân hàng – Chú thích của tác giả) 7 Người có vị trí cao nhất trong công ty kinh doanh – chú thích của tác giả


      Stieg Larsson

      Có Hình Xăm Rồng

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 2



      Dragan Armansky sinh ra ở Croatia năm mươi sáu năm trước. Bố ông là người Mỹ gốc Do Thái ở Bạch Nga. Mẹ ông là người Bosnia Hồi giáo mang dòng máu Hy Lạp. Bà trông nom dạy dỗ đứa con, điều đó có nghĩa là khi trưởng thành nó hòa nhập vào cái tập quần rộng lớn, hỗn tạp mà giới truyền thông định nghĩa là Hồi giáo. Các nhà quản lý nhập cư của Thụy Điển khá kỳ quặc, đăng ký ông là người Sebria. Hộ chiếu xác nhận ông là công dân Thụy Điển còn ảnh hộ chiếu cho ra khuôn mặt vuông, quai hàm bạnh, thầm, hai thái dương muối tiêu. Ông vẫn được nhắc đến là “Người Ả Rập” tuy ông có qua giọt máu Ả Rập nào.

      Ông nom hơi giống trùm cướp địa phương thành khuôn mẫu của điện ảnh Mỹ nhưng trong thực tế ông lại là giám đốc tài chính tài ba từng bắt đầu nghiệp là nhân viên kế toán ở công ty An ninh Milton đầu những năm 70. Ba thập niên sau, ông tiến lên thành CEO và COO, những vai lãnh đạo cao nhất của công ty.

      Ông bị công việc an ninh mê hoặc. Nó giống như trò chơi đánh trận vậy – nhận ra các mối đe dọa, phát triển các chiến lược phản công và luôn trước các gián điệp công nghiệp, những tay tống tiền và lũ trộm cướp bước. Điều này bắt đầu có ở ông khi ông phát ra rằng thông qua việc vào sổ sách có tính sáng tạo, người ta có thể lừa khách hàng. Ông có thể chứng minh ai, ở trong nhóm chục người, ở đằng sau vụ lừa đó. Ông được đề bạt và đóng vai trò then chốt trong phát triển của công ty và là chuyên gia về gian lận tài chính. Mười lăm năm sau ông thành CEO, quan chức điều hành cao nhất. Ông biến công ty An ninh Milton thành trong những hãng an ninh được tin cậy và lớn mạnh nhất của Thụy Điển.

      Công ty có 380 nhân viên chính thức và 300 nhân viên khác làm tự do. So với Falck hay Dịch vụ Bảo vệ Thụy Điển . Khi Armansky mới đến, công ty có tên là Tổng Công ty An ninh của Johan Fredrik Milton và nó có danh sách thân chủ gồm các trung tâm cửa hàng cần đến những nhân viên hướng dẫn khách và các vệ sĩ đầy cơ bắp. Dưới lãnh đạo của ông, nay hãng là An ninh Milton được quốc tế thừa nhận và đầu tư vào công nghệ tiên tiến. Các bảo vệ viên đêm qua thời sung sức, những người sùng bái đồng phục và những sinh viên đại học làm thêm ban đêm được những người có tay nghề thay thế. Armansky thuê các cựu cảnh sát viên trưởng thành để phụ trách tác nghiệp, các nhà khoa học chính trị chuyên sâu vào khủng bố quốc tế và các chuyên gia trong việc bảo vệ cá nhân và trong gián điệp công nghiệp. Quan trọng hơn cả, ông thuê mướn các kỹ thuật viên viễn thông và chuyên viên IT, viễn thông quốc tế. Công ty chuyển từ Solna đến các văn phòng tối tân ở gần Slussen, tại trung tâm Stockholm.

      Vào hồi đầu những năm 90, An ninh Milton được trang bị để cung cấp đẳng cấp mới về an ninh dành cho nhóm thân chủ đặc biệt, trước hết là những tập đoàn cỡ trung và những doanh nhân giàu có – các sao nhạc rock giàu xổi, các dân đầu cơ chứng khoán cùng các cha lắm tham vọng “.com”. phần hoạt động của công ty là cung cấp vệ sĩ bảo vệ và các giải pháp an ninh cho các hãng Thụy Điển ở nước ngoài, đặc biệt là ở Trung Đông. Khu vực làm ăn này của họ chiếm tới 70 phần trăm doanh số của công ty. Dưới quyền của Armansky, doanh số từ khoảng bốn chục triệu curon năm lên tới gần hai tỉ. Cung cấp an ninh là kinh doanh ra tiền.

      Công việc bảo vệ an ninh chia ra ở ba khu vực chính: tư vấn an ninh gồm có nhận diện các mối đe dọa tiềm , các nguy cơ xảy ra; các biện pháp chống trả thường là dính đến việc lắp đặt camera, báo động có trộm và hỏa hoạn, các cơ chế khóa điện tử và hệ thống IT; rồi bảo vệ cá nhân cho các cá nhân hay các công ty. Trong mười năm thị trường này phát triển gấp bốn mươi lần. Cuối cùng nổi lên nhóm thân chủ mới: các bà các giàu có tìm kiếm bảo vệ phòng chống lại các bạn trai hay chồng cũ, hay các kẻ theo lén. Thêm vào, An ninh Milton dàn xếp để cộng tác với các hãng tương tự có tên tuổi ở Châu Âu và ở Mỹ. Công ty cũng trông coi an ninh cho nhiều vị khách quốc tế đến Thụy Điển, như nữ diễn viên điện ảnh Mỹ đến quay bộ phim ở Trollhattan trong hai tháng. Nhân viên của bà nhận thấy với danh tiếng của bà, cần có các vệ sĩ kèm bên bất cứ khi nào bà nổi hứng dạo bộ ở gần khách sạn.

      Khu vực thứ tư, hơn nhiều, chỉ chiếm ít nhân viên, được gọi là PI hay P-In, theo tiếng lóng nội bộ là prinder, viết tắt của chữ personal investigations, điều tra cá nhân.

      chung Armansky mết phần kinh doanh này lắm, vất vả và ít tiền. Nó cần óc phán đoán và kinh nghiệm của nhân viên hơn là vào kiến thức của họ về công nghệ viễn thông hay vào việc lắp đặt các máy móc kiểm soát theo dõi. Có thể chấp nhận các cuộc điều tra cá nhân khi chúng thuộc vấn đề thông tin về tín nhiệm, kiểm tra lý lịch trước khi thuê mướn hoặc điều tra những nghi ngờ rằng vài nhân viên rò rỉ thông tin của công ty hay dính líu vào hoạt động phạm tội. Trong các trường hợp ấy, những người theo dõi cá nhân, pinders là bộ phận thể thiếu của hoạt động tác nghiệp. Nhưng các thân chủ kinh doanh của ông thường lại hay lôi kéo ông vào các vấn đề riêng tư có xu hướng dẫn đến các rắc rối mong muốn. Tôi muốn biết con tôi ra ngoài với cái đồ bẩn thỉu nào… Tôi nghĩ vợ tôi chung thủy…Cha này OK nhưng cha lại tụ bạ với đám xấu… Tôi bị tống tiền… Armansky thường thẳng thừng trả lời họ là . Nếu đứa con trưởng thành nó có quyền ra ngoài với bất cứ thằng gớm ghiếc nào mà nó muốn chứ, còn chung thủy, ông nghĩ đó là thứ mà các ông chồng và các bà vợ cần tự mình giải quyết lấy. Nấp sau những cầu đó là những cạm bẫy có thể dẫn tới tai tiếng và gây nên những vấn đề pháp lý cho An ninh Milton. Điều đó giải thích vì sao Dragan Armansky theo dõi ngặt nghèo các việc này, mặc dù tiền thu về chả được là bao.

      Chủ đề sáng nay đúng là vụ điều tra cá nhân như thế. Armansky vuốt thẳng nếp nhăn quần trước khi ngả người lại vào chiếc ghế thoải mái của mình. Ông ngờ vực liếc vào người đồng Lisbeth Salander trẻ hơn ông ba mươi hai tuổi. tới hàng nghìn lần ông nghĩ rằng ở trong cái công ty an ninh danh tiếng này chả có ai mà nom lại lạc chỗ như này. ngờ vực của ông vừa có căn cứ lại vừa hợp lý. Trong con mắt Armansky, Salander ràng là điều tra viên có khả năng nhất mà ông từng gặp trong tất cả những năm tháng làm công việc này của ông. Trong bốn năm làm cho ông, chưa hề lần nào lóng ngóng trong công việc hay chỉ giao nộp có bản báo cáo loàng xoàng.

      Trái lại, các báo cáo của tự chúng lên đẳng cấp. Armansky tin chắc khả năng đặc biệt. Với các biên bản của cảnh sát, ai cũng có thể tìm ra thông tin về tín nhiệm hay làm cuộc kiểm tra. Nhưng Salander có óc tưởng tượng và luôn trở về với cái gì đó khác với điều ông chờ đợi. Sao ta làm được thế, ông bao giờ hiểu. Đôi khi ông nghĩ khả năng thu thập thông tin của như là ma thuật. biết từ trong đến ngoài các văn kiện quan liêu. hết như thể có khả năng nhập vào trong con người mà điều tra. Nếu có chút bẩn thỉu nào cần đào bới, nhào vào đó như quả tên lửa được định vị.

      luôn có cái khả năng ấy, chả hiểu sao.

      Người nào lọt vào tầm rađa của với ta, các báo cáo của có thể là tai hoạ. Armansky bao giờ quên lần ông giao cho kiểm tra thường lệ nghiên cứu viên trong ngành công nghiệp dược phẩm trước khi mua lại cổ phần trong công ty. Việc dự định làm tuần nhưng phải kéo dài thời gian. Sau bốn tuần lặng ngắt và nhiều nhắc nhở, mà ta cứ phớt lờ , Salander trở về với báo cáo cho thấy rằng “nhân vật chính” trong chuyện là người có quan hệ tình dục với trẻ con. hai lần mua tình dục của điếm mười ba tuổi ở Tallinn, và có những biểu cho thấy quan tâm lành mạnh đến con của người phụ nữ sống cùng.

      Salander có những thói quen đôi khi đưa Armansky đến mấp mé thất vọng. Trong trường hợp của gã quan hệ tình dục với trẻ con, nhấc điện thoại gọi Armansky hay vào văn phòng của ông để chuyện với ông. , cả lấy lời cho biết bản báo cáo có thể chứa đựng vật liệu cháy nổ, để nó ở bàn giấy của ông vào buổi tối, đúng lúc Armansky sắp nghỉ phép vào hôm sau. Ông chỉ đọc nó lúc tối khuya ấy, khi ông thư giãn với chai vang ở trước chiếc tivi cùng với bà vợ tại biệt thự của họ ở Lidingo.

      Như thường lệ, bản báo cáo gần như có chính xác của khoa học, với những chú thích, trích dẫn và nguồn tài liệu tra cứu. Mấy trang đầu tiên đưa ra bối cảnh, giáo dục, nghề nghiệp và tình hình tài chính của đối tượng. Phải đến trang 24, với cái giọng khô như ngói vẫn quen dùng, Salander mới thả quả bom về các chuyến đến Tallinn, rằng sống ở Sollentuna và chiếc Volvo xanh dương thẫm. Các dẫn chứng bằng tư liệu được gộp vào phụ lục toàn diện và đầy đủ, gồm có cả các bức ảnh của mười ba tuổi cùng với đối tượng. Các bức ảnh chụp ở hành lang khách sạn tại Tallinn và bàn tay đối tượng thọc vào trong áo thun . Salander dò tìm ra cung cấp cho Salander câu chuyện kể có thu băng.

      Bản báo cáo đúng là gây nên hỗn loạn mà Armansky muốn tránh. Trước hết ông phải nuốt mấy viên chống viêm loét mà bác sĩ kê đơn cho ông. Rồi ông gọi người khách để có cuộc gặp khẩn chẳng vui vẻ gì. Cuối cùng, dù khách hàng phản đối dữ dội ông vẫn buộc phải chuyển tài liệu này sang cảnh sát. Như thế có nghĩa là An ninh Milton có cơ bị cuốn vào mạng lưới rối tinh rối mù. Nếu bằng chứng của Salander chính xác hay người kia được trắng án, công ty có cơ mắc vào vụ kiện vu khống. Đó là ác mộng.

      Nhưng phải việc Salander hờ hững đến ngạc nhiên về tình cảm ở công ty làm cho ông lấn cấn nhất. Hình ảnh của Milton là hình ảnh về ổn định ở mức bảo thủ. Salander khớp vào bức tranh này cũng tựa như con trâu rừng ở nơi trưng bày du thuyền. Nhà điều tra cỡ “sao” của Armansky là chê cơm, xanh tái, tóc lởm chởm như bàn chông, mũi và mi mắt xỏ lỗ. con ong vò vẽ dài cỡ hai centimét xăm ở cổ, thòng lọng xăm ở quanh bắp tay trái và cái nữa ở quanh cổ chân trái. Những dịp mặc áo rộng kiểu phồng như thùng đựng nước, Armansky còn nhìn thấy con rồng xăm ở bả vai bên trái . Tóc vốn đỏ trời cho nhưng đem nhuộm nó đen như cánh quạ. nom y hệt như vừa mới nhoi ra khỏi bữa tiệc đập phá cả tuần liền với băng những tay nhạc rock cứng.

      Thực ra có chuyện rối loạn về ăn uống, Armansky chắc chắn như thế. Trái lại xơi mọi thứ thực phẩm ăn liền. Đơn giản chỉ là giời sinh mảnh mai, xương , tay chân thanh mảnh với hai bàn tay , cổ tay bé và bộ ngực của con nít. hai mươi tư nhưng đôi khi nom như mười bốn.

      có cái miệng rộng, mũi và lưỡng quyền cao, nó cho cái vẻ gần như châu Á. Động tác nhanh và nguều ngào, nhưng khi ngồi vào bàn máy tính làm việc, hai tay lướt bay dàn phím. Gầy quá đáng, thể lập nghiệp bằng làm người mẫu nhưng nếu được trang điểm chuẩn bộ mặt của lại có thể đưa lên bất cứ tấm bảng quảng cáo nào thế giới. Đôi khi bôi sáp môi đen và mặc dù các hình xăm, mặc dù mũi cùng mí mắt xỏ lỗ…, à đúng thế, vẫn hấp dẫn. thể giải thích nổi điều này.

      thực là những việc Salander làm cho Dragan Armansky là đáng ngạc nhiên. phải là kiểu phụ nữ ông muốn tiếp xúc theo lối thông thường.

      Ông mướn hơi vu vơ. Holger Palmgren, luật sư về hưu nhưng vẫn làm việc bán thời gian, trông nom công chuyện làm ăn cá nhân của ông già J.E.Milton, bảo với Armansky rằng Lisbeth Salander là thông minh, ứng đối nhanh nhạy với “ thái độ khá rầy rà”. Palmgren kêu gọi ông cho ta cơ may, điều mà Armansky hứa làm, trái với phán xét tốt hơn của ông. Palmgren là loại người nếu bị từ chối cố gắng gấp đôi, cho nên “ừ” phắt ngay với ông ta lại dễ hơn. Armansky biết Palmgren dành tâm trí cho những đứa trẻ bị lôi thôi rắc rối cùng các bất hạnh xã hội khác nhưng ông ta có óc phán đoán tốt.

      Khi gặp , ông hối hận về quyết định mướn . xem vẻ chỉ có khó tính – trong mắt ông, chính là tinh túy của khó tính. bị bung ra khỏi nhà trường và được học cao hơn.

      Mấy tháng đầu tiên làm chính thức, đúng, gần như tròn giờ. thỉnh thoảng đáo qua văn phòng. pha cà phê, ra bưu điện, trông nom việc sao chụp nhưng với giờ giấc văn phòng thông lệ hay các nề nếp lao động đều là đáng nguyền rủa. Mặt khác, có cái tài chọc giận các nhân viên khác. Người ta gọi là “ có hai tế bào não” - để thở và để đứng. bao giờ về mình. Các đồng thử chuyện trò với ít khi nhận được lời đáp và đều sớm bỏ cuộc. Thái độ của khuyến khích tình bạn lẫn lòng tin cậy, và nhanh chóng trở thành người ngoài cuộc, lượn lờ trong các hành lang của Milton như con mèo lạc. chung được coi là ca vô vọng.

      Sau tháng có gì trừ rắc rối, Armansky cho mời , có ý định dứt khoát là để thôi. nghe bản liệt kê của ông về các vi phạm của mình mà hề phản đối, cả hề nhếch cho lấy téo lông mày. có “thái độ đúng đắn”, ông kết luận và sắp bảo rằng nếu tìm việc ở hãng khác có thể sử dụng tốt hơn năng lực của chính lúc ấy cắt lời ông.

      - Ông biết đấy, nếu ông chỉ muốn nô lệ văn phòng ông có thể kiếm được ngay ở công ty cho mướn người làm tạm thời. Tôi có thể quản được bất cứ việc gì và bất cứ ai mà ông muốn, còn nếu ông có cách nào sử dụng tôi tốt hơn là cho thôi việc ông là người ngu.

      Armasnky ngồi đực, sửng sốt và cáu, còn ta cứ tiếp tục như .

      - Ông có người ở đây bỏ ba tuần ra viết bản báo cáo hoàn toàn vô dụng về chàng nhiều tham vọng mà họ nghĩ tuyển cho cái công ty “.com” kia. Tối qua tôi sao chụp giúp ta cái của khỉ ấy và bây giờ tôi thấy nó nằm ở bàn giấy của ông.

      Armansky đưa mắt vào bản báo cáo rồi ông cao giọng cho thay đổi khí.

      - được bảo đọc các báo cáo mật.

      - Về hình thức nhưng các nề nếp an ninh ở hãng của ông có số thiếu sót. Theo chỉ thị của ông, ta cho là được tự tay sao chụp các thứ, nhưng hôm qua ta ném bản báo cáo cho tôi rồi bỏ ra quán bar. Bằng cách đó tôi cũng thấy bản báo cáo trước của ta ở căng tin.

      - làm gì?

      - Bình tĩnh nào. Tôi để nó vào trong hộp thư điện tử của ta.

      - ta có cho mã khóa két tư liệu của ta ? – Armansky kinh hoàng.

      - hẳn là cho; ta viết vào mẩu giấy và lưu nó ở dưới bàn cùng với mật khẩu vào máy tính của ta. Nhưng vấn đề là khi giao cho thám tử tư làm cuộc điều tra có cá nhân vô tích chính là ông đùa. ta bỏ mất là gã kia vay nợ để đánh bạc và hít cocain như cái máy hút bụi. Hay bạn phải tìm cứu trợ ở trung tâm khủng hoảng của phụ nữ sau khi bị gã đánh cho tơi tả.

      Armansky ngồi hai phút giở các trang báo cáo. Nó được dựng lên bằng tay có nghề, chữ nghĩa sáng sủa và chứa đầy nguồn gốc tham khảo cùng những xác nhận của bạn bè và chốn quen biết của đối tượng. Cuối cùng ông ngước mắt lên, gọn:

      - Chứng minh xem nào!

      - Tôi được bao nhiêu thời gian?

      - Ba ngày. Nếu chiều thứ Sáu chứng minh được lý lẽ của , bị sa thải.

      Ba hôm sau nộp bản báo cáo, cũng với các nguồn quy chiếu tương tự, biến mất chàng vui vẻ nhiều tham vọng hướng ngoại kia thành ra tay tầm thường thể tin cậy. Armansky đọc báo cáo của nhiều lần vào kỳ nghỉ cuối tuần và bỏ phần ngày thứ Hai ra làm cái việc mặn mà lắm là kiểm tra hai chiều về vài khẳng định của . Ngay cả khi chưa bắt đầu ông cũng biết thông tin của được chứng minh là chính xác.

      Armansky lúng túng và cả giận dữ nữa với chính mình vì xét đoán sai . Ông cho là ngu ngốc, thậm chí trì độn. Ông chờ đợi từng bỏ nhiều lớp học đến nỗi tốt nghiệp lại có thể viết báo cáo đúng đến như thế về ngữ pháp. Nó cũng có những nhận xét và thông tin chi tiết và ông hoàn toàn hiểu nổi làm sao lại có thể vớ được những việc như vậy.

      Ông thể tưởng tượng được ai khác ở An ninh Milton lại có thể khoắng được các trích dẫn trong nhật ký mật của bác sĩ ở trung tâm khủng khoảng của phụ nữ. Khi ông hỏi làm thế nào xoay sở được chuyện đó, bảo ông rằng có ý làm lộ các nguồn tin của . Hóa ra ràng là Salander đủ để cho ông cưỡng lại ý muốn thử sức .

      Ông nghĩ về chuyện này mất vài ngày. Ông nhớ lại câu Holger Palmgren khi ông ta gửi đến cho ông: “Ai cũng đáng có cơ hội”. Ông nghĩ đến những tư tưởng Hồi giáo nuôi dưỡng mình, nó dạy ông rằng nghĩa vụ của ông với Chúa là giúp đỡ nuôi dưỡng người bị hắt hủi ruồng bỏ. Dĩ nhiên ông tin có Chúa và chưa từng vào nhà thờ Hồi giáo từ lúc chưa tới tuổi hai mươi nhưng ông thừa nhận Lisbeth Salander là người cần giúp đỡ dứt điểm. Vài chục năm qua ông làm được nhiều theo các đường lối này.

      Thay vì đá Salander , ông lại triệu đến cuộc họp trong đó ông cố tìm ra cái gì làm cho khó tính này thành ra khó chơi. Cảm tưởng của ông được xác nhận rằng từng khổ sở vì vài vấn đề tình cảm, nhưng ông cũng phát ra bộ óc thông minh khác thường ở đằng sau bề ngoài sưng sỉa của . Ông thấy ta gai góc và khó xài nhưng ông cũng rất ngạc nhiên là ông bắt đầu thích .

      Các tháng tiếp theo đó Armansky đặt Salander dưới che chở của mình. ra ông nhận thuê làm dự án xã hội nho . Ông cho những nhiệm vụ tìm kiếm khó khăn và cố cho những chỉ dẫn về cách thức tiến hành. kiên nhẫn nghe ông rồi bắt tay làm cái việc ông giao phó đúng như cách thấy là thích hợp. Ông cầu giám đốc kỹ thuật của Milton cho học lớp cơ bản về khoa học Viễn thông Quốc tế. Họ ngồi với nhau hết cả buổi chiều cho đến khi ông được báo cáo lại rằng xem chừng về máy tính ta hiểu biết tốt hơn so với phần lớn người ở trong văn phòng.

      Nhưng bất chấp các cuộc thảo luận về phát triển, các lời mời huấn luyện tại nhà và các hình thức lôi kéo khác, Salander ràng là có ý áp dụng các nề nếp văn phòng của Milton. Điều này đặt Armansky vào cảnh khó xử.

      Ông chịu được bất cứ nhân viên nào tùy tiện đến và , trong các hoàn cảnh bình thường chắc ông cầu sửa đổi hay biến. Nhưng ông linh cảm thấy rằng nếu ông cho Salander tối hậu thư hay dọa sa thải đơn giản nhún vai cái và liền.

      Vấn đề nghiêm trọng hơn là ông biết chắc được cả tình cảm của bản thân ông đối với trẻ kia nữa. như ám ảnh lẵng nhẵng, đẩy ra mà đồng thời cám dỗ. Đây phải là sức hút tính dục, ít ra ông nghĩ như thế. Những phụ nữ ông bị hút đến đều là tóc vàng, đầy đường cong, môi mọng, khiến cho các tưởng tượng của ông được khơi dậy. Ngoài ra ông cưới làm vợ trong hai chục năm, phụ nữ Thụy Điển có tên là Riva và bà vẫn thừa thỏa mãn các đòi hỏi này. Ông chưa bao giờ trung thành, thực ra… cái gì đó có thể chỉ lần xảy ra và vợ ông mà biết có thể hiểu lầm. Nhưng cuộc hôn nhân hạnh phúc và ông có hai con bằng tuổi Salander. Với lại ông thiết các ngực lép, nhìn ở xa, họ có thể bị lầm ra là những cậu con trai xương xẩu. Đây phải là phong cách của ông.

      Dù thế ông cũng bắt gặp mình có những phút lơ tơ mơ ấm ớ về Lisbeth Salnder và ông cũng thừa nhận rằng ông phải là hoàn toàn bị tác động đến. Nhưng ông nghĩ hấp dẫn này là do bởi Salander là người lạ lẫm với ông. Ông cũng có thể đem lòng bức tranh tiên nữ hay chiếc vò hai quai Hy Lạp lắm chứ. Salander tiêu biểu cho cuộc đời thực tại với ông, nó mê hoặc ông tuy ông thể chia sẻ nó – và bất luận thế nào cũng cho phép ông chia sẻ.

      lần Armansky ngồi ở quán cà phê đường Stortorget ở Gamla Stan Salander lửng khửng đến, ngồi vào cái bàn cách đấy ít. với ba con trai, tất cả cùng kiểu ăn mặc rất giống nhau. Armansky thích thú ngắm nhìn . xem ra vẫn ý tứ như lúc ở sở nhưng gần như cười với câu chuyện trong bọn kể, có bộ tóc màu tím.

      Armansky thầm hỏi phản ứng thế nào nếu hôm ông đến làm việc với bộ tóc màu xanh lá cây, quần jean cũ nát, chiếc jacket da phủ đầy đinh tán và những dòng chữ nhăng nhít. Chắc chỉ hạ cố cười thông cảm với ông.

      ngồi quay lưng lại ông và ngó quanh lần nào, ràng biết ông ở đó. Ông cảm thấy mình bối rối vô cùng trước việc có mặt ở đấy. Cuối cùng khi ông đứng lên định lẻn ra tránh bị lộ thình lình quay lại và nhìn thẳng vào ông, tựa hồ suốt thời gian qua biết ông ngồi ở đó và cho ông lọt vào tầm rada của . Con mắt nhìn quá ư ngạc nhiên đến nỗi ông cảm thấy nó giống như đòn đánh. Làm như nhìn thấy , ông vội vã rời quán cà phê. chả chào lấy lời nhưng đôi mắt theo ông, ông tin là thế, và chỉ đến khi ông rẽ ở góc nhà rồi chúng mới thiêu đốt gáy ông.

      ít cười thành tiếng. Nhưng dần dà Armansky nghĩ ông nhận thấy thái độ có mềm . có tính hài hước tỉnh khô, cho có thể làm cho ta bật cười giễu cợt.

      Cảm thấy quá bị khiêu khích bởi việc thiếu đáp ứng xúc cảm, đôi phen ông muốn nắm lấy mà lắc. Phá lấy lối lọt qua vỏ bọc của và giành lấy tình bạn hay ít nhất tôn trọng của .

      Chỉ lần, sau khi làm việc cho ông được chín tháng ông mới thử bàn về các cảm giác này với . Đó là vào tối tháng Mười hai trong bữa tiệc Noel của An ninh Milton, và chí ít ông lần uống rượu. xảy ra chuyện gì phải cả - chỉ là ông cố bảo rằng ông lòng mến . Ông muốn giải thích chút rằng ông muốn che chở cho và nếu từ nay cần giúp đỡ về bất cứ chuyện gì nên đến với ông đừng ngại. Ông còn thử ôm . Dĩ nhiên hoàn toàn là tình bè bạn.

      vặn người tránh cái ôm lóng ngóng của ông rồi rời bữa tiệc. Sau đó đến sở, trả lời điện thoại di động. Ông cảm nhận việc vắng mặt này như tra tấn - gần như kiểu trừng phạt cá nhân. Ông có ai để bàn luận về cảm xúc của ông và lần đầu tiên trong đời ông kinh hoàng nhận thấy có sức nắm giữ ông dữ dội đến thế nào.

      Ba tuần sau, buổi tối khi Armansky làm việc muộn chuẩn bị cho việc vào sổ sách cuối năm Salander lại xuất . Êm như bóng ma, vào văn phòng ông và ông nhận ra đứng trong bóng tối bên trong khung cửa ra vào nhìn ông. Ông biết ở đấy bao lâu.

      - Ông muốn cà phê ? – hỏi.

      đưa cho ông tách lấy từ máy cà phê espresso trong căng tin. Nín lặng ông nhận lấy, cảm thấy vừa người lại vừa kinh sợ khi lấy chân hất cánh cửa đóng lại. ngồi xuống trước mặt ông và nhìn thẳng vào mắt ông. Rồi hỏi với với cái cách mà ta thể cười xòa cho qua hay lảng tránh.

      - Dragan, ông bị tôi hấp dẫn rồi ư?

      Armansky ngồi như tê liệt, trong khi tuyệt vọng nghĩ trả lời với thế nào đây. Phản ứng đầu tiên của ông là cho rằng mình bị lăng mạ. Rồi ông nhìn thấy vẻ mặt và ông bỗng thấy ra rằng đây là lần đầu tiên thốt ra câu hỏi có tính riêng tư như thế. Nó có ý nghiêm túc và nếu ông thử cười xòa với nó coi như đó là xúc phạm. muốn chuyện với ông và ông nghĩ phải mất bao thời gian để lấy can đảm mà hỏi câu đó. Ông thong thả buông bút xuống, ngả người vào lưng ghế. Cuối cùng ông nhõm.

      - Điều gì làm nghĩ như thế? – ông .

      - Cách ông nhìn tôi, cách ông nhìn tôi. Và những lần ông sắp giơ tay ra chạm vào tôi nhưng ông lại dừng lại.

      Ông mỉm cười với :

      - Tôi thừa nhận rằng nếu tôi đặt ngón tay lên người cắn đứt ngón tay tôi.

      cười, chờ.

      - Lisberth, tôi là ông chủ của và nếu như tôi có bị hấp dẫn tôi cũng bao giờ hành động theo nó.

      vẫn chờ.

      - Giữa chúng ta – có những lúc tôi cảm thấy bị hấp dẫn, đúng. Tôi thể giải thích được chuyện đó nhưng có chuyện như thế đấy. Vì vài lý do nào đó mà tôi hiểu, tôi rất mến . Nhưng đó phải là chuyện xác thịt.

      - Thế tốt. Bởi vì cái đó bao giờ xảy ra.

      Armansky cười to lên. Lần đầu tiên ra điều gì đó riêng tư đó là cái tin làm tan nát tim gan nhất mà người đàn ông có thể hình dung ra rằng mình nhận được. Ông loay hoay tìm từ ngữ cho chính xác.

      - Lisbeth tôi biết thích người đàn ông tuổi năm mươi cộng.

      - Tôi thích người đàn ông năm mươi tuổi cộng mà lại là ông chủ của tôi - giơ tay lên. – Khoan, để tôi . Đôi khi ông ngốc ngếch và quan liêu đến phát bực nhưng ông là người đàn ông hấp dẫn , và… tôi cũng có thể cảm thấy… Nhưng ông là ông chủ của tôi, tôi gặp vợ ông và tôi muốn giữ lấy việc làm với ông. Cái điều ngu nhất mà tôi có thể làm là để cho dính phải với ông.

      Armansky năng, thở cũng dám.

      - Tôi biết những điều ông làm cho tôi và tôi vô ơn. Để cho tôi có cơ hội ở đây, ông đúng là phải vượt lên tất cả các định kiến của ông và tôi đánh giá cao ông ở điểm đó. Nhưng tôi muốn ông là người tình của tôi, và cũng phải bố tôi.

      lát sau. Armansky đành thở dài, hết lẽ:

      - Chính xác ra muốn gì ở tôi?

      - Tôi muốn tiếp tục làm việc cho ông. Nếu ông thấy điều đó là được với ông.

      Ông gật đầu, và hết sức thân tình hỏi :

      - Tôi lòng muốn làm việc với tôi. Nhưng tôi cũng muốn thấy kiểu tình bạn nào đó và hãy tin ở tôi.

      gật đầu.

      - phải là người duy nhất khuyến khích tình bạn, - ông . có vẻ nhượng bộ nhưng ông tiếp. – Tôi biết muốn bất cứ ai can thiệp vào đời và tôi cố làm chuyện đó. Nhưng nếu tôi tiếp tục mến vẫn cứ ổn chứ?

      Salander nghĩ lúc. Rồi để trả lời đứng lên, vòng qua bàn làm việc, ôm ông. Ông hoàn toàn bị chấn động. Chỉ khi buông ông ra ông mới cầm lấy tay .

      - Chúng ta là bạn được chứ?

      gật cái.

      Đó là lần duy nhất cho ông thấy trìu mến nào đó và lần duy nhất đụng đến người ông. Đó là giây phút Armansky sung sướng nhớ lại.

      Sau bốn năm vẫn khó hạ cố lộ ra chi tiết về đời tư hay quá khứ của với Armansky. lần ông áp dụng với kiến thức của chính ông về nghệ thuật pinder. Ông cũng trò chuyện lâu với Holger Palmgren – ông ta có vẻ ngạc nhiên khi thấy ông đến – và cuối cùng các điều ông tìm ra cũng làm tăng thêm lòng tin của ông với . Ông hề nhắc lời nào về chuyện này với hay để cho biết ông nhòm ngó vào đời . Thay vì thế, ông đem giấu nỗi canh cánh và thao thức nhiều thêm.

      Trước khi kết thúc buổi tối kỳ lạ đó, Armansky và Salander đến thỏa thuận. Trong tương lai làm các dự án nghiên cứu cho ông với điều kiện là người tự do. Có nhiệm vụ hay vẫn nhận được thu nhập nho hàng tháng. Khi được trả theo nhiệm vụ mới kiếm ra tiền . có thể làm việc theo cung cách thích; đáp lại, cam đoan làm bất cứ chuyện gì có thể khiến ông bối rối hay có cơ đem lại tai tiếng cho An ninh Milton.

      Với Armansky đây là giải pháp có lợi cho ông, cho công ty và cho bản thân Salander. Ông cắt bộ phận PI nhiễu xuống còn nhân viên chính thức, đồng nhiều tuổi hơn nắm hoàn hảo các công việc thành nếp trông nom các cuộc kiểm tra về tín nhiệm. Mọi nhiệm vụ phức tạp và đòi mánh múng ông chuyển lại hết cho Salander và vài người làm tự do mà – như phương sách cuối cùng – là những người ký hợp đồng độc lập do đó An ninh Milton phải gánh trách nhiệm. Do ông hay trao việc, kiếm được kha khá lương. Lương có thể cao hơn nữa nhưng Salander lại chỉ nhận việc gì mà thích.

      thế nào Armansky tiếp nhận thế nấy nhưng được phép gặp các thân chủ. Việc giao cho hôm nay là ngoại lệ.

      Hôm làm việc ấy Salander mặc cái áo thun có hình người ngoài trái đất có nanh và dòng chữ TÔI CŨNG LÀ NGƯỜI NGOÀI TRÁI ĐẤT. Ngoài chiếc váy đen gấu bị mài cho bợt xơ , mặc cái jacket da đen dài lưng lửng cũ, thắt lưng đinh tán, đôi bốt Doc Marten nặng trịch có sọc ngang, tất xanh và đỏ cao đến đầu gối. trang điểm bằng phối màu cho thấy là có thể bị bệnh mù màu. cách khác là làm đẹp khác với đời.

      Armansky thở dài, chuyển mắt sang người khách ăn mặc lối bảo thủ với cặp kính dầy cộp. Dirch Frode, luật sư, nài được gặp nhân viên chuẩn bị bản báo cáo để đặt câu hỏi. Armansky lịch làm mọi cái mà ông có thể để tránh cuộc gặp, rằng Salander bị cảm, xa hay là sa vào công chuyện khác. Ông luật sư bình tĩnh đáp lại rằng sao - việc khẩn cấp và ông có thể chờ vài ba hôm. Cuối cùng sao tránh được việc hai người gặp nhau. Bây giờ Frode, nom có vẻ đẫ đến cuối lục tuần, nhìn lại, vẻ mặt cho ra thấy chút cảm xúc ấm áp nào.

      Armansky thờ dài, nhìn lần nữa vào tập hồ sơ để ở bàn ông có đề CARL MIKAEL BLOMKVIST. Sau tên người có con số bảo hiểm xã hội, in ràng ở bìa. Ông đọc to cái tên lên. Ngài Frode vụt tỉnh khỏi cơn mê, quay lại Armansky.

      - Vậy ông có thể gì về Mikael Blomkvist cho tôi?

      - Đây là Salander, người chuẩn bị bản báo cáo. – Armansky ngập ngừng giây rồi mỉm cười tiếp theo, nụ cười dụng ý gây tin cậy nhưng lại có vẻ như là hết cách nên đành ân hận vậy. - Đừng bị tuổi trẻ của Salander đánh lừa. ấy thực là điều tra viên tốt nhất của chúng tôi.

      - Tôi đinh ninh như thế, - Frode , giọng khô khốc gợi đến điều ngược lại. – Xin cho biết đây tìm thấy những gì.

      ràng Frode biết nên cư xử với salander như thế nào. Để gỡ ra. Ông hướng câu hỏi vào Armansky, làm như ở trong phòng. Salander thổi kẹo cao su trong miệng thành quả bong bóng to tướng. Armansky chưa kịp trả lời, :

      - Ông có thể hỏi thân chủ xem ông ấy thích bản ngắn hay bản dài?

      im lặng ngắn ngủn, bối rối rồi cuối cùng Frode quay sang Salander, cố vớt vát lại bằng giọng thân mật, cha chú:

      - Tôi cảm ơn nếu tiểu thư cho tôi tóm tắt về các kết quả.

      Trong thoáng vẻ mặt chợt thù nghịch đến ngạc nhiên khiến cho Frode thấy lạnh xương sống. Rồi vẻ mặt mềm rất nhanh và Frode nghĩ liệu cái nhìn vừa rồi ở có phải là ông tưởng tượng ra hay . Khi bắt đầu lên tiếng, , nghe như viên chức nhà nước:

      - Trước hết cho phép tôi rằng đây phải là nhiệm vụ rất phức tạp, trừ việc miêu tả công việc trao cho tôi vì lẽ nào đó được ràng. Ông muốn biết “mọi cái có thể đào bới lên” về ta nhưng cho hay rằng liệu ông có đặc biệt tìm kiếm cái gì đó . Vì thế nó là bản chắp vá về đời của ta. Bản báo cáo dài 193 trang, nhưng 120 trang là sao lại các bài báo ta viết hay những cắt dán báo chí. Blomkvist là người của công chúng và ta khó có thể giữ được những bí mật của mình.

      - Nhưng ta cũng có vài bí mật chứ?

      - Ai cũng có bí mật, - đáp lại, thái độ trung lập. – Đây chỉ là chuyện tìm ra bí mật là những gì?

      - Chúng ta nghe nhỉ?

      - Mikael Blomkvist sinh ngày 18 tháng Giêng năm 1960, như vậy là bốn mươi hai tuổi. ta sinh ra ở Borlange nhưng sống ở đấy bao giờ. Bố mẹ ta, Kurt và Anita Blomkvist sinh ta vào quãng ba mươi nhăm tuổi. Cả hai đều chết. Bố là kỹ sư lắp đặt máy lưu động làm ăn tốt. Mẹ ta như tôi có thể nhìn thấy chả làm gì ngoài nội trợ. Gia đình chuyển đến Stockholm khi Mikael bắt đầu học. ta có em kém ba tuổi tên là Annika làm luật sư. ta cũng có vài chị em họ. Ông có định mời cà phê ?

      Câu sau cùng là với Armansky, ông vội bấm ba tách cà phê ở trong phích mà ông cầu cho buổi gặp. Ông ra hiệu cho Salander tiếp tục.

      - Vậy là năm 1966 gia đình sống ở Lilla Essingen. Blomkvist đầu tiên học ở Blomma rồi vào trường trung học cơ sở ở Kungsholmen. ta có điểm học tốt – có các bản sao trong hồ sơ đây – trong lúc học trung học cơ sở, ta học nhạc và chơi guitar bass trong ban nhạc rock tên là Bootstrap, ban nhạc duy nhất được chơi đài phát thanh mùa hè 1979. Sau trung học cơ sở ta làm người soát vé ở đường hầm, dành dụm được ít tiền ra nước ngoài. ta năm, phần lớn ngang dọc ở khu vực Châu Á - Ấn Độ, Thái Lan - rồi bùng xuống Úc. ta bắt đầu học làm báo ở Stockholm lúc năm mốt tuổi nhưng được năm nghĩa vụ quân , lính bộ binh ở Kiruna tại Lapland, rồi dời quân ngũ với điểm tốt. Sau nghĩa vụ quân , ta học nốt báo chí tới tốt nghiệp rồi làm việc ở ngành này từ đấy đến nay. Các ông muốn tôi chi tiết đến đâu?

      - Cứ cái thấy là quan trọng.

      - ta xoay sở khá như Con lợn Tháo vát trong truyện cổ tích Ba chú lợn con. Cho đến nay ta là nhà báo xuất sắc. Những năm 80 ta làm nhiều việc tạm, đầu tiên ở báo tỉnh rồi ở Stockholm. Có danh sách đây. ta đột phá với câu chuyện Băng Gấu – đám cướp ngân hàng bị ta nhận dạng.

      - Kalle Blomkvist.

      - ta ghét cái biệt hiệu này, vì sao . Nếu ai đó gọi tôi là Pippi Tất dài 1 mặt báo tôi đánh cho vều môi.

      Mắt tối sầm nhìn Armansky và ông dễ nuốt nó. Đúng là nhiều lần ông nghĩ Salander là Pippi Tất dài. Ông vẫy tay bảo tiếp.

      - nguồn tin rằng cho đến nay ta muốn làm phóng viên điều tra – và ta làm như thế ở tờ báo chiều. Nhưng ta trở nên nổi tiếng vì công việc mà ta làm là phóng viên về chính trị và tài chính. Ban đầu ta là người viết tự do, trong biên chế chính thức ở tờ báo chiều vào cuối những năm 80. Năm 1990 ta bỏ đấy khi giúp khai trương tờ tạp chí tháng Millennium. Tờ tạp chí ban đầu là kẻ chầu rìa , có bất cứ công ty phát hành nào đỡ đần. Số lượng phát hành của nó tăng lên và nay là 21.000 bản mỗi tháng. Ban lãnh đạo ở Gotgatan cách đây vài khối nhà.

      - tạp chí cánh tả.

      - Cái này tùy theo ông định nghĩa như thế nào là khái niệm “cánh tả”. Nhìn chung Millennium được coi là phê phán xã hội nhưng tôi đoán người vô chính phủ lại nghĩ nó là tạp chí tư sản thối tha ba láp cùng dòng với tờ Arena hay Ordfront, trong khi Hội liên hiệp Sinh viên Ôn hòa lại nghĩ các biên tập viên của nó đều là bônsêvích. gì cho thấy Blomkvist từng hoạt động chính trị tích cực, ngay cả trong phong trào cánh tả khi ta học ở trung học cơ sở. Trong khi ta nhảy vào trường Báo chí, ta sống với lúc đó là người hoạt động tích cực trong Công đoàn và nay là đại diện của đảng cánh tả ngồi ở Nghị viện. ta hình như có ưu tiên cho cánh tả hơn vì làm phóng viên tài chính, ta chuyên vào các việc tường thuật điều tra về tham nhũng và những vụ làm ăn bí mật của thế giới các tập đoàn. ta có loạt bài vạch mặt những tay trùm công nghiệp và các nhà chính trị - mà phần lớn là xác đáng cả - dẫn đến số vụ từ chức và chấn động pháp lý. Vụ được biết đến nhiều nhất là vụ Arboga, dẫn đến nhà chính trị Bảo thủ buộc phải từ chức và nguyên ủy viên hội đồng bị khép án năm tù vì biển thủ. Việc kêu gọi chú ý đến các tội ác ít được coi là chỉ dẫn cho thấy ai đó thuộc về cánh tả.

      - Tôi hiểu ý . Còn gì khác?

      - ta viết hai quyển sách. về vụ Arboga và về nghề viết báo tài chính có đầu đề là Các Hiệp sĩ dòng đạo Templar mới ra ba năm trước. Tôi chưa đọc nhưng qua các mục điểm sách hình như ý kiến trái ngược nhau. Nó làm nổ ra cuộc tranh luận khá sôi nổi truyền thông.

      - Tiền nong sao? – Frode hỏi.

      - ta giàu nhưng đói rạc. Có dính các bản khai thuế thu nhập ở bản báo cáo. ta có khoảng 250.000 curon trong ngân hàng, ở cả quỹ hưu lẫn ở tài khoản tiết kiệm. ta có tài khoản khoảng 100.000 curon tiền mặt để cho các chi tiêu về công việc làm ăn, du lịch, vân vân. ta sở hữu căn hộ trong chung cư trả đủ - hơn 200 mét vuông ở Bellmansgatan – và ta cho vay cũng nợ nần. ta có tài sản nữa - ít đất ở Sandhamn ngoài quần đảo. Đó là ngôi nhà gỗ gần trăm mét vuông. Hệt như cái lều mùa hè bên bờ nước, ở ngay chỗ hấp dẫn nhất của ngôi làng. Có vẻ như là người chú bác của ta mua nó trong những năm 40 khi những kẻ trần tục còn có thể làm được chuyện đó, rồi cuối cùng căn nhà gỗ đến tay Blomkvist. Họ chia của cải và để cho em căn hộ của bố mẹ ở Lilla Essingern, Blomkvist được căn nhà gỗ. Tôi biết bay đáng giá bao nhiêu - chắc chắn vài triệu – nhưng mặt khác ta hình như muốn bán và ta thường hay ra Sandhamn.

      - Thu nhập?

      - ta là đồng sở hữu ở Millennium nhưng ta chỉ lấy ra chừng 12.000 mỗi tháng coi như lương. Còn lại ta kiếm bằng viết tự do - tổng số thay đổi tùy. Ba năm trước ta vớ bẫm khi kiếm được khoảng 450.000. Năm ngoái ta chỉ làm được có 120.000 từ viết tự do.

      - ta phải trả 150.000 thuế cộng với phí luật sư v.v… - Frode . – Chúng ta hãy cho là số tiền đó khá cao. ta cũng mất tiền trong khi thụ án tù.

      - Như thế có nghĩa là ta sắp bị trắng tay, - Salander .

      - ta trung thực ?

      - Có thể đó là cái vốn tín nhiệm của ta. ta như là hình ảnh của người canh gác nền đạo đức chọi lại với thế giới kinh doanh. ta thường được mời lên tivi.

      - Sau tuyên án hôm nay chắc cái vốn tín nhiệm chả còn lại được mấy.

      - Tôi biết chính xác người làm báo phải chịu những đòi hỏi gì nhưng sau chuyến thất bại này chắc phải thời gian dài Thám tử Bậc thầy Blomkvist mới giành được Giải lớn của báo chí. Lần này ta tự làm cho mình bị sa chân, - Salander . - Nếu tôi có thể bình luận với tư cách cá nhân…

      Aramnsky mở to mắt. Trong những năm làm việc với ông khi điều tra về cá nhân, Salander đưa ra bình luận riêng tư bao giờ. Tất cả những gì quan trọng với việc trần trụi.

      - Nhiệm vụ giao cho tôi có khoản nhìn vào vấn đề chân lý ở trong vụ Wennerstrom nhưng tôi có theo dõi phiên tòa và phải thừa nhận rằng tôi ngạc nhiên . Bài báo là sai quá nhưng cho đăng lên xem ra ngô nghê quá, như thế hoàn toàn phải là tính cách của Blomkvist.

      Salander gãi gãi cổ. Frode nom kiên nhẫn. Armansky nghĩ có thể là ông sai hay là Salander chắc chắn nên tiếp tục như thế nào. Salander mà ông biết, bao giờ chắc chắn hay do dự. Cuối cùng có vẻ quyết định.

      - Chuyện được để lộ, hãy là thế… Tôi chính thức nghiên cứu vụ Wennerstrom nhưng tôi nghĩ rằng Mikael Blomkvist nêu lên được vấn đề. Tôi nghĩ trong chuyện này có cái gì đó hoàn toàn khác với điều mà bản nghị án của tòa chỉ ra.

      Con mắt dò xét của ông luật sư chăm chú quan sát Salander, còn Armansky để ý thấy từ khi bắt đầu bản báo cáo, lần đầu tiên thân chủ của ông tỏ ra là ông ta chỉ thích thú theo phép lịch . Ông ghi nhận thầm rằng Frode có quan tâm nhất định đến vụ Wennerstrom. Sửa ngay thôi, lập tức Armansky nghĩ, Frode quan tâm đến vụ Wennerstrom đâu - chỉ khi Salander gợi ra rằng Blomkvist nêu được vấn đề Frode mới phản ứng.

      - Chính xác muốn gì? – Frode .

      - Đây là tôi suy luận nhưng tôi tin rằng ai đó lừa ta.

      - Cái gì làm cho nghĩ thế?

      - Trong quá khứ của Blomkvist mọi cái đều cho thấy ta là phóng viên thận trọng. Mọi phát có tranh cãi mà trước đây ta cho đăng đều luôn luôn đầy đủ về mặt tư liệu. Tôi đến tòa nghe xử. ta hình như bỏ cuộc hề đấu lại. Cái đó hợp lý với tính cách của ta chút nào. Nếu chúng ta tin tòa án đây là ta dựng lên câu chuyện về Wennerstrom mà có lấy qua tí bằng chứng rồi đem đăng lên chẳng khác nào làm báo theo kiểu đánh bom tự sát vậy. Đây phải là phong cách của Blomkvist.

      - Vậy theo xảy ra cái gì?

      - Tôi chỉ có thể suy đoán. Blomkvist tin câu chuyện của mình nhưng trong khi làm cái gì đó xảy ra và thông tin quay ra thành sai. Điều này chứng tỏ nguồn tin từ ai đó mà ta tin cậy, hoặc người đó cố tình cung cấp tin sai cho Blomkvist - việc này nghe phức tạp đến mức khó lòng mà có được. khả năng khác là ta bị đe dọa nghiêm trọng khiến ta chịu thua và thà bị coi là thằng ngu bất tài chứ đánh trả lại. Nhưng như tôi , tôi chỉ là suy luận.

      Khi Salander có ý tường trình tiếp, Frode giơ tay lên. Ông ngồi, ngón tay gõ lên tay ghế lúc rồi ngập ngừng nhìn :

      - Nếu chúng tôi mượn tháo gỡ trong vụ Wennerstrom… có bao nhiêu cơ may là tìm ra cái gì?

      - Tôi trả lời được điều đó. Có thể là có cái gì để mà tìm ra cả.

      - Nhưng muốn làm thử ?

      nhún vai:

      - Quyết định phải là phận tôi. Tôi làm việc cho ông Armansky và ông ấy quyết định việc gì ông ấy muốn giao cho tôi. Rồi còn tùy vào loại thông tin gì mà ông tìm kiếm nữa.

      - Tôi thế này… và cứ coi như là chúng ta chuyện riêng tư kín đáo với nhau được chứ?. – Armanksy gật đầu. – Tôi biết gì hết về vấn đề đặc biệt này nhưng chắc chắn là tôi biết rằng Wennerstrom xử trung thực trong các tình huống khác. Vụ án Wennerstrom ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời Blomkvist và tôi thích thú được thấy liệu có cái gì đó ở trong các suy luận của .

      Câu chuyện quay sang ngả bất ngờ, Armansky lập tức cảnh giác. Điều Frode cầu với An ninh Milton là thăm thú vào vụ án được kết luận. vụ án trong đó có thể vài đe dọa nào đấy với Blomkvist và nếu họ nhận lời Milton có cơ vấp phải cả binh đoàn luật sư của Wennerstrom. Ít nhất Armansky cũng yên tâm với ý nghĩ Salander được cho thả lỏng ở trong tình hình như thế này, giống như tên lửa mất kiểm soát.

      Đây chỉ là vấn đề dính dáng đến công ty. Salander thẳng thắn cho thấy muốn Armansky cư xử như kiểu vài ông bố dượng cả lo và từ khi hai người thỏa thuận, ông thận trọng để bao giờ cư xử như thế nhưng trong thực tế ông có bao giờ hết lo lắng cho đâu. Đôi khi ông bất chợt so sánh Salander với các con của mình. Ông coi mình như ông bố tốt can thiệp vô cớ vào đời sống con cái. Nhưng ông biết ông tha thứ cho chuyện đó nếu các con ông xử như Salander hay sống như Salander.

      Trong sâu thẳm con tim người Croat – hay có thể là Bosnia hay Armenia - của ông, ông bao giờ hết đinh ninh rằng cuộc đời của Salander bị hướng đến tai họa. Hình như là nạn nhân ngon lành cho bất cứ ai mong muốn hại , và ông nơm nớp về buổi sáng ông bị đánh thực dậy bởi cái tin rằng người nào đó gây khốn đốn cho .

      - Điều tra như thế tốn kém, - Armansky , cảnh báo trước như vậy để thăm dò xem cầu của Frode nghiêm túc đến đâu.

      - Vậy chúng ta đặt ra mức giá trần, - Frode . Tôi cầu cái thể, nhưng ràng là đồng của ông có thừa bản lĩnh, như ông đảm bảo với tôi.

      - Salander sao? – Armansky , nhướng lông mày lên quay sang .

      - tôi làm việc nào khác cả.

      - OK. Nhưng tôi muốn chúng ta cần thỏa thuận với nhau về các bó buộc của công việc. Ta hãy nghe nốt báo cáo của .

      - Đời tư ta có gì nhiều. Năm 1986 ta lấy Monica Abrahamsson và cũng năm ấy họ có đứa con , Pernilla. Cuộc hôn nhân bền; họ li hôn năm 1991. Abrahamsson tái hôn nhưng xem ra họ vẫn là bạn bè. Đứa con sống với mẹ và hay gặp Blomkvist.

      Frode xin thêm cà phê rồi quay sang Salander.

      - ai cũng có bí mật. tìm ra cái nào chưa?

      - Ý tôi là mọi người đều có những điều họ coi là riêng tư và họ rao chúng lên ở nơi công cộng, Blomkvist ràng là người rất đào hoa. ta có vài cuộc tình và rất nhiều vụ chơi bời tình cờ. Nhưng trong nhiều năm, người vẫn cứ luôn xuất trong đời ta và đây là quan hệ khác thường.

      - Như thế nào?

      - Erika Berger, Tổng biên tập tạp chí Millennium, xuất thân tầng lớp thượng lưu, mẹ người Thụy Điển, bố người Bỉ sống ở Thụy Sĩ. Berger và Blomkvist gặp nhau ở trường báo và từ đấy có mối quan hệ lúc tắt lúc bật.

      - Chuyện đó có thể là khác thường lắm, - Frode .

      - , có thể là . Nhưng có chuyện là Bereger lấy nghệ sĩ Greger Beckman, tên tuổi nho từng làm nhiều chuyện ghê gớm ở những chốn gặp gỡ công cộng.

      - Vậy là ta chung thủy.

      - Beckman biết quan hệ của hai người. Đây là tình huống mà xem bề ngoài các bên liên quan đều chấp nhận. Đôi khi ấy ngủ ở chỗ Blomkvist, đôi khi ở nhà. Tôi biết chính xác chuyện này ra sao nhưng chắc nó là yếu tố góp phần vào việc phá vỡ hôn nhân của Blomkvist với Abrahamsson.


      Chú thích

      1 (Pippi Tất dài: bé tinh nghịch, nhân vật rất độc đáo của nhà văn Astrid Lindgren – chú thích của tác giả)


      Stieg Larsson

      Có Hình Xăm Rồng

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 3

      Thứ Sáu, 20 tháng Mười hai


      Thứ Bảy, 21 tháng Mười hai


      Khi Blomkvist trông có vẻ lạnh cóng bước vào văn phòng lãnh đạo, Erika Berger ngửng lên nhìn giễu cợt. Các văn phòng của Millennnium ở tại trung tâm khu phố thời thượng Gotgatan, bên các văn phòng của tổ chức Hòa Bình Xanh. Tiền thuê hơi quá cao với tờ tạp chí nhưng tất cả họ đều tán thành giữ lấy chỗ này.

      liếc nhìn đồng hồ. 5 giờ 10 phút, bóng tối đổ xuống Stockholm từ lâu rồi trước đó. chờ từ quanh quẩn bữa trưa.

      - xin lỗi, - chưa kịp . – Nhưng cảm thấy bản tuyên án đè nặng trĩu lên thấy thích đến. bộ hồi lâu để nghĩ lại các chuyện.

      - Em nghe bản tuyên án tivi. She của TV4 gọi đến muốn lời bình luận.

      - Em sao?

      - cái gì đó đại ý rằng chúng ta cần đọc kỹ bản xét xử rồi có tuyên bố gì mới tuyên bố. Cho nên em gì cả. Và em vẫn cứ giữ ý kiến của em: đây là chiến lược sai lầm. Chúng ta ra khỏi cuộc mà nom đúng là hết hơi với giới truyền thông. Tối nay họ cho lên tivi cái gì đó.

      Blomkvist nom rầu rĩ.

      - làm gì đấy?

      Blomkvist nhún vai rồi buông thõng người vào cái ghế mà thích ngồi gần bên cửa sổ trong phòng làm việc của Erika. Trang hoàng đạm bạc với bàn làm việc và những tủ sách cốt lấy cái tiện dụng và đồ đạc văn phòng rẻ tiền. Tất cả đều là mua ở IKEA, trừ hai cái ghế có tay thoải mái, kiểu kỳ quái và cái bàn nho - nhượng bộ với học vấn của em, thích như thế. Khi muốn dời bàn làm việc, có thể ngồi đọc trong hai chiếc ghế có tay, hai chân gập lại. Blomkvist nhìn xuống Gotgatan, ở dưới đó người ta hối hả trong bóng đêm. là mùa mua sắm cho Noel.

      - cho là rồi qua thôi, - . – Nhưng ngay lúc này thấy y như là bị đối xử rất công bằng.

      - Đúng, em có thể hình dung ra. Tất cả chúng ta đều thế. Janne Dahlman về nhà sớm hôm nay.

      - cho là ta mừng rơn về bản tuyên án.

      - Dẫu sao ta cũng phải là người tích cực nhất.

      Blomkvist lắc đầu. Dahlman là trưởng ban biên tập trong chín tháng qua. ta bắt đầu làm ở đây đúng vào lúc diễn ra vụ Wennerstrom và ta thấy mình ở đầu bộ phận biên tập khủng hoảng. Blomkvist cố nhớ lại lập luận của và Berger khi hai người quyết định mướn ta. ta có năng lực, dĩ nhiên, từng làm việc ở hãng tin TT, các báo chiều, và Ekhông đài phát thanh. Nhưng ràng là ta thích cho thuyền ngược gió. Cả năm ngoái, Blomkvist thường ân hận là mướn Dahlman, người có thói quen làm nản chí, nhìn mọi với ánh sáng là càng chối bỏ được càng hay.

      - Em có được tin Christer ? – Blomkvist hỏi, mắt vẫn rời đường phố.

      Christer Malm là trưởng ban mỹ thuật và là người thiết kế của Millennium. cũng là người đồng sở hữu của tờ tạp chí cùng với Berger và Blomkvist nhưng ra nước ngoài với cậu bạn trai.

      - Cậu ta có phôn đến chào.

      - Cậu ta phải là người tiếp nhận chức chủ bút.

      - Dẹp , Micke. phải tính đến chuyện làm chủ bút là thường xuyên bị đấm vào mũi. Đấy là phần trong nội dung công việc này.

      - Chỗ này em đúng. Nhưng là người viết bài được đăng ở trong tạp chí mà thế nào chủ bút lại là . Điều này đột ngột làm cho mọi chuyện có vẻ khác . Lúc này nó thành ra là chuyện phán đoán tồi.

      Berger cảm thấy nỗi bất an mang trong người suốt ngày hôm nay sắp nổ bung ra. Trong những tuần trước khi phiên tòa bắt đầu, Blomkvist buồn rầu ngơ ngẩn. Nhưng chưa hề thấy ủ rũ và suy sụp như có vẻ là thế trong giờ phút thất bại này. đến ở bên kia bàn làm việc, ngồi xuống lòng , quàng tay ôm cổ .

      - Mikael, nghe em này. Cả hai chúng ta đều biết chính xác chuyện này xảy ra như thế nào. Em cũng đáng bị mắng mỏ như . Chúng ta chỉ cần cùng ra khỏi cơn bão.

      - Có bão nào để mà ra. Chừng nào giới truyền thông còn dính dáng vào bản tuyên án này ngụ ý là bị bắn sau lưng. thể ở lại làm chủ bút của Millennium. Điều sống còn là duy trì được độ tin cậy của tờ tạp chí. Cái đó em cũng như thôi.

      - Nếu nghĩa em định để cho mình phải chịu trận có nghĩa là trong những năm chúng ta làm việc với nhau chẳng hiểu gì về em cả.

      - biết em làm việc thế nào, Ricky. Em trung thực trăm phần trăm với đồng . Nếu phải chọn em đánh lại dài dài đám luật sư của Wennerstrom cho đến khi tín nhiệm của em cũng tiêu nốt luôn. Chúng ta phải thông minh hơn thế.

      - Thế nghĩ đổi tàu và làm ra vẻ em đuổi việc là thông minh sao?

      - Millennium sống sót được là trông vào em lúc này. Christer giỏi nhưng cậu ấy chỉ là người tốt, am hiểu về hình ảnh cũng như trình bày báo, còn biết tí gì về đánh nhau với bọn tỉ phú. Đấy phải là lĩnh vực của cậu ấy. phải biến thời gian ở tư cách là chủ bút, phóng viên và thành viên lãnh đạo. Wennerstrom biết là biết việc làm, tin tuyệt đối rằng chừng nào còn lảng vảng gần Millennium còn cố làm cho chúng ta lụn bại.

      - Vậy sao đăng lên mọi thứ mà chúng ta biết? Được ăn cả ngã về chứ?

      - Vì chúng ta chứng minh được cái quái gì hết; và ngày bây giờ, chẳng còn chút tín nhiệm nào. Hãy chấp nhận Wennerstrom thắng keo này.

      - OK. Vậy em đuổi việc . làm gì đây?

      - cần đột phá, cho trung thực. bị thiêu sạch rồi. cần ít thời gian cho bản thân , ít thời gian ấy là ở trong tù. Rồi chúng ta xem.

      Berger quàng hai tay quanh người , kéo đầu xuống ngực mình. ôm chặt.

      - Cần bạn đồng hành tối nay ? – .

      Blomkvist gật.

      - Tốt. Em bảo Greger là tối nay em ở chỗ .

      Ánh đèn đường hắt vào tới các góc của cửa sổ. Khoảng hơn 2 giờ sáng, khi Berger ngủ rồi, Blomkvist nằm thức ngắm nét nghiêng mặt trong bóng tối lờ mờ. Chăn tụt xuống quang eo nhìn ngực từ từ lên xuống. thấy thư thái, nỗi lo lắng trong lòng cũng dịu . có cái hiệu lực này với . luôn luôn có nó. Và biết cũng có cái hiệu lực tương tự với .

      Hai mươi năm, nghĩ. lâu biết bao. Theo hiểu hai người có thể còn tiếp tục ngủ với nhau hai thập niên nữa. Là ít nhất. Họ bao giờ nghiêm chỉnh cố che giấu mối quan hệ của họ ngay cả khi nó dẫn đến chỗ khó xử trong các cuộc làm ăn giữa họ với người khác.

      Họ gặp nhau trong bữa tiệc khi cả hai cùng ở năm thứ hai của trường báo. Trước khi chào chia tay họ trao đổi số điện thoại. Cả hai biết tới bước họ cùng nhau lên giường và chưa tới tuần niềm tin vững chắc ấy được họ biến ra thành thực mà chẳng có thông báo với các đối tác tương ứng của họ.

      Blomkvist đinh ninh rằng loại tình kiểu cổ dẫn tới mái nhà chung, thế chấp chung, những cây Noel và con cái. Trong những năm 80, khi họ bị ràng buộc bởi các quan hệ khác, họ bàn chuyện dọn đến ở chung. muốn thế nhưng Erika luôn đánh tháo vào phút cuối. Chuyện đó ổn, , nếu họ nhau họ có nguy cơ nhận lấy cái điều mà họ nhận. Blomkvist thường hay nghĩ liệu có thể vì ham muốn người đàn bà nào khác mà bị chiếm hữu mất nhiều hơn . là họ cùng nhau tiến hành chuyện đó tốt và họ có mối gắn bó giống như gây nghiện của hêrôin vậy.

      Đôi khi họ ở bên nhau quá nhiều đến nỗi cảm thấy họ chả khác gì cặp ; đôi khi lại tới cả tuần cả tháng trôi họ mới lại gặp nhau. Nhưng cũng như các dân nghiện, sau khi bị cấm uống ở tàu lập tức bị cửa hàng rượu ở sân ga hút nghiến ngay lấy, họ luôn quay trở về với nhau.

      Về lâu dài thể tránh khỏi chuyện lấn cấn. Loại quan hệ ấy gần như buộc phải gây nên đau khổ. Cả hai đều phải vất bỏ đằng sau những lời hứa tan vỡ cùng người tình bất hạnh – hôn nhân của sụp đổ vì thể xa cách Erika Berger. bao giờ lừa dối Monica, vợ , về tình cảm của với Erika nhưng nghĩ chuyện ấy kết thúc khi hai người cưới nhau và đứa con ra đời. Và gần như cùng lúc ấy Berger lấy Greger Beckman. Blomkvist cũng nghĩ chuyện ấy hết và trong những năm đầu của hôn nhân, và Berger chỉ gặp nhau trong công việc báo chí. Rồi họ mở tạp chí Millennium và trong vài tuần các ý đồ tốt đẹp của họ tiêu tan, rồi tối muộn, họ làm tình dữ dội với nhau bàn làm việc của Erika. Việc đó dẫn đến thời kỳ khó khăn trong đó Blomkvist rất muốn sống với gia đình và trông con lớn khôn, nhưng đồng thời cũng hết phương chống đỡ cứ bị cuốn hút tới Berger. Đúng như Salander suy đoán, việc đó dẫn đến việc vợ bỏ .

      Khá lạ, Beckman hình như lại chấp nhận quan hệ của họ. Berger luôn để ngỏ cho thấy biết tình cảm của vợ với Mikael. Và ngay khi hai người lại vừa bắt đầu có chuyện ăn nằm liền bảo Beckman. Có lẽ phải là tâm hồn nghệ sĩ mới có thể chịu được tình thế như vậy, ai đó quá khép kín trong thế giới sáng tạo của bản thân hay có thể chỉ là khép kín trong bản thân để mà khi vợ mình ngủ với kẻ khác lại nổi loạn. Erika thậm chí chia ngày nghỉ ra để có thể cùng với người tình qua hai tuần ở ngôi nhà gỗ mùa hè của ta tại Sandhamn. Blomkvist nghĩ sâu lắm về Beckman và bao giờ hiểu tình của Berger với . Nhưng vui là có thể hai người đàn ông cùng lúc.

      Blomkvist ngủ được, dậy lúc 4 giờ. vào bếp đọc biên bản xét xử của tòa án lần nữa từ đầu đến cuối. Cầm tài liệu này trong tay, cảm nhận rằng trong lần gặp gỡ ở Arholma cái gì đó gần như định mệnh. chắc chắn liệu việc Lindberg bảo chi tiết về các trò lừa bịp của Wennerstrom có phải chỉ đơn giản là để mua vui giữa những lần nâng cốc trong gian buồng kín đáo con tàu hay ta muốn câu chuyện được đưa ra với công luận.

      ngả vào tin thứ nhất. Nhưng có thể Lindberg muốn làm hại Wennerstrom vì những lý do cá nhân hay làm ăn của mình và ta nắm lấy cơ hội vớ được nhà báo ở du thuyền. Lindberg khá là tỉnh để nài Blomkvist coi mình là nguồn tin giấu tên. Từ lúc ấy Lindberg có thể thích gì nấy vì người bạn của ta bao giờ có thể để lộ ra nguồn tin.

      Nếu cuộc gặp mặt ở Arholma là bố trí Lindberg bao giờ còn có thể đóng vai trò của mình tốt được hơn thế nữa. Nhưng họ gặp nhau là tình cờ.

      Có thể Lindberg biết mức độ khinh ghét của Blomkvist đối với những người như Wennerstrom. Dẫu sao, sau nhiều năm nghiên cứu, cầm chắc trong thâm tâm rằng chủ ngân hàng hay lãnh đạo tập đoàn tên tuổi mà lại phải là đứa ngu.

      Blomkvist chưa nghe đến Lisbeth Salander bao giờ và may mà biết về bản báo cáo giao nộp đầu ngày hôm ấy nhưng nếu có nghe nó cũng gật đầu tán thành khi đến việc ghê tởm bọn cạo giấy, rằng đấy phải là biểu về đầu óc cấp tiến chính trị tả khuynh của . phải Mikael thích chính trị nhưng hoài nghi các thứ “chủ nghĩa” trong chính trị. chỉ bầu nghị viện lần - năm 1982 - rồi ngập ngừng bỏ phiếu cho đảng Xã hội Dân chủ, trong tưởng tượng của , có gì tồi tệ hơn ba năm với Gosta Bohman làm Bộ trưởng Tài chính và Thorbjorn (hay có thể là Ola Ullsten) làm Thủ tướng. Cho nên bỏ phiếu cho Olof Palme thay vì lại nhận được vụ ám sát vị Thủ tướng của cộng với vụ tai tiếng Bofors và Ebbe Carlsson.

      Việc ghê tởm cánh nhà báo tài chính là dựa điều mà theo cách kiến giải của nó cũng rành rành như đạo lý vậy. Phương trình này đơn giản. nên cho giám đốc ngân hàng thổi hàng triệu vào các đầu cơ liều lĩnh để giữ công việc. Nên cho vào tù giám đốc quản trị trò chơi công ty cua cá. Nên treo cổ cho chết khô chủ đất của những nhà ổ chuột bắt đám thanh niên thuê căn hộ buồng và toa lét chung phải trả chui lủi với giá cắt cổ.

      Việc của nhà báo tài chính là xem xét bọn cá mập tạo ra các cơn khủng hoảng lợi tức để hót tiền tiết kiệm của các nhà đầu tư , là quan sát nghiệt ngã các ban lãnh đạo công ty giống như các phóng viên chính trị dõi theo từng bước các Bộ trưởng và nghị sĩ chệch đường lối. Với cuộc sống của , thể hiểu tại sao quá nhiều phóng viên viết về tài chính coi các gã ba vạ kém cỏi trong tài chính như những ngôi sao nhạc rock.

      Những cách nhìn bướng bỉnh này dần dần đưa đến xung đột với các đồng nghiệp. Borg chẳng hạn, sắp trở thành kẻ thù suốt đời. Vai trò phê bình, xã hội mà nhận lấy biến thành vị khách gai góc các ghế bành của truyền hình – luôn là người được mời bình luận bất cứ khi nào CEO nào đó bị dính vào cái lọng vàng đáng giá tiền tỉ.

      Mikael dễ tưởng tượng thấy những chai champagne được mở nút trong những gian buồng sâu kín của vài tờ báo tối hôm ấy.

      Erika cũng có thái độ giống về vai trò của người làm báo. Ngay khi ở trường, chơi với nhau họ hình dung ra tạp chí có tuyên ngôn hệt như thế về sứ mệnh.

      Erika là người chủ giỏi nhất mà Mikael có thể tưởng tượng ra. nhà tổ chức có thể nắm nhân viên bằng tình cảm ấm cúng và tin cậy nhưng đồng thời cũng là người sợ đương đầu và lúc cần thiết cũng có thể rất rắn. hết, lạnh như băng những khi cần ra quyết định về số báo sắp tới. và Mikael thường có cái nhìn khác nhau và có thể có những tranh luận gay gắt nhưng với nhau, họ cũng có niềm tin hề dao động, họ cùng nhau làm nên kíp thể đánh bại. dã chiến săn tìm chuyện trong khi sắp xếp lại và cho nó ra mắt.

      Millennium là sáng tạo chung của hai người nhưng nó thành thực nếu như Erika có tài đào bới lấy tài trợ. Đây là kết hợp đẹp đẽ giữa chàng trai của tầng lớp lao động và của tầng lớp thượng lưu. Erika đến từ đồng tiền lâu đời. dựng lên đồng vốn hạt giống ban đầu rồi bảo bố và các chốn quen biết đầu tư những khoản đáng kể vào dự án.

      Mkikael thường nghĩ tại sao Erika lại để mắt đến Millennium. Đúng, đồng sở hữu – trong thực tế là đối tác chính – cũng là Tổng biên tập của tờ tạp chí của chính bản thân , tờ báo cho uy tín và kiểm soát quảng cáo khiến cho khó làm nổi công việc nào khác. như Mikael, sau khi ra trường báo chí dồn sức vào truyền hình. rắn, nom khác người ở trong camera và có thể kiên định lập trường trong cạnh tranh. cũng có liên hệ tốt với giới quan chức. Nếu bập vào đó, chắc chắn vị trí lãnh đạo ở trong các kênh truyền hình với đồng lương cao hơn nhiều so với đồng lương trả cho nay.

      Berger cũng thuyết phục Christer Malm mua cổ phần của tạp chì. tay đồng tính nam nổi tiếng là phô diễn, đôi khi xuất với bạn trai trong các bài báo “đến thăm người nổi tiếng”. bắt đầu thích thú khi đến tạp chí cùng với Arnold Magnusson, diễn viên có quá khứ ở Nhà hát Kịch Hoàng gia và làm đột phá ra trò khi đóng trong phim tài liệu nhiều tập. Christer và Arnold từ đấy trở thành tiết mục của truyền thông đại chúng.

      Ở tuổi ba mươi sáu, Malm là nhà nhiếp ảnh chuyên nghiệp và nhà thiết kế được săn lùng, ta cho Millennium bộ dạng mới. điều hành công việc của từ văn phòng ở cùng tầng lầu với Millennium và mỗi tháng làm tuần thiết kế đồ họa.

      Tòa sạon có ba nhân viên chính thức, thực tập sinh chính thức và hai người làm ngoài. Đây phải là món làm ăn ra tiền nhưng tờ tạp chí hòa vốn, lượng phát hành cùng thu nhập về quảng cáo tăng dần lên và ổn định. Cho đến hôm nay tờ tạp chí đượcv biết đến nhờ văn phòng ngay thẳng và đáng tin cậy của nó.

      Bây giờ chắc chắn tình hình thay đổi. Blomkvist đọc qua bản tuyên bố báo chí mà và Berger cùng thảo, nó nhanh chóng được dịch vụ hữu tuyến của TT chuyển đổi thành bài báo, nó lên website của Aftonbladet.

      PHÓNG VIÊN BỊ KẾT ÁN - RỜI MILLENNIUM

      Stockholm (T.T). Nhà báo Mikael Blomkvist dời chức vụ của ông là Giám đốc phát hành của tạp chí Millennium, Tổng biên tập và cổ đông chủ yếu Erika Berger cho hay.

      Blomkvist tự chọn lấy việc dời này. “Sau bi kịch của mấy tháng vừa qua, ông kiệt quệ và cần thời gian nghỉ việc”, Berger , bà nhận vai trò Giám đốc phát hành.

      Blomkvist là trong những người lập ra tạp chí Millennium, bắt đầu năm 1990. Berger nghĩ là tờ tạp chí bị ảnh hưởng sau cái gọi là “Wennerstrom”.

      Tháng tới tờ tạp chí vẫn ra như thường lệ, bà Berger : “Blomkvist đóng vai trò chủ chốt trong việc phát triển tạp chí Millennium nhưng nay chúng tôi lật trang mới”.

      Berger bà coi vụ Wennerstrom là kết quả của loạt những hoàn cảnh may. Bà ân hận việc Hans-Erik Wennerstrom phải chịu phiền toái. thể liên hệ với Blomkvist để có bình luận.

      - Chuyện này làm em điên, - Berger khi tờ tạp chí được gửi bằng thư điện tử. - Người ta phần lớn nghĩ rằng thằng ngu và em con khốn nạn nhân cơ hội này sa thải .

      - Ít ra các bạn của chúng ta cái gì mới mẻ để mà cười. – Blomkvist cố làm cho câu chuyện , Berger là người vui nhất.

      - Em có phương án B nhưng em nghĩ là chúng ta phạm sai lầm, - .

      - Đó là lối thoát duy nhất. Nếu tờ báo sập, tất cả công lao của chúng ta những năm qua hóa thành công cốc hết. Chúng ta bị thua thiệt về thu nhập quảng cáo. Nhân đây, công ty máy tính thế nào nhỉ?

      thở dài.

      - Họ bảo em sáng nay là họ muốn lấy chỗ trong số sau nữa.

      - Wennerstrom có cục cổ phiếu trong công ty ấy cho nên cố gì đâu.

      - Chúng ta có thể làm cho số thân chủ mới sợ. Có thể Wennerstrom là cha tai to mặt lớn, nhưng sở hữu gì cả ở Thụy Điển mà chúng ta có các tiếp xúc của chúng ta.

      Blomkvist quàng tay qua người , kéo lại gần.

      - Có ngày chúng ta vạch trần Ngài Wennerstrom dữ đến độ Wall Street nhảy tụt hết cả bít tất ra. Nhưng hôm nay Millennium phải lánh ra khỏi ánh đèn sân khấu.

      - Em biết thế nhưng nếu chúng ta có chia rẽ giữa và em em thích xen vào như con điếm động đực còn buộc phải sa vào tình thế đáng ngán.

      - Erika, chúng ta còn tin nhau chúng ta còn có cơ may. Chúng ta phải xem trò này bằng tai và ngay bây giờ là lúc rút lui đây.

      ngập ngừng thừa nhận rằng ở trong cái điều lô gíc làm cho ngao ngán.


      Stieg Larsson

      Có Hình Xăm Rồng

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :