Phần 5 - Chú chó tai họa
Đó là con chó săn rất đẹp, màu sắc pha trộn giữa đen và trắng, cơ thể cân đối, đôi chân thon dài, chạy nhanh như gió. Tên của nó cũng rất kêu: Hoa Ưng, có nghĩa là tinh nhanh, dũng mãnh như chim ưng.
Chủ nhân đầu tiên của Hoa Ưng là ông thợ săn già ở làng Man Quảng Lộng tên là Ngải Hương Tể, nhưng từ khi nuôi Hoa Ưng, trong nhà Ngải Hương Tể liên tiếp xảy ra tai họa này đến tai họa khác. Đầu tiên là đứa con trai lớn của ông ta lên núi chặt cây, bị cây đổ gãy chân. lâu sau, con trai lấy đá ghè thuốc súng, thuốc súng nổ làm hỏng mắt của cậu bé. Sau đó, Ngải Hương Tể mang theo Hoa Ưng lên núi săn, nhìn thấy con gấu chó ra từ bụi cây cách đó năm mét, ông ta giương súng lên nhằm trúng chỗ gốc tai hiểm nhất của nó mà bắn phát, “tạch”, hóa ra súng tịt. Con gấu nghe thấy tiếng động liền xông tới, Ngải Hương Tể vứt bỏ súng săn vội vàng leo lên cây, nhưng chân sau giày bị con gấu cắn mất.
Liên tiếp xảy ra chuyện, cả nhà Ngải Hương Tể vô cùng hoang mang, bèn mời vị thầy cúng trong núi đến giải hạn.
Vị thầy này vừa bước vào sân, chỉ ngay con Hoa Ưng nằm gần cột nhà, bảo: “ người con chó này có khí rất nặng, gây ra tai họa cho gia chủ. Mắt nó còn liên tục chảy lệ đen kìa.”
Ngải Hương Tể liền dắt Hoa Ưng đến, vạch lớp lông trắng mặt nó ra, quả nhiên phát trong lớp lông dày màu trắng có lẫn vài sợi lông đen ngắn, rải rác từ mí mắt cho tới tận mõm.
Con trai của Ngải Hương Tể rút cây gậy định phang chết con chó, liền bị ông thầy ngăn lại. Ông thầy trịnh trọng : “Con chó này giết được, ai giết nó, khí người nó giống như cái cây mọc đến nhà đó, gốc rễ tai họa bám chặt nhà đó. Chỉ có thể bán hoặc đuổi nó thôi.”
Thế là Ngải Hương Tể liền rao giá, ai trả mười đồng được dắt con Hoa Ưng . Mười đồng chỉ có thể mua con gà, con gà mà đổi lấy con chó chẳng khác nào cho . Thế nhưng, dân trong làng nghe được tin về con chó tốt lành này, nên dù có rẻ hơn cũng có ai hỏi mua.
Tôi là thanh niên hiểu biết, tin chuyện ma quỷ. Tôi nghĩ, Hoa Ưng vốn là con chó hoa có màu lông trộn giữa đen và trắng, khuôn mặt màu trắng có vài sợi lông đen là chuyện bình thường, cái gọi là lệ đen chỉ là lời mê tín. Lúc đó, tôi lại rất thích săn, rất muốn nuôi con chó săn, nhưng chó săn thường rất đắt, tôi vất vả làm ruộng năm cũng mua nổi con chó săn loại trung bình, chính vì vậy mong muốn nuôi con chó săn vẫn chưa thành thực. Bây giờ lại có con chó rẻ như thế, đúng là thể bỏ qua. Tôi móc ra mười đồng rồi dắt con chó về.
Tôi dùng kim trúc đan cái lồng chó ở dưới hiên nhà, bên trong lót lớp rơm mềm, đồng thời dùng hai đốt trúc làm thành cái máng ăn, cái máng uống, treo ở cửa, gọi là bố trí cho Hoa Ưng cái “nhà”.
Hoa Ưng rất vừa ý với ngôi nhà mới này, chốc chốc lại lăn vào đống rơm, lúc sau lại chui ra vẫy cái đuôi trước mặt tôi, toàn thân đung đưa như đóa hoa cúc sắp nở.
Tôi và nó như thể có duyên từ kiếp trước, chỉ sau vài ngày, chúng tôi trở thành bạn thân của nhau. Mỗi buổi sáng, khi mặt trời ló ra từ ngọn núi xanh trước nhà, nó lại dùng chân gõ vào cửa nhà tôi, gọi tôi dậy đúng giờ. Ban ngày, cho dù tôi đốn củi núi hay xuống đồng làm ruộng, nó đều bám theo tôi như hình với bóng. Có lúc, nó cũng tìm mấy con chó khác trong làng cùng chơi, nhưng chỉ cần tôi gọi tên, nó lập tức bỏ lại bạn bè và chạy như bay về bên tôi. Có lần, tôi bị cảm sốt, nằm giường muốn ăn gì, nó lôi ra trong đống rác khúc xương, tưởng đây là thức ăn ngon nhất, và mang đến giường cho tôi, tiếc là tôi thể nhận lòng tốt của nó được.
Vụ mùa xong, đồng, những ruộng lúa vàng ươm giờ biến thành những bãi đất trơ trụi. Giai đoạn nông nhàn là mùa săn tốt, tôi cùng Hoa Ưng lên núi bắt thỏ. biết làm thế nào, lúc nhảy qua con suối chỉ rộng chừng nửa mét, cẳng chân tôi lại khựng xuống, ngã ra, đau đến mức lết nổi chân nữa. Vất vả lắm tôi mới về làng, đắp lá thuốc nửa tháng trời mới đỡ.
Tôi lại mang Hoa Ưng đến rừng già đặt bẫy thú, muốn kiếm vài con lợn béo nịch, mang ra chợ bán lấy ít tiền tiêu vặt. Tôi vừa chôn bẫy sắt con đường mòn đầy vết chân thú, thanh chốt của cái bẫy tự nhiên tuột ra, tôi tránh kịp, bập tiếng, cái kẹp sắt sập xuống, kẹp đúng tay tôi. Tay tôi lập tức sưng lên như cái bánh bao tụ máu, suốt tháng cầm nổi đũa.
Liên tiếp hai lần gặp may, tôi khỏi bất an trong lòng, nhớ lại những lời thầy cúng về lệ đen. Tôi thầm nghĩ, có khi nào người Hoa Ưng thực mang khí khiến tôi xui xẻo? Tôi là người theo chủ nghĩa duy vật, nhưng phải là người duy vật cách kiên định. Thế gian này thực có ma quỷ hay ? Tôi nghĩ, mình nên tìm biện pháp phòng thân nào đó, liền lấy kéo cắt hết mấy sợi lông đen mặt Hoa Ưng. Lông đen còn nữa, nhưng chỗ bị cắt lại lộ ra lớp da thịt màu đỏ, cứ lốm đốm lớp lông trắng như tuyết của nó, lệ đen bây giờ lại biến thành lệ đỏ. Lệ đỏ, phải là lệ máu sao? Đúng là chữa lợn lành thành lợn què, trong lòng tôi hoang mang vô cùng.
Lúc đó, lại xảy ra chuyện khiến tôi hồn bay phách lạc. Đêm hôm đó, tôi đến điếm giáo dục thanh niên[1] làng bên tìm người chuyện phiếm, nửa đêm mới mang Hoa Ưng về nhà. Vừa mới được nửa đoạn đường bộ, đột nhiên Hoa Ưng gầm lên, chạy theo con đường mòn vào núi. Tôi tưởng nó phát ra con mồi đáng giá, liền hứng khởi chạy theo sau.
Trăng hãy còn chưa lên, trời lác đác sao mờ nên cảnh vật rất khó nhìn. Tôi chân thấp chân cao chạy theo chóng cả mặt. Hoa Ưng đột nhiên dừng lại sủa, chạy lại chỗ tôi, trong mồm còn ngoạm vật gì đó trăng trắng, tròn tròn. Tôi cúi xuống lấy vật đó từ trong mồm nó ra, đưa lên ngang mũi nhìn, suýt nữa hãi hùng đến thót tim – tay tôi là cái đầu lâu, bên trong đỉnh đầu trống hoác còn le lói ánh lửa lưu huỳnh màu xanh, từ hốc mồm, hốc mũi và hốc mắt phun ra. Tôi mở to mắt nhìn xung quanh, bên này ụ đất, bên kia tấm bia đá, hóa ra tôi lạc vào bãi tha ma! Tôi lấy sức hét toáng lên, vứt cái đầu lâu lại rồi quay người chạy ...
Lúc đó, tôi bắt đầu tin người Hoa Ưng có khí . Tôi nghĩ, mình tuy chỉ là nông dân sống ở tầng lớp thấp nhất trong xã hội, nhưng cái mạng mình cũng phải đáng giá hơn chó chứ. Giữ cái mạng mình hay giữ con chó này? Đương nhiên là giữ lấy mạng mình rồi.
Tôi muốn bán quách Hoa Ưng với giá giảm chỉ còn năm đồng, nhưng chẳng ai dám mua. Giết giết được, bán cũng chẳng bán xong, đành phải vứt vậy.
Tục ngữ , “chó đuổi , sói dạy được”. Muốn vứt bỏ con chó săn trung thành phải chuyện dễ dàng. Ban đầu, tôi phá bỏ cái chuồng chó, đuổi con Hoa Ưng ra khỏi nhà, nhưng nó vẫn chui qua hàng rào vào trong, nằm ở nơi đặt cái chuồng cũ, sủa gọi tôi inh ỏi, như thể trách tôi: “Sao ông chủ lại phá cái chuồng của tôi?”
Đúng là bó tay, mày là do tao dùng tiền mua về, tao có quyền giữ hay đuổi mày chứ! Đuổi mày ra khỏi nhà được, đành phải thả mày vào rừng làm chó hoang vậy. Tôi dùng tấm vải bịt chặt mắt con Hoa Ưng, mượn chiếc xe đạp, đạp mạch mười mấy cây số, trèo lên hai ngọn núi, lấy dây buộc nó vào gốc cây trong rừng, rồi đợi nó cắn đứt dây buộc cổ, tôi liền tức tốc đạp xe về nhà.
Nhưng chập tối hôm thứ ba, tôi rửa mặt ở giếng nước đột nhiên nghe thấy tiếng chó sủa rất quen từ trong làng vọng đến. Tiếp đến, Hoa Ưng lăn đến trước mặt tôi như quả bóng, trong mắt nó ánh lên niềm vui như thể bạn cũ lâu ngày gặp. Nó xúc động đến mức tiếng sủa cũng nghẹn ngào, ùa vào lòng tôi, thè cái lưỡi dài định liếm khắp mặt tôi. Tôi nổi giận đùng đùng, rút chân đá vào bụng nó. Cú đá này rất mạnh, thấy bụp tiếng, nó lại như quả bóng bị sút trúng, kêu ăng ẳng và lăn long lóc. Vùng vẫy lúc lâu, nó mới gượng dậy được, người quặt quẹo bên nọ bên kia, thể nào đứng thẳng được, đau đớn nằm co quắp ở chỗ cũ. ràng, cú đá của tôi làm nó gãy xương sườn.
Tôi cảm thấy hơi xót xa, nhưng nghĩ lại, nếu có ác làm sao đuổi nó được. Tôi rắp tâm, hùng hổ xông tới, nhấc chân lên giả bộ như sắp đá nó cái nữa, nó liền cuộn đuôi lại, kêu ăng ẳng và chạy vào rừng trúc. Tôi thở phào nhõm, nghĩ bụng, nó bị tôi đánh đập đến tàn tật như oan gia, có lẽ biến thành hận, từ sau đến làm phiền tôi nữa.
Nhưng tôi nhầm, Hoa Ưng hề vì bị tôi đá gãy cả xương sườn mà nỡ rời xa tôi. Chỉ cần tôi ra ngoài là lại nhìn thấy nó như hồn ma xuất trong tầm mắt. Nó dám sà vào lòng tôi, cũng dám đến trước mặt tôi, mà chỉ ở chỗ xa cách tôi chừng ba bốn mươi mét, cong cong người, lấm lét nhìn theo. Chỉ cần tôi ngẩng nhìn nó, nó vẫy đuôi tít mù, sủa oang oang cách tức tưởi, ánh mắt tràn đầy nỗi tủi hờn, khiến tôi loạn trí, có cảm giác sợ hãi và nổi nóng như bị quỷ ám. Đến tình cảm thương xót cuối cùng dành cho nó, tôi cũng còn. thể chịu đựng hơn nữa, tôi bắt đầu lóe lên ý nghĩ cần phải đặt dấu chấm hết cho chuyện này.
Hôm đó, tôi lấy lá chuối tây gói ít thịt bò nướng sả, đến vách núi cao hàng trăm mét ở sau làng. Vách núi rất cheo leo, đến khỉ cũng thể leo được, bức vách còn mọc đầy cây tử kinh tua tủa gai. Khỏi phải , con Hoa Ưng vẫn còn lẽo đẽo theo sau tôi.
Tôi cất giọng hiền dịu gọi nó: “Hoa Ưng, lại đây! Hoa Ưng, lại đây!” Nó hề nghi ngờ, từ bụi cây đằng sau chui ra, sủa oang oang, chạy đến trước mặt tôi. Cái đuôi của nó ngoáy tít mù, đôi mắt long lanh như chảy lệ, xúc động đến mức toàn thân đều run lên. Đồ ngốc, tưởng là tao muốn lại thân tình với mày sao.
Tôi nhìn thấy lông nó dính đầy nhựa cây phấn hoa, lốm đốm vằn vện, trông như con chó ghẻ; da bụng lép kẹp, có lẽ mấy ngày nay nó chưa được ăn miếng nào. Như thế lại tạo điều kiện tốt cho kế hoạch của tôi. Tôi lôi ra miếng thịt, mùi thơm tỏa ra phưng phức, con Hoa Ưng vui mừng đến mức chân nhảy loạn xạ nhìn về phía bàn tay tôi cầm thịt. Tôi né người, từ từ dịch người về phía vách núi.
biết vì thái độ của tôi đột nhiên trở nên thân thiết làm nó vui mừng đến mức quên hết mọi thứ, hay vì mùi thức ăn thơm quá làm nó quên mất việc quan sát địa hình, nó ở chỗ cách vách núi chừng thước nhưng vẫn còn vô tư nhảy nhót. Tôi lấy người che tầm mắt nó, xòe tay ra, dí cho nó ngửi miếng thịt hai lần, rồi đột nhiên ném miếng thịt về phía ngoài vách núi, đồng thời bước sang bước, để lộ khoảng gian trống trải. Con Hoa Ưng co người nhảy lên, đớp lấy miếng thịt trong trung. Nó ngoạm trúng miếng thịt, nhưng cơ thể hoàn toàn ở ngoài vách núi. Lúc đó, nó mới ý thức được mình ở vào tình huống nguy hiểm, liền quay người lại, muốn đáp vào trong vách núi. Nhưng muộn, giống như viên đá xuống nước, nó rơi từ vách xuống.
Ông trời có thể làm chứng, phải là tôi đẩy nó xuống. Tôi tự với bản thân, là do nó cẩn thận ngã xuống, phải tôi mưu sát, chỉ là cố ngoài ý muốn! Như thế tôi phải chịu trách nhiệm, cần phải áy náy, đương nhiên cũng cần phải lo lắng sau khi nó chết khí người nó bám vào người tôi như cái cây, mọc rễ trong nhà tôi.
Tôi đợi nghe tiếng của nó rơi xuống vách, nhưng thanh mà tôi nghe thấy chỉ là tiếng kêu của nó. Tôi bò lên vách núi, cẩn thận ngó đầu xuống. Trời ạ, con Hoa Ưng hề rơi xuống vực sâu mấy trăm mét, nó chỉ rơi xuống có mét mắc vào khóm cây tử kinh. Người nó nằm giữa khóm tử kinh đầy gai nhọn, bốn chân cố bám lấy vách đá cách khó khăn, miệng ngoạm lấy cành tử kinh. Nhìn thấy đầu tôi ló ra từ vách núi, cổ họng nó phát ra tiếng kêu u u, đôi mắt ánh lên vẻ tội nghiệp. Ngay lúc đó, nó vẫn quên vẫy đuôi chào tôi. Tôi biết, nó cầu cứu tôi. Chỉ cần tôi giơ ra cánh tay là có thể cứu nó ra khỏi nguy hiểm. Nhưng tôi làm thế, tôi quan sát hồi, khóm tử kinh mềm yếu, thể chịu đựng sức nặng của nó. Nó vừa cắn cành tử kinh vừa với lấy vách đá, chắc chắn cũng thể kiên trì bao lâu, sớm muộn cũng bị rơi xuống. Tôi yên tâm đứng lên, phủi đất cát người rồi về làng.
Tôi ngờ được rằng khả năng sinh tồn của loài chó lại mãnh liệt như vậy. Buổi chiều hôm đó, tôi đánh cá sông về, vừa mới bước vào cổng làng nhìn thấy Hoa Ưng. Toàn thân nó bị gai cây tử kinh đâm be bét, gần như bộ lông trắng bị nhuộm thành màu đỏ, miệng há ra, bên trong có cục máu. Tôi biết làm thế nào mà nó thoát chết trở về được, có lẽ là miệng nó ngoạm chặt cành tử kinh, chịu đựng nỗi đau đớn vì bị gai đâm rách họng, từ từ leo lên vách núi. Cũng có thể nó từ khóm tử kinh này này trườn xuống khóm tử kinh dưới kia, từng bước , cuối cùng qua thoát khỏi vách núi sâu hàng trăm mét.
Tôi có hứng thú tìm hiểu quá trình thoát thân của nó, chỉ lo nó vẫn còn quấy rầy tôi. Nhưng lần này nó học được bài học, nhìn thấy tôi còn vẫy đuôi nữa, cũng còn sủa gọi tôi. Nó quay đầu về phía dòng sông, trốn biệt tích. Từ đó trở , nó còn bám theo tôi như hồn ma nữa, cũng còn chạy đến dưới hiên nhà tôi nữa. Có lúc tình cờ gặp nhau ở gần ruộng, nó cũng chỉ dùng ánh mắt khó hiểu nhìn tôi, rồi lại bỏ .
Ơn trời ơn đất, cuối cùng tôi cũng thoát khỏi quấy rầy của nó.
Nửa tháng sau, buổi trưa, tôi ra bơi ở con sông cát chảy, bốn bề có bóng người, rất vắng lặng. Tôi bơi vào vùng lau sậy, bỗng nhiên nghe thấy có tiếng xì xì từ trong đám lau. con cá sấu Ấn Độ dài khoảng hơn hai mét há miệng, bơi về phía tôi, tôi vội vàng quay đầu bơi về bờ.
Cá sấu Ấn Độ tuy cơ thể to lớn nhưng lại rất linh hoạt khi ở dưới nước. Cái đuôi vừa dài vừa dẹt của nó giống như bánh lái lớn, chỉ cần quạt là vút như mũi tên, chỉ cách tôi khoảng mười mét. Lúc này tôi vẫn ở giữa dòng.
Tôi lo quá, vừa lấy hết sức quạt tay bơi, vừa hô hoán cầu cứu. Nguy hiểm là ở chỗ, chỗ này cách làng hơn cây số, tôi có gào to hơn cũng chẳng có ai nghe thấy. Tôi nghĩ, mình sắp bị con cá sấu đáng ghét kia ngoạm đứt chân, lôi xuống đáy sông dìm chết chết trong bùn rồi bị nuốt chửng vào trong bụng con cá sấu, ngày này năm sau là ngày giỗ của tôi.
Tôi cứ tuyệt vọng vừa bơi vừa gọi. Đột nhiên, tôi nghe thấy tiếng chó sủa quen thuộc, ngẩng đầu lên nhìn, con Hoa Ưng thở hồng hộc ở bờ. “Hoa Ưng, mau đến cứu tao!” Tôi vội vàng khua tay về phía nó gọi to. Nó hề do dự lao xuống nước, bơi về phía tôi.
Do bị gãy xương sườn nên tư thế bơi của nó rất kỳ quặc, cong gập cả người, như thể múa ba lê trong nước. Nhưng nó vẫn có sức bơi, bốn chân thi nhau đạp nước, loáng bơi đến chỗ tôi. Nó tỏ ra như thể trước nay tôi và nó chưa từng xảy ra chuyện gì hay, như thể hai chúng tôi chưa từng có khoảng cách. Nó đến bên tôi, cái đuôi đen dựng lên mặt nước, quẫy người về phía tôi rồi sủa oang oang hai tiếng nhàng, như thể muốn : “Ông chủ, đừng sợ, tôi đến rồi đây!” Sau đó, nó quay người, bơi về phía con cá sấu Ấn Độ sủa to, ý bảo: “Đồ đáng ghét kia, có tao ở đây, mày được làm hại tới sợi lông nào của ông chủ tao!”
Hoa Ưng vì tôi chặn đứng con cá sấu Ấn Độ, vì tôi chặn đứng tử thần hung ác.
Tôi leo lên bờ mới dám quay lại nhìn, nhưng còn nhìn thấy gì nữa. Đám lau sậy um tùm che khuất tầm nhìn của tôi, chỉ nghe thấy sâu trong đám lau truyền tới tiếng chó sủa và tiếng đớp cắn, rồi tiếng đuôi cá sấu quạt nước và tiếng sóng vỗ...
Trở về nhà, tôi lập tức bắt tay vào làm cái chuồng dưới hiên. Tôi nghĩ, mình phải dùng lá thuốc để đắp vào chỗ xương sườn của Hoa Ưng mà mình đá gẫy, lấy xà phòng tắm sạch những vết nhựa cây người nó, nấu nồi thịt bò để tẩm bổ cho cơ thể gầy ốm của nó. Từ nay trở , tôi bao giờ rời xa nó nữa. Tôi làm cái chuồng rộng, rộng đến mức tôi cũng có thể chui vào ngủ. Tôi cảm thấy mình nên đổi ngược vị trí cho Hoa Ưng. Tôi chỉ đáng làm con chó, còn nó, hoàn toàn có tư cách làm con người.
Tôi ngồi trước cái chuồng chó mới làm, chờ Hoa Ưng của tôi trở về...
[1] Điếm giáo dục thanh niên: hình thức tổ chức vào thập niên 60-70 tại Trung Quốc, dành cho những thanh niên trí thức tham gia lao động tại nông thôn trong cuộc Đại cách mạng văn hóa.
Phần 6 - Con chó săn thứ bảy
Suốt hơn 40 năm săn bắn của mình, ông Thiệu Bàn Ba sống tại trại Ba Tiêu nuôi tất cả bảy con chó săn.
Chú chó săn đầu tiên chân quá ngắn, đuổi kịp hươu núi, thế là nó bị đem ra chợ bán mất. Con thứ hai, khi được năm tuổi béo giống như chú lợn. Con chó thứ ba lại rất ngốc, lần đầu tiên săn bị con báo cắn chết. Con chó săn thứ tư, là con chó cái. Lớn lên chút, nó bỏ theo chú chó đực trong vùng. Con chó săn thứ năm mình đầy mụn ghẻ. Con chó săn thứ sáu bất cẩn thế nào lại sập ngay bẫy của đám thợ săn.
Là người thợ săn, nhưng lại có được cho mình chú chó săn ưng ý, việc này giống như kỵ binh tìm được cho mình con tuấn mã riêng. Thế nên Thiệu Bàn Ba hay phải phiền lòng vì chuyện này.
Ba năm trước, trong ngày mừng thọ 60, Liên đội trưởng Đường của đội biên phòng Man Cương tặng ông chú chó con, mẹ nó là con chó được huấn luyện trong quân đội làm quà mừng thọ. Suốt ba năm qua, dù phải ăn uống đạm bạc kham khổ, nhưng bữa nào Thiệu Bàn Ba cũng phải để cho con chó của mình có chất tanh trong bữa ăn.
Dưới bàn tay chăm sóc của ông, con chó lớn rất nhanh. Dọc sống lưng đan xen giữa những sợi lông vàng là hai dãy lông đen đối xứng. Vóc dáng nó phải bằng môt con bê con, lưng eo thon thả, vừa đẹp nhưng cũng kém phần oai phong. Nó quả hổ danh là hậu thế của chú chó được rèn luyện trong quân đội, leo núi rất nhanh, săn bắn dũng mãnh như chú hổ. Có lần, con chim ưng dám sà xuống sân nhà bắt gà. Lúc đó nó ở cạnh khóm hoa, nhảy chồm ra ngay vồ đứt cánh con chim. Thiệu Bàn Ba đặt tên cho nó là Xích Lợi. (Trong truyền thuyết của người Thái Xích Lợi là con dao biết bay.)
Ông lão rất quý con chó của mình. Thiệu Bàn Ba coi Xích Lợi như viên ngọc minh châu thứ hai. Viên ngọc minh châu thứ nhất tất nhiên là thằng cháu nội Ngải Tô Tô. Những lúc rỗi rãi, ông thường dắt theo Xích Lợi đến thăm lão Canh – người bạn sinh cùng ngày cùng tháng với ông. Chỉ cần uống ba chén rượu nếp vào, ông vênh vang mà rằng: “Có được Xích Lợi quả uổng phí cả đời làm thợ săn của tôi. Cho dù đem cả chuỗi trân châu, hay hũ vàng đến đây, cũng đổi được nó đâu.” rồi, ông áp mặt mình vào sau tai con chó lúc lâu.
Tuy nhiên, vào năm 1433 theo lịch người Thái (tức năm 1980 theo lịch Công nguyên), vào buổi sáng của lễ té nước năm nay Thiệu Bàn Ba bế theo Ngải Tô Tô và dắt theo Xích Lợi đến bên bờ sông Lan Thương xem đua bơi thuyền, ném cao, múa dân gian Thái như mọi năm, mà ông dùng sợi dây rừng buộc Xích Lợi ngay dưới chân cây cau. Cạnh đó, ông dùng ba hòn đá, xếp lại thành cái bếp, rồi đun nồi nước lớn. Sau đó, ông rút từ trong đống củi thanh củi lớn và từ từ tiến lại chỗ Xích Lợi.
Xích Lợi vẫy vẫy cái đuôi, thè chiếc lưỡi, định liếm ống quần của Thiệu Bàn Ba. Đột nhiên, Thiệu Bàn Ba vung thanh củi lên và giáng mạnh. Nhát đầu tiên Xích Lợi tránh được, thanh củi hằn mặt đất rãnh sâu. Xích Lợi run sợ núp sau cây cau, và rên lên những tiếng se .
Sắc mặt Thiệu Bàn Ba từ màu đồng đỏ, chuyển dần sang xanh. Lão lại tiến thêm bước, rồi vung thanh củi lên lần nữa. Đúng lúc đó, đứa trẻ mũi chảy ròng ròng chạy từ nhà sàn ra, tay trái cầm con dao, tay phải cầm quả táo mèo gọt dở lao vào lòng Thiệu Bàn Ba và nức nở: “Ông ơi, ông đừng đánh Xích Lợi, nó là bạn thân của cháu mà.”
Thiệu Bàn Ba thu thanh củi lại, dùng đôi tay nhăn nheo của mình ôm lấy thằng cháu, nước mắt lưng tròng. Ông lão xoa mái tóc mềm mại của Ngải Tô Tô và : “Cháu ngoan, nó phải là bạn của cháu, mà là nghiệp chướng, con vật xui xẻo. Ông phải đích thân đánh chết nó, lột da, nấu cao. Trưa nay, ông cho cháu ăn thịt chó.”
rồi, ông lão ôm Ngải Tô Tô ra ngồi cối giã gạo đặt dưới hiên nhà, sau đó quay người, vung cao thanh củi hướng về phía Xích Lợi.
Tối ngày hôm qua, Thiệu Bàn Ba mang theo súng, dắt theo Xích Lợi lên ngọn núi cao sau Trại, muốn bắt vài con dúi, hoặc tìm vài con tê tê để cải thiện bữa ăn trong ngày lễ té nước. Sau khi vượt qua con suối , vào cánh rừng rậm rạp, đột nhiên Xích Lợi dỏng cao đôi tai, ngoạm vào ống tay áo và lôi lão . Xích Lợi rất thông minh, khi gặp con mồi sủa lên để thể mình như những chú chó khác, khiến con mồi chạy mất, mà nó ngoạm tay áo chủ để thông báo. Khi Thiệu Bàn Ba vạch mấy chiếc lá tai voi, quả nhiên phát con lợn rừng lông dài đứng dưới tán lá tre cách đó khoảng chục bước chân. Ít nhất, con lợn đó cũng phải nặng đến 45kg. Nó dùng hai chiếc răng nanh để đào măng.
Thường , nếu mình, các thợ săn tránh xa những con mãnh thú, đặc biệt là lợn rừng, bởi vì nó rất hung dữ. Những con vật mà đám thợ săn thường tránh xa, thứ nhất là lợn rừng, thứ hai là hổ và thứ ba là gấu. Thế nhưng, Thiệu Bàn Ba cậy vào kinh nghiệm hơn 40 năm săn bắn của mình cùng với chú chó Xích Lợi dũng mãnh, nên hề sợ hãi, đặt súng xuống, nêm chặt ngòi, ngắm thẳng tai con lợn rừng và bắn.
“Đoàng”, tiếng nổ lớn vang lên. Sau khi làn khói tan , Thiệu Bàn Ba phát viên đạn găm vào đầu con lợn rừng như định, mà lệch chút, găm ngay đỉnh đầu con mồi, máu đen đặc chảy thành dòng xuôi theo cổ con vật. Biết chuyện chẳng lành, thế nên Thiệu Bàn Ba nhanh chóng nấp sau đám bí, vội vàng lôi hồ lô đựng thuốc súng từ trong cạp quần, nhét đạn vào súng, tuy nhiên kịp. Con lợn rừng bị thương ngẩng đầu, kêu lên tiếng đầy phẫn nộ, nghiến chặt hàm răng, lao như điên về phía Thiệu Bàn Ba.
Xích Lợi đứng phía sau sủa ầm ĩ, Thiệu Bàn Ba vội ra lệnh: “Xích Lợi, tấn công, tấn công ”. Lão nghĩ rằng, chỉ cần Xích Lợi xông lên và cắn vào sau chân con lợn rừng, đánh vật với nó lúc lão có đủ thời gian để nạp đạn, và chắc chắn con lợn rừng đáng chết kia phải lên chầu trời. Thế nhưng, lão phải thất vọng ngay sau đó, Xích Lợi những tiến lên cứu chủ, mà ngay cả sủa cũng ngừng luôn, nó cụp đuôi và trốn vào trong bụi rậm. Thiệu Bàn Ba chưa kịp quay đầu nhìn con chó, con lợn rừng xông đến ngay trước mặt, nó chỉ cần cắn nhát thân cây bí to bằng cái bát bị đứt.
Thiệu Bàn Ba chỉ còn cách vứt bỏ cây súng, chạy vòng quanh thân cây để tránh cú húc của con lợn rừng. Nhưng vì có tuổi, đôi chân của lão còn nhanh nhẹn như thời trai trẻ, nên khi chạy đến trước cây đa, dẫm phải đám rêu trơn, lão bị ngã. Khó khăn lắm lão mới ngồi dậy được, lúc đó con lợn rừng chỉ còn cách lão chừng hai bước chân, đầu chúc xuống, hai chân dậm dậm, lông cổ dựng ngược lên, xông thẳng về phía trước. Thiệu Bàn Ba kịp né tránh, đành phải gập đầu gối, lăn sang bên. Chiêu này rất nguy hiểm, cho dù con lợn rừng có vồ trượt, rồi đâm vào cây đa và rơi xuống, cũng có thể đè chết lão.
Thiệu Bàn Ba chỉ kịp nghe thấy tiếng “rắc” to, rồi nhắm nghiền mắt lại. Nhưng con lợn rừng đè lên người lão. Lão từ từ mở to đôi mắt và nhìn, đúng là ông trời vẫn còn có mắt, phù hộ cho lão gặp nạn lớn mà mất mạng. Hóa ra, thân cây đa cổ thụ tách làm hai, vừa hay con lợn rừng xông lên theo hướng đó, và mắc kẹt vào khe trống giữa chúng. Bốn chân chỏng vó lên trời, nó kêu gào thảm thiết. Cây đa rậm rạp lá cũng rung lên xào xạc, rụng đầy gốc. Thiệu Bàn Ba dám chậm trễ, nhanh chóng nhặt khẩu súng lên, châm ngòi, đút nòng súng vào miệng con lợn rừng và bắn liền 3 phát. Con lợn gục ngay tại chỗ.
Thiệu Bàn Ba nhìn con lợn chết, toàn thân lão mềm nhũn như kẻ vừa uống say, mồ hôi lạnh túa ra. Đúng lúc đó, Xích Lợi lại bắt đầu sủa, nó vừa chui ra từ bụi rậm, xông lên cắn xé con lợn rừng chết mắc kẹt trong gốc cây đa. Chưa bao giờ Thiệu Bàn Ba lại cảm thấy kinh tởm đến vậy, thể ngờ rằng, chó săn cũng sợ chết và có mặt đáng khinh như thế. Nếu như phải vì hết đạn, có lẽ lão bắn nát đầu con chó săn rồi.
Thiệu Bàn Ba vung vẩy thanh củi tiến lại gần Xích Lợi, con chó hết né bên nọ, lại tránh bên kia, mắt ngân ngấn lệ như cầu xin tha mạng.
Từ năm ba tuổi, Ngải Tô Tô suốt ngày nô đùa cùng Xích Lợi. Con chó thường giúp cậu bé tìm được tổ của đám chim trĩ trong rừng, nhặt được rất nhiều trứng. Xích Lợi còn giúp cậu bé luôn chiến thắng trong trò chơi đánh trận giả, và cũng giúp cậu bé tìm được “con mồi” của mình trong trò chơi trốn tìm.
Có lần, cậu bé đến bên dòng sông Lan Thương bơi lội và bị sa vào dòng xoáy, khi sắp bị chìm xuống đáy sông, cậu bé gọi Xích Lợi to. Xích Lợi hề đắn đo, lao ra giữa dòng sông, bơi ra chỗ cậu bé. Ngải Tô Tô nhờ túm được cái đuôi chó nên mới bơi được vào bờ.
Bây giờ, ông nội muốn đánh chết Xích Lợi, Ngải Tô Tô cảm thấy rất đau lòng, cậu bé cầm được nước mắt, bật khóc to.
Thiệu Bàn Ba càng tức giận hơn, lão nhặt khúc gỗ và xông về phía con chó. Nhờ nhanh nhẹn nên Xích Lợi né tránh được, tuy nhiên vì vướng sợi dây rừng buộc cổ, nên nó chỉ có thể chạy vòng quanh thân cau. Chẳng mấy chốc, con chó phải hứng chịu hai gậy giáng xuống người, quá đau nên nó sủa lên ăng ẳng.
Sợi dây rừng quấn mấy vòng quanh gốc cây cau, Xích Lợi càng chạy, sợi dây càng ngắn, cuối cùng con chó bị xích chặt dưới gốc cây cau và nhúc nhích được nữa. Thiệu Bàn Ba nắm chắc cơ hội, bước vội lên phía trước, nắm chặt thanh củi nhằm thẳng mũi con chó mà phang. Lúc này, nếu như Xích Lợi tung người lao lên, nó có thể cắn xuyên tay ông lão, nhưng nó làm vậy. Con chó nghiêng đầu, đợi cho thanh củi giáng xuống đất, nó cắn chặt thanh củi nhả ra.
Thiệu Bàn Ba nắm chặt thanh củi rồi ra sức kéo. Xích Lợi cũng cắn chặt thanh củi buông. lúc sau, đỉnh đầu hói trụi của ông lão vã đầy mồ hôi hột, ông lão thở hổn hển. Lão càng tức hơn, quăng thanh củi và mắng: “Con súc sinh vô lương tâm, tao cho mày nếm mùi súng đạn”. rồi, lão thợ săn phăm phăm về phía căn nhà sàn.
Bình thường, Xích Lợi thấy những người trong thôn khi giết chó cũng buộc chúng dưới gốc cây, và bên cạnh bắc nồi nước luộc. Nó biết rằng, họa lớn đến với mình. Thú tính của nó bộc phát, nó lồng lên hòng muốn thoát khỏi sợi dây rừng. Nhưng sợi dây này còn chắc hơn cả dây nilong, tìm đủ mọi cách đều cắn được đứt. Nó tru lên đầy bi ai, ánh mắt như cầu cứu hướng về phía Ngải Tô Tô.
Ánh mắt nhòe vì nước mắt, Ngải Tô Tô nhìn thấy ông mình về phía căn nhà sàn, cậu bé nhanh chóng chạy đến bên gốc cây cau, dùng con dao gọt quả rừng ra sức cắt dây buộc cho con chó. Trong lúc vội vã, cậu bé gọt đứt cả miếng thịt ngón cái, máu tươi thành giọt cái mõm dầy của Xích Lợi.
Xích Lợi được tự do, nó lắc lắc đầu, nhàng liếm và hôn lên người cậu bé. Đúng lúc đó, cầu thang của nhà sàn kêu lên răng rắc, Thiệu Bàn Ba tay cầm súng bước xuống từ căn nhà. Ngải Tô Tô vội vàng đẩy Xích Lợi và hét lên: Mau chạy .
Xích Lợi lùi lại hai bước, nhìn Ngải Tô Tô và Thiệu Bàn Ba với ánh mắt đầy quyến luyến, rồi vội vã quay đầu. Như chú ngựa đứt cương, nó tung người bay cao, qua hàng rào làm bằng tre cao đến hai mét, và chạy về phía núi.
Những chiếc lá đỏ cùng những cánh hoa tươi chao lượn theo làn gió, rụng đầy mặt đất.
Vùng núi này nằm trong khu vực bảo tồn thiên nhiên. Cây đa có đến nghìn năm tuổi với vô số rễ phụ đầy trong trung. Trông chúng giống như những chiếc vòi voi. Những tán cây rừng cao vút như muốn chọc vào trời xanh. Những thân cây thẳng giống như những chiếc cổ của bầy hươu cao cổ. Trong rừng sâu, hươu thường với nhau thành bầy đàn, từng đàn chim trĩ đầy màu sắc bay tứ tung. Đúng là nơi lý tưởng cho động vật hoang dã. Xích Lợi dạo khắp chốn, uống ngụm nước suối. Thấy đói bụng, nó liền bắt con cầy ăn.
Kể từ đó, nó trở thành con chó hoang.
buổi chiều, Xích Lợi bắt được con thủy lộc bên bờ sông Lan Thương. Nó ăn ngon lành tiếng động vang lên từ phía bụi rậm. bầy chừng 20 con chó rừng từ phía đó xông ra. Dẫn đầu là hai con chó rừng đực, trong đó có con có vòng lông trắng ở cổ, giống như được đeo chuỗi ngọc trai. Con còn lại có cái đuôi màu đen. Bầy chó rừng nhìn thấy con thủy lộc nhuốm máu nằm mặt đất, ánh mắt toát lên thèm muốn, hung tàn. Chúng tách nhau ra, xếp đội hình thành hình như chiếc quạt tấn công Xích Lợi.
Xích Lợi nhìn hai con chó rừng cầm đầu cách lạnh lùng. Đứng trước Xích Lợi, bầy chó rừng tỏ ra bé, yếu ớt, da bụng dính vào da lưng, có lẽ có đến mấy ngày liền chúng săn được con mồi nào.
Vòng vây của lũ chó rừng càng lúc càng thu hẹp, giờ chỉ còn cách chỗ Xích Lợi đứng chừng hai đến ba bước. Xích Lợi vẫn gặm xương con thủy lộc cách ngon lành. Hai con chó rừng cầm đầu, lùi lại chút và bắt đầu khom lưng, sau đó tru lên tiếng và đồng loạt tấn công từ hai phía cả bên phải và bên trái. Xích Lợi hề vội vã, nó tung người, nhảy lên mỏm đá ở bên cạnh. Đây là mỏm đá cao nhất ven bờ sông, nó phải cao đến chừng hai mét, bốn bề đều dựng đứng. Con chó rừng đực có lông cổ trắng bám sát ngay phía sau Xích Lợi, nó cũng phi lên mỏm đá. đợi nó đứng vững, Xích Lợi tung chân trước chắc như thanh sắt, đạp nó ngã ngửa. Nhanh như chớp, Xích Lợi nhe hàm răng nhọn, cắn đứt cổ họng con vật. Máu đen thẫm chảy đầy mỏm đá, con chó rừng ngã lăn xuống bờ sông.
Con chó rừng đuôi đen cũng tru lên tiếng rồi nhảy lên mỏm đá, lần này Xích Lợi cũng nhanh chóng cắn đứt cổ nó.
Cả bầy chó rừng tỏ ra kinh sợ, chúng muốn bỏ , nhưng cũng dám nhảy lên mỏm đá, chỉ dám đứng dưới, vây quanh và ngước nhìn Xích Lợi. Xích Lợi đưa đôi mắt, giống như tia chớp, nó nhảy xuống mỏm đá vồ lấy con chó rừng đực, và cũng nhanh chóng cắn đứt cổ họng nó. kịp cho những con chó rừng khác tấn công mình, Xích Lợi lại nhanh chóng nhảy lên mỏm đá.
Khi mặt trời lặn, cũng là lúc mà con chó rừng đực cuối cùng trong đàn phải chịu chung thảm cảnh như những người em của mình.
Chó rừng là loài động vật sống theo bầy đàn, những con đực khỏe mạnh được phong làm thủ lĩnh, khi thủ lĩnh chết những con đực khác lên thay. Nếu tất cả chó rừng đực trong đàn đều chết, bầy đàn của chúng tan rã, chó rừng cái đem theo con mình gia nhập những đoàn khác.
Lúc này, chừng bảy tám con chó rừng cái tru lên đầy bi thảm, đem theo khoảng mười con chó rừng con, chạy thẳng vào bụi rậm.
Xích Lợi khoan khoái tru lên hồi dài, nhảy xuống khỏi mỏm đá và đuổi theo, dùng móng vuốt vồ con chó rừng cái, sau đó dùng đầu hất tung nó lên trung. Đám chó rừng cái mang theo bầy con sợ hãi bỏ chạy khắp nơi. Xích Lợi chạy lên phía trước, chặn đầu chúng, ép chúng quay lại bờ sông.
Trăng dần cao như trải lớp bạc dòng sông. Xích Lợi chuyển từ tấn công sang vờn lũ chó rừng cái, và để mặc chúng cấu xé con thủy lộc. Đám chó rừng cái cũng còn hoảng sợ và bỏ chạy nữa.
Từ đó, Xích Lợi trở thành thủ lĩnh của bầy chó rừng này. Tất cả lũ chó rừng, từ chó rừng mẹ đến chó rừng con đều rất kính nể và phục tùng Xích Lợi. Xích Lợi đưa cả bầy chó rừng sống tự do tự tại trong cánh rừng.
Thế nhưng, Xích Lợi vẫn thể quên được Thiệu Bàn Ba. Chưa bao giờ nó dẫn bầy chó rừng đến gần Trại Ba Tiêu, cho dù đến nay nó vẫn chưa hiểu vì sao mình lại bị đuổi vào rừng sâu.
Việc Xích Lợi bị Thiệu Bàn Ba đánh đập và buộc phải trốn vào rừng sâu là oan ức.
Ngày hôm đó, Thiệu Bàn Ba ngắm bắn con lợn rừng, khi di chuyển chân dẫm lên ba quả trứng rắn trong tổ bãi cỏ. Lúc đó, Thiệu Bàn Ba dồn hết chú ý vào con lợn rừng, lão đâu có biết rằng con rắn mắt kính màu nâu đen vươn người về phía trước. cổ, đôi mắt lòng đen ngoài trắng như đôi mắt kính của nó giương to lên. Chiếc lưỡi đỏ như máu thò ra thụt vào, và miệng phát ra những tiếng “phì phì”. Từ phía sau, con rắn nhìn chằm chằm vào cánh tay trần của Thiệu Bàn Ba, như sắp muốn...
Thường các chú chó đều dám dây vào đám rắn độc, nhưng trong lúc nguy cấp như thế này Xích Lợi lại bất chấp nguy hiểm xông lên. Đúng lúc đó, nó lại nghe thấy tiếng chủ nhân gọi mình, thế nhưng nó cũng dám nhả con rắn ra. Hai con vật quần nhau trong đám cỏ, cắn xé... trận chiến chỉ kết thúc khi cái đầu hình tam giác của con rắn bị Xích Lợi cắn rời. Lúc đó, nó mới hổn hển và nhảy ra khỏi đám cỏ, chạy về phía con lợn rừng máu chảy lênh láng mắc kẹt giữa hai nhánh cây đa.
Tiếc rằng, Thiệu Bàn Ba lại nhìn thấy cảnh tượng đó và Xích Lợi cũng thể cho chủ nhân biết.
Thiệu Bàn Ba rất đau lòng khi nghĩ rằng Xích Lợi trung thành với mình. Ông bán khẩu súng săn và quyết định tiếp tục làm thợ săn nữa. Ông ngồi nhà suốt nửa năm liền. ngày cuối hạ đầu thu, để đỡ buồn chán ông quyết định giúp đội sản xuất chăn hai con bò.
Sau ngày lễ Khai môn lâu (người Thái có tục từ ngày 15 tháng 7 đến ngày 14 tháng 10 hàng năm là khoảng thời gian “quan môn”. Trong thời gian này, mọi việc đương cưới hỏi cũng như những hoạt động vui chơi giải trí khác đều diễn ra. Sau ngày 15 tháng 10 – tức sau ngày lễ Khai môn, mọi việc mới được trở lại bình thường) trong cùng ngày, hai con bò đó sinh được hai chú bê con. Chuyện này khiến Thiệu Bàn Ba hết sức vui mừng. Ban đêm, ông ngủ ngay trong chuồng bò để canh chừng, còn ban ngày ông dẫn chúng đến những vùng cỏ mới, tìm thức ăn.
buổi sáng tinh mơ, Thiệu Bàn Ba mang theo cây cung cũ, đặt thằng cháu nội Ngải Tô Tô cưỡi lên lưng chú bò, họ cùng nhau đến khu vực ao bò rừng dưới chân núi chăn bò.
Ao bò rừng thực ra là vùng đất trũng dài và hẹp, ướt át lại nóng ấm, khắp nơi mọc cỏ linh lăng và cây tam diệp đỏ. Chúng nở những bông hoa màu vàng, trắng, xanh và nhiều màu khác nữa. những lá cỏ còn vương những giọt sương mai. Để bò gặm cỏ ở đây ba ngày liền ngay cả những chú bò gầy còm cũng trở nên béo tốt.
Đôi bê con nô đùa đám cỏ, lúc chạy đến bên suối làm vài ngụm nước mát, lúc lại nép dưới bụng mẹ mút dòng sữa thơm. Bò mẹ hiền lành đứng im chỗ, vừa nhai những ngọn cỏ non, thỉnh thoảng lại thè lưỡi, liếm lưng chú bê con.
Thiệu Bàn Ba ngắt được bông hoa hồng trắng, hoa nhài vàng và hoa dong giềng trong đám hoa dại, kết thành vòng hoa đeo lên cổ Ngải Tô Tô. Ngải Tô Tô soi bóng mình dưới làn nước trong vắt của dòng suối, rất sung sướng vì thấy mình giống chàng hoàng tử trăm hoa trong thần thoại. Nó trèo lên lưng con bò, coi đó như chú ngựa và hét lên: Phi nào! Con bò chạy lòng vòng quanh bãi cỏ khiến Thiệu Bàn Ba cười vui ngớt.
Con bò chở theo Ngải Tô Tô chạy vòng quanh hẻm núi, đột nhiên nó rống lên “bò...”, sợ hãi quay đầu và chạy về phía lũ bê con. Ngải Tô Tô cưỡi tấm lưng trần của con bò, có thiết bị bảo vệ, nên bị hất tung xuống, đầu gối trầy xước. Nó khóc ròng, chân thấp chân cao chạy về mách ông.
Kinh nghiệm mấy chục năm trong nghề thợ săn, khiến Thiệu Bàn Ba biết rằng gặp nguy hiểm. Ông giương cặp mắt sắc lẹm như ánh mắt chim ưng về phía chân núi, chợt thấy bụi cây rừng chuyển động. Lá khô rụng đầy, lúc sau, bầy chó rừng áp sát đến.
Hai con bê con rúc dưới bụng mẹ run lên cầm cập. Ánh mắt của bò mẹ toát lên hung dữ pha chút gì đó sợ hãi. Thiệu Bàn Ba gỡ chiếc cung xuống, vỗ vào mông con bò cái và quát: “Đồ ngốc, chạy !” Hai con bò phì lên tiếng rồi bắt đầu co chân, định về hướng trại Ba Tiêu. Nhưng kịp nữa rồi, lũ chó rừng chia làm hai hướng, tiến đến sát chỗ lũ bò và chặn đường chúng. Đàn bò chỉ còn cách quay lại chỗ Thiệu Bàn Ba, nhìn ông như cầu cứu.
Thiệu Bàn Ba ôm Ngải Tô Tô vào lòng, bình tĩnh quan sát xung quanh. Bầy chó rừng có khoảng chừng hơn 20 con cả lớn lẫn , con nào con nấy bụng đều kẹp lép. Lão cũng biết rằng, những con chó rừng đói khát này còn khó đối phó hơn cả hổ. Hối hận vì bán mất chiếc súng săn, nếu , tiếng súng nổ có thể dọa được lũ chó rừng này hoặc ít nhất tiếng súng cũng có thể báo cho người trong thôn biết. Giờ đây, lão chỉ có hơn chục mũi tên bằng tre và ống kiến huyết phong hầu[1] , chắc chắn thể địch nổi đám đông.
[1] Kiến huyết phong hầu là loại nhựa cây cực độc, chỉ cần xâm nhập được vào cơ thể con vật chết. Thợ săn ở Tây Song Bản Nạp đều dùng loại chất độc này bôi vào đầu mũi tên để săn dã thú, thế nên nó còn được gọi là: cây mũi tên độc.
Tình hình rất căng thẳng, tuy nhiên Thiệu Bàn Ba là tay thợ săn kỳ cựu, nên khi phải đối diện với nguy hiểm ông vẫn rất bình tĩnh. Ông đẩy hai con bê và Ngải Tô Tô vào giữa, để mình và hai con bò mẹ đối phó với lũ chó rừng, phối hợp với nhau thành vòng bảo vệ tam giác. Hai con bò mẹ mũi phun hơi phì phì, cúi thấp đầu lắc lư hai chiếc sừng vừa ngắn vừa bé, chuẩn bị trận chiến sống còn với bầy chó rừng.
Thiệu Bàn Ba kéo căng dây cung, nhúng mũi tên tre vào lọ Kiến huyết phong hầu, lắp vào dây cung và bắt đầu tìm kiếm con đầu đàn trong đám chó rừng đó. Nhưng ông ngạc nhiên nhận ra rằng, ngoài những con chó rừng con, đám chó rừng này đều là những con chó rừng cái màu xanh, hề có con đực trưởng thành nào.
Lúc này, đám chó rừng bao vây kín Thiệu Bàn Ba và đàn bò, chúng vừa tru vừa siết chặt vòng vây. con chó đực rừng choai choai, có lẽ muốn thể bản lĩnh của mình nên xông lên trước, chạy qua chạy lại trước mặt hai con bò mẹ. Nó muốn tìm kẽ hở để lọt vào bên trong. Hai con bò mẹ giương đôi mắt đỏ máu tăng cường phòng ngự.
Thiệu Bàn Ba nheo đôi mắt, giương cánh cung, ngắm chuẩn con chó rừng đực đó, thả tay và vù tiếng, mũi tên bay trúng mắt con vật. Con chó rừng kêu lên tiếng thảm thiết, lộn hai vòng bãi cỏ, bốn chân chổng ngược lên trời, đạp hai cái rồi nằm bất động.
Đám chó rừng hỗn loạn trong giây lát, nhưng rồi, bốn con chó rừng mẹ và năm con chó rừng con cùng lúc tiến về phía trước, xông thẳng vào hướng Thiệu Bàn Ba. vội vàng, Thiệu Bàn Ba nhúng cả năm mũi tên vào lọ thuốc độc, rồi từng mũi tên được bắn ra.
Lần lượt, bốn con chó rừng mẹ và con chó rừng con trúng tên rồi chết, bốn con còn lại cụp đuôi chạy về đàn.
Đám chó rừng mặc dù bị tiêu diệt hết phần ba nhưng chúng vẫn chịu rút lui. Thiệu Bàn Ba chỉ còn lại bốn mũi tên trong ống, nhất định phải tìm cách nào đấy để mở được con đường máu, nếu khi tên hết chỉ còn cách khoanh tay chờ chết. Thiệu Bàn Ba cõng Ngải Tô Tô lưng, dùng dây thừng buộc chặt, hai con bò cái lại hai bên ở giữa là hai chú bê con ngay sau ông. Tất cả đều chạy về phía Trại Ba Tiêu.
Chừng năm, sáu con chó rừng xếp thành hàng ngang chặn đường, chúng nhe nanh vuốt và gầm gừ. Thiệu Bàn Ba nhanh chân về phía trước. “Vù vù” – hai mũi tên bắn trúng hai con chó rừng. Những con khác thấy đồng loại của mình quằn quại trước khi chết cũng bắt đầu run sợ, trốn vào lùm cây. Nhân cơ hội đó, Thiệu Bàn Ba thoát khỏi được vòng vây.
Lão chạy về hướng Trại Ba Tiêu được đoạn bèn quay đầu nhìn lại, nguy quá, lũ bò theo kịp. Sau khi để lão chạy thoát, đám chó rừng vây chặt đàn bò. Hơn chục con chó rừng đồng loạt xông lên cắn xé, hai con bò mẹ cúi sát đầu xuống đất, giương đôi sừng bé chống lại bầy thú hoang, bảo vệ hai chú bê con. Lũ chó rừng tỏ ra nhanh nhẹn lạ thường, chúng né tránh được cặp sừng, xông vào cắn xé tấm thân nặng nề của hai con bò mẹ. Dọc sống lưng của hai con bò mẹ bị cắn rất nhiều nhát, máu ứa ra, nhưng chúng vẫn chịu nhượng bộ, cố gắng cầm cự.
Thiệu Bàn Ba tức nổ đom đóm mắt. Lũ bò này là tài sản của tập thể, lẽ nào lại để cho lũ động vật hoang dã cắn xé như vậy. Hơn nữa, ông lại là thợ săn có uy tín suốt mấy chục qua ở vùng này, ông từng giết được bao nhiêu hổ, báo, lợn rừng, lẽ nào hôm nay lại để cho lũ chó rừng ăn thịt đàn bò ngay trước mắt ông. Nếu như vậy, cho dù có nằm trong quan tài ông cũng nguôi được cơn giận này. Chỉ cần nghĩ tới đó, Thiệu Bàn Ba tức đến nỗi hét lên tiếng, kéo dây cung, chạy ngược lại, nhắm thẳng hai con chó rừng cắn xé lưng con bò mẹ. Nhân lúc đám chó rừng hoảng loạn, hai con bò mẹ nhàng hẩy mông hai chú bê con, đẩy chúng về phía Thiệu Bàn Ba.
Ngải Tô Tô được ông cõng lưng, vung nắm đấm hướng về lũ chó rừng và hét: “Lũ xấu xa kia, ông tao giết hết chúng mày!”
Lũ chó rừng dường như hề sợ hãi trước lời đe dọa đó. Gần nửa đàn bị giết nên chúng tỏ ra thận trọng hơn. Sau khi bao vây được Thiệu Bàn Ba và lũ bò, chúng lập tức xông lên như trước kia, mà chỉ đứng cách chừng 20 bước và tru lên cách đầy giận dữ.
Thiệu Bàn Ba hết mũi tên. Giá như còn khoảng 10 mũi tên nữa, ngày mai, chỉ riêng việc lột da chó rừng mang bán cho các cửa hàng trong thị trấn cũng đủ để mua ba khẩu súng báng đen bóng về rồi.
lúc sau, lũ chó rừng lại tập hợp nhau lại. vài con xông lên trước mặt Thiệu Bàn Ba đầy vẻ thách thức nhằm mục đích thăm dò. Thiệu Bàn Ba kéo căng sợi dây cung, giả vờ như ngắm bắn. “Vụt” tiếng động vang lên. Đám chó rừng nghe thấy thanh đáng sợ quen thuộc liền sợ hãi lùi lại.
Nhưng chỉ chốc lát, chúng lại xông lên. Thiệu Bàn Ba lại giả vờ bắn mũi tên nữa, đám chó rừng lại lùi lại. Cứ như vậy, việc lặp lại đến bốn lần.
con chó rừng trọc đuôi có vẻ như phát ra kế này của Thiệu Bàn Ba, đến lần thứ năm, tất cả những con chó rừng khác đều lùi lại, nhưng nó . Nó nhe nanh vuốt và giương mắt nhìn Thiệu Bàn Ba, rồi đột nhiên lao về phía trước. Hai móng trước như muốn vồ lấy bả vai ông, rồi cắn chặt lấy hầu quản. Rất may, Thiệu Bàn Ba đoán trước được, lão nghiêng mình rồi nghiêng mình nhặt lấy cây cung được làm từ gỗ giáng hương, vận hết sức quật vào đầu của con chó rừng trọc đuôi. “Ầm” tiếng, máu đen và não trắng như đậu phụ của con vật vương đầy mặt đất. Con chó rừng trọc đuôi kịp kêu lên tiếng nào, ngã lăn ra đất. Nhưng đáng tiếc do cú đánh quá mạnh, nên chiếc cung cũng bị gãy làm ba đoạn. Giờ ông lão chỉ còn lại tay .
Đám chó rừng lại được phen kinh dị, dám xông lên. con chó rừng mẹ cầm đầu, tru lên tiếng dài, những con khác bắt đầu tru theo. Tiếng tru này rất lạ, nó giống như tiếng khóc của gã trai lỗ mãng, có cái gì đó khàn khàn nhưng cũng rất chói tai. Tiếng tru lập tức kéo dài, chấn động cả vùng núi. Ngay cả người nghe nhiều tiếng tru của hổ báo như Thiệu Bàn Ba cũng thấy nổi da gà. Hai con bò cái khiếp sợ đến mức khuỵu cả chân xuống. Ngải Tô Tô cũng sợ hãi khóc thét lên.
Sau những tiếng tru đó, tiếng động lớn phát lên từ những đám mây lưng chừng núi, bóng đen vụt xuất , chạy như bay xuống núi, khi cách vị trí của Thiệu Bàn Ba chừng xa, nó chợt đứng sững lại.
Con vật vừa đến dường như rất quen thuộc. Ngoại hình của nó giống với loài chó rừng, mà giống với chú chó săn dũng mãnh hơn.
Thiệu Bàn Ba đưa tay dụi mắt, quan sát kỹ con chó cao to đứng ngay trước mặt. Màu lông vàng với hai dải đen lưng đối xứng. Đúng là Xích Lợi, con chó bỏ trốn hơn nửa năm trước.
Thiệu Bàn Ba vô cùng tức giận. Đồ súc sinh vong ân bội nghĩa, nó dám xúi giục đám chó rừng đến tấn công chủ nhân. Nếu trong tay vẫn còn mũi tên độc, lão nhất định phải bắn thủng tim Xích Lợi. Nhưng trong tay lão còn lấy mẩu sắt, làm sao đọ được với con chó còn hung dữ hơn cả hổ đây? Lão già, có chết cũng đáng tiếc, nhưng đáng thương là đứa cháu và đội bò của tập thể cũng phải liên lụy theo. Hơn thế, phải chết dưới hàm răng sắc nhọn của con chó mà thời lão hết mực thương , nó giống như sỉ nhục, lưu truyền đến tận 99 đời sau. Gương mặt của lão thợ săn già, lúc thâm tím lại, lúc lại xám ngoét.
Ngồi lưng ông, Ngải Tô Tô cũng nhận được đó là Xích Lợi. Nó hề tỏ ra sợ hãi khi phải đối mặt với con chó hung hãn đó, thậm chí còn rất vui mừng reo lên: “Xích Lợi, mau cắn chết đám chó rừng đó .”
Thiệu Bàn Ba quay mặt về phía sau quát đứa cháu mình: “Cháu hãy im ”, sau đó đưa bàn tay run rẩy chỉ thẳng vào Xích Lợi và quát: “Đồ súc sinh trời đánh kia, mày là do sói dữ đầu thai, mang linh hồn của quỷ trong mình, có ngày mày phải trở thành món ngon trong nồi của đám thợ săn.”
Xích Lợi vẫy vẫy cái đuôi chào mừng Ngải Tô Tô, rồi thè lưỡi liếm hàng răng. Thiệu Bàn Ba cho rằng, Xích Lợi chọc tức mình cách rất tàn nhẫn. Lão giận run lên, rồi đột nhiên thấy như mình bước mây, toàn thân mềm nhũn. Lão già rồi, sức cùng lực kiệt, chỉ muốn bớt chút cảnh bị hành hạ tinh thần trước khi chết. Lão ngồi phệt xuống đất, hổn hển với Xích Lợi: “Muốn cắn ngươi hãy nhanh chóng cắn đứt cổ ta ”. Rồi nhắm mắt lại, hai dòng lệ ứa ra từ cặp mắt già nua.
Thế nhưng, lão đợi rất lâu mà vẫn thấy động tĩnh gì. Thiệu Bàn Ba cảm thấy rất lạ, mở to mắt nhìn, Xích Lợi vẫn đứng trước mặt và vẫy vẫy đuôi. Đám chó rừng còn đủ kiên nhẫn chờ đợi nữa, chúng tru lên từng hồi.
Xích Lợi vẫn hề nhúc nhích. lát sau, 12 con chó rừng chia làm hai nhánh áp sát vào Thiệu Bàn Ba.
Đột nhiên, Xích Lợi trừng mắt nhìn lũ chó rừng, và sủa lên ba tiếng. Đám chó rừng như chạm phải điện, ném cho Xích Lợi cái nhìn vừa ấm ức, vừa tức giận.
Xích Lợi chạy về phía con đường mòn dẫn về trại Ba Tiêu, đuổi hết ba con chó rừng chặn đường ở đó. Sau đó, chạy lên phía trước mặt Thiệu Bàn Ba, cắn vào ống tay áo của ông và dẫn ông theo “lối thoát hiểm” đó.
Thiệu Bàn Ba vẫn chưa hiểu chuyện gì xảy ra ba con chó rừng ngửi thấy mùi máu tanh từ thi thể của đồng loại, đột nhiên chúng tru lên những tiếng kêu điên dại, rồi dẫn theo chín con chó rừng con cùng xông lên, tấn công Thiệu Bàn Ba và đàn bò.
Xích Lợi ném ánh nhìn tức giận về phía bầy chó rừng và tru lên, nhưng chúng vẫn dừng lại, thế nên nó phi thẳng người về phía trước, giống như mũi tên vừa bật khỏi cung, hết tung người sang bên trái, lại sang phải, dùng đầu húc ngã từng con chó rừng nhe nanh vuốt.
Ba con chó rừng mẹ tuyệt vọng bao vây Xích Lợi và cắn xé, nhưng may hai con chó rừng mẹ còn lại cắn chặt được hai chân sau của Xích Lợi, chịu buông lơi. Hai chân trước của Xích Lợi quỳ xuống, nó làm gì được, ba con chó rừng con nhân cơ hội đó nhảy phắt lên lưng Xích Lợi và bắt đầu cắn xé.
Xích Lợi kêu lên tiếng, rồi ngẩng cao đầu, rướn thẳng lưng, hai chân trước bay lên trung hất tung ba con chó rừng con xuống đất. Nhanh như cắt, hai chân trước của nó đè bẹp hai con chó rừng con, đồng thời miệng cắn đứt chân sau của con còn lại. Sau đó lại tiếp tục moi bụng hai con chó rừng nằm dưới chân. Tiếng kêu bi thảm của ba con chó rừng kinh động cả góc rừng, chúng tháo chạy vào bụi rậm, máu vương vãi khắp nơi.
Thế nhưng, khắp mình mẩy Xích Lợi cũng bị cắn mấy nhát, máu tứa ra từ những vết thương đó. Đặc biệt, hai con chó rừng mẹ vẫn cắn chặt đôi chân sau, những chiếc răng sắc nhọn vẫn còn nghiến ngấu gặm vào đến tận xương của nó. Xích Lợi thể quay mình lại, cũng còn sức để mà chạy nữa, nó chỉ có thể nằm bẹp nền đất, đưa mắt ngước nhìn Thiệu Bàn Ba và ngừng sủa, hy vọng người chủ cũ của mình nhanh chóng khỏi đây.
Thiệu Bàn Ba nhận thấy trước mặt mình chỉ còn lại hai con chó rừng mẹ, dũng khí quay trở lại với lão. Lão nhỏm dậy, chạy đến chỗ hai con chó rừng, dùng hết sức bình sinh tóm lấy hai chân sau của con bên trái, quay nửa vòng rồi quăng nó vào phiến đá cạnh đó. Con chó rừng mẹ chết ngay lập tức.
Con bên phải thấy vậy lập tức thả ngay Xích Lợi, nhảy chồm lên vai của Thiệu Bàn Ba. Do phòng bị, nên ông lão bị con vật đè ngửa xuống đất. Con thú giơ cao móng vuốt và nhe hàm răng nhuốm máu, chuẩn bị xông vào cắn yết hầu của Thiệu Bàn Ba. Trong tình thế ngàn cân treo sợi tóc đó, Xích Lợi lết đôi chân sau lòi cả xương trắng vận hết sức bình sinh lao vào con chó rừng mẹ, nghiến răng cắn mạnh vào cổ nó.
Khi Thiệu Bàn Ba tách được chúng ra, con chó rừng mẹ chết. Xích Lợi toàn thân cũng mềm nhũn và bất động, hắt ra những hơi thở yếu ớt. Ngải Tô Tô khóc nức nở, nó vòng vào cổ Xích Lợi cái vòng hoa mà ông kết cho mình, rồi cởi áo ngoài ra, cùng ông giúp Xích Lợi băng bó vết thương.
Mặt trời lên tới đỉnh, sương mù cũng tan hết, Thiệu Bàn Ba đuổi đàn bò tấp tểnh vì bị thương, dắt theo Ngải Tô Tô, còn tay kia ôm chặt Xích Lợi hôn mê bất tỉnh, bước từng bước nặng nhọc về phía trại Ba Tiêu.
Suốt dọc đường, Ngải Tô Tô ngừng khóc lóc và kêu gọi thảm thiết: “Xích Lợi, Xích Lợi”. Những hình ảnh dưới gốc cây cau trong ngày lễ té nước như nhảy múa trước mặt Thiệu Bàn Ba. Nước mắt ứa ra từ đôi mắt già nua khuôn mặt lão.