Các Anh hùng trên đỉnh Olympus tập 1: Người Anh Hùng Mất Tích - Rick Riordan

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Người Hùng Mất Tích (full prc, pdf, epub)
      Tên Gốc: The Lost Hero
      Bộ Truyện: Các Hùng đỉnh Olympus (Tập 1)
      Tác Giả: Rick Riordan
      Thể Loại: Best Seller, Giả Tưởng, Thần Thoại, Tiểu Thuyết
      Người dịch: Thiên Tứ
      Nhà xuất bản: NXB Thời Đại
      Nhà phát hành: ChiBooks


      Ebook: www.dtv-ebook.com
      [​IMG]
      Ebook Các hùng đỉnh Olypus tập 1: Người Hùng Mất Tích - Rick Riordan full prc pdf epubThe Lost Hero (Vị hùng mất tích), năm 2012
      Phần 2: The Son of Neptune (Con trai thần biển Neptune), năm 2012
      Phần 3: The Mark of Athena (Dấu Hiệu Athena), năm 2012
      Phần 4: The House of Hades ( Ngôi nhà của thần Hades), năm 2013
      Phần 5: The Blood of Olympus ( Máu đỉnh Olympus), năm 2014


      [​IMG]


      Rick Riordan


      Rick Riordan là tác giả có sách bán chạy nhất do tờ New York Times bình chọn cho Series truyện dành cho trẻ em Percy Jackson và các vị thần đỉnh Olympus và Series Tiểu thuyết trinh thám dành cho người lớn Tres Navarre. Ông có 15 năm giảng dạy môn tiếng và lịch sử ở các trường trung học cơ sở công và tư ở San Francisco Bay Area ở California và Texas, từng nhận giải thưởng Giáo viên Ưu tú đầu tiên của trường vào năm 2002 do Saint Mary's Hall trao tặng. Ông sống ở San Antonio, Texas cùng vợ và hai con trai, dành toàn bộ thời gian cho sáng tác.
      Các giải thưởng cho cuốn Người hùng mất tích:
      - 1 New York Times bestseller (có mặt trong bảng xếp hạng 20 tuần)
      - 1 USA Today bestseller
      - 1 Wall Street Journal bestseller
      - 1 Indiebound bestseller
      - 1 UK bestseller
      Barnes & Noble Best Book for Children for 2010
      The 2011 Kiddo Award for ages 10 & up from James Patterson's ReadKiddoRead.com.
      Rick Riordan bắt đầu viết series này sau khi nhận ra rằng các chuyện thần thoại Hy Lạp và La Mã mà ông chưa khám phá ra được và biến nó thành những câu chuyện dành cho các độc giả đại trong series đầu tiên nhiều như thế nào. Sau khi tạo ra cốt truyện, Riordan tạo ra ba nhân vật chính mới, Jason, Piper và Leo, nhưng vẫn giữ lại các nhân vật chính trong bộ truyện trước: Percy, Annabeth và Grover làm nhân vật phụ. Chuyện được kể bằng giọng văn của người thứ ba xen kẽ giữa ba nhân vật chính. Mặc dầu có hơi lo lắng vào ban đầu, nhưng sau đó Riordan nhận ra rằng độc giả rất thích kiểu câu chuyện mới này vì giúp họ biết được nhiều hơn về mỗi nhân vật.
      Phần 1 Người hùng mất tích sử dụng các khái niệm từ thần thoại Hy Lạp và La Mã cổ đại trong bối cảnh đại. Câu chuyện được kể bởi Jason Grace, sau đó Piper McLean, rồi đến Leo Valdez và được lặp lại, mỗi nhân vật kể hai chương. Sách được phát hành thế giới từ ngày 12/10/2010.
      Mời bạn đón đọc tập đầu tiên trong series Các Hùng đỉnh olympus, Người Hùng mất tích của tác giả Rick Riordan.

    2. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      1. JASON


      Ngay cả trước khi cậu suýt bị ngất , Jason cho mình ngày cực kỳ tồi tệ.

      Thức dậy ở ghế sau chiếc xe buýt trường, chắc mình ở đâu, tay trong tay với mà cậu hề quen biết. Đó cũng chưa hẳn là phần tồi tệ nhất. đó xinh, nhưng cậu thể nghĩ ra được là ai và cậu làm gì ở đây. Cậu ngồi dậy, dụi dụi mắt, cố nghĩ về những điều mình thắc mắc.

      Khoảng mấy chục đứa trẻ nằm ườn ra các ghế phía trước, nghe nhạc từ những chiếc iPod, chuyện, hay ngủ. Tất cả đều khoảng tuổi cậu... mười lăm tuổi sao? Hay mười sáu? Được rồi, điều này đáng sợ. Cậu biết tuổi của chính mình.

      Chiếc xe buýt lắc lư suốt đoạn đường gồ ghề. Phía ngoài cửa sổ, sa mạc trải dài bên dưới bầu trời xanh trong. Jason khá chắc là cậu sống ở sa mạc. Cậu cố nghĩ lùi lại... điều cuối cùng cậu nhớ được...

      siết chặt tay cậu. “Jason, cậu ổn chứ?”

      mặc chiếc quần jean bạc màu, giày leo núi, và chiếc áo khoác trượt tuyết bằng lông cừu. Mái tóc màu nâu sô--la được cắt so le, đều, với hai lọn tóc mỏng được tết ở hai bên. trang điểm, như thể cố thu hút chú ý; nhưng điều đó vô hiệu. khá xinh. Đôi mắt dường như đổi màu như cái kính vạn hoa – nâu, và xanh lục.

      Jason thả tay ra. “Ừm, tớ ... ”

      Ở phía trước xe buýt, tiếng giáo viên vang lên, “Được rồi, những chiếc bánh nướng , hãy nghe đây!”

      Người đàn ông đó ắt hẳn là huấn luyện viên. Chiếc mũ bóng chày được kéo xuống phía dưới tóc chút, vì thế bạn chỉ có thể nhìn thấy đôi mắt tròn, và sáng của ông ta. Ông ta có chùm râu dê lưa thưa và khuôn mặt cáu kỉnh, như thể ăn phải thức ăn ôi thiu. Cánh tay và ngực đầy cơ bắp căng cứng trong chiếc áo phông có cổ màu cam tươi. Quần tập bằng vải nylon và đôi giày Nike trắng tinh. chiếc còi treo lủng lẳng cổ, và loa được gắn vào thắt lưng. Ông ta trông khá đáng sợ nếu cao khoảng mét năm. Khi ông ta đứng ở giữa lối , trong số các học sinh kêu lên, “Đứng thẳng lên, Huấn luyện viên Hedge!”

      “Ta nghe được đấy nhé!” Vị huấn luyện viên đó nhìn khắp xe nhằm tìm kiếm người vừa ra điều đó. Thế rồi ánh mắt ông ta rơi vào Jason, và vẻ mặt trở nên cau có hơn.

      cơn ớn lạnh chạy dọc xuống sống lưng Jason. Cậu biết chắc rằng huấn luyện viên biết được cậu thuộc về nơi này. Ông ta gọi Jason ra, hỏi cậu làm gì xe buýt – và Jason biết mình phải những gì.

      Nhưng Huấn luyện viên Hedge nhìn sang hướng khác và hắng giọng. “Chúng ta đến nơi trong năm phút nữa! Hãy ở cùng với cộng của mình. được để mất phiếu bài tập. Và nếu bất cứ người nào trong số những chiếc bánh nướng bé quý giá gây ra bất cứ rắc rối nào trong chuyến này, cá nhân ta gửi người đó quay trở lại trại bằng cách thức chẳng nhàng chút nào cả đâu.”

      Ông ta nhặt cây gậy bóng chày lên và thực động tác như thể ông ta đánh cú homer vậy.

      Jason nhìn ngồi cạnh mình. “Ông ấy có thể với chúng ta kiểu như vậy sao?”

      nhún vai. “Luôn luôn như vậy. Đây là Trường học Hoang Dã, ‘Nơi trẻ em là những con thú.’”

      như thể đó là câu đùa mà họ từng chia sẻ trước đây.

      “Đây là sai lầm,” Jason . “Tớ chắc là mình nên có mặt ở đây.”

      Cậu bé ở phía trước cậu quay lại và cười ngặt nghẽo. “Ừ, đúng vậy,. Tất cả chúng ta đều tưởng tượng! Tớ bỏ nhà đến sáu lần. Piper đánh cắp chiếc BMW.”

      đỏ mặt. “Tớ đánh cắp chiếc xe đó, Leo!”

      “Ồ, tớ quên mất, Piper. Thế câu chuyện của cậu là gì? Cậu ‘ chuyện’ với người bán xe hơi về việc cho cậu mượn nó à?” Cậu ta nhướn nhướn cặp lông mày về phía Jason như thể, Cậu có thể tin được ấy ?

      Leo trông giống người lùn giúp việc cho ông già Noel, với mái tóc đen quăn tít, đôi tai nhọn, khuôn mặt trẻ con tươi cười, cùng nụ cười tinh nghịch cho bạn biết ngay rằng chàng này đáng tin lắm khi ở gần diêm và các vật thể sắc nhọn. Những ngón tay dài, khéo léo ngừng chuyển động – gõ liên hồi lên ghế, vuốt tóc ra sau tai, nghịch vớ vẩn những chiếc nút áo jacket quân đội của cậu ta. Hoặc đứa trẻ này vốn kích động thái quá hoặc cậu ta nốc đường và cà-phê-in đủ để gây đau tim cho con trâu nước.

      “Dù sao nữa,” Leo , “tớ hy vọng các cậu còn giữ phiếu bài tập của mình vì tớ sử dụng nó cho trò bắn đạn giấy vài ngày trước đây. Sao các cậu lại nhìn tớ như thế? Ai đó lại vẽ lên mặt tớ sao?”

      “Tớ quen cậu,” Jason .

      Leo nhăn nhở cười với cậu. “Chắc rồi. Tớ phải là bạn tốt nhất của cậu. Tớ là bản sao xấu xa của cậu ta.”

      “Leo Valdez!” Huấn luyện viên Hedge hét lên từ phía trước. “Có vấn đề gì phía sau đó sao?”

      Leo nháy mắt với Jason. “Xem đây.” Cậu ta quay về phía trước. “Xin lỗi, Huấn luyện viên! Em nghe được thầy . Thầy có thể dùng loa để hơn ạ?”

      Huấn luyện viên Hedge lầm bầm như thể hài lòng với lời xin lỗi. Ông lấy loa ra khỏi thắt lưng và tiếp tục đưa ra các hướng dẫn, nhưng giọng của ông phát ra giống hệt giọng của Darth Vader(1). Những đứa trẻ vỗ tay ca ngợi. Huấn luyện viên cố thử lại lần nữa, nhưng lần này cái loa lại kêu inh ỏi: “Con bò kêu ụm bò!”

      Những đứa trẻ cười rú lên, và huấn luyện viên đập mạnh vào cái loa. “Valdez!”

      Piper nén cười. “Chúa ơi, Leo. Sao cậu làm được điều đó?”4">Leo hé đầu mũi cái tua-vít hiệu Phillips xíu bên dưới tay áo của cậu ta. “Tớ là cậu bé đặc biệt.”

      “Các cậu, nghiêm túc đấy,” Jason nài nỉ. “Tớ làm gì ở đây? Chúng ta đâu?”

      Piper cau mày lại. “Jason, cậu đùa phải ?”

      ! Tớ chẳng biết gì...”

      “Eo, đúng rồi, cậu ấy đùa,” Leo . “Cậu cố trả đũa về việc tớ xịt kem cạo râu lên món Jell-O của cậu, đúng ?”

      Jason ngây người nhìn cậu ta.

      , tớ nghĩ là cậu ấy .” Piper cố cầm lấy tay cậu, nhưng cậu rút tay mình lại.

      “Tớ xin lỗi,” cậu . “Tớ ... tớ thể...”

      “Đúng thế!” Huấn luyện viên Hedge hét lên từ phía trước. “Hàng phía sau vừa mới tình nguyện dọn dẹp sau bữa ăn trưa!”

      Đám trẻ còn lại reo hò mừng rỡ.

      cú sốc,” Leo làu bàu.

      Nhưng Piper vẫn nhìn Jason, như thể thể quyết định được liệu mình nên bị tổn thương hay lo lắng. “Cậu có va đầu vào cái gì đó ? Cậu thực biết bọn tớ là ai sao?”

      Jason nhún vai đầy bất lực. “Còn tệ hơn điều đó nữa kia. Tớ biết mình là ai.”

      Chiếc xe buýt thả họ xuống trước khu liên hợp được lát vữa màu đỏ lớn như viện bảo tàng, tọa lạc ở nơi xa xôi hẻo lánh nào đó. Có thể nó là: Bảo tàng Quốc gia của Đâu Đấy, Jason nghĩ. cơn gió mang theo hơi lạnh thổi ngang qua sa mạc. Jason chú ý nhiều đến việc cậu mặc gì, nhưng nó chẳng đủ ấm: quần jeans và giày đế mềm, áo phông màu tía và áo gió mỏng màu đen.

      “Vậy, khóa học cấp tốc cho chứng quên được bắt đầu,” Leo , với vẻ đầy quan tâm khiến Jason nghĩ điều này chẳng giúp ích được gì. “Chúng ta theo học ở ‘Trường học Hoang Dã’” – Leo dùng mấy ngón tay làm dấu mở ngoặc trong khí. “Điều đó có nghĩa chúng ta là ‘những đứa trẻ hư’. Gia đình cậu hoặc tòa án hoặc bất cứ ai đó cho rằng cậu quá phiền hà, vì thế họ gửi cậu đến nhà tù đáng này – xin lỗi, ‘trường nội trú’ – ở Armpit, Neveda, nơi cậu học được các kỹ năng tự nhiên quý giá như chạy mười dặm mỗi ngày ngang qua các cây xương rồng và đan hoa cúc thành những chiếc mũ! Và trong trường hợp đặc biệt, chúng ta thực chuyến thực tế ‘mang tính giáo dục’ với Huấn luyện viên Hedge, người luôn giữ trật tự với cái mũ bóng chày. Cậu có thể nhớ lại mọi điều chưa?”

      “Chưa.” Jason lo lắng liếc nhìn những đứa trẻ khác: có lẽ đến hai mươi cậu con trai, mười con . ai trong số họ trông giống các tay tội phạm dày dạn, nhưng cậu tự hỏi tất cả họ làm gì để bị đưa đến trường học dành cho tội phạm, và cậu cũng tự hỏi tại sao mình lại ở đây cùng với những người khác.

      Leo tròn mắt nhìn. “Cậu thực diễn đến cùng phải , hử? Được rồi, vì thế ba chúng ta cùng nhau theo học ở đây vào đầu năm học này. Chúng ta rất thân nhau đấy. Cậu làm mọi điều tớ bảo và đưa cho tớ phần tráng miệng của cậu và làm việc vặt cho tớ...”

      “Leo!” Piper ngắt lời cậu ta.

      “Được rồi. Quên phần cuối . Nhưng chúng ta là bạn bè. Riêng với Piper, cậu ấy xem cậu hơn tình bạn chút, vài tuần trước...”

      “Leo, im miệng!” Mặt Piper ửng đỏ. Jason có thể cảm nhận được mặt mình cũng nóng bừng. Cậu nghĩ mình nhớ ra được nếu cậu từng có cảm tình với như Piper.

      “Cậu ấy mắc chứng quên hay chứng bệnh gì đó khác nữa,” Piper . “Chúng ta phải cho ai đó.”

      Leo chế giễu. “Ai, Huấn luyện viên Hedge ư? Ông ấy cố chữa cho Jason bằng cách đánh mạnh vào đầu cậu ấy.”

      Huấn luyện viên đứng ở phía trước nhóm, quát tháo ầm ĩ về các nội quy và thổi còi để giữ cho những đứa trẻ theo hàng; nhưng thỉnh thoảng ông ta lại liếc về phía Jason và cau có mặt mày.

      “Leo, Jason cần giúp đỡ,” Piper khăng khăng. “Cậu ấy bị chấn động hoặc...”

      “Này, Piper.” trong số các cậu con trai ở phía trước lùi ra đằng sau và gia nhập vào nhóm họ khi mọi người vào viện bảo tàng. chàng mới đến chen người vào giữa Jason và Piper đồng thời húc ngã Leo. “Đừng chuyện với những thằng nhóc chưa hỉ mũi này. Cậu là cộng của tớ mà, nhớ ?”

      chàng mới đến này có mái tóc đen được cắt theo kiểu Siêu nhân, làn da rám nắng, răng trắng đến n chúng nên được kèm theo biển cảnh cáo: ĐƯỢC NHÌN THẲNG VÀO RĂNG, BỊ MÙ VĨNH VIỄN. Cậu ta mặc áo cổ động của đội Dallas Cowboys, quần jeans Western và giày ống, và cậu ta cười như thể mình là món quà của Chúa dành tặng cho các tội phạm vị thành niên ở khắp mọi nơi. Jason ngay lập tức ghét cay ghét đắng cậu ta.

      “Biến , Dylan,” Piper càu nhàu. “Tớ cầu làm việc cùng với cậu.”

      “À, thể thế được. Hôm nay là ngày may mắn của cậu đấy!” Dylan móc tay mình vào tay và kéo qua lối vào của viện bảo tàng. Piper ngoái đầu ra sau vai và bắn ra ánh nhìn cuối cùng, 911.

      Leo đứng dậy và phủi phủi bụi khỏi người. “Tớ ghét thằng đó.” Cậu chìa tay ra cho Jason, như thể họ nên cùng nhau vào bên trong. “Tớ là Dylan. Tớ mới tuyệt làm sao, tớ muốn hẹn hò với chính mình, nhưng tớ biết cách để làm điều đó! Cậu muốn thay thế để hẹn hò với tớ sao? Cậu may mắn!”

      “Leo,” Jason , “cậu kỳ lạ.”

      “Ừm, cậu cứ mãi câu đó.” Leo cười toe toét. “Nhưng nếu cậu nhớ tớ, điều đó có nghĩa tớ có thể sử dụng lại tất cả các trò chơi khăm cũ rích của tớ. thôi!”

      Jason đoán nếu đây là người bạn thân nhất của mình, cuộc đời cậu ắt hẳn rối tung cả lên; nhưng cậu vẫn theo Leo vào viện bảo tàng.

      Họ khắp tòa nhà, dừng lại ở chỗ này chỗ kia để Huấn luyện viên Hedge giảng bài với cái loa của ông, lần lượt biến giọng ông nghe giống giọng của Sith Lord hoặc phát ra những câu ngẫu nhiên như, “Con lợn kêu ủn ỉn!”

      Leo tiếp tục lôi đai ốc, bu-lông và cái thông điếu ra từ những túi áo jacket quân đội và lắp chúng vào với nhau, như thể cậu ấy lúc nào cũng phải khiến cho đôi tay mình luôn bận rộn.

      Jason xao lãng đến nỗi cậu chẳng chú ý gì đến các vật trưng bày, nhưng họ được kể về Grand Canyon, và bộ tộc Hualapai, người sở hữu bảo tàng này.

      vài tiếp tục nhìn qua phía Piper và Dylan và cười khúc khích. Jason đoán những này là nhóm người nổi tiếng. Họ mặc quần jeans và áo phông hồng giống nhau và trang điểm đủ để dành cho buổi tiệc Halloween.

      trong số họ lên tiếng, “Này, Piper, bộ tộc cậu điều hành nơi này sao? Cậu được vào đây miễn phí nếu cậu nhảy điệu cầu mưa

      Các khác cười lớn. Ngay cả người được gọi là cộng của Piper, Dylan cũng nín cười. Hai tay áo jacket của Piper dài phủ hai tay ấy, nhưng Jason có cảm giác nắm chặt hai tay mình lại.

      “Cha tôi là người Cherokee,” . “ phải người Hualapai. Vì thế cậu cần thêm vài tế bào não để phân biệt đúng sai đấy, Isabel à.”

      Isabel mở to mắt trong ngạc nhiên giả tạo, vì thế ta trông như thể con cú với thói nghiện trang điểm. “Ồ, xin lỗi! Thế mẹ cậu thuộc bộ tộc này à? Ồ, đúng rồi. Cậu chưa bao giờ biết đến mẹ mình.”

      Piper tấn công ta, nhưng trước khi việc đó xảy ra, Huấn luyện viên Hedge cất tiếng quát tháo, “Ở phía đằng sau đó! Hãy làm gương tốt nếu ta sử dụng cây gậy bóng chày của ta đấy!”

      Cả nhóm di chuyển đến điểm trưng bày tiếp theo, nhưng các vẫn đưa ra những lời bình luận về Piper.

      tuyệt khi được trở về khu bảo tồn của người da đỏ nhỉ?” hỏi với giọng ngọt ngào.

      “Chắc cha ta say xỉn đến nỗi thể làm việc được,” giọng khác cất lên với cảm thông giả tạo. “Đó là lý do tại sao ta lại ăn cắp vặt.”

      Piper lờ hầu hết những lời bàn tán đó, nhưng Jason lại như sẵn sàng tự mình đấm vào mặt bọn chúng. Cậu có thể nhớ được Piper, hoặc thậm chí là chính bản thân cậu, nhưng cậu biết mình ghét những đứa trẻ ác ý.

      Leo nắm chặt tay cậu. “Hãy bình tĩnh nào. Piper thích chúng ta tham gia vào trận chiến của ấy. Ngoài ra, nếu tất cả lũ con kia biết được về cha của ấy, bọn chúng phải cúi đầu trước ấy và hét lên rằng, ‘Bọn tớ xứng!’”

      “Tại sao? Cha ấy như thế nào?”

      Leo cười với hoài nghi. “Cậu đùa đúng ? Cậu nhớ rằng cha của bạn cậu...”

      “Nghe này, tớ ước gì mình có thể nhớ, nhưng tớ thể nào nhớ được ấy, chứ đừng gì đến cha ấy.”

      Leo huýt sáo. “Sao cũng được. Chúng ta phải chuyện sau khi quay trở lại ký túc xá.”



      “Được rồi, những chiếc bánh nướng ,” Huấn luyện viên Hedge thông báo. “Các em sắp được nhìn thấy Grand Canyon(2). Cố đừng làm vỡ nó. Cây cầu kính có thể chịu đựng được sức nặng của bảy mươi chiếc máy bay chở khách, vì thế các em với sức nặng tựa lông chim được an toàn ở ngoài kia. Nếu cần thiết, cố tránh việc đẩy nhau ra khỏi thanh chắn cầu, vì điều đó khiến ta phải làm thêm công việc liên quan đến giấy tờ.”

      Huấn luyện viên mở các cánh cửa, và tất cả họ bước ra ngoài. Grand Canyon trải ra trước mặt họ, sống động và trực diện. Kéo dài ra phía ngoài rìa là lối hình móng ngựa được làm bằng kính, vậy nên bạn có thể nhìn xuyên qua nó.

      “Ôi trời ơi,” Leo . “Điều này khá nguy hiểm đấy.”

      Jason buộc phải đồng ý. Ngoài chứng quên và cảm giác rằng mình thuộc về nơi này, cậu thể cảm thấy những gì diễn ra trước mắt mình ấn tượng.

      Hẻm núi rộng và lớn hơn những gì bạn có thể thưởng thức từ bức ảnh. Nơi họ đứng cao đến nỗi các chú chim bay vòng quanh bên dưới chân họ. Phía dưới trăm năm mươi mét, dòng sông uốn lượn quanh đáy hẻm núi. Các đám mây bão di chuyển phía đầu họ khi họ ở bên trong, cắt ngang bóng râm tạo thành những khuôn mặt giận dữ khắp vách đá. Xa xa theo tầm mắt của Jason, các khe núi màu đỏ và xám cắt ngang sa mạc như thể vị thần điên rồ nào đó sử dụng dao với nó.

      Jason nhận ra cơn đau nhói trong mắt mình. Những vị thần điên rồ... Từ đâu cậu lại có ý nghĩ như thế? Cậu cảm thấy mình đến gần điều gì đó quan trọng – điều gì đó cậu nên biết. Cậu cũng có cảm giác thể nhầm được là cậu gặp nguy hiểm.

      “Cậu ổn chứ?” Leo hỏi. “Cậu ném mình qua thành cầu, đúng ? Vì lẽ ra tớ nên mang theo máy ảnh.”

      Jason nắm chặt thanh rào chắn. Cậu run và vã mồ hôi, nhưng việc đó liên quan gì đến độ cao. Cậu chớp mắt, và cơn đau ở mắt giảm bớt .

      “Tớ ổn mà,” cậu . “Chỉ là cơn đau đầu mà thôi.”

      Tiếng sấm rền vang phía đầu. cơn gió lạnh gần như đẩy ngã cậu xuống khỏi thành

      “Nơi này chẳng an toàn.” Leo liếc mắt nhìn những đám mây. “Bão ở ngay đỉnh đầu chúng ta, nhưng ràng ở phía ngoài kia lại chẳng có dấu hiệu nào. Kỳ lạ, nhỉ?”

      Jason ngước nhìn lên và nhận ra rằng Leo đúng. vòng tròn mây đen kịt đậu bên cầu kính, nhưng phần còn lại của bầu trời ở các hướng khác lại hoàn toàn quang đãng. Jason có cảm giác tốt về điều đó.

      “Được rồi, những chiếc bánh nướng !” Huấn luyện viên Hedge hét lớn. Ông ta cau mày nhìn về phía cơn bão như thể nó cũng làm phiền ông ta vậy. “Chúng ta có thể rút ngắn cuộc tham quan này, vì thế hãy bắt tay vào việc nào! Hãy nhớ, hoàn thành các câu hỏi!”

      Cơn bão ì ầm, và đầu Jason bắt đầu đau trở lại. biết lý do tại sao cậu lại làm thế, nhưng Jason cho tay vào túi quần jeans và lấy ra đồng xu – đồng xu vàng có kích thước của đồng nửa đô-la, nhưng dày hơn và bằng phẳng. Được in dấu mặt là bức ảnh hình rìu chiến. Mặt còn lại là khuôn mặt của gã nào đó đội vòng nguyệt quế. Câu khắc đồng tiền có chữ như là IVLIVS.

      “Khỉ , đó là vàng à?” Leo hỏi. “Cậu giấu cả với tớ à!”

      Jason cất đồng tiền xu , tự hỏi sao mình có được nó, và sao cậu lại có cảm giác là cậu nhanh sử dụng nó.

      phải đâu,” cậu . “Chỉ là đồng xu thôi.”

      Leo nhún vai. Có lẽ đầu óc cậu ấy hoạt động nhiều như đôi tay. “ thôi,” cậu ấy . “Đố cậu dám nhảy ra phía ngoài đó.”

      Họ tập trung lắm vào phiếu bài tập. Lý do đầu tiên, Jason quá bị xao lãng bởi cơn bão và cảm giác hỗn loạn của chính cậu. Lý do khác, cậu biết gì về việc làm thế nào để “kể tên ba tầng địa chất mà bạn quan sát được” hay “nêu hai ví dụ về xói mòn”.

      Leo chẳng giúp được gì. Cậu ấy quá bận rộn với việc tạo ra chiếc trực thăng bằng các ống thông điếu.

      “Hãy nhìn nó này.” Cậu ấy ném chiếc máy bay lên thẳng. Jason đoán nó rơi thẳng xuống, nhưng mấy cái cánh quạt bằng ống thậm chí còn quay tròn. Chiếc máy bay lên thẳng đó bay qua được nửa hẻm núi trước khi nó mất động lực và rơi vào khoảng .

      “Sao cậu có thể làm được điều đó?” Jason hỏi.

      Leo nhún vai. “Nó còn tuyệt hơn nếu tớ có vài sợi dây chun.”

      “Nghiêm túc nhé,” Jason , “chúng ta là bạn nhau sao?”

      “Lần cuối cùng tớ kiểm tra là thế.”

      “Cậu chắc chứ? Ngày đầu tiên chúng ta gặp nhau là bao giờ? Chúng ta những gì?”

      “Đó là...” Leo cau mày. “Tớ nhớ chính xác. Tớ là đứa trẻ tăng động giảm lực, bạn. Cậu thể mong tớ nhớ được cách chi tiết.”

      “Nhưng tớ chẳng nhớ gì về cậu cả. Tớ chẳng nhớ bất cứ ai ở đây. Liệu...”

      “Cậu đúng và mọi người khác sai?” Leo hỏi. “Cậu nghĩ mình chỉ vừa mới xuất ở đây vào sáng hôm nay, và tất cả mọi người có ký ức giả về cậu?”

      giọng vang lên trong đầu Jason, Đó chính xác là những gì mình nghĩ.

      Nhưng điều này có vẻ điên rồ. Mọi người ở đây đều cho đó là chuyện đương nhiên. Mọi người hành động như thể cậu là thành phần bình thường của lớp học – trừ Huấn luyện viên Hedge.

      “Cầm lấy bài tập hộ tớ.” Jason đưa cho Leo tờ giấy. “Tớ quay trở lại ngay.”

      Trước khi Leo có thể phản đối, Jason chạy thẳng ra phía cầu kính.

      Ở đó chỉ có duy nhất các học sinh trường cậu. Có lẽ do thời điểm này trong ngày còn quá sớm với khách du lịch, hoặc có thể do thời tiết kỳ lạ khiến họ hoảng sợ. Những đứa trẻ của Trường học Hoang Dã đứng thành cặp khắp cầu kính. Phần lớn đùa giỡn và chuyện phiếm. vài cậu trai thả những đồng xu xuống vực. Cách khoảng mười lăm mét, Piper cố trả lời các câu hỏi trong phiếu bài tập của mình, nhưng tên cộng ngu ngốc của , Dylan, tán tỉnh , đặt tay mình lên vai và trưng cho nụ cười sáng chói của mình. tiếp tục đẩy cậu ta ra xa, và khi nhìn thấy Jason nhìn cậu ý như muốn , Bóp cổ thằng khỉ này hộ tớ.

      Jason ra hiệu cho hãy kiên trì. Cậu bước về phía Huấn luyện viên Hedge, người đứng tựahiếc gậy bóng chày và quan sát đám mây bão.

      “Cậu làm điều này?” huấn luyện viên hỏi cậu.

      Jason bước lùi lại bước. “Làm điều gì ạ?” Nghe có vẻ như huấn luyện viên vừa mới hỏi liệu cậu có gây ra cơn bão này chứ gì.

      Huấn luyện viên Hedge liếc nhìn cậu, đôi mắt tròn và sáng lấp lánh bên dưới vành mũ của ông ta. “Đừng giỡn với ta, nhóc. Cậu làm gì ở đây, và sao cậu lại làm xáo trộn công việc của ta?”

      “Ý thầy là... thầy biết em sao?” Jason . “Em phải là trong các học sinh của thầy?”

      Thầy Hedge khịt khịt mũi. “ Ta chưa bao giờ thấy cậu trước ngày hôm nay.”

      Jason cảm thấy nhõm cả người đến nỗi cậu gần như muốn khóc. Ít nhất cậu cũng bị điên. Cậu chỉ ở sai địa điểm. “Là vầy, thưa thầy, em biết sao em lại có mặt ở đây. Em tỉnh dậy và thấy mình ở xe buýt trường. Tất cả những gì em biết là đáng ra em nên ở đây.”

      “Ta biết rồi.” Giọng thô lỗ của thầy Hedge hạ thấp xuống gần như thầm, như thể ông chia sẻ bí mật vậy. “Cậu có sức mạnh cực lớn đối với Màn Sương Mù, cậu nhóc, nếu cậu có thể khiến tất cả những người này nghĩ rằng họ biết cậu; nhưng cậu thể lừa được ta. Ta ngửi thấy được mùi quái vật từ mấy ngày nay rồi. Ta biết chúng ta có người xâm nhập, nhưng cậu có mùi quái vật. Cậu có mùi như thể mùi của con lai. Vậy – cậu là ai, và từ đâu đến?”

      Jason hiểu phần lớn những gì huấn luyện viên , nhưng cậu quyết định trả lời thành . “Em biết mình là ai. Em có bất cứ ký ức nào. Thầy phải giúp em.”

      Huấn luyện viên Hedge nhìn chăm chú mặt cậu như cố đọc ý nghĩ của Jason.

      “Tốt,” thầy Hedge làu bàu. “Cậu là người đáng tin.”

      “Dĩ nhiên rồi. Và những điều về quái vật và con lai là gì ạ? Những từ đó là các từ dùng để làm mật mã hay gì đó sao?”

      Thầy Hedge nheo mắt lại. phần trong Jason tự hỏi liệu người đàn ông trước mặt mình có bị điên . Nhưng phần khác trong người cậu lại biết hơn về điều đó.

      “Nghe này, nhóc,” thầy Hedge , “Ta biết cậu là ai. Ta chỉ biết cậu là gì, và điều đó có nghĩa là rắc rối. Giờ ta phải bảo vệ cả ba người cậu chứ còn là hai nữa. Cậu là gói hàng đặc biệt ư? Có phải nhỉ?”

      “Thầy về điều gì vậy?”

      Thầy Hedge nhìn cơn bão. Những đám mây ngày càng nhiều hơn và mù mịt hơn, bay lượn ngay phía cầu kính.

      “Sáng nay,” thầy Hedge . “Ta nhận được tin nhắn từ trại. Họ đội ứng cứu đường đến đây. Họ đến để nhận gói hàng đặc biệt, nhưng họ cho ta chi tiết. Ta nghĩ là, Tốt thôi. Hai người ta trông chừng khá mạnh, lớn hơn những người khác rất nhiều. Ta biết họ bị theo dõi. Ta có thể ngửi thấy được mùi của con quái vật có mặt trong nhóm. Ta đoán đó là lý do tại sao trại đột nhiên điên cuồng đến đón họ. Nhưng rồi cậu đột nhiên chui ra từ đâu đó. Vậy, cậu là gói hàng đặc biệt đó à?”

      Cơn đau đằng sau mắt Jason trở nên đau đớn hơn bao giờ hết. Con lai. Trại. Quái vật. Cậu vẫn biết được thầy Hedge về những gì, nhưng những từ đó khiến não cậu đau nhức – như thể trí óc cậu cố truy cập những thông tin mà đáng lẽ ra nó nên ở đó.

      Cậu trượt chân, và Huấn luyện viên Hedge chụp lấy cậu. Với người con mà , huấn luyện viên có bàn tay cứng như thép. “Ối chà, này, chiếc bánh nướng . Cậu mình có chút ký ức nào sao, hử? Tốt. Ta chỉ phải trông chừng cậu cho đến khi đội đó đến đây. Chúng ta để cho giám đốc luận ra mọi chuyện.”

      “Giám đốc nào?” Jason hỏi. “Trại nào ạ?”

      “Hãy ngồi yên chỗ nhé. Quân tiếp viện nhanh chóng đến đây. Hy vọng có chuyện gì xấu xảy ra trước...”

      Chớp giật đùng đùng phía đầu. Gió đột nhiên thổi dữ dội. Các tờ giấy bài tập bay xuống Grand Canyon, và toàn bộ cây cầu rung lên. Những đứa trẻ hét vang, trượt chân và nắm chặt lấy thành cầu.

      “Ta phải gì đó thôi,” thầy Hedge càu nhàu. Ông gào lên qua cái loa: “Mọi người vào bên trong! Con bò ụm bò! ra khỏi cây cầu ngay!”

      “Em nghĩ thầy là cầu này rất vững chắc!” Jason hét át tiếng gió

      “Ngày thường thôi,” thầy Hedge đồng ý, “lúc này . nào!”

    3. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      2. JASON


      Cơn bão biến thành cơn cuồng phong . Những đám mây hình phễu uốn lượn về phía cầu kính như xúc tua của con sứa khổng lồ.

      Những đứa trẻ la hét và chạy về phía tòa nhà. Gió giật lấy tập vở, áo jacket, mũ và ba lô của chúng. Jason trượt khắp mặt cầu kính trơn tuột.

      Leo mất thăng bằng và sắp ngã khỏi thành cầu, nhưng Jason nắm chặt lấy áo jacket và lôi cậu bạn lại.

      “Cám ơn, bạn!” Leo hét lớn.

      , , !” Huấn luyện viên Hedge .

      Piper và Dylan giữ cánh cửa mở, kéo những đứa trẻ khác vào bên trong. Chiếc áo jacket lông cừu của Piper bị gió thổi bay phần phật, mái tóc đen phủ đầy mặt . Jason nghĩ chắc lạnh lắm, nhưng trông bình tĩnh và đầy tự tin – với những người khác là mọi việc ổn thôi, khuyến khích họ tiếp tục di chuyển.

      Jason, Leo và Huấn luyện viên Hedge chạy về phía họ, nhưng việc đó giống như thể họ chạy qua vùng cát lún vậy. Gió dường như chống lại họ, đẩy họ lùi lại phía sau.

      Dylan và Piper đẩy thêm được đứa trẻ vào bên trong, rồi trượt tay khỏi các cánh cửa. Chúng đóng sầm lại, khóa lại cầu kính.

      Piper nắm lấy tay cầm. Những đứa trẻ bên trong đấm mạnh vào lớp kính, nhưng các cánh cửa dường như bị mắc kẹt.

      “Dylan, giúp tớ!” Piper hét lên.

      Dylan chỉ đứng đó với nụ cười ngốc nghếch, chiếc áo cổ động khẽ lay động trong gió, như thể cậu ta đột nhiên muốn thưởng thức cơn bão.

      “Xin lỗi, Piper,” cậu ta . “Tớ xong việc giúp đỡ.”

      Cậu ta hất cổ tay, và Piper bay ra phía sau, đâm sầm vào các cánh cửa và trượt xuống sàn cầu kính.

      “Piper!” Jason cố tiến lên trước, nhưng cơn gió cản đường cậu, và Huấn luyện viên Hedge đẩy cậu lùi lại.

      “Thầy,” Jason , “thả em ra!”

      “Jason, Leo, lùi ra phía sau,” huấn luyện viên ra lệnh. “Đây là trận chiến của ta. Đáng ra ta phải biết đó là quái vật của chúng ta.”

      “Gì ạ?” Leo hỏi gặng. tờ bài tập tinh nghịch đập vào mặt cậu ấy, nhưng cậu ấy hất mạnh nó . “Quái vật gì ạ?”

      Chiếc mũ của huấn luyện viên bị thổi bay, và nhú ra phía mái tóc xoăn của ông là hai cái bướu – như mấy cục u của các nhân vật hoạt hình khi họ bị va vào đầu. Huấn luyện viên Hedge nhấc cây gậy bóng chày của mình lên – nhưng nó giờ chẳng còn là cây gậy bình thường nữa. Bằng cách nào đó, nó biến thành cây gậy có hình nhành cây thô sơ, với các cành con và lá gắn đó.

      Dylan vẫn trưng ra cái nụ cười hạnh phúc thần kinh đó. “Ồ, thôi nào, Huấn luyện viên. Hãy để thằng bé tấn công ta! Suy cho cùng, ngươi trở nên già với những việc như thế này. Đó chẳng phải là lý do họ cho ngươi lui về ngôi trường ngu ngốc này sao? Ta ở trong đội của ngươi suốt cả học kỳ, và ngươi chẳng hề biết. Ngươi mất cái mũi của mình đó, ông già ạ.”

      Huấn luyện viên phát ra thanh giận dữ nghe như tiếng be be của loài động vật. “Đúng vậy đấy, bánh nướng ạ. Ngươi bị đánh ngã.”

      “Ngươi nghĩ mình có thể bảo vệ được lúc ba đứa con lai sao lão già?” Dylan cười lớn. “Chúc may mắn.”

      Dylan chỉ tay về phía Leo, và đám mây hình phễu ra bao quanh cậu. Leo bay khỏi cầu kính như thể cậu bị ai túm lấy và quẳng . Bằng cách nào đó cậu cố gắng xoay tròn trong trung, đâm sầm vào bên vách hẻm núi. Cậu trượt xuống, cuống cuồng bám vào bất cứ cái gì có thể bíu tay vào. Cuối cùng cậu cũng bám vào được cái gờ mỏng bên dưới cầu kính khoảng mười lăm mét và treo lơ lửng ở đó bằng các đầu ngón tay của mình.

      “Cứu!” cậu hét lên phía họ. “Dây thừng, làm ơn? Dây đàn hồi? Cái gì đó cũng được?”

      Huấn luyện viên Hedge làu bàu nguyền rủa và ném cho Jason cây gậy của mình. “Ta biết cậu là ai, nhóc, nhưng ta hy vọng cậu là người tốt. Hãy làm cho vật đó bận rộn,” ông chĩa ngón tay vào Dylan, “khi ta cứu Leo.”

      “Làm sao cứu được cậu ấy?” Jason gặng hỏi. “Thầy bay sao?”

      phải bay. Mà là leo.” Thầy Hedge cởi giày ra, và Jason gần như bị nhồi máu cơ tim. Huấn luyện viên có bất kỳ bàn chân nào. Ông ấy có cặp móng guốc – móng của dê. Điều đó có nghĩa là mấy cục u đầu ông, Jason nhận ra, phải là những cái bướu. Chúng là cặp sừng.

      “Ông là thần nông,” Jason .

      “Thần rừng!” Hedge bật lại. “Thần nông là cách gọi của những người La Mã. Nhưng chúng ta chuyện đó sau.”

      Thầy Hedge nhảy qua thành cầu. Ông hướng người về phía vách hẻm núi và đáp bàn chân móng guốc của mình xuống trước. Ông nhảy xuống vách đá với nhanh nhẹn thể tin được, tìm kiếm những chỗ để chân lớn hơn dấu những con tem thư là mấy, tránh những cơn gió lốc cố tấn công ông khi ông tìm đường đến chỗ Leo.

      “Điều đó chẳng dễ thương chút nào!” Dylan quay về phía Jason. “Giờ đến lượt ngươi, nhóc.”

      Jason ném cây gậy. Việc đó dường như vô nghĩa vì những cơn gió quá mạnh, nhưng cây gậy bay thẳng về phía Dylan, thậm chí nó còn uốn cong lại khi ta cố tránh nó, và đánh mạnh vào đầu ta mạnh đến nỗi ta phải quỵ gối xuống.

      Piper choáng váng như vẻ ngoài của . Những ngón tay nắm chặt quanh cây gậy khi nó lăn đến kế bên, nhưng trước khi có thể sử dụng nó, Dylan đứng bật dậy. Máu – máu vàng – xuống từ trán ta.

      “Cú đánh đẹp lắm, nhóc.” ta liếc nhìn Jason. “Nhưng ngươi phải làm tốt hơn thế.”

      Cây cầu kính rung lên. Những vết nứt mỏng như đường chân tóc xuất mặt kính. Bên trong bảo tàng, những đứa trẻ ngừng việc đánh vào các cánh cửa. Chúng lùi lại, nhìn với vẻ khiếp sợ.

      Cơ thể Dylan tan ra thành khói, như thể các cơ bắp của ta được bóc ra. Khuôn mặt vẫn y như cũ, cùng nụ cười khoe hàm răng trắng muốt đầy vẻ thông minh, nhưng toàn thân đột nhiên biến thành những làn hơi màu đen xoáy tít, đôi mắt ta trông giống hệt những tia lửa điện thường hay xuất trong đám mây bão. Đôi cánh khói màu đen mọc ra và bay lên khỏi mặt cầu kính. Nếu các thiên thần biến thành quỷ dữ, Jason khẳng định, họ trông giống hệt như thế này.

      “Ngươi là ventus,” Jason , mặc dầu chẳng biết từ đâu mà cậu lại biết được từ đó. “ tên tinh linh bão.”

      Tiếng cười của Dylan nghe như thể cơn bão giật phăng mái nhà. “Ta mừng vì ta chờ đợi, á thần. Ta biết về Leo và Piper nhiều tuần rồi. Có thể giết chết chúng bất cứ lúc nào. Nhưng bà chủ của ta rằng đứa thứ ba đến – người nào đó đặc biệt. Bà ấy thưởng lớn cho ta với cái chết của ngươi.”

      Thêm hai đám mây hình phễu nữa đáp xuống ở hai bên người Dylan và biến thành các ventus – các quý ông trẻ ma quái với những đôi cánh khói và đôi mắt phát ra những tia chớp.

      Piper vẫn giữ nguyên tư thế, giả vờ còn choáng váng, tay vẫn nắm chặt lấy cây gậy. Mặt xanh mét, nhưng nhìn Jason với cái nhìn cương quyết, và cậu hiểu được thông điệp: Hãy gây chú ý với chúng, tớ đánh vỡ đầu chúng từ đằng sau.

      Xinh xắn, thông minh, và hung dữ. Jason ước gì cậu nhớ được ấy chính là bạn mình.

      Cậu nắm chặt tay và sẵn sàng để tấn công, nhưng cậu bao giờ có được cơ hội.

      Dylan giơ tay lên, những cung lửa điện chạy giữa những ngón tay , và bắn vào giữa ngực Jason.

      Bùm! Jason phát chính mình nằm sóng soài. Miệng cậu có vị như giấy nhôm cháy. Cậu nhấc đầu lên và nhìn thấy áo quần cậu bốc cháy. Tia chớp lan khắp người cậu và làm nổ tung chiếc giày bên trái. Đầu các ngón chân của cậu đen kịt vì bồ hóng.

      Các tên tinh linh bão cười ngất ngưởng. Những cơn gió tiếp tục thổi dữ dội. Piper bướng bỉnh gào thét, nhưng tất cả thanh dường như mơ hồ và ngày càng cách xa.

      Qua khóe mắt, Jason nhìn thấy Huấn luyện viên Hedge leo lên vách núi với Leo ở lưng. Piper đứng dậy, liều lĩnh vung cây gậy để tấn công hai con tinh linh bão, nhưng chúng dường như chơi đùa với . Cây gậy xuyên qua người chúng như thể chúng ở đó. Và Dylan, cơn lốc xoáy với đôi cánh màu đen, bao trùm lấy Jason.

      “Ngừng lại,” Jason rền rĩ. Cậu loạng choạng đứng lên, và cậu chắc ai là người ngạc nhiên hơn: cậu, h những tên tinh linh bão.

      “Sao ngươi có thể sống sót?” cơ thể Dylan lập lòe. “Chừng đó sét đủ để giết chết hai mươi người đàn ông đấy!”

      “Đến lượt ta,” Jason .

      Cậu cho tay vào túi và lấy ra đồng xu vàng. Cậu để bản năng của mình chỉ bảo, búng đồng xu lên trung như thể cậu làm điều đó cả ngàn lần. Cậu bắt lấy nó trong lòng bàn tay, và đột nhiên cậu cầm thanh kiếm – vũ khí hai lưỡi bén nhọn đầy nguy hiểm. Chuôi kiếm vừa khít với tay cậu, và toàn bộ thanh kiếm đều được làm bằng vàng – cán, tay cầm, và cả lưỡi kiếm.

      Dylan gầm gừ và lùi lại. ta nhìn đồng bọn của mình và hét lớn, “Sao? Giết nó !”

      Hai tên tinh linh bão đó trông chẳng vui vẻ gì với mệnh lệnh đó, nhưng chúng bay về phía Jason, những ngón tay của chúng lách tách đầy tia lửa điện.

      Jason vung kiếm vào tên đầu tiên. Lưỡi kiếm của cậu xuyên qua , và cơ thể bằng khói của sinh vật đó tan biến . Con thứ hai phóng ra tia chớp, nhưng lưỡi kiếm của Jason cản được cú tấn công đó. Jason bước lên – với cú thọc kiếm nhanh gọn, con thứ hai tan ra thành bột phấn màu vàng.

      Dylan kêu gào trong giận dữ. ta nhìn xuống như thể trông chờ đồng bọn tái tạo lại, nhưng lớp bụi vàng di thể của chúng bị phân tán trong gió. “ thể thế được! Ngươi là ai, con lai kia?”

      Piper cũng choáng váng đến nỗi đánh rơi cây gậy của mình. “Jason, sao...?”

      Và rồi Huấn luyện viên Hedge nhảy lên cầu kính và thả Leo xuống như thả bao bột mì.

      “Lũ tinh linh kia, sợ ta chưa!” Thầy Hedge kêu rống lên, gập hai cánh tay ngắn ngủn lại. Rồi ông nhìn quanh và nhận ra rằng chỉ còn mình Dylan ở đó.

      “Ta nguyền rủa điều đó, nhóc!” ông cáu kỉnh với Jason. “Sao cậu để lại cho ta vài tên? Ta thích thử thách!”

      Leo đứng lên, thở dốc. Người cậu ấy chỗ nào cũng bị thương, hai bàn tay chảy máu vì bám vào các tảng đá. “Này, Huấn luyện viên Dê siêu nhân, cho dù ông là ai – tôi vừa mới rơi xuống Grand Canyon đầy đáng sợ kia! Ngừng việc thách thức đó

      Dylan rít lên với họ, nhưng Jason có thể nhìn thấy nỗi sợ hãi trong mắt ta. “Ngươi biết ngươi vừa mới đánh thức bao nhiêu kẻ thù của mình đâu, con lai. Bà chủ của ta tiêu diệt hết các á thần. Ngươi thể chiến thắng trong trận chiến này.”

      Ở phía họ, cơn dông tố biến thành cơn bão đầy sức mạnh. Các vết nứt ngày càng lan rộng cầu kính. màn mưa đổ xuống, và Jason phải cúi người xuống để giữ thăng bằng.

      lỗ hổng xuất trong những đám mây – cơn lốc xoáy màu đen và bạc.

      “Bà chủ gọi ta quay trở về!” Dylan hét lớn với niềm vui sướng. “Và ngươi, á thần, cùng với ta!”

      ta tấn công Jason, nhưng Piper chặn con quái vật lại từ đằng sau. Mặc dầu ta được làm từ khói, bằng cách nào đó Piper đánh trúng được ta. Cả hai người ngã sóng soài. Leo, Jason, và huấn luyện viên lao tới để giúp đỡ, nhưng tên tinh linh bão gào lên giận dữ. ta bắn ra cơn mưa lớn đánh bật mọi người lùi lại phía sau. Jason và Huấn luyện viên Hedge ngã dập mông xuống đất. Thanh kiếm của Jason trượt dài mặt kính. Leo bị đập mạnh vào gáy và cuộn người lại, choáng váng và rên rỉ. Piper dính đòn nặng nhất. bị ném khỏi lưng Dylan và va vào thanh chắn cầu, ngã nhào xuống cho đến khi treo lơ lửng tay phía vực thẳm.

      Jason bắt đầu về phía , nhưng Dylan hét lớn, “Ta kết thúc mọi chuyện ở đây!”

      ta túm lấy cánh tay của Leo và bắt đầu bay lên, kéo theo Leo gần như bất tỉnh cùng với ta. Cơn bão chuyển động ngày càng dữ dội hơn, hút họ lên cao như cái máy hút bụi.

      “Cứu với!” Piper hét lên. “Có ai !”

      Thế rồi trượt tay, la hét dữ dội khi rơi xuống.

      “Jason, !” thầy Hedge hét lên. “Cứu !”

      Huấn luyện viên quăng mình về phía tên tinh linh bão với vài thế võ đáng sợ của loài dê – tấn công bất ngờ với móng guốc của mình, giải thoát Leo khỏi nắm giữ của tên tinh linh đó. Leo an toàn rơi xuống sàn cầu, nhưng Dylan lại túm được tay của huấn luyện viên. Thầy Hedge cố húc đầu vào ta, sau đó đá và gọi ta là đồ bánh nướng. Họ bay ngày càng cao lên tr

      Huấn luyện viên Hedge hét vọng xuống thêm lần nữa, “Cứu lấy bé! Ta tóm được thằng quỷ sứ này!” Thế rồi thần rừng cùng tên tinh linh bão bay theo đường xoắn ốc vào bên trong các đám mây và biến mất.

      Cứu ấy? Jason nghĩ. ấy chết!

      Nhưng lần nữa bản năng của cậu chiến thắng. Cậu vừa chạy về phía thành cầu vừa nghĩ, Mình là thằng điên, và nhảy ra khỏi cầu.

      Jason sợ độ cao. Cậu sợ việc va mạnh vào đáy hẻm núi cách trăm năm mươi mét bên dưới. Cậu đoán mình chẳng đạt được bất cứ điều gì ngoài việc chết cùng Piper, nhưng cậu khép hai tay lại và để đầu rơi xuống trước. Hai bên sườn hẻm núi trôi nhanh như thước phim được tua nhanh. Cậu có cảm giác như mặt mình bị bóc ra.

      Ngay lập tức, cậu đuổi theo kịp Piper, người rơi rất nhanh. Cậu giữ được eo và nhắm mắt lại, chờ đợi cái chết. Piper vẫn kêu thét. Gió rít gào bên tai Jason. Cậu tự hỏi chết có cảm giác như thế nào. Chắc cũng chả tốt đẹp gì. Cậu ước bằng cách này hay cách khác họ bao giờ rơi xuống đáy vực.

      Đột nhiên tiếng rít gào của gió tan biến . Tiếng hét của Piper biến thành tiếng thở hổn hển nghẹn ngào. Jason nghĩ họ chắc chết, nhưng cậu cảm nhận được bất cứ va chạm nào.

      “J-J-Jason,” Piper .

      Cậu mở mắt ra. Họ còn rơi xuống nữa. Họ bay lơ lửng giữa trung, ba mươi mét phía con sông.

      Cậu ôm chặt Piper, và cũng đổi vị trí của mình để cũng ôm được cậu. Mũi họ chạm vào nhau. Tim đập nhanh, Jason có thể cảm nhận được nó qua lớp áo quần của .

      Hơi thở của có mùi quế. , “Sao cậu...”

      “Tớ chẳng làm gì cả,” cậu . “Tớ nghĩ tớ biết nếu tớ có thể bay...”

      Nhưng rồi cậu lại nghĩ: Tớ thậm chí còn biết mình là ai.

      Cậu hình dung việc bay lên cao. Piper hét lớn khi họ bắn lên cao hơn vài mét. Họ chính xác phải lơ lửng, Jason nghĩ. Cậu có thể cảm nhận được áp lực bên dưới chân mình như thể họ giữ thăng bằng phía mạch nước phu

      khí giúp chúng ta,” cậu .

      “Ừm, thế bảo nó hãy giúp chúng ta thêm! Hãy đưa chúng ta ra khỏi đây!”

      Jason nhìn xuống. Việc nhàng đáp xuống đáy vực là điều dễ dàng nhất. Rồi cậu ngước nhìn lên. Mưa ngừng rơi. Các đám mây dông dường như còn hung dữ như lúc trước nữa, nhưng sấm chớp vẫn đì đùng. có gì đảm bảo là lũ tinh linh đó biến mất. Cậu cũng biết chuyện gì xảy ra với Huấn luyện viên Hedge. Và cậu để Leo lại ở phía đó, gần như bất tỉnh.

      “Chúng ta phải giúp họ,” Piper , như thể đọc được ý nghĩ của cậu. “Cậu có thể...”

      “Để xem.” Jason nghĩ lên cao, và ngay lập tức họ bắn vọt lên trời.

      Việc cậu cưỡi những cơn gió có thể tuyệt nếu ở trong trường hợp khác, vì giờ cậu có quá nhiều kinh ngạc. Ngay khi đáp xuống cầu kính, họ chạy vội về phía Leo.

      Piper xoay người Leo lại, và cậu ấy bật ra tiếng rên rỉ. Chiếc áo khoác quân đội của cậu ấy ướt sũng vì nước mưa. Mái tóc xoăn lấp lánh bột vàng từ việc lăn quanh lớp bụi của con quái vật. Nhưng ít nhất cậu ấy chết.

      “Con dê... ngu ngốc... xấu xí,” cậu làu bàu.

      “Thầy ấy đâu?” Piper hỏi.

      Leo chỉ tay thẳng lên trời. “Chưa xuống. Làm ơn với tớ rằng thực ông ấy cứu sống tớ.”

      “Hai lần,” Jason .

      Leo rên rỉ còn lớn hơn. “Chuyện gì xảy ra? chàng bão táp, thanh kiếm bằng vàng... tớ bị đánh mạnh vào đầu. Đúng vậy ? Tớ bị ảo giác, đúng ?”

      Jason quên lửng chuyện thanh kiếm. Cậu bước về phía nơi nó nằm và nhặt nó lên. Lưỡi kiếm vẫn còn tốt. Bằng linh tính, cậu vụt ném nó. Được nửa đường, thanh kiếm co lại thành đồng xu và đáp xuống trong lòng bàn tay cậu.

      “Ừ,” Leo . “Đúng là tớ bị ảo giác.”

      Piper run rẩy trong bộ áo quần ướt nước mưa. “Jason, những người

      “Venti,” cậu . “Các tên tinh linh bão.”

      “Được rồi. Cậu cư xử như thể... như thể cậu từng nhìn thấy chúng trước đây. Cậu là ai?”

      Cậu lắc đầu. “Đó là những gì mà tớ cố với cậu. Tớ biết.”

      Cơn dông biến mất. Những đứa trẻ khác của Trường học Hoang Dã nhìn chằm chằm từ các cánh cửa kính với vẻ mặt đầy khiếp sợ. Các nhân viên bảo vệ cố để mở khóa, nhưng dường như họ gặp may lắm.

      “Huấn luyện viên Hedge ông ấy phải bảo vệ ba người,” Jason nhớ lại. “Tớ nghĩ ba người đó chính là chúng ta.”

      “Và cái thứ Dylan biến thành...” Piper rùng mình. “Chúa ơi, tớ thể tin được là cái thứ đó lại có cảm tình với tớ. ta gọi chúng ta... là gì nhỉ, các á thần?”

      Leo nằm xuống, nhìn thẳng lên trời. Cậu ấy dường như chẳng thiết tha gì chuyện ngồi dậy. “ biết từ phần có nghĩa là gì,” cậu ấy . “Nhưng tớ có cảm giác mình là thần chút nào. Các cậu có cảm giác gì ?”

      tiếng vỡ giòn như thể cành khô bị gãy, và các vết nứt cầu kính bắt đầu lan rộng.

      “Chúng ta cần ra khỏi nơi này,” Jason . “Có thể nếu chúng ta...”

      “Đưưược rồi,” Leo cắt ngang. “Hãy nhìn lên và cho tớ biết liệu đó có phải là những con ngựa bay .”

      Lúc đầu Jason nghĩ Leo bị đập vào đầu quá mạnh. Nhưng rồi cậu nhìn thấy bóng đen đáp dần xuống từ phía đông – quá chậm so với chiếc máy bay, quá lớn so với con chim. Khi nó tiến đến gần hơn cậu có thể nhìn thấy cặp động vật có cánh – màu xám, bốn chân, y chang những con ngựa – ngoại trừ mỗi con có đôi cánh dài sáu mét. Và chúng kéo theo chiếc hộp được sơn phết rực rỡ có hai bánh xe: cỗ xe ngựa.

      “Quân tiếp viện,” cậu . “Thầy Hedge với tôi đội ứng cứu đến chỗ chúng ta.”

      “Đội ứng cứu?” Leo cố gượng dậy. “Điều đó nghe đau đớ

      “Và nơi họ mang chúng ta đến là ở đâu?” Piper hỏi.

      Jason nhìn cỗ xe ngựa đáp xuống ở phía xa cuối cây cầu kính. Những con ngựa bay gập cánh lại và dè dặt chạy nước kiệu mặt kính, như thể chúng cảm nhận được nó sắp sập. Hai thiếu niên đứng cỗ xe ngựa – tóc vàng cao ráo có thể lớn tuổi hơn Jason chút, và chàng to lớn với cái đầu được cạo nhẵn bóng và khuôn mặt trông như đống gạch. Cả hai người họ đều mặc quần jean và áo phông màu cam, với những tấm khiên ở phía sau lưng. nhảy ra khỏi cỗ xe trước khi nó ngừng hẳn lại. ta rút con dao ra và chạy về phía nhóm Jason trong khi chàng to lớn ghì cương ngựa.

      “Ông ấy đâu?” hỏi. Đôi mắt màu xám của trông sắc bén và hơi sửng sốt.

      “Ai ở đâu?” Jason hỏi lại.

      cau mày như thể câu trả lời của cậu là chấp nhận được. Rồi quay sang Leo và Piper. “Thế còn Gleeson? Người bảo vệ các cậu, Gleeson Hedge đâu rồi?”

      Tên của huấn luyện viên là Gleeson? Jason có thể cười lớn nếu như buổi sáng nay có quá nhiều điều kỳ lạ và đáng sợ xảy ra. Gleeson Hedge: huấn luyện viên môn bóng đá, người dê, người bảo vệ của các á thần. Chắc vậy. Sao lại thể cơ chứ?

      Leo hắng giọng. “Ông ấy bị thứ gọi là bão gì đó... mang .”

      “Venti,” Jason . “Các tên tinh linh bão.”

      tóc vàng cau mày lại. “Ý cậu là anemoi thuellai ư? Đó là từ Hy Lạp. Cậu là ai, và chuyện gì xảy ra?”

      Jason cố hết sức để giải thích, mặc dầu khó khi gặp phải đôi mắt xám bén ngót đó. Được khoảng nửa câu chuyện, người còn lại cỗ xe ngựa tiến đến. ta có hình xăm hình cầu vồng bắp tay, điều đó dường như hơi kỳ lạ.

      Khi Jason kết thúc câu chuyện của mình, tóc vàng trông hài lòng. “, , ! Bà ấy rằng cậu ấy ở đây. Bà ấy rằng nếu tớ đến đây, tớ có được câu trả lời.”

      “Annabeth,” chàng đầu trọc càu nhàu. “Nhìn kìa.” ta chỉ tay về chân

      Jason nghĩ nhiều về nó, nhưng cậu mất chiếc giày bên trái khi bị tia chớp thổi bay. Bàn chân trần của cậu vẫn ổn, nhưng nó trông như cục than.

      chàng với chiếc giày,” chàng đầu trọc . “Cậu ta chính là câu trả lời.”

      phải, Butch,” khẳng định. “ thể là cậu ta. Tớ bị lừa.” liếc nhìn bầu trời như thể nó làm điều gì sai trái vậy. “Bà muốn gì ở tôi?” hét lớn. “Bà làm gì cậu ấy?”

      Cây cầu kính lắc mạnh, và những con ngựa hí lên kêu cứu.

      “Annabeth,” chàng trọc đầu tên Butch , “chúng ta phải thôi. Hãy mang ba người này quay về trại và tìm hiểu ở đó. Những tên tinh linh bão đó có thể quay trở lại.”

      cáu kỉnh trong giây lát. “Tốt thôi.” căm phẫn nhìn Jason. “Chúng ta giải quyết chuyện này sau.”

      quay gót và về phía cỗ xe ngựa.

      Piper lắc đầu. “ ta có vấn đề gì nhỉ? Chuyện gì xảy ra?”

      phải đùa đâu,” Leo đồng ý.

      “Chúng tôi phải đưa các cậu rời khỏi đây,” Butch . “Tôi giải thích đường .”

      “Tôi đâu với ta.” Jason ra hiệu về phía tóc vàng. “ ta trông như thể muốn giết tôi vậy.”

      Butch lưỡng lự. “Annabeth tệ lắm đâu. Cậu hãy khoan dung với ấy chút. ấy nằm mộng thấy người nào đó bảo ấy đến đây để tìm chàng trai chỉ với chiếc giày. Đó dường như là lời giải đáp cho rắc rối của ấy.”

      “Rắc rối gì?” Piper hỏi.

      ấy tìm kiếm trong số các trại viên của chúng tôi, người mất tích được ba ngày rồi,” Butch . “ ấy mất bình tĩnh vì lo lắng. ấy hy vọng cậu ấy có mặt ở đây.”

      “Người đó là ai?” Jason hỏi.

      “Bạn trai của ấy,” ch . “ chàng có tên là Percy Jackson.”





      3. PIPER


      Sau buổi sáng với các tên tinh linh bão, người-dê, và cậu bạn trai biết bay, Piper lẽ ra nên mất trí mới phải. Thay vào đó, tất cả những gì cảm nhận được là khiếp sợ.

      bắt đầu, nghĩ. Y hệt như những gì giấc mơ .

      đứng phía sau cỗ xe ngựa với Leo và Jason, trong khi chàng trọc đầu, Butch, cầm dây cương, và tóc vàng, Annabeth, điều chỉnh thiết bị định vị bằng đồng. Họ bay cao lên phía Grand Canyon và hướng về phía đông, cơn gió lạnh lẽo thổi xuyên qua áo khoác của Piper. Phía sau họ, thêm nhiều đám mây dông hình thành.

      Cỗ xe ngựa tròng trành và xóc nảy. Nó chẳng có dây an toàn và phía sau lại trống , vì thế Piper tự hỏi liệu Jason bắt được thêm lần nữa nếu bị rơi xuống. Đó là phần buồn phiền nhất trong sáng nay – phải là vì Jason có thể bay, mà là cậu ấy ôm trong tay nhưng lại nhớ được là ai.

      Trong suốt cả học kỳ, phải tạo ra mối quan hệ, cố làm cho Jason chú ý tới nhiều hơn so với người bạn. Cuối cùng cũng làm cho chàng đần đó hôn . vài tuần trước từng là thời gian tuyệt vời nhất trong cuộc đời . Và rồi, ba đêm trước, cơn mơ hủy hoại tất cả – giọng xấu xa đó, mang đến cho những tin tức khủng khiếp. kể cho bất cứ ai về điều đó, ngay cả với Jason.

      Giờ thậm chí còn có được cậu ấy. Như thể có ai đó xóa sạch hết trí nhớ của cậu, và bị mắc kẹt trong “ cải tiến” tồi tệ nhất mọi thời đại. những muốn hét lên. Jason đứng ngay bên cạnh : đôi mắt màu xanh da trời đó, mái tóc vàng cắt rất sát, vết sẹo xinh xắn ở môi của cậu ấy. Khuôn mặt hiền lành và dịu dàng, nhưng luôn có gì đó buồn bã của cậu ấy. Và cậu ấy chỉ nhìn về phía đường chân trời, thèm chú ý gì đến cả.

      Trong khi đó, Leo lại quấy rối, như thường lệ. “Điều này tuyệt!” Cậu ấy nhổ lông con pegasus ra khỏi miệng. “Chúng ta đâu?”

      nơi an toàn,” Annabeth . “Đó là nơi an toàn duy nhất cho những đứa trẻ như chúng ta. Trại Con Lai.”

      “Con Lai?” Piper đề phòng ngay lập tức. ghét từ đó. được gọi là con lai quá nhiều lần – nửa người Cherokee, nửa người da trắng – và đó bao giờ là lời khen ngợi. “Đó có phải là kiểu đùa tệ hại ?”

      “Ý ấy chúng ta là các á thần,” Jason . “Nửa thần, nửa người thường.”

      Annabeth ngoái đầu nhìn lại. “Cậu dường như biết khá nhiều đấy, Jason. Nhưng, đúng vậy, các á thần. Mẹ tôi là nữ thần Athena, nữ thần của khôn ngoan. Butch đây là con trai của nữ thần cầu vồng Iris.”

      Leo ngắt lời. “Mẹ nữ thần cầu vồng ư?”

      “Có vấn đề gì với điều đó sao?” Butch hỏi.

      , ,” Leo đáp. “Cầu vồng. Rất khuôn mẫu.”

      “Butch là người cưỡi ngựa tốt nhất của chúng tôi,” Annabeth . “Cậu ấy rất hòa thuận với những chú pegasus.”

      “Cầu vồng, ngựa con,” Leo lẩm bẩm.

      “Tôi quăng cậu khỏi cỗ xe đấy,” Butch cảnh cáo.

      “Á thần,” Piper . “Ý nghĩ là... nghĩ chúng tôi là...”

      tia chớp lóe lên. Cỗ xe ngựa lắc mạnh, và Jason hét lớn, “Bánh xe trái cháy!”

      Piper bước lùi lại. còn nghi ngờ gì nữa, bánh xe cháy, những ngọn lửa màu trắng phủ lấy bên cỗ xe ngựa.

      Gió gào thét. Piper liếc nhìn ra phía sau và nhìn thấy những bóng đen hình thành trong các đám mây, thêm nhiều tên tinh linh bão di chuyển về phía cỗ xe ngựa – ngoại trừ việc chúng giống ngựa hơn là các thiên thần.

      bắt đầu , “Sao chúng lại...”

      “Anemoi có thể xuất dưới các hình dáng khác nhau,” Annabeth . “Đôi khi là con người, đôi khi là ngựa, phụ thuộc vào hỗn loạn mà chúng tạo ra. Bám chắc vào. Chuyến này nhọc nhằn lắm đây.”

      Bu vụt dây cương. Những con pegasus bắt đầu phi nước đại, và cỗ xe mờ . Dạ dày Piper như leo lên đến tận cổ. Tầm nhìn trở nên tối đen, và khi nó quay trở lại bình thường, họ nơi hoàn toàn khác.

      Đại dương màu xám lạnh lẽo trải dài ở phía bên trái. Các cánh đồng, con đường và các cánh rừng phủ đầy tuyết nằm ở bên phải. Ngay phía bên dưới họ là thung lũng xanh mướt, như hòn đảo lúc vào xuân, được bao quanh bởi những quả đồi tuyết ở ba mặt và nước ở phía bắc. Piper nhìn thấy cụm nhà như những ngôi đền Hy Lạp cổ đại, ngôi nhà lớn màu xanh, các sân banh, cái hồ, bức tường leo núi dường như cháy. Nhưng trước khi có thể thực xử lý hết tất cả những gì mình nhìn thấy, những chiếc bánh xe rơi ra và cỗ xe rời khỏi bầu trời.

      Annabeth và Butch cố duy trì kiểm soát. Những con pegasus cố gắng giữ vững cỗ xe để hạ cánh, nhưng chúng dường như khá mất sức sau cú phi nước đại, và việc chịu đựng cỗ xe cùng sức nặng của năm người là quá lớn.

      “Cái hồ!” Annabeth hét lớn. “Hướng về phía hồ!”

      Piper chợt nhớ điều gì đó cha có lần với , về việc đâm sầm xuống nước từ cao tệ như việc đâm sầm vào xi măng.

      Và rồi – BÙM.

      Điều gây choáng váng nhất là lạnh giá. ở dưới nước, quá bối rối đến nỗi biết cách để ngoi lên.

      chỉ vừa có đủ thời gian để nghĩ: Đây là cách chết ngu ngốc nhất. Rồi những khuôn mặt xuất trong bóng tối màu xanh lục – những với mái tóc đen dài và đôi mắt vàng rực rỡ. Họ mỉm cười với , nắm chặt vai và kéo lên khỏi mặt nước.

      Họ quẳng , thở hổn hển và run lẩy bẩy, lên bờ. Gần đó, Butch đứng trong hồ nước, cắt bộ yên cương bị hỏng khỏi những con pegasus. May mắn thay, những con ngựa vẫn ổn, nhưng chúng vỗ cánh và bắn nước khắp nơi. Jason, Leo, và Annabeth bờ, bị vây quanh bởi những đứa trẻ đưa mền và đặt những câu hỏi với họ. người nào đó kéo tay Piper và giúp đứng lên. Hình như những đứa trẻ rơi xuống hồ rất nhiều lần, vì nhóm trại viên chạy đến với ống bễ hình chiếc lá bằng đồng lớn – tìm kiếm và thổi khí nóng vào người Piper, và chỉ trong hai giây, áo quần của khô ngay.

      Có ít nhất hai mươi trại viên quanh quẩn quanh đó – người nhất có lẽ khoảng chín tuổi người lớn nhất có độ tuổi theo học đại học, mười tám hay mười chín – và tất cả họ đều mặc áo phông màu cam như áo của Annabeth. Piper nhìn lại hồ nước và nhìn thấy những kỳ lạ đó ở ngay bên dưới mặt nước, mái tóc họ trôi lềnh bềnh theo dòng nước. Họ vẫy tay như thể, chào tạm biệt, và lặn xuống đáy hồ. giây sau những mảnh vụn của cỗ xe ngựa ở trong hồ được ném lên và đáp xuống gần đó cùng với tiếng nước chảy tong tong.

      “Chị Annabeth!” chàng với cung và ống tên sau lưng chen ngang qua đám đông. “Em chị có thể mượn cỗ xe, chứ phải phá hủy nó!”

      “Will, chị xin lỗi,” Annabeth thở dài. “Chị sửa nó, chị hứa đấy.”

      Will giận dữ nhìn cỗ xe ngựa nát vụn. Rồi cậu ta đánh giá Piper, Leo và Jason. “Đây là những người đó sao? Hình như lớn hơn mười ba tuổi. Sao họ vẫn chưa được thừa nhận?”

      “Được thừa nhận?” Leo hỏi.

      Trước khi Annabeth có thể giải thích, Will hỏi, “Có dấu hiệu gì của Percy ?”

      ,” Annabeth thừa nhận.

      Các trại viên thầm. Piper biết chàng tên Percy đó là ai, nhưng biến mất của ta dường như là rắc rối lớn.

      khác bước lên phía trước – cao, người châu Á, tóc đen được buộc trong những chiếc vòng , đeo rất nhiều đồ nữ trang, và trang điểm hoàn hảo. Bằng cách nào đó ta khiến cho chiếc quần jeans và áo phông màu cam trông quyến rũ. ta liếc nhìn Leo, chăm chú nhìn Jason như thể cậu ấy đáng nhận được chú ý của ta, sau đó bĩu môi với Piper như thể là món burrito tuần tuổi vừa mới được lấy ra từ thùng rác Dumpster vậy. Piper biết kiểu con này. phải đối đầu với những như vậy ở Trường học Hoang Dã và bất cứ trường học nào khác mà cha gửi theo học. Piper biết ngay rằng họ trở thành kẻ thù của nhau.

      “Ừm,” , “Tớ hy vọng họ đáng để phiền hà.”

      Leo khịt khịt mũi. “Lạ , cám ơn. Chúng tôi là gì, những con thú cưng mới của sao?”

      đùa nữa,” Jason . “Thế vài câu trả lời trước khi các người bắt đầu đánh giá chúng tôi thế nào – như, đây là nơi nào, sao chúng tôi ở đây, chúng tôi phải ở đây trong bao lâu

      Piper cũng có cùng những câu hỏi như thế, nhưng sợ hãi cuốn tất cả. Đáng để phiền hà. Giá họ biết được giấc mơ của . Họ chẳng biết gì cả...

      “Jason,” Annabeth , “Tôi hứa chúng tôi trả lời các câu hỏi của cậu. Còn Drew,” ấy cau mày nhìn quyến rũ đó, “tất cả á thần đều xứng đáng được cứu sống. Nhưng tôi phải thừa nhận, chuyến mang lại những gì tôi hy vọng.”

      “Này,” Piper , “chúng tôi cầu được đưa đến đây.”

      Drew khịt khịt. “Và chẳng ai muốn , cưng à. Tóc luôn trông giống con lửng chết vậy sao?”

      Piper bước tới trước, sắp sửa tát tai ta, nhưng Annabeth lên tiếng, “Piper, ngừng lại .”

      Piper làm theo như Annabeth bảo. sợ Drew chút nào, nhưng Annabeth dường như là người mà muốn trở thành kẻ thù.

      “Chúng ta phải làm cho những người mới đến cảm nhận được chào đón,” Annabeth , với cái nhìn chĩa thẳng vào Drew. “Mỗi người trong số họ người hướng dẫn, đưa họ tham quan vòng quanh trại. Hy vọng vào dịp lửa trại tối nay, họ được thừa nhận.”

      “Có ai cho tôi được thừa nhận có nghĩa là gì ?” Piper hỏi.

      Đột nhiên mọi người xung quanh đều há hốc miệng vì kinh ngạc. Các trại viên lùi lại. Lúc đầu Piper nghĩ làm điều gì sai. Rồi nhận ra khuôn mặt của họ được bao phủ bởi ánh sáng đỏ kỳ lạ, như thể ai đó vừa mới đốt đuốc phía sau lưng . quay người lại và gần như quên cách để thở.

      Trôi bềnh bồng đầu Leo là hình ảnh gian ba chiều rực sáng – cây búa lửa.

      “Cậu ấy,” Annabeth , “ được thừa nhận.”

      “Tớ làm gì?” Leo lùi lại về phía hồ nước. Rồi cậu ngước nhìn lên và hét lớn. “Tóc tớ cháy sao?” Cậu cúi đầu xuống, nhưng biểu tượng đó vẫn theo, đung đưa và lắc lư vì thế trông như thể cậu ấy cố viết cái gì đó trong lửa bằng đầu vậy.

      “Điều này tốt,” Butch làu bàu. “Lời nguyền...”

      “Butch, im miệng,” Annabeth . “Leo, cậu vừa mới được thừa nhận...”

      “Bởi vị thần,” Jason cắt ngang. “Đó là biểu tượng của thần Vulcan, phải vậy ?”

      Tất cả các cặp mắt đều đổ dồn vào cậu ấy.

      “Jason,” Annabeth đầy cẩn trọng, “sao cậu biết điều đó?”

      “Tôi chắc.”

      “Vulcan?” Leo hỏi gặng. “Tớ thậm chí còn THÍCH Star Trek. Mọi người về điều gì vậy?”

      “Thần Vulcan là tên La Mã của thần Hephaestus,” Annabeth , “thần của thợ rèn và lửa.”

      Cây búa lửa mờ dần, nhưng Leo vẫn tiếp tục đập khí như thể cậu sợ nó theo mình. “Thần của gì? Là ai?”

      Annabeth quay về phía chàng có cây cung. “Will, cậu vui lòng nhận Leo, dẫn cậu ấy tham quan nhé? Hãy giới thiệu với cậu ấy những người bạn cùng phòng ở Nhà số Chín.”

      “Chắc rồi, chị Annabeth.”

      “Nhà số Chín là gì?” Leo hỏi. “Và tôi phải là Vulcan!”

      thôi, cậu Spock, tôi giải thích mọi thứ.” Will đặt tay lên vai cậu và hướng cậu ấy về phía các khu nhà.

      Annabeth quay lại nhìn chăm chú vào Jason. Thông thường Piper thích khi những khác nhìn chăm chú bạn trai mình, nhưng Annabeth dường như quan tâm đến việc cậu ấy là chàng xinh trai. nhìn khắp lượt như thể cậu là bản thiết kế nhà. Cuối cùng , “Đưa tay cậu ra.”

      Piper nhìn thấy những gì ấy nhìn thấy, và mắt mở to ra.

      Jason cởi chiếc áo gió sau khi cậu ngâm mình dưới hồ, để lộ hai cánh tay trần, và ở bên cẳng tay phải là hình xăm. Sao Piper lại bao giờ chú ý đến điều đó trước đây nhỉ? nhìn cánh tay Jason hàng triệu lần. Hình xăm thể vừa mới xuất , nhưng nó được xăm khá đậm, thể dễ dàng bỏ sót được: tá đường thẳng như mã vạch, và phía là hình con đại bàng với những chữ cái SPQR.

      “Tôi chưa bao giờ nhìn thấy các dấu hiệu như vậy,” Annabeth . “Cậu lấy nó

      Jason lắc đầu. “Tôi thực mệt mỏi khi phải điều này, nhưng tôi biết.”

      Những trại viên khác lấn tới trước, cố để nhìn được hình xăm của Jason. Những dấu hiệu dường như làm họ rất lo lắng – gần như là lời tuyên chiến.

      “Chúng trông như thể được đóng vào da cậu vậy,” Annabeth nhận xét.

      “Chúng là,” Jason . Rồi cậu cau mày như thể đầu cậu đau nhức vậy. “Ý tôi là... tôi nghĩ vậy. Tôi nhớ.”

      ai lời nào. ràng các trại viên coi Annabeth là thủ lĩnh. Họ chờ đợi phán quyết của .

      “Cậu ấy cần đến chỗ bác Chiron,” Annabeth quyết định. “Drew, có thể...”

      “Chắc chắn rồi.” Drew đan tay mình vào tay Jason. “Lối này, cưng. Tớ giới thiệu cậu với giám đốc của chúng ta. Bác ấy... là người thú vị.” ta nhìn Piper với vẻ tự mãn và dẫn Jason về phía ngôi nhà lớn màu xanh đồi.

      Đám đông giải tán, chỉ còn lại duy nhất Annabeth và Piper.

      “Bác Chiron là ai?” Piper hỏi. “Có phải Jason lại gặp rắc rối gì ?”

      Annabeth ngập ngừng. “Câu hỏi hay, Piper. thôi, chị dẫn em tham quan. Chúng ta cần chuyện.”

    4. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      4. PIPER


      Piper nhanh chóng nhận ra tâm hồn Annabeth đặt vào chuyến tham quan này.

      ấy về tất cả những thứ tuyệt vời mà trại mang đến – thuật bắn cung phép thuật, việc cưỡi ngựa pegasus, bức tường dung nham, chiến đấu với quái vật – nhưng ấy chẳng có chút phấn khích. ấy chỉ về phía nhà ăn ngoài trời có tầm nhìn ra Long Island Sound. (Đúng vậy, Long Island, New York; họ xa đến chừng đó cỗ xe ngựa.) Annabeth giải thích vì sao Trại Con Lai gần như là trại hè, nhưng có vài đứa trẻ ở lại đây quanh năm, và họ thêm vào rất nhiều trại viên khác, vì thế giờ trại luôn đông đúc, ngay cả trong mù

      Piper tự hỏi ai là người điều hành trại, và sao họ biết được Piper và những người bạn của mình thuộc về nơi này. tự hỏi liệu mình có thể ở đây quanh năm hoặc có thể thích ứng được với các hoạt động ở đây . Liệu có bị đuổi học vì thi trượt môn tiêu diệt quái vật ? Hàng triệu câu hỏi xuất trong đầu , nhưng với tâm trạng nay của Annabeth, quyết định tốt hơn hết là im lặng.

      Khi họ leo lên ngọn đồi giáp ranh với trại, Piper quay người lại và có tầm nhìn tuyệt vời về toàn bộ thung lũng – cánh rừng lớn trải dài về phía tây bắc, bãi biển xinh đẹp, sông con, hồ chứa xuồng, những bãi cỏ xanh mướt tươi tốt, và khối kiến trúc của những ngôi nhà – các ngôi nhà được sắp xếp cách kỳ quái như chữ cái omega O trong tiếng Hy Lạp, với những ngôi nhà xếp thành hình tròn bao quanh sân cỏ, và hai nhánh mọc ra từ phần đáy của mỗi bên. Piper đếm được có tất cả hai mươi ngôi nhà. Có ngôi nhà có màu vàng rực rỡ, ngôi khác lại có màu bạc. Có nhà có cỏ mái. Nhà khác lại có màu đỏ tươi với những hào chứa đầy dây thép gai. Còn có ngôi nhà có màu đen với những ngọn đuốc cháy lửa xanh ở phía trước nhà.

      Toàn bộ khu trại giống như thế giới khác ngoài những quả đồi phủ đầy tuyết và những cánh đồng bên ngoài.

      “Cả thung lũng đều được bảo vệ khỏi mắt của người thường,” Annabeth . “Như em thấy đấy, khí hậu ở trại cũng được điều chỉnh. Mỗi nhà đại diện cho vị thần Hy Lạp – nơi dành cho những đứa con của các vị thần trú ngụ.”

      ấy nhìn Piper như thể cố đánh giá cách Piper xử lý thông tin đó như thế nào.

      “Chị mẹ mình là nữ thần.”

      Annabeth gật đầu. “Em tiếp nhận tin đó khá điềm tĩnh.”

      Piper thể cho ấy lý do. thể thừa nhận rằng điều này chỉ củng cố thêm vài cảm giác kỳ lạ mà có được trong nhiều năm qua, những tranh cãi có với cha mình về việc sao chẳng có bức ảnh nào của Mẹ trong nhà, và sao Cha bao giờ kể cho chính xác tại sao hay làm thế nào mà mẹ lại rời bỏ họ. Nhưng hết, giấc mơ cảnh báo rằng điều này sắp xảy ra. Chúng nhanh chóng tìm ra ngươi thôi, á thần, giọng đó quát tháo. Khi chúng làm thế, hãy làm theo các chỉ dẫn của ta. Hợp tác, và cha ngươi có thể sống.

      Piper hít hơi. “Em đoán sau sáng nay,y dễ dàng chấp nhận hơn. Vậy mẹ em là ai?”

      “Chúng ta sớm biết thôi,” Annabeth . “Em bao nhiêu... mười lăm tuổi sao? Các thần đáng lẽ phải thừa nhận em khi em được mười ba tuổi. Đó là thỏa thuận.”

      “Thỏa thuận gì?”

      “Họ đưa ra lời hứa vào mùa hè năm ngoái... ừm, câu chuyện dài... nhưng họ hứa lờ những đứa con á thần của mình nữa, thừa nhận chúng vào năm chúng được mười ba tuổi. Đôi khi việc đó phải hơi mất thời gian hơn, nhưng em thấy Leo được thừa nhận nhanh như thế nào ngay khi cậu ấy đến đây. Việc đó nhanh chóng xảy ra với em thôi. Tối nay ở lửa trại, chị chắc chúng ta có được dấu hiệu.”

      Piper tự hỏi liệu mình có thể có cây búa cháy phía đầu mình , hoặc với may mắn của mình, còn có thể nhận được thứ còn đáng xấu hổ hơn. con gấu túi cháy, chẳng hạn. Cho dù mẹ mình có là ai, Piper nghĩ bà ấy đủ can đảm để thừa nhận con thích ăn cắp với những rắc rối đủ lớn. “Sao phải đến mười ba tuổi ạ?”

      “Vì em càng lớn lên,” Annabeth , “càng có nhiều quái vật chú ý đến em, cố giết chết em. Thường việc đó bắt đầu xảy ra khi các con lai được mười ba tuổi. Đó là lý do tại sao chúng ta gửi những người bảo vệ đến các trường học để tìm kiếm những người như bọn em, đưa về trại trước khi quá muộn.”

      “Như Huấn luyện viên Hedge ạ?”

      Annabeth gật đầu. “Ông ấy... ông ấy là thần rừng, nửa người, nửa dê. Các thần rừng làm việc cho trại, tìm kiếm các á thần, bảo vệ và mang họ về trại khi đến thời điểm thích hợp.”

      Piper gặp rắc rối chút nào khi tin rằng thầy Hedge là nửa dê. nhìn thấy ông ăn. chưa bao giờ thích ông, nhưng thể tin được rằng ông hy sinh chính mình để cứu họ.

      “Điều gì xảy ra với ông ấy?” hỏi. “Khi chúng ta bay lên các đám mây, liệu ông ấy có thoát được ?”

      “Khó lắm.” Vẻ mặt của Annabeth đầy đau đớn. “Những tên tinh linh bão đó ... khó để chống lại. Ngay cả với những vũ khí tốt nhất của chúng ta, đồng Celestial, cũng chỉ xuyên qua người chúng trừ phi em có thể tấn công chúng bất ngờ

      “Kiếm của Jason có thể biến chúng thành tro bụi,” Piper nhớ lại.

      “Thế cậu nhóc đó may mắn đấy. Nếu em đánh trúng được con quái vật, em có thể làm nó tan biến , đưa linh hồn nó quay trở lại Tartarus.”

      “Tartarus?”

      vực thẳm khổng lồ ở Địa ngục, nơi bắt nguồn của những con quái vật đáng sợ nhất. Kiểu như cái hố trong đáy đầy quỷ dữ. Dù sao nữa, mỗi khi các con quái vật bị phân hủy, chúng phải mất nhiều tháng, thậm chí nhiều năm mới có thể tái tạo lại. Nhưng vì tên tinh linh bão có tên Dylan đó trốn thoát – ừm, chị biết tại sao vẫn để cho Hedge được sống. Tuy nhiên, Hedge là người bảo vệ. Ông ấy biết những nguy hiểm. Các thần rừng có linh hồn của con người. Ông ấy lại tái sinh dưới hình dáng cái cây, bông hoa hoặc thứ gì đó tương tự.”

      Piper cố tưởng tượng ra hình ảnh Huấn luyện viên Hedge là khóm hoa păng-xê giận dữ. Điều đó càng làm cảm thấy tồi tệ hơn.

      liếc nhìn về phía những ngôi nhà ở bên dưới, và cảm giác bồn chồn khó chịu xuất khắp người . Thầy Hedge chết để giúp an toàn đến được đây. Nhà của mẹ ở đâu đó bên dưới kia, điều đó có nghĩa còn các chị em khác nữa, thêm nhiều người phải phản bội. Hãy làm theo những gì ta chỉ bảo, giọng đó . Hoặc hậu quả cực kỳ đau đớn. nhét hai bàn tay mình xuống bên dưới hai cánh tay, cố làm cho chúng ngừng run rẩy.

      ổn thôi,” Annabeth hứa. “Em có nhiều bạn bè ở đây. Tất cả bọn chị đều trải qua khá nhiều điều kỳ lạ. Bọn chị biết những gì em trải qua.”

      Mình nghi ngờ điều đó, Piper nghĩ.

      “Em bị đuổi ra khỏi năm trường khác nhau trong vòng năm năm qua,” . “Cha em hết chỗ để đưa em theo học.”

      “Chỉ năm thôi sao?” Giọng Annabeth tỏ vẻ gì là đùa cợt. “Piper, tất cả chúng ta đều được dán nhãn là những kẻ gây rắc rối. Chị rời khỏi nhà năm chị lên bảy tuổi.”

      sao?”

      “Ồ, đúng vậy. Phần lớn chúng ta được chẩn đoán là hiế động thái quá và suy giảm khả năng chú ý hay đọc được chữ viết, hoặc cả hai...”

      “Chứng bệnh của Leo,” Piper .

      “Đúng vậy. Đó là vì chúng ta được lập trình để chiến đấu. Hiếu động, bốc đồng – chúng ta phù hợp với những đứa trẻ thông thường. Em nên biết được về những rắc rối mà Percy...” Khuôn mặt ấy đỏ bừng. “Dù sao nữa, các á thần luôn có tiếng xấu. Em gặp phải rắc rối gì?”

      Thông thường nếu ai đó hỏi câu đó, Piper bắt đầu gây với người đó, hoặc đổi đề tài, hoặc gây ra xao lãng nào đó. Nhưng vì lý do nào đó thấy mình lên .

      “Em ăn cắp vặt,” . “Ừm, hẳn là ăn cắp...”

      “Gia đình em nghèo lắm sao?”

      Piper mỉm cười đầy chua chát. “ đâu. Em chỉ làm thế thôi... em cũng biết tại sao. Vì muốn gây chú ý, em đoán thế. Cha em bao giờ dành thời gian cho em, trừ phi em gây ra rắc rối gì đó.”

      Annabeth gật đầu. “Chị có thể hiểu. Nhưng em em hẳn là ăn cắp? Ý em là sao?”

      “Ừm... ai tin em. Cảnh sát, giáo viên – ngay cả những người mà em lấy đồ đạc từ họ: họ quá xấu hổ, họ phủ nhận những gì xảy ra. Nhưng là, em đánh cắp bất cứ thứ gì. Em chỉ hỏi mọi người những thứ đó. Và họ đưa cho em. Ngay cả chiếc BMW mui trần. Em chỉ việc hỏi. Và người bán xe , ‘Chắc rồi. Mang nó .’ Sau đó, ông ta nhận ra những gì mình làm, em đoán thế. Rồi cảnh sát đến bắt giữ em.”

      Piper chờ đợi. quen với việc mọi người gọi là kẻ dối, nhưng khi nhìn lên, Annabeth chỉ gật đầu.

      thú vị. Nếu cha em là vị thần, chị có thể ngay em là con của thần Hermes, thần của kẻ trộm cắp. Ông ấy là bằng chứng khá thuyết phục. Nhưng cha em là người thường...”

      “Đúng là vậy,” Piper đồng ý.

      Annabeth lắc đầu, với vẻ mặt khó hiểu. “Chị cũng biết nữa. Nếu may mắn, mẹ em thừa nhận em vào tối nay.”

      Piper gần như hy vọng xảy ra. Nếu mẹ nữ thần, liệu bà ấy có biết gì về giấc mơ đó ? Liệu bà ấy có biết những gì Piper được cầu làm theo? Piper tự hỏi liệu các vị thần đỉnh Olympus bao giờ làm nổ tung những đứa con của họ bằng tia chớp vì chúng trở nên xấu xa, hoặc cầm tù chúng dưới Địa ngục .

      Annabeth quan sát . Piper quyết định kể từ nay phải cẩn thận với những gì . Annabeth hiển nhiên là rất thông minh. Nếu bất cứ người nào có thể đoán được những bí mật của Piper...

      thôi,” cuối cùng Annabeth cũng cất tiếng. “Chị có số việc cần phải kiểm tra.”

      Họ xa hơn chút nữa cho đến khi gặp phải cái hang gần đỉnh đồi. Xương và những thanh kiếm cũ bày bừa mặt đất. Các ngọn đuốc nằm ở lối vào được che bởi tấm màn nhung được thêu hình những con rắn. Nó trông giống cảnh dựng của buổi trình diễn rối.

      “Có gì trong đó?” Piper hỏi.

      Annabeth ló đầu vào bên trong, sau đó thở dài và khép tấm màn lại. “ có gì, tại. Nơi ở của người bạn. Chị chờ ấy mấy ngày nay, nhưng cho đến giờ, ấy vẫn chưa đến.”

      “Bạn chị sống trong cái hang sao?”

      Annabeth gần như nở nụ cười. “ ra, gia đình ấy có căn hộ sang trọng ở Queens, và ấy theo học ở trường tư thục dành cho nữ sinh ở Connecticut. Nhưng khi ấy ở trại, ừ, ấy sống trong cái hang. ấy là nhà tiên tri của chúng ta, tiết lộ về tương lai. Chị mong ấy có thể giúp chị...”

      “Tìm Percy,” Piper đoán.

      Tất cả sức lực dường như biến khỏi người Annabeth, như thể ấy cố giữ nó càng lâu càng tốt. ngồi xuống tảng đá và gương mặt đầy đau khổ, Piper cảm thấy mình như người tò mò tọc mạch.

      buộc chính mình phải nhìn sang hướng khác. Đôi mắt lang thang đến đỉnh đồi, nơi cây thông đơn độc chi phối đường chân trời. Có thứ gì đó lấp lánh cành thấp nhất của nó – như tấm thảm chùi chân bằng vàng xoắn tít.

      ... phải là tấm thảm chùi chân. Đó là bộ lông cừu.

      Ổn thôi, Piper nghĩ. Trại Hy Lạp. Họ có bản sao của Bộ Lông Cừu Vàng.

      Rồi chú ý đến phần gốc cây. Lúc đầu nghĩ nó được bọc bởi đống dây cáp màu tía đồ sộ. Nhưng dây cáp có những lớp vảy của loài bò sát, đôi chân có móng vuốt, và cái đầu giống đầu rắn với đôi mắt vàng và cái lỗ mũi bốc khói.

      “Đó là... con rồng,” lắp bắp. “Đó là Bộ Lông Cừu Vàng sao?”

      Annabeth gật đầu, nhưng ràng là ấy thực lắng nghe. Hai vai buông thõng xuống. chà xát mặt mình và run rẩy hít hơi sâu. “Xin lỗi. Chị hơi mệt.”

      “Chị trông như sắp kiệt sức ấy,” Piper . “Chị tìm kiếm bạn trai mình trong bao lâu?”

      “Ba ngày, sáu giờ, và mười hai phút.”

      “Và chị biết chuyện gì xảy ra với ấy sao?”

      Annabeth lắc đầu đầy khổ sở. “Bọn chị rất phấn khích vì bọn chị bắt đầu kỳ nghỉ đông sớm. Bọn chị gặp nhau ở trại vào ngày thứ Ba, tính toán bọn chị có được ba tuần bên nhau. Điều đó tuyệt. Rồi sau buổi lửa trại, cậu ấy... cậu ấy hôn chúc chị ngủ ngon, rồi quay về nhà mình, và vào buổi sáng, cậu ấy biến mất. Bọn chị tìm kiếm khắp trại. Bọn chị gọi cho mẹ cậu ấy. Cố liên lạc với cậu ấy với bất cứ cách nào mà bọn chị có thể biết được. Nhưng chẳng có gì. Cậu ấy chỉ biến mất.”

      Piper nghĩ: Ba ngày trước sao. Cùng đêm mơ thấy giấc mơ của mình. “Bọn chị quen nhau được bao lâu?”

      “Từ tháng Tám,” Annabeth . “Mười tám tháng Tám.”

      “Gần như chính xác với ngày em gặp Jason,” Piper . “Nhưng bọn em chỉ ở bên nhau được vài tuần.”

      Annabeth cau mày. “Piper... về chuyện đó. Có thể em nên ngồi xuống.”

      Piper biết điều này dẫn đến đâu. sợ hãi bắt đầu hình thành bên trong , như thể phổi được đổ đầy nước. “Nghe này, em biết Jason nghĩ – cậu ấy nghĩ cậu ấy chỉ mới xuất ở trường bọn em ngày hôm nay. Nhưng điều đó đúng. Em biết cậu ấy bốn tháng n

      “Piper,” Annabeth buồn bã . “Đó là do Màn Sương Mù.”

      bỏ lỡ... cái gì?”

      “Màn-Sương-Mù. Đó là lớp màn ngăn thế giới thường với thế giới phép thuật. Trí óc của con người – họ thể xử lý được những chuyện kỳ lạ như thần thánh và quái vật, vì thế Màn Sương Mù bẻ cong . Nó khiến những người thường nhìn thấy những điều theo cách họ có thể hiểu được – như mắt họ có thể hoàn toàn bỏ qua thung lũng này hoặc họ có thể nhìn con rồng đó và thấy đống dây cáp.”

      Piper nuốt xuống. “. Chính chị em phải là người bình thường. Em là á thần.”

      “Ngay cả các á thần cũng bị ảnh hưởng. Chị nhìn thấy rất nhiều lần. Khi quái vật thâm nhập vào vài nơi như trường học, mạo nhận chính mình như con người, và mọi người nghĩ mình nhớ về người đó. Họ tin rằng cậu ta luôn ở quanh đây. Màn Sương Mù có thể thay đổi ký ức, thậm chí tạo ra ký ức về những việc mà chưa bao giờ xảy ra..”

      “Nhưng Jason phải là quái vật!” Piper khăng khăng. “Cậu ấy là con người, hay á thần, hay bất cứ cái tên nào mà chị muốn gọi cậu ấy. Các ký ức của em phải là giả tạo. Chúng rất . Thời điểm bọn em đốt quần của Huấn luyện viên Hedge. Lúc Jason và em cùng nhau ngắm mưa sao băng mái nhà ký túc xá và em cuối cùng cũng làm cho chàng ngốc đó hôn em...”

      nhận ra chính mình huyên thuyên, kể cho Annabeth nghe về toàn bộ học kỳ của mình ở Trường học Hoang Dã. thích Jason ngay từ tuần đầu tiên họ gặp nhau. Cậu ấy rất tốt với , và cực kỳ nhẫn nại, cậu ấy thậm chí còn chịu đựng được cả bạn Leo hiếu động thái quá và cả những trò đùa ngốc nghếch của cậu ta. Cậu ấy chấp nhận vì chính con người xét đoán vì những gì làm. Họ dành hàng giờ chuyện, ngắm sao, và cuối cùng – cuối cùng – nắm tay nhau. Và tất cả những điều đó thể là giả được.

      Annabeth bĩu môi. “Piper, các ký ức của em mạnh mẽ hơn nhiều so với hầu hết mọi người. Chị phải thừa nhận điều đó, và chị biết tại sao lại như thế. Nhưng nếu em biết cậu ta đủ ...”

      “Em biết mà!”

      “Thế cậu ta từ đâu đến?”

      Piper cảm thấy như thể vừa mới bị thụi đấm vào giữa mặt. “Cậu ấy hẳn với em, nhưng...”

      “Em bao giờ chú ý đến hình xăm của cậu ta trước ngày hôm nay ? Cậu ta có bao giờ kể cho em bất cứ điều gì về cha mẹ, bạn bè hay trường học cuối cùng của cậu ta ?”

      “Em... em biết, nhưng...”

      “Piper, thế họ của cậu ta là gì?”

      Trí óc hoàn toàn trống rỗng. biết họ của Jason. Sao có thể như thế được?

      bật khóc. cảm giác như mình là con ngốc, nhưng ngồi xuống tảng đá cạnh Annabeth và cảm thấy như người mình tan ra từng mảnh. Điều đó là quá nhiều. Có phải mọi điều tốt đẹp trong cuộc sống khốn khổ, ngu ngốc của bị lấy mất ?

      Đúng rồi, giấc mơ với . Đúng vậy, trừ phi ngươi làm theo chính xác những gì chúng ta .

      “Này,” Annabeth . “Chúng ta tìm ra. Giờ Jason ở đây. Ai biết được? Có thể nó có ích với bọn em.”

      bao giờ, Piper nghĩ. thể khi mà giấc mơ với . Nhưng thể ra điều đó.

      lau giọt nước mắt vương má. “Chị mang em đến đây để ai có thể nhìn thấy em khóc sao?”

      Annabeth nhún vai. “Chị đoán điều đó khó với em. Chị biết như thế nào khi mất người bạn trai.”

      “Nhưng em vẫn thể tin được... Em biết bọn em có gì đó. Và giờ nó biến mất, cậu ấy thậm chí còn nhận ra em. Nếu cậu ấy thực chỉ mới xuất ngày hôm nay, vậy tại sao? Sao cậu ấy lại có thể đến đó? Sao cậu ấy lại thể nhớ được bất cứ điều gì?”

      “Những câu hỏi hay,” Annabeth . “Hy vọng bác Chiron có thể luận ra được điều đó. Nhưng giờ , chúng ta cần phải tìm chỗ cho em trú ngụ. Em sẵn sàng xuống dưới kia chưa?”

      Piper liếc nhìn về sắp xếp điên khùng của các ngôi nhà trong thung lũng. Ngôi nhà mới của , được cho là hiểu – nhưng nhanh thôi, họ lại chỉ là nhóm người thất vọng vì , lại chỉ là nơi khác mà bị đá ra khỏi đó. Ngươi phải phản bội chúng vì chúng ta, giọng cảnh báo. Hoặc ngươi mất mọi thứ.

      lựa chọn.

      “Ừm,” dối. “Em sẵn sàng.”

      bãi cỏ xanh mướt ở giữa, nhóm các trại viên chơi bóng rổ. Họ là những tay ném bóng siêu chuẩn. có quả bóng nào nảy ra khỏi vành rổ. Những cú ném ba điểm được thực cách thuần thục.

      “Nhà thần Apollo,” Annabeth giải thích. “ nhóm những tay phô trương với những loại vũ khí có thể phóng ra – như cung tên, bóng rổ.”

      Họ qua lò lửa được đặt ở giữa, nơi có hai chàng đánh nhau bằng kiếm.

      “Đó là những lưỡi kiếm sao?” Piper chú ý. “Chẳng phải nó rất nguy hiểm sao?”

      “Điều đó mang lại hiệu quả,” Annabeth . “Ừm, xin lỗi. Chơi chữ được hay lắm. Nhà chị ở đằng kia. Số Sáu.” ấy hất đầu về phía tòa nhà màu xám với con cú được khắc phía cửa. Qua cánh cửa mở, Piper có thể thấy các giá sách, các món vũ khí được trưng bày, và trong số các Màn hình Thông minh được vận hành bằng máy vi tính mà họ có trong các phòng học. Hai vẽ bản đồ trông giống như biểu đồ chiến tranh.

      về các lưỡi kiếm,” Annabeth , “đến đây nào.”

      dẫn Piper vòng qua bên hông nhà, đến nhà xưởng bằng kim loại lớn trông giống như nhà chứa các dụng cụ làm vườn. Annabeth mở nó ra, và bên trong phải dụng cụ làm vườn, trừ khi bạn muốn gây chiến với các cây cà chua của bạn. Khu nhà có tất cả các loại vũ khí – từ kiếm đến giáo và ngay cả những chiếc dùi cui như của huấn luyện viên Hedge.

      “Mỗi á thần đều cần có vũ khí,” Annabeth . “Thần Hephaestus làm ra những vũ khí tốt nhất, nhưng chúng ta cũng có lựa chọn tốt nữa. Tất cả những gì mà nữ thần Athena quan tâm là chiến lược – chọn ra vũ khí thích hợp với người thích hợp. Để xem...”

      Piper cảm thấy thích thú gì với việc mua sắm những vật dụng chết người này, nhưng biết Annabeth cố làm đó tốt cho .

      Annabeth đưa cho thanh kiếm lớn, mà ắt hẳn Piper khó lòng nhấc nó lên nổi.

      ,” cả hai cùng lên tiếng.

      Annabeth lục lọi sâu hơn trong nhà kho và mang ra thứ gì đó.

      khẩu súng ngắn?” Piper hỏi.

      “Mossberg 500.” Annabeth kiểm tra cò súng như thể nó chẳng có gì nguy hại vậy. “Đừng lo. Nó gây tổn thương cho người thường. Nó được sửa đổi để bắn đạn được làm từ đồng Celestial, vì thế nó chỉ giết chết quái vật thôi.”

      “Ừm, em nghĩ nó hợp với phong cách của em,” Piper .

      “Ừm, đúng vậy,” Annabeth đồng ý. “Quá hào nhoáng.”

      ấy đặt khẩu súng xuống và bắt đầu mò mẫm khắp cái giá chứa đầy những cái nỏ có thứ gì đó nằm ở góc xưởng đập vào mắt Piper.

      “Đó là cái gì thế?” . “ con dao ư?”

      Annabeth lấy nó ra và thổi bụi khỏi vỏ dao găm. Nó có vẻ như chưa được nhìn thấy ánh sáng ban ngày trong nhiều thập kỷ.

      “Chị biết, Piper.” Annabeth với vẻ lo lắng. “Chị nghĩ em muốn con dao này. Dùng kiếm tốt hơn nhiều.”

      “Chị sử dụng con dao mà.” Piper chỉ vào con dao gắn dưới thắt lưng Annabeth.

      “Ừm, nhưng...” Annabeth nhún vai. “Thôi, em cứ xem nếu em muốn.”

      Vỏ của con dao găm được bọc da đen, khảm đồng. có gì hấp dẫn, lôi cuốn. Tay cầm bằng gỗ sáng bóng vừa khít trong lòng bàn tay Piper. Khi rút nó ra khỏi vỏ, thấy đó là lưỡi dao hình tam giác dài bốn lăm xăng ti mét – bằng đồng sáng bóng cứ như mới được lau chùi vào hôm qua. Hai cạnh của nó khá sắc. Hình ảnh phản chiếu của chính mình lưỡi dao khiến ngạc nhiên. nhìn già hơn, đứng đắn hơn, và có cảm giác sợ hãi.

      “Nó rất hợp với em,” Annabeth thừa nhận. “Kiểu lưỡi đó được gọi là parazonium. Đây gần như là món đồ vật trang được những người chỉ huy hàng đầu trong các đội quân Hy Lạp mang bên mình. Nó chỉ cho mọi người thấy người sở hữu nó là người giàu có và quyền lực, nhưng trong trận chiến, nó có thể bảo hộ tốt chủ nhân của mình.”

      “Em thích nó,” Piper . “Sao chị lại nghĩ em nên dùng nó?”

      Annabeth thở ra. “Lưỡi dao đó là cả câu chuyện dài. Hầu hết mọi người đều sợ phải thừa nhận nó. Người chủ đầu tiên của nó... ừm, mọi việc đối với ta được tốt cho lắm. Tên ta là Helen.”

      Piper suy nghĩ cẩn thận những gì Annabeth . “Chờ chút, ý chị là cái Helen đó sao? Helen thành Troy?”

      Annabeth gật đầu.

      Đột nhiên Piper cảm giác như thể nên mang găng tay dùng trong phẫu thuật khi cầm con dao này. “Và nó có mặt trong phòng vũ khí của chị sao?”

      “Bọn chị có rất nhiều các vật dụng Hy Lạp cổ đại,” Annabeth . “Đây phải là viện bảo tàng. Các vũ khí giống như thế – chúng được tạo ra để được sử dụng. Chúng là tài sản thừa kế với tư cách là các á thần. Đó là món quà cưới của Menelaus, người chồng đầu tiên của Helen. ta đặt tên cho nó là Katoptris.”

      “Nghĩa là gì?”

      “Là gương,” Annabeth . “ cái gương soi. Chắc chắn là vì Helen sử dụng nó cho mục đích duy nhất đó. Chị nghĩ nó từng tham gia trận đánh nào.”

      Piper nhìn vào lưỡi dao lần nữa. Trong giây lát, hình ảnh chính nhìn chằm chằm vào , nhưng rồi hình ảnh phản chiếu thay đổi. nhìn thấy lửa, và khuôn mặt méo mó như thứ gì đó được khắc tầng đá nền. nghe được cùng giọng cười như trong giấc mơ. nhìn thấy cha mình bị xích cây trụ phía trước đống lửa cháy.

      thả con dao xuống.

      “Piper?” Annabeth gọi những đứa trẻ thuộc nhà thần Apollo ở trong sân quần vợt, “Medic! Chị cần giúp đỡ ở đằng này!”

      , em sao,” Piper khăng khăng.

      “Em

      “Ừm. Em chỉ...” phải làm chủ bản thân mình. Với những ngón tay run rẩy, nhặt con dao lên. “Em chỉ hơi choáng thôi. Quá nhiều việc xảy ra trong hôm nay. Nhưng... nếu được, em muốn giữ con dao này.”

      Annabeth chần chừ. Rồi vẫy tay ra hiệu cho những đứa trẻ nhà Apollo. “Được rồi, nếu em muốn. Mặt em trở nên tái xanh. Chị nghĩ em mắc chứng co giật hay gì đó.”

      “Em sao,” Piper cam đoan, mặc dầu trái tim vẫn đập mạnh. “Ở đây... ừm, có điện thoại ạ? Em có thể gọi cho cha em ?”

      Đôi mắt màu xám của Annabeth cũng đáng sợ gần như lưỡi dao vậy. ấy dường như suy tính triệu khả năng, cố đọc các ý nghĩ của Piper.

      “Chúng ta được phép dùng điện thoại,” . “Với phần lớn các á thần, nếu chúng ta sử dụng điện thoại di động, việc đó giống như em gửi tín hiệu, cho các tên quái vật biết được chỗ của em. Nhưng... chị có cái.” ấy lấy nó ra khỏi túi. “Hồ như chống lại luật, nhưng nếu điều này có thể là bí mật của chúng ta ...”

      Piper cầm lấy nó với cảm kích, cố hết sức để hai tay run rẩy. rời khỏi nơi Annabeth đứng và quay mặt về phía khu vực chung.

      gọi vào đường dây riêng của cha , mặc dầu biết điều gì xảy ra. Thư thoại. cố gọi trong ba ngày, kể từ khi mơ giấc mơ đó. Trường học Hoang Dã chỉ cho phép gọi điện lần ngày, nhưng gọi vào mỗi đêm mà chẳng đâu đến đâu.

      miễn cưỡng bấm số khác. Thư ký riêng của cha trả lời ngay lập tức. “Văn phòng McLean nghe.”

      “Jane,” Piper nghiến răng . “Cha tôi đâu?”

      Jane im lặng trong lát, chắc chắn tự hỏi liệu ta có thể cúp máy . “Piper, tôi nghĩ được phép gọi điện từ trường chứ.”

      “Ừm, có thể tôi ở trường đây,” Piper . “Có thể tôi bỏ trốn để sống giữa các sinh vật sống trong rừng.”

      “Ừm.” Giọng Jane nghe chẳng mấy quan tâm. “Tốt, tôi cho ông ấy gọi.”

      “Ông ấy đâu?”

      ra ngoài.”

      biết gì sao?” Piper hạ thấp giọng, hy vọng Annabeth đủ tử tế để nghe trộm. “Khi nào gọi điện cho cảnh sát hả Jane? Ông ấy có thể gặp rắc rối.”

      “Piper, chúng ta biến chuyện này thành đề tài khai thác béo bở của báo giới. Tôi chắc ông ấy vẫn ổn. Ông ấy thỉnh thoảng lại đâu đó. Ông ấy luôn quay trở lại.”

      “Vậy điều đó là đúng. biết...”

      “Tôi phải đây, Piper,” Jane cắt ngang lời . “Học hành vui vẻ nhé.”

      Đường dây bị cắt đứt. Piper thầm nguyền rủa. bước về lại chỗ Annabeth và đưa trả lại điện thoại cho ấy.

      gặp may sao?” Annabeth hỏi.

      Piper trả lời. tin chính mình lại bắt đầu khóc lần nữa.

      Annabeth liếc nhìn màn hình điện thoại và lưỡng lự. “Họ em là McLean sao? Xin lỗi, đó phải là việc của chị. Nhưng nó nghe rất quen.”

      cái họ thông dụng ấy mà.”

      “Ừm, chị cũng đoán thế. Cha em làm gì?”

      “Ông ấy có văn bằng về nghệ thuật,” Piper đáp cách vô thức. “Ông ấy là nghệ sĩ người Cherokke.”

      Đó là câu trả lời chuẩn của . phải là lời dối, chỉ hoàn toàn là mà thôi. Với phần lớn mọi người, khi nghe điều đó, họ thường đoán rằng cha bán các đồ lưu niệm của người da đỏ ở quầy bán hàng ven đường trong khu bảo tồn. Tượng Sitting Bull(3) lúc lắc đầu, các vòng cổ làm bằng vỏ sò, các cuốn vở tập viết Big Chief – những thứ đại loại như thế.

      “Ồ.” Annabeth trông bị thuyết phục lắm, nhưng ấy cất điện thoại . “Em cảm thấy ổn chứ? Muốn tiếp ?”

      Piper buộc chặt con dao vào dây thắt lưng và tự hứa rằng, sau này, khi ở mình, tìm hiểu cách sử dụng nó. “Có chứ,” . “ muốn xem tất cả.”

      Tất cả các ngôi nhà đều rất tuyệt, nhưng ngôi nhà nào trong số đó gây ấn tượng với Piper như nhà của . có dấu hiệu bị đốt cháy – gấu túi(4) hay những con thú khác – xuất phía đầu .

      Nhà số Tám hoàn toàn được làm bằng bạc và sáng lấp lánh như ánh trăng.

      “Nhà nữ thần Artemis?” Piper đoán.

      “Em biết về thần thoại Hy Lạp,” Annabeth .

      “Em đọc vài cuốn sách về thần thoại Hy Lạp khi cha em thực dự án vào năm ngoái.”

      “Chị nghĩ ông ấy làm các tác phẩm nghệ thuật về người Cherokke.”

      Piper kiềm chế để bật ra lời nguyền rủa. “Ồ, đúng thế. Nhưng... chị biết đấy, ông ấy cũng làm những món đồ khác nữa.”

      Piper nghĩ lộ ra: McLean, thần thoại Hy Lạp. May thay, Annabeth dường như kết nối những chuyện đó lại với nhau.

      “Dù sao nữa,” Annabeth tiếp tục , “nữ thần Artemis là nữ thần của mặt trăng, nữ thần của việc săn bắn. Nhưng có các trại viên. Nữ thần Artemis là thiếu nữ bất tử, vì thế bà có bất cứ người con nào.”

      “Ồ.” Điều đó làm Piper khá thất vọng. luôn thích những câu chuyện về nữ thần Artemis, và đoán bà người mẹ tốt.

      “À, đó là nhóm Thợ Săn của nữ thần Artemis,” Annabeth bổ sung. “Thỉnh thoảng họ lại ghé thăm. Họ phải là con của nữ thần Artemis, nhưng họ là những người hầu của bà – đó là nhóm những thiếu nữ cùng nhau thực các cuộc phiêu lưu, săn đuổi các con quái vật, và những thứ như thế.”

      Piper cảm thấy vui vẻ hơn. “Điều đó tuyệt. Họ được trở nên bất tử sao?”

      “Trừ phi họ chết khi chiến đấu, hoặc phá vỡ lời thề của mình. Chị kể cho em nghe về việc họ phải từ bỏ các chàng trai chưa nhỉ? hẹn hò – mãi mãi. Vì bất tử đó.”

      “Ồ,” Piper . “ sao hết.”

      Annabeth cười lớTrong giây lát, ấy trông hạnh phúc, và Piper nghĩ rằng người bạn tuyệt vời để chơi cùng vào những thời điểm khác.

      Quên chuyện đó , Piper tự nhắc nhở chính mình. Mày kết bạn với bất cứ ai ở đây. vì rồi họ cũng phát ra.

      Họ qua căn nhà kế bên, số Mười, được trang trí như nhà của búp bê Barbie với màn cửa bằng ren, cửa ra vào màu hồng và những chậu hoa cẩm chướng được bày các ô cửa sổ. Họ ngang cửa ra vào, và mùi nước hoa gần như khiến Piper nôn khan.

      “Gừ, đó có phải là nơi các siêu mẫu chết ?”

      Annabeth cười điệu. “Đó là nhà của nữ thần Aphrodite. Nữ thần tình . Drew là người đứng đầu.”

      “Em có thể đoán được,” Piper lầm bầm.

      hẳn tất cả họ đều xấu,” Annabeth . “Người đứng đầu tiền nhiệm là người tuyệt.”

      “Thế chuyện gì xảy ra với ấy?”

      Khuôn mặt Annabeth chợt tối sầm lại. “Chúng ta nên tiếp.”

      Họ nhìn vào các nhà khác, nhưng Piper chỉ ngày càng buồn rầu hơn. tự hỏi liệu mình có thể là con của nữ thần mùa màng Demeter . Nhưng rồi chợt nhớ ra giết chết bất cứ cái cây nào mà chạm vào. Nữ thần Athena cũng tốt. Hoặc có thể là nữ thần phép thuật, Hecate. Nhưng điều đó thực quan trọng. Ngay cả ở đây, nơi đáng ra mọi người có thể tìm thấy cha mẹ thất lạc của mình, biết mình vẫn đứa trẻ được mong muốn. chẳng trông mong gì đến lửa trại tối nay.

      “Chúng ta bắt đầu với mười hai vị thần đỉnh Olympus,” Annabeth giải thích. “Các nam thần ở bên trái, các nữ thần ở bên phải. Rồi cho đến năm ngoái, chúng ta thêm vào cụm nhà mới dành cho các vị thần khác, những người có ngai đỉnh Olympus như nữ thần Hecate, thần Hades, nữ thần Iris...”

      “Hai ngôi nhà lớn ở mỗi đầu thuộc về ai?” Piper hỏi.

      Annabeth cau mày. “Thần Zeus và nữ thần Hera. Vua và nữ hoàng của các vị thần.”

      Piper thẳng về phía đó, và Annabeth bước theo sau, mặc dầu ấy chẳng lấy làm vui vẻ chút nào. Nhà của thần Zeus gợi cho Piper nhớ về ngân hàng. Đó là tòa nhà bằng đá hoa cương trắng với những chiếc cột lớn ở phía trước và những cánh cửa bằng đồng sáng bóng với những hoa văn hình tia chớp.

      Nhà của nữ thần Hera hơn nhưng cũng cùng kiểu, ngoại trừ những cánh cửa được khắc với những thiết kế hình lông công, tỏa ra các màu sắc khác nhau.

      giống những ngôi nhà khác, ồn ào, luôn mở rộng cửa và có rất nhiều các hoạt động, nhà của thần Zeus và nữ thần Hera trông im lìm và khép kín.

      “Chúng có ai ở sao?” Piper hỏi.

      Annabeth gật đầu. “Thần Zeus có thêm bất kỳ đứa con nào trong thời gian dài. Ừm, gần như là . Thần Zeus, thần Poseidon, và thần Hades là những người lớn nhất trong số các thần – họ được gọi là Bộ Tam Vĩ Đại. Những đứa con của họ rất mạnh, cực kỳ nguy hiểm. Trong vòng khoảng bảy mươi năm trước, họ cố tránh có thêm bất cứ đứa con á thần nào.”

      cố tránh là sao?”

      “Đôi khi họ... ừm, ngoại tình. Chị có người bạn, Thalia Grace, là con của thần Zeus. Nhưng ấy từ bỏ cuộc sống ở trại và trở thành Thợ Săn của nữ thần Artemis. Bạn trai của chị, Percy, cậu ấy là con trai thần Poseidon. Và có cậu bé thỉnh thoảng lại xuất , Nico – con trai của thần Hades. Ngoài họ, chẳng có thêm đứa trẻ á thần nào là con của Bộ Tam Vĩ Đại. Chí ít, đó là những gì mà chúng ta biết được.”

      “Còn nữ thần Hera?” Piper nhìn các cánh cửa được trang trí bằng lông công. Ngôi nhà đó khiến bận tâm, mặc dầu chắc lý do tại sao.

      “Nữ thần của hôn nhân.” Tông giọng của Annabeth cực kỳ kiềm chế, như thể ấy cố tránh việc nguyền rủa. “Bà ấy có con với bất cứ ai trừ thần Zeus. Vì vậy, ừm, nên chẳng có á thần nào. Ngôi nhà đó được dựng lên chỉ để vinh danh bà ấy.”

      “Chị thích bà ấy,” Piper nhận ra.

      “Bọn chị có cả câu chuyện dài,” Annabeth thừa nhận. “Chị nghĩ bọn chị hòa thuận với nhau, nhưng khi Percy biến mất... Chị có cảnh mộng kỳ lạ về chuyện đó từ bà ấy.”

      “Bảo chị đến đón bọn em sao,” Piper . “Nhưng chị nghĩ Percy ở đó.”

      “Tốt hơn hết là chị v,” Annabeth . “Giờ chị chẳng có điều gì tốt để về nữ thần Hera.”

      Piper nhìn xuống bệ cửa. “Vậy ai ở trong này?”

      ai cả. Ngôi nhà này được dựng lên chỉ để vinh danh bà ấy, như chị . có ai vào đây cả.”

      “Có ai đó vào.” Piper chỉ về phía dấu chân ngưỡng cửa phủ đầy bụi. Theo bản năng, đẩy các cánh cửa và chúng nhàng mở ra.

      Annabeth bước lùi lại. “Ừm, Piper, chị nghĩ chúng ta nên...”

      “Chúng ta được cho là làm điều gì đó khá nguy hiểm, đúng ?” Và Piper bước vào bên trong.

      Nhà của nữ thần Hera phải là nơi Piper muốn ngụ lại. Nó lạnh lẽo như cái tủ đông, với vòng tròn những cột trắng bao quanh bức tượng của nữ thần ở chính giữa, cao ba mét, ngồi ngai với bộ áo vàng mềm mại. Piper luôn nghĩ rằng những bức tượng Hy Lạp luôn có màu trắng với đôi mắt vô hồn, nhưng bức tượng này được tô vẽ rực rỡ vì thế nó trông gần giống với con người – ngoại trừ việc nó quá lớn. Đôi mắt sắc lẻm của nữ thần Hera dường như dõi theo Piper.

      Ở dưới chân bức tượng, ngọn lửa được đốt trong lò than bằng đồng. Piper tự hỏi ai trông nom nó nếu ngôi nhà luôn có người. con chim ưng bằng đá đậu vai nữ thần Hera, và trong tay bà ấy là cây quyền trượng với đỉnh đầu là bông hoa sen. Mái tóc đen mượt của nữ thần được tết đơn giản phía sau. Khuôn mặt bà ấy mang ý cười nhưng đôi mắt lạnh lẽo và tàn nhẫn, như thể bà ấy : Mẹ là người biết nhất. Giờ đừng có mà chống đối lại ta nếu ta đạp lên ngươi đấy.

      Chẳng có gì ở trong nhà – giường, đồ đạc, phòng tắm, cửa sổ, chẳng có gì dành cho bất cứ người nào thực có thể sử dụng để trú ngụ. Với nữ thần gia đình và hôn nhân, nơi ở của nữ thần Hera gợi cho Piper nhớ đến hầm mộ.

      , đây phải là nhà của mẹ . Ít nhất Piper chắc chắn về điều đó. vào đây vì cảm thấy gắn kết tuyệt đối, nhưng vì cảm thấy nỗi khiếp sợ mạnh mẽ ở trong này. Giấc mơ của – tối hậu thư khủng khiếp mà có trong tay đó – có liên quan đến ngôi nhà này.

      cứng người lại. chỉ có mình họ trong này. Đằng sau bức tượng, ở bệ thờ phía sau, là nhân ảnh được che phủ trong khăn choàng màu đen. Chỉ có hai bàn tay của người đó hiển , lòng bàn tay đưa lên cao. ta dường như ngâm nga điều gì đó như câu thần chú hay lời nguyện cầu.

      Annabeth há hốc miệng vì kinh ngạc. “Rachel?”

      đó quay người lại. Chiếc khăn choàng rơi xuống, để lộ mái tóc bờm màu đỏ quăn và khuôn mặt đầy tàn nhang chẳng ăn nhập gì với trang trọng của căn nhà hay khăn choàng màu đen. ta trông khoảng mười bảy tuổi, hoàn toàn là thiếu nữ bình thường với áo cánh màu xanh lục và chiếc quần jeans xé rách với những hình vẽ nguệch ngoạc đó. Bất chấp sàn nhà lạnh lẽo, ta chân trần.

      “Chào!” ta chạy đến và ôm chặt lấy Annabeth. “Tớ xin lỗi! Tớ đến nhanh nhất có thể.”

      Họ trò chuyện trong vài phút về người bạn trai của Annabeth và lý do tại sao chẳng có lấy tin tức nào, vâng vâng, cho đến khi cuối cùng Annabeth cũng nhớ tới Piper, người đứng đó lấy gì thoải mái cho lắm.

      “Chị bất lịch ,” Annabeth xin lỗi. “Rachel, đây là Piper, trong số các á thần mà chúng ta cứu hôm nay. Piper, đây là Rachel Elizabeth Dare, nhà tiên tri của chúng ta.”

      “Là người bạn sống trong cái hang của chị,” Piper đoán.

      Rachel cười toe toét. “Đúng là chị.”

      “Vậy chị là nhà tiên tri sao?” Piper hỏi. “Chị có thể về tương lai?”

      “Giống như là tương lai cướp lấy chị hết lần này đến lần khác phải,” Rachel . “Chị những lời tiên tri. Linh hồn của nhà tiên tri thường chiếm đoạt con người chị trong lúc và những điều quan trọng mà chẳng có ý nghĩa gì với bất cứ ai. Nhưng đúng thế, những lời tiên tri thường về tương lai.”

      “Ồ.” Piper chuyển từ chân này sang chân kia. “Điều đó tuyệt.”

      Rachel cười lớn. “Đừng lo lắng. Mọi người đều thấy nó khiến họ rùng mình sởn gáy. Ngay cả chị cũng vậy. Nhưng thường chị vô hại.”

      “Chị là á thần sao?”

      ,” Rachel . “Chỉ là người thường thôi.”



      Nụ cười môi Rachel tắt dần. liếc nhìn Annabeth, rồi lại nhìn Piper. “Chỉ là linh cảm mà thôi. Có điều gì đó về ngôi nhà này và biến mất của Percy. Bằng cách nào đó chúng kết nối với nhau. Chị chỉ làm theo linh tính của mình, đặc biệt là tháng trước, kể từ khi các vị thần đột nhiên im lặng.”

      “Đột nhiên im lặng?” Piper hỏi.

      Rachel cau mày nhìn Annabeth. “Cậu chưa kể cho bé nghe chuyện đó sao?”

      “Tớ chuẩn bị kể chuyện đó,” Annabeth . “Piper, trong tháng qua... ừm, thường các vị thần chuyện nhiều lắm với con cái họ, nhưng chúng ta có thể thường dựa vào vài thông điệp. vài người trong số chúng ta thậm chí còn có thể ghé thăm đỉnh Olympus. Chị gần như có mặt suốt cả học kỳ ở Tòa nhà Empire State.”

      “Xin lỗi?”

      “Lối vào đỉnh Olympus ngày nay.”

      “Ồ,” Piper . “Chắc thế. Tại sao ?”

      “Annabeth tái thiết kế lại đỉnh Olympus sau khi nó bị phá hủy trong Cuộc chiến với các thần Titan,” Rachel giải thích. “ ấy là kiến trúc sư tuyệt vời. Em nên nhìn thấy quầy phục vụ món salad...”

      “Dù sao nữa,” Annabeth , “bắt đầu từ cách đây tháng, đỉnh Olympus trở nên tĩnh lặng. Lối vào bị đóng lại, ai có thể vào. ai biết lý do tại sao. Như thể các vị thần tự phong bế chính họ. Ngay cả mẹ của chị cũng đáp lại những lời cầu nguyện của chị, và giám đốc trại của chúng ta, thần Dionysus, bị triệu hồi.”

      “Giám đốc trại của chị là thần... rượu nho sao?”

      “Đúng thế, nó là...”

      câu chuyện dài,” Piper đoán. “Đúng rồi. Chị tiếp .”

      “Điều đó là đấy,” Annabeth . “Các á thần vẫn được thừa nhận, nhưng chỉ vậy thôi. có lấy lời nhắn. có những chuyến viếng thăm. có bất cứ dấu hiệu nào chứng tỏ các thần lắng nghe. Như thể có điều gì đó xảy ra – điều gì đó tồi tệ. Rồi Percy biến mất.”

      “Và Jason xuất trong chuyến thực tế của bọn em,” Piper bổ sung. “ chút ký ức nào.”

      “Ai là Jason?” Rachel hỏi.

      “Là...” Piper ngừng lại trước khi có thể “bạn trai,” nhưng nỗ lực đó khiến ngực đau nhói. “Bạn của em. Nhưng chị Annabeth, chị chẳng phải nữ thần Hera gởi cho chị cảnh mộng.”

      “Đúng thế,” Annabeth . “Giao thiệp đầu tiên từ vị thần trong tháng là nữ thần Hera, vị nữ thần ít giúp đỡ nhất, và bà ấy liên lạc với chị, á thần mà bà ấy chẳng thích mấy. Bà ấy rằng chị khám phá ra được chuyện gì xảy ra với Percy nếu chị đến cầu kính ở Grand Canyon và tìm chàng trai chỉ mang duy nhất chiếc giày. Thay vào đó, chị tìm thấy bọn em, và chàng với chiếc giày là Jason. Việc đó chẳng có ý nghĩa gì cả.”

      “Có chuyện gì tồi tệ diễn ra,” Rachel đồng ý. nhìn Piper, và Piper cảm thấy khát khao dồn dập muốn cho họ nghe về giấc mơ của mình, thú nhận rằng biết điều gì xảy ra – ít nhất là phần của câu chuyện. Và điều tồi tệ đó chỉ mới là màn khởi đầu.

      “Các chị ơi,” . “Em... em cần...”

      Trước khi có thể tiếp tục, cơ thể Rachel căng cứng. Đôi mắt ấy bắt đầu phát ra ánh sáng màu xanh lục nhạt, và ấy nắm chặt lấy vai Piper.

      Piper cố lùi lại, nhưng đôi tay của Rachel cứng như thép.

      Hãy giải thoát ta, ấy . Nhưng đó phải là giọng của Rachel. Nó nghe như của người phụ nữ lớn tuổi hơn, phát ra từ nơi xa xôi nào đó, bên dưới chiếc ống dài, vang vọng. Hãy giải thoát cho ta, Piper McLean, nếu mặt đất nuốt chửng chúng ta mất. Việc đó phải được thực vào điểm chí.

      Căn phòng bắt đầu quay tròn. Annabeth cố tách Piper ra khỏi Rachel, nhưng chẳng ích gì. làn khói xanh lục bao quanh họ, và Piper còn chắc liệu mình tỉnh hay mơ. Bức tượng nữ thần khổng lồ dường như đứng lên khỏi chiếc ngai của mình. Nó nghiêng người về phía Piper, đôi mắt như nhìn xuyên qua người . Miệng bức tượng mở ra, hơi thở có mùi nước hoa nồng nặc. Cũng vẫn là cái giọng vang vọng đó: Các kẻ thù của chúng ta chuyển mình. Tên thở ra lửa đó chỉ là khởi đầu. Khuất phục trước nguyện vọng của ta, và vị vua của chúng nổi dy, kết án tất cả chúng ta. HÃY GIẢI THOÁT CHO TA!

      Hai đầu gối của Piper oằn xuống, và mọi thứ trở nên tối đen.

    5. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      5. LEO


      Chuyến tham quan của Leo tuyệt cho đến khi cậu biết về con rồng.

      bạn bắn cung, Will Solace, có vẻ như khá ngầu. Mọi thứ cậu ta chỉ cho Leo đều đáng kinh ngạc, và lẽ ra là bất hợp pháp. Những chiếc tàu chiến Hy Lạp đậu ở bãi biển đôi lúc được dùng cho việc tập trận với những mũi tên lửa và thuốc nổ ấy à? thú vị! Khu vực thủ công & nghệ thuật, nơi bạn có thể tạo ra các tác phẩm điêu khắc bằng các loại cưa xích và đèn hàn ư? Leo giống như thể, Hãy điền tên tớ vào! Các cánh rừng cất giữ đủ loại quái vật nguy hiểm, và ai được phép vào trong đó mình? Tuyệt! Và trại có rất nhiều các xinh đẹp.

      Leo hiểu nhiều về những chuyện liên-quan-đến-các-vị-thần, nhưng cậu hy vọng rằng điều đó có nghĩa cậu là /em họ với những quý xinh đẹp đó. Điều đó tệ. Chí ít, cậu muốn kiểm tra những dưới nước trong hồ lần nữa. Họ cũng đáng để phải chết đuối đấy chứ.

      Will chỉ cho cậu các ngôi nhà, sảnh ăn, và trường đấu kiếm.

      “Liệu tớ có được nhận thanh kiếm ?” Leo hỏi.

      Will liếc nhìn cậu như thể cậu ta nhận thấy ý tưởng đó phiền não. “Cậu chắc chắn tự tạo lấy cho mình, nếu cậu thuộc về Nhà số Chín.”

      “Ừm, thế có gì liên quan chứ? Thần Vulcan sao?”

      “Thường bọn tớ gọi các vị thần theo tên La Mã,” Will . “Các tên gốc được bắt đầu bằng tiếng Hy Lạp. Cha của cậu là thần Hephaestus.”

      “Festus?” Leo từng nghe ai đó về cái tên đó trước đây, nhưng cậu vẫn bất an. “Nghe như là vị thần của các chàng cao bồi vậy.”

      “He-phaestus,” Will chỉnh lại. “Thần của các thợ rèn và lửa.”

      cũng từng nghe điều đó, nhưng cậu cố nghĩ về nó. Thần của lửa... đùa chứ? Xét đến những gì xảy ra với mẹ cậu, điều đó dường như là trò đùa rẻ tiền.

      “Vậy hình ảnh chiếc búa lửa phía đầu tớ,” Leo . “Điều tốt, hay điều xấu?”

      Will ngừng lát rồi mới trả lời. “Cậu được thừa nhận gần như ngay lập tức. Thường đó là điều tốt.”

      “Nhưng chàng Rainbow Pony đó, Butch ấy – ta nhắc đến lời nguyền.”

      “À... nghe này, phải vậy đâu. Vì từ khi người đứng đầu Nhà số Chín chết ...”

      “Chết ư? Như thế nào, có đau đớn lắm ?”

      “Tớ nên để những người bạn cùng phòng cho cậu biết điều đó.”

      “Ừm, vậy những người bạn trong nhà tớ đâu? Chẳng phải người đứng đầu của họ nên đưa tớ tham quan sao?”

      “Cậu ấy, ừm, thể. Cậu biết tại sao.” Will tiến về phía trước trước khi Leo có thể hỏi thêm bất cứ điều gì.

      “Các lời nguyền và cái chết,” Leo tự với chính mình. “Mọi việc ngày càng trở nên tuyệt hơn bao giờ hết.”

      Cậu băng qua nửa bãi cỏ nhận ra người trông trẻ lúc xưa của mình. Và bà ấy phải là kiểu người cậu mong chờ nhìn thấy ở trại á thần.

      Leo đứng khựng lại.

      “Có chuyện gì thế?” Will hỏi.

      Dì Callida. Bà tự gọi mình như thế, nhưng Leo gặp bà kể từ hồi cậu nhà trẻ. Bà ấy chỉ đứng đó, trong bóng râm của ngôi nhà lớn màu trắng ở phía cuối bãi cỏ, nhìn về phía cậu. Bà mặc chiếc áo đầm bằng vải linen màu đen dành cho các góa phụ, với tấm khăn choàng đen phủ hết cả mái tóc. Khuôn mặt bà thay đổi – làn da nhăn nheo, đôi mắt đen đầy xoi mói. Đôi bàn tay teo tóp của bà trông như những cái móng vuốt. Bà trông già , nhưng khác biệt nhiều lắm so với những gì Leo nhớ được.

      “Người phụ nữ lớn tuổi đó...” Leo . “Bà ta làm gì ở đây thế?”

      Will cố nhìn theo ánh mắt của ậu. “Người phụ nữ lớn tuổi nào?”

      bạn, người phụ nữ lớn tuổi. Người trong bộ đồ đen ấy. Có bao nhiêu người phụ nữ lớn tuổi cậu nhìn thấy ở quanh đây?”

      Will cau mày. “Tớ nghĩ cậu ngày dài, Leo. Màn Sương Mù có thể vẫn đánh lừa trí óc cậu. Chúng ta thẳng đến nhà của cậu ngay bây giờ nhé?”

      Leo muốn phản đối, nhưng khi cậu nhìn lại về phía ngôi nhà lớn màu trắng đó, Dì Callida biến mất. Cậu chắc bà ấy ở đó, cứ như thể cậu nghĩ về việc mẹ cậu mời Callida đến trong quá khứ.

      Và điều đó chẳng tốt tí nào, vì Dì Callida cố giết cậu.

      “Chỉ làm rối cậu chút thôi, bạn.” Leo lấy vài dụng cụ và đòn bẩy từ mấy cái túi ra và bắt đầu nghịch vớ vẩn với chúng để trấn tĩnh các dây thần kinh của mình. Cậu thể để cho mọi người ở trại nghĩ rằng cậu bị điên. Ít nhất, điên hơn con người của cậu.

      “Hãy đến Nhà số Chín nào,” cậu . “Tớ sẵn sàng cho lời nguyền tốt.”

      ***


      Nhìn từ bên ngoài, nhà của thần Hephaestus trông giống chiếc RV ngoại cỡ với các bức tường kim loại bóng loáng và những ô cửa sổ giát bằng kim loại. Lối vào giống hệt cửa kho tiền ngân hàng, hình tròn và dày khoảng vài phân. Nó được mở ra với vô số bánh răng bằng đồng quay và các pit-tông hơi nước nhả ra khói.

      Leo huýt sáo. “Họ có cỗ máy thuộc thập niên bảy mươi hoạt động, hử?”

      Bên trong, căn nhà có vẻ như có người ở. Giường ngủ bằng thép được gập sát vào tường như những chiếc giường Murphy công nghệ cao. mỗi giường có bảng điều khiển số, đèn LED nhấp nháy, những viên đá quý sáng lấp lánh, và những bánh răng cài vào nhau. Leo đoán mỗi trại viên có khóa số riêng để mở giường, và chắc chắn có hốc tường đằng sau đó để làm kho, hoặc có thể là vài cái bẫy để ngăn những vị khách mong muốn. Ít nhất, đó là cách Leo thiết kế nó. cột cứu hỏa chĩa xuống từ tầng hai, mặc dầu căn nhà dường như chẳng có lấy tầng thứ hai nếu nhìn từ bên ngoài. cầu thang hình tròn dẫn xuống nơi tựa như tầng hầm. các vách tường chứa đủ các loại công cụ mà Leo có thể tưởng tượng ra, cùng với bộ sưu tập khổng lồ đủ các loại dao, kiếm, và các phương tiện phá hủy khác. bàn làm việc lớn chứa đầy các m kim loại – nào là đinh vít, bu-lông, rông-đen, đinh, đinh tán, và hàng triệu bộ phận máy móc khác. Leo có ước muốn mạnh mẽ là dọn sạch chúng vào trong các túi áo khoác của mình. Cậu thích những thứ như thế. Nhưng cậu cần có thêm trăm chiếc áo khoác nữa để chứa hết tất cả những thứ đó.

      Nhìn quanh nhà, cậu có thể gần như tưởng tượng ra cậu quay trở lại xưởng máy của mẹ cậu. có vũ khí, có lẽ thế – nhưng công cụ, các đống phế liệu, mùi dầu mỡ và kim loại cùng những động cơ hoạt động. Bà thích nơi này.

      Cậu nhanh chóng thoát khỏi ý nghĩ đó. Cậu thích những ký ức đau buồn. Tiếp tục tiến lên nào... đó là phương châm của cậu. chăm chú vào điều gì. nơi quá lâu. Đó là cách duy nhất để thoát khỏi buồn bã.

      Cậu nhấc dụng cụ dài tường. “ dụng cụ cắt cỏ ư? Thần lửa muốn làm gì với dụng cụ cắt cỏ nhỉ?”

      giọng vang lên từ trong bóng tối, “Cậu ngạc nhiên cho xem.”

      Từ phía sau căn phòng, trong những chiếc giường được sử dụng. tấm màn với chất liệu vải ngụy trang màu đen được kéo lùi lại, và Leo có thể nhìn thấy cậu trai, người vừa mới tàng hình giây trước đây. khó để nhiều về cậu ta vì toàn bộ cơ thể cậu ta bị phủ kín băng chỉnh hình. Đầu cậu ta được quấn gạc chỉ chừa ra khuôn mặt sưng húp và thâm tím. Cậu ta trông như chàng Pillsbury Dough Boy(5) sau khi bị đánh.

      “Tớ là Jake Mason,” cậu chàng . “Tớ bắt tay cậu, nhưng...”

      “Ừm,” Leo . “Đừng ngồi dậy.”

      chàng đó nở nụ cười, rồi cau mày lại như thể chỉ chuyển động mặt thôi cũng đủ làm cho cậu ta đau đớn. Leo tự hỏi chuyện gì xảy ra với cậu ta, nhưng cậu ngại phải hỏi điều đó.

      “Chào mừng cậu đến Nhà số Chín,” Jake . “ gần năm kể từ khi chúng ta có đứa trẻ mới. Vào thời điểm này tớ là người đứng đầu.”

      “Chỉ trong thời điểm này thôi sao?” Leo hỏi.

      Will Solace hắng giọng. “Vậy mọi người đâu rồi, Jake?”

      ở các xưởng rèn,” Jake đầy tiếc nuối. “Họ làm việc... cậu biết đó, vấn đề đó.”

      “Ồ.” Will thay đổi chủ đề. “Vậy, cậu có chiếc giường trống dành cho Leo chứ?”

      Jake xem xét Leo cẩn thận, đánh giá cậu. “Cậu tin vào các lời nguyền , Leo? Hay những hồn ma?”

      Tôi vừa mới nhìn thấy người trông trẻ tà ác Dì Callida của mình, Leo nghĩ. Bà ấy ắt hẳn phải chết sau từng ấy năm. Và tôi thể trải qua ngày mà nhớ đến mẹ tôi trong xưởng máy bị cháy đó. Đừng với tôi về những con ma, chàng bột nhào kia.

      Nhưng ngoài miệng, cậu , “Ma ư? À. Ừ. Tớ ổn thôi. tên tinh linh bão thả tớ xuống Grand Canyon vào sáng nay, nhưng cậu biết đấy, đó chỉ là chuyện thông thường vẫn làm hằng ngày thôi, đúng ?”

      Jake gật đầu. “Điều đó tốt. Vì tớ cho cậu chiếc giường tốt nhất trong nhà – giường của Beckendorf.”

      “Ối, Jake,” Will . “Cậu chắc chứ?”

      Jake gọi lớn tiếng. “Giường I-A, làm ơn.”

      Cả ngôi nhà rung lên bần bật. khu vực hình tròn sàn nhà di chuyển theo đường xoắn ốc mở ra như thấu kính máy ảnh, và chiếc giường lớn xuất . Khung giường bằng đồng và có máy chơi game ở cuối chân giường, hệ thống thanh stereo phía đầu, tủ lạnh có cửa kính được gắn chặt vào phần đáy và loạt các bảng điều khiển chạy dọc theo hai bên.

      Leo nhảy ngay vào và nằm xuống giường, hai tay kê đằng sau đầu. “Tớ có thể đối phó với nó.”

      “Nó dẫn đến căn phòng riêng tư ở bên dưới,” Jake .

      “Ồ, chết tiệt, đúng vậy,” Leo . “Gặp các cậu sau. Tớ xuống Hang Leo. Tớ phải bấm vào nút nào đây?”

      “Chờ ,” Will Solace phản đối. “Các cậu có phòng cá nhân ngầm sao?”

      Jake chắc chắn mỉm cười nếu việc đó khiến cậu ta đau như thế. “Bọn tớ có rất nhiều bí mật, Will à. Các chàng nhà thần Apollo như cậu chẳng có gì vui vẻ cả. Các trại viên nhà bọn tớ đào hệ thống đường hầm bên dưới Nhà số Chín được gần cả thế kỷ. Bọn tớ vẫn chưa tìm thấy điểm cuối. Dù sao nữa, Leo, nếu cậu phiền ngủ chiếc giường của người chết, nó là của cậu.

      Đột nhiên Leo chẳng còn cảm giác gì gọi là thư giãn nữa. Cậu ngồi dậy, cẩn thận để chạm vào bất cứ cái nút nào. “Người đứng đầu chết ấy – đây là giường của ấy sao?”

      “Ừ,” Jake . “ Charles Beckendorf.”

      Leo tưởng tượng các lưỡi cưa xuất bên dưới tấm nệm, hoặc có thể trái lựu đạn được khâu vào bên trong những chiếc gối. “ ấy chết chiếc giường này, đúng ?”

      ,” Jake . “ ấy mất trong Cuộc chiến với các thần Titan, vào mùa hè năm ngoái.”

      “Cuộc chiến với các thần Titan,” Leo nhắc lại, “điều đó chẳng liên quan gì với chiếc giường tuyệt vời này phải ?”

      “Các thần Titan,” Will , như thể Leo là thằng ngốc. “Là những người to lớn đầy sức mạnh thống trị thế giới trước cả các vị thần. Họ cố quay trở lại vào mùa hè năm ngoái. Người đứng đầu của họ, Kronos, xây lâu đài mới đỉnh Núi Tam ở California. Các đội quân của họ tiến đến New York và gần như hủy diệt đỉnh Olympus. Có rất nhiều á thần chết khi cố ngăn cản họ.”

      “Tớ đoán điều đó được đề cập đến trong các bản tin phải ?” Leo .

      Nghe có vẻ đó là câu hỏi hợp lý, nhưng Will lắc đầu với vẻ hoài nghi. “Cậu nghe gì về vụ núi St. Helens phun trào, hay về những cơn bão kỳ lạ khắp đất nước, hoặc tòa nhà đó sụp đổ đỉnh núi St. Louis ư?”

      Leo nhún vai. Mùa hè năm ngoái, cậu phải chạy trốn khỏi nhà nuôi dưỡng khác. Rồi nhân viên truy bắt học sinh trốn học tóm cổ được cậu ở New Mexico, và tòa án tuyên án cậu đến nơi chịu hình phạt gần nhất – Trường học Hoang Dã. “Chắc tớ bận rộn gì đó.”

      “Chẳng sao cả,” Jake . “Cậu may mắn vì bỏ lỡ chuyện đó. Vấn đề là, Beckendorf là trong số các nạn nhân đầu tiên, và rồi kể từ đó...”

      “Nhà của cậu bị nguyền rủa,” Leo đoán.

      Jake trả lời. Nhưng rồi, chàng với cơ thể quấn toàn băng chỉnh hình là câu trả lời hoàn hảo. Leo bắt đầu nhận ra những điều nhặt m nhìn thấy trước đây – dấu vết của vụ nổ tường, vệt bẩn sàn nhà có thể là dầu... hoặc máu. Những thanh kiếm gãy và những chiếc máy bị đập vỡ được đá vào trong các góc phòng, có thể vì lý do thất bại. Nơi này mang lại cảm giác may mắn.

      Jake miễn cưỡng thở ra. “Ừm, tớ nên ngủ thêm chút nữa. Tớ hy vọng cậu thích nơi này, Leo. Nó từng là nơi... tuyệt trước đây.”

      Cậu ta nhắm mắt lại, và chiếc màn ngụy trang được thả xuống dọc chiếc giường.

      thôi, Leo,” Will . “Tớ đưa cậu đến xưởng rèn.”

      Khi họ rời , Leo quay đầu nhìn lại chiếc giường mới của mình, và cậu gần như có thể hình dung ra hình ảnh người đứng đầu ngôi nhà chết đứng đó – con ma khác, người chẳng để Leo được yên.





      6. LEO


      ấy chết như thế nào?” Leo hỏi. “Ý tớ là Beckendorf ấy.”

      Will Solace chầm chậm phía trước. “Bị nổ. Beckendorf và Percy Jackson làm nổ tung con tàu đầy quái vật. Beckendorf kịp ra khỏi đó.”

      Cái tên đó lại được nhắc đến lần nữa – Percy Jackson, người bạn trai bị mất tích của Annabeth. chàng đó ắt hẳn rất được mọi người ở đây thích, Leo nghĩ.

      “Vậy Beckendorf khá nổi tiếng ở đây đúng ?” Leo hỏi. “Ý tớ là – trước khi ấy bị nổ tung?”

      ấy rất tuyệt,” Will đồng ý. “ khó khăn cho toàn bộ trại khi ấy mất. Jake trở thành người đứng đầu vào thời điểm giữa cuộc chiến. Thực tế là cùng lúc với tớ. Jake làm những gì tốt nhất, nhưng cậu ấy bao giờ muốn trở thành người lãnh đạo. Cậu ấy chỉ thích xây dựng. Nhưng rồi sau khi cuộc chiến kết thúc, mọi việc trở nên xấu . Những chiếc xe ngựa đua của Nhà số Chín bị nổ tung. Những người máy của họ bị chập mạch. Các phát minh luôn gặp cố. Giống như bị nguyền rủa vậy, cuối cùng mọi người bắt đầu gọi đó là Lời nguyền Nhà số Chín. Rồi Jake gặp tai nạn...”

      “Điều đó có liên quan đến rắc rối mà cậu ấy nhắc đến,” Leo đoán.

      “Chúng liên quan đến nhau,” Will với vẻ chẳng nhiệt tình tí nào. “Và chúng ta đến nơi cần đến.”

      Xưởng rèn trông giống đầu máy xe lửa hơi nước đâm sầm vào đền Parthenon(6) của người Hy Lạp và hòa vào nhau. Các cột đá cẩm thạch trắng chống đỡ các bức tường phủ bồ hóng. Các ống khói nhả khói ra phía đầu hồi tinh vi được chạm khắc rất nhiều hình các vị thần và quái vật. Công trình nằm ở rìa con suối, với vài bánh xe nước quay chuỗi các bánh răng bằng đồng. Leo nghe được tiếng kêu ken két của máy móc bên trong, tiếng gầm của lửa, và tiếng đập của búa lên những chiếc đe.

      Họ bước qua cửa vào, và tá các cậu trai và , những người tập trung làm các dự án khác nhau, đều đông cứng người lại. Mọi thanh đều biến mất chỉ trừ tiếng gầm của bể rèn và tiếng lách cách-lách cách-lách cách của các bánh răng và đòn bẩy.

      “À, chào các cậu,” Will . “Đây là người em mới của các cậu, Leo – ừm, họ của cậu là gì nhỉ?”

      “Valdez.” Leo nhìn quanh các trại viên khác. Liệu cậu có có quan hệ với họ ? Những người em họ của cậu đều đến từ vài gia đình lớn, nhưng cậu luôn chỉ có mỗi mình mẹ ở bên – cho đến khi bà ấy mất.

      Những đứa trẻ tiến đến bắt tay, giới thiệu về bản thân. Những cái tên của họ mờ nhạt giống nhau: Shane, Christopher, Nyssa, Harley (ừm, giống tên loại xe mô tô). Leo biết cậu chẳng bao giờ phân biệt được mọi người. Có quá nhiều người. nhiều người.

      ai trong số họ giống nhau – tất cả đều có khuôn mặt, màu da, màu tóc, và chiều cao khác biệt. Bạn bao giờ nghĩ, Này, nhìn xem, đó là Nhóm con của thần Hephaestus đấy! Nhưng tất cả họ đều có những đôi bàn tay mạnh mẽ, lởm chởm các cục chai và dính đầy dầu máy. Thậm chí ngay cả Harley bé , người còn chưa đến tám tuổi, trông như thể cậu nhóc có thể đấu sáu vòng với Chuck Norris(7) mà chẳng đổ giọt mồ hôi.

      Và tất cả mọi người đều có chung kiểu buồn bã nghiêm trang. Đôi vai của họ sụm xuống như thể cuộc sống khiến họ vô cùng mệt mỏi. vài người trông như thể bị đánh cho bầm dập vậy. Leo đếm được có hai cánh tay đeo băng đeo, cặp nạng, miếng dán ở mắt, sáu người được quấn băng thun, và khoảng bảy ngàn miếng băng cá nhân

      “Ừm, được rồi!” Leo . “Tớ nghe đây là nơi tổ chức tiệc!”

      ai cười. Mọi người chỉ nhìn chằm chằm vào cậu.

      Will Solace vỗ lên vai của Leo. “Tớ để các cậu làm quen với nhau. Ai đó đưa Leo đến chỗ ăn tối khi đến giờ nhé?”

      “Tớ biết rồi,” trong số các . Nyssa, Leo ghi nhớ. mặc chiếc quần lính cùng áo ba lỗ nhìn thấy hai cánh tay trần, và chiếc khăn rằn lớn màu đỏ phủ phía mái tóc đen phồng lên của . tính đến miếng băng dán có hình mặt cười cằm, trông giống trong số các nữ hùng hành động, như thể vào bất cứ giây phút nào đều tóm lấy khẩu súng máy và bắt đầu tàn sát những người ngoài hành tinh xấu xa.

      “Tuyệt,” Leo . “Tớ luôn muốn có người chị, người có thể đánh tớ nhừ tử.”

      Nyssa cười. “ thôi, chàng hài hước. Tớ chỉ cho cậu quanh đây.”

      ***


      Leo lạ gì với các xưởng máy. Cậu lớn lên quanh những tay thợ máy và các dụng cụ dùng điện. Mẹ cậu thường đùa rằng núm vú giả đầu tiên của cậu là cái chìa vặn có răng. Nhưng cậu chưa bao giờ nhìn thấy nơi nào như xưởng rèn của trại.

      cậu con trai làm cái rìu chiến. Cậu ta tiếp tục thử lưỡi rìu lên miếng bê-tông. Mỗi lần cậu ta vung tay lên, cái rìu lại cắt miếng bê-tông như thể nó là miếng pho mát tươi vậy, nhưng cậu ta dường như chưa hài lòng lắm và quay lại tiếp tục mài lưỡi rìu.

      “Cậu ấy định giết cái gì với thứ đó vậy?” Leo hỏi Nyssa. “ con tàu chiến ư?”

      “Cậu bao giờ biết được. Ngay cả với đồng Celestial...”

      “Đó là loại kim loại?”

      gật đầu. “Được khai thác từ đỉnh Olympus. Cực kỳ quý hiếm. Dù sao nó cũng luôn làm phân hủy các con quái vật khi tiếp xúc với nó, nhưng những con có sức mạnh lớn hơn lại luôn có lớp da cực kỳ dai. Những con Drakon, là ví dụ

      “Ý cậu là những con rồng hả?”

      “Chỉ cùng loài thôi. Cậu nhận ra khác biệt trong lớp học chiến đấu chống quái vật.”

      “Lớp học chiến đấu chống quái vật. Ừm, tớ có sẵn đai đen môn đó.”

      có lấy nụ cười. Leo hy vọng phải lúc nào cũng luôn nghiêm túc như thế này. Phía gia đình cha cậu phải có vài khiếu hài hước chứ, đúng ?

      Họ băng qua hai chàng trai làm món đồ chơi lên dây cót bằng đồng. Ít nhất trông bề ngoài nó là thế. Đó là con nhân mã cao mười lăm xăng ti mét – nửa người, nửa ngựa – được trang bị chiếc cung . trong hai trại viên lắp đuôi của con nhân mã vào, nó kêu vo vo và bắt đầu hoạt động. Nó phi nước kiệu khắp mặt bàn, hét lớn, “Chết này, muỗi! Chết này, muỗi!” và bắn mọi thứ nó nhìn thấy.

      Hình như chuyện này xảy ra trước đây, vì mọi người đều nằm sấp xuống sàn trừ Leo. Sáu mũi tên có kích thước bằng chiếc kim găm vào áo sơ mi của cậu trước khi trại viên nắm lấy cái búa và đập nó nát vụn.

      “Lời nguyền ngu ngốc!” Trại viên chỉ cái búa của mình lên trời. “Tôi chỉ muốn làm dũng sĩ giết bọ ma thuật! Điều đó là quá mức cầu sao?”

      “Ối,” Leo .

      Nyssa lôi những chiếc kim ra khỏi áo cậu. “À, cậu vẫn ổn. Hãy tiếp trước khi họ tái tạo lại nó.”

      Leo xoa xoa ngực mình khi họ bước . “Chuyện kiểu như vậy xảy ra rất nhiều sao?”

      “Mới đây thôi,” Nyssa , “mọi thứ chúng tớ làm đều biến thành đồ bỏ .”

      “Vì lời nguyền sao?”

      Nyssa cau mày. “Tớ tin vào các lời nguyền. Nhưng có gì đó ổn. Và nếu chúng ta tìm ra đáp án cho vấn đề con rồng, mọi chuyện trở nên tồi tệ hơn.”

      “Vấn đề con rồng gì?” Leo hy vọng về con rồng thu , hoặc có thể là con giết chết những con gián, nhưng cậu có cảm giác cậu may mắn thế.

      Nyssa đưa cậu đến bên bản đồ lớn treo tường, nơi có hai nghiên cứu. Hình khu trại ra bản đồ – dải đất hình bán nguyệt với bãi biển Long Island Sound nằm ở bờ bắc, các khu rừng ở phía tây, các căn nhà ở phía đông, và vòng đồi bao quanh ở phía nam.

      “Nó ắt phải ở những ngọn đồi,” thứ nhất .

      “Chúng ta tìm kiếm ở những ngọn đồi,” thứ hai cãi lại. “Các khu rừng là nơi náu tốt hơn.”

      “Nhưng chúng ta đặt các loại bẫy...”

      “Đợi ,” Leo . “Các cậu làm lạc mất con rồng sao? con rồng có kích thước thực ?”

      “Đó là con rồng bằng đồng,” Nyssa . “Nhưng đúng, nó là con rô-bốt có kích thước . Nhà thần Hephaestus làm nó cách đây nhiều năm. Rồi nó bị lạc trong các cánh rừng cho đến cách đây vài mùa hè, khi Beckendorf tìm ra các mảnh của nó và lắp ráp lại. Nó được dùng để bảo vệ trại, nhưng, ừm, nó có hơi chút ổn định được.”

      ổn định,” Leo .

      “Nó bị chạm mạch và đâm sầm xuống các ngôi nhà, khiến mọi người bị lửa thiêu, và nó cố xơi tái các thần rừng.”

      “Điều đó quá ổn định ấy chứ.”

      Nyssa gật đầu. “ Beckendorf là người duy nhất có thể chế ngự được nó. Nhưng rồi ấy mất , và con rồng trở nên ngày càng tệ hơn. Cuối cùng nó nổi cáu và bỏ trốn. Thỉnh thoảng nó lại xuất , phá hủy thứ gì đó, và lại bỏ trốn. Mọi người mong chờ bọn tớ tìm và phá hủy nó...”

      “Phá hủy nó sao?” Leo kinh sợ. “Các cậu có con rồng bằng đồng với kích thước , và cậu muốn phá hủy nó sao?”

      “Nó thở ra lửa,” Nyssa giải thích. “Nó còn dùng được nữa và mất kiểm soát.”

      “Nhưng nó là con rồng! bạn này, điều đó quá tuyệt vời. Sao cậu cố chuyện với nó, chế ngự nó?”

      “Chúng tớ thử. Jake Mason cố làm thế. Cậu nhìn thấy điều đó có tác dụng như thế nào.”

      Leo nghĩ về Jake, cả người qu trong băng chỉnh hình, nằm mình giường. “Thế nhưng...”

      “Chẳng có lựa chọn nào khác.” Nyssa quay lại nhìn những nọ. “Hãy đặt thêm bẫy trong các cánh rừng – ở đây, ở đây, và ở kia. Gắn thêm dầu nhớt mô tô loại ba mươi ký vào chúng.”

      “Con rồng uống cái thứ đó?” Leo hỏi.

      “Ừm.” Nyssa thở dài đầy tiếc nuối. “Nó thích dùng kèm với ít sốt Tabasco, ngay trước lúc ngủ. Nếu nó làm bật bẫy, bọn tớ có thể đến nơi cùng với các bình xịt phun acid – loại có thể làm da nó tan chảy. Rồi bọn tớ lấy máy cắt kim loại và... và kết thúc công việc.”

      Tất cả họ trông buồn bã. Leo nhận ra họ muốn giết con rồng nhiều hơn cậu là bao.

      “Các cậu,” cậu . “Chắc chắn cách nào khác.”

      Nyssa trông có vẻ hoài nghi, nhưng vài trại viên khác ngừng những việc họ làm và tiến đến để nghe cuộc trò chuyện.

      “Như thế nào?” người hỏi. “Cái thứ đó phun lửa đấy. Chúng ta thậm chí thể đến gần nó.”

      Lửa, Leo nghĩ. Ồ, trời, điều cậu có thể cho họ là về lửa... Nhưng cậu phải cẩn trọng, ngay cả khi họ là em trai và chị em của cậu. Đặc biệt nếu cậu phải sống cùng với họ.

      “Ừm...” Cậu ngần ngừ. “Thần Hephaestus là thần lửa, đúng ? Vậy ai trong số các cậu có khả năng đề kháng với lửa hay khả năng gì đó sao?”

      ai hành động như thể đó là câu hỏi ngu ngốc, điều đó khiến cậu thấy nhõm, nhưng Nyssa nghiêm trang lắc đầu.

      “Đó là khả năng của Cyclops, Leo. Những người con á thần của thần Hephaestus... chúng ta chỉ có được đôi bàn tay giỏi giang mà thôi. Chúng ta là những thợ xây, những người thợ thủ công, những người thợ rèn vũ khí – đại loại thế.”

      Đôi vai của Leo sụp xuống. “Ôi.”

      chàng ở cuối hàng lên tiếng. “Ừm, thời gian dài trước đây...”

      “Ừ, được rồi,” Nyssa thừa nhận. “ thời gian dài trước đây, vài người con của thần Hephaestus được sinh ra với sức mạnh khống chế lửa. Nhưng khả năng đó rất, rất hiếm. Và luôn nguy hiểm. á thần nào với khả năng đó được sinh ra trong hàng thế kỷ qua. Người cuối cùng...” nhìn trong số những đứa trẻ khác để tìm kiếm giúp đỡ.

      “Vào năm 1666,” kia tiếp. “Người đó tên là Thomas Faynor. ta tạo ra Vụ Hỏa hoạn Thảm khốc ở London, phá hủy toàn bộ thành phố.”

      “Đúng vậy,” Nyssa . “Khi đứa con như thế của thần Hephaestus xuất , thường có nghĩa là điều gì đó thảm khốc sắp sửa xảy ra. Và chúng tớ muốn có thêm bất cứ thảm họa nào nữa.”

      Leo cố giữ cho mặt mình biểu điều gì, điều đó phải thế mạnh của cậu. “Tớ đoán tớ hiểu ý của cậu. Tuy nhiên, điều đó tệ. Nếu cậu có thể chịu được lửa, cậu có thể đến gần con rồng.”

      “Để rồi nó giết cậu với móng và vuốt của nó sao,” Nyssa . “Hoặc đơn giản hơn, nó giẫm lên cậu. , chúng ta phải tiêu hủy nó. Hãy tin tớ, nếu bất cứ ai có thể nghĩ ra được giải pháp nào khác...”

      chưa hết, nhưng Leo hiểu được những gì muốn . Đây là thử thách quan trọng của cả nhà. Nếu họ có thể làm được điều gì đó mà chỉ có Beckendorf có thể làm, nếu họ có thể chinh phục được con rồng mà cần phải giết chết nó, có lẽ lời nguyền của họ được giải trừ. Nhưng họ lại thể nghĩ ra được ý tưởng nào. Bất cứ trại viên nào tìm ra được câu giải đáp cho vấn đề trở thành hùng.

      Tiếng tù và làm bằng ốc xà cừ vang lên từ phía xa xa. Các trại viên bắt đầu đặt các dụng cụ và các món đồ làm xuống. Leo nhận ra là quá trễ, nhưng cậu nhìn qua các ô cửa sổ và nhìn thấy mặt trời lặn dần. Căn bệnh ADHD(13) thỉnh thoảng lại khiến cậu như thế. Nếu cậu cảm thấy chán, buổi học kéo dài năm mươi phút dường như trở thành sáu tiếng. Nếu cậu quá thích và tập trung vào điều gì đó, như việc tham quan trại á thần, thời gian thấm thoát trôi và bùm – ngày kết thúc.

      đến giờ ăn tối,” Nyssa . “ nào, Leo.”

      đến khu nhà ăn, đúng ?” cậu hỏi.

      gật đầu.

      Nyssa ngần ngừ. Rồi nét mặt dịu lại. “Được chứ. Có quá nhiều thứ để giải quyết. Tớ nhớ ngày đầu tiên của mình. Hãy đến khi cậu sẵn sàng nhé. Chỉ là đừng chạm vào bất cứ thứ gì. Gần như mỗi món đồ ở đây đều có thể giết cậu nếu cậu cẩn thận.”

      chạm vào,” Leo hứa.

      Những chị em cùng nhà ra khỏi xưởng rèn. Chẳng mấy chốc chỉ còn mình Leo với thanh của các ống bể, tiếng bánh xe nước, và những chiếc máy kêu lách cách và vù vù.

      Cậu liếc nhìn bản đồ trại – các vị trí nơi mà các chị em ruột mới phát của cậu đặt bẫy để bắt con rồng. Việc đó sai. Hoàn toàn sai.

      Rất hiếm, cậu nghĩ. Và luôn luôn nguy hiểm.

      Cậu đưa tay ra và nhìn chăm chú những ngón tay mình. Chúng dài và mảnh khảnh, chai sần như những người thuộc nhà thần Hephaestus khác. Leo chưa bao giờ là đứa trẻ bự con nhất hay mạnh mẽ nhất. Cậu sống sót ở những khu dân cư, các trường học và những nhà nuôi dưỡng khắc nghiệt nhất bằng cách sử dụng trí thông minh của mình. Cậu là thằng hề trong lớp học, người pha trò ở tòa án, vì cậu sớm nhận ra rằng nếu bạn đùa và vờ như sợ hãi, bạn thường bị đánh cho nhừ tử. Ngay cả những đứa trẻ đầu gấu tệ hại nhất cũng tha thứ cho bạn, giữ cho bạn lại để làm trò cười. Ngoài ra, hài hước luôn là cách tốt để che giấu nỗi đau. Và nếu nó hiệu quả, luôn luôn có kế hoạch B. Bỏ chạy. Hết lần này lại đến lần khác.

      Cũng luôn có Kế hoạch C, nhưng cậu tự hứa với chính mình bao giờ sử dụng nó lần nữa.

      Cậu cảm thấy mình bị thúc giục để thử điều đó ngay bây giờ – điều cậu làm kể từ tai nạn đó, sau cái chết của mẹ cậu.

      Cậu duỗi thẳng những ngón tay của mình ra và cảm thấy nhoi nhói đau, như thể chúng thức dậy – cảm giác rần rần như kiến bò. Rồi những ngọn lửa lập lòe xuất , cuộn lại với nhau thành ngọn lửa đỏ và nóng rực nhảy múa khắp lòng bàn tay cậu.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :