Bụi Lý Chua Máu - Arnaldur Indriđason [Trinh Thám]

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Bụi Lý Chua Máu - Arnaldur Indriđason [Trinh Thám]
      [​IMG]
      Tên : Bụi Lý Chua Máu
      Tác giả: Arnaldur Indriđason

      Thể loại: Kinh dị, Tiểu thuyết, Trinh thám, Văn học phương Tây
      Công ty phát hành: Alphabooks
      Nhà xuất bản: NXB Thời Đại
      Trọng lượng vận chuyển: 440 g
      Kích thước: 13 x 20.5 cm
      Dịch giả: Phương Phương
      Số trang: 396
      Ngày xuất bản: 04/2011
      Nguồn: waka.vn

      Giới thiệu:


      bộ hài cốt đặc biệt được phát ngay trong khu vực ngoại ô thành Reykjavík, thám tử Erlendur lập tức được gọi đến trường để điều tra vụ án.

      Các nhà khảo cổ học cùng ông bắt tay vào công việc và đưa bộ xương lên cách khó nhọc. Erlendur cố gắng tìm kiếm những thông tin về cuộc sống xung quanh ngôi nhà gỗ ngọn đồi với những bụi cây lý chua bất thường ngay cạnh đó. Những bí tưởng chừng bị chôn vùi từ hơn sáu mươi năm trước dần dần trở lại, và đau thương về gia đình sống ngọn đồi cách đó xa được khám phá...

      Trong suốt quá trình tìm kiếm thông tin, Erlendur phải đối diện trực tiếp với những ám ảnh sâu sắc về quá khứ của chính mình, về những rạn nứt của gia đình còn hy vọng cứu vãn...

      “Bằng văn phong hết sức giản dị, Indrađison kể câu chuyện đầy cảm động về tội ác của xã hội vô cùng phức tạp. Và Erlendur chính là trong những thám tử giàu lòng nhân ái nhất xuất trước mắt ta trong thiên truyện này”
      - The New York Times -

      “Hai câu chuyện kịch tính đan xen nhau từ nhiều thập kỷ chia xa... Và ở nơi đó, có những người từng thời sống chết bên nhau...”
      - Entertainment Weekly -

      “Có điều người ta mong muốn thấy ở những cuốn tiểu thuyết hình – đó là thương tâm. Tác phẩm của Indriđason làm được điều đó...”
      - The Philadelphia Inquire

      câu chuyện sinh động, ám ảnh và cực kỳ hấp dẫn đối với mọi bạn đọc. Tôi chắc chắn rằng ngay cả những độc giả khó tính cũng phải ngạc nhiên và đánh giá cao cách tiếp cận đặc biệt của ông... Và đó chính là lúc hàng triệu độc giả Bắc Mỹ khám phá ra Arnaldur Indriđason.”
      - South Florida Sun

      Tác giả cuốn sách ARNALDUR INDRIĐASON sinh năm 1961. Ông làm việc cho tờ báo của Iceland, bắt đầu nghiệp từ phóng viên và sau đó là nhà phê bình sách trong nhiều năm. Ông là tác giả của nhiều cuốn tiểu thuyết trinh thám ăn khách nay như:

      - Jar City (Vết bớt màu cà phê sữa - tải eBook),

      - Silence of the grave (Bụi lý chua máu - tải eBook),

      - The Voice,

      - The draining lake...
      Arnaldur Indriđason được xếp vào hàng trong những nhà văn viết truyện trinh thám hàng đầu thế giới. Silence of the grave là cuốntiểu thuyết xuất sắc giành được giải thưởng Gold Dagger năm 2005, giải thưởng danh giá của dòng tiểu thuyết trinh thám thế giới.​


    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      1

      ta nhận ra ngay đứa trẻ chưa đầy tuổi đó... ngồi gặm mẩu xương người.

      Bữa tiệc sinh nhật náo loạn với đủ thứ thanh inh tai nhức óc. Bánh pizza vừa được mang đến, bọn trẻ ngay lập tức ăn ngấu nghiến, rồi lấy Coca Cola ra uống ừng ực và quát mắng lẫn nhau om sòm. Ăn uống chán, chúng lại leo lên bàn mà nhảy múa, rồi lại chạy vòng quanh, chúng nô đùa với nhau như có người ra hiệu. vài đứa lớn cầm súng máy và súng lục, những đứa bé hơn ôm chắc mấy cái ô tô đồ chơi hoặc những con khủng long nhựa,... Người thanh niên hiểu được chúng chơi trò gì nữa. Đối với ta, tất cả chỉ là ầm ĩ khiến người khác phải phát điên lên!

      Người phụ nữ trẻ làm ít bỏng ngô trong lò vi sóng. với ta rằng mình cố gắng bảo lũ trẻ bớt nghịch , bật ti vi và mở video lên cho chúng chú ý. Nếu làm vậy mà vẫn ăn thua, tống cổ chúng ra ngoài, các dây thần kinh của quá căng thẳng rồi. Con trai năm nay lên tám. Đây là bữa tiệc sinh nhật lần thứ ba liên tiếp mà tổ chức cho con trai, kể từ ba năm trước. Lần đầu, cả nhà ăn tại cửa hàng hamburger, nhưng ở đó giá đắt cắt cổ, vậy còn mở thêm thứ nhạc rock inh tai váng óc. Lần sau, đến nhà hàng nữa mà tổ chức bữa tiệc ấm cúng tại nhà, mời người thân và bạn bè đến. kiện đó cũng linh đình chẳng khác nào lúc thằng bé được làm lễ kiêm tín. Còn năm nay, con trai chỉ mời bạn bè cùng lớp và hàng xóm đến tham dự.

      mở lò vi sóng, lấy cái túi bỏng ngô căng phồng ra, bỏ túi khác vào và thầm nghĩ: năm sau mình tổ chức đơn giản. bữa tiệc đơn giản thôi. Như hồi mình còn !

      Người thanh niên ngồi im lặng ghế sofa. định chuyện với ta nhưng sau lại thôi và cảm thấy thoải mái khi thấy ta ngồi trong phòng khách. Mà thực ra, họ có muốn chuyện cũng được, bọn trẻ quá ồn ào. ta lại chẳng tỏ ý muốn giúp đỡ gì, chỉ ngồi đó và nhìn trân trân vào khoảng . “ ta lạ,” thầm nghĩ.

      chưa từng gặp người thanh niên này bao giờ. ta hai mươi lăm tuổi, là trai của trong số những đứa bạn đến dự tiệc của con trai . Hai em cách nhau khoảng hai mươi tuổi gì đó. Thân hình ta gầy đét như que củi. Khi đến trước cửa, ta chìa bàn tay dài và ẩm ướt ra bắt tay , trông ta có vẻ trầm lặng. ta đến để đón em trai mình, nhưng thằng bé ương ngạnh, nhất quyết chịu về giữa lúc bữa tiệc vẫn còn sôi động. Họ nhất trí rằng nên vào nhà lát. “Bữa tiệc sắp kết thúc rồi,” . ta giải thích với rằng trước đây bố mẹ ta sống ở ngôi nhà đại ở khu thương mại, nhưng bây giờ họ ra nước ngoài, còn ta phải trông nom em trai mình. Thực ra ta thuê căn hộ trong thị trấn. ta cứ bồn chồn đứng trước nhà trong khi đứa em trai lẩn vào bữa tiệc huyên náo.

      Lúc này, người thanh niên ngồi ghế sofa quan sát đứa em mới lên tuổi của cậu bé tổ chức sinh nhật, bé con sàn nhà. bé mặc bộ váy xếp nếp màu trắng, tóc cài nơ, miệng cứ kêu thét liên hồi. ta thầm nguyền rủa thằng em ham chơi của mình. Việc ngồi trong ngôi nhà lạ khiến ta cảm thấy thoải mái. ta tự hỏi biết có nên giúp đỡ người phụ nữ kia . ta vừa với rằng cha đứa trẻ làm đến tận chiều muộn mới về. ta gật đầu, cố nặn ra nụ cười và từ chối lời mời dùng bánh pizza của .

      Người thanh niên nhìn thấy bé con cầm và gặm món đồ chơi nào đó lúc nó ngồi xuống, dãi ròng ròng. Có vẻ như cái lợi mềm khiến nó phát cáu. “Nó vẫn còn mọc răng,” ta nghĩ.

      Khi đứa trẻ cầm thứ đồ chơi đó đến gần người thanh niên, ta thắc mắc biết đó là cái gì. bé dừng lại, vặn vẹo mông, sau đó ngồi bệt xuống sàn nhà, há hốc miệng nhìn ta. dòng nước dãi chảy xuống ngực bé. bé lại bỏ món đồ chơi vào miệng và cắn cắn, sau đó bò đến chỗ ta, miệng vẫn ngậm chặt nó. Khi bé vươn người lên phía trước và cười khúc khích, thứ đó rơi ra ngoài. bé tìm lại nó cách khá khó khăn rồi bò đến thẳng chỗ ta, vịn tay vào ghế sofa và đứng lên. Tuy có hơi chao đảo chút, nhưng có vẻ bé vẫn hài lòng với thành quả của mình.

      Người thanh niên lấy thứ đồ chơi đó từ bé và xem xét. Đứa trẻ nhìn ta hiểu, rồi nó bắt đầu khóc thét lên. ta mất nhiều thời gian để nhận ra rằng mình cầm mẩu xương người – mẩu xương sườn dài khoảng 10cm. Mẩu xương có màu trắng nhạt và mòn ở chỗ gãy nên các rìa còn sắc nhọn nữa, bên trong chỗ gãy có những vết ố màu nâu, giống như bụi bẩn vậy.

      ta đoán đó là đoạn đầu của xương sườn và thấy nó khá cũ.

      Khi người mẹ nghe tiếng con khóc, nhìn vào phòng khách và thấy nó đứng bên chiếc ghế sofa cạnh người lạ mặt. đặt tô bỏng ngô xuống, đến chỗ con , bế bé lên và nhìn người thanh niên, dường như ta quên cả người mẹ và bé con khóc.

      “Có chuyện gì xảy ra thế?” người mẹ hỏi trong lúc cố gắng dỗ dành con mình. to để át tiếng ồn ào của lũ trẻ.

      Người thanh niên nhìn lên, từ từ đứng dậy và đưa cho mẩu xương.

      bé lấy cái này ở đâu?” ta hỏi.

      “Cái gì cơ?” người mẹ hỏi lại.

      “Mẩu xương này này,” ta . “ bé lấy mẩu xương này ở đâu?”

      “Mẩu xương?” ngạc nhiên. Khi đứa trẻ nhìn thấy mẩu xương, nó khóc nữa và chộp lấy, mắt lạc vì tập trung vào đó, miệng lại há ra, nước miếng chảy thành dòng.

      “Tôi nghĩ rằng đó là mẩu xương”, ta .

      Đứa bé nhét miếng xương vào mồm và nín hẳn.

      “Cái thứ mà gặm ấy”, ta . “Tôi nghĩ đó là mẩu xương người.”

      Người mẹ nhìn đứa con gặm mẩu xương ngon lành.

      “Tôi chưa bao giờ nhìn thấy nó cả. Ý là sao, mẩu xương người ư?”

      “Tôi cho rằng đó là mẩu của xương sườn người”, ta . “Tôi là sinh viên y khoa”, ta thêm như giải thích, “năm thứ năm”.

      “Vớ vẩn! mang nó theo à?”

      “Tôi á? ! có biết nó ở đâu ra ?” ta hỏi.

      Người mẹ nhìn đứa con, sau đó lấy mẩu xương ra khỏi miệng con bé và ném xuống sàn. Lại lần nữa, bé gào lên thảm thiết. Người thanh niên cầm mẩu xương lên và xem xét nó kĩ càng hơn.

      trai bé có thể biết đấy…”

      ta nhìn , nhìn lại ta cách lúng túng. Sau đó lại nhìn sang đứa con khóc. Rồi sang mẩu xương, và rồi nhìn qua cửa sổ phòng khách về phía những ngôi nhà xây dang dở xung quanh, sau đó lại quay về nhìn mẩu xương và khuôn mặt người thanh niên lạ, và cuối cùng là nhìn con trai mình, nó chạy ra từ phòng khách.

      “Tóti!” gọi to. Thằng bé lờ . băng qua đám trẻ con, kéo con trai ra cách khá khó khăn và đưa nó đến trước mặt người khách.

      “Cái này là của em à?” ta hỏi và đưa cho thằng bé mẩu xương.

      “Em tìm thấy nó”, Tóti liến thoắng. Thằng bé muốn để lỡ phút giây nào trong bữa tiệc sinh nhật của mình.

      “Ở đâu?” người mẹ hỏi. đặt đứa con xuống sàn, đứa bé nhìn chằm chằm, biết có nên gào lên nữa .

      “Ở ngoài kia,” thằng bé . “Đó là mẩu đá rất buồn cười. Con rửa ráy nó rồi.” Nó thở hổn hển. giọt mồ hôi chảy dài xuống má nó.

      “Ở chỗ nào ngoài kia?” người mẹ hỏi. “Khi nào? Con làm gì?”

      Thằng bé nhìn mẹ. Nó biết mình làm gì sai, nhưng cái nhìn khuôn mặt mẹ nó thể điều đó. Còn nó hiểu chuyện gì cả.

      “Hôm qua, con nghĩ vậy”, thằng bé . “Trong khu móng nhà ở cuối đường. Có chuyện gì vậy ạ?”

      Mẹ nó và người lạ mặt đưa mắt nhìn nhau.

      “Con có thể chỉ cho mẹ chính xác chỗ con tìm ra nó ?” hỏi.

      “Con bắt buộc phải ngay sao? là tiệc sinh nhật của con mà”, thằng bé .

      “Phải”, người mẹ đáp. “Chỉ cho mẹ và ta .”

      rồi bế lấy đứa con dưới sàn nhà và đẩy thằng con trai ra khỏi phòng, hướng đến cửa chính. Người thanh niên theo sát họ. Những đứa trẻ còn lại lặng yên khi nhân vật chính bị điệu , chúng nhìn mẹ Tóti đẩy nó ra khỏi nhà, khuôn mặt lạnh lùng, tay vẫn bế đứa con . Chúng nhìn nhau, rồi sau đó cả bọn rồng rắn kéo nhau theo.

      Nơi này nằm trong khu đất gần con đường dẫn đến hồ Reynisvatn. Quảng trường Milennium. Nó được xây dựng dốc đồi Grafarholt, đỉnh của ngọn đồi này có những téc nước địa nhiệt sơn màu nâu vươn cao lên như thành lũy bao quanh vùng ngoại ô. Những con đường sạch chạy dài theo triền dốc, nhà cửa cũng nối tiếp nhau được dựng lên. Đây đó có những ngôi nhà chưng diện vài mảnh vườn với thảm cỏ xanh và cây non tươi tắn. Chúng dần lớn lên và ngày nào đó tỏa bóng mát cho chủ nhân của chúng.

      Đám người theo sát đằng sau Tóti, họ men theo con đường cao nhất bên cạnh những téc nước. Rất nhiều ngôi nhà thành thị mới xây trải dài đến vùng đồng cỏ, trong khi ở đằng xa, về phía Nam và phía Đông, lại là nơi dành cho những ngôi nhà gỗ mùa hè cũ kỹ của người dân Reykjavík. Cũng giống như ở tất cả các vùng đất mới khác, bọn trẻ thường chơi đùa trong các ngôi nhà xây dở, leo trèo lên dàn giáo, trốn trong những bức tường hẻo lánh hay trượt xuống phía móng nhà mới đào để lội bì bõm trong những vũng nước đọng lại dưới đó.

      Tóti dẫn người lạ mặt, mẹ nó và cả lũ bạn xuống cái móng nhà như vậy và chỉ chỗ mà nó tìm ra mẩu xương trắng lạ lùng kia, mẩu xương sáng và trơn láng đến mức thằng bé phải để vào túi và quyết định giữ nó lại. Thằng bé nhớ chính xác vị trí, nó nhảy xuống móng nhà trước mặt và thẳng đến chỗ mà hôm trước nó thấy mẩu xương nằm nền đất khô. Người mẹ bắt nó lùi ra xa, và với giúp đỡ của người thanh niên, vụng về trèo xuống chỗ móng nhà. Tóti lấy lại mẩu xương từ chỗ mẹ và đặt nó xuống đất.

      “Lúc đó nó nằm thế này này”, thằng bé , vẫn tưởng mẩu xương là viên đá thú vị.

      Đó là buổi chiều thứ Sáu và có ai làm việc ở khu móng nhà cả. Gỗ được đặt vào vị trí ở cả hai bên để chuẩn bị đổ bê tông, nhưng mặt đất vẫn phơi ra ở những nơi có tường bao phủ. Người thanh niên đến chỗ bức tường bẩn thỉu và nhìn chăm chú cái nơi mà thằng bé tìm thấy mẩu xương. ta lấy móng tay cào cào vào lớp bùn và kinh hoàng nhận ra có thứ gì đó trông giống như khúc xương của cả cánh tay phía bị chôn sâu dưới đất.

      Mẹ bọn trẻ thấy ta cứ nhìn chằm chằm vào đống đất, liền hướng mắt nhìn theo, và phát ngay ra khúc xương cánh tay đó. Đến gần hơn, nghĩ rằng mình có thể trông thấy mảnh xương quai hàm với hay hai cái răng gì đó.

      bắt đầu nhìn người thanh niên và sau đó nhìn sang con , rồi theo bản năng, vội vàng lau sạch miệng cho con bé.

      ***

      hiểu chuyện gì xảy ra cho đến khi cảm thấy cơn đau ở thái dương mình. Bất thình lình, đánh vào đầu bằng nắm đấm siết chặt nhanh đến nỗi kịp nhìn thấy nó. Hoặc có thể tin được là lại đánh nhanh như thế. Đó là lần đầu tiên bị đánh, và trong những năm về sau này, vẫn tự hỏi biết đời mình có khác nếu rời bỏ ngay lúc ấy. Nếu như cho phép làm điều đó.

      nhìn đầy kinh ngạc, bối rối hiểu tại sao đột ngột chồng mình lại đánh mình. Trước đây chưa từng có ai động vào cả.

      đánh em đấy ư?” vừa vừa đưa tay lên xoa thái dương.

      tưởng tôi thấy cái kiểu liếc nhìn thằng đó à?” rít lên.

      “Thằng đó? Thằng nào cơ??? Ý là Snorri ư? Nhìn Snorri ư?”

      “Phải, phải! tưởng tôi để ý sao hả? Cái kiểu cư xử giống như động cỡn lên ấy?”

      chưa bao giờ chứng kiến chuyện này. chưa bao giờ nghe thấy những từ ghê tởm như thế. Động cỡn. về chuyện gì vậy? Lúc nãy chỉ trao đổi vài câu ngắn ngủi với Snorri ở cửa tầng hầm để cảm ơn ta vì trả cho mấy thứ mà để quên ở ngôi nhà mình từng giúp việc trước đây; muốn mời ta vào nhà, vì chồng cáu kỉnh cả ngày trời, rằng muốn gặp Snorri. Snorri kể câu chuyện đùa về người lái buôn trước đây từng thuê làm việc, họ cùng bật cười và sau đó tạm biệt nhau.

      “Đó chỉ là Snorri thôi mà”, . “Đừng cư xử như thế. Tại sao lại cáu kỉnh cách ngu ngốc suốt cả ngày như thế?”

      cãi lại tôi đấy hả?” hỏi và tiến lại gần . “Tôi thấy qua cửa sổ. Tôi thấy ve vãn thằng đó. Hừ, chẳng khác nào con đàn bà dâm đãng!”

      , thể…”

      siết tay, đấm mạnh vào mặt lần nữa khiến cả người lao thẳng vào cái tủ đựng bát đĩa sứ trong bếp. Mọi chuyện diễn ra quá nhanh đến mức kịp giơ tay ôm lấy đầu.

      “Đừng có dối tao!” quát lên. “Tao thấy cái kiểu mày nhìn thằng đó rồi. Tao thấy mày tán tỉnh nó rồi! Chính mắt tao trông thấy! Đồ con điếm bẩn thỉu này!”

      Lại từ nữa mà lần đầu tiên nghe thấy .

      “Lạy Chúa tôi !” Máu rỉ ra từ vết thương ở môi chảy vào miệng . Vị máu hòa cùng với những giọt nước mắt mặn đắng chảy xuống mặt . “Tại sao lại làm thế? Em làm gì sai nào?”

      Gã chồng đứng xổ lên, sẵn sàng tấn công. Mặt đỏ bừng đầy phẫn nộ. nghiến răng kèn kẹt, giậm chân bình bịch, sau đó quay ngoắt người ra khỏi nhà. vẫn đứng chết lặng, hiểu nổi chuyện gì xảy ra.

      Về sau này thường nghĩ đến giây phút đó và tự hỏi biết có điều gì thay đổi nếu như mình cố gắng chống trả lại hung bạo đó ngay lập tức bằng cách rời bỏ ta, tránh xa ta mãi mãi, thay vì chỉ cố tìm ra lý do để tự trách mình. “Mình phải làm gì đó ấy mới phản ứng như thế. Điều gì đó mà có thể mình biết, nhưng chồng mình lại biết, và mình có thể chuyện với ấy khi ấy quay trở về, mình hứa thay đổi và mọi chuyện trở lại bình thường.”

      chưa bao giờ thấy cư xử như thế, hay bất kỳ người nào khác cũng vậy. Chồng người khá kín đáo với vẻ bề ngoài nghiêm nghị. Thậm chí, có thể coi người hay suy nghĩ với vẻ mặt trầm tư. Đó là điều mà thích ở khi họ mới bắt đầu quen nhau. làm ở Kjós cho trai của người lái buôn thuê làm việc, công việc của là chở hàng cho ông chủ. Đó là lí do tại sao gặp cách đây năm rưỡi. Hai người gần như bằng tuổi nhau. về việc bỏ nghề lao động chân tay và có thể biển. Đánh cá giúp kiếm được tiền. Và muốn có nhà riêng của mình. Là ông chủ của chính mình. Lao động chân tay vất vả, cổ lỗ, và lương quá thấp.

      với rằng chán ngấy việc làm cho người lái buôn ấy. Ông ta là tên keo kiệt và luôn luôn sờ soạng ba giúp việc; còn vợ ông ta là mụ phù thủy già nua và là chủ nô đích thực. có kế hoạch nào cụ thể cho những việc sắp phải làm. Chưa bao giờ nghĩ đến tương lai. Làm việc vất vả là tất cả những gì biết từ khi còn tấm bé. Cả cuộc đời luôn luôn là như thế, chưa bao giờ khác .

      Gã chồng hồi đó liên tiếp tìm cớ thoái thác việc gặp người lái buôn và thường xuyên vào nhà bếp thăm . Chuyện này nối tiếp chuyện kia và chẳng bao lâu sau, kể cho nghe về đứa con của mình. rằng mình biết người mẹ. hỏi mọi người về . Đó là lần đầu tiên bộc lộ quan tâm đến việc tìm hiểu về kỹ hơn. Đứa trẻ sớm lên ba tuổi thôi, với , rồi ra vườn sau – nơi con bé chơi cùng những đứa con của chủ nhà – và đưa nó về.

      hỏi có bao nhiêu người đàn ông qua cuộc đời . mỉm cười ra vẻ như đó chỉ là lời đùa vô hại. Sau này thường nhẫn tâm dùng chính tai tiếng về lang chạ của để làm đau khổ. chưa bao giờ gọi con riêng của bằng tên của nó mà chỉ bằng những biệt danh như đồ con hoang hay con què.

      Đâu có nhiều đàn ông qua cuộc đời . với về cha đứa trẻ, đó là ngư dân, ta chết ở Kollafjördur. Hồi cả đội thủy thủ gồm bốn người chết cóng trong cơn bão biển, ta mới có hai mươi hai tuổi. Cũng trong khoảng thời gian đó, phát ra mình mang thai. Họ vẫn chưa kết hôn, do đó người ta thể gọi góa phụ. Họ dự định làm đám cưới, nhưng lại chết và để lại cõi đời cùng với đứa con ngoài giá thú.

      ngồi nghe câu chuyện của trong gian bếp, để ý thấy con mình muốn ở bên . Bình thường con bé hay xấu hổ, nhưng con bé cứ níu chặt lấy váy mẹ và dám bước ra khi gọi. lấy từ trong túi áo ra cái kẹo mật đường và đưa cho con bé, nhưng nó chỉ vùi mặt sâu hơn vào trong váy mẹ và bắt đầu khóc, nó chỉ muốn ra ngoài chơi với những đứa trẻ ngoài kia. Mặc dù kẹo mật đường luôn là đồ ăn ưa thích của nó.

      Hai tháng sau hỏi cưới . Chuyện đó chẳng hề lãng mạn giống như trong những câu chuyện mà được đọc. Họ gặp nhau vài lần vào buổi tối và dạo vòng quanh thị trấn, hoặc xem phim của Chaplin. Trong lúc cười lả vì người đàn ông lang thang bé trong phim, nhìn sang người cùng mình. còn thậm chí cười. buổi tối, khi từ rạp chiếu phim trở về, đột nhiên hỏi liệu họ có nên cưới nhau . kéo về phía mình.

      muốn chúng mình cưới nhau,” .

      Lúc đó, ngạc nhiên đến độ cho đến mãi lâu sau, khi chuyện đó thực qua , mới nhận ra rằng đó phải là lời cầu hôn, phải là câu hỏi về điều mà mong muốn.

      muốn chúng mình cưới nhau.”

      nghĩ đến khả năng ta cầu hôn mình. Mối quan hệ của họ đến giai đoạn đó. cần ngôi nhà cho đứa con của mình và muốn có nơi dành riêng cho mình. Có thêm con. có nhiều người đàn ông theo đuổi . Có thể là vì đứa bé. Có thể phải là lựa chọn hấp dẫn đối với họ, người thấp và khá tròn trĩnh, khuôn mặt góc cạnh, răng hơi vẩu, những ngón tay nhưng khéo léo dường như lúc nào ngừng chuyển động. Có thể bao giờ nhận được lời cầu hôn nào tốt hơn thế.

      “Em nghĩ thế nào về chuyện đó?” hỏi.

      gật đầu. hôn và họ ôm nhau. lâu sau họ kết hôn trong nhà thờ ở Mosfell. Đó là lễ cưới , chẳng có mấy người tham dự ngoài chú rể và dâu, bạn bè chú rể ở Kjós và hai người bạn của ở Reykjavík. Vị mục sư mời họ ở lại uống cà phê sau lễ cưới. hỏi về người thân, về gia đình của chồng, nhưng cởi mở lắm về chuyện đó. Chồng rằng mình là con , và khi bố chết, có đủ khả năng để tiếp tục nuôi con, bà gửi đến nhà bố mẹ nuôi. Trước khi trở thành người làm công ở Kjós, làm cho số nông trại khác. Chồng xem ra mấy tò mò về người thân của . mấy quan tâm đến quá khứ của . rằng hoàn cảnh của họ tương đối giống nhau: biết bố mẹ của mình là ai. được nhận làm con nuôi và được nuôi nấng trong nhiều gia đình khác nhau ở Reykjavík, và cuối cùng, làm việc cho người lái buôn. gật đầu.

      “Chúng ta tạo nên khởi đầu tốt đẹp,” . “Hãy quên quá khứ .”

      Họ thuê căn hộ dưới tầng hầm ở Lindargata, căn hộ chỉ gồm phòng khách và nhà bếp. Nhà vệ sinh ở ngoài sân. còn làm việc cho người lái buôn nữa. Chồng rằng phải tự kiếm tiền nữa. làm việc ở bến cảng cho đến khi có thể làm cho tàu đánh cá. ôm giấc mơ về những chuyến biển dài ngày.

      đứng bên bàn ăn, vòng tay ôm lấy bụng. Mặc dù chưa với chồng, chắc chắn rằng mình có thai. Chuyện đó được dự trù từ trước. Hai vợ chồng họ bàn bạc về chuyện có con, nhưng biết chồng mình cảm thấy thế nào, có vẻ rất bí hiểm. Nếu đứa trẻ là bé trai, chọn tên cho nó. muốn có con trai. Thằng bé có tên là Símon.

      nghe qua nhiều chuyện đàn ông đánh vợ, chuyện những người phụ nữ phải chịu đựng bạo lực gia đình, nghe đủ chuyện. Nhưng thể tin được mình lại là trong số họ. thể ngờ được rằng có thể làm chuyện đó. Đây chắc hẳn là chuyện hoàn toàn khác, tự nhủ. “ ấy nghĩ rằng mình tán tỉnh Snorri. Mình phải cẩn thận, để cho chuyện đó xảy ra nữa.”

      lau mặt và hít hơi mạnh. Đó là cú đánh! Mặc dù chồng mình ra ngoài, chắc chắn ấy sớm quay về nhà và xin lỗi. ấy thể đối xử với mình như vậy. Đơn giản là thể. được phép. Bấn loạn, vào phòng ngủ và nhìn con . Tên nó là Mikkelína. Buổi sáng khi thức dậy, con bé bị sốt, thế là nó ngủ li bì cả ngày, đến bây giờ vẫn ngủ. Khi bế con lên, người mẹ thấy toàn thân nó nóng rực. ngồi xuống, ôm con trong tay và bắt đầu hát ru, vẫn còn sốc và bị phân tâm bởi cú đánh của chồng.

      “Họ đứng chiếc hộp,

      Chân tất xinh,

      Mái tóc thơm màu vàng,

      Những nàng áo đẹp.”

      Mikkelína thở hổn hển, vồng ngực khẽ phập phồng. Từ mũi bé phát ra tiếng thở khò khè nhè , khuôn mặt đỏ bừng bừng vì sốt. Người mẹ cố gắng đánh thức con dậy, nhưng con bé vẫn nhúc nhích. khóc hét lên vì hoảng loạn.

      Con bị ốm rất nặng.


      2

      Elínborg nhận cuộc điện thoại trình báo về những khúc xương tìm thấy ở khu vực Quảng trường Millenium. làm việc mình trong văn phòng, và đúng lúc chuẩn bị ra về chuông điện thoại reo. Sau phút lưỡng lự, nhìn đồng hồ rồi quay trở lại nghe điện thoại. lên kế hoạch cho bữa tối hôm đó và dành cả ngày để mơ mộng về món thịt gà nấu bằng lò đất. Elínborg thở dài rồi nhấc điện thoại lên.

      Elínborg là kiểu người rất khó đoán tuổi, trông khoảng chừng bốn mươi gì đó, thân hình khỏe mạnh và săn chắc, và rất ưa thích đồ ăn. li dị, có bốn đứa con, kể cả đứa con nuôi giờ đây chuyển ra ngoài. Elínborg cũng tái hôn với thợ sửa ô tô thích nấu ăn, sống với ta cùng với ba con trong ngôi nhà đại ở Grafarvogur. Elínborg có bằng thạc sĩ về địa chất học cách đây khá lâu, nhưng chưa bao giờ làm việc trong lĩnh vực đó. Lúc đầu, công việc ở sở cảnh sát Reykjavík chỉ là công việc tạm thời trong mùa hè, nhưng rồi cuối cùng lại chính thức gia nhập lực lượng này. trong số rất ít những nữ thám tử ở đó.

      trong lúc Sigurdur Óli làm tình cuồng nhiệt với bạn Bergthóra cái máy nhắn tin của chợt kêu lên bíp bíp. đeo nó vào thắt lưng quần – lúc này cái quần nằm sàn nhà bếp, tiếng bíp vẫn réo liên hồi. biết rằng nó dừng lại cho đến khi chịu ra khỏi giường. Hôm nay làm về sớm. Bergthóra ở nhà từ trước và đón bằng nụ hôn sâu đầy nồng nhiệt. Mọi chuyện cứ thế tự nhiên diễn ra, vứt quần lại trong bếp, tháo dây điện thoại và tắt di động. Nhưng còn cái máy nhắn tin. Có lẽ vì thể trì hoãn được hơn nữa với Bergthóra.

      Thở dài não nề, Sigurdur Óli nhìn Bergthóra lúc này ngồi người mình. Người mướt mồ hôi, gương mặt đỏ bừng. Qua biểu của , hiểu rằng muốn để lúc này. Bergthóra hít hơi sâu và nhắm mắt lại, nằm lên người , rồi từ từ đẩy hông lên xuống nhịp nhàng cho đến khi cơn cực khoái qua và mọi cơ bắp người bắt đầu thả lỏng.

      Bản thân Sigurdur Óli phải đợi đến dịp thích hợp hơn. Trong cuộc sống, đối với , máy nhắn tin là thứ quan trọng nhất.

      trườn người ra khỏi Bergthóra, còn vùi mặt xuống gối như thể hoàn toàn kiệt sức.

      Erlendur ngồi ở Skúlakaffi ăn thịt muối. Ông hay ngồi ăn ở đây bởi vì nó là nhà hàng duy nhất ở Reykjavík có bán loại đồ ăn Iceland mà ông có thể tự chuẩn bị nếu ông muốn nấu. Nội thất bên trong cũng khá hấp dẫn: lớp gỗ dán màu nâu tồi tàn, những chiếc ghế ăn cũ kỹ, vài chiếc còn để lộ ra những miếng bọt biển bên dưới lớp nhựa bọc ghế, tấm vải lót sàn bị bào mòn bởi gót giày dép của những người lái xe tải, lái taxi, thợ điều khiển cần trục, nhân viên giao hàng, thợ đào đắp đất. Erlendur ngồi mình ở riêng góc, cắm cúi ăn thịt, khoai tây luộc, đậu và củ cải nhúng ngập trong nước sốt ngọt rắc bột đường.

      Giờ ăn trưa qua lâu nhưng ông vẫn cố thuyết phục người đầu bếp chuẩn bị cho mình món thịt muối. Ông cắt miếng thịt lớn, xếp đống khoai tây và rau cải lên rồi phủ nước sốt, phết đầy kem. Món “chiến lợi phẩm” sẵn sàng. Với con dao, ông nhanh chóng ngốn đống thức ăn trước mặt bằng cái miệng nhồm nhoàm của mình.

      Erlendur tiếp tục xếp đống thức ăn như thế vào nĩa và chuẩn bị há miệng ra cái điện thoại của ông để bàn reo lên. Ông giơ chiếc nĩa ngang miệng, mắt liếc về cái điện thoại thoáng, lại nhìn qua chiếc nĩa đầy ú, rồi lại sang cái điện thoại, cuối cùng ông đặt chiếc nĩa xuống với vẻ mặt đầy tiếc nuối.

      “Tại sao chẳng có lúc nào tôi được yên ổn vậy?” ông trước khi Sigurdur Óli kịp điều gì.

      “Có số mẩu xương được tìm thấy ở Quảng trường Millennium,” Sigurdur Óli đáp. “Tôi ra ngoài đó, cả Elínborg nữa.”

      “Loại xương gì cơ?”

      “Tôi biết. Elínborg vừa gọi điện và tôi đường đến đó. Tôi báo cho đội pháp y rồi.”

      “Tôi ăn,” Erlendur chậm rãi .

      Sigurdur Óli gần như sắp bật ra những điều mà vừa nãy cũng “ làm”, nhưng kịp ngăn mình lại.

      “Gặp ông ở đó nhé,” . “Nơi đó nằm đường dẫn đến hồ Reynisvatn, ở mạn bắc bên dưới những téc nước nóng. xa con đường dẫn ra khỏi thành phố lắm đâu.”

      “Quảng trường Millennium là cái gì vậy?” Erlendur hỏi.

      “Sao cơ?” Sigurdur Óli hỏi lại, vẫn còn bực mình vì bị gián đoạn với Bergthóra.

      “Nó là quảng trường liên quan đến thiên niên kỷ à? Hay là hai trăm năm mươi năm? Nó nghĩa là gì thế?”

      “Lạy Chúa,” Sigurdur Óli rên rỉ và tắt máy.

      lâu sau đó, Erlendur dừng chiếc xe méo mó, cũ nát của mình lại đường, bên cạnh khu móng nhà ở Grafarholt. Cảnh sát đến và bao quanh trường bằng dải băng vàng. Erlendur phải chui qua đó để vào. Elínborg và Sigurdur Óli xuống chỗ móng nhà, họ đứng bên cạnh bức tường đầy bùn đất. Người sinh viên y khoa trình báo với họ về những mẩu xương. Người mẹ ấy cũng đưa tất cả bọn trẻ về nhà. Nhân viên y tế quận Reykjavík, người đàn ông to béo khoảng 50 tuổi, lóng ngóng trèo xuống trong ba cái thang bắc từ dưới móng nhà lên. Erlendur theo sau ông ta.

      Giới truyền thông tỏ ra khá quan tâm đến vụ những chiếc xương. Các phóng viên tập trung đông đảo ở trường, còn những người dân sống ở đó xếp thành hàng quanh khu vực. số người chuyển đến khu này, trong khi số khác vẫn còn làm việc trong những ngôi nhà có mái che, tay vẫn cầm búa và xà beng, họ bối rối hiểu lộn xộn này là do đâu. Lúc này là cuối tháng Tư, tiết trời xuân dịu và trong trẻo.

      Đội pháp y làm nhiệm vụ, họ cẩn thận cạo những mẩu xương ra khỏi bức tường đất. Họ hứng đất vào những cái bay , sau đó đổ tất cả vào túi nhựa. phần của bộ xương lộ ra khỏi bức tường. Có thể thấy cánh tay, phần của lồng ngực và xương hàm dưới.

      “Đó là Người-Thiên-Niên-Kỷ phải ?” Erlendur hỏi trong lúc đến bức tường.

      Elínborg liếc mắt nhìn Sigurdur Óli đầy nghi vấn, lúc này đứng sau lưng Erlendur, lấy ngón tay trỏ chỉ vào đầu và xoay vòng vòng ra chiều hiểu.

      “Tôi gọi cho Bảo tàng Quốc gia,” Sigurdur Óli và đưa tay lên gãi đầu khi thấy Erlendur đột ngột quay lại nhìn mình. “Có nhà khảo cổ học đến đây. Có thể ông ta cho chúng ta biết nó là cái gì.”

      “Chúng ta cũng cần nhà địa chất học nữa chứ nhỉ?” Elínborg hỏi. “Để nghiên cứu về đất, xác định vị trí của những mẩu xương có liên quan đến nó và còn xác minh tuổi của các địa tầng nữa chứ.”

      giúp chúng tôi làm điều đó được à?” Sigurdur Óli hỏi. “ được học sao?”

      “Tôi chẳng nhớ gì về mấy cái đó cả,” Elínborg đáp. “Tuy vậy, tôi biết rằng những mẫu đất màu nâu kia được gọi là bụi bẩn.”

      ta cao đến mét tám đâu,” Erlendur nhận định. “Hơn mét thôi, cùng lắm là mét rưỡi. Bị đưa xuống đó cách vội vã. Theo tôi thấy đây là phần còn lại của cơ thể. ta ở đây chưa lâu đâu. Và chắc chắn phải là người Viking.”

      “Tại sao ông nghĩ đó là người đàn ông?” nhân viên y tế quận hỏi.

      người đàn ông ư?” Erlendur hỏi lại.

      “Ý tôi là,” nhân viên y tế , “đây rất có thể là người phụ nữ. Tại sao ông lại khẳng định rằng đó là người đàn ông?”

      “Hoặc là người phụ nữ,” Erlendur . “Tôi quan tâm.” Ông nhún vai. “Ông có thể cho chúng tôi biết vài điều về những mẩu xương này ?”

      “Thực tôi chưa được gì về chúng cả,” ông ta đáp.

      “Tốt nhất là nên kết luận gì cho đến khi họ đưa cả bộ xương ra khỏi đống đất đó.”

      “Đàn ông hay phụ nữ? Bao nhiêu tuổi?”

      biết được.”

      người đàn ông mặc quần bò và áo len kiểu truyền thống Iceland đến chỗ họ và tự giới thiệu mình là nhà khảo cổ học. Ông ta cao, chòm râu bẩn thỉu và xám xịt với hai chiếc răng nanh nhô ra khỏi cái miệng rộng. Ông ta quan sát đội pháp y làm việc và cầu họ dừng việc làm vô nghĩa đó lại. Hai người đàn ông cầm bay lưỡng lự. Họ mặc quần áo trắng, đeo găng tay cao su và kính bảo vệ. Theo Erlendur, với trang phục như vậy, họ có thể làm việc cho trạm năng lượng hạt nhân. Họ nhìn ông, chờ đợi ông ra lệnh.

      “Chúng ta cần đào đến chỗ ta, vì Chúa,” Răng Nanh vừa vừa vẫy vẫy tay. “Các ông định đào bộ xương lên với những cái bay này sao? Ai chịu trách nhiệm ở đây?”

      Erlendur tự nhận là mình.

      “Đây phải là phát mang tính khảo cổ,” Răng Nanh và lắc đầu. “Tên tôi là Skarphédinn, xin chào, nhưng tốt nhất hãy nên coi nó là cuộc khai quật khảo cổ. Ông có hiểu ?”

      “Tôi hiểu lắm,” Erlendur đáp.

      “Những mẩu xương này nằm trong đất trong khoảng thời gian tương đối ngắn. hơn sáu, bảy mươi năm, tôi nghĩ vậy. Thậm chí có thể là ít hơn. Quần áo vẫn còn phủ bên ngoài kia.”

      “Quần áo ư?”

      “Phải, đây này,” Skarphédinn vừa trả lời vừa đưa ngón tay mập ú ra chỉ. “Và ở nhiều chỗ khác nữa, tôi chắc chắn điều đó.”

      “Tôi cứ nghĩ rằng đó là phần thịt,” Erlendur ngượng ngùng .

      “Trong tình huống này, nếu ông muốn giữ cho chứng cứ nguyên vẹn tốt nhất là để cho đội của tôi khai quật nó bằng phương pháp riêng của mình. Nhóm pháp y có thể giúp chúng tôi làm chuyện đó. Chúng tôi cần chăng dây để giới hạn quanh khu vực này và đào sâu xuống đến chỗ bộ xương, thêm nữa là dừng việc cạo đất ở đây . Chúng tôi có thói quen đánh mất chứng cứ. Chỉ riêng cách bố trí của các mẩu xương cũng cho chúng ta biết rất nhiều điều. Những gì chúng ta tìm thấy xung quanh chúng có thể mang đến rất nhiều chứng cứ.”

      “Theo ông chuyện gì xảy ra?” Erlendur hỏi.

      “Tôi biết,” Skarphédinn đáp. “Còn quá sớm để kết luận điều gì. Chúng tôi cần khai quật nó lên, hy vọng là có vài điều hữu ích.”

      “Có phải người này bị chết cóng rồi sau đó bị vùi dưới đất phủ lên ?”

      ai có thể ngập vào trong đất sâu đến thế này được.”

      “Như vậy đây là ngôi mộ.”

      “Có vẻ là như vậy,” Skarphédinn cách kiêu ngạo. “Mọi chứng cứ đều ám chỉ điều đó. Chúng ta đào xuống đến đó chứ?”

      Erlendur gật đầu.

      Skarphédinn sải chân bước đến chỗ cái thang và leo từ móng nhà lên. Erlendur theo sát ông ta. Khi đứng nhìn từ xuống bộ xương, nhà khảo cổ học giải thích cách tốt nhất để có thể tiến hành vụ khai quật cho Erlendur hiểu. Erlendur bị Skarphédinn và những gì ông ta gây ấn tượng mạnh, thế nên chẳng bao lâu sau, nhà khảo cổ gọi điện cho đội của mình đến. Trong vài thập niên gần đây, Erlendur tham gia vào số vụ khai quật khảo cổ quan trọng nên ông hiểu những điều Skarphédinn . Erlendur tin tưởng ông ta tuyệt đối.

      Nhưng đội trưởng đội pháp y đồng ý. Ông ta quát ầm lên về việc chuyển giao toàn bộ công việc khai quật cho nhà khảo cổ học – người có lấy chút hiểu biết nào về việc điều tra tội phạm. Cách nhanh nhất là đẽo bộ xương ra khỏi bức tường và để cho họ có thể khám nghiệm cả vị trí cũng như các dấu vết nếu có, nhằm kiểm chứng xem đây có phải là hậu quả của hành vi phạm tội hay . Erlendur lắng nghe tất cả những điều này, sau đó tuyên bố rằng Skarphédinn và đội của ông ta được phép đào lối dẫn xuống chỗ bộ xương, cho dù chuyện đó có mất nhiều thời gian hơn dự kiến bao lâu chăng nữa.

      “Những khúc xương nằm ở đây được nửa thế kỷ rồi, thêm vài ngày nữa cũng chẳng ảnh hưởng gì,” ông , và theo cách đó, mọi chuyện được dàn xếp ổn thỏa.

      Erlendur nhìn quanh các ngôi nhà mới xây dở. Ông nhìn lên những téc nước địa nhiệt màu nâu rồi lại nhìn sang vị trí mà hồ Reynisvatn tọa lạc, sau đó ông nhìn về phía Đông, nơi có cánh đồng cỏ trải dài đến cuối quận.

      Bốn bụi rậm thu hút chú ý của ông, chúng cách khu đất này khoảng ba mươi mét. Erlendur đến chỗ đó và nghĩ thầm rằng đây là những bụi cây lý chua. Chúng búi lại với nhau thành đường thẳng hướng đến phía đông của khu móng nhà. Erlendur chạm tay lên những cành cây xù xì, trần trụi và tự hỏi biết ai trồng những cây này ở khu đất có người ở như vậy.


      3

      Các nhà khảo cổ đến, họ mặc áo khoác lông cừu và quần áo ấm chuyên dụng, được trang bị đầy đủ thìa muỗng và xẻng. Họ chăng dây thành khu vực khá rộng bao quanh bộ xương; và đến tối, họ bắt đầu đào xuống mặt đất phủ đầy cỏ cách cẩn trọng. Lúc đó trời vẫn còn sáng, mặt trời chỉ lặn sau chín giờ đêm. Đội khảo cổ gồm bốn người đàn ông và hai người phụ nữ, họ làm việc cần mẫn và có phương pháp, họ cũng cẩn thận kiểm tra từng xẻng đất xúc lên. có dấu hiệu nào cho thấy can thiệp của những kẻ đào mộ. Thời gian và công việc diễn ra móng nhà chứng minh điều đó.

      Elínborg tìm được nhà địa chất ở trường đại học, người này rất sẵn lòng giúp đỡ cảnh sát, ông ta bỏ dở mọi công việc làm và có mặt tại trường nửa tiếng sau cuộc đàm thoại với . Ông ta tầm trung tuổi, tóc đen, vóc người mảnh khảnh, giọng cực kỳ trầm và có bằng tiến sĩ ở Paris. Elínborg dẫn ông ta đến chỗ bức tường đất. Cảnh sát dựng chiếc lều lên bức tường để tránh dòm ngó của những người ngang qua. phác cử chỉ mời nhà địa chất chui xuống dưới cửa lều để vào trong.

      Trong lều được thắp sáng bằng bóng đèn huỳnh quang lớn, tuy nhiên chỗ đặt bộ xương vẫn bị bao phủ bởi thứ ánh sáng mờ mờ. Nhà địa chất vội vã trong khi xem xét. Ông ta kiểm tra đất, lấy ra nắm ở tường và siết chặt tay để bóp vỡ nó ra. Ông ta so sánh lớp địa tầng bên cạnh bộ xương với những địa tầng ở bên và bên dưới nó, kiểm nghiệm mật độ đất xung quanh những mẩu xương. Ông ta kể với bằng giọng đầy tự hào rằng mình từng được mời đến để phân tích hòn đất tìm thấy tại trường của vụ án nhằm giúp đỡ quá trình điều tra. Việc làm đó của ông ta đóng góp phần công sức . Sau đó, ông ta tiếp tục về những công trình nghiên cứu về tội phạm học và khoa học về đất – loại địa chất học pháp y, nếu như Elínborg hiểu đúng ý của ông ta.

      nghe nhà địa chất dông dài cho đến khi mất hết kiên nhẫn.

      “Bộ xương nằm ở đây được bao lâu rồi?” hỏi.

      “Rất khó ,” giọng nhà địa chất trầm xuống, tỏ vẻ hiểu biết. “Cũng lâu lắm đâu.”

      “Nhưng là bao lâu cơ ạ, về phương diện địa chất học ấy?” Elínborg hỏi. “ ngàn năm? Hay mười năm?”

      Nhà địa chất nhìn .

      “Rất khó ,” ông ta nhắc lại.

      “Ông có thể đưa ra câu trả lời chính xác đến đâu?” Elínborg bực mình. “Tính theo năm ấy?”

      “Rất khó .”

      cách khác, rất khó để có thể khẳng định điều gì phải , thưa ngài tiến sĩ?”

      Nhà địa chất nhìn Elínborg và mỉm cười.

      “Xin lỗi, tôi mải suy nghĩ. muốn biết điều gì nhỉ?”

      “Bao lâu rồi?”

      “Sao cơ?”

      “Thời gian bộ xương nằm ở đây ấy!!!” Elínborg rên rỉ.

      “Tôi đoán là khoảng chừng năm mươi đến bảy mươi năm. Tôi vẫn còn phải làm số xét nghiệm chi tiết hơn, nhưng tôi cho là thế. Từ mật độ của đất có thể thấy, đây thể là hầm mộ của tên cướp biển hay người ngoại đạo.”

      “Chúng tôi biết điều đó rồi,” Elínborg , “có những mảnh vụn quần áo…”

      “Đường màu xanh này,” nhà địa chất và chỉ vào địa tầng trong chân tường. “Đây là sáp của kỷ băng hà. Những đường nằm cách nhau khoảng đều đặn này,” ông ta tiếp, chỉ tay lên phía , “là đá tạo thành từ tro núi lửa. Những đường nằm ở vị trí cao nhất được hình thành từ cuối thế kỷ mười lăm. Đó là lớp đá dày nhất, hình thành từ vụ phun trào núi lửa ở Hekla và Katla. Ồ, bây giờ chúng ta được quay trở lại khoảng thời gian cách đây hàng ngàn năm. Lớp đá này cách xa tầng đá nền lắm, như thấy đây này,” ông chỉ lớp rộng nền móng. “Đây là khoáng vật đô-lê-rít ở Reykjavík, nó bao phủ toàn bộ khu vực bao quanh thành phố.”

      Ông ta nhìn Elínborg.

      “So với toàn bộ lịch sử đó, ngôi mộ này chỉ mới được đào lên cách đây phần triệu giây!”

      Khoảng 9.30 tối, các nhà khảo cổ dừng làm việc, Skarphédinn với Erlendur rằng họ quay trở lại sớm vào sáng hôm sau. Họ vẫn chưa tìm thấy gì đáng chú ý trong đất và mới chỉ bắt đầu dọn cây cối bề mặt. Erlendur hỏi liệu họ có thể đẩy nhanh tiến độ lên chút , nhưng Skarphédinn nhìn ông cách khinh khỉnh và hỏi liệu ông có muốn phá hủy chứng cứ hay . Họ thống nhất rằng nên vội vã trong việc đào đường xuống bộ xương.

      Người ta tắt bóng đèn huỳnh quang trong lều. Tất cả các phóng viên cũng rời . Việc phát ra bộ xương trở thành tâm điểm trong chương trình thời buổi tối. Họ phát những bức ảnh chụp Erlendur và các cộng của ông làm việc dưới khu móng nhà. đài nọ thậm chí còn chiếu cảnh các phóng viên cố gắng phỏng vấn Erlendur nhưng ông chỉ xua xua tay trước mặt và bỏ .

      Lại lần nữa, tĩnh lặng lại bao trùm lên toàn bộ khu đất. Những tiếng búa dồn dập cũng theo đó mà rơi tõm vào trong yên lặng. Những người làm việc trong các ngôi nhà xây dở trở về nhà. Những người mới dọn đến cũng ngủ. Người ta còn nghe thấy tiếng trẻ em bị quát mắng nữa. Hai cảnh sát trong chiếc xe tuần được giao nhiệm vụ cảnh giới khu vực suốt đêm. Elínborg và Sigurdur Óli về nhà. Nhóm pháp y – những người giúp đỡ các nhà khảo cổ – cũng trở về. Erlendur ở lại chuyện với Tóti và mẹ thằng bé về mẩu xương mà nó tìm thấy. Tóti cảm thấy rất hãnh diện khi được nhiều người quan tâm đến thế. “ chuyện khó lường,” người mẹ thở dài. Con tìm ra mẩu xương người nằm mặt đất. “Đây là sinh nhật tuyệt vời nhất mà cháu trải qua,” Tóti với Erlendur. “Từng trải qua.”

      Cậu sinh viên y khoa cũng mới đưa em trai mình quay về nhà. Erlendur và Sigurdur Óli chuyện ngắn gọn với ta về mọi chuyện. ta cũng kể lại việc mình quan sát đứa trẻ và ngỡ ngàng nhận ra đứa trẻ đó ngồi gặm khúc xương sườn người.

      “Làm thế nào mà cậu có thể nhận ra ngay đó là xương sườn người?” Erlendur hỏi. “Nó có thể là xương cừu chứ, giả dụ như vậy.”

      “Đúng, đó có thể là xương cừu lắm chứ?” Sigurdur Óli – chàng thành phố biết chút gì về vật nuôi trong các nông trại ở Iceland – cũng lên tiếng hỏi.

      thể thế được,” cậu sinh viên . “Tôi khám nghiệm tử thi nên tôi biết, còn nghi ngờ gì nữa.”

      “Cậu có thể cho chúng tôi biết dự đoán của cậu về thời gian mà những khúc xương đó được chôn ở đây ?” Erlendur hỏi. Mặc dù cuối cùng Elínborg cũng thông báo cho ông về kết quả điều tra của nhà địa chất học mà nhờ vả, nhưng ông cũng muốn nghe ý kiến của người thanh niên này.

      “Tôi xem qua mẫu đất, dựa tỉ lệ phân hủy, có thể rằng bộ xương được chôn ở đây khoảng bảy mươi năm. nhiều hơn thế lắm đâu. Nhưng tôi phải là chuyên gia.”

      , hẳn là thế rồi,” Erlendur . “Nhà khảo cổ học cũng nghĩ như thế và ông ta cũng phải là chuyên gia.”

      Ông quay sang Sigudur Óli.

      “Chúng ta cần kiểm tra lại những ghi chép về những người mất tích trong thời gian đó, khoảng từ năm 1930 đến năm 1940. Có thể là trước đó nữa. Xem có thể lần ra điều gì .”

      Trong ánh mặt trời buổi đêm, Erlendur đứng bên cạnh móng nhà và nhìn sang phía Bắc, hướng về thị trấn Mosfellsbaer, rồi nhìn sang Kollafjördur và núi Esja, ông có thể thấy những ngôi nhà dọc theo vịnh ở Kjalarnes. Ông cũng trông thấy những chiếc xe ô tô đường West men theo chân đồi Úlfarsfell đến Reykjavík. Bỗng Erlendur nghe thấy tiếng chiếc xe lái đến khu móng nhà, sau đó người đàn ông bước ra, trạc tuổi ông, béo, mặc chiếc áo gió màu xanh dương và đội chiếc mũ lưỡi trai nhọn. Ông ta đóng sầm cửa ô tô, hết nhìn Erlendur lại nhìn chiếc xe cảnh sát, sau đó quay sang khoảng đất bất thường gần chỗ móng nhà rồi đến cái lều trùm lên bộ xương.

      “Ông làm ở Sở Thuế vụ đấy à?” ông ta xấc xược hỏi trong lúc tiến đến chỗ Erlendur.

      “Sở Thuế vụ ư?” Erlendur hỏi lại.

      “Chẳng bao giờ tôi có lấy giây yên ổn với các ông cả,” người đàn ông . “Ông có trát hay…?”

      “Đây là đất của ông à?” Erlendur hỏi.

      “Ông là ai? Cái lều này là thế nào? Cái quái gì diễn ra ở đây thế?”

      Erlendur giải thích cho người đàn ông có tên là Jón này hiểu chuyện gì xảy ra. Té ra Jón là nhà thầu xây dựng và sở hữu khu đất này; ông ta bờ vực của phá sản và bị quây bởi những kẻ thu nợ. thời gian khá lâu rồi người ta còn tiến hành công việc những móng nhà này nữa, nhưng ông ta rằng mình vẫn thường xuyên đến đây để kiểm tra xem ván khuôn có bị phá hoại . Nhất là bởi lũ trẻ nghịch ngợm sống ở khu ngoại ô mới, chúng chuyên bày những trò ngu xuẩn trong các ngôi nhà. Jón chưa nghe tin tức gì về vụ phát ra bộ xương nên khi nhìn xuống móng nhà trong lúc nghe Erlendur về những việc mà cảnh sát và các nhà khảo cổ học làm, ông ta tin vào mắt mình.

      “Tôi chẳng biết gì về chuyện đó cả, và chắc chắn là những người thợ mộc của tôi vẫn chưa nhìn thấy những khúc xương đó. Nó là ngôi mộ cổ à?” Jón hỏi.

      “Chúng tôi vẫn chưa biết,” Erlendur đáp, ông muốn để lộ ra thêm thông tin nào. “Ông có biết gì về mảnh đất phía đông đằng kia ?” ông hỏi, và chỉ tay về phía những bụi cây lý chua.

      “Tôi chỉ biết đó là mảnh đất tốt để xây dựng,” Jón . “Nhưng có lẽ tôi cũng chẳng sống đến cái ngày mà Reykjavík mở rộng ra tận ngoài này.”

      “Có thể thành phố phát triển hơn về quy mô,” Erlendur . “Cây lý chua mọc dại ở Iceland à? có biết gì về chuyện đó ?”

      “Cây lý chua á? biết đâu. Chưa bao giờ nghe đến nó.”

      Họ chuyện vài phút nữa trước khi Jón lái xe .

      Erlendur có cảm giác rằng các chủ nợ của ông ta sắp sửa chiếm mảnh đất này, nhưng vẫn có chút hy vọng nếu như ông ta có thể nặn ra được khoản vay nào đó.

      Erlendur định bụng tự về nhà. Vầng mặt trời buổi đêm tỏa ra thứ ánh sáng đỏ rực rỡ nền trời phía tây, trải dài từ biển vào đất liền. Trời bắt đầu se se lạnh.

      Erlendur quan sát xâm chiếm của bóng tối cách chăm chú. Ông đá mấy cục đất và dạo xung quanh, hiểu tại sao mình vẫn còn lưỡng lự chưa về. Chẳng có gì chờ đợi mình ở nhà cả, ông nghĩ trong lúc di di chân đất. có gia đình nào chờ đón ông, có người vợ nào để kể cho ông ngày hôm nay của ấy ra sao. có đứa con nào với ông về những việc chúng làm ở trường. Chỉ có mỗi chiếc ti vi cũ rích, cái ghế bành, chiếc thảm rách nát, những tờ giấy gói đồ ăn mang về để bừa bộn trong bếp và những bức tường chật kín sách để ông đọc trong lúc độc. Rất nhiều cuốn trong số đó về những vụ người mất tích ở Iceland, về nỗi khổ sở của các du khách trong thiên nhiên hoang dã, và những cái chết đường đồi núi, của những ngày xa xưa.

      Bất thình lình Erlendur cảm thấy có vật gì đó cưng cứng dưới chân mình. Nó giống như viên sỏi trồi lên nền đất. Ông lấy ngón chân đẩy nhè viên sỏi mấy lần nhưng nó vẫn ở nguyên chỗ cũ. Ông cúi xuống và bắt đầu cào đất xung quanh nó cách cẩn thận. Skarphédinn bảo ông được di chuyển bất cứ thứ gì trong lúc các nhà khảo cổ có mặt ở đó. Erlendur miễn cưỡng lôi viên sỏi lên nhưng được. Ông đào xuống sâu hơn, và đến khi ông đào được viên nữa giống như thế, rồi đến viên thứ ba, thứ tư, thứ năm, tay ông lấm bẩn. Erlendur quỳ xuống, xúc đất khắp nơi xung quanh mình. Vật thể đó dần dần lộ ra và ngay lập lức Erlendur nhìn chằm chằm vào đó, và theo như tất cả những gì mà ông có thể hình dung ra, nó là bàn tay. Năm ngón tay xương xẩu và xương lòng bàn tay lộ ra mặt đất. Ông từ từ đứng lên.

      Năm ngón tay xòe ra như thể người nằm dưới đó cố căng bàn tay để chộp lấy thứ gì đó hoặc để tự vệ, hoặc để cầu xin lòng thương hại. Erlendur đứng đó, sững sờ. Những mẩu xương căng ra về phía ông từ mặt đất giống như lời cầu khẩn khoan dung, và làn gió buổi đêm khiến toàn thân ông ớn lạnh.

      Còn sống, Erlendur nghĩ. Ông nhìn về phía những bụi cây lý chua.

      có còn sống ?” ông thầm nghĩ.

      Ngay lúc đó, điện thoại của ông chợt reo lên. đứng giữa tĩnh lặng của đêm, chìm đắm trong suy nghĩ, Erlendur phải mất lúc mới nhận ra là có chuông điện thoại. Ông lấy nó ra khỏi túi áo khoác và nghe máy. Lúc đầu ông chỉ nghe thấy thanh rè rè như tiếng quay mài.

      “Cứu con,” giọng vang lên và ông nhận ra ngay lập tức. “Làm ơn. Cứu con!”

      Sau đó đường dây bị ngắt.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      4

      Ông thể biết được cuộc gọi vừa rồi từ đâu đến. Màn hình điện thoại của ông lên dòng chữ “ số”. Đó là giọng của con ông, Eva Lind. Ông nhăn mặt lại khi nhìn chằm chằm vào điện thoại, nó giống như mảnh thủy tinh chọc thủng tay ông, nhưng nó rung lại nữa. Erlendur nhớ rằng lần cuối cùng hai bố con chuyện với nhau là khi con bé gọi cho ông và rằng mình bao giờ muốn gặp lại bố nữa. Ông đứng sững, đầy kinh ngạc, chờ thêm cuộc gọi nữa nhưng nó bao giờ xuất .

      Rồi ông lao lên xe.

      Ông liên lạc gì với Eva Lind hai tháng rồi. Chuyện này chẳng có gì là lạ cả. Con ông sống cuộc sống của riêng nó mà để cho ông có nhiều cơ hội xen vào. Con bé mới ở tuổi hai mươi. con nghiện. Cuộc gặp gần đây nhất của hai bố con kết thúc bằng trận cãi nhau nảy lửa. Cuộc cãi vã đó diễn ra trong căn hộ của ông và khi con bé lao ra ngoài, nó rằng ông ghê tởm.

      Erlendur còn có đứa con trai, Sindri Snaer, nhưng nó mấy khi liên lạc với bố. Nó và Eva Lind trở thành trẻ mồ côi khi Erlendur bỏ nhà ra và để lại chúng ở cùng với mẹ. Vợ cũ của Erlendur bao giờ tha thứ cho ông sau khi họ ly dị, bà ta cho phép ông được gặp các con. Ông càng ngày càng hối hận vì để cho bà ta tự quyết định. Hai đứa trẻ tìm đến ông khi chúng trưởng thành hơn.

      yên tĩnh của đêm mùa xuân lan dần Reykjavík. Erlendur phóng xe nhanh ra khỏi Quảng trường Millennium, hướng về con đường dẫn vào thành phố. Ông kiểm tra thấy điện thoại của mình vẫn bật và đặt nó ở ghế trước. Erlendur lắm về cuộc sống riêng của con biết phải bắt đầu tìm nó ở đâu, mãi sau ông mới nhớ ra căn hộ dưới tầng hầm ở quận Vogar – nơi Eva Lind từng sống cách đây năm.

      Đầu tiên, Erlendur kiểm tra xem con có đến nhà mình hay , nhưng Eva Lind ở đó. Ông chạy quanh khu nhà nơi ông ở và lên cầu thang bộ khác. Eva có chìa khóa vào nhà bố. Ông gọi con từ ngoài cửa nhưng thấy ai đáp lại. Erlendur băn khoăn biết có nên gọi cho mẹ nó , nhưng ông thể ép mình làm chuyện đó. Họ chuyện với nhau hơn hai mươi năm qua. Ông nhấc điện thoại và gọi cho con trai. Ông biết rằng hai đứa nó vẫn giữ liên lạc với nhau, dù thường xuyên lắm. Ông lấy được số của Sindri từ tổng đài viễn thông. Hóa ra Sindri làm việc ở ngoài thành phố và nó biết gì về nơi chị nó ở.

      “Chán quá,” Erlendur rên rỉ.

      Ông lại nhấc điện thoại và hỏi xin số của vợ cũ.

      “Erlendur đây,” ông khi nghe bà trả lời. “Tôi nghĩ là Eva Lind gặp rắc rối. Bà có biết con bé ở đâu ?”

      Yên lặng.

      “Con bé gọi cho tôi nhờ tôi giúp đỡ nhưng nó lại tắt máy, tôi biết nó ở đâu. Tôi nghĩ là có chuyện gì đó.”

      Vẫn trả lời.

      “Halldóra?”

      “Ông gọi cho tôi sau suốt hai mươi năm trời đấy phải ?”

      Ông vẫn cảm nhận được căm hận lạnh lẽo trong giọng của bà sau ngần ấy thời gian và nhận ra rằng mình sai lầm.

      “Eva Lind cần được giúp đỡ, nhưng tôi biết con bé ở đâu.”

      “Giúp đỡ ư?”

      “Tôi nghĩ là có chuyện gì đó xảy ra với nó.”

      “Đó là lỗi của tôi sao?”

      “Lỗi của bà ư? . Đó phải là…”

      “Ông nghĩ rằng trước đây tôi cần được giúp đỡ sao? mình xoay xở với hai đứa trẻ. Ông chẳng làm gì để giúp tôi cả.”

      “Hall…”

      “Và bây giờ các con ông chệch đường ray. Cả hai đứa nó! Ông bắt đầu nhận thức được những gì mình làm chưa? Ông làm gì với mẹ con tôi? Ông làm gì với tôi và các con ông?”

      “Bà từ chối cho tôi thăm…”

      “Ông có biết rằng tôi phải lo lắng cho con bé cả triệu lần rồi ? Ông nghĩ rằng tôi chưa bao giờ phải đến nơi nào đó vì con bé sao? Lúc đó ông ở đâu?”

      “Halldóra, tôi….”

      “Đồ khốn nạn!” người phụ nữ gầm lên.

      Bà ta ném mạnh điện thoại xuống. Erlendur nguyền rủa mình vì gọi điện. Ông lên xe, lái đến quận Vogar và dừng lại bên ngoài tòa nhà đổ nát với những căn hộ tầng hầm lộ ra nửa mặt đất. Ông nhấn chiếc chuông treo lủng lẳng trước khung cửa của căn hộ nhưng nghe thấy tiếng chuông trong nhà vọng ra, vì thế ông gõ cửa. Ông sốt ruột chờ thanh của người nào đó ra mở cửa, nhưng chẳng có động tĩnh gì. Ông cầm lấy nắm đấm. Cửa khóa. Erlendur cẩn trọng bước vào nhà. Khi bước vào sảnh chính chật hẹp, ông nghe thấy tiếng trẻ con khóc yếu ớt từ đâu đó trong nhà vọng lại. mùi hôi thối nồng nặc của phân và nước tiểu xộc thẳng vào mũi khi ông tiến đến gần phòng khách.

      , khoảng chừng tuổi, ngồi sàn phòng khách, lả vì kêu khóc. Con bé run rẩy vì nức nở, người nó mặc mỗi cái áo chẽn mỏng. sàn nhà vương vãi rất nhiều vỏ bia, vỏ chai vodka, giấy gói đồ ăn nhanh và những gói sữa mốc meo, mùi hôi thối cay xè hòa lẫn mùi hôi thối từ đứa trẻ. Chẳng còn gì khác trong phòng khách ngoài chiếc ghế sô pha rách rưới, đó có người phụ nữ trần truồng nằm quay lưng lại phía Erlendur. Đứa bé chẳng chú ý gì đến ông trong lúc ông đến cái ghế sô pha. Ông cầm lấy cổ tay người phụ nữ và thấy mạch vẫn còn đập. Cánh tay ta chi chít vết kim tiêm.

      Căn bếp nằm phía sau phòng khách, Erlendur đến căn phòng bên cạnh và tìm thấy cái chăn để phủ lên người ta. Phòng khách còn có cửa khác nữa dẫn vào phòng tắm với vòi hoa sen.

      Erlendur bế đứa bé dưới sàn lên, mang nó vào nhà tắm, cẩn thận tắm cho nó bằng nước nóng và lấy khăn mặt quấn nó lại. Đứa bé thôi khóc nữa. Giữa hai chân nó có những vết mẩn đỏ do nước tiểu chảy vào. Erlendur nghĩ rằng đứa bé rất đói, nhưng ông tìm thấy thứ gì ăn được cho nó ngoại trừ thanh sô la ông tình cờ để trong túi. Ông bẻ ra miếng và đưa cho con bé, dỗ dành nó bằng giọng dịu dàng. Khi nhìn thấy những vết thương cánh tay và lưng nó, ông nhăn mặt lại vì đau đớn.

      Ông tìm thấy cái cũi trẻ em, gạt hết vỏ lon bia và giấy gói hamburger trong đó ra rồi nhàng đặt đứa bé xuống. Giận sôi lên, ông quay trở lại phòng khách. Ông biết cái đống nằm ghế sô pha kia có phải là mẹ đứa bé hay . Ông quan tâm. Ông kéo ta vào phòng tắm, đặt lên sàn và xịt nước lạnh vào người ta. Người phụ nữ co giật, thở hổn hển rồi hét lên như thể cố bảo vệ mình khỏi dòng nước lạnh.

      Erlendur vẫn tiếp tục xịt nước lạnh lên người phụ nữ hồi lâu trước khi khóa vòi, ném cái chăn lên người ta, dẫn ta vào phòng khách và đặt ta ngồi xuống ghế. Người phụ nữ tỉnh lại nhưng vẫn còn choáng váng và nhìn Erlendur bằng cặp mắt lờ đờ. ta nhìn quanh như thể vừa phát ra có thứ gì đó bị thiếu. ta chợt nhớ ra đó là cái gì.

      “Perla đâu rồi?” ta hỏi, người run lên cầm cập dưới tấm chăn.

      “Perla?” Erlendur tức giận . “Đó là loại tên dùng để gọi con chó con!”

      “Con tôi đâu?” người phụ nữ nhắc lại. ta khoảng ba mươi tuổi, mái tóc cắt ngắn, phấn son trang điểm trôi theo dòng nước và bây giờ phủ lem nhem khắp mặt ta. Môi của ta sưng phồng, trán cũng sưng lên như cục bướu và mắt phải tím bầm.

      có quyền hỏi về con bé,” Erlendur .

      “Cái gì cơ?”

      dám dí tàn thuốc lá vào con mình sao?”

      “Gì cơ? ! Ông…? Ông là ai?”

      “Hay tên súc vật nào đó đánh nhừ tử rồi dí tàn thuốc vào con bé?”

      “Đánh tôi nhừ tử ư? Cái gì cơ? Ông là ai?”

      “Tôi đưa Perla khỏi đây, tránh xa khỏi người mẹ như ,” Erlendur . “Tôi bắt cái thằng làm chuyện đó với bé. Vậy nên phải với tôi hai điều.”

      “Mang nó khỏi đây ư?”

      “Có từng sống ở đây cách đây vài tháng, hoặc năm, có biết gì về đó ? Tên ta là Eva Lind. Người gầy, tóc đen…”

      “Perla là đứa trẻ hay quấy nhiễu. Nó khóc suốt.”

      đáng thương hại…”

      “Nó làm cho ta điên tiết lên.”

      “Hãy bắt đầu từ Eva Lind trước. có biết nó ?”

      “Đừng đưa con bé . Tôi xin ông.”

      có biết Eva Lind ở đâu ?”

      “Eva chuyển cách đây hai tháng rồi.”

      có biết là đâu ?”

      . ta cùng Baddi.”

      “Baddi ư?”

      ta trông coi ở quán rượu. Tôi rêu rao lên báo nếu ông mang con bé . Thế nào? Tôi rêu rao báo đấy.”

      ta làm ở đâu?”

      ta cho ông biết. Erlendur đứng lên, gọi ngay xe cứu thương và báo có ca khẩn cấp cho Hội đồng Bảo vệ Trẻ em. Ông mô tả ngắn gọn về trường hợp này.

      “Còn điều thứ hai,” Erlendur trong lúc chờ xe cứu thương. “Thằng con hoang nào đánh lên bờ xuống ruộng thế này?”

      “Đừng nhắc đến ta nữa,” ta đáp.

      “Rồi cứ để ta được thể làm tới à? muốn chuyện đó lắm sao?”

      .”

      “Vậy ở đâu?”

      “Đó chỉ là…”

      “Phải rồi, sao nào? Chỉ là cái gì?”

      “Nếu như ông định bắt …”

      “Đúng.”

      “Nếu như ông định bắt , hãy đảm bảo là phải giết . Nếu , giết tôi,” ta và cười nhạt.

      Baddi là tên cơ bắp với cái đầu khác thường, gác cửa cho câu lạc bộ múa thoát y có tên là Count Rosso ở trung tâm Reykjavík. vẫn chưa đứng ở cửa khi Erlendur đến, nhưng tay gác cửa khác có vóc người tương tự cho Erlendur biết nơi có thể tìm thấy ta.

      “Thằng đó chăm sóc những nơi riêng tư,” tay gác cửa , và Erlendur hiểu ý cho lắm.

      “Màn múa bí mật ấy,” giải thích. “Những màn trình diễn bí mật.” Sau đó đảo mắt nhìn quanh với vẻ nhẫn nhịn.

      Erlendur vào trong câu lạc bộ, bên trong tràn ngập thứ ánh sáng màu đỏ tối. Chỉ có quầy bar trong phòng, vài bộ bàn ghế, và hai người đàn ông xem trẻ trượt lên cái cột kim loại dựng giữa sàn nhảy được nâng cao hơn so với mặt đất, ta nhảy nền nhạc pop nhạt nhẽo. Người vũ nữ nhìn Erlendur, bắt đầu nhảy trước mặt ông như thể ông là khách hàng được chờ đợi, sau đó cởi bộ quần áo lót mỏng manh ra. Erlendur nhìn ta với ánh mắt thương hại sâu sắc đến nỗi ta bắt đầu bối rối và mất thăng bằng, nhưng sau đó ta lấy lại được cân bằng ngay và uốn éo lượn ra xa chỗ ông nhằm giữ lại chút phẩm giá cho mình trước khi vô tình làm rơi quần áo lót sàn.

      Trong khi cố gắng tìm hiểu xem những màn trình diễn bí mật được tổ chức tại đâu, Erlendur nhìn thấy hành lang dài đối diện trực tiếp với sàn nhảy nên ông tiến lại đó. Hành lang sơn đen và những bậc cầu thang dẫn thẳng xuống tầng hầm. Erlendur nhìn thấy lắm, nhưng ông lần lần xuống cầu thang cho đến khi gặp cầu thang sơn đen khác. Có bóng đèn màu đỏ duy nhất treo trần nhà và ở cuối hành lang có người đứng gác, cơ bắp ta cuồn cuộn, hai cánh tay lực lưỡng khoanh trước ngực, liếc nhìn Erlendur. Trong hành lang đó có sáu cánh cửa, mỗi bên ba cái. Ông có thể nghe thấy tiếng đàn violon chơi bản sầu muộn phát ra từ phòng nào đó. Tên gác cửa vạm vỡ tiến đến chỗ Erlendur.

      là Baddi phải ?” Erlendur hỏi.

      của ông đâu?” Tên gác cửa hỏi lại, cái đầu thó nhô lên như cái bướu mọc ra cái cổ béo quay của .

      “Tôi chuẩn bị hỏi điều đó đấy,” Erlendur đầy ngạc nhiên.

      “Tôi ư? , tôi cung cấp . Ông phải lên tầng và chọn lấy rồi mang ta xuống đây.”

      “À, tôi hiểu rồi,” Erlendur và nhận ra hiểu lầm. “Tôi tìm Eva Lind.”

      “Eva ư? ta bỏ lâu rồi. Ông từng cùng ta à?”

      Erlendur nhìn ta chằm chằm.

      “Bỏ lâu rồi ư? Ý là sao?”

      “Đôi lúc ta ở đây. Ông quen biết ấy như thế nào?”

      cánh cửa hành lang mở ra và gã đàn ông trẻ bước ra ngoài, ta kéo khóa quần. Erlendur có thể trông thấy trần truồng cúi xuống nhặt quần áo sàn nhà. Gã đàn ông chen qua giữa họ, vỗ vỗ vào vai Baddi rồi mất hút cầu thang. trong phòng nhìn vào mặt Erlendur rồi đóng sầm cửa lại.

      “Ý là ở dưới đây à?” Erlendur đầy ngạc nhiên. “Eva ở dưới đây sao?”

      “Cách đây lâu rồi. Có trông giống ta trong phòng này đấy,” Baddi với tất cả nhiệt tình của tay bán xe ô tô qua sử dụng, rồi chỉ vào cánh cửa. “Đó là sinh viên y khoa đến từ Lithuania. ta chơi đàn violon. Ông nghe ta đàn chưa? ta học ở trường khá nổi tiếng ở Ba Lan. Họ đến đây. Kiếm tiền. Rồi lại tiếp tục học.”

      có biết tôi phải tìm Eva Lind ở đâu ?”

      “Chúng tôi bao giờ tiết lộ chỗ ở của ,” Baddi với vẻ mặt sung sướng đặc biệt.

      “Tôi cần biết chỗ ở của ,” Erlendur mệt mỏi . Ông cố gắng để mất bình tĩnh, biết rằng mình phải cẩn thận, phải moi được thông tin bằng biện pháp mềm mỏng, mặc dù ông muốn vặn ngoéo cổ của gã này ngay lập tức. “Tôi nghĩ là Eva Lind gặp rắc rối và con bé nhờ tôi giúp đỡ,” ông bằng giọng bình tĩnh hết sức có thể.

      “Vậy ông là ai, bố ả sao?” Baddi đầy vẻ chế nhạo và cười rinh rích.

      Erlendur nhìn Baddi, tính toán xem làm thế nào mình có thể túm được cái đầu hói bé tí của . Baddi cười ngoác mồm ra đến tận mang tai khi phát ra mình đánh trúng tim đen của người đối diện. Vẫn tình cờ như mọi khi. từ từ lùi lại sau bước.

      “Ông là cớm à?” hỏi.

      Erlendur gật đầu.

      “Đây là nơi làm ăn hoàn toàn hợp pháp.”

      “Tôi quan tâm. có biết gì về Eva Lind ?”

      ta mất tích rồi à?”

      “Tôi biết,” Erlendur . “Con bé mất liên lạc với tôi. Lúc trước nó có gọi cho tôi và nhờ tôi giúp đỡ, nhưng tôi biết nó ở đâu. Tôi nghe biết con bé.”

      “Có dạo tôi ở cùng ta, ta với ông điều đó à?”

      Erlendur lắc đầu.

      ai ở được với ta đâu. ả gàn dở chính cống.”

      có thể cho tôi biết con bé ở đâu ?”

      “Lâu lắm rồi tôi gặp ta. ta ghét ông ra mặt. Ông biết điều đó chứ?”

      “Hồi giao du với nó, ai là người mang hàng cho nó?”

      “Ý ông là người giao hàng à?”

      “Đúng, người giao hàng của nó ấy.”

      “Ông tìm sao?”

      “Tôi tìm kiếm ai cả. Tôi phải tìm ra Eva Lind. có giúp tôi hay ?”

      Baddi cân nhắc các lựa chọn. chẳng việc gì phải giúp người đàn ông này hay Eva Lind cả. ta có xuống tận địa ngục, cũng chẳng quan tâm. Nhưng có điều gì đó vẻ mặt của ông thám tử bảo với rằng tốt hơn là nên giúp ông ta chứ nên chống lại.

      “Tôi biết gì về Eva Lind đâu,” đáp. “Hỏi

      Alli xem.”

      “Alli ư?”

      “Và đừng có cho biết là tôi chỉ cho ông đến đó.”


      5

      Erlendur lái xe đến khu cũ kỹ nhất gần bến cảng của thành phố, nghĩ mông lung về Eva Lind và Reykjavík. Ông được sinh ra ở đây và vẫn tự coi mình là người ngoài cuộc, cho dù phần lớn cuộc đời mình ông sống ở thành phố này và chứng kiến việc nó mở rộng ra đến tận các vịnh và đồi núi khi dân số ở nông thôn giảm dần . thành phố đại căng phình ra với những người còn muốn sống ở nông thôn hoặc những làng chài, hoặc thể sống ở đó, và họ đến thành phố này để xây dựng cuộc sống mới cho chính mình, nhưng mất gốc và có quá khứ, bị bỏ lại với tương lai mờ mịt. Ông chưa bao giờ cảm thấy thoải mái trong thành phố này.

      Ông thấy mình giống như kẻ xa lạ.

      Alli khoảng chừng hai mươi tuổi, người gầy nhẳng, hay cáu gắt và mặt đầy tàn nhang, răng cửa của mất, khuôn mặt rầu rĩ và xanh xao, ho khù khụ. Alli ngồi ở cái nơi mà Baddi , quán Kaffi Austurstraeti, mình bàn với cốc bia trống trước mặt. Trông có vẻ buồn ngủ, đầu rũ xuống, tay khoanh trước ngực. mặc cái áo có mũ bẩn thỉu màu xanh.

      Baddi miêu tả khá chính xác. Erlendur ngồi xuống cùng bàn với .

      là Alli phải ?” ông hỏi, nhưng nhận được câu trả lời. Ông nhìn quanh quán bar. Trong này khá tối, chỉ có nhúm người ngồi ở chiếc bàn . ca sĩ nhà quê đáng thương biểu diễn bài hát não nề qua cái loa ở phía họ. người phục vụ ngồi cái ghế đẩu đằng sau quầy rượu, ta đọc quyển sách gáy mềm cũ nát.

      Erlendur nhắc lại câu hỏi và đẩy vào vai người thanh niên. ta tỉnh dậy và nhìn Erlendur với cặp mặt đờ đẫn.

      “Bia nữa nhé?” Erlendur hỏi, cố gắng nặn ra nụ cười. ghê tởm chạy dọc mặt ông.

      “Ông là ai?” Alli hỏi, mắt thẫn thờ. còn chẳng buồn che giấu vẻ bề ngoài ngu ngốc của mình.

      “Tôi tìm Eva Lind. Tôi là bố nó và tôi rất vội. Con bé gọi cho tôi và rằng cần giúp đỡ.”

      “Ông là cớm à?” Alli hỏi.

      “Phải, tôi là cớm,” Erlendur đáp.

      Alli ngồi ngay người lại ghế và lén lút nhìn xung quanh.

      “Tại sao ông lại hỏi tôi?”

      “Tôi biết rằng cậu có quen Eva Lind.”

      “Làm thế nào mà ông biết?”

      “Cậu có biết nó ở đâu ?”

      “Ông mua bia cho tôi chứ?”

      Erlendur nhìn ta và ngay lập tức băn khoăn biết mình dùng đúng cách tiếp cận hay chưa, nhưng dù thế nào ông cũng vẫn phải tiếp tục, thời gian của ông sắp hết rồi. Ông đứng lên và nhanh về phía quầy rượu. Người phục vụ nhìn lên lưỡng lự, ta đặt cuốn sách xuống đầy tiếc nuối rồi đứng lên. Erlendur gọi cốc bia lớn. Ông lần tìm ví thấy Alli bỏ . Ông nhìn quanh và thấy cửa vẫn đóng. Để mặc người phục vụ với cốc bia, ông chạy ra ngoài và thấy Alli lẩn trong những ngôi nhà cũ kỹ ở Grjótathorp.

      Alli chạy nhanh lắm và chạy được lâu. nhìn quanh thấy Erlendur đuổi theo bèn cố gắng tăng tốc nhưng còn sức lực. Erlendur nhanh chóng bắt kịp Alli và xô mạnh xuống đất. Hai lọ thuốc lăn ra khỏi túi của , Erlendur nhặt chúng lên. Trông chúng giống như mấy thứ thuốc kích thích vậy. Ông xé áo khoác của Alli ra và nghe thấy nhiều tiếng chai lọ kêu lách cách. Khi lấy hết mọi thứ trong túi áo khoác của ra, Erlendur nghĩ những cái lọ này có thể nhét đầy cả tủ thuốc lớn.

      “Họ … giết… tôi... mất,” Alli thở hổn hển khi cố gắng đứng lên. Có vài người xung quanh đó. cặp vợ chồng già bên kia đường chứng kiến mọi chuyện, nhưng khi thấy Erlendur nhặt hết lọ này đến lọ khác lên, họ nhanh chóng tránh chỗ khác.

      “Tôi quan tâm,” Erlendur .

      “Đừng lấy chúng . Ôi, ông biết đâu, cái cách họ...”

      “Ai cơ?”

      Alli núp mình vào bức tường của ngôi nhà và bắt đầu khóc.

      “Đây là cơ hội cuối cùng của tôi,” , nước mũi chảy ra ròng ròng.

      “Tôi cần biết cái cơ hội đó là cái quái gì. Lần cuối cùng cậu gặp Eva Lind là khi nào?”

      Alli khịt khịt mũi, rồi liếc nhìn Erlendur như thể tìm ra được cách giải quyết.

      “Được rồi.”

      “Sao cơ?”

      “Nếu tôi cho ông biết về Eva, ông có trả những thứ đó cho tôi ?” hỏi.

      Erlendur tỏ ý cân nhắc chuyện đó.

      “Nếu cậu biết về Eva, tôi trả chúng lại cho cậu. Nếu cậu dối, tôi quay trở lại và dần cậu như dần cái bạt lò xo đấy”.

      “Được rồi, được rồi. Hôm nay Eva có đến gặp tôi. Ông biết đấy, ta nợ tôi món tiền. Tôi đưa thêm chút nào cho ta nữa. Tôi giao hàng cho những người có thai.”

      “Ồ.” Erlendur . “Cậu là người có nguyên tắc đấy.”

      ta tạt qua với cái bụng kễnh lên, ta khóc lóc, van vỉ tôi và làm ầm lên khi tôi đưa cho xu nào. Sau đó ta .”

      “Cậu có biết con bé đâu ?”

      “Ồ, .”

      “Nó sống ở đâu?”

      đứa con tiền. Tôi cần tiền, ông thấy đấy. Hoặc họ giết tôi.”

      “Cậu có biết nó sống ở đâu ?”

      “Sống á? Chẳng ở đâu cả. ta lao vào bất cứ chỗ nào có thể. Và nẫng đủ mọi thứ. ta nghĩ rằng mình có thể kiếm tiền mà mất gì.” Alli khịt mũi cách miệt thị. “Giống như là ông có thể cho thuốc vậy. Hờ, cứ làm như thuốc là hàng miễn phí ấy!”

      Kẽ hở nơi cái răng cửa bị mất của khiến lời như bị ngọng. Đột nhiên trông như đứa trẻ to xác trong cái áo dài bẩn thỉu cố gắng làm hành động dũng cảm.

      Nước mũi lại bắt đầu chảy ròng ròng mặt .

      “Con bé có thể đâu?” Erlendur hỏi.

      Alli nhìn ông và khụt khịt.

      “Ông có trả chúng cho tôi ?”

      “Con bé đâu?”

      “Tôi có được lấy lại nếu tôi với ông ?”

      “Nếu cậu . Nó ở đâu?”

      “Có đứa con khác ở cùng ta.”

      “Ai? Tên là gì?”

      “Tôi biết nơi ta ở.”

      Erlendur bước lại gần hơn.

      “Cậu được lấy lại toàn bộ,” ông . “ đó là ai?”

      “Ragga. ta sống ở gần lối rẽ. Ở Tryggvagata ấy. tầng cao nhất của tòa nhà lớn nhìn ra xưởng đóng tàu.” Alli ngập ngừng giơ tay ra. “Được chưa? Ông hứa rồi. Trả lại cho tôi . Ông hứa rồi mà.”

      “Chẳng có cách nào khiến tôi có thể trả lại cho cậu được, đồ ngu ạ,” Erlendur . “Tôi mà có thời gian, tôi đưa thẳng cậu đến sở cảnh sát và tống cậu vào tù. Nên như thế này là tốt cho cậu lắm rồi đấy.”

      , họ giết tôi mất! Đừng! Hãy trả nó cho tôi, làm ơn . Hãy trả nó cho tôi!”

      Phớt lờ ta, Erlendur để Alli rên rỉ chỗ bức tường, ta nguyền rủa mình và tự đập đầu vào tường trong cơn thịnh nộ yếu ớt. Từ xa, Erlendur vẫn nghe thấy tiếng nguyền rủa của , nhưng ông ngạc nhiên khi thấy Alli chửi ông mà chửi chính mình.

      “Thằng ngu chó chết, mày là thằng ngu chó chết…”

      Ông nhìn thấy Alli tự tát vào mặt mình.

      thằng bé tầm bốn tuổi mặc bộ quần áo ngủ, chân trần, tóc bẩn, ra mở cửa và nhìn lên Erlendur, lúc này ông khom người xuống chỗ nó. Khi Erlendur đưa tay ra để vuốt má thằng bé, nó thình lình hất mạnh đầu ra sau. Erlendur hỏi xem mẹ nó có nhà , nhưng thằng bé chỉ nhìn ông đầy nghi ngại mà trả lời.

      Eva Lind có ở đây bé con?” ông hỏi.

      Erlendur cảm thấy thời gian sắp hết. Từ lúc Eva Lind gọi đến bây giờ hai tiếng đồng hồ. Ông cố xua cái ý nghĩ rằng quá muộn để cứu con bé.

      Erlendur cố gắng hình dung ra tình thế mà Eva Lind lâm vào, nhưng ông nhanh chóng thôi dày vò mình theo cách đó thêm nữa mà chỉ tập trung vào việc tìm con. Bây giờ ông biết người ở cùng Eva Lind. Ông cảm thấy mình đến gần con bé hơn.

      trả lời, thằng bé lao thẳng vào căn hộ và biến mất. Erlendur theo sau nhưng thấy nó đâu. Căn hộ tối đen như mực và Erlendur phải sờ soạng để tìm công tắc bật đèn tường. Sau khi thử mấy lần được, ông mò mẫm tìm đường sang căn phòng . Cuối cùng cũng có bóng đèn lẻ loi treo trần nhà lập lòe tỏa sáng. sàn nhà chẳng có gì, chỉ toàn bê tông lạnh lẽo. Những tấm đệm bẩn thỉu trải khắp sàn nhà và đó có nằm, trẻ hơn Eva Lind chút, mặc quần jean rách tả tơi với cái áo phông màu đỏ. hộp kim loại chứa hai kim tiêm mở ra bên cạnh . ống nhựa mỏng nằm cong queo sàn nhà. Hai người đàn ông nằm ngủ những tấm nệm ở cạnh ta.

      Erlendur quỳ xuống và lay lay ta nhưng ta phản ứng gì. Ông nhấc đầu ta lên, dựng cho ngồi dậy và vỗ vào má. lầm bầm. Ông đứng lên, nhấc người ta dậy và cố gắng bắt ta lại, lát sau ta bắt đầu tỉnh lại. mở mắt ra. Erlendur thấy có chiếc ghế ngồi ăn trong bóng tối nên ông đặt ta ngồi xuống. ta nhìn ông rồi gục đầu xuống ngực. Ông tát vào mặt ta khiến ta tỉnh lại.

      “Eva Lind đâu?” Erlendur hỏi.

      “Eva?” lẩm bẩm.

      “Hôm nay cùng nó. Nó đâu rồi?”

      “Eva…”

      Đầu lại gục xuống. Erlendur thấy thằng bé đứng ở cửa ra vào. tay nó cầm con búp bê, tay còn lại cầm bình sữa rỗng và giơ về phía Erlendur. Sau đó nó đưa cái bình vào miệng, rồi Erlendur nghe thấy tiếng nó bú. Ông nhìn thằng bé và nghiến răng lại trước khi lấy điện thoại ra gọi trợ giúp.

      bác sĩ đến cùng chiếc xe cứu thương, theo như cầu của Erlendur.

      “Tôi nhờ ông tiêm cho ta mũi,” Erlendur .

      mũi tiêm ư?” ông bác sĩ hỏi.

      “Tôi nghĩ ta dùng ma túy. Ông có mang theo naloxone hay narcanti ?”

      “Có, tôi…”

      “Tôi phải chuyện với ta. Ngay bây giờ. Con tôi gặp nguy hiểm. này biết nó ở đâu.”

      Ông bác sĩ nhìn , rồi lại nhìn sang Erlendur. Ông ta gật đầu.

      Erlendur đặt nằm lại xuống nệm và phải mất lúc ta mới tỉnh lại. Các nhân viên cứu thương đứng bên , cầm theo cái cáng. Thằng bé con trốn trong phòng. Hai người đàn ông nằm trượt ra khỏi nệm.

      Erlendur cúi mình bên lúc này từ từ lấy lại nhận thức. ta hết nhìn Erlendur lại nhìn lên ông bác sĩ và những người cứu thương.

      “Có chuyện gì xảy ra thế?” ta hỏi như thể với chính mình.

      có biết Eva Lind ?” Erlendur hỏi.

      “Eva ư?”

      “Tối nay nó cùng . Tôi nghĩ là nó gặp nguy hiểm. có biết nó đâu ?”

      “Eva ổn à?” ta hỏi lại, sau đó nhìn quanh. “Kiddi đâu?”

      “Có thằng bé trong phòng ở đằng kia,” Erlendur . “Nó chờ đấy. cho tôi biết phải tìm Eva Lind ở đâu.”

      “Ông là ai?”

      “Bố Eva Lind.”

      “Ông cớm đấy à?”

      “Phải.”

      ấy thể chịu nổi ông.”

      “Tôi biết. có biết nó ở đâu ?”

      ấy bị đau. Tôi bảo ấy bệnh viện. ấy bộ đến đó.”

      “Đau ư?”

      “Bụng của ấy giết chết ấy.”

      “Nó bắt đầu từ đâu? Từ đây à?”

      “Lúc đó chúng tôi ở bến xe bus.”

      “Bến xe bus ư?”

      ấy chuẩn bị đến Bệnh viện Quốc gia. ấy ở đó à?”

      Erlendur đứng lên và ông bác sĩ đọc cho ông số điện thoại tổng đài của bệnh viện. Ông gọi điện chỉ để nghe người ta rằng có ai tên là Eva Lind nhập viện trong vài giờ gần đây cả. nào tầm tuổi đến đó. Ông được nối máy đến khoa sản và cố gắng mô tả con mình chi tiết nhất có thể, nhưng bác sĩ hộ sinh có ca trực lúc đó trông thấy nào như vậy.

      Ông chạy ra khỏi căn hộ, leo lên xe và lao ra bến xe bus. Ở đó vắng bóng người. Trạm xe bus đóng cửa lúc nửa đêm. Ông để xe lại và chạy dọc đường Snorrabraut, dồn hết sức băng qua các ngôi nhà ở Nordurmýri và soi xét từng khu vườn để tìm con . Ông bắt đầu gọi tên con khi đến gần bệnh viện nhưng có ai đáp lại.

      Cuối cùng, ông tìm thấy con bé nằm trong vũng máu bãi cỏ có cây cối um tùm bao phủ, cách nhà hộ sinh chừng năm mươi mét. Nhưng ông đến quá muộn. Lớp cỏ bên dưới người con bé nhuốm đầy máu, quần bò của nó cũng thế.

      Erlendur quỳ xuống bên con , nhìn lên nhà hộ sinh và thấy mình qua cánh cửa cùng với Halldóra cách đây nhiều năm khi Eva Lind được sinh ra. Con bé sắp sửa chết ở cái nơi mà nó chào đời ư? Erlendur vuốt trán con , biết mình có dám di chuyển nó .

      Ông nghĩ rằng con bé mang thai được bảy tháng rồi.

      ***

      từng cố gắng trốn chạy khỏi ta, nhưng từ bỏ ý định đó từ rất lâu rồi.

      bỏ hai lần. Cả hai lần đó đều diễn ra khi họ còn sống trong căn hộ dưới tầng hầm ở Lindargata. năm sau lần đầu tiên chồng đánh nhừ tử, CHỒNG mất tự chủ lần thứ hai. vẫn tự gọi hành động đó như vậy khi về bạo lực mà giáng xuống đầu vợ. bao giờ cho đó là mất tự chủ. Đối với , dường như chưa bao giờ tự chủ hơn cái lần đánh giữa ban ngày ban mặt và lăng nhục thậm tệ. Thậm chí khi cơn giận lên đến đỉnh điểm, vẫn lạnh lùng, bình thản và nhận thức được tất cả những gì mình làm. Luôn luôn là như vậy.

      Thời gian trôi , nhận ra rằng mình cũng cần phải nuôi dưỡng cái phẩm chất đó để có thể thắng được . Nỗ lực bỏ trốn đầu tiên của bị thất bại thảm hại. vẫn chưa chuẩn bị đầy đủ, biết cân nhắc các lựa chọn có sẵn, biết phải về đâu. Đột nhiên thấy mình đứng ngoài đường trong cơn gió lạnh buốt vào buổi tối tháng Hai cùng hai đứa con. bế Símon tay và địu Mikkelína lưng, nhưng biết nên đâu. Tất cả những gì biết là phải bỏ trốn khỏi tầng hầm đó.

      gặp giáo sĩ, ông ta rằng người vợ tốt bao giờ bỏ rơi chồng. Đám cưới dưới chứng giám của Chúa là cực kỳ linh thiêng và con người ta phải chịu đựng nó để được sống cùng nhau.

      “Hãy nghĩ đến các con của con,” ngài giáo sĩ .

      “Con nghĩ đến chúng đây ạ,” đáp, và ông ta nở nụ cười nhân hậu.

      cố đến gặp cảnh sát. Những người hàng xóm gọi họ hai lần khi thấy người chồng tấn công . Mấy cảnh sát đến rồi thẳng vào tầng hầm, họ dàn xếp vụ cãi vã xong lại . Khi đứng trước mặt họ với mắt thâm tím và bờ môi nứt toác, cảnh sát bảo hai vợ chồng nên bình tĩnh giải quyết mọi chuyện và rằng họ gây mất trật tự. Lần thứ hai, cảnh sát mời ta ra ngoài chuyện. phải hét lên rằng ta đánh mình, thậm chí còn dọa giết mình, và đó phải là lần đầu tiên. Họ hỏi liệu trước đó có uống rượu . Câu hỏi đó lọt vào tai . ‘Uống rượu ấy,’ họ nhắc lại. ‘,’ trả lời. bao giờ uống rượu. Họ với chồng vài điều ở bên ngoài, ngay chỗ cửa chính, sau đó bắt tay ta rồi bỏ .

      Và khi cảnh sát hết, lại lấy dao cạo rạch vào má .

      Buổi tối hôm đó, sau khi gã chồng ngủ, cõng Mikkelína lên lưng và nhàng bế Símon ra khỏi căn buồng rồi bước lên cầu thang tầng hầm. làm cái xe đẩy cho Mikkelína từ chiếc xe cũ mà tìm thấy trong đống rác, nhưng đập nó gẫy tan tành trong cơn thịnh nộ, như thể lờ mờ nhận ra là vợ sắp bỏ rơi mình nên nghĩ rằng làm như thế ngăn được lại. Vụ bỏ trốn của hoàn toàn được tiên liệu từ trước. Cuối cùng, đến Tổ chức Cứu Thế Quân và được trú chân ở đó qua đêm. có người thân, cả ở Reykjavík hay bất cứ đâu cũng thế. Lúc gã chồng tỉnh dậy vào sáng hôm sau và phát ra vợ con mình bỏ , quýnh quáng chạy bổ tìm. lang thang khắp thành phố mà chỉ mặc độc cái áo sơ mi cộc tay. Rồi trông thấy vợ con ra từ Tổ chức Cứu Thế Quân. phát ra chồng khi ta giằng lấy thằng bé khỏi tay mình, bế thốc lấy con và quay về nhà mà nửa lời. Bọn trẻ quá sợ hãi đến nỗi dám cử động, rồi chỉ thấy Mikkelína với tay về phía mẹ và lặng lẽ khóc.

      nghĩ gì thế?

      Rồi đuổi theo họ.

      Sau lần thứ hai, dọa giết các con, và còn cố gắng bỏ trốn nữa. Lần đó, chuẩn bị kỹ càng hơn, tưởng tượng rằng mình bắt đầu cuộc sống mới, về miền Bắc đến thị trấn làm nghề cá cùng các con và chắc chắn là ba mẹ con chẳng cần gì cả. lên kế hoạch cho mọi thứ. quyết định đến Siglufjördur để làm lại từ đầu. Ở đó có rất nhiều việc làm bởi vì những năm suy thoái qua , dân cư nơi khác lũ lượt kéo đến đó tìm việc làm và có thể duy trì mức sống tối thiểu cùng với hai con của mình. có thể ở trong khu nhà tập thể của công nhân trước khi tự thuê được phòng riêng.

      Giá vé xe bus cho và hai đứa con rẻ chút nào, còn chồng giữ bo bo từng xu kiếm được ở bến cảng. Trong suốt khoảng thời gian dài, cố gắng xoay xở kiếm từng đồng cho đến khi dành dụm đủ tiền mua vé. lấy toàn bộ quần áo của các con và nhét vào trong va li , ít đồ cá nhân và cái xe đẩy, nó vẫn chở được Mikkelína sau khi sửa sang lại. nhanh ra bến xe bus, nhìn khắp nơi đầy hoảng sợ như thể bị chồng bắt gặp ở góc phố tiếp theo.

      về nhà vào buổi trưa và nhận ra ngay lập tức là vợ con bỏ . luôn phải chuẩn bị xong bữa trưa trước khi về đến nhà, chưa bao giờ cho phép quên điều đó. thấy cái xe đẩy biến mất. Tủ quần áo mở toang. Nhớ lại lần bỏ trốn trước đây của vợ, thẳng đến Tổ chức Cứu Thế Quân và nghe người ta có ở đó. tin lời họ, bổ lùng sục khắp tòa nhà, chạy xộc vào các phòng, thậm chí cả tầng hầm, và đến khi tìm thấy ba mẹ con, tấn công người phụ trách tòa nhà, dúi ông ta xuống đất và dọa giết nếu ông ta ra họ ở đâu.

      Cuối cùng, khi nhận ra rằng vợ mình đến Tổ chức Cứu Thế Quân, gã đàn ông đó sục sạo quanh thành phố mà vẫn thấy bóng dáng đâu. lao vào các cửa hàng, nhà ăn nhưng vẫn bặt vô tín. Ngày tàn, khi cơn giận dữ và tuyệt vọng tăng lên gấp bội, trở về nhà, điên cuồng như người mất trí. lộn tung nhà cửa lên để tìm dấu vết xem vợ mình có thể đâu, sau đó đến nhà hai người bạn cũ của từ hồi họ còn làm việc cho người lái buôn, xồng xộc chạy vào nhà họ và gọi vợ con ầm ĩ, sau đó chạy ra mà lời rồi mất dạng.

      đến Siglufjördur vào khoảng hai giờ sáng sau chuyến cả ngày dài ngừng nghỉ. Chiếc xe khách dừng lại ba lần để hành khách nghỉ chân, ăn bữa trưa chuẩn bị sẵn hoặc mua đồ ăn ngoài. có mang theo bánh sandwich và mấy hộp sữa, nhưng họ đói meo khi xe đến Haganesvík ở Fljót, nơi có chiếc thuyền chờ sẵn ở đó để đưa khách sang Siglufjördur giữa đêm khuya lạnh. Sau khi tìm thấy khu nhà ở tập thể của công nhân, người quản đốc đưa đến phòng với hai cái chăn, và ba mẹ con tận hưởng đêm tự do đầu tiên ở đó. Những đứa trẻ lăn ra ngủ ngay khi đặt mình xuống nệm, còn người mẹ nằm trằn trọc, nhìn trân trân vào bóng tối, thể cưỡng lại cơn run rẩy lan ra toàn bộ cơ thể, kiệt sức và òa lên khóc.

      vài ngày sau, tìm thấy . nghĩ đến khả năng là rời thành phố, có lẽ là bằng xe bus, nên đến trạm, hỏi những người xung quanh và được biết là vợ con mình bắt xe về hướng bắc đến Siglufjördur. chuyện với người lái xe, ông này nhớ ba mẹ con họ rất , đặc biệt là bé bị tật nguyền. bắt chuyến xe tiếp theo và đến Siglufjördur lúc quá nửa đêm. Len lỏi qua hết khu nhà này đến khu nhà khác, cuối cùng cũng tìm thấy vợ con ngủ trong căn phòng bé , nhờ chỉ đường của người đốc công mà đánh thức trước đó. giải thích cho người đốc công rằng vợ mình đến ngôi làng trước, , nhưng có lẽ là họ ở đây lâu.

      trườn vào phòng. luồng ánh sáng lờ mờ từ ngoài đường chiếu qua ô cửa sổ vào phòng, bước qua mấy đứa trẻ nằm đệm, cúi xuống chỗ vợ cho đến khi mặt họ gần như chạm vào nhau, và lay lay dậy. vẫn còn buồn ngủ nên lay lần nữa, mạnh hơn, cho đến khi mở mắt ra. Và khi thấy kinh hoàng tột độ lên trong đôi mắt vợ, mỉm cười. chuẩn bị thét lên kêu cứu kịp lấy tay bịt miệng lại.

      “Mày thực nghĩ rằng mày có thể làm được ư?” thào đầy hăm dọa.

      nhìn chồng chằm chằm.

      “Mày cho rằng chuyện đó dễ đến thế sao?”

      chậm rãi lắc đầu.

      “Mày có biết bây giờ tao thực muốn làm gì ?” rít lên giữa hai hàm răng nghiến chặt. “Tao muốn đưa con mày lên núi và giết chết nó, rồi chôn nó ở chỗ mà ai có thể tìm thấy được, và rằng con chó chết đáng thương ấy hẳn là mò xuống biển. Và mày có biết ? Tao làm điều đó đấy. Tao làm ngay bây giờ. Nếu như thằng nhãi kia mà kêu lên tiếng, tao cũng giết nó luôn. Tao rằng nó cũng bò ra biển theo sau chị nó.”

      Người vợ khóc thút thít thành tiếng khi liếc vội sang chỗ hai con, gã chồng mỉm cười rồi nhấc tay ra khỏi miệng .

      “Em bao giờ làm như thế nữa,” rên rỉ. “ bao giờ. Em bao giờ làm thế nữa. Em xin lỗi. Em xin lỗi. Em biết mình nghĩ gì nữa. Em xin lỗi. Em điên rồi. Em biết! Em điên rồi. Đừng để bọn trẻ phải gánh chịu chuyện đó. Đánh em . Đánh em . Đánh mạnh hết sức vào. Mình đánh mạnh hết sức vào! Chúng ta có thể ngay khỏi đây nếu mình muốn.”

      Cơn tuyệt vọng của vợ khiến gã chồng chùn bước.

      , ,” . “Đây là điều mày muốn. Nên cứ làm theo ý mày .”

      hành động như thể là sắp với đến chỗ Mikkelína, lúc này con bé nằm bên cạnh Símon, nhưng người mẹ chụp lấy tay , khiếp đảm như mất trí.

      “Mình nhìn này,” rồi tự đánh vào mặt mình. “Mình nhìn này.” giật tung tóc ra. “Mình nhìn này.” ngồi dậy và tự xô mình vào thanh ngang đầu giường, rồi hiểu vô tình hay cố ý, ngã lăn ra, sụp xuống trước mặt chồng và bất tỉnh.

      Họ khởi hành vào sáng sớm hôm sau. làm việc cho nhà máy chế biến cá được mấy ngày nên đòi tiền công của . Trong lúc làm việc ở sân muối, có điều kiện để mắt đến các con mình vì chúng chơi ở gần đó hoặc ở trong phòng. Gã chồng giải thích với ông quản đốc rằng họ chuẩn bị quay về Reykjavík. Họ nhận được tin báo nên phải thay đổi kế hoạch và vợ mình phải được nhận tiền lương. Ông đốc công viết nguệch ngoạc mấy chữ tờ giấy rồi chỉ đường cho đến văn phòng. Ông ấy nhìn khi đưa cho mẩu giấy. Dường như muốn điều gì đó. Ông ấy lại hiểu nhầm nỗi sợ hãi của xấu hổ.

      sao chứ?” người đốc công hỏi.

      ấy ổn cả,” trả lời thay và khệnh khạng bước , kéo theo cả vợ.

      Khi họ quay trở lại căn hộ dưới tầng hầm ở Reykjavík, động vào . đứng trong phòng khách, mặc cái áo khoác sờn và tay xách va li, đón chờ trận đòn nhớ đời. Nhưng chẳng có chuyện gì xảy ra cả. Việc tự đánh mình khiến ngạc nhiên. Thay vì nhờ người giúp đỡ, cố gắng chăm sóc và làm cho tỉnh lại, hành động chăm sóc đầu tiên mà dành cho từ khi họ cưới nhau. Khi tỉnh lại, rằng phải hiểu là bao giờ được rời bỏ . giết chết và hai đứa bé. là vợ luôn như vậy.

      Luôn luôn như vậy.

      Sau lần đó, bao giờ dám bỏ trốn nữa.

      Nhiều năm trôi qua. Dự định trở thành ngư dân của trở thành con số chỉ sau có ba chuyến ra khơi. bị say sóng nặng, thể tránh nổi chuyện đó. Hơn tất thảy, thấy mình sợ biển, và ngay cả chuyện đó cũng vượt qua được nốt. sợ con thuyền chìm, sợ rơi khỏi thuyền, sợ thời tiết dữ. Trong chuyến ra khơi cuối cùng của , con thuyền gặp phải cơn bão, tin là con thuyền lật, ngồi khóc hu hu, nghĩ rằng mình đến ngày tận số. Sau đó, bao giờ biển nữa.

      Dường như thể cư xử dịu dàng với . May mắn lắm mới đối xử với cách hoàn toàn lãnh đạm. Hai năm đầu mới cưới nhau, còn tỏ vẻ hối hận vì đánh vợ hoặc chửi rủa vợ, cách thành đến mức òa lên khóc. Nhưng thời gian trôi , còn biểu bất cứ dấu hiệu nào của ăn năn nữa, như thể những điều làm với vợ còn là bất thường hay là méo mó trong mối quan hệ giữa họ nữa, giờ đây nó trở thành thứ gì cần thiết và đúng đắn. Đôi khi hiểu, và ngay cả bản thân chồng cũng hiểu rất , rằng những bạo lực mà đổ lên đầu , hơn hết thảy, chính là biểu của hèn kém trong con người . Rằng càng đánh vợ, càng trở nên tồi tệ. đổ lỗi đó cho vợ, hét lên rằng lỗi là ở , vì khiến phải cư xử với như thế. là người buộc phải làm như thế.

      Hai vợ chồng có rất ít bạn bè, và chẳng bao giờ chia sẻ gì với họ, chẳng bao lâu sau khi hai vợ chồng quay về chung sống, bị lập. Thi thoảng lắm mới gặp những người bạn hồi còn làm, nhưng hề đả động gì đến những trận đòn phải hứng chịu từ chồng mình, và rồi dần dần mất liên lạc với họ. cảm thấy xấu hổ. Xấu hổ vì bị đánh đập trong những lúc ngờ đến nhất. Xấu hổ vì đôi mắt thâm quầng, đôi môi nứt toác, cả những vết bầm tím toàn thân nữa. Xấu hổ vì cuộc đời sống mà người ngoài nhìn vào thể hiểu được, thậm chí còn thấy kinh tởm. muốn che giấu chuyện đó. Muốn giấu mình trong cái nhà tù mà chồng mình tạo cho mình, ném chìa khóa và hy vọng rằng có ai tìm thấy nó. phải chấp nhận bạc đãi của chồng. Phải chăng đó là số phận bắt phải vậy, bất biến và vô điều kiện?

      Những đứa trẻ là tất cả với . Thực tế, chúng trở thành bạn của , là lí do để cho sống, đặc biệt là Mikkelína, thêm cả Símon nữa khi nó lớn lên và đứa con trai thứ hai tên là Tómas. tự đặt tên cho các con. Gã chồng chỉ để ý đến chúng khi than phiền về chúng, về lượng thực phẩm chúng ăn, tiếng ồn chúng gây ra vào ban đêm. Bọn trẻ phải chịu đựng những bạo lực mà người bố dồn lên đầu mẹ và chúng là nguồn an ủi quý giá nhất của mẹ chúng những lúc cần.

      lấy của chút lòng tự trọng cuối cùng mà có. Với bản tính kín đáo và trầm lặng, luôn sẵn sàng làm hài lòng mọi người, rất tốt bụng, hay giúp đỡ và thậm chí là ngoan ngoãn. luôn mỉm cười ngượng nghịu khi có ai chuyện với mình và phải cố gắng lắm để tỏ ra xấu hổ. Chính yếu đuối đó tiếp thêm cho gã chồng nguồn sức mạnh thôi thúc phải hành hạ vợ cho đến khi chẳng còn gì cho riêng mình nữa. Toàn bộ tồn tại của chỉ xoay quanh ta. Chiều theo những ý thích nhất thời của . Phục vụ . còn tự chăm sóc mình như ngày xưa nữa. thôi tắm giặt thường xuyên, thôi để ý đến vẻ bề ngoài của mình. Những vết quầng xuất bên dưới mắt, mặt bắt đầu xệ xuống và từ đầu đến chân bao trùm vẻ u buồn, người dần khom xuống, đầu cúi xuống ngực như thể dám ngẩng lên nhìn lâu. Mái tóc dày mượt của giờ đây còn sức sống, bẩn thỉu và dính bết vào da đầu. tự cắt tóc cho mình bằng cái kéo dùng trong nhà bếp khi cảm thấy nó quá dài.

      Hoặc khi cảm thấy nó quá dài.

      người đàn bà xấu xí và nhếch nhác.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      6

      Các nhà khảo cổ lại tiếp tục công việc khai quật vào sáng hôm sau sau khi tìm thấy các mẩu xương. Hai viên cảnh sát tuần tra tối hôm trước chỉ cho họ chỗ Erlendur phát ra bàn tay và Skarphédinn tức điên lên khi thấy Erlendur móc đất lên. là những kẻ nghiệp dư ngu ngốc, người ta nghe thấy ông ta lầm bầm như thế lúc chiều muộn. Đối với Skarphédinn, mỗi cuộc khai quật là nghi lễ long trọng trong đó đất phải được tách ra theo từng lớp, cho đến khi toàn bộ lịch sử của những điều nằm bên dưới ra ánh sáng và bí mật được hé lộ ra. Mọi chi tiết đều quan trọng, mỗi nắm đất cũng có thể chứa đựng những chứng cứ mang tính sống còn, và những kẻ kém hiểu biết rất có thể phá hủy những dữ liệu quan trọng đó.

      Ông ta thuyết giảng toàn bộ những điều này cho Elínborg và Sigurdur Óli nghe, mặc dù họ chẳng làm điều gì sai trái khi ra lệnh cho đội của mình. Công việc tiến hành rất chậm vì những phương pháp khảo cổ tốn công này. Dây được chăng ra hết chiều dài và bề rộng của khu vực, đánh dấu thành các ô theo hệ thống cụ thể. Mối bận tâm chủ yếu là phải giữ cho vị trí của bộ xương di chuyển trong suốt quá trình khai quật; họ phải chắc chắn rằng bàn tay đó nhúc nhích ngay cả khi họ quét bụi đất khỏi nó, và phải xem xét cẩn thận từng cục đất .

      “Tại sao bàn tay đó lại nhô lên khỏi mặt đất thế?” Elínborg hỏi Skarphédinn, ngăn ông ta lại khi ông này băng qua.

      thể được,” Skarphédinn đáp. “Trong trường hợp tồi tệ nhất, người nằm dưới đó có thể vẫn còn sống khi ta bị phủ đất lên và cố gắng chống cự. Cố gắng đào đường thoát ra.”

      “Còn sống!” Elínborg rên rỉ. “Đào đường thoát ra ư?”

      “Điều đó chưa hẳn chính xác. Chúng ta thể loại trừ khả năng là bàn tay ở vị trí đó khi thi thể được đưa xuống đất. Bây giờ còn quá sớm để có thể khẳng định điều gì.”

      Sigurdur Óli và Elínborg rất ngạc nhiên khi thấy Erlendur xuất tại cuộc khai quật. Erlendur vẫn lập dị và thể đoán trước được như thường thấy, họ cũng biết rằng ông rất quan tâm đến những người bị mất tích, trong cả quá khứ và tại, và bộ xương nằm dưới đất này có thể là chìa khóa giải quyết cho vụ mất tích trước đây mà Erlendur rất để tâm khi đọc được từ đống tài liệu khô khan. Khi quá trưa, Elínborg gọi vào máy bàn ở nhà cũng như di động cho ông, nhưng có kết quả gì.

      Khoảng hai giờ chiều, điện thoại của Elínborg reo.

      có ở đó chứ?” giọng trầm vang lên, và nhận ra người gọi ngay lập tức.

      “Ông ở đâu thế?”

      “Tôi kẹt. có ở chỗ họ khai quật ?”

      “Có.”

      có thấy những bụi cây ? Tôi nghĩ chúng là cây lý chua. Cách khu móng nhà khoảng ba mươi mét về phía đông, xếp thành hàng gần như thẳng về phía nam.”

      “Bụi cây lý chua ư?” Elínborg liếc mắt nhìn quanh để tìm mấy bụi cây. “Có,” đáp, “tôi thấy rồi.”

      “Chúng được trồng cách đây lâu rồi.”

      “Phải.”

      “Kiểm tra xem tại sao. Xem có ai từng sống ở đó . xuống Ủy ban Quy hoạch Đô thị và lấy cho tôi mấy cái bản đồ về khu vực này, kể cả ảnh chụp nếu có. Hãy tra cứu thêm sổ sách từ đầu thế kỷ cho đến ít nhất là năm 1960. Có thể là cả thời gian sau đó nữa.”

      “Ông nghĩ là trước đây từng có ngôi nhà đồi này à?”

      Elínborg và nhìn quanh. buồn che giấu hoài nghi của mình.

      “Tôi nghĩ là chúng ta phải làm điều đó. Sigurdur Óli làm gì thế?”

      ta truy cập vào các dữ liệu về những người bị mất tích từ Thế chiến thứ Hai, bắt đầu từ đó. ta chờ ông đấy. Sigurdur Óli rằng ông thích những chuyện đại loại thế.”

      “Tôi vừa mới chuyện với Skarphédinn và ông ta rằng mình còn nhớ ở đây từng có doanh trại, ở bên kia, chỗ dốc phía nam đèo Grafarholf, trong thời chiến. Bây giờ chỗ đó biến thành sân golf.”

      doanh trại ư?”

      doanh trại của hay Mỹ gì đó. Của quân đội. Ông ta nhớ được tên. cũng cần phải kiểm chứng lại thông tin đó nữa. Xem bên có báo cáo về vụ lính mất tích khỏi doanh trại nào . Hay quân đội Mỹ có tiếp quản doanh trại đó .”

      ? Mỹ? Trong chiến tranh? Hượm nào, tôi phải tìm những thông tin đó ở đâu?” Elínborg hỏi đầy ngạc nhiên. “Khi nào người Mỹ tiếp quản sau người chứ?”

      “1941. Đó có thể là kho quân nhu. Dù thế nào, đó cũng là những điều Skarphédinn nghĩ. Còn những ngôi nhà gỗ đồi và xung quanh đó nữa. biết có người nào bị mất tích mà liên quan đến chúng . Thậm chí chỉ là các câu chuyện kể hay những mối nghi vấn. Chúng ta cần phải chuyện với chủ nhân của những ngôi nhà đó.”

      “Có quá nhiều việc phải làm với mấy mẩu xương cũ rồi đây,” Elínborg cách cáu kỉnh trong khi đá vào những viên sỏi xung quanh móng nhà nơi đứng. “Ông làm cái gì thế?” sau đó hỏi, gần như với vẻ cáo buộc.

      cần phải bận tâm,” Erlendur rồi tắt máy.

      ***

      Ông quay trở lại phòng chăm sóc đặc biệt, mặc cái áo blu bằng giấy mỏng màu xanh lục, miệng bịt khẩu trang. Eva Lind nằm chiếc giường lớn trong phòng đơn của khu điều trị. Người con bé được nối với đủ loại máy móc thiết bị mà Erlendur chưa từng nhìn thấy bao giờ, chiếc mặt nạ oxy che kín mặt và mũi nó. Ông đứng bên đầu giường, nhìn xuống con . Con ông trong cơn hôn mê, vẫn chưa tỉnh lại. mặt nó có vẻ bình thản ngự trị mà trước đây ông chưa từng thấy. yên lặng xa lạ đối với ông. Khi con bé nằm như thế, những đường nét khuôn mặt nó ra hơn, lông mày sắc hơn, da hai bên gò má kéo căng ra, còn đôi mắt chìm sâu vào hai hốc.

      Ông gọi xe cứu thương khi thể giúp Eva Lind tỉnh lại ở nơi nó nằm trước nhà hộ sinh cũ. Cảm thấy mạch đập nhè , ông khoác áo lên mình con, cố gắng giữ gìn cho con hết sức có thể nhưng vẫn dám xê dịch nó. Điều tiếp theo mà ông biết là chiếc xe cứu thương xuất , vẫn là chiếc xe đến Tryggvagata, với cùng ông bác sĩ. Họ nhàng chuyển Eva Lind lên cáng và đẩy vào trong xe, rồi cái xe lao vút đoạn đường ngắn dẫn đến bệnh viện Tai nạn và Cấp cứu.

      Con bé được phẫu thuật ngay lập tức, ca phẫu thuật gần như kéo dài suốt đêm hôm đó. Erlendur lại trong phòng chờ đằng trước phòng phẫu thuật, tự hỏi biết có nên cho Halldóra biết . Ông ngần ngại khi phải gọi điện cho vợ cũ. Cuối cùng ông cũng tìm ra được giải pháp. Ông gọi Sindri Snaer dậy, báo cho nó biết tin tức về chị nó và bảo nó báo cho mẹ nó biết để bà ấy vào viện thăm Eva Lind. Hai bố con họ trao đổi với nhau vài câu. Sindri có ý định trở về thành phố sớm, nó thấy cần thiết phải quay về chỉ vì Eva Lind. Rồi cuộc chuyện kết thúc.

      Erlendur đốt hết điếu này đến điếu khác mặc dù ngay bên có tấm biển đề “Nghiêm cấm hút thuốc lá”, ông cứ hút như thế cho đến khi có bác sĩ phẫu thuật đeo khẩu trang qua và quở trách ông vì vi phạm nội quy. Khi ông ta rồi, chuông điện thoại của Erlendur chợt vang lên. Sindri gọi cho ông để lại lời nhắn của Halldóra: “Tốt hơn là nên để Erlendur tự thực trách nhiệm của mình lần .”

      Sáng hôm sau, ông bác sĩ trưởng ca phẫu thuật trao đổi với Erlendur. Chẩn đoán của họ về tình trạng sức khỏe con bé là được tốt lắm. Họ thể cứu được đứa bé trong bụng và ngay cả bản thân Eva Lind cũng khó lòng qua khỏi. “Tình trạng của ấy rất xấu,” ông bác sĩ . Ông ta cao nhưng gầy, khoảng bốn mươi tuổi.

      “Tôi hiểu,” Erlendur .

      “Thiếu ăn kéo dài và lạm dụng ma túy. Đứa bé có nhiều cơ hội được sinh ra khỏe mạnh nên… mặc dù ra điều đó độc ác nhưng…”

      “Tôi hiểu mà,” Erlendur đáp.

      ấy có bao giờ cân nhắc đến chuyện phá thai ? Trong những trường hợp như thế này…”

      “Con bé muốn sinh đứa trẻ,” Erlendur đáp. “Nó nghĩ rằng đứa trẻ có thể giúp nó, và tôi cũng động viên nó nữa. Con bé muốn dừng lại. Đó là phần bé trong con người Eva Lind muốn thoát ra khỏi cái địa ngục này. phần bé đôi khi lộ ra và muốn từ bỏ tất cả. Nhưng thông thường Eva hoàn toàn khác ngự trị. Dữ tợn và nhẫn tâm. Eva nào đó luôn tìm cách tránh né tôi. Eva nào đó luôn tìm kiếm hủy hoại này, địa ngục này.”

      Nhận ra là mình với người đàn ông hoàn toàn quen biết, Erlendur lại yên lặng.

      “Tôi có thể hiểu được nỗi khó khăn của các bậc cha mẹ khi phải trải qua chuyện này,” ông bác sĩ .

      “Chuyện gì xảy ra thế?”

      “Placenta abruptio. chứng xuất huyết ồ ạt bên trong, xảy ra khi nhau thai bị rách kết hợp với những tác nhân độc hại, chúng tôi vẫn chờ kết quả. ấy mất quá nhiều máu và chúng tôi vẫn chưa giúp ấy tỉnh lại được. Điều đó có mấy ý nghĩa trong hoàn cảnh này. ấy thực rất yếu.”

      Sau khi ngừng lại lát, ông bác sĩ tiếp tục, “Ông liên lạc với người thân của mình chưa? Như thế họ có thể san sẻ với ông hay…”

      “Chẳng có ai là ‘người thân’ của tôi cả”, Erlendur đáp. “Chúng tôi ly hôn rồi. Mẹ con bé và tôi ấy. Tôi báo cho bà ấy biết. Cả em trai của Eva nữa. Nó làm việc ở vùng nông thôn. Tôi biết liệu mẹ nó có đến đây . Có vẻ như bà ấy chịu đựng quá đủ rồi. Cuộc sống rất khắc nghiệt với bà ấy. Luôn luôn là như vậy.”

      “Tôi hiểu.”

      “Tôi cho là thế,” Erlendur . “Đến bản thân tôi còn hiểu được nữa là.”

      Ông lấy hai túi nhựa hộp thuốc trong túi áo ra đưa cho bác sĩ.

      “Con bé có thể dùng thứ này,” ông .

      Ông bác sĩ cầm lấy những viên thuốc và nhìn chúng.

      “Chất kích thích à?”

      “Trông giống thế.”

      “Đó là cách giải thích. Chúng tôi nhận dạng được số chất trong máu ấy.”

      Erlendur lưỡng lự. Trong thoáng, cả ông và ông bác sĩ gì với nhau.

      “Ông có biết cha đứa bé là ai ?” ông bác sĩ tiếp tục.

      .”

      “Ông có nghĩ là ấy biết ?”

      Erlendur nhìn ông ta và nhún vai bất lực.

      Sau đó họ lại yên lặng.

      “Con bé sắp chết phải ?” Erlendur hỏi sau thoáng.

      “Tôi biết,” ông bác sĩ đáp. “Chúng ta chỉ có thể hy vọng vào điều tốt đẹp nhất.”

      Erlendur do dự khi đặt câu hỏi. Ông phải vật lộn với nó, ghê sợ nó, mà tìm ra được câu trả lời. Ông dám chắc mình có muốn cầu chuyện đó hay . Cuối cùng, ông làm tới.

      “Tôi có thể thấy nó được ?”

      “Nó ư? Ý ông là…?”

      “Tôi có thể xem cái bào thai được ? Tôi có thể nhìn đứa bé được ?”

      Ông bác sĩ nhìn Erlendur mà hề mảy may tỏ ra ngạc nhiên, mặt ông chỉ tràn ngập thông cảm. Ông gật đầu và bảo Erlendur theo mình. Họ dọc hành lang dẫn vào căn phòng trống. Ông bác sĩ nhấn nút và bóng đèn huỳnh quang trần nhà lập lòe lúc trước khi bừng lên thứ ánh sáng trắng tỏa khắp căn phòng. Ông ta bước đến cái bàn kim loại lạnh lẽo và nhấc tấm vải lên, để lộ ra xác của em bé.

      Erlendur nhìn xuống và vuốt ngón tay dọc theo má đứa trẻ.

      Đó là .

      “Con tôi qua cơn hôn mê chứ? Ông có thể khẳng định với tôi điều đó ?”

      “Tôi biết,” ông bác sĩ . “ thể chắc được. Tự bản thân ấy phải vượt qua. Nó phụ thuộc rất nhiều vào ấy.”

      “Tội nghiệp con bé,” Erlendur .

      “Người ta rằng thời gian chữa lành mọi vết thương,” ông bác sĩ khi ông thấy Erlendur sắp kiềm chế được mình. “Điều đó đúng cả với thể xác và tinh thần.”

      “Thời gian,” Erlendur đáp trong lúc kéo cái mền phủ lên người đứa bé,“...chẳng chữa lành được vết thương nào cả.”


      7

      Ông ngồi bên giường bệnh con đến tận sáu giờ tối. Halldóra xuất . Sindri Snaer cũng vào thành phố. Chẳng còn ai khác nữa. Tình trạng của Eva Lind vẫn có gì thay đổi. Erlendur vẫn chưa ăn uống, nghỉ ngơi gì suốt từ ngày hôm trước, và lúc này ông kiệt sức. Ông liên lạc với Elínborg qua điện thoại suốt cả ngày và quyết định gặp và Sigurdur Óli ở cơ quan. Ông vuốt má con , hôn lên trán nó rồi ra.

      Ông gì về những chuyện xảy ra đêm hôm trước khi ngồi bàn bạc với Sigurdur Óli và Elínborg buổi tối hôm đó. Hai người họ nghe tin đồn về việc xảy ra với con ông, nhưng họ dám hỏi.

      “Họ vẫn cào xuống chỗ bộ xương theo cách của họ,” Elínborg . “Công việc diễn tiến quá chậm. Tôi nghĩ bây giờ họ dùng đến những cái tăm rồi. Bàn tay mà ông tìm thấy nhô lên khỏi mặt đất, họ cào đến chỗ cổ tay. Nhân viên y tế kiểm tra nó, nhưng điều chắc chắn duy nhất mà ông ta có thể được đó là người chết có đôi bàn tay khá . Chẳng có gì hay ho cho lắm. Mấy nhà khảo cổ vẫn chưa tìm ra được gì trong đất để xác minh xem chuyện gì xảy ra hay ai bị chôn dưới đó. Họ đào sâu xuống dưới thân của bộ xương vào chiều tối ngày mai, nhưng điều đó có nghĩa là chúng ta có bất kỳ câu trả lời chính xác nào về chuyện người đó là ai. Tất nhiên, chúng ta phải tìm câu trả lời ở những nơi khác nữa.”

      “Tôi nghiên cứu các số liệu thống kê về những người bị mất tích trong khu vực Reykjavík,” Sigurdur Óli . “Có hơn bốn mươi trường hợp mất tích từ những năm ba mươi đến những năm bốn mươi mà đến nay vẫn chưa giải quyết được, và có thể đây là trong số những vụ như thế. Tôi sắp xếp dữ liệu theo giới tính và tuổi, bây giờ tôi chờ báo cáo của bác sĩ về bộ xương.”

      “Ý là có ai đó ở đồi bị mất tích ư?” Erlendur hỏi.

      phải theo địa chỉ trong hồ sơ của cảnh sát,” Sigurdur Óli đáp, “mặc dù tôi vẫn chưa tìm hết. Có số tên vùng mà tôi biết. Khi chúng ta khai quật được bộ xương lên và có số liệu chính xác về tuổi, khổ người và giới tính từ các bác sĩ, chúng ta rút ngắn được danh sách chút. Tôi nghĩ rằng đó là người ở Reykjavík. Đó phải là giả thuyết có lý sao?”

      “Ông bác sĩ đâu rồi?” Erlendur hỏi. “Ông bác sĩ của chúng ta ấy?”

      “Ông ấy nghỉ rồi,” Elínborg đáp. “Ở Tây Ban Nha.”

      kiểm tra xem trước đây có ngôi nhà nào ở gần những bụi cây kia chưa?” Erlendur hỏi .

      “Nhà nào cơ?” Sigurdur Óli hỏi.

      “Chưa, tôi vẫn chưa tìm hiểu chuyện đó,” Elínborg đáp. nhìn Sigurdur Óli. “Erlendur nghĩ rằng trước đây ở phía bắc của ngọn đồi từng có nhà ở đó, còn phía nam là doanh trại quân đội Mỹ. Ông ấy muốn chúng ta chuyện với tất cả những người chủ nhà trong khu vực từ Reynisvatn và hỏi chuyện cả bà của họ nữa. Sau đó tôi được cầu phải đến lễ cầu hồn và chuyện với Churchill.”

      “Và đó mới chỉ là bước ban đầu,” Erlendur . “Giả thuyết của các bạn về bộ xương là gì?”

      “Đó phải ràng là vụ giết người sao?” Sigurdur Óli . “Xảy ra cách đây nửa thế kỷ hoặc hơn. Bị chôn trong đất suốt ngần ấy thời gian mà ai biết điều gì.”

      ta, hay khác , người này,” Elínborg tự chữa, “ ràng là bị chôn để che giấu tội lỗi nào đó. Tôi nghĩ chúng ta có thể khám phá ra chuyện đó khi đọc đống hồ sơ tại cơ quan.”

      “Việc ai biết là đúng,” Erlendur . “Lúc nào cũng phải có ai đó biết vài điều gì đó.”

      “Chúng ta biết rằng xương sườn bị gãy,” Elínborg . “Đó chắc hẳn là dấu hiệu của vật lộn.”

      “Thế ư?” Sigurdur Óli hỏi.

      “Sao nào, phải à?”

      “Việc chôn dưới đất thể gây ra chuyện đó ư?” Sigurdur Óli hỏi lại. “Trọng lượng của đất ấy. Thậm chí là việc thời tiết thay đổi. Rồi hiệu ứng băng đóng – băng tan nữa. Tôi chuyện với nhà địa chất mà gọi và ông ta có vài điều về chuyện đó.”

      “Chắc chắn là phải có ẩu đả nên người này mới bị chôn. Điều đó , đúng ?” Elínborg nhìn Erlendur và thấy ông suy nghĩ tận đâu đâu.

      “Erlendur? Ông có nghĩ thế ?”

      “Nếu đây là vụ giết người,” Erlendur khi quay trở lại thực tại.

      “Nếu đây là vụ giết người ư?” Elínborg hỏi.

      “Chúng ta chẳng biết gì về chuyện đó cả,” Erlendur đáp. “Có thể đây là mảnh đất chôn cất của gia đình nào đó ngày xưa. Có thể họ có đủ tiền cho đám tang. Có thể đó là xương của người già cả nào đó chết và được chôn ở đó mà tất cả mọi người đều biết. Có thể xác chết được đặt ở đó cách đây hàng trăm năm. Có thể là năm mươi. Điều mà chúng ta cần là hướng đúng đắn. Rồi khi đó chúng ta dông dài bao nhiêu cũng được.”

      phải luật cầu là phải chôn người chết ở những khu đất linh thiêng ư?” Sigurdur Óli .

      “Tôi nghĩ có thể được chôn ở bất cứ nơi nào muốn,” Erlendur , “biết đâu ai đó chuẩn bị có được trong vườn nhà họ đấy.”

      “Thế còn về bàn tay chĩa lên mặt đất sao?” Elínborg . “Đó phải là dấu hiệu của cuộc ẩu đả sao?”

      “Có vẻ như vậy,” Erlendur . “Tôi cho rằng có điều gì đó được giữ bí mật suốt nhiều năm nay. Có người bị giải quyết và kẻ sát nhân bao giờ nghĩ là ta bị phát . Nhưng sau đó Reykjavík bắt kịp ta và bây giờ chuyện đó tùy thuộc vào việc chúng ta có khám phá ra chuyện gì xảy ra hay .”

      “Nếu ta… cứ cho là ta , người đàn ông Thiên Niên Kỷ…” Sigurdur Óli , “nếu ta bị giết cách đây ngần ấy năm, biết đâu đến bây giờ hung thủ chết vì già rồi sao? Và nếu như ta chưa chết, ta cũng ngấp nghé xuống mồ rồi. Vì thế là nực cười nếu chúng ta lần ra và trừng phạt vì tội lỗi của mình. Tất cả những người có liên quan đến vụ việc này có thể chết nên chúng ta có nhân chứng ngay cả khi chúng ta tìm ra chuyện gì xảy ra. Do đó…”

      “Ý cậu là sao?”

      “Liệu chúng ta có nên tiếp tục cuộc điều tra này ? Ý tôi là, có đáng phải làm thế ?”

      “Ý cậu là hãy cứ quên nó chứ gì?” Erlendur hỏi. Sigudur Óli nhún vai đầy thờ ơ.

      vụ giết người là vụ giết người,” Erlendur . “Dù nó có xảy ra cách đây bao lâu chăng nữa, nếu đây là vụ án mạng, chúng ta cần phải tìm ra chuyện gì xảy ra, ai bị giết và tại sao, kẻ sát nhân là ai. Chúng ta phải điều tra vụ này giống như các vụ án khác. Thu thập thông tin. chuyện với người dân. May mắn ra, chúng ta tìm ra được giải pháp.”

      Erlendur đứng lên.

      “Chúng ta chắc chắn phải tìm ra điều gì đó. chuyện với chủ nhân của những ngôi nhà gỗ kia và bà của họ nữa.” Ông nhìn Elínborg. “Tìm hiểu xem liệu có ngôi nhà nào ở gần những bụi cây đó . Hãy để tâm đến chuyện đó.”

      Ông gửi họ lời chào tạm biệt lơ đãng rồi ra phía cầu thang. Elínborg và Sigurdur Óli đưa mắt nhìn nhau, Sigurdur Óli hất đầu về phía cửa. Elínborg đứng lên và theo Erlendur.

      “Erlendur,” gọi giật ông lại.

      “Gì thế?”

      “Eva thế nào rồi?” ngập ngừng hỏi.

      Erlendur nhìn nhưng gì.

      “Chúng tôi nghe chuyện đó ở đồn. Chuyện xảy ra đau lòng. Nếu Sigurdur Óli và tôi có thể làm được điều gì giúp ông, ông cứ nhé.”

      cần đâu,” Erlendur đầy mệt mỏi. “Con bé nằm ở khu điều trị và ai có thể làm được gì cả.” Ông ngập ngừng. “Tôi bước vào thế giới của nó khi tôi tìm nó. Tôi biết chút vì tôi từng đến mấy chỗ đó trước đây, những con phố, những ngôi nhà đó, nhưng tôi chưa bao giờ hết ngạc nhiên về cuộc sống của con bé, cách nó hành hạ và ngược đãi bản thân. Tôi gặp cái lũ mà con bé giao du, những kẻ mà nó nhờ vả trong lúc tuyệt vọng, những kẻ mà nó làm cho họ những điều thể tả được.” Ông dừng lại. “Nhưng đó phải là điều tồi tệ nhất. phải là những ngôi nhà bẩn thỉu, những kẻ lường gạt tầm thường hay những tên giao hàng ma túy. Những điều mẹ con bé đúng.”

      Erlendur nhìn Elínborg.

      “Tôi là phần tồi tệ nhất trong toàn bộ những điều này,” ông , “vì tôi là kẻ làm cho chúng trở nên tồi tệ.”

      Khi Erlendur về đến nhà, ông ngồi vào chiếc ghế bành, hoàn toàn kiệt sức. Ông gọi đến bệnh viện để hỏi về tình trạng của Eva Lind và người ta rằng con bé vẫn thế. Ông cảm ơn rồi tắt máy. Sau đó ông ngồi nhìn chằm chằm vào khoảng , đắm chìm trong suy nghĩ. Ông nghĩ về Eva Lind nằm trong phòng chăm sóc đặc biệt, về vợ cũ của mình và căm hận vẫn đeo đẳng đời bà, về đứa con trai mà ông chỉ chuyện với nó khi có gì đó xảy ra.

      Qua những dòng suy nghĩ, ông cảm nhận được yên lặng ngự trong suốt cuộc đời mình. Cảm thấy độc bủa vây lấy mình. Gánh nặng của những ngày tẻ nhạt dồn lại với nhau thành chuỗi dài thể phá vỡ, nó bao bọc lấy ông, trói chặt lấy ông khiến ông ngạt thở.

      Ngay trước lúc Erlendur chìm vào giấc ngủ, tâm trí ông lại trở về với những ngày thơ ấu, khi những ngày tươi sáng lại tới sau mùa đông u ám, và cuộc sống của ông hồi ấy mới hồn nhiên, vô tư lự làm sao! Mặc dù rất hiếm khi, nhưng đôi lúc ông vẫn lẩn trốn vào trong bình yên của quá khứ, để rồi sau đó, rất nhanh thôi, ông lại cảm thấy tốt hơn.

      Nếu ông có thể ngăn chặn được những mất mát.

      Erlendur bắt đầu tỉnh dậy khi có ai đó gọi cho ông được lúc khá lâu, đầu tiên là điện thoại trong túi, sau đó là điện thoại đặt chiếc bàn cũ kỹ, đó là trong số rất ít những đồ đạc bày biện trong phòng khách.

      “Ông đúng,” Elínborg khi cuối cùng ông cũng nghe máy. “Ôi, tôi xin lỗi, tôi đánh thức ông dậy phải ?” hỏi. “Mới có mười giờ thôi mà,” thêm đầy hối lỗi.

      “Tôi đúng về chuyện gì cơ?” Erlendur , vẫn chưa hoàn toàn tỉnh táo.

      “Trước đây từng có ngôi nhà ở đó. Gần những bụi cây ấy.”

      “Bụi cây ư?”

      “Bụi cây lý chua. Ở Grafarholt ấy mà. Nó được xây vào những năm 1930 và bị phá năm 1980. Tôi nhờ Ủy ban Quy hoạch Đô thị liên hệ với tôi ngay khi họ tìm ra thông tin và họ vừa mới gọi điện, họ phải mất cả buổi tối mới tìm ra nó đấy.”

      “Loại nhà gì thế?” Erlendur hỏi đầy mệt mỏi. “ ngôi nhà, chuồng ngựa, chuồng chó hay nhà gỗ?”

      ngôi nhà. loại nhà gỗ hay đại loại thế.”

      “Từ năm nào?”

      “Trước năm 1940.”

      “Chủ ngôi nhà là ai?”

      “Tên ông ta là Benjamín. Benjamín Knudsen. thương nhân.”

      “Là gì cơ?”

      “Ông ta chết. Cách đây nhiều năm rồi.”


      8

      Rất nhiều chủ nhà mạn bắc của đồi Grafarholt bận rộn với những công việc lặt vặt để chuẩn bị cho mùa xuân của mình. Sigurdur Óli vòng xung quanh nhằm tìm ra đường an toàn dẫn đến đỉnh đồi. Elínborg cùng ta. Có mấy người tỉa bớt giậu trước nhà, số khác sơn lại nhà hoặc sửa hàng rào hoặc thắng yên cương và chuẩn bị cưỡi ngựa.

      Lúc đó là giữa trưa, thời tiết dịu và rất dễ chịu. Sau khi chuyện với vài chủ nhà mà có gì tiến triển, Sigurdur Óli và Elínborg chầm chậm tiến về phía những ngôi nhà gần ngọn đồi nhất. Với thời tiết đẹp như vậy, họ cần phải vội vã, cả hai tận hưởng cuộc du ngoạn ngoại thành, tản bộ dưới ánh mặt trời và chuyện với chủ nhân của những ngôi nhà gỗ. Những người này rất ngạc nhiên khi thấy cảnh sát đến gặp mình vào thời điểm sớm như thế trong ngày. số người nghe qua tin tức về bộ xương tìm thấy đồi. Những người khác hoàn toàn biết chút gì.

      ấy sống chứ, hay…?” Sigurdur Óli hỏi khi họ lên xe biết bao nhiêu lần và lái đến ngôi nhà tiếp theo. Họ về Eva Lind đường ra khỏi thành phố và thường trở về chủ đề cũ.

      “Tôi biết,” Elínborg . “Tôi nghĩ là có ai đó biết. đáng thương,” , sau đó trút ra tiếng thở dài não nề. “Cả ông ấy nữa,” thêm. “Tội nghiệp Erlendur.”

      ấy là con nghiện,” Sigurdur Óli cách nghiêm túc. “Làm cho mình mang thai rồi say thuốc mà quan tâm đến thứ gì, kết cục là giết chết đứa bé. Tôi thể thông cảm cho những loại người như thế. Tôi thể hiểu và bao giờ hiểu được họ.”

      “Chẳng ai cần phải thông cảm cho họ cả,” Elínborg .

      “Ồ, vậy sao? Khi người ta về những người như thế, tất cả những gì tôi được nghe là khoảng thời gian khó khăn mà họ trải qua. Từ những gì tôi chứng kiến về họ…” ngừng lại. “Tôi thể thông cảm với họ được,” nhắc lại. “Họ là những kẻ thất bại. hơn. lũ bất tài.”

      Elínborg thở dài.

      “Hoàn hảo quá trông như thế nào nhỉ? Luôn ăn mặc đẹp, mày râu nhẵn nhụi, áo quần là lượt với tấm bằng từ Mỹ, móng tay móng chân tỉa tót, thèm quan tâm đến xung quanh mà chỉ chăm chăm kiếm ra đủ tiền để mua những vẻ bề ngoài hào nhoáng ấy sao? bao giờ mệt mỏi với những chuyện đó à? bao giờ mệt mỏi với chính mình à?”

      ,” Sigurdur Óli .

      “Thế có gì là sai khi bày tỏ chút cảm thông với những người như thế chứ?”

      “Họ là những kẻ kém cỏi, và cũng hiểu điều đó cơ mà. Cái lý do đó là con của ông già làm cho ấy tốt đẹp hơn so với những người còn lại. ấy cũng giống như tất cả những kẻ ăn bám khác, lúc nào cũng phê thuốc đường rồi sau đó ngủ lấy sức ở trong các trung tâm phục hồi trước khi lại trở nên mệt lả, bởi vì đó là tất cả những gì mà cái lũ hãi hùng ấy muốn. Chỉ biết ăn ngồi rồi và phê thuốc.”

      và Bergthóra sống cùng nhau thế nào rồi?” Elínborg hỏi, sau khi từ bỏ mọi hy vọng thay đổi quan điểm của ta về mọi thứ.

      “Tốt thôi,” Sigurdur Óli đầy mệt mỏi khi dừng lại bên ngoài ngôi nhà gỗ khác. Bergthóra đơn giản là bao giờ tha cho . ấy bao giờ thỏa mãn, cả ban đêm cũng như buổi sáng hay giữa ban ngày, ở mọi vị trí hay ngóc ngách trong căn hộ của họ, trong nhà bếp, trong phòng tắm, thậm chí là phòng giặt là, hết nằm xuống rồi lại đứng lên. Và mặc dù lúc đầu thích thú với chuyện đó, nhưng dần dần để ý thấy mình bắt đầu chán và nghi ngờ động cơ của . phải vì cuộc sống gối chăn của họ buồn tẻ, bao giờ như thế. Nhưng trước đây ấy chưa bao giờ ham muốn hay cuồng nhiệt nhiều đến vậy. Họ vẫn chưa trao đổi cách nghiêm túc về vấn đề có con, mặc dù cả hai ăn ở với nhau lâu. biết rằng Bergthóra vẫn dùng thuốc, nhưng thể cảm thấy rằng muốn trói chặt lại bằng cách có con. nhất thiết phải làm thế, bởi vì thực mong muốn sống cùng ai khác. Nhưng phụ nữ luôn khó đoán, Sigurdur Óli thầm nghĩ. bao giờ biết được họ làm gì.

      “Rất lạ là Cục Thống kê Quốc gia vẫn chưa có tên của bất kỳ người nào từng sống trong ngôi nhà đó, nếu có ai từng ở đó,” Elínborg vừa vừa bước ra khỏi xe. “Những ghi chép về giai đoạn đó rất hỗn độn. Reykjavík tràn ngập người trong và sau chiến tranh, việc đăng ký gần như bị bỏ qua khi người ta chuyển đến. Và tôi nghĩ rằng họ làm mất phần ghi chép về dân số. Ông ta rằng mình thể tìm ra thông tin đó ngay lập tức được, người đàn ông chuyện với tôi ấy.”

      “Có lẽ thực ra có ai sống ở đó hết.”

      nhất thiết là họ ở đó lâu. Có thể họ ghi tên ở nơi nào đó và đăng ký địa chỉ mới. Có thể họ sống đồi vài năm chẳng hạn, thậm chí là vài tháng, trong đợt khủng hoảng nhà đất ấy, sau đó chuyển đến trong số những ngôi nhà tạm được sửa chữa sau chiến tranh. nghĩ thế nào về giả thuyết đó?”

      “Y như cái Burberry vậy.”

      Người chủ nhà gặp họ ở cửa, đó là người đàn ông rất già, dáng người dong dỏng, cử động khó nhọc với mái tóc mỏng bạc phơ, ông ta mặc cái áo sơ mi màu xanh nhạt, bên trong mặc chiếc áo lưới có thể nhìn thấy rất , quần nhung kẻ màu xám và giày thể thao mới. Khi Elínborg nhìn thấy đống rác bẩn bên trong, băn khoăn biết ông ta có sống ở đó quanh năm . liền hỏi.

      “Tôi biết hỏi điều đó,” ông già đáp trong lúc ngồi xuống cái ghế bành và ra hiệu mời họ ngồi xuống mấy cái ghế ở giữa căn phòng. “Tôi bắt đầu xây ngôi nhà này cách đây bốn mươi năm và chuyển mọi đồ đạc về đây – ở ngôi nhà Lada cũ kỹ này cách đây năm năm. Hay là sáu năm nhỉ? Mọi thứ bắt đầu trở nên mù mờ với tôi rồi. Tôi còn muốn sống ở Reykjavík nữa. nơi khủng khiếp, cái thành phố ấy, nên…”

      “Hồi đó có ngôi nhà nào đồi này, có thể là ngôi nhà gỗ mùa hè như thế này mà được sử dụng đúng mục đích ông?” Sigurdur Óli vội vàng hỏi vì muốn phải nghe bài thuyết giảng. “Ý cháu là, cách đây bốn mươi năm, khi ông bắt đầu xây nhà của mình ấy?”

      ngôi nhà gỗ mùa hè nhưng lại phải là nhà gỗ mùa hè…?”

      “Nó nằm phía bên này của quả đồi Grafarholt ấy ạ,” Elínborg . “Nó được xây dựng trước chiến tranh.” nhìn ra bên ngoài cửa sổ. “Ông có thể trông thấy nó từ cửa sổ này.”

      “Tôi nhớ là có ngôi nhà ở đó, quét sơn, chưa xây xong. Nó biến mất cách đây nhiều năm rồi. Đó chắc chắn là ngôi nhà gỗ khá lớn, hoặc gần như là vậy, khá rộng, rộng hơn nhà tôi, nhưng rất bừa bộn. Gần như là sắp sập rồi. Cửa chính còn, cửa sổ vỡ. Ngày trước, thỉnh thoảng tôi bộ lên đó khi vẫn còn hứng thú với việc câu cá. Nhưng tôi thôi lâu rồi.”

      “Vậy có ai trong ngôi nhà đó ạ?” Sigurdur Óli hỏi.

      , chẳng có ai trong đó cả. ai có thể sống ở đó. Nó gần như sập đến nơi rồi.”

      “Vậy ngôi nhà đó chưa từng có người ở phải ? Theo như ông biết ấy?” Elínborg . “Ông nhớ có ai ở ngôi nhà đó ạ?”

      “Tại sao cậu lại muốn biết về ngôi nhà đó?”

      “Chúng cháu tìm thấy bộ xương người đồi,” Sigurdur Óli giải thích. “Ông xem ti vi ạ?”

      bộ xương ư? . Của người sống trong ngôi nhà đó à?”

      “Chúng cháu chưa biết. Chúng cháu vẫn chưa biết gì về lịch sử của ngôi nhà và những người từng sống ở đó,” Elínborg đáp. “Chúng cháu biết người chủ ngôi nhà là ai, nhưng ông ta chết cách đây lâu rồi, đến bây giờ chúng cháu vẫn chưa tìm ra ai đăng ký sống trong ngôi nhà đó. Ông có nhớ những trại lính trong thời chiến ở bên kia đồi ? Ở phía nam ấy. kho quân hay tương tự như thế chẳng hạn?”

      “Khắp nông thôn ở đâu chẳng có trại lính,” người đàn ông đáp. “Của cả người và người Mỹ. Tôi nhớ có cái nào ở đồi này, thời đó xảy ra trước khi tôi ra đời khá lâu. Hai người nên chuyện với Róbert ấy.”

      “Róbert ạ?”

      “Nếu như ông ấy chưa chết. Ông ấy là trong số những người đầu tiên dựng nhà ngọn đồi này. Tôi biết ông ấy từng ở trong nhà dưỡng lão. Róbert Sigurdsson. cậu tìm ông ấy xem, biết đâu ông ấy còn sống.”

      Vì cửa chính có chuông nên Erlendur phải lấy cả lòng bàn tay đập vào cánh cửa gỗ sồi dày cộp mới mong người bên trong nghe thấy. Trước đây ngôi nhà thuộc quyền sở hữu của Benjamín Knudsen, thương nhân ở Reykjavík, ông này chết vào đầu những năm 1960. Em trai và em của ông ta được thừa kế và chuyển đến ngôi nhà đó sau khi ông ta chết rồi sống ở đó đến cuối đời. Theo Erlendur được biết, cả hai người ấy đều độc thân, tuy nhiên người chị có con . Bà ấy là bác sĩ, bây giờ sống ở tầng giữa và thuê thêm những căn hộ ở bên và bên dưới tầng đó nữa. Erlendur chuyện với bà ấy qua điện thoại. Họ dự định gặp nhau vào buổi trưa.

      Tình trạng sức khỏe của Eva Lind vẫn có gì tiến triển. Erlendur tạt qua thăm con bé trước khi làm và ngồi cạnh giường nó lúc lâu, ông quan sát những thiết bị hiển thị các tín hiệu sống của con , cả cái ống cắm vào miệng, vào mũi và tĩnh mạch của nó. Điện tâm đồ vẫn ổn định. Trong lúc ra khỏi phòng chăm sóc đặc biệt, ông chuyện với bác sĩ, ông ta rằng vẫn chưa có biến chuyển gì về tình trạng sức khỏe của . Erlendur hỏi liệu mình có thể làm được gì hay và ông bác sĩ đáp rằng mặc dù con ông bị hôn mê, ông vẫn nên chuyện với con bé càng thường xuyên càng tốt. Để cho nó nghe thấy giọng của ông. Trong những trường hợp như vậy, thân nhân người bệnh nên làm thế để giúp họ vượt qua cú sốc. Đối với ông, Eva Lind chắc chắn vẫn còn sống nên ông cần phải đối xử với con bé đúng như thế.

      Cánh cửa gỗ sồi cuối cùng cũng mở ra và người phụ nữ khoảng sáu mươi tuổi chìa tay ra, tự giới thiệu mình là Elsa. Người bà mảnh dẻ, khuôn mặt thân thiện, trang điểm , tóc bà nhuộm đen, cắt ngắn và vuốt sang bên. Bà mặc quần bò và áo sơ mi trắng, đeo nhẫn, vòng tay hay vòng cổ. Bà đưa ông vào phòng khách và mời ông ngồi. Bà rất mạnh mẽ và tự tin.

      “Vậy các ông nghĩ thế nào về những khúc xương đó?” bà hỏi sau khi nghe Erlendur về công việc của mình.

      “Chúng tôi vẫn chưa biết, nhưng giả thuyết đưa ra là chúng có liên quan đến ngôi nhà gỗ trước đây xây ở cạnh đó, từng thuộc quyền sở hữu của bác bà là ông Benjamín. Ông ấy có ở đấy lâu ?”

      “Hình như bác tôi chưa từng đến ngôi nhà đó,” bà . “Đó là bi kịch. Mẹ tôi thường kể với chúng tôi về vẻ đẹp trai và tài trí của bác ấy, về việc bác ấy gặp vận may như thế nào, nhưng rồi ngày vị hôn thê của bác ấy bỗng dưng biến mất. Hồi đó, bà ấy mang thai.”

      Tâm trí Erlendur hướng về con .

      “Bác ấy bị suy sụp nặng, còn quan tâm gì đến việc buôn bán, sau đó toàn bộ tài sản và mọi thứ khác tiêu tan, tôi nghĩ thế, cho đến khi tất cả những gì mà bác ấy còn lại là ngôi nhà này. Bác ấy chết giữa độ tuổi đẹp nhất của đời người.”

      “Bà ấy biến mất như thế nào, vợ chưa cưới của ông Benjamín ấy?”

      “Người ta đồn rằng bà ấy nhảy xuống biển,” Elsa đáp. “Ít nhất đó là những gì mà tôi được nghe.”

      “Bà ấy có bị chứng trầm cảm ?”

      thấy ai nhắc gì đến chuyện đó.”

      “Vậy ai tìm thấy bà ấy sao?”

      . Bà ấy…”

      Elsa ngừng lại giữa chừng. Dường như bà bắt kịp được suy nghĩ của ông nên bắt đầu nhìn ông chằm chằm, đầu tiên là hoài nghi, sau đó là đau khổ, choáng váng và tức giận, tất cả cùng diễn ra lúc. Mặt bà đỏ lên.

      “Tôi tin ông.”

      “Sao cơ?” Erlendur hỏi lại khi thấy bà đột ngột trở nên thù địch.

      “Ông nghĩ đó là bà ấy. Bộ xương của bà ấy!”

      “Tôi nghĩ gì cả. Đây là lần đầu tiên tôi nghe chuyện về người phụ nữ này. Chúng tôi hề biết ai là người nằm dưới đó. Bây giờ còn quá sớm để được người đó là ai.”

      “Vậy tại sao ông lại quan tâm đến bà ấy? Ông biết điều gì mà tôi biết?”

      có gì cả,” Erlendur , đầy hoang mang. “Chuyện đó tác động gì đến bà khi tôi cho bà biết về bộ xương sao? Bác bà có ngôi nhà gần đó. Vợ chưa cưới của ông ấy mất tích. Chúng tôi tìm thấy bộ xương. Đó phải là phương trình khó.”

      “Ông bị điên à? Ông nghĩ rằng…”

      “Tôi nghĩ gì cả.”

      “…rằng ông ấy giết bà ấy ư? Rằng bác Benjamín giết chết hôn thê của mình và chôn bà ấy mà cho ai biết trong ngần ấy năm cho đến khi ông ấy chết ư? Rằng bác ấy là người đàn ông bỏ ư?”

      Elsa đứng lên và tới lui.

      “Chờ chút, tôi thế đâu,” Erlendur , tự hỏi liệu mình có thể khéo léo hơn . “Tôi chưa gì cả,” ông .

      “Ông nghĩ rằng đó là bà ấy ư? Bộ xương mà các ông tìm thấy ấy? Đó là bà ấy phải ?”

      “Hoàn toàn ,” Erlendur có căn cứ. Ông chỉ muốn giúp bà bình tĩnh lại. Ông quá vụng về, ra số điều mà dựa chứng cứ nào, và rồi bây giờ ông hối hận về điều đó. Tất cả đều quá đột ngột với bà ấy.

      “Bà có biết điều gì về ngôi nhà đó ?” ông , cố gắng thay đổi chủ đề. “Có ai sống ở đó cách đây khoảng năm, sáu mươi năm ? Trong hoặc ngay sau chiến tranh ấy? Chúng tôi vẫn chưa tìm ra giấy tờ liên quan đến thông tin đó lúc này.”

      “Lạy Chúa tôi, là kinh khủng!” Elsa rên rỉ, đầu óc ở tận đâu đâu. “Xin lỗi, ông vừa gì vậy nhỉ?”

      “Ông ấy có thể cho thuê ngôi nhà đó,” Erlendur nhanh. “Bác của bà ấy. Sau khi chiến tranh nổ ra ở Reykjavík thiếu nhà ở trầm trọng. Việc thuê nhà rộ lên và tôi cho rằng ông ấy có thể cho thuê nhà giá rẻ. Hoặc thậm chí là bán nó . Bà có biết gì về chuyện đó ?”

      “Có, hình như ông ấy có đến chuyện cho thuê ngôi nhà đó, nhưng tôi biết là với ai, nếu như ông muốn biết điều ấy. Thứ lỗi cho tôi vì cư xử như thế này. Chuyện này quá… Đó là loại xương gì vậy? bộ xương đầy đủ, của đàn ông, phụ nữ hay trẻ con?”

      Khi bình tĩnh hơn và quay trở lại mạch câu chuyện, bà ngồi xuống và nhìn ông với ánh mắt tò mò.

      “Bộ xương dường như còn nguyên vẹn, nhưng chúng tôi vẫn chưa khai quật hết được,” Erlendur đáp. “Bác bà còn giữ lại giấy tờ liên quan đến việc kinh doanh hay tài sản của mình ? Bất kỳ thứ gì chưa bị vứt ấy?”

      “Dưới tầng hầm có đủ thứ của ông ấy. Tất cả các loại giấy tờ và hộp đựng mà tôi chưa bao giờ dám bỏ hay sắp xếp lại. Bàn làm việc và số ngăn kéo của bác ấy còn ở tầng dưới. Tôi để mắt đến chúng sớm.”

      Elsa điều này với vẻ ân hận và Erlendur thắc mắc biết bà có bằng lòng với số phận của mình hay . Bà sống mình trong ngôi nhà lớn được thừa kế lại. Ông nhìn quanh và có cảm giác rằng dường như cả cuộc đời bà cũng là thừa kế.

      “Bà có nghĩ rằng chúng ta…?”

      “Xin ông cứ thoải mái. Ông cứ quan sát tự nhiên,” bà với nụ cười lơ đãng.

      “Tôi băn khoăn điều.” Erlendur khi đứng lên. “Bà có biết tại sao ông Benjamín cho thuê nhà ? Ông ấy thiếu tiền hay sao? Ông ấy có vẻ cần thiết phải cần nhiều tiền đến thế. Với ngôi nhà này. Với công việc kinh doanh của mình. Bà rằng cuối cùng ông ấy mất tất cả, nhưng trong chiến tranh ông ấy chắc hẳn phải sống cuộc sống khá tươm tất và có khi còn hơn thế chứ?”

      “Vâng, có lẽ bác tôi cần tiền.”

      “Vậy lý do là gì?”

      “Tôi nghĩ rằng có ai đó hỏi bác ấy. Khi người ta bắt đầu từ quê chuyển đến Reykjavík trong chiến tranh. Tôi nghĩ rằng bác tôi rủ lòng thương người ta.”

      “Vậy nên ông ấy nhất thiết phải thu tiền thuê nhà phải ?”

      “Tôi biết gì về chuyện đó cả. Tôi tin được khi ông cho rằng bác Benjamín …”

      hết câu như thể tìm cách ráp nối các suy nghĩ của mình lại.

      “Tôi nghĩ gì cả,” Erlendur cố gắng mỉm cười. “Bây giờ còn quá sớm để có thể nghĩ ra điều gì đó.”

      “Tôi tin đâu.”

      “Bà vui lòng cho tôi biết thêm điều này.”

      “Sao cơ?”

      “Bà ấy có người thân nào vẫn còn sống cho đến bây giờ ?”

      “Ai cơ?”

      “Vợ chưa cưới của Benjamín ấy. Có ai mà tôi có thể hỏi chuyện được ?”

      “Tại sao? Ông muốn hỏi gì về chuyện đó? Bác ấy chưa bao giờ làm điều gì tổn hại đến bà ấy cả.”

      “Tôi hiểu điều đó. Như tất cả mọi lần, chúng tôi có những khúc xương và chúng phải thuộc về người nào đó chứ thể mất . Tôi phải điều tra theo tất cả

      các hướng.”

      “Bà ấy có người em mà tôi biết là đến bây giờ vẫn còn sống. Tên bà ấy là Bára.”

      “Người phụ nữ ấy biến mất khi nào?”

      “Vào năm 1940,” Elsa đáp. “Họ với tôi đó là ngày mùa thu rất đẹp.”

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      9

      Róbert Sigurdsson vẫn còn sống, nhưng chỉ thế thôi, Sigurdur Óli thầm nghĩ. ngồi cùng Elínborg trong phòng ông cụ, và khi nhìn vào khuôn mặt xanh xao của ông, Sigurdur Óli tự nhủ rằng mình muốn sống đến tuổi chín mươi. rùng mình. Cụ già móm hết răng, môi nhợt nhạt, má hóp, nhúm tóc dựng cái đầu gớm guốc, chúng tua tủa chĩa ra khắp hướng. Người ông nối với bình oxy đặt trong cái xe đẩy đặt ngay bên cạnh. Mỗi lần cần điều gì, ông phải đưa bàn tay run rẩy của mình bỏ cái mặt nạ oxy ra rồi thều thào vài ba từ trước khi đặt lại nó lên mặt.

      Róbert bán căn nhà gỗ của mình cách đây khá lâu, ngôi nhà đó cũng đổi được thêm hai đời chủ trước khi bị phá hủy và giờ đây nó được thay thế bằng nhà khác mới xây bên cạnh. Sigurdur Óli và Elínborg đánh thức chủ nhân của ngôi nhà gỗ mới vào đầu giờ chiều và được nghe câu chuyện khá mơ hồ và rời rạc đó.

      Họ nhờ cảnh sát xác định chỗ ở của Róbert khi họ lái xe từ đồi trở về. Hóa ra ông ta nằm trong Bệnh viện Trung ương, năm nay vừa tròn chín mươi tuổi.

      Elínborg chuyện với Róbert khi ông ta ngồi dúm dó cái xe và hít lấy hít để oxy từ bình chứa.

      người cả đời hút thuốc lá. Ông ta dường như vẫn rất minh mẫn mặc dù tình trạng sức khỏe thảm hại. Róbert gật đầu xác nhận rằng ông hiểu tất cả mọi chuyện và biết nhiệm vụ của hai thám tử. Người y tá đưa hai thám tử đến phòng bệnh của ông luôn đứng sau chiếc xe đẩy và nhắc nhở hai người rằng nên hỏi chuyện quá lâu làm ông kiệt sức.

      “Tôi nhớ…” giọng Róbert và khàn. Tay ông run lên khi đưa chiếc mặt nạ trở lại lên miệng và hít mạnh luồng sinh dưỡng. Sau đó ông ta lại gỡ nó ra.

      “…ngôi nhà đó, nhưng…”

      Mặt nạ đưa lên mặt.

      Sigurdur Óli nhìn Elínborg sau đó liếc xuống đồng hồ, buồn che giấu sốt ruột.

      “Ông có muốn…” bắt đầu , nhưng cái mặt nạ lại được tháo ra.

      “…Tôi chỉ nhớ…” Róbert ngắt lời , dúm người lại mà thở.

      Mặt nạ đưa lên mặt.

      “Sao đến căng-tin kiếm ít đồ ăn ?”

      Elínborg với Sigurdur Óli khi thấy lại nhìn đồng hồ, nhìn ông già, nhìn rồi thở dài ngao ngán. Sigurdur Óli đứng lên và ra khỏi phòng.

      Mặt nạ tháo ra.

      “… gia đình từng sống ở đó.”

      Mặt nạ lại đưa lên mặt. Elínborg chờ thêm lát xem ông cụ có tiếp hay , nhưng thấy ông năng gì thêm nên cân nhắc việc đặt câu hỏi và để ông cụ trả lời bằng cách gật hoặc lắc đầu thay cho việc “có” và “”. với Róbert rằng mình muốn thử làm thế và ông gật đầu. “ như ban ngày,” Elínborg nghĩ.

      “Trong chiến tranh ông có ngôi nhà gỗ nào ?”

      Róbert gật đầu.

      “Hồi ấy gia đình mà ông vừa có ở đó ạ?”

      Róbert gật tiếp.

      “Ông có nhớ tên những người sống trong ngôi nhà vào thời gian đó ?”

      Róbert lắc đầu – .

      “Đó là gia đình lớn phải ạ?”

      Róbert lại lắc đầu – .

      “Hai vợ chồng với hai, ba con hay nhiều hơn phải ?”

      Róbert gật đầu và giơ ra ba ngón tay xanh xao.

      “Thế là hai vợ chồng cùng ba đứa con. Ông có gặp những người này ? Ông có liên hệ gì với họ hay biết họ ạ?” Erlendur quên mất quy định của mình về câu trả lời “có” và “” nên Róbert phải bỏ mặt nạ ra.

      biết họ.” Mặt nạ lại đưa lên. Bà y tá dường như sốt ruột, bà ta đứng đằng sau xe đẩy và nhìn trừng trừng vào Elínborg như thể bắt phải dừng lại ngay lập tức. Dường như bà ta sẵn sàng để xen vào bất cứ lúc nào. Róbert lại tháo mặt nạ ra.

      “…chết…”

      “Ai cơ ạ? Những người đó sao? Ai chết cơ ạ?” Elínborg nghiêng người gần hơn về phía ông, chờ ông tháo cái mặt nạ ra. lần nữa ông lại đưa bàn tay run rẩy của mình lên mặt.

      “Vô dụng…”

      Elínborg thấy rằng Róbert rất khó khăn và dùng hết sức lực của mình để giục ông tiếp. nhìn ông chằm chằm và chờ đợi ông thêm.

      Mặt nạ tháo ra.

      …rau.”

      Róbert làm rơi cái mặt nạ, mắt ông nhắm nghiền còn đầu gục hẳn xuống ngực.

      “Thế đấy,” bà y tá sẵng, “bây giờ làm ông ấy kiệt sức mãi mãi rồi.” Bà ta nhặt cái mặt nạ lên và đưa vào mũi Róbert cách cẩn thận thái quá trong lúc ông ngồi gục đầu xuống ngực, đôi mắt già nua nhắm chặt trông như thể ngủ. Có lẽ ông ấy chết, Elínborg nghĩ. đứng lên và nhìn theo người y tá đẩy ông về phía giường bệnh, bế ông như bẫng từ chiếc xe lên và đặt ông nằm xuống giường.

      định giết chết ông già tội nghiệp này bằng những điều vô nghĩa đó ư?” bà y tá . Đó là người phụ nữ tầm năm mươi tuổi, tóc búi đằng sau, bà ta mặc áo choàng trắng, quần trắng, guốc trắng. Bà ta nhìn chằm chằm vào Elínborg đầy dữ tợn. “Đáng lý ra tôi nên cho phép làm điều này,” bà thầm như tự chỉ trích mình. “Ông ấy khó có thể sống đến sáng hôm sau,” bà quát lớn vào mặt Elínborg với giọng cáo buộc ràng.

      “Tôi xin lỗi,” Elínborg hiểu tại sao mình phải làm như thế. “Chúng tôi nghĩ rằng ông ấy có thể giúp chúng tôi trong quá trình điều tra về bộ xương. Tôi hy vọng là ông ấy cảm thấy quá tệ.”

      Khi được đặt nằm xuống, Róbert chợt mở mắt ra. Ông nhìn quanh như thể dần nhận ra mình ở đâu và tháo cái mặt nạ oxy ra mặc dù bà y tá ra sức ngăn cản.

      “Thường đến,” ông thở hổn hển, “…sau này. Người phụ nữ… xanh lục… các bụi cây…”

      “Các bụi cây ư?” Elínborg . suy nghĩ trong thoáng. “Ý ông là các bụi cây lý chua ạ?”

      Người y tá đặt lại chiếc mặt nạ lên mặt Róbert, nhưng Elínborg nghĩ rằng mình nhìn thấy ông gật đầu.

      “Đó là ai? Ý ông là bản thân ông sao? Ông nhớ các bụi cây lý chua phải ? Ông có đến đó bao giờ chưa? Ông đến chỗ mấy bụi cây chưa?”

      Róbert chầm chậm lắc đầu.

      “Ra ngoài và để ông ấy được yên!” người y tá ra lệnh với Elínborg, lúc này đứng lên để cúi xuống giường Róbert, nhưng đứng quá gần để tránh làm bà ta tức giận như lúc trước.

      “Ông có thể cho cháu biết về chúng được ?” Elínborg tiếp. “Ông có biết đó là ai ? Ai thường đến chỗ những bụi cây lý chua ạ?”

      Mắt Róbert nhắm lại.

      “Sau này?” Elínborg tiếp. “Ông sau này nghĩa là thế nào?”

      Róbert mở mắt ra, đưa bàn tay già nua và xương xẩu của mình lên ra dấu rằng ông cần chiếc bút chì và mẩu giấy. Bà y tá lắc đầu và bảo ông phải nghỉ ngơi, ông chịu đựng quá đủ rồi. Ông nắm chặt lấy tay bà ta và nhìn bà ta như van xin.

      được,” bà ta đáp. “ làm ơn ra khỏi đây,” bà ta với Elínborg.

      “Chúng ta nên để cho ông ấy quyết định chứ? Nếu tối nay ông ấy chết...”

      “Chúng ta ư? Chúng ta là ai cơ? chăm sóc những bệnh nhân như thế này trong vòng ba mươi năm chưa?” bà ta đầy khinh bỉ. “ hãy ra , trước khi tôi buộc phải đưa ra.”

      Elínborg nhìn xuống Róbert, lúc này ông nhắm mắt, trông như ngủ. nhìn sang người y tá và lưỡng lự bước ra phía cửa. Bà y tá theo và đóng cửa lại ngay sau khi ra khỏi hành lang. Elínborg định gọi cho Sigurdur Óli để ta cho bà y tá biết việc chuyện với Róbert quan trọng với họ đến thế nào, nhưng lúc sau từ bỏ ý định đó. Chắc chắn là Sigurdur Óli còn làm bà ta nổi điên hơn nữa.

      Elínborg xuống hành lang và trông thấy Sigurdur Óli ngồi trong căng tin ngấu nghiến quả chuối, mặt ta trông chẳng khác nào con khỉ. dừng lại trong lúc bước đến chỗ ta ngồi. Có hốc tường ở cuối hành lang và trốn vào đó, sau chậu lớn, nó cao đến tận mái nhà. chờ ở đó, theo dõi cánh cửa giống như con sư tử cái mình trong đám cỏ.

      Ngay sau đó, bà y tá ra khỏi phòng Róbert. Bà ta lướt xuống cầu thang và qua căng tin để đến phòng bệnh nhân khác. Bà ta thấy Sigurdur Óli và ta cũng trông thấy bà ta khi ăn quả chuối nhồm nhoàm.

      Elínborg lẻn ra khỏi chỗ trú của mình đằng sau cái cây và nhón chân đến phòng Róbert. Ông nằm ngủ giường, miệng đeo mặt nạ giống y như khi ra. Rèm cửa buông xuống, trong phòng ánh đén sáng dìu dịu của chiếc đèn. đến chỗ ông cụ, lưỡng lự lát rồi lén lút nhìn quanh trước khi đánh thức ông. Róbert nhúc nhích. thử lại lần nữa nhưng ông ngủ say như chết. Elínborg nghĩ rằng ông ngủ rất say, nếu phải là chết, cắn móng tay trong lúc phân vân xem có nên huých vào ông mạnh hơn hay là ra ngoài và quên luôn chuyện đó . Ông ấy vẫn chưa được là bao.

      Chỉ mới đến đoạn có ai đó đến chỗ mấy bụi cây đồi, có vẻ như là người phụ nữ mặc đồ màu xanh lục.

      xoay người sắp sửa bước Róbert đột ngột mở mắt ra và nhìn chằm chằm. Elínborg biết ông có nhận ra mình , nhưng ông gật đầu ra hiệu là có. Elínborg chắc chắn là mình nhìn thấy nụ cười của ông bên dưới cái mặt nạ oxy. Ông ra dấu giống như lúc trước ý mình cần cái bút và mẩu giấy, Elínborg tìm giấy bút trong áo khoác của mình. đặt hai thứ vào tay Róbert và ông bắt đầu viết hoa những chữ cỡ lớn bằng bàn tay run rẩy. Róbert mất khá nhiều thời gian khiến Elínborg liên tục đưa mắt nhìn về phía cánh cửa đầy lo sợ, sợ bà y tá đến bất cứ lúc nào, rồi bà ta lại bắt đầu chửi rủa. muốn nhắc Róbert nhanh hơn nhưng dám gây sức ép cho ông.

      Khi Róbert viết xong, đôi bàn tay gầy guộc của ông buông thõng xuống cái mền, làm rơi theo cả quyển sổ và cây bút, rồi ông nhắm nghiền mắt lại. Elínborg nhặt quyển sổ lên và định đọc những điều mà ông cụ vừa viết máy đo nhịp tim nối với cơ thể ông bất ngờ phát ra tiếng kêu bíp bíp. thanh đó vang lên inh tai nhức óc trong căn phòng tĩnh lặng khiến Elínborg giật mình đến nỗi nhảy lùi về phía sau. nhìn xuống Róbert thoáng nhưng biết phải làm gì, sau đó lao nhanh ra khỏi phòng, xuống hành lang và vào căng-tin nơi Sigurdur Óli ngồi. Có tiếng chuông báo động vang lên ở đâu đó.

      có moi được thông tin nào từ ông già ấy ?” Sigurdur Óli hỏi Elínborg khi ngồi xuống cạnh mình, thở lấy thở để. “Này, ổn đấy chứ?” thêm khi thấy đồng nghiệp thở hổn hển.

      “Tôi sao,” Elínborg đáp.

      nhóm bác sĩ, y tá và cấp cứu chạy qua căng-tin đến hành lang hướng đến phòng của Róbert. lâu sau đó người đàn ông mặc áo choàng trắng xuất , đẩy đằng trước thiết bị mà Elínborg cho là cái máy điều hòa nhịp tim, ông ta cũng xuống hành lang. Sigurdur Óli trông cho đến khi đám người mất hút nơi góc nhà.

      ở chỗ quái quỷ nào thế?” Sigurdur Óli hỏi trong lúc quay sang Elínborg.

      “Tôi á?” Elínborg thầm. “Chẳng có gì cả. Tôi ư! Ý là sao?”

      “Vì chuyện gì mà vã mồ hôi như thế?” Sigurdur Óli hỏi.

      “Tôi có vã mồ hôi đâu.”

      “Có chuyện gì xảy ra thế? Tại sao mọi người phải chạy?”

      biết.”

      moi được gì từ ông ta phải ? Ông ta chết rồi à?”

      “Thôi nào, tỏ ra tôn trọng người khác chút ,” Elínborg nhắc trong lúc nhìn xung quanh.

      lấy được tin gì từ ông ta?”

      “Tôi vẫn chưa kiểm chứng lại,” Elínborg đáp. “Chúng ta nên khỏi đây chứ?”

      Họ đứng lên và ra khỏi căng-tin, rời bệnh viện và lên xe của Sigurdur Óli. lái xe .

      “Vậy lấy được thông tin gì từ ông ta?” Sigurdur Óli sốt ruột hỏi.

      “Ông ấy viết cho tôi mấy chữ,” Elínborg thở dài. “Ông già đáng thương.”

      “Viết cho mấy chữ á?”

      lấy cuốn sổ ra khỏi túi và xem xét nó cho đến khi tìm thấy chỗ mà Róbert viết. Chỉ có từ được viết lên đó, bằng đôi tay run rẩy của người hấp hối, chữ nguệch ngoạc gần như hiểu được. phải mất lúc mới hiểu ra điều mà ông cụ viết, lúc sau chắc chắn hơn, mặc dù hiểu lắm ý nghĩa của nó. nhìn chằm chằm vào từ cuối cùng mà Róbert để lại trước khi từ giã cõi trần: MÉO MÓ.

      ***

      Món ăn cho bữa tối hôm đó là khoai tây. nghĩ rằng chúng chưa được chín kỹ. Chúng cũng có thể nhừ quá, vón thành cục bột hay còn sống, chưa gọt vỏ hoặc gọt vỏ sơ sài, gọt quá sâu hoặc cắt thành miếng, có nước sốt hay có nước sốt, được chiên lên hay được chiên, bị nghiền nát, bị cắt lát quá dày hay quá mỏng, quá ngọt hay được ngọt lắm…

      chưa bao giờ hiểu được chồng mình.

      Đó là trong số những vũ khí mạnh nhất mà ta có. Những vụ đánh đập luôn luôn xảy ra mà được báo trước và chúng đến vào những lúc ngờ nhất, ngay cả khi mọi chuyện diễn ra suôn sẻ hay khi cảm thấy có chuyện gì đó khiến ta bực mình. có biệt tài khiến lòng dạ lúc nào cũng như lửa đốt, bao giờ cảm thấy an toàn. luôn căng thẳng mỗi khi có xuất của chồng, luôn sẵn sàng phục dịch ta mọi lúc mọi nơi.

      Chuẩn bị thức ăn sẵn sàng đúng giờ, chuẩn bị quần áo cho vào buổi sáng, trông nom mấy đứa con trai cẩn thận, để Mikkelína khuất mắt ta, phục vụ ta đủ kiểu, mặc dù biết rằng làm những chuyện đó cũng chẳng ích gì.

      lâu lắm rồi còn hy vọng gì vào việc mọi chuyện trở nên tốt đẹp hơn. Nhà của ta là nhà tù của .

      Sau khi ăn tối xong, bê đĩa của mình bỏ vào bồn rửa, cáu kỉnh y như mọi lần. Sau đó quay trở lại bàn như thể chuẩn bị ra khỏi bếp, nhưng dừng lại chỗ ngồi bên bàn ăn. dám ngẩng mặt lên, nhìn hai con trai ngồi cùng mẹ và tiếp tục ăn nốt phần ăn của mình. Mọi thớ thịt người đều cảnh giác. Có lẽ ra ngoài mà động đến mình. Hai đứa con nhìn mẹ và từ từ buông dĩa xuống.

      yên lặng chết chóc bao phủ toàn căn bếp.

      Bất thình lình tóm lấy đầu và đập nó xuống cái đĩa, cái đĩa vỡ tan tành, sau đó tóm tóc kéo lên và ném ra đằng sau, rơi ra khỏi ghế và văng xuống đất. gạt tất cả bát đĩa bàn xuống và đá ghế của vào tường. choáng váng sau cú ngã. Cả căn bếp dường như đảo lộn. cố gắng đứng dậy mặc dù kinh nghiệm cho biết rằng mình nên nằm yên động đậy tốt hơn, nhưng có chút gì đó ngoan cố trong vẫn muốn khiêu khích ta.

      “Đứng yên đó, đồ con bò!” quát nạt , và khi quỳ được bằng hai đầu gối, cúi xuống chỗ và hét lên:

      “Vậy là mày muốn đứng lên phải ?” kéo tóc lên và dúi mạnh mặt vào tường, đá vào đùi cho đến khi chân hoàn toàn kiệt sức đến mức hét lên và ngã gục xuống sàn. Máu tuôn ra như suối từ mũi chỉ nghe thấy tiếng quát giống như tiếng chuông ong ong bên tai.

      “Thử đứng lên lần nữa xem, con khốn!” rít lên.

      Lần này nằm yên, cúi mình xuống, hai tay ôm lấy đầu và chờ đợi những cú đá như mưa trút xuống người mình. co chân lên, lấy hết sức thúc mạnh vào người khiến thở hắt ra vì cơn đau quằn quại ngực. Cúi xuống, túm lấy tóc , giật ngửa mặt lên và tát mạnh trước khi đập đầu xuống sàn nhà.

      “Đồ đĩ,” rít lên. Sau đó đứng dậy, nhìn bãi chiến trường ngổn ngang sau cơn hành hung của mình. “Nhìn xem mày làm nhà cửa lộn xộn đến mức nào, con ngu!!!” hét om lên. “Dọn dẹp ngay nếu tao giết chết bây giờ!”

      từ từ lùi ra xa và cố gắng nhổ vào mặt lần nữa, nhưng mồm khô hết lại.

      “Con khốn nạn,” . “Mày vô dụng. Mày làm đúng được việc gì à, con điếm vô dụng khốn kiếp? ngày nào đó mày có nhận ra điều đó ? Mày nhận thấy vậy à?”

      quan tâm người có để lại dấu vết gì . biết rằng chẳng ai có thể can thiệp được. Nhà chẳng mấy khi có khách. Chỉ có lác đác vài ngôi nhà xung quanh vùng đất thấp, nhưng chẳng có mấy người lên đồi, mặc dù con đường cái nối giữa Grafarvogur và Grafarholt ở gần đó, và chẳng có ai có việc gì nhờ vả đến họ. Ngôi nhà họ sống là căn nhà gỗ thuê được của người đàn ông ở Reykjavík; người chủ xây dở đâm ra chán, ông ta đồng ý cho thuê với giá rẻ mạt nếu có thể xây xong nó. Lúc đầu rất hào hứng với việc xây nhà và gần như làm xong nó, nhưng dần dần nhận ra người chủ cũng chẳng để ý gì đến, thế là về sau ngôi nhà bắt đầu trở nên rách nát. Nó được làm bằng gỗ, có phòng khách kề liền nhà bếp với bếp than để nấu ăn, hai phòng có bếp than để sưởi và hành lang nối giữa các phòng. Vào buổi sáng, họ lấy nước từ cái giếng gần nhà, đổ đầy nước vào hai cái thùng chứa đặt chiếc bàn trong bếp.

      Họ chuyển đến ngôi nhà này cách đây năm sau khi rất nhiều người Iceland chuyển từ vùng nông thôn lên Reykjavík để mong kiếm việc làm. Gia đình họ mất căn hộ dưới tầng hầm vì đủ tiền thuê nó nữa. Việc người ta đổ xô vào thành phố có nghĩa rằng nhà cửa trở nên đắt đỏ và việc thuê mướn bùng nổ. Sau khi nhận thuê ngôi nhà xây dở ở Grafarholt và cả nhà chuyển ra đó, bắt đầu tìm những công việc phù hợp với hoàn cảnh mới của mình, cuối cùng nhận giao than đến các trang trại quanh Reykjavík. Mỗi buổi sáng bộ xuống chỗ rẽ dẫn đến Grafarholt – nơi chiếc xe tải chở than đón và đưa về nhà vào buổi chiều. Đôi khi nghĩ lý do duy nhất mà rời khỏi Reykjavík là vì ở Grafarholt có ai nghe thấy tiếng hét kêu cứu của mỗi khi hành hạ .

      trong số những điều đầu tiên mà làm sau khi họ chuyển đến ngọn đồi là trồng những bụi cây lý chua. Tìm được khu đất cằn cỗi, trồng những bụi cây ở phía nam ngôi nhà. Chúng dùng để đánh dấu góc vườn mà dự định trồng rau ở đó. muốn trồng nhiều bụi cây hơn, nhưng thấy đó là việc vô ích nên nghiêm cấm làm chuyện đó.

      nằm bất động sàn, chờ cho bình tĩnh lại hoặc vào thị trấn gặp bạn bè. Đôi khi đến Reykjavík và đến tận sáng hôm sau mới về. Mặt đau tê dại, cả chỗ đau nơi vùng ngực cũng phừng phừng như thiêu như đốt, y như lần làm gãy xương sườn hai năm về trước. biết nguyên nhân phải là ở món khoai tây, chẳng có gì ngoài vết bẩn mà thấy cái áo được giặt sạch , ngoài cái váy tự may cho mình, nhưng lại cho rằng nó quá đàng điếm nên xé nó ra thành trăm mảnh. đổ lỗi cho chỉ vì lũ trẻ kêu khóc vào ban đêm. “ con mẹ ngu độn! Bảo chúng nó câm mồm ngay nếu tao giết hết bây giờ!” biết rằng rất có thể làm điều đó.

      Hai thằng con trai lao ra ngoài khi thấy bố đánh mẹ, nhưng Mikkelína vẫn ngồi yên như thường lệ. Con bé khó có thể di chuyển mà có người giúp đỡ. Trong nhà bếp có cái -văng cũ kỹ để con bé nằm ngủ và ngồi cả ngày đó bởi vì đó là nơi có thể trông nom con bé được thuận tiện nhất. Thường thường, Mikkelína ngồi yên khi ta vào, và khi bắt đầu đánh mẹ, con bé đưa bàn tay lành lặn kéo chăn phủ lên đầu như thể là cố vùi cho mình biến mất.

      Con bé trông thấy chuyện gì. Nó muốn nhìn. Qua cái chăn, nó nghe tiếng bố dượng quát tháo, tiếng mẹ nó la hét vì đau, và khi nghe thấy tiếng mẹ nó đập mạnh vào tường và sụp xuống sàn nhà, đứa bé tội nghiệp run bắn lên. Nằm cuộn tròn trong chăn, con bé bắt đầu đọc thầm:

      “Họ đứng chiếc hộp,

      Chân tất xinh,

      Mái tóc thơm màu vàng,

      Những nàng áo đẹp.”

      Khi con bé ngừng đọc cũng là lúc căn bếp im ắng trở lại. lúc lâu con bé vẫn chưa dám bỏ cái chăn ra. Nó hé chăn nhòm ra đầy thận trọng nhưng trông thấy ta đâu. Nhìn xuống hành lang, nó thấy cửa chính mở. Chắc hẳn ta rồi. Con bé ngồi dậy và nhìn thấy mẹ nó nằm sàn nhà. Nó ném chăn ra, bò ra khỏi chỗ ngủ của mình, trườn xuống sàn nhà, luồn qua bàn đến chỗ mẹ, lúc này mẹ nó vẫn nằm khom bất động.

      Mikkelína xích lại gần mẹ. Con bé gầy như que củi và yếu ớt, cái sàn nhà cứng quá, nó khó có thể bò qua được. Bình thường, nếu con bé muốn di chuyển có mẹ hoặc các em giúp đỡ. Còn ta bao giờ. ta thường dọa dẫm “giết chết con tật nguyền đó”.

      “Tao bóp chết con quái vật nằm cái giường ghê tởm đó! Đồ què quặt!”

      Người mẹ cử động nhưng vẫn cảm nhận được Mikkelína chạm vào lưng và vuốt vuốt đầu mình. Cơn đau ở lồng ngực vẫn chưa dịu bớt, mũi vẫn chảy máu ròng ròng. biết liệu mình có vừa bị ngất hay . nghĩ ta vẫn còn ở trong bếp, nhưng vì Mikkelína rời khỏi giường nên chuyện đó là thể. Mikkelína sợ bố dượng hơn tất thảy mọi thứ đời.

      Người mẹ duỗi thẳng người cách thận trọng, rên rỉ vì đau, bám chặt lấy mạng sườn chỗ vừa bị đá. Chắc là đá gẫy xương sườn mình rồi. co người lại và nhìn Mikkelína. Trước đó con bé khóc, mặt vẫn còn hằn lên nỗi sợ hãi kinh hoàng. Sốc trước khuôn mặt đầy máu me của mẹ, con bé lại òa lên khóc nức nở.

      sao đâu, Mikkelína,” người mẹ thở dài. “Chúng ta ổn cả thôi.”

      Chậm chạp và khó khăn, người mẹ đứng lên và tì người vào bàn.

      “Chúng ta sống.”

      xoa mạng sườn và thấy cơn đau nhói lên như có dao đâm.

      “Các em con đâu?” hỏi khi nhìn xuống Mikkelína sàn nhà. Mikkelína chỉ ra phía cửa và ú ớ những tiếng đầy sợ hãi và kinh khiếp. Mẹ con bé luôn đối xử với nó như đứa trẻ bình thường. Còn bố dượng bao giờ gọi nó bằng cái tên nào khác ngoài “con què”, hoặc thậm chí tệ hơn. Mikkelína bị bệnh viêm màng não từ khi lên ba và người ta cho rằng nó sống được. Trong những ngày con bé sống dưới lưỡi hái tử thần ở bệnh viện Landakot, bệnh viện do các tu sĩ cai quản, mẹ nó được đến gần mặc cho có gào khóc và van xin đến mấy bên ngoài khu điều trị.

      Khi cơn sốt qua , con bé bị liệt tay phải, liệt hai chân và cơ mặt nên khuôn mặt nó trở nên méo mó, mắt nheo lại và miệng méo xệch đến mức lúc nào cũng chảy dãi.

      Hai thằng con trai biết chúng thể bảo vệ được mẹ mình: thằng em mới lên bảy còn thằng mới mười hai. Đến lúc này chúng biết bố nghĩ gì khi đánh mẹ, biết tất cả những lời thóa mạ ông ta đổ lên đầu mẹ và cả cơn giận dữ điên cuồng trỗi lên khi ông ta nguyền rủa mẹ. Vì thế chúng phải chạy trốn. Símon là đứa lớn tuổi hơn, nó ngay lập tức lôi thằng em chạy như con cừu non hoảng loạn. Nó sợ bố trút cơn thịnh nộ lên đầu hai đứa.

      ngày nào đó nó mang cả Mikkelína trốn cùng.

      ngày nào đó nó đủ lớn để bảo vệ mẹ mình.

      Hai em khiếp đảm chạy ra khỏi nhà, hướng đến những bụi cây lý chua. Lúc đó là mùa thu, những bụi cây ra hoa với những tán lá xanh om. Những quả đỏ mọng nước ních chặt trong tay hai em khi chúng nhặt rồi bỏ vào những cái hộp và lọ mà mẹ chúng đưa cho.

      Hai em lăn sang phía bên kia bụi cây, nghe những lời mắng chửi thậm tệ của bố, tiếng bát đĩa vỡ và tiếng la hét của mẹ. Thằng em bịt tai lại, nhưng Símon lại nhìn thẳng vào cửa sổ căn bếp tỏa ánh sáng vàng vọt lúc trời chạng vạng. Nó bắt mình phải nghe tiếng mẹ gào thét.

      thôi còn bịt tai lại như trước đây nữa. Nó phải nghe để biết lúc nào nó phải làm những gì cần làm.


      10

      Elsa ngoa về tầng hầm trong ngôi nhà của Benjamín. Trong đó toàn đồ tạp nham và trong thoáng, Erlendur thấy nhụt chí trước viễn cảnh quá ư ảm đạm. Ông phân vân về việc gọi cho Elínborg và Sigurdur Óli, nhưng lại quyết định tự mình làm lấy. Tầng hầm rộng khoảng chín mươi mét vuông, được ngăn thành các phòng lớn khác nhau, có cửa sổ, số phòng cũng đề biển hiệu, nhưng hầu hết là . Có nhiều hộp các-tông trước đây từng được dùng để chứa chai rượu và thuốc lá, có cả những cái sọt đủ mọi kích thước chứa vô khối các loại giấy rác khác nhau. Trong tầng hầm còn có các tủ ly cũ, hòm xiểng, va ly và nhiều đồ lặt vặt khác chất đống từ rất lâu rồi: những cái xe đạp, máy cắt cỏ bụi bặm cùng cái vỉ sắt nướng thịt hoen gỉ.

      “Ông có thể xem qua chúng nếu ông muốn,” Elsa trong lúc theo ông xuống. “Nếu tôi có thể giúp gì được cho ông, xin ông cứ gọi.” Bà có phần thương ông thám tử tư lự này, ông ta dường như bị bệnh đãng trí, mặc chiếc áo len đan cũ kỹ bên trong cái áo khoác bạc màu có những miếng sờn ở khuỷu tay. Bà cảm thấy nỗi buồn sâu sắc nơi ông khi chuyện và nhìn vào mắt ông.

      Erlendur cười lơ đãng và cảm ơn bà. Hai tiếng sau, ông tìm được những tài liệu đầu tiên về Benjamín Knudsen – người lái buôn. Ông phải làm việc vô cùng cật lực trong tầng hầm. Mọi thứ cứ lộn tung hết cả lên. Những đồ cả cũ cả mới chất hết vào với nhau thành những chồng cao ngất ngưởng khiến Erlendur phải xem xét và phân loại lại theo thứ tự thành từng đống . Tuy nhiên, ông càng xếp, cái đống mà ông xếp lại càng cũ hơn cái trước. Erlendur muốn uống cốc cà phê và điếu thuốc, ông băn khoăn xem có nên làm phiền Elsa hay , hay là nên nghỉ lát và tìm quán cà phê nào đó.

      Eva Lind vẫn luôn thường trực trong tâm trí của ông. Ông mang điện thoại theo người và chờ điện thoại gọi đến từ bệnh viện bất cứ lúc nào. Lương tâm ông dằn vặt vì thể ở bên con bé. Có thể ông nên nghỉ vài ngày, ngồi bên con chuyện với nó giống như lời ông bác sĩ . Ở bên nó chứ phải để nó ở phòng chăm sóc đặc biệt, bất tỉnh, có người thân hay ai chăm sóc, an ủi, tất cả đều chỉ có mình con bé. Nhưng ông biết mình thể ngồi yên cả ngày để chờ bên giường bệnh. Làm việc là hình thức cứu rỗi cho ông. Ông cần nó để choán đầy suy nghĩ, ngăn cho ông nghĩ đến điều tồi tệ nhất. Điều ông thể nghĩ đến.

      Ông dồn sức tập trung làm việc trong tầng hầm. cái bàn cũ, ông tìm thấy số hóa đơn của những người bán sỉ gửi đến có đề địa chỉ cửa hàng của Knudsen. Chúng được viết tay và rất khó đọc, nhưng có vẻ như chúng liên quan đến việc giao hàng. Những hóa đơn tương tự xuất trong chiếc tủ dưới bàn, và ấn tượng đầu tiên của Erlendur là Knudsen có cửa hàng tạp hóa. Cà phê và đường được nhắc đến trong các hóa đơn, với những con số bên cạnh.

      có giấy tờ nào liên quan đến ngôi nhà gỗ cách xa Reykjavík – nơi mà nay Quảng trường Thiên niên kỷ của thành phố được xây dựng.

      Cuối cùng cơn thèm điếu thuốc chiến thắng. Erlendur tìm thấy cái cửa ở tầng hầm thông ra khu vườn được chăm sóc cẩn thận và rất đẹp. Những bông hoa mới bắt đầu nhú ra sau mùa đông lạnh lẽo. Dẫu vậy, Erlendur cũng mấy chú ý đến chúng trong lúc đứng hút thuốc cách thèm thuồng. Ông nhanh chóng hút hết hai điếu. Chuông điện thoại chợt vang lên trong túi áo khoác khi ông chuẩn bị quay trở lại tầng hầm. Người gọi là Elínborg.

      “Eva thế nào rồi?” hỏi.

      “Vẫn hôn mê,” Erlendur cộc lốc, ông muốn về chuyện đó. “Có gì mới ?” ông hỏi lại.

      “Tôi chuyện với ông già Róbert rồi. Ông ta có ngôi nhà gỗ đồi. Tôi hiểu những điều ông ta cho lắm, nhưng ông ta nhớ là có ai đó quanh quẩn bên những bụi cây mà ông .”

      “Những bụi cây ư?”

      “Gần chỗ bộ xương ấy.”

      “Những bụi cây lý chua hả? Ai cơ?”

      “Và tôi nghĩ là ông ta chết rồi.”

      Erlendur nghe tiếng Sigudur Óli cười rộ lên.

      “Cái người đến chỗ bụi cây á?”

      , Róbert ấy,” Elínborg đáp. “Nên chúng ta moi thêm được tin gì từ ông ta nữa.”

      “Vậy là ai? Ai ở chỗ bụi cây?”

      “Chuyện đó rất mơ hồ,” Elínborg đáp. “Sau này có ai đó thường đến đó. Đó là tất cả những gì tôi hỏi được từ ông ta. Sau đó ông ta gì đó. là ‘người phụ nữ, xanh lục, các bụi cây’, và chấm hết.”

      phụ nữ màu xanh ư?”

      “Phải. Màu xanh.”

      “Thường đến, sau này và xanh lục,” Erlendur nhắc lại. “Sau này là khi nào? Ý ông ta là sao?”

      “Tôi rồi đấy. Câu trả lời rất rời rạc. Tôi nghĩ là... Tôi cho là ấy...” Elínborg lưỡng lự.

      “Làm sao?” Erlendur hỏi.

      “Bị méo mó.”

      “Bị méo mó ư?”

      “Đó là từ miêu tả duy nhất của ông già về người đó. Ông ta thể được và chỉ viết ra từ duy nhất, ‘méo mó’. Sau đó ông ta lịm và tôi cho là có chuyện gì đó xảy đến với ông ta bởi vì có nhóm bác sĩ nháo nhào đến phòng ông ta và…”

      Giọng của Elínborg mờ dần. Erlendur nghiền ngẫm câu chuyện của lát.

      “Vậy là có vẻ như có thường đến những bụi cây lý chua vào khoảng thời gian sau đó.”

      “Có thể là sau chiến tranh,” Elínborg .

      “Ông ta có nhớ ai sống trong ngôi nhà đó ?”

      gia đình,” Elínborg trả lời. “Hai vợ chồng với ba đứa con. Tôi hỏi thêm được gì về chuyện đó.”

      “Vậy là có người sống quanh đây, gần những bụi cây phải ?”

      “Có vẻ là như vậy.”

      “Và ấy bị méo mó. Cái gì bị méo cơ chứ? Róbert bao nhiêu tuổi rồi?”

      “Ông ấy… … tôi biết… hơn chín mươi tuổi rồi.”

      thể hiểu được ý ông ta là gì.” Erlendur tự với mình. “ người phụ nữ bị méo mó trong những bụi cây lý chua. Có ai sống trong ngôi nhà của Róbert ? Nó vẫn còn ở đấy chứ?”

      Elínborg cho ông biết rằng lúc trước và Sigurdur Óli chuyện với những chủ nhân tại của ngôi nhà, nhưng họ nhắc đến người phụ nữ nào cả. Erlendur bảo họ quay lại và hỏi những người ấy xem có thấy bất cứ người nào, đặc biệt là người phụ nữ xuất xung quanh khu vực những bụi cây lý chua hay . Họ cũng phải cố tìm ra người thân thích nào đó của Róbert có thể có để hỏi xem ông ta bao giờ chuyện với gia đình đồi chưa. Erlendur rằng mình lục soát trong tầng hầm chút nữa trước khi vào bệnh viện thăm con .

      Ông quay lại để tìm kiếm trong đống đồ của Benjamín, trong lúc nhìn quanh căn hầm ông băn khoăn biết mình có phải mất mấy ngày trời để cày xới cái đống trong đây hay . Ông len lỏi đến chỗ bàn của Benjamín – nơi ông biết rằng chỉ chứa những tài liệu và hóa đơn liên quan đến cửa hàng của ông ta. Erlendur nhớ nó, nhưng chắc chắn là nó ở Hverfisgata. Hai tiếng sau, sau khi uống cà phê với Elsa và hút thêm hai điếu thuốc nữa sau vườn, ông đến được chỗ cái hòm sơn màu xám sàn nhà. Nó được khóa lại nhưng trong đó có chìa khóa. Erlendur phải gồng mình lên mới xoay được ổ khóa và mở cái hòm ra. Trong hòm có nhiều giấy tờ hơn và có những phong bì được buộc lại bằng dây chun, nhưng có hóa đơn nào. Có mấy bức ảnh để lẫn cùng chồng thư, số cái được lồng khung, những chiếc còn lại bị long ra cả. Erlendur xem xét chúng nhưng biết những người trong ảnh là ai, chỉ biết rằng Benjamín nhất định phải có mặt trong vài tấm. Có bức chụp người đàn ông cao to, đẹp trai, bụng bắt đầu phệ xuống, ông ta đứng đằng trước cửa hàng. Nhân dịp gì quá rồi. tấm biển đóng cửa ra vào, đó đề dòng chữ:

      CỬA HÀNG CỦA KNUDSEN

      Kiểm tra kỹ hơn, Erlendur thấy người đàn ông đó xuất trong số bức ảnh cùng với người phụ nữ trẻ tuổi hơn. Họ mỉm cười trước máy ảnh. Tất cả những bức hình đều được chụp ngoài trời.

      Ông đặt chúng xuống, nhặt đống phong bì lên và phát ra bên trong đó có những bức thư của Benjamín gửi cho dâu tương lai của mình. Tên ta là Sólveig. số bức thư chỉ là những lời nhắn rất ngắn bày tỏ tình , những bức khác chi tiết hơn kể về những việc trong ngày. Chúng được viết ra bằng tình cảm mãnh liệt của Benjamín dành cho người . Những bức thư có vẻ như được xếp theo ngày tháng, Erlendur bèn rút bức ra đọc, mặc dù hơi lưỡng lự. Ông cảm thấy như mình tọc mạch vào điều gì đó bất khả xâm phạm, và thấy thực xấu hổ. Giống như là đứng bên ngoài cửa sổ của ngôi nhà và dòm ngó vào bên trong.

      “Tình của ,

      nhớ em nhiều lắm, em ạ. Cả ngày nay chỉ nghĩ đến em, đếm từng giờ từng phút chờ em quay trở lại. Cuộc sống có em giống như mùa đông lạnh lẽo, ảm đạm và trống rỗng. Hãy tưởng tượng mà xem, em ra được hai tuần tròn rồi. thực biết mình phải đối mặt với chuyện đó như thế nào nữa.

      của em

      Benjamín K.”

      Erlendur nhét lá thư trở lại trong phong bì và lấy ra bức khác từ tận bên dưới, nó kể cách chi tiết về dự định của thương gia tương lai muốn mở cửa hàng ở Hverfisgata. ta có những dự định rất to lớn cho tương lai, ta đọc và biết rằng ở những thành phố lớn của Mỹ có rất nhiều cửa hàng khổng lồ bán tất cả mọi loại hàng hóa, quần áo cũng như thực phẩm. Đó là nơi các khách hàng tự chọn cho mình những đồ muốn mua giá, sau đó đặt chúng vào xe rồi đẩy quanh khắp cửa hàng.

      Erlendur đến bệnh viện vào buổi tối, dự định là ngồi bên Eva Lind. Đầu tiên ông gọi cho Skarphédinn, ông ta rằng cuộc khai quật đạt được những bước tiến đáng kể, nhưng ông ta từ chối dự đoán xem chừng nào họ mới đến chỗ bộ xương. Họ vẫn chưa phát được gì trong đất để tìm ra nguyên nhân cái chết của Người Thiên niên kỷ.

      Erlendur cũng gọi cho bác sĩ của Eva Lind trước khi , ông ta rằng tình trạng con bé vẫn có gì suy chuyển. Khi đến phòng chăm sóc đặc biệt, ông thấy có người phụ nữ mặc áo choàng màu nâu ngồi bên con mình, và ông phải vào tận nơi mới nhận ra người đó là ai. Ông chợt thấy căng thẳng nên đứng lại, từ từ bước ra khỏi phòng cho đến khi ra đến hành lang, và ông đứng nhìn vợ cũ từ xa.

      Người đó quay lưng về phía ông, nhưng ông biết đó là bà. người phụ nữ ngang tuổi ông, ngồi khom người lại, đầy đặn trong bộ quần áo thể thao màu tím, bên ngoài khoác áo màu nâu, tay lấy khăn chặm mũi và hạ thấp giọng chuyện với Eva Lind. Ông nghe được những lời bà . Ông thấy bà nhuộm tóc, nhưng chắc là cách đây khá lâu rồi vì nơi đường ngôi xuất những mảng chân màu trắng. Ông đoán xem lúc này bà bao nhiêu tuổi rồi.

      Bà nhiều hơn ông ba tuổi.

      Ông gặp vợ cũ được gần hai mươi năm. Chưa từng gặp lại kể từ khi ông ra , để lại bà cùng hai đứa . Bà, cũng giống như Erlendur, chưa tái hôn, nhưng từng sống cùng vài người đàn ông khác, có vài người tốt hơn những người còn lại. Lớn lên, Eva Lind kể cho bố nghe về những người đó và bắt đầu tìm người mới cho ông.

      Mặc dù lúc đầu con bé có phần nghi ngờ ông nhưng về sau hai bố con hiểu nhau hơn, Erlendur cố gắng giúp nó bất cứ khi nào có thể. Nhưng với đứa con trai khác. Nó xa cách hơn rất nhiều. Erlendur gần như liên lạc gì với nó.

      Erlendur nhìn vợ cũ rồi xuống hàng lang thêm đoạn. Ông băn khoăn xem có nên vào với bà , nhưng lại làm được việc đó. Ông nghĩ là mọi chuyện khá rắc rối và muốn xảy ra cãi cọ ở nơi này. Chính xác ra ông muốn cảnh ấy xảy ra ở bất kỳ đâu, nếu có thể tránh được ông tránh cả đời. Họ chưa bao giờ chấp nhận cách hoàn toàn thất bại trong mối quan hệ của mình mà Eva Lind rằng đó là điều khiến bà đau đớn nhất.

      Chuyện ông ra như thế nào.

      Ông quay và chầm chậm bước xuống hành lang, nghĩ về những bức thư tình trong tầng hầm của Benjamín K. Erlendur nhớ chính xác chuyện đó, và câu hỏi đó vẫn còn để ngỏ cho đến khi ông về đến nhà, ngồi sụp xuống cái ghế bành và để giấc ngủ cuốn nó ra khỏi tâm trí.

      Halldóra bao giờ là người của mình chưa?

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :