Bí Mật của Nicholas Flamel Bất Tử (Tập 6: Yêu nữ) - Michael Scott (kỳ ảo)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      [​IMG]
      NỮ




      BÍ MẬT CỦA NICHOLAS FLAMEL BẤT TỬ
      The Enchantress, Michael Scott
      Nhà xuất bản Trẻ, 2012
      Người dịch: Thanh Tuyền
      Người tạo e-book: Mắt Xanh




      Tôi là huyền thoại.
      Có lần, tôi từng bảo rằng thần chết đến đòi tôi, bệnh tật thể chạm đến tôi.
      Điều đó nay còn đúng nữa.
      Bây giờ tôi biết ngày chết của mình, cũng là của vợ của mình: đó là ngày hôm nay.
      Tôi sinh ra vào Năm Trị vì của Nhà Vua chúng tôi, 1330, hơn sáu trăm bảy mươi năm trước. cuộc sống lâu bền, đúng; bất tử, cũng đúng, nhưng phải là thể bị thương tổn. Tôi và Perenelle luôn biết rằng ngày hôm nay đến.
      Tôi cuộc sống tốt đẹp, cuộc sống dài đăng đẳng, cùng vài tiếc xót. Tôi từng nắm giữ nhiều vai trò trong đời mình: thầy thuốc và đầu bếp, người bán sách và chiến binh, thầy dạy ngôn ngữ và hóa học, vừa là nhân viên luật pháp lại vừa là tên trộm.
      Và tôi còn là Nhà Giả kim.
      Được ban cho - hay bị nguyền phải chịu? - Khả năng bất tử, tôi và Perenelle chiến đấu chống lại ác xấu của các Elder Đen tối, giữ cho bọn họ đến gần trong khi chúng tôi tìm kiếm cặp song sinh huyền thoại, người Vàng và người Bạc, mặt trời và mặt trăng. Chúng tôi luôn nghĩ rằng cặp song sinh ấy giúp chúng tôi bảo vệ hành tinh này.
      Chúng tôi lầm.
      Bây giờ, năm cùng tháng tận đè nặng chúng tôi, còn cặp song sinh lại biến mất, ngược thời gian đến Đảo Danu Talis, trở ngược về mười ngàn năm trước, trở ngược đến nơi tất cả bắt đầu...
      Hôm nay là ngày tận thế.
      Hôm nay, tôi và Perenelle chết, nếu bởi bàn tay và móng vuốt của Elder hay loài quỷ sứ nào đó, cũng bởi tuổi già. Người vợ quý của tôi kéo dài cuộc sống của tôi chỉ ngày duy nhất, nhưng bằng cái giá khủng khiếp chính bản thân ấy.
      Và nếu có niềm an ủi nào, đó chính là chúng tôi được chết cùng nhau.
      Nhưng chúng tôi chưa chết được đâu, chúng tôi cũng nằm xuống mà chiến đấu, vì ấy là Nữ Phù thủy, còn tôi là Nicholas Flamel bất tử, Nhà Giả kim.
      Trích từ Nhật ký của Nicholas Flamel, Nhà Giả kim.
      Viết vào hôm nay, thứ Năm, ngày 7 tháng Sáu,
      tại San Francisco, thành phố cưu mang tôi

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG


      Tấm gương pha lê ấy cổ xưa lắm rồi.

      Còn cổ xưa hơn cả loài người, lùi về tận thời các Elder, các Quan chấp chính, và thậm chí từ thời Người cổ đại, giống loài xuất trước hết thảy. Đây là món đồ tạo tác của Thần Đất, trôi giạt khi Đảo Danu Talis bị bóc tách khỏi đáy biển thời nguyên sơ.

      Suốt nhiều thiên niên kỷ, tấm gương vẫn treo tường trong gian phòng phụ ở Cung điện Thái Dương Danu Talis. Nhiều thế hệ Elder Vĩ đại, rồi đến các Elder xuất tiếp sau họ cố giải mã mảnh pha lê hình chữ nhật lồng trong khung đen giản dị phải bằng gỗ, phải bằng kim loại, cũng phải bằng đá. Dẫu có tất cả vẻ ngoài của tấm gương, nhưng nó hề là tấm kính phản chiếu : bề mặt của nó chỉ cho thấy những bóng mờ, dù những người săm soi nhìn sát vào đó tuyên bố rằng họ thoáng nhìn thấy khung xương sọ của mình bên dưới lớp thịt, thoáng thấy dấu vết của xương bên dưới lớp da. Thi thoảng - thường xuyên lắm - vài người còn tuyên bố họ thoáng bắt gặp những phong cảnh xa xăm, đỉnh băng giá nơi địa cực, dải sa mạc dài hay cánh rừng mù mịt.

      Tại những thời điểm nhất định trong năm - vào ngày thu phân hoặc hạ chí - và suốt quá trình nhật và nguyệt thực, tấm kính rung rung cho thấy cảnh tượng của thời gian, gian vượt quá tầm nhận thức và hiểu biết, các thế giới lạ lẫm toàn kim loại và chất ki-tin, những nơi hề có sao bầu trời, còn mặt trời đen đúa bất động lơ lửng giữa thinh . Nhiều thế hệ các học giả dùng cả đời ra sức giải thích các cảnh tượng đó, song ngay cả Pháp sư Abraham huyền thoại cũng thể giải đoán được những bí .

      Rồi ngày nọ, khi Elder Quetzalcoatl giơ tay vuốt tấm gương, chợt để cạnh bàn tay gờ khung. Lão cảm thấy cơn ngứa ngáy và giật tay về khi phát tự làm mình bị thương. giọt máu rơi bắn tóe lên mặt pha lê và bỗng nhiên mặt kính ràng ràng, mặt phẳng dập dờn bên dưới từng sợi máu loắn xoắn sủi xì xì. Trong khoảnh khắc ấy, Quelzalcoatl nhìn thấy những điều kỳ diệu:

      ... Đảo Danu Talis nằm giữa đế chế mênh mông trải dài dứt khắp quả địa cầu...

      ... Đảo Danu Talis bùng cháy và bị thiêu rụi, bị xé nát từng mảnh do động đất, đường phố rộng lớn và những tòa cao ốc đồ sộ bị biển cả nuốt chửng...

      ... Đảo Danu Talis chợt ra bên dưới màng nước đá, những con cá voi mũi nhọn khổng lồ trôi giạt qua thành phố bị chôn vùi...

      ... Danu Talis mọc lên thuần khiết và rực vàng ánh kim ngay giữa vùng sa mạc vô tận...

      Ngày hôm ấy, Elder đánh cắp tấm gương và bao giờ trả lại nữa.

      Lúc này, dáng mảnh mai và râu bạc trắng, Quelzalcoatl trải tấm vải nhung màu xanh lơ lên chiếc bàn gỗ bằng phẳng. Lão vuốt thẳng tấm vải bằng bàn tay móng đen đủi, nhặt ra những cọng chỉ và bụi đất. Rồi lão đặt cái khung màu đen hình chữ nhật của tấm gương vào giữa mảnh vải, lấy viền áo sơ-mi trắng bằng vải lanh của mình nhàng lau sạch mặt gương. Tấm kính phản chiếu gương mặt có chiếc mũi khoằm của lão: làn khói xám uốn éo bốc lên khỏi mặt phẳng bóng láng.

      Quetzalcoatl chồm người qua mặt kính, từ tay áo sơ-mi lão rút ra cây đinh ghim, đâm đầu kim vào phần thịt dày nơi ngón tay cái. "Bằng cách chích vào hai ngón tay cái của tôi...," lão thầm bằng ngôn ngữ cổ Toltec. giọt máu đỏ hồng chầm chậm đọng lại lớp da thịt láng mướt của lão. "... điều đồi bại xảy ra." Chìa bàn tay ra mặt kính, lão để cho giọt máu bắn tóe lên tấm gương. Ngay lập tức, bề mặt kia run rẩy và tỏa sáng lung linh, lớp pha lê cổ xưa chạy vầng cầu vồng với màu sắc loang loáng như có dầu. Làn khói đỏ bốc lên khỏi mặt kính; rồi những màu sắc kia lắng lại thành hình ảnh.

      Nhiều thiên niên kỷ thử nghiệm và biết bao nhiêu là máu - rất ít trong số đó là của lão - dạy cho Elder này biết làm thế nào để kiểm soát những hình ảnh mặt pha lê. Lão nuôi dưỡng nó bằng quá nhiều máu đến nỗi dần tin rằng cách nào đó nó có tri giác và có sống. Chăm chăm nhìn vào mặt kính, lão lẩm bẩm, "Hãy đưa ta đến San Francisco."

      Tấm gương nhòe , rồi được tráng lớp ánh sáng trắng và xám, bất thình lình Quetzalcoatl thấy mình lơ lửng cao tít bên thành phố, nhìn xuống vịnh.

      "Tại sao phải là cháy?" lão ngạc nhiên thốt ra tiếng. "Tại sao có con quỷ nào đường phố cả?" Lão cho phép giống người bất tử Machiavelli và Billy the Kid trở lại San Francisco để thả các tạo vật Đảo Alcatraz vào thành phố kia mà. Chẳng lẽ chúng hoàn thành nhiệm vụ? Hay lão đến sớm quá chăng?

      Hình ảnh trong tấm pha lê chuyển đổi lần nữa rồi ổn định lại dải hẹp Alcatraz, Quetzalcoatl nhận ra đường chuyển động trong làn nước. hình thù di chuyển ngang qua vịnh, hướng về phía thành phố, bỏ lại sau lưng bóng dáng mờ mờ của Alcatraz. Quetzalcoatl xoa hai bàn tay vào nhau. , lão đến quá trễ: lão có mặt đúng thời điểm để chứng kiến chút hỗn loạn nho . lâu lắm rồi kể từ khi được nhìn thấy thành phố bị tàn phá, và lão thích cảnh tượng ấy.

      Màu sắc hình ảnh chợt lập lòe rồi nhạt dần. Elder chích cây đinh ghim vào ngón tay mình lần, rồi lần nữa, thêm giọt máu tươi của lão lên mặt kính, cho nó ăn. Tấm gương lại nhấp nháy sống dậy, hình ảnh thành phố định hình trở lại, ba chiều ràng. Quetzalcoatl tập trung, hình ảnh xoay xuống phía dưới, kéo lão đến sóng nước bạc đầu bập bềnh. Có sinh vật lẩn lút bên dưới những con sóng, thứ gì đó khổng lồ và ngoằn ngoèo uốn lượn: rắn biển. Elder nheo mắt. khó để nhìn từng chi tiết, nhưng dường như thể sinh vật ấy có nhiều hơn cái đầu. Lão gật gù tán thành; lão thích điều đó. Ra trò đấy. chí lý khi sai sinh vật biển vào thành phố trước tiên. Lão mỉm cười nhe hàm răng tàn ác, tưởng tượng lúc con quỷ sứ kia nổi cơn thịnh nộ khắp đường phố.

      Quetzalcoatl chăm chú nhìn con rắn biển quét ngang qua vịnh và uốn lượn về phía cầu tàu nhô ra biển. Lão cau mày rồi gật gù như thấu hiểu. Nó trườn lên bờ biển ở Embarcadero. Xuất sắc: nhiều du khách, tha hồ có nhiều người biết đến.

      Ánh sáng biển biến đổi. Lão phát ra ánh lung linh mờ mờ yếu ớt của vệt dầu màu đỏ và xanh lơ mặt nước, ngay lập tức nhận ra rằng con rắn biển hướng thẳng tới đó.

      Bất giác, Quetzalcoatl chìm sâu vào yên lặng. Đầu lão chúi xuống mặt kính, cái mũi khoằm gần như chạm vào bề mặt ấy. Bây giờ lão có thể ngửi thấy cả mùi của biển, mùi muối thoang thoảng mùi cá ươn và tảo biển... và thứ gì khác nữa. Nhắm mắt, lão hít thở sâu. thành phố hẳn phải có mùi kim loại và xe cộ, thức ăn cháy và nhiều thân thể tắm rửa. Nhưng lão ngửi thấy mùi gì ở đây thế này - đây là những mùi hương có chỗ trong thành phố này: mùi the the của bạc hà, mùi ngòn ngọt của cây anise, mùi hương tinh tế của trà xanh.

      Nhận thức này nảy ra trong tâm trí lão khi sinh vật gớm guốc kia - con Lotan - nhô lên khỏi mặt biển, bảy cái đầu lao về phía vệt màu đỏ và xanh lơ xoắn quyện mặt nước. Bây giờ Quetzalcoatl nhận ra các luồng điện và màu sắc: màu đỏ là Prometheus, trong khi màu xanh lơ của giống người bất tử Niten. Và trong khí mùi hương bạc hà ghê tởm chỉ có thể thuộc về người: Nhà Giả kim, Nicholas Flamel.

      Sau đó Quetzalcoatl nhìn thấy họ, đứng đầu cầu tàu. Và kìa, người phụ nữ cũng ở đó, Perenelle Nữ Phù thủy, người mà lão quen biết bằng chính kinh nghiệm đắng cay. Tự động, lưỡi lão tìm đến khoảng trống trong hàm răng nơi bà ta đánh bật chiếc răng hàm lớn bên trong của lão. Chuyện này hay rồi, hay chút nào cả: Elder phản bội cùng với ba trong số những người nguy hiểm nhất, trí mạng nhất của Vương quốc Bóng tối này.

      Bàn tay Quetzalcoatl siết lại thành hai nắm đấm chặt cứng, móng tay nhọn sắc như dao cạo cắn vào lớp thịt trong lòng bàn tay, máu giọt mỏng dính kính, giữ cho những hình ảnh kia sống động. Đôi mắt sẫm tối trừng trừng nhìn chớp.

      ... con Lotan sống dựa vào các luồng điện...

      ... sinh vật ấy nhô lên khỏi mặt nước, đứng thăng bằng đuôi của nó, cả bảy cái đầu phóng vào để ăn, bảy cái mồm há hoác...

      ... ánh lóa của ngọn lửa màu xanh lá và mùi bạc hà tràn ngập.

      "!" Elder rít lên trong lúc chăm chăm nhìn con Lotan biến thành quả trứng có vân màu xanh lơ. Lão nhìn thấy quả trứng rơi vào bàn tay xòe rộng của Nhà Giả kim. Flamel quăng quả trứng lên trời với vẻ đắc thắng... con mòng biển lượn vòng vồ lấy và nuốt chửng.

      "! ..." Quetzalcoatl hú hét giận dữ, mặt lão tối sầm, méo mó vặn vẹo thành hình ảnh con rắn phẳng bẹt từng làm kinh khiếp người Maya và Aztec. Hàm răng lởm chởm ló ra khỏi mồm, hai mắt lão nheo lại, mái tóc sẫm màu cứng đơ chĩa thành những que nhọn tua tủa quanh gương mặt lão. Lão giộng mạnh xuống bàn, chiếc bàn bằng gỗ cổ xưa nứt toạc và chỉ phản xạ nhanh như chớp của lão mới cứu được tấm gương khỏi rơi xuống sàn vỡ vụn.

      Con giận dữ đến nhanh thế nào qua cũng nhanh như vậy.

      Quetzalcoatl hít thở sâu và luồn bàn tay vào mái tóc cứng, vuốt thẳng lại. Tất cả những gì Billy và Machiavelli phải làm là thả vài con quỷ sứ vào thành phố - ba hay bốn mới đủ. Chắc hai cũng được; thậm chí là , nhưng tốt hơn phải là con gì to lớn đầy những vảy và răng kìa, như thế mới là khỏi đầu chứ. Vậy mà bọn chúng thất bại, lát nữa chúng phải trả giá cho thất bại ấy - nếu chúng còn sống sót!

      Lão cần phải đưa bọn quái thú ra khỏi hòn đảo, nhưng để làm thế chắc hẳn lão phải giữ cho nhà Flamel cùng với Elder và các người bạn bất tử của bọn họ bận rộn mới được.

      Hiển nhiên bây giờ là lúc Quetzalcoatl nắm vấn đề trong tay. nụ cười bất chợt để lộ ra hàm răng nhọn như kim của Elder. Lão sưu tập vài con thú cưng trong Vương quốc Bóng tối của mình - giống người gọi chúng là bọn quỷ sứ - và hẳn lão có thể cho phép chúng ra ngoài chơi. Nhưng chắc chắn Nhà Giả kim xử lý chúng theo cùng cách với con Lotan. được, lão cần thứ gì đó to lớn hơn, thứ gì đó ấn tượng sâu sắc hơn nhiều so với mấy con quỷ sứ bẩn thỉu kia.

      Quetzalcoatl tìm thấy chiếc điện thoại di động của mình bàn bếp. Lão thuộc lòng bấm số Los Angeles. Chuông đổ mười lăm hồi mới được trả lời bằng tiếng kèn kẹt càu nhàu. "Bà vẫn còn giữ cái túi răng mà tôi bán cho bà cách đây thiên niên kỷ đấy chứ?" Quetzalcoatl vào đề ngay. "Tôi muốn mua lại. Tại sao à? Tôi muốn sử dụng nó để dạy cho nhà Flamel bài học... và tất nhiên là giữ cho bọn họ bận rộn trong khi tôi đưa các sinh vật của chúng ta ra khỏi hòn đảo," lão vội vàng thêm. "Cái túi ấy giá bao nhiêu? Miễn phí ư, được, đương nhiên là bà có thể quan sát chứ. Gặp tôi ở Mũi Vista nhé; tôi bảo đảm là có giống người quanh đó đâu."

      "Càng lúc càng tinh quái rồi đây...," Quetzalcoatl thào. "Cứ làm theo cách của ông, Nhà Giả kim. Cứ mà làm theo cách của ông."




      CHƯƠNG HAI


      Sophie Newman mở bừng mắt. nằm úp mặt lớp cỏ có kết cấu như tơ và quá xanh đến độ mất tự nhiên. Bị nghiến nát dưới mặt bé là những đóa hoa mà chủng loại của chúng chưa bao giờ mọc trái đất, những tạo vật xíu làm bằng kính và nhựa cứng.

      bé lăn người nằm ngửa, ngước nhìn lên... rồi ngay lập tức nhắm nghiền mắt lại. tích tắc trước, Alcatraz trong Vịnh San Francisco, khí mát mẻ đượm muối bốc mùi hôi thối bởi năng lượng thô và mùi sở thú của quá nhiều bọn quái thú bị nhồi nhét vào với nhau. Bây giờ khí lại sạch và sảng khoái, đầy những mùi lạ lẫm, ánh mặt trời ấm áp gương mặt bé, làm tan dư ảnh nhòa nhòa võng mạc. bé mở mắt trở lại, chăm chú nhìn vào vật thể chuyển động ngang qua mặt trời. Hiêng hiếng mắt, bé nhận ra hình bầu dục bằng pha lê và kim loại. "Ô!" bé hổn hển, ngạc nhiên, đưa chỏ thúc vào cậu em song sinh. "Tốt hơn là em nên thức dậy ..."

      Josh nằm ngửa. Cậu mở con mắt và rên rỉ khi ánh nắng vỗ vào mặt, rồi khi nhận ra vật thể mình vừa nhìn thấy ngang qua, cậu bừng tỉnh và vụt ngồi dậy. "Đó là ..."

      "... cái đĩa bay," Sophie kết thúc câu của cậu em.

      Có chuyển động phía sau hai chị em, cả hai quay người lại mới thấy phải chỉ có mình triền đồi dày cỏ. Tiến sĩ John Dee bò lồm cồm, trố mắt nhìn lên trời, trong khi Virginia Dare ngồi xếp bằng bên cạnh , mái tóc đen nhánh dập dờn bay trong gió.

      " chiếc vimana," Dee thào. "Tôi chưa bao giờ nghĩ cả đời mình được nhìn thấy chiếc." thu mình nền cỏ, chằm chặp nhìn vào vật thể áp sát tới rất nhanh với đầy vẻ khiếp sợ.

      "Đây có phải là Vương quốc Bóng tối ?" Josh vừa hỏi, vừa nhìn từ Dee sang Dare.

      Người phụ nữ nhè lắc đầu. ", đây phải Vương quốc Bóng tối đâu."

      Josh đứng lên che mắt, chăm chăm nhìn vào con tàu, hoàn toàn bị thôi miên. Khi chiếc vimana áp tới sát hơn, cậu có thể thấy nó được làm bằng thứ gì có vẻ như là khối pha lê màu trắng sữa với dải vàng dày cộp viền quanh. Cái đĩa hạ thấp và đáp xuống mặt đất, lấp đầy khí bằng tiếng ù ù trầm trầm dưới tốc, trở thành tiếng rền rền khi lượn sát mặt cỏ.

      Sophie đứng lên bên cạnh cậu em song sinh. "Đẹp quá," thầm. "Cứ như ngọc ấy." Khối pha lê màu trắng sữa chút trầy xước, còn vành đai bằng vàng của nó được khắc những ký tự như những cây gậy tí xíu.

      "Tụi mình ở đâu đây, Josh?" Sophie thầm .

      Josh lắc đầu. " phải ở đâu mà là... khi nào," cậu lẩm bẩm. "Những chiếc vimana thuộc về thời xưa cổ nhất trong tất cả các chuyện thần thoại đấy."

      hề phát ra thanh nào, nắp đậy hình bán nguyệt trượt mở và bên hông con tàu thụt vào, để lộ phần nội thất màu trắng lóa.

      người đàn ông và phụ nữ xuất nơi khoảng hở ấy.

      Cao ráo và mảnh mai với nước da rám nắng rất sậm, cả hai đều mặc bộ giáp bằng sứ trắng khắc những hoa văn, hình tượng và các chữ tượng hình phát xuất từ nhiều ngôn ngữ. Người phụ nữ có mái tóc đen cắt ngắn, kiểu cắt sát da đầu, trong khi đầu người đàn ông cạo trọc bóng láng, Mắt họ màu xanh lơ ngời sáng, khi mỉm cười, hàm răng họ và trắng tinh rất hoàn hảo, ngoại trừ những chiếc răng cửa trông dài và nhọn cách thiếu tự nhiên. Tay trong tay, họ bước ra khỏi chiếc vimana, thả bước ngang qua mặt cỏ. Lá cỏ và những đóa hoa nhựa tan chảy thành từng giọt dưới chân họ.

      Hoàn toàn vô thức, Sophie và Josh bước lùi lại, nheo mắt ngăn vầng mặt trời xuống thấp và ánh phản chiếu chói lóa nơi bộ giáp của cặp đôi ấy, cố gắng nhận ra nét mặt của họ. Có gì đó quen thuộc kinh khủng...

      Thình lình Dee hổn hển thở, rồi co tay chân lại, cố làm cho mình càng bé càng tốt. "Các chủ nhân," . "Xin tha thứ cho tôi."

      Cặp đôi phớt lờ đếm xỉa gì đến . Họ cứ tiếp tục tiến bước, mắt chằm chằm nhìn thẳng vào cặp song sinh, cho tới khi đầu họ che khuất hẳn tia sáng mặt trời, để lộ ra nét mặt của họ trong vầng hào quang.

      "Sophie," người đàn ông , đôi mắt xanh lơ sáng ngời lấp lánh vui mừng.

      "Josh," người phụ nữ vừa thêm, vừa nhè lắc đầu, đôi môi cong lên thành nụ cười mim mím. "Chúng ta đợi các con đấy."

      "Mẹ? Ba?" cặp song sinh đồng thanh thốt lên. Hai đứa lùi thêm bước nữa, bây giờ đầy bối rối và sợ hãi.

      Cặp đôi cúi chào theo nghi thức. "Ở nơi này chúng ta được gọi là Isis và Osiris. Chào mừng đến với Danu Talis, các con." Họ giang rộng tay. "Chào mừng về nhà."

      Hai đứa sinh đôi nhìn nhau, mắt mở lớn, miệng há hốc sợ hãi hoang mang. Sophie đưa tay siết chặt cánh tay cậu em. Dù qua tuần với những khám phá lạ thường, nhưng việc này quá to tát thể tiếp thu nổi. bé cố gắng để hình thành nên lời và câu hỏi, nhưng mồm miệng khô khốc, cảm thấy lưỡi mình dày cộp và sưng phồng.

      Josh cứ nhìn từ cha sang mẹ và rồi lại nhìn từ mẹ sang cha, cố hiểu được những gì cậu nhìn thấy. Cặp đôi kia trông giống ba mẹ cậu, Richard và Sara Newman. Chắc chắn họ nghe cũng giống nữa, nhưng ba mẹ cậu ở Utah kia mà... cậu vừa chuyện với ba chỉ mới vài ngày trước. Hai cha con về con khủng long có sừng từ kỷ Phấn Trắng đấy thôi.

      "Ta biết việc này khó tiếp thu," Richard Newman - Osiris - , kèm theo nụ cười toe.

      "Nhưng tin chúng ta ," Sara - Isis - , "tất cả rồi sáng tỏ." Giọng của bà được bảo đảm lần nữa khi bà mỉm cười với bé và cậu con trai. "Trọn cuộc đời của các con được dẫn dắt đến thời điểm này. Biến cố này, các con ạ, là vận mệnh của các con đấy. Đây là ngày của các con. Và chúng ta luôn gì về ngày này nào?" bà vừa hỏi, vừa mỉm cười.

      "Carpe diem* ạ," cả hai đứa trẻ trả lời cách máy móc. "Hãy tận dụng ngày hôm nay." [Tiếng La-tinh, trở thành cách ngôn, có nghĩa là hãy tận dụng ngày hôm nay.]

      "Cái gì-" Josh mở lời.

      Isis giơ bàn tay lên. "Đúng thời điểm. Tất cả đều đúng thời điểm. Và tin chúng ta - đây là thời điểm đúng đắn. Đây là thời điểm tốt nhất. Các con bước lùi mười ngàn năm về quá khứ của mình."

      Sophie và Josh nhìn nhau. Sau mọi chuyện trải qua, chúng biết mình nên vui mừng khi được đoàn tụ lại với ba mẹ mới phải, nhưng ở đây có gì đó bất ổn khủng khiếp. Hai đứa có đến cả trăm câu hỏi... và hai người đứng trước mặt chúng trả lời chính xác bất kỳ câu hỏi nào.

      Tiến sĩ John Dee lồm cồm đứng dậy, ra dáng cảnh vẻ phủi lại áo quần rồi mới chuồi người cắt ngang qua cặp song sinh và cúi chào sâu trước cặp đôi mặc bộ giáp trắng. "Thưa các chủ nhân. Tôi rất vinh dự - hết sức vinh dự - được đứng trước diện của các ngài lần nữa." ngẩng đầu nhìn từ gương mặt này sang gương mặt kia. "Và tôi tin các ngài nhận ra rằng tôi chính là công cụ mang cặp song sinh huyền thoại đến cho các ngài."

      Osiris nhìn Dee, lóe lên thoáng mỉm cười mà ông dành cho cặp sinh đôi. "À, Tiến sĩ Dee đáng tin cậy, luôn là kẻ cơ hội..." Ông chìa bàn tay phải ra, lòng bàn tay úp xuống, và tay Pháp sư trườn người tới cầm lấy bằng hai tay và áp môi vào lưng các ngón tay ấy."... và là kẻ ngốc nghếch."

      Dee ngước nhìn lên nhanh, định thụt lui, nhưng Osiris chụp lấy bàn tay . "Lúc nào tôi cũng là-" tay Pháp sư bắt đầu cảnh giác.

      "- là tên ngốc," Isis gắt.

      Bóng tối lướt qua mặt Osiris, và khi môi ông kéo ngược ra sau để lộ hàm răng trắng nhọn, trong tích tắc gương mặt ấy biến đổi thành chiếc mặt nạ tàn ác. Người đàn ông đầu cạo trọc bất thình lình giữ chặt hai bên đầu của Dee, ngón tay cái đặt xương gò má của người bất tử, xách lên cho tới khi hai bàn chân của con người ấy hổng khỏi đất. "Và chúng tôi còn sử dụng tên ngốc... hay tệ hơn nữa, công cụ hư hỏng làm gì kia chứ!" Đôi mắt màu xanh lơ của Osiris ngang tầm với đôi mắt của tay Pháp sư. "Ngươi có nhớ ngày mà ta làm cho ngươi thành bất tử , Dee?" ông thào.

      Tay tiến sĩ bắt đầu quằn quại, đôi mắt bất chợt mở lớn đầy kinh hãi. "Xin đừng," hổn hển.

      "Có khi nào ta bảo với ngươi rằng ta có thể làm cho người trở lại thành người chưa?" Osiris . "Athanasia- aisanahta," ông lầm thầm, rồi quăng tay Pháp sư ra xa.

      Tay Pháp sư bay vèo, đến lúc ngã rầm xuống đất ngay bên chân Virginia Dare, ông lão: bó quần áo rách tả tơi gầy còm, run rẩy, khuôn mặt mất hút trong mớ tóc xám rối nùi bung thành đống lùm xùm mặt cỏ óng mượt xung quanh, đôi mắt màu trắng sữa vì chứng đục nhân mắt, môi xanh tím, răng dính vào nướu lỏng lẻo.

      Sophie và Josh hoảng hốt nhìn vào sinh vật mà chỉ tích tắc trước từng là con người sôi nổi đầy khí lực. Bây giờ đây già cỗi cổ xưa thể tin được, nhưng vẫn còn sống, vẫn nhận thức đầy đủ. Sophie ngoái lui nhìn người đàn ông trông giống hệt như cha mình, tiếng cũng giống hệt như ông ấy... và nhận ra rằng hề quen biết ông ta chút nào. Ba của bé - Richard Newman - là người đáng , dịu dàng kia mà. Ông ấy chẳng lẽ có lúc tàn ác như thế sao.

      Osiris nhìn thấy vẻ mặt Sophie. "Khi nào con nắm hết tất cả các kiện lúc đó hẵng đánh giá ta," ông lạnh lùng .

      "Sophie, con chưa học được rằng nhiều lúc lòng thương cảm chỉ là yếu đuối thôi," Isis .

      Sophie dợm lắc đầu. đồng ý. Và mặc dù tiếng là của Sara Newman, nhưng cảm nghĩ phải. Sophie luôn biết mẹ mình là trong những người tử tế nhất, quảng đại nhất.

      "Tay tiến sĩ này chưa bao giờ đáng được tội nghiệp. Đây là kẻ giết chết hàng ngàn người trong quá trình tìm kiếm cuốn Codex, kẻ mà vì tham vọng cá nhân dám hy sinh cả dân tộc. Đây là kẻ sẵn sàng tàn sát cả hai đứa con ruột mà giây suy nghĩ. Con phải nhớ, Sophie, rằng phải mọi con quỷ đều mang dáng dấp cục súc, dã man đâu. Đừng phí hoài lòng thương cảm của con cho những thứ như Tiến sĩ John Dee này."

      khi người phụ nữ lên tiếng, Sophie bắt gặp thấp thoáng chút ký ức của bà Phù thủy Endor về cặp vợ chồng có tên là Isis và Osiris. Và bà Phù thủy khinh miệt cả hai.

      Bằng nỗ lực dữ dội, Dee giơ bàn tay trái hướng về phía các chủ nhân của . "Tôi phục vụ các ngài nhiều thế kỷ nay...," rền rĩ. Nỗ lực ấy làm kiệt sức, ngã trở lại xuống nền cỏ. Lớp da nhăn nheo thít chặt quanh đầu, làm nổi bật khung xương sọ bên dưới.

      Isis thèm đếm xỉa đến . Bà nhìn Virginia Dare nãy giờ vẫn bất động trước cuộc chạm trán ngắn ngủi. "Người bất tử kia: thế giới này sắp biến đổi còn nhận ra được nữa. Những kẻ theo chúng ta là chống lại chúng ta. Mà những kẻ chống lại chúng ta đều chết. đứng ở đâu, hả Virginia Dare?"

      Cồ duyên dáng đứng lên, nhàng xoay xoay ống sáo gỗ trong bàn tay trái, để lại nốt nhạc lung linh trong trung. "Tay tiến sĩ hứa cho tôi thế giới," . "Các người có đề nghị gì ?"

      Isis chuyển tư thế, ánh mặt trời trắng lóe phản chiếu ra từ bộ giáp của bà. " thử mặc cả với chúng ta đó hả?" Elder bắt đầu lên giọng. " đâu có đứng ở vị thế được thương lượng!"

      Dare lại quay tròn ống sáo gỗ lần nữa, bầu khí rung rung cơn lạnh buốt siêu phàm. Xung quanh họ những bông hoa bằng kính vỡ tan thành bụi. "Tôi có phải là Dee đâu," Virginia lạnh lùng . "Tôi chẳng tôn trọng các người mà cũng chẳng ưa thích gì các người. ràng tôi chẳng có gì phải sợ các người cả." nghiêng đầu, nhìn từ Isis sang Osiris. "Và các người nên nhớ chuyện gì xảy ra cho Elder cuối cùng dọa tôi đấy."

      " có thể có thế giới của mình," Osiris vừa nhanh, vừa vói đặt bàn tay mình lên vai vợ.

      "Thế giới nào?"

      "Bất cứ thế giới nào muốn," ông , nụ cười vỡ ra đọng lại gương mặt ông. "Chúng tôi cần có ai đó giữ nhiệm vụ thay thế Dee."

      Virginia Dare điệu đà bước qua người ông lão già cỗi khò khè. "Tôi làm thế. Ít nhất cũng tạm thời," thêm.

      "Tạm thời ư?" Osiris mỉm cười.

      "Cho tới khi tôi lấy được thế giới của mình."

      " có nó."

      "Sau đó là xong, tôi bao giờ gặp lại các người, mà các người cũng bao giờ làm phiền tôi được."

      "Chúng tôi hứa với như thế."

      Isis và Osiris quay qua cặp song sinh, lần nữa chìa tay ra, song cả Sophie lẫn Josh đều có chút động thái nào muốn nắm lấy. "Giờ đến đây," Isis , thoáng có chút nóng nảy trong giọng , khiến nghe giống như Sara Nevvman mà hai đứa từng biết. "Chúng ta cần phải . Có nhiều việc phải làm đấy."

      Cả hai chị em song sinh đều hề nhúc nhích.

      "Tụi con cần vài câu trả lời," Josh bướng bỉnh . "Ba mẹ thể cứ mong chờ tụi con -"

      "Chúng ta trả lời tất cả mọi câu hỏi của các con, ta hứa với con đấy," Isis ngắt ngang. Bà quay và chút ấm áp trong giọng biến mất. "Bây giờ chúng ta phải ."

      Virginia Dare sắp sửa bước ngang qua cặp song sinh, ả chợt dừng lại và nhìn Josh. "Nếu Isis và Osiris là cha mẹ của cậu... vậy điều đó làm cho cậu thành cái gì?" ả hỏi. ả ngoái người liếc về phía Dee, rồi quay người bỏ về phía con tàu pha lê.

      Sophie nhìn cậu em. "Josh...," bé chỉ tới đó.

      "Em biết chuyện gì diễn ra, Chị," cậu , trả lời cho câu hỏi chưa được thành lời của chị.

      tràng ho khọt khẹt lôi kéo chú ý của hai đứa trở lại với Dee. Mặc dù mặt trời chiếu chói lóa trời và bầu khí ấm áp, nhưng lão già cổ xưa vẫn cuộn mình thành trái banh và run rẩy dữ dội, hai cánh tay quấn lấy thân người để giữ ấm. Hai đứa có thể nghe cả tiếng hàm răng đánh lập cập. lời nào, Sophie cởi chiếc áo khoác đỏ có mũ trùm của mình ra và trao cho cậu em. Cậu nhìn chiếc áo chút, rồi gật đầu và bước tới quỳ xuống bên cạnh Dee, nhàng khoác áo qua người tay Pháp sư, phủ lên hai vai . Tay Pháp sư gật đầu cám ơn, đôi mắt trắng ươn ướt vì cảm động, rồi siết chặt chiếc áo lông cừu quanh người mình.

      "Tôi rất tiếc," Josh . Cậu biết Dee là ai, biết khả năng của là gì, nhưng ai đáng chết như thế này. Cậu ngoái nhìn lui. Isis và Osiris trèo vào chiếc vimana. "Hai người thể để ông ta như thế này được," cậu gọi vói.

      "Tại sao? Con thà rằng ta giết chết hả, Josh?" Osiris hỏi rồi bật cười. "Đó là điều con muốn phải ? Dee, đó có phải là điều ngươi muốn ? Ta có thể giết chết ngươi ngay bây giờ đây này."

      "," cả Josh và Dee đồng thanh .

      "Bốn trăm tám mươi năm qua đuổi kịp , thế là hết. chết vì những nguyên nhân tự nhiên chẳng bao lâu nữa đâu."

      "Như thế là độc ác," Sophie .

      " nhé, nếu xét những phiền phức gây ra cho chúng ta trong những ngày qua, ta nghĩ ta còn khá khoan dung đấy,"

      Josh quay sang Dee. Đôi môi teo tóp của lão già cử động, hơi thở phát ra thành những tiếng hổn hển nặng nề. " ." bàn tay như những móng vuốt vòng quanh cổ tay Josh. "Và khi nào nghi ngờ, Josh," thào, "hãy làm theo những gì trái tim cậu mách bảo. Lời có thể giả tạo, hình ảnh và thanh có thể bị xuyên tạc. Nhưng cái này..." vỗ vào ngực Josh, "Cái này luôn luôn đúng." lại chạm vào ngực cậu lần nữa, tiếng giấy sột soạt dưới lớp áo thun có in hình 49ers Faithful nghe . "Ồ , , ." Mặt tay Pháp sư chảy xệ. "Hãy với ta rằng đó phải là những trang bị mất của cuốn Codex ," thều thào, giọng đứt quãng.

      Josh gật đầu. "Chính nó đó."

      Dee phun thứ gì đó thoạt đầu như tràng cười, nhưng nỗ lực ấy bật ra cơn ho rũ rượi toàn thân, và gập đôi người lại, cố hết sức lấy lại hơi thở. "Cậu giữ chúng ngay từ đầu," lẩm bẩm.

      Josh lại gật đầu. "Ngay từ khi bắt đầu,"

      Rung lắc người trong tràng cười ra tiếng, Dee nhắm mắt, ngả lưng nằm lớp cỏ mượt. "Cậu hẳn tên đệ tử tuyệt làm sao," lầm bầm.

      Josh chăm chú nhìn người bất tử hấp hối cho tới khi, cuối cùng, Osiris ngắt ngang. "Josh," ông chắc nịch. "Bỏ mặc . Chúng ta phải ngay bây giờ - còn thế giới phải giải cứu đấy."

      "Thế giới nào ạ?" Sophie và Josh đồng thanh hỏi.

      "Hết thảy," Isis và Osiris cùng trả lời lượt.




      CHƯƠNG BA


      Những tiếng kêu thét nhức nhối.

      bầy vẹt, những con Conure Đầu Đỏ Đào [Còn gọi là vẹt đuôi dài đeo mặt nạ đỏ, loài vẹt kích thước trung bình, xuất xứ Ecuador và Peru, được nuôi làm thú cưng và được cho là giỏi] mình xanh lục mặt đỏ gay, sà thấp ngang bầu trời Embarcadero ở San Francisco. Chúng ồn ào bay qua ba người đàn ông và phụ nữ đứng nơi thanh chắn gỗ cạnh mép nước. Tiếng rít ré lanh lảnh, cường độ nhiều decibel vang khắp bầu khí trong buổi chiều muộn. trong ba người đàn ông, to bự hơn, cơ bắp hơn hai người còn lại, ấn tay lên hai tai.

      "Tôi ghét lũ vẹt," Prometheus càu nhàu. "Ồn ào, dơ bẩn-"

      "Bọn khốn khổ; chúng luôn gây rối." Nicholas Fỉamel để cho Elder phàn nàn dứt câu. Hai cánh mũi ông nở ra hít thở sâu. "Chúng cảm nhận được những luồng điện trong khí đấy."

      Prometheus buông bàn tay nặng nề đặt xuống vai Nhà Giả kim. "Suýt nữa tôi bị con quỷ biển bảy đầu ăn thịt mất rồi. Người tôi lộn nháo nhào, mà ông đâu có nghe tôi kêu thét lên đâu."

      Người thứ ba, mảnh mai trong bộ vét đen, nét mặt Nhật Bản thanh tú, ngước nhìn lên khuôn mặt to bè của Prometheus. ", nhưng ông cằn nhằn chuyện đó đến hết ngày cho xem."

      "Nếu như tôi còn sống sót được đến hết ngày," Prometheus lầm bầm. con vẹt bay qua, đủ gần để làm mái tóc bạc của Elder xù lên, và chất dinh dính màu trắng tung tóe xuất chiếc áo sơ-mi kẻ ô vuông của người đàn ông to bự. Mặt ông ta nhăn nhó vẻ ghê tởm. "Ồ, tuyệt nhỉ - hoàn hảo! Ngày hôm nay còn gì tồi tệ hơn nữa vậy ta?"

      "Ba người các ông im lặng cho được chứ!" người phụ nữ gắt. Bà đẩy đồng tiền xu vào cái khe bên dưới cặp kính ngắm phong cảnh kim loại màu xanh lơ, rồi nghiêng chúi hai ống kính về phía hòn đảo Alcatraz, đặt đầu kính chĩa ngay qua vịnh. Bà vặn chiếc bánh lái và các tòa nhà nổi lên.

      "Mình nhìn thấygì đấy?" Nicholas hỏi.

      "Kiên nhẫn nào, kiên nhẫn." Perenelle lắc đầu. Mái tóc dài lỏng lẻo sút ra khỏi dải dây buộc tóc, và màu đen lẫn màu bạc tỏa sáng lung linh khắp lưng bà. " có gì bất thường. có gì chuyển động mặt đất và tôi có thể thấy chẳng có gì mặt nước. có cả chim chóc bầu trời bao phủ quanh hòn đảo." Bà bước tránh khỏi ống kính, để cho chồng thế vào chỗ mình. Bà đứng ngẫm nghĩ chút rồi cau mày. "Quá yên tĩnh."

      " yên tĩnh trước cơn bão," Nicholas lẩm bẩm.

      Prometheus tựa hai cánh tay lực lưỡng thanh chắn bằng gỗ, nhìn ra vịnh. "Nhưng mà chúng ta lại biết những xà-lim đó đầy nhóc bọn quỷ sứ, và Machiavelli, Billy cùng với Dee và Dare ở đó. Mars, Odin và Hel giờ này hẳn có mặt ở đó luôn rồi..."

      "Chờ ," đột nhiên Nicholas . 'Tôi nhìn thấy con thuyền..,"

      "Ai lái?" Prometheus hỏi.

      Nicholas quay hai ống kính lớn bằng kim loại tập trung vào con thuyền xuất từ phía sau hòn đảo, những sóng nước trắng xóa khuấy tung ngay sau đuôi thuyền.

      Niten trèo lên chỗ thấp của hàng rào gỗ, chồm người tới trước, hai bàn tay che đôi mắt nâu. "Tôi có thể nhìn thấy người trong chiếc thuyền ấy. Đó là Diều Hâu Đen. ta có mình..."

      "Vậy mọi người khác đâu hết?" Prometheus thắc mắc buột thành tiếng. " ta chạy trốn hả?"

      ", đây là Diều Hâu Đen mà..." Niten chặn Elder trước khi ông có thể hoàn tất ý tưởng đó. "Đừng làm hoen ố thanh danh ta chứ." lắc đầu kiên quyết. "Ma-ka-tai-me-she-kia-kiak là trong những chiến binh dũng cảm nhất mà tôi từng chạm trán đấy."

      Ba người bất tử và Elder chăm chú nhìn con thuyền nảy bật sóng nước, hướng về phía bờ biển.

      "Chờ ...," Nhà Giả kim chợt .

      "Có gì nước hả?" Niten hỏi.

      Qua ống kính, Nicholas có thể thấy mười hai cái đầu như đầu hải cẩu nhấp nhô mặt sóng xung quanh con thuyền. Ông nheo mắt để nhìn thấy hơn. Mặc dù mắt lão, ông vẫn có thể thấy mấy cái đầu đó là của các trẻ tóc màu xanh lục trông xinh xắn cho tới khi chúng há miệng để lộ mấy hàm răng như răng cá piranha. [Loài cá nước ngọt ở vùng nhiệt đới Mỹ thường tấn công và ăn các động vật sống.]

      "Hải cẩu à?" Prometheus hỏi.

      "Có bọn Nữ thần Biển dưới nước," ông thông báo. "Và thêm số nữa đến."

      Chẳng bao lâu con thuyền đến đủ gần để cả nhóm cầu tàu có thể nhìn thấy các sinh vật xung quanh nó. Họ yên lặng chăm chú nhìn khi con nhô lên khỏi mặt biển cố trèo lên mạn thuyền. Người bất tử to bè chắc nịch có nước da bóng như đồng lấy khuỷu tay đẩy con thuyền qua bên và cả thân thuyền đâm sầm vào sinh vật đuôi cá kia, hất tung ả đánh rầm trở lại làn nước. Diều Hâu Đen quay con thuyền thành vòng sát, gần như lật nghiêng, đánh vòng con thuyền chĩa trở vào bọn Nữ thần Biển, lái lao thẳng vào chúng. Nước đánh sủi cả bọt khi bọn chúng tản giạt ra.

      " ấy cố ý giao chiến với bọn Nữ thần Biển," Niten . " giữ cho bọn chúng cách xa khỏi hòn đảo đấy."

      "Như vậy nghĩa là Mars và những người khác chắc gặp cố," Prometheus . Elder cao lớn quay sang Nicholas. "Chúng ta phải giúp họ."

      Nicholas nhìn Perenelle. "Mình nghĩ chúng ta nên làm gì?"

      Gương mặt Nữ Phù thủy sáng bừng nụ cười nguy hiểm. "Tôi nghĩ chúng ta nên tấn công hòn đảo."

      "Chỉ bốn chúng ta thôi ư?" ông hỏi nhàng.

      Perenelle chồm tới trước cho tới khi trán bà chạm vào trán chồng, bà nhìn sâu vào mắt ông. "Đây là ngày cuối cùng trong đời chúng ta mà, Nicholas," bà dịu dàng . "Chúng ta luôn sống lặng lẽ, luôn cứ giữ mình trong bóng tối, cất giấu năng lượng của chúng ta, hiếm khi nào sử dụng đến luồng điện. Giờ chúng ta làm thế nữa. Tôi nghĩ đây là thời điểm cần phải nhắc cho các Elder Đen tối nhớ rằng vì sao họ từng phải khiếp sợ chúng ta."




      CHƯƠNG BỐN


      Chiếc vimana Rukma rung bần bật, máy móc kêu rền rĩ. Con tàu bay khổng lồ hình tam giác bị thiệt hại trong trận chiến bên ngoài tháp pha lê của Abraham. bên tàu đầy những vết sẹo rải rác, lỗ cửa sổ bị vỡ và cánh cửa còn được gắn thẳng thớm vào khung. khí lạnh buốt như nước đá hú hét rin rít xuyên qua khe hở. Các màn hình và bảng kiểm soát nằm dọc theo bên vách tối đen, và hầu hết những thứ đó vẫn còn hoạt động theo nhịp với biểu tượng hình tròn màu đỏ có đường viền lởm chởm.

      Scathach Bóng tối đứng đằng sau Prometheus. biết ông là cậu của mình, nhưng ông lại biết là ai. Trong dòng thời gian này, chưa được sinh ra - và chưa được sinh ra cho tới sau khi hòn đảo này chìm xuống. Elder cố gắng kiểm soát con tàu. Scathach siết hai bàn tay giấu sau lưng mình và từ chối nắm lấy lưng ghế của Elder. cũng liều lĩnh cố tự ngăn mình được nôn thốc tháo. "Tôi có thể giúp ?" hỏi.

      Prometheus càu nhàu. "Trước nay từng bay với chiếc vimana Rukma bao giờ chưa?"

      "Tôi từng bay với chiếc hơn... lâu lắm rồi," Scathach thú nhận.

      "Bao lâu?" Prometheus hỏi.

      "Khó lắm, đó. Mười ngàn năm, thêm bớt thế kỷ hay đâu khoảng đó."

      "Vậy thể giúp tôi đâu."

      "Tại sao, công nghệ có thay đổi gì hả?" hỏi.

      William Shakespeare ngồi phía bên phải con tàu, cạnh chàng Hiệp sĩ Saracen đồ sộ, Palamedes. Ông bất tử người nhìn Scathach, đôi mắt màu xanh lơ sáng quắc của ông mở to đằng sau cặp kính quá cỡ. " biết đó, tôi là người tò mò," ông . "Hay nhúng mũi vào việc kẻ khác, vài người thế."

      gật đầu.

      "Lúc nào cũng là thất bại lớn nhất của tôi... và cũng là sức mạnh lớn nhất của tôi." Ông ta mỉm cười, để lộ hàm răng xấu tệ. "Tôi thấy học thêm quá nhiều bằng cách đặt câu hỏi đấy."

      " cứ đặt câu hỏi ," Palamedes lẩm bẩm.

      Shakespeare phớt lờ ta. "Kinh nghiệm dạy tôi rằng có nhiều câu người ta bao giờ nên hỏi." Ông chỉ tay về phía biểu tượng hình tròn đỏ nhấp nháy vài màn hình còn chạy. "Nhưng tôi tin rằng mình muốn biết cái đó có nghĩa gì."

      Palamedes cười lớn nghe rền rền. "Tôi có thể trả lời câu đó, William. Tôi phải là chuyên gia trong lĩnh vực ngôn ngữ cổ xưa, nhưng theo kinh nghiệm của mình, khi có gì đó màu đỏ và nhấp nháy, điều đó nghĩa là có cố."

      " cố cỡ nào?" Shakespeare hỏi.

      "Nó có nghĩa là phải từ bỏ con tàu," Prometheus đáp. "Nhưng ông muốn quá chú ý đến điều đó đâu. Mấy con tàu cổ xưa này luôn ném phăng những cảnh báo."

      Bên cánh trái thụp xuống và họ nghe có gì đó giộng bum vào và nạo đường dọc theo mặt dưới con tàu.

      Joan Arc chuyển tư thế, săm soi nhìn qua lỗ cửa sổ bị vỡ nằm bên hông trái. Chiếc vimana lướt qua những đọt cây, để lại vệt lá và cành cây gãy rối tung theo sát đằng sau. liếc xéo qua chồng, nhướng cặp lông mày mỏng như bút chì ngầm đặt câu hỏi.

      Comte de Saint-Germain nhún vai. " là tín đồ ngoan đạo trong trường phái chỉ lo những thứ nằm trong khả năng kiểm soát của mình," ông ta bằng tiếng Pháp. "Mà tụi mình đâu có kiểm soát được con tàu này; vì thế, tụi mình nên lo."

      "Đầy chất triết học nhỉ," Joan lầm bầm.

      "Đầy chất thực tế ấy chứ." Saint-Germain nhún vai rất lịch thiệp. "Điều tệ nhất có thể xảy ra là gì?"

      "Chúng ta rơi, chúng ta chết," gợi ý.

      "Và chúng ta chết có nhau." Ông ta dịu dàng mỉm cười. " thích điều đó hơn. muốn sống mà có em trong thế giới này - hoặc vì lý do gì đó mà phải ở bất cứ thế giới nào khác."

      Joan đưa tay ra, người đàn ông nắm lấy tay trong taỵ mình. "Tại sao phải mất quá lâu như thế em mới cưới nhỉ?"

      "Em từng nghĩ gã ngốc kênh kiệu, dốt nát, khoác lác mà."

      " Ai bảo thế?" hỏi gặng.

      "Em chứ ai."

      "Và em đúng, biết mà."

      " biết chứ." Ông cười nhe răng.

      tiếng rầm nữa, toàn bộ con tàu rung bắn lên. Những chiếc lá xanh bóng láng giạt ngang qua cánh cửa xô lệch.

      "Chúng ta cần hạ xuống ngay bây giờ," Bóng Tối .

      "Ở đâu?" Prometheus gằn.

      Scathach khom người qua lỗ cửa sổ, chằm chằm nhìn ra ngoài. Họ lao qua khu rừng nguyên sinh rậm rạp. Những con thằn lằn cánh da khổng lồ lười biếng bay theo hình trôn ốc xuyên qua các tầng trời trong khi những con chim có bộ lông sặc sỡ tung mình qua các ngọn cây thành những điểm màu toe tóe. Những sinh vật hình dạng người trông ngờ ngợ như loài khỉ, nhưng lại phủ lớp lông vũ, chạy nhốn nháo dọc theo chỏm rừng, vừa la hét vừa gọi í ói. Và từ vùng bóng tối đằng sau những đám lá và cành cây, những con mắt mở to chớp chằm chặp nhìn vào chiếc vimana.

      Chiếc vimana Rukma tròng trành lần nữa, rồi lao xuống, cánh bên phải rách toạc lát mỏng đứt lìa khỏi vòm kính che buồng lái. Toàn bộ khu rừng thét gào, hú hét và kêu rống phản đối.

      Scathach hụp đầu xuống, hai mắt phóng ra hai bên trái, phải. Khu rừng trải dài dứt về mọi phía cho tới khi nó bị nuốt chửng bởi những đám mây cuồn cuộn dày đặc cuối chân trời. " có chỗ nào đáp được," .

      "Tôi biết rồi," Prometheus nóng nảy . "Trước kia tôi từng bay đường này mà."

      "Xa hơn nhiều ?" hỏi vói lại.

      " xa," Prometheus dứt khoát. "Chúng ta cần phải đến được những đám mây. Chúng ta chỉ cần ở lại được trung trong vòng vài phút nữa thôi."

      William Shakespeare rời mắt khỏi lỗ cửa sổ. "Chúng ta có thể đậu đầu cây được ?" ông hỏi. " số trông mạnh đủ để đón đỡ trọng lượng con tàu đấy. Hoặc có lẽ là nếu ông bay lơ lửng được, chúng tôi có thể trèo xuống bằng dây thừng."

      "Nhìn lại , Đại Thi hào. Ông có thể nhìn thấy đáy rừng ? Những khu rừng gỗ đỏ này cao trăm năm mươi mét đấy. Mà dù cho ông ráng trèo xuống được đến mặt đất bị thương tích chăng nữa, tôi nghi ngờ biết ông được mấy tấc trước khi có thứ gì toàn là răng với vuốt ăn thịt ông mất. Nếu ông cực kỳ may mắn, lũ nhện rừng bắt ông trước và đẻ trứng vào người ông cho xem."

      "Tại sao như thế lại được cho là cực kỳ may mắn?"

      "Vì ông vẫn còn sống khi trứng nở."

      "Đó có lẽ là điều kinh tởm nhất tôi từng nghe," Shakespeare làu bàu. Ông rút ra mẩu giấy và cây bút chì. "Tôi phải ghi lại mới được."

      bộ ba sinh vật trông như kền kền đen nhẻm vỗ cánh bay vụt lên khỏi mấy cái tổ khổng lồ cây, bay dọc theo chiếc vimana. Hai bàn tay Scathach thả xuống kiếm, dù biết rằng nếu các sinh vật ấy có tấn công cũng chẳng thể làm gì được.

      "Chúng trông có vẻ đói," Saint-Germain vừa , vừa chồm qua Joan để nhìn chằm chằm qua ô cửa sổ.

      "Chúng có nguy hiểm ?" Bóng Tối hỏi.

      "Chúng là loài ăn xác thối," Prometheus . "Chúng chờ chúng ta rơi xuống để có thể đánh chén những gì còn lại."

      "Vậy là chúng mong chúng ta rơi ầm xuống à?" Scathach chăm chú nhìn mấy con chim khổng lồ kia. Trông như những con kền kền khoang cổ, mặc dù kích thước lớn gấp ba bất cứ con kền kền khoang nào từng gặp.

      "Chúng biết rằng sớm muộn gì mọi chiếc vimana cũng phải rơi thôi," Prometheus . "Qua nhiều thế hệ, chúng thấy quá nhiều vụ rơi rồi, bây giờ kiến thức ấy truyền lại cho chúng."

      Bất thình lình, màn hình thủy tinh ngay đằng trước Elder hóa đen thui, và rồi, nhất loạt, gần như tất cả những màn hình màu đỏ nhấp nháy theo nhịp cùng nhau tắt ngấm.

      "Bám chắc vào!" Prometheus gọi lớn. "Buộc mình lại !" Ông nhảy giật lùi trở lại bảng điều khiển và chiếc vimana Rukma tròng trành lao lên bầu trời, động cơ gắng sức. Toàn bộ con tàu bắt đầu rung lên lần nữa, mọi thứ được ràng đều đổ sầm xuống phía sau con tàu. Con tàu dâng lên càng lúc càng cao hơn, những búi mây màu trắng trở nên dày cộp và cứng ngắc, nhận chìm bên trong con tàu vào ánh sáng lờ mờ, và những ô cửa sổ bất chợt được kẻ sọc bởi những dòng nước mưa ngoằn ngoèo. Nhiệt độ bên trong con tàu rơi thẳng xuống, những gỉọt nước lốm đốm phủ lên mọi thứ. Chiếc màn hình chức năng duy nhất dìm mọi thứ trong màu đỏ thẫm xen kẽ với màu đen thui.

      Scathach thả mình rơi vào chỗ ngồi được thiết kế cho thân thể người, giữ chặt cánh tay cứng với mức độ đủ làm gãy chiếc lông vũ cổ xưa. "Tôi tưởng chúng ta xuống chứ!"

      "Tôi đưa chúng ta lên, cao hết mức có thể," Elder càu nhàu. Gương mặt to bè của ông sáng bóng mồ hôi giờ hóa thành màu máu dưới ánh sáng của chiếc màn hình, và mái tóc đỏ quạch của ông dính bết vào khung xương sọ.

      "Lên hả?" Giọng Scathach biến thành tiếng quác quác cao éo. khó nhọc nuốt xuống và thử lại. "Lên hả?" lặp lại, giọng bình thường. "Tại sao lại lên được?"

      "Để khi động cơ chết, chúng ta có thể lượn xuống," Prometheus đáp.

      "Và có khi nào ông nghĩ điều đó -" Scathach mới tới đó.

      tiếng bùm lớn vang lên, bên trong chiếc vimana Rukma tràn ngập mùi cao su cháy hôi hôi. Và rồi tiếng vù vù đều đều của động cơ trong chiếc vimana cắt ngang im lặng.

      "Gì nữa đây?" Scathach hỏi dồn.

      Elder ngồi trở lại vào ghế của mình, giờ trở thành quá đối với ông, hai tay khoanh trước bộ ngực đồ sộ đeo giáp. "Bây giờ chúng ta lượn nào."

      "Rồi sao nữa?"

      "Rồi chúng ta rơi."

      "Rồi sau đó?

      "Rồi chúng ta đâm sầm xuống."

      "Rồi tiếp theo?” Scathach gặng hỏi.

      Prometheus cười toe. "Rồi chúng ta thấy thôi."

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG NĂM

      "Niten," Nicholas quay sang người đàn ông Nhật Bản. " là nhà chiến lược bậc thầy. gợi ý gì nào?"
      Niten chúi hai ống kính xuống, quét khắp hòn đảo phía bên kia vịnh, di chuyển từ trái qua phải và trở lại lần nữa từ phải qua trái. "Ông từng đọc cuốn sách của tôi chưa?" hỏi. Sau đó, đợi trả lời tiếp. "Có ba cách để đương đầu với kẻ thù. Đó là Tai No Sen, ta chờ kẻ thù tấn công rồi đáp trả. Là Tai Tai No Sen, ta xác định thời gian tấn công kẻ thù, để hai bên cùng bước vào trận chiến lần. Và rồi tất nhiên, là -"
      "Ken No Sen," Prometheus . "Tấn công trước."
      Niten ngoái lui ra sau liếc Elder. "Ông đọc sách của tôi. Tôi thấy mình được tôn lên đấy."
      Prometheus cười toe. "Khoan thế . Tôi thấy có vài lỗi trong đó. Và tất nhiên, Mars còn nhất trí với mọi thứ nữa kia."
      "Ông ấy lúc nào chả thế." Niten hướng chú ý của mình trở lại với hai ống kính. "Ken No Sen. Tôi nghĩ chúng ta nên tấn công trước, nhưng chúng ta cần phải biết ý định kẻ thù của mình trước khi chúng ta hành động. Chúng ta cần phải để mắt đến hòn đảo."
      "Tôi có thể nhắc nhở rằng chúng ta chỉ có bốn người ?" Prometheus .
      "À." Niten quay đầu từ hai ống kính sang nhìn cả nhóm. "Nhưng tôi cho rằng kẻ thù của chúng ta biết điều đó." mỉm cười. "Chúng ta có thể làm cho bọn chúng tin rằng mình có nhiều người hơn."
      "Bóng ma Juan Manuel de Ayala bị mắc bẫy hòn đảo," Perenelle , "vĩnh viễn bị trói chặt vào nơi đó. Cũng có nhiều bóng ma khác ở đó nữa. Họ giúp tôi trốn thoát. Ông ta giúp, tôi bảo đảm điều đó. Ông ta làm mọi việc để bảo vệ hòn đảo của mình."
      Niten mỉm cười. "Những bóng ma và những linh hồn là công cụ hữu hiệu làm xao lãng kẻ địch. Nhưng để chiến đấu với lũ quỷ sứ chúng ta cần thứ gì đó hiển hơn chút. thứ gì có răng và vuốt tốt hơn."
      Đôi môi Perenelle từ từ biến thành nụ cười đáng sợ. "Được thôi, tất nhiên, Areop-Enap Alcatraz đấy."
      Prometheus quay ngoắt lại. "Lão Nhện! Tôi tưởng bà ấy chết rồi chứ."
      "Lần cuối cùng tôi nhìn thấy, bà ấy bị trúng độc bởi vết cắn của hàng triệu con ruồi. Bà ấy tự làm kén cho mình trong vỏ bọc chắc cứng để chữa lành. Nhưng bà ấy vẫn còn sống."
      "Nếu chúng ta có thể đánh thức bà ấy..," Prometheus lẩm bẩm. "Bà ấy .." Ông dừng lại, lắc đầu. "Trong chiến trận bà ấy đáng sợ."
      "Khi ông Lão Nhện...," Niten mở lời, "có phải chúng ta đến con nhện to lớn ?"
      "To lớn," Nicholas và Perenelle cùng trả lời lượt.
      "Rất to lớn," Perenelle thêm. "Và mạnh thể tin nổi."
      Prometheus lắc đầu. "Tôi biết bà ấy từ khi còn xinh đẹp kia, trước khi bị quá trình Biến đổi tác động. Quá trình này hiếm khi nào tử tế, nhưng tôi nghĩ đặc biệt tàn ác đối với bà ấy."
      nhóm đông các du khách người Nhật tươi cười tụ tập gần đó, bắt đầu chụp ảnh hòn đảo, cùng với lũ vẹt xanh đỏ sà thấp xuống phía đầu. Ba người bất tử và Elder tận dụng cơ hội này như tín hiệu để di chuyển xa hơn xuống cầu tàu.
      "Chúng ta cần phải cầm chân bọn quỷ sứ hòn đảo," Nicholas nho trong lúc họ thả bộ. "Nếu hết thảy bọn chúng đều ở chung chỗ, dễ dàng bảo vệ thành phố hơn."
      Prometheus lắc đầu. "Còn hơn cả việc chỉ bảo vệ thành phố, Nicholas. Chúng ta cần phải tiêu diệt bọn quái thú này. Và thời gian phải là bạn hữu của chúng ta. Tôi có thể bảo đảm vói mọi người rằng mọi thứ xấu xa Bờ Tây nước Mỹ bây giờ đều hướng về đây. Mỗi Elder Đen tối và người phục vụ đều đường tói. Chúng ta thể đánh nhau vói hết thảy bọn chúng được."
      "Chúng ta phải làm thế đâu," Niten chắc nịch. "Mỗi lúc chúng ta nên dồn sức vào kẻ thù thôi. Đầu tiên chúng ta hãy gọi tên cái gì đứng trước chúng ta." ta nghiêng đầu về phía hòn đảo. "Các Elder Đen tối dự định cho bọn sinh vật đó gieo nỗi kinh hãi và lộn xộn khắp thành phố. Nếu có thể ngăn ngừa việc đó, chúng ta phá kế hoạch của bọn chúng rồi. Và đúng thế, tôi chắc chắn có những bọn khác tới, nhưng đó là những cá thể riêng lẻ, và chúng ta có nhiều khả năng xử lý với chúng hơn."
      "Mà chúng ta có phải chỉ là bốn đâu," Perenelle . "Còn những người khác - những người bất tử như chúng ta, hay những người bất tử trung thành với các Elder hòa bình hoặc Thế hệ Kế tiếp - những người về phe chúng ta. Chúng ta nên liên lạc với họ."
      "Bằng cách nào?" Prometheus hỏi.
      "Tôi có số điện thoại của họ," Perenelle .
      "Tsagaglalal chiến đấu với chúng ta," Nicholas tiếp lời, "và ai biết được tầm cỡ quyền lực của bà ấy đâu."
      "Bà ấy là bà lão mà," Niten vừa , vừa lắc đầu.
      "Tsagaglalal là nhiều thứ lắm," Perenelle , "nhưng là sai lầm đấy nếu nghĩ bà ấy chỉ là bà lão."
      "Nếu bà có các mối liên hệ, gọi họ ," Niten dứt khoát. "Mời hết thảy họ đến đây." ta quay sang Elder. "Prometheus, ông là Bậc thầy Lửa. Ông có thể đổ cơn mưa lửa xuống hòn đảo ?"
      Elder cao lớn lắc đầu buồn bã. "Tôi có thể, nhưng chỉ là trận mưa thôi, và hoàn toàn tiêu diệt tôi. Tôi già rồi, Niten, và tôi sắp chết. Vương quốc Bóng tối của tôi mất và tôi còn lại ít luồng điện lắm... có lẽ chỉ đủ cho ánh lóe vinh quang cuối cùng." Ông nhe hàm răng thành nụ cười tàn nhẫn. "Và tôi muốn để đành vinh quang ấy tận phút cuối cùng."
      Nlgtrời bất tử Nhật Bản gật đầu. "Điều đó tôi hiểu."
      "Thế chúng ta phải tập trung mọi nỗ lực của mình hòn đảo," Nicholas tuyên bố. "Nhưng trước khi làm điều đó, chúng ta cần phải biết chuyện gì diễn ra kia."
      "Có thể thử bói cầu," Perenelle đề nghị.
      Nicholas lắc đầu. "Quá giới hạn và quá mất thời gian. Chúng ta chỉ có thể nhìn bất cứ thứ gì phản chiếu trong kính hoặc ao nước thôi. Chúng ta cần hình ảnh bao quát hơn kia." Ông đột nhiên im bặt và cười toe. "Mình có nhớ Pedro ?" ông hỏi.
      Perenelle ngây người nhìn ông, và rồi mặt bà sáng bừng kèm theo nụ cười. "Pedro. Tất nhiên là tôi nhớ Pedro chứ."
      "Pedro là ai thế?" Niten hỏi.
      " là. Nay Pedro còn nữa. ra gần như cả trăm năm rồi," Perenelle .
      "Vua Pedro của Brazil ư?" Prometheus hỏi. "Hay Pedro của Bồ Đào Nha? Nhà thám hiểm, nhà phát minh?"
      "Con vẹt," Perenelle . "Được đặt tên để tôn vinh người bạn vĩ đại của chúng tôi, Periquillo Sarniento. Suốt nhiều thập kỷ, chúng tôi con vẹt mào Timor Sulphur. Tôi "chúng tôi", dù thực, nó gắn bó với Nicholas và chỉ phải chịu đựng tôi thôi. Chúng tôi thấy nó như chú gà con bị bỏ rơi khi chúng tôi tìm kiếm tàn tích Nan Madol vào năm ngàn tám trăm. Nó ở với chúng tôi suốt gần tám mươi năm."
      Prometheus lắc đầu. " tôi thấy -" ông rồi bỏ nửa chừng.
      "Vẹt là loài chim phi thường nhất," Nicholas tiếp, để ý đến ông ta. Ông giang ngang cánh tay trái, thoáng mùi hương bạc hà tỏa ra trong làn khí đượm muối. Môi ông cử động, hơi thở rin rít nhè thổi ra chính giữa. Có tiếng vỗ cánh bất chợt và con vẹt mình xanh đầu đỏ rất đẹp mắt đậu xuống bàn tay xòe của ông. Nó nghiêng đầu qua bên, con mắt bạc lẫn vàng mở lớn nhìn ông như thách đố; sau đó bắt đầu chầm chậm rụt rè xiên xiên lên cánh tay ông. Nhà Giả kim giụi giụi lưng ngón tay mình xuống ngực nó. "Loài vẹt cực kỳ thông minh. Và thị lực của chúng tuyệt diệu. Có những loài mà mắt còn cân nặng hơn cả não chúng nữa. Chúng có thể nhìn vào quang phổ hồng ngoại và cực tím; thậm chí chúng còn có thể nhìn thấy sóng ánh sáng nữa kia."
      "Nhà Giả kim...," Prometheus .
      Nicholas dồn mắt vào con vẹt, thổi nhè qua bộ lông óng ánh ngũ sắc của nó. Con vẹt cạ đỉnh đầu vào trán Flamel và bắt đầu chải chải cặp lông mày rậm của ông.
      "Nhà Giả kim," Prometheus kêu lần nữa, chút cáu gắt lộ ra trong giọng ông ta.
      "John Dee và bè lũ của dùng chuột lớn chuột nhắt làm mắt để theo dõi thay cho mình," Perenelle giải thích. "Nhưng trải qua nhiều năm, Nicholas học biết cách nhìn qua mắt của Pedro. Đó là quá trình chuyển tải đơn giản. Chỉ việc bọc sinh vật ấy trong luồng điện của mình và rồi nhàng điều khiển nó."
      "Pedro cứu mạng chúng tôi trong nhiều tình huống," Nicholas nhàng. " kêu thất thanh khi thậm chí chỉ nghe thoang thoáng mùi lưu huỳnh hôi thối của Dee." Ông đưa mặt sát vào con Conure Đầu Đỏ Đào, nó gí gí cái mỏ đen thui tới tới lui lui trán ông, lúc này còn chải vào mái tóc cắt sát của ông nữa. "Prometheus, bây giờ ông vịn tôi lại chứ?" ông tiếp. "Tôi sắp bị hoa mắt chóng mặt chút đây."
      "Tại sao?" Niten hỏi, đầy bối rối.
      "Tôi sắp bay," Nhà Giả kim thầm. Ông nghểnh đầu và con vẹt bắt chước chuyển động ấy. Trong tích tắc, cả hai mắt giao mắt. Bầu khí đượm muối chợt gay gắt mùi bạc hà và con conure run bắn lên. Khi vuốt ve con chim, những ngón tay của Flamel để lại những vệt sáng lung linh màu xanh lá gần như thấy được bộ lông con vẹt. Nicholas nhắm mắt... và đôi mắt vẹt màu vàng nhạt dần , gần như màu.
      Sau đó, bằng cú vỗ cánh bất chợt, con chim cất cánh bay vào bầu trời, và Prometheus chụp lấy Nhà Giả kim vừa khi ông đổ sụp xuống đất.



      CHƯƠNG SÁU

      "Hai người có là ba mẹ của chúng con ?" Sophie hỏi.
      "Câu hỏi hay nhỉ!" Isis nạt ngang.
      Sophie và Josh nhìn nhau. Cặp song sinh ngồi hai chiếc ghế hẹp ngay đằng sau Isis và Osiris. Virginia Dare thu mình sàn sau lưng hai đứa . Josh cố nhường chỗ cho ả, nhưng ả bảo mình thích bị gò bó. Á vỗ vào mặt cậu bé khi lời cám ơn, và đụng chạm ấy khiến cả người cậu nóng bừng.
      Richard Newman - Osiris - vặn người trong chiếc ghế da đen và mỉm cười. "Đúng, chúng ta là cha mẹ của các con. Chúng ta là các nhà khảo cổ và cổ sinh vật học - hay chí ít, chúng ta là thế trong Vương quốc Bóng tối của các con. Mọi thứ các con biết về chúng ta đều là hết."
      "Ngoại trừ phần Isis và Osiris, các nhà cai quản Danu Talis," Josh . "Hay là toàn bộ những khái niệm như cổ xưa và bất tử."
      Nụ cười của Osiris nở rộng. "Ta mọi thứ các con biết về chúng ta đều là hết. Chứ ta đâu có các con biết mọi thứ về chúng ta."
      "Chúng con phải gọi hai người là gì?" Sophie hỏi.
      "Như những gì các con luôn gọi," Isis . Bà điều khiển chiếc vimana bằng vàng và pha lê, bàn tay với những ngón thuôn dài đặt bè ra bảng kính, những cử động chút xíu của ngón cái và ngón trỏ của bà làm phát ra những tiếng o o của con tàu xuyên khắp trung.
      Sophie chăm chăm nhìn vào sau gáy người phụ nữ. Người này trông giống hệt mẹ bé, chuyện và cử động y như mẹ... song... có gì đó khác biệt, có gì đó ổn. bé liếc qua cậu em trai mình và bằng bản năng, biết rằng cậu cũng cảm thấy chính xác như thế. Người đàn ông trông giống cha mỉm cười với hai đứa. Và nụ cười ấy cũng giống với nụ cười bé biết rất trong Vương quốc Bóng tối của mình, Trái Đất -những vết nhăn nơi khóe mắt ông, những đường nho nơi khóe miệng ông. Đôi môi ông mím chặt y hệt như đôi môi của cha bé, người bao giờ mở miệng khi cười. bé luôn nghĩ ông ngượng với nhữrg chiếc răng nanh dài của mình. "Răng ma cà rồng," ông gọi chúng như thế hồi bé còn là đứa trẻ. phá ra cười khi nghe thế, nhưng bây giờ, những lời ấy sao mà ớn lạnh.
      "Con nghĩ mình gọi hai người là Isis và Osiris," cuối cùng - như thế cảm thấy đúng - và từ nơi khóe mắt mình, bé có thể nhìn thấy Josh gật lầu tán thành.
      "Đương nhiên," Osiris giọng đều đều. "Ta chắc chắn việc này khó tiếp thu. Để chúng ta đưa các con trở về cung điện và lấy chút thức ăn. Như thế khiến mọi chuyện dễ dàng hơn."
      "Cung điện ư?" Josh hỏi.
      "Chỉ thôi. Cái lớn hơn nằm trong Vương quốc Bóng tối gần đây."
      "Vậy ra hai người là nhà cai trị ở đây sao?" Virginia Dare hỏi vọng lên từ chỗ ả ngồi mặt sàn.
      Thoáng bực bội rất tinh tế nhảy nhót gương mặt bà khi nghe câu hỏi đó. "Chúng tôi là những người cai trị, đúng, nhưng chưa phải là người cai trị chủ chốt. người khác kia."
      "Tuy nhiên cũng còn lâu lắm đâu," Isis . Bà quay đầu mỉm cười với chồng.
      Lần này những cái răng sữa nhọn hoắc cắn vào môi dưới khi bà toét miệng cười. " còn lâu lắm đâu," ông nhất trí. "Và rồi chúng tôi là những nhà cai trị thế giới này và hết thảy các thế giới bên kia."
      "Vậy ràng là chúng ta Danu Talis rồi," Josh , gần như tự nhủ. Cậu ngẩng đầu nhìn ra bên ngoài chiếc vimana tăng tốc. Tất cả những gì cậu có thể nhìn thấy từ phía bên mình là miệng của ngọn núi lửa khổng lồ, làn khói màu trắng xám mỏng như chỉ cuộn bay lên các tầng trời. "Cội nguồn nổi tiếng của tất cả mọi huyền thoại Atlantis."
      "Vâng, đây là Danu Talis."
      "Khi nào thế?" cậu nhấn mạnh.
      Osiris nhún vai. "Khó lắm, đấy. Giống người điều chỉnh niên lịch của họ hết lần này đến lần khác quá thường xuyên đến nỗi việc tính toán chính xác là khả thi. Nhưng phỏng chừng mười ngàn năm trước thời của các con Trái Đất."
      "Từ thời của chúng con à?" Josh . " phải thời của hai người sao?"
      "Đây mới là thời của chúng ta, Josh à. Thế giới của các con chỉ là cái bóng của thế giới này."
      "Nhưng hai người cũng sống trong thế giới của chúng con mà."
      "Chúng ta sống trong nhiều thế giới lắm," Isis , "và cũng nhiều thời kỳ nữa."
      "Mẹ con đúng đấy," Osiris . "Chúng ta giữa các thế giới suốt nhiều thiên niên kỷ. Cả hai chúng ta có khả năng thám hiểm nhiều Vương quốc Bóng tối hơn bất kỳ Elder nào khác."
      "Vậy ra hai người là Elder?" Sophie hỏi.
      "Đúng, chúng ta là thế."
      "Và điều đó khiến chúng con trở thành gì?" Josh hỏi. "Chúng con là Elder hay là Thế hệ Kế tiếp ạ?"
      "Phần còn lại được thấy thôi," Osiris . "Vào điểm đặc biệt này của thời gian, có Thế hệ Kế tiếp. Và nếu tất cả theo kế hoạch, có Thế hệ Kế tiếp đâu. Họ chỉ xuất sau biến cố nhận chìm của hòn đảo này thôi."
      "Toàn bộ vấn đề là hai con ở đây, cả hai đứa đều được Đánh thức và được huấn luyện nhiều Pháp thuật Cơ bản," Isis .
      Con tàu hụp xuống và thình lình thành phố như mê cung có hình tròn rộng mênh mông ra phía trước và bên dưới họ. Ánh sáng mặt trời phản chiếu màu bạc và vàng từ hệ thống kênh rạch và giao thông đường thủy trải rộng chạy vòng quanh ngọn kim tự tháp khổng lồ tọa lạc ngay trung tâm thành phố. Đường phố đông nghẹt người, và đỉnh các kim tự tháp rải rác chói rực ngọn lửa đuốc, trong khi những đỉnh khác lại bừng sáng những cờ xí. Dường như đó là những ngôi nhà, cung điện, đền đài và dinh thự với hàng tá kiểu kiến trúc khác nhau. Nằm ven thành phố là những mái nhà xiêu vẹo thấp lè tè chen chúc.
      "Lớn quá," Josh thào.
      "Thành phố rộng lớn nhất thế giới đấy," Osiris đầy vẻ tự hào. "Thực ra, đây là tâm điểm của thế giới."
      Josh chỉ tay về phía kim tự tháp đồ sộ mà dễ dàng nhận ra là thành phố được xây dựng chung quanh, cùng với cung điện nằm phơi mình phía sau. "Đó là nơi chúng ta đến phải ?"
      "Chưa đâu." Osiris mỉm cười. "Đó là Cung điện Thái Dương của hoàng gia, nay là nơi ở của Aten, nhà cai trị Danu Talis."
      "Trông nó nhộn nhịp...," Josh mở lời.
      Isis bất chợt ngồi chồm tới và chiếc vimana hụp nhào xuống. "Ông xã!" bà kêu lên, tâm trạng hoảng hốt trong giọng .
      Osiris xoay người, chồm tới trước chăm bẳm nhìn vào khối kim tự tháp ấy. gian bên cung điện nhộn nhịp những chiếc vimana đủ mọi hình dạng, đủ mọi kích cỡ, và dưới đất từng hàng lính gác mang giáp đen vào sẵn vị trí. đám người rất đông tụ tập trước công trình kiến trúc, và từng giòng người từ khắp các đường phố xung quanh tuôn đổ vào.
      Isis liếc xéo qua Osiris. "Trông như có gì xảy ra trong lúc chúng ta vắng phải," bà khẽ.
      "Bastet!" ông rít lên. "Lẽ ra tôi phải biết mụ ta chịu ở yên chứ. Thay đổi kế hoạch: hạ chúng ta xuống. Chúng ta cần phải tập trung vào vụ này ngay tức mới được."
      "Hạ cánh à?" Isis , vừa đúng lúc động cơ của chiếc vimana giảm xuống thành tiếng rên rỉ trầm trầm và con tàu nhàng dao động qua quảng trường họp chợ rộng rãi, đầy những quầy hàng được che bạt sáng trưng nhiều màu sắc. gian chật ních những người nước da rám nắng đậm màu, thấp, béo, đa số mặc áo chùng bằng len trắng hoặc sơ mi quần dài trắng toát. Vài người liếc nhìn chiếc vimana, nhưng ai chú ý đặc biệt. Hai tay lính gác anpu mặc giáp da thú, mang khiên và giáo, đến chạy quanh chiếc vimana, nhưng khi nhìn thấy ai hạ xuống, chúng lập tức quay và biến mất dưới con phố phụ. Bụi đất xoáy tròn khi con tàu đậu xuống ngay giữa quảng trường.
      "Virginia, tôi để hai đứa song sinh lại cho chăm sóc," Osiris khi phần mái của con tàu giật lui.
      "Tôi sao!" Virginia Dare chớp mắt ngạc nhiên.
      Osiris gật đầu. " đấy."
      Isis ngồi tại chỗ vặn người quay lại nhìn Sophie và Josh. "Hãy với Virginia. Cha con và ta trở lại ngay, sau đó chúng ta ăn bữa cơm gia đình và trò chuyện tiếp. Chúng ta trả lời mọi câu hỏi của các con, ta hứa đấy. Có nhiều điều tuyệt vời dành sẵn cho các con. Các con được mọi người biết đến như là người Vàng người Bạc. Các con được tôn sùng. Các con thống trị. Bây giờ , hãy ."
      Cặp song sinh rời khỏi chỗ, bước ra vào bầu khí buổi chiều muộn. Hai đứa hít thở sâu, xua sạch khỏi phổi mùi ô zôn kim loại khô khốc của chiếc vimana. Khu chợ đầy tràn hàng ngàn thứ mùi kỳ lạ và hoàn toàn chút dễ chịu: trái cây - số bị hư thối - gia vị nước ngoài và quá nhiều những thân thể tắm rửa nhồi nhét sát nhau.
      "Các người định đâu?" Virginia hỏi Osiris.
      Elder dừng lại nơi lối ra của chiếc vimana. "Chúng tôi phải đến cung điện, và tôi muốn mang bọn trẻ vào chốn nguy hiểm," ông ta . Ông chỉ tay hướng về tháp hình chóp màu vàng kim vút lên qua những mái nhà. đầu tháp nhọn ấy là lá cờ phấp phới, đính vào lá cờ là vật gì đó trông như con mắt trang trí công phu. "Đó là nhà chúng ta. Hãy tới đó. Chờ chúng ta." Ông ta nhìn quanh quảng trường. Phần lớn các chủ quầy hàng đều quay lại nhìn chằm chặp vào người đàn ông cao ráo đầu để trọc. phải ai cũng giấu được vẻ ghê tởm khuôn mặt họ. ai đón gặp ánh mắt ông. " ai làm hại các con," ông lớn, giọng vang dội khắp quảng trường. " ai ngay cả thử cũng . Họ biết báo thù của ta là khủng khiếp." Ông chồm tới đặt bàn tay lên bờ vai trái của Virginia. Tức khắc, ả hất ngay. "Hãy bảo vệ con ta người bất tử," ông ta khẽ. "Nếu có bất cứ điều gì xảy đến cho hai đứa, ta hài lòng đâu đấy. Mà cũng nốt."
      Virginia Dare nhìn trân trân vào đôi mắt màu xanh lơ của Elder. Ông ta mới là người hạ ánh mắt xuống trước. "Tôi thích mấy lời đe dọa đó," ả lào thào.
      "Ồ, đây đâu phải là lời đe dọa," ông ta dịu dàng . Ông bước ra khỏi chiếc vimana, tiếng rì rầm lan khắp đám đông. "Mọi người biết cho," ông ta oang oang, "ba người này được đặt dưới bảo trợ của ta. Hỗ trợ họ, hướng dẫn họ, bảo vệ họ ta rộng tay. Gây trở ngại cho họ, chỉ dẫn sai cho họ, hãm hại họ các người - tất cả các người - nghiệm được báo thù của ta. Đây là lời của ta, và các người biết lời ta là luật pháp."
      "Lời của ngài là luật pháp," đám đông ầm ì đáp lại. Vài ông bà lớn tuổi cúi mọp người, áp trán xuống nền đất lát đá; vài người trẻ hơn chỉ cúi đầu.
      Osiris trừng trừng nhìn nhóm thanh niên. "Nếu ta có nhiều giờ hơn, ta dạy chúng bài học vì xấc láo của chúng..." ông lầm bầm. Ông ta bước vào chiếc vimana trở lại. "Bây giờ thi . Đừng trì hoãn. Hướng thẳng tới tòa nhà treo cờ hiệu. Chúng ta trở lại nhanh hết sức."
      Hông chiếc vimana Rukma đóng lại đằng sau ông ta và con tàu kêu rền trong trung, bỏ lại Sophie, Josh, và Virginia Dare đứng mình giữa quảng trường. Chiếc vimana vừa khuất qua các mái nhà quả cà chua bay vèo qua đầu đám đông rớt bắn tóe nền đất ngay chân Josh. quả thứ hai và thứ ba liền theo sau.
      "Tôi mừng khi thấy rằng Isis và Osiris khiến đám đông phải kính trọng," Josh .
      " thôi." Virginia vừa lớn, vừa chụp lấy cánh tay hai đứa , kéo chúng lùi lại. "Thường thường bắt đầu bằng trái cây..."
      hòn đá rơi lóc cóc xuống đất và vỡ vụn.
      "... nhưng luôn luôn kết thúc bằng đá."



      CHƯƠNG BẢY

      Màu sắc.
      Những màu sắc tươi tắn, sáng bừng.
      Từng sợi chỉ óng ánh ngũ sắc lung linh, nhảy múa.
      Các dải ánh sáng rộn ràng.
      Nicholas vươn khỏi cầu tàu, cưỡi cao hơn cao hơn những làn sóng khí vô hình uốn lượn gần đó quay tròn và xoáy tít bên dưới ông. Ông nhìn xuống, thấy đám đông nhốn nháo phía dưới và nhận ra chính mình ở giữa nhóm người ấy.
      Ông bay.
      Cảm giác phi thường.
      Có lần ông rất ham thích bầu trời và gần như mỗi ngày đều nhìn thế giới qua đôi mắt của Pedro. Ông bao giờ hiểu được quyến rũ của việc bay bổng cho tới khi bay vút qua những khu rừng đảo ở Thái Bình Dương, những đường phố quanh co đổ nát của Rome và những cánh đồng xanh rì chắp vá của Ireland và nhìn xuống bằng đôi mắt của Pedro. Rồi Nicholas biết vì sao Leonardo da Vinci đầu tư quá nhiều thời gian như thế vào việc chế tạo ra những cỗ máy cho phép người ta bay bổng. Có lẽ lời đồn đãi là ; có lẽ Leonardo từng là người bất tử và học được cách nhìn thế giới qua đôi mắt của chú chim.
      Mặc dù là buổi chiều muộn và ánh sáng nhạt dần, nhưng thế giới được nhìn thấy qua đôi mắt con vẹt này sống động với những ánh lóe rộn ràng và những dải màu sắc. Embarcadero lóe lên sắc vàng và vàng kim, hất từng lằn hơi nóng cuồn cuộn lên mặt nước.
      Nicholas có thể cảm thấy gió tạt qua người mình, bộ lông dập dờn lao xao rung rinh. Nhiều năm bay bổng với Pedro dạy ông được nghĩ ngợi, đơn giản chỉ dồn mắt vào điểm đến và rồi để cho bản chất tự nhiên của con vẹt ấy đảm nhiệm. Bên dưới ông, mặt nước mờ nhòa với những bong bóng phát lân quang, sống động với những đường kẻ sọc giữa các giòng nước nóng và nước lạnh.
      Alcatraz cách bờ biển hơn cây số rưỡi, phải là khoảng cách xa xôi đối với loài vẹt hoang dã, nhưng Flamel biết chú chim này thoải mái khi bay mặt nước. Ngay cả ý tưởng mơ hồ về đất liền cũng khiến cho con conure rẽ ngoặt và hướng trở lại những ngọn đèn chói lóa của Embarcadero. Con vẹt kêu quang quác, và bầy chim bờ biển xếp thành hàng những mái nhà nhiều màu sắc kêu thét lên chào đón.
      Nicholas nhìn thấy được hình thù đặc trưng của Alcatraz lần nữa, chú chim bay chệch lên - gần như miễn cưỡng - và hướng ra khỏi đất liền. Nó bay cao hơn, xa hơn khỏi bụi nước đầy muối, cho phép Nhà Giả kim nhìn thấy hòn đảo ràng: đỉnh hình thù xấu xí, thấp, dài là nhà tù màu trắng với hai ngọn hải đăng cao vút lên bầu trời. Đằng sau và bên phải ông, cầu Vịnh là dải băng đỏ sọc trắng, trong khi mất hút đằng xa xa, Cầu Cổng Vàng biến thành vệt mờ mờ nổi lên những lằn lung linh của khí nóng ấm.
      Tương phản lại, Alcatraz hoàn toàn tối sẫm, có đến chút sức nóng bức xạ khỏi mặt đất.
      Khi ông tiến gần hơn đến hòn đảo, Nhà Giả kim nhận ra rằng Perenelle đúng. hề có con chim nào khác gian bên hòn đảo. Bầy mòng biển miền tây thường xuyên diện năng lui tới những khối đá của hòn đảo, phủ lên đá màu trắng tinh, lúc này biến đâu mất, và khi tiến gần hơn đến bờ biển, ông nhận ra rằng có gì chuyển động cả. có cả chim cốc hay bồ câu. Trong khi Alcatraz lại là nơi trú cho loài chim; hàng trăm con chim làm tổ ở đó mỗi năm.
      Nicholas rùng mình và cảm nhận được cả gợn sóng rùng mình xuyên thấu khung xương chú chim . Có gì đó ăn sạch.
      Khi tới được đường bờ biển đầy đá, con vẹt conure dìm mình cỡi những dòng khí, rồi sà xuống vũng tàu đậu, thả mình đáp ngay bên giá đỡ bản đồ và bản hướng dẫn. Nicholas để con chim nghỉ lúc. Nhảy chân này sang chân kia, nó quay vòng tròn, cho ông cái nhìn toàn cảnh vũng tàu. Hoàn toàn vắng vẻ. Cũng có dấu hiệu nào của con thuyền Diều Hâu Đen lái. Từ quang cảnh thực tế ông có chút an ủi rằng mình cũng nhìn thấy xác tàu nào, và hy vọng người bất tử rơi vào tay bọn Nữ thần Biển.
      Dùng ý nghĩ Nicholas giục con chim bay lên, nó bay thành những vòng tròn chầm chậm ngang qua cửa hàng bán sách và Tòa nhà 64. Khi lên cao hơn, nó mang ông qua khu Nhà Cai ngục đổ nát, và lần đầu tiên kể từ khi đến hòn đảo, ông nhận ra chút ánh sáng leo lét. Con conure đậu thanh rầm bằng kim loại chống đỡ ngôi nhà đổ nát, sau đó rụt rè xiên xiên dọc theo đó, móng vuốt cào quẹt lớp kim loại, mắt săm soi nhìn xuống. Nơi góc đống đổ nát kia, phủ lên những bức tường xiêu vẹo và mặt sàn nứt hoác, là đống khổng lồ. Trông như quả banh bùn khô cứng. Bằng thị lực nâng cao của con vẹt, Nicholas có thể nhận ra ngay hình dạng bên trong lớp bùn: sinh vật đồ sộ, cuộn chặt thành quả banh quấn chung quanh bằng rất nhiều chân. Đó là con nhện. Con nhện thở phập phồng chầm chậm, nhè đều đều: Areop Enap vẫn còn sống.
      Nhưng mọi người khác đâu cả rồi?
      Diều Hâu Đen thả Mars, Odin, và Hel hòn đảo. Họ thể chết hết được, đúng nào? Còn bọn quỷ sứ kia đâu? Perenelle nhận ra lũ boggart, troll và cluricaun trong các xà lim kia mà. Bà nhìn thấy con minotaur còn non, chí ít cũng con Windigo và con oni. dãy hành lang khác còn giữ loài rồng, wyvern và rồng lửa.
      Bây giờ con vẹt mệt, và Nicholas biết mình phải đưa nó trở lại đất liền ngay. Ông nhìn qua vòng rồi sau đó quay về trước khi màn đêm buông xuống. Ông vòng ngọn hải đăng, rồi, bắt gặp tia lửa bất chợt, bay vút qua nhà tù và rơi vào sân giải trí.
      Khoảnh sân ứ ngập trong những làn sóng năng lượng.
      Phế tích ma quái của những luồng điện mạnh mẽ thể tin được uốn éo, cuộn xoắn khắp các phiến đá lát khổng lồ, quằn quại như bầy rắn. Có cả vàng ròng và bạc sáng lóa, màu vàng hôi thối của lưu huỳnh và thứ sợi màu xanh tái rải rác mặt đất. Chính giữa sân, có vết hằn nhòa của hình chữ nhật, mờ mờ với những dấu vết còn lại của những năng lượng cổ xưa. Thoáng nhạt nhòa những đường viền của bốn thanh gươm khắc vào mặt đá.
      cánh cửa ra vào vụt mở. Con vẹt bắt đầu vọt lên khi ánh sáng chói lòa, và Nicholas quay lại nhìn thấy Odin phóng qua ngưỡng cửa hẹp, lao xuống đợt cầu thang bằng đá. Elder độc nhãn dừng lại nơi chân cầu thang và quay mặt về hướng ông vừa rời khỏi, ngọn giáo ngắn cầm trong tay.
      Mars xuất nơi cửa, giữ cánh cửa mở toang, sau đó Machiavelli và Billy the Kid phóng qua, kẹp Hel ở giữa. Hai cánh tay Elder quàng qua vai hai người bất tử, cẳng chân bà lê đất, kéo theo chất lỏng sẫm màu theo sát đằng sau. Mars đóng sầm cánh cửa kim loại lại và tấn lưng mình vào đó. Chiếc áo da thuộc màu đen của người chiến binh lòng thòng từng mảnh , và thanh đoản kiếm trong tay ông từng giọt chất lỏng màu xanh lơ nhàn nhạt. Thậm chí trong bóng tối đặc, Nicholas vẫn có thể thấy mắt ông ta sáng lên vẻ phấn khích. Cánh cửa đằng sau Mars đóng sập vào khung rồi, nhưng Elder vẫn gắng hết sức cố giữ nó đóng chặt cho tới khi Machiavelli và Billy the Kid lên đến cuối bậc thang và Odin bước ra đỡ lấy lưng họ.
      Elder độc nhãn ra dấu cho Mars và người đàn ông cao to phóng mình ra khỏi cửa - ngay khi chiếc răng nanh nhọn hoắc thò ra khỏi tấm kim loại và rạch thủng lên phía , xé rách toạc như tờ giấy mỏng.
      Mars và Odin chiếm lấy vị trí nơi chân cầu thang, bảo vệ Machiavelli và Billy, những người chăm sóc cho vết thương của Hel các bậc thang dẫn lên sân thể dục. Billy cởi thắt lưng mình quấn quanh cẳng chân bị đứt sâu, hai bàn tay ta tối sẫm đầy máu của bà.
      Im lặng và còn thấy được nữa, con vẹt lượn vòng phía đầu.
      Nicholas cố xâu chuỗi những hình ảnh mình nhìn thấy: Mars và Odin hợp tác với Billy và Machiavelli, bảo vệ họ trong khi chàng người Mỹ tận tình lo cho vết thương của Hel. Nicholas bối rối: tay người Ý có bạn bè gì với nhà Flamel hay với người cùng phe của hai ông bà, và chiến đấu bên các Elder Đen tối suốt cuộc đời dài đăng đẳng của y cơ mà. Có lẽ Machiavelli bằng cách nào đó lừa được những người kia mất rồi? Nhà Giả kim lắc đầu, con vẹt cũng bắt chước động tác ấy. Mars khờ khạo bị lừa là có khả năng; có lẽ Hel cũng vậy. Nhưng ai có thể lừa được Odin. Có lẽ Machiavelli và Billy cuối cùng chọn phe đúng rồi chăng. Đó có phải là những gì Shakespeare , khốn khó làm người ta trở thành những người bạn đường kỳ lạ?
      Ý chí Nhà Giả kim phải nỗ lực rất ghê gớm mới giục được con vẹt thả mình xuống thấp hơn. Mọi bản năng của chú chim đều giục nó bỏ chạy. Lúc này khoảnh sân sinh động hẳn lên với những luồng điện kêu o o đầy màu sắc, mùi tanh hôi của máu Elder và mùi hôi thối của lũ quái thú.
      Sinh vật đứng choán kín cả ngưỡng cửa gãy kia khổng lồ. Nó trông như con lợn, nhưng mang kích thước của con bò đực và mấy cái răng nanh của nó dài bằng cả sải tay đàn ông.
      "Hus Krommyon," Mars . "Lợn đực Crommyon. Tất nhiên phải là chính gốc. Theseus giết chết con chính gốc đó rồi."
      con mắt duy nhất của Odin nhấp nháy. "Nó lớn ," ông ta lẩm bẩm. "Mạnh nữa."
      Con quái thú chầm chậm xuống các bậc thang. Nó quá dềnh dàng đến nỗi sườn cạ vào hai bên tường, lớp lông rễ tre nạo quèn quẹt mặt đá.
      "Nó tấn công chúng ta đấy," Mars cảnh báo.
      "Và chúng ta thể ngăn nó được," Odin thêm. "Tôi từng săn lợn đực. Nó tấn công với cái đầu chúi xuống rồi xé ngược lên. Bắp thịt quanh cổ và vai dày cui rất đặc biệt. Tôi nghi ngờ biết gươm kiếm và giáo mác của chúng ta có làm gì được để chống lại nó đấy."
      "Và nếu chúng ta sử dụng luồng điện của mình, thu hút con nhân sư và mụ chén sạch năng lượng của chúng ta," Mars . Ông ta nhàng đẩy Odin sang bên. "Cả hai chúng ta được chết ở đây. Hãy để nó tấn công tôi. Tôi tóm lấy đầu nó và giữ chặt. Các ông dùng giáo mác của mình đâm vào hông nó. Xem thử các ông có thể đâm bên dưới . Lớp thịt ở đó mềm hơn."
      Odin gật đầu. " kế hoạch hay, ngoại trừ..."
      "Ngoại trừ gì?"
      "Ông thể giữ đầu nó được. Nó húc ông đấy."
      "Đúng. Có khả năng ấy. Vậy ông lấy dao găm đâm nó ."
      "Mà các ông nhìn thấy nó làm gì vói cánh cửa kim loại rồi đó," Odin khẽ.
      "Tôi dai lắm mà." Mars cười toe.
      "Ông vui thích với chuyện này nhỉ?"
      "Tôi trải qua nhiều thiên niên kỷ trong lớp vỏ cứng ngắc, thể nhúc nhích gì được." Ông búng cổ tay và xoay tít thanh đoản kiếm. "Tôi chưa từng được vui vẻ nhiều thế này kể từ khi... ừm... tôi ..sao nhớ nổi."
      Mong vuốt con Hus Krommyon trườn bậc thang, lửa bắn thành tia văng khỏi mặt đá, nó nhào tới tấn công.
      Ánh sáng hai màu đỏ và xanh lục chợt lóe lên, con vẹt phóng đến trước mặt con quái thú, vuốt con chim cào dọc theo mõm lên đến chính giữa hai tai. Con lợn đực kêu eng éc, từ từ nâng đầu lên, quai hàm bật tanh tách, phun ra thứ nước bọt đặc quẹo. Chú chim lại sà xuống lần nữa, cái mỏ mạnh mẽ rỉa đứt lìa miếng tai lông lá của sinh vật ấy. Con Hus Krommyon kêu rống lên và giận dữ đứng hai chân sau để cắn táp vào sinh vật lao đến.
      Và ngọn giáo của Odin cắm phập ngay vào cái cổ họng chìa ra của con quỷ dữ. Nó chết trước cả khi rơi xuống chạm đất.
      "Làm thế mới là làm chứ!" Billy hò reo.
      "Billy, tại sao la lớn hơn chút nữa. Tôi bảo đảm có thể mang thêm vài con quỷ sứ xuống chúng tôi đấy," Machiavelli khẽ khàng .
      chàng người Mỹ rụt vai. "Thỉnh thoảng ông phải buông lỏng và tán thưởng chứ." ta nhìn xuống Hel. "Bà thấy kích cỡ của thứ đó ?"
      "Tôi còn thấy thứ to bự hơn," bà ngọng nghịu.
      Con vẹt vỗ cánh đáp xuống đầu con Hus Krommyon. Nó nghiêng cái đầu tí xíu màu đỏ qua bên, trước tiên nhìn Mars rồi đến nhìn Odin.
      "Mi là ai, hả chú chim ?" Mars hỏi, sau đó cánh mũi ông ta nở ra. "Bạc hà," ông ta đầy vẻ kinh ngạc. "Nicholas ư?"
      Cái mỏ của con conure há ra ngậm lại rồi nó kêu quang quác, "Flamel."
      Mars chào chú chim bằng thanh gươm của mình. "Nhà Giả kim. tốt khi... e hèm... được gặp ông. Chúng tôi còn sống, như ông có thể thấy đấy. Quân số bổ sung thêm hai, nhưng chúng tôi trong tình cảnh gian nan tàn khốc. Bọn chúng có quá nhiều, quá quá nhiều, mà con nhân sư cứ lảng vảng rình mò hoài." Ông ngưng bặt, rồi thêm, "Tôi thể tin được là mình báo cáo cho con vẹt đấy."
      " Areop Enap," con chim ríu rít.
      Mars nhìn Elder độc nhãn. "Nó vừa 'Areop Enap' có phải ?"
      Con vẹt nhảy nhót từ chân này sang chân kia. " Areop Enap, Areop Enap, Areop Enap."
      Odin gật đầu. "Nó 'Areop Enap'."
      "Ở đâu? Ở đây hả?" Mars hỏi gặng.
      Con chim tung mình bay lên trung, lượn vòng quanh hai Elder. "Ở đây, ở đây, ở đây."
      "Đó là lời xác nhận đúng rồi," Odin . " liên minh mới hay làm sao, nếu bà ấy chiến đấu cùng chúng ta." Ông vỗ vào lưng Mars. " mời Lão Nhện . Bà ấy thể nào khó tìm đâu. Hãy để tôi chăm sóc vết thương cho Hel." Ông ta túm lấy cái răng nanh lo lướng của con Hus Krommyon và kéo lê nó ra khỏi cầu thang.
      "Ông định làm gì với nó thế?"
      "Hel đâu phải là người ăn chay." Odin cười toe toét. "Và bà ấy thích thịt lợn lắm."
      "Tươi à?"
      "Đặc biệt là tươi."
      Con conure Đầu Đỏ Đào lao vào bầu trời đêm bay về hướng Embarcadero, đôi cánh vỗ mệt nhọc, sang sáng đầu Nhà Giả kim. Cái đầu đỏ của nó chúi xuống, cái mỏ ngậm chặt gõ gõ vào xương sọ ông.
      Nicholas rùng mình, hít hơi sâu, còn Prometheus đỡ lấy ông trong khi ông vươn vai, lắc lắc xua cảm giác tê rần như kiến bò. Sau đó ông nhấc bàn tay phải, con vẹt nhảy ngay lên mấy ngón tay. "Cám ơn nhé," ông thào. Làn sương mờ màu xanh bạc hà tỏa ra khỏi bộ lông màu đỏ lẫn xanh lục. Chú chim rùng mình, tung mình vào trung, vừa bay vừa gọi lớn, " Areop Enap, Areop Enap, Areop Enap." Flamel dõi mắt lần theo đường con chim bay vào bầu trời đêm.
      "Trong hai ngày nữa mọi con vẹt Embarcadero đều kêu thét lên như thế," Nhà Giả kim .
      "Ông có biết được chuyện gì ?" Perenelle hỏi.
      Nicholas gật đầu. "Bọn quỷ sứ ở trong khối xà lim chính. Tôi thấy Mars, Odin, và Hel. thấy dấu tích của Diều Hâu Đen ở đâu cả, và Hel bị thương. Nhưng có vẻ như chúng ta có thêm hai liên minh mới: Machiavelli và Billy the Kid giúp đỡ bà ấy."
      Perenelle chớp mắt ngạc nhiên. "Machiavelli từ hồi nào tới giờ đâu có nằm trong số bạn bè của chúng ta."
      "Tôi biết thế. Nhưng y là kẻ cơ hội mà. Có lẽ y nhận ra rằng tốt hơn là nên chạy theo phe thắng thế."
      "Hay có lẽ y vừa phát lại được nhân tính của mình;" Niten khẽ . "Có lẽ ai đó nhắc cho y nhớ rằng trước tiên y là con người, rồi sau đó mới thành bất tử."
      " nghe như thể nhắc đến chính kinh nghiệm bản thân mình vậy," Perenelle .
      "Tôi làm thế mà," ta dịu dàng. " có thời tôi... rất hoang dại."
      " xảy ra chuyện gì à?"
      ta mỉm cười. "Tôi gặp chiến binh người Ireland có mái tóc đỏ."
      "Và đem lòng mến?" bà trêu chọc.
      "Tôi chưa hề vậy nhé."
      " phải đâu." Bà quay trở lại Nicholas. "Còn Dee sao?"
      "Đó là chuyện kỳ quặc: tôi có thể ngửi thấy luồng điện của , nhưng nghe cũ kỹ và nhạt nhẽo lắm. Mùi đó quyện với mùi vanilla của Sophie và hương cam của Josh. Cũng có nghe cả mùi cây xô thơm nữa..."
      "Virginia Dare," Perenelle .
      "Hết thảy đều trộn lẫn vào với nhau, cùng với năng lượng phát ra từ bốn Thanh kiếm Quyền lực. Nhưng tôi nghĩ Dee vẫn còn hòn đảo đâu."
      "Vậy ở đâu được nhỉ?" Niten hỏi.
      Nhà Giả kim dợm lắc đầu, rồi ngưng lại. "Có cả vết tích của bốn Thanh kiếm Quyền lực nền đất nữa," ông chậm rãi . Hai bàn tay ông mô tả hình vuông. "Trông như chúng được đặt nằm đầu này giáp đầu kia, để tạo thành hình chữ nhật."
      " dựng cổng tuyến đấy," Prometheus . "Bản thân tôi chưa bao giờ nhìn thấy ai làm thế, nhưng tôi biết điều đó là khả thi."
      " cổng tuyến dẫn đâu vậy cà?" Nicholas hỏi. Ông nhìn Perenelle, bà lắc đầu.
      phải đến thế giới này đâu, điều đó là chắc chắn," Prometheus . "Thực tế, gần như tôi có thể bảo đảm là cổng tuyến ấy đẫn đến nơi nào đó Danu Talis cho xem. Dee mang cặp song sinh trở ngược thời gian rồi."



      CHƯƠNG TÁM

      Hóa ra cảm nhận cái chết là thế này đây.
      Tiến sĩ John Dee nằm xuống mặt cỏ mịn màng trở lại, siết chiếc áo lông cừu đỏ sát vào người. lạnh, quá, quá lạnh, cơn lạnh buốt thăm thẳm làm tê cóng hết ngón tay ngón chân và thấm sâu vào dạ dày. Nghe buốt buốt trán, như thể ăn quá nhiều kem lạnh, và cảm nhận trái tim mình bắt đầu đập chậm dần, tiếng đập yếu ớt và đều.
      lăn người nằm ngửa, mặc dầu thị lực mờ nhòe, vẫn có thể nhận ra màu xanh lơ sang sáng rất lạ của bầu trời, và ngay nơi khóe mắt mình, cỏ vẫn màu xanh sửng sốt.
      Đôi khi phải những con đường tồi tệ, nghĩ.
      sống cuộc đời ồn ào huyên náo trong những thời kỳ nguy hiểm liên tiếp. sống sót trong chiến tranh, dịch bệnh, mưu đồ chốn triều đình và phản bội này nối liền phản bội nọ. du hành khắp thế giới, có mặt gần như ở mọi đất nước trái đất này - ngoại trừ Đan Mạch, nơi luôn mong muốn được đến tham quan - và thám hiểm nhiều Vương quốc Bóng tối trong mạng lưới mênh mông bao la ấy.
      tạo dựng và cũng đánh mất nhiều của cải cơ đồ, gặp gỡ gần như mọi nhà lãnh đạo, nhà phát minh, hùng và cả bọn côn đồ hung ác hành tinh này. khuyên can các vua và hoàng hậu, xúi giục chiến tranh, phá vỡ hòa bình, và là trong số ít đôn đốc thúc đẩy giống người tiến đến nền văn minh. định hình thế giới này, thoạt tiên là vào Thời Elizabeth và sau đó là vào thế kỷ hai mươi mốt. Đó là những thành quả đáng tự hào.
      sống gần năm trăm năm trong Vương quốc Bóng tối Trái Đất, chí ít cũng lặp lại chừng ấy quãng đời trong vài Vương quốc Bóng tối khác. Vì thế phải phàn nàn gì nhiều. Nhưng vẫn còn quá nhiều thứ muốn làm, quá nhiều nơi cần tham quan, quá nhiều thế giới phải thám hiểm.
      cố nhấc hai cánh tay mình lên, nhưng lúc này chúng có cảm giác gì hết. Hai cẳng chân cũng có cảm giác, và thị lực của bắt đầu lờ mờ . Các chủ nhân Elder của chắc hẳn làm cho thân thể già cỗi, nhưng bộ não vẫn minh mẫn y như trước giờ. Có lẽ đó là tàn nhẫn thâm độc nhất của họ. Họ để cho minh mẫn trong vỏ bọc vô dụng. Bất chợt nghĩ đến Mars Ultor, bị giam giữ nhiều thiên niên kỷ trong luồng điện đông cứng sâu tận dưới lòng Paris, thân thể ông ta trơ ì chậm chạp nhưng trí não vẫn sống, và lần đầu tiên trong nhiều thế kỷ, tay Pháp sư người mới trải nghiệm được cảm xúc thương cảm lạ lẫm này.
      Dee tự hỏi biết liệu còn sống được bao lâu nữa.
      Màn đêm buông, và đây là Danu Talis, thế giới nơi mà các sinh vật tuyệt chủng rất lâu Vương quốc Bóng Tối Trái Đất cùng với loài quỷ sứ kéo đến từ vô số các Vương quốc Bóng tối khác tha hồ được tự do lang thang.
      muốn bị lũ quỷ sứ ấy ăn thịt.
      Lâu nay khi hình dung cái chết của mình - thường nghĩ đến lúc ấy, âu cũng là tự nhiên qua những việc làm và tâm trạng thất thường của các chủ nhân phục vụ - luôn hy vọng đó là giây phút vinh quang. muốn cái chết ấy có ý nghĩa. luôn khắc khoải khi quá nhiều tác phẩm của được thực trong bí mật và thế giới này vẫn chưa quan tâm đến tài năng của . Suốt Thời Elizabeth, mọi người đều biết đến tên . Thậm chí Nữ hoàng cũng phải kiêng sợ và kính nể . Khi trở thành người bất tử, nhạt nhòa thành cái bóng, và sống thân kể từ đó.
      Chẳng có ý nghĩa gì mấy khi nằm co quắp, già cỗi bên triền đồi Danu Talis thế này.
      nghe có tiếng động, thùi thụi đùng đục. Gần lắm. Phía bên phải .
      Dee cố quay đầu, nhưng thể cử động được nữa rồi.
      chiếc bóng.
      Con quỷ sứ đến ăn thịt đây mà.
      Vậy ra số phận là thế này: bị ăn thịt khi vẫn còn sống, đơn mình, bạn bè thân quen.
      cố triệu hồi luồng điện. Nếu quy tụ được chỉ vừa đủ thôi, biết đâu có thể khiến sinh vật kia sợ hãi bỏ . Hoặc tự thiêu đốt mình giòn rụm trong quá trình cố gắng này. Điều đó quá tệ. Chí ít cũng tránh được việc bị ăn thịt.
      Chiếc bóng kia di chuyển đến gần hơn.
      Nhưng tại sao lại muốn làm cho sinh vật kia sợ hãi bỏ ? Rồi nó quay lại. Đơn thuần chỉ trì hoãn việc chắc chắn xảy ra mà thôi. Tốt hơn hết là đầu hàng, là nhớ lại tất cả những việc tốt đẹp làm trong suốt quãng đời dài dằng dặc của mình... nhưng những việc đó sao mà ít ỏi quá.
      Chiếc bóng ấy che tối sầm.
      Và bây giờ là lúc hồi kết đổ lên mình , những nỗi sợ hãi xưa cũ và những mối nghi ngờ gần như chìm vào quên lãng nay lại tràn ngập khắp người. tự thấy mình ngân nga vài câu trong bài hát. "Tiếc quá, tôi chỉ có ít..." Đúng, nhưng có nhiều hơn ít ấy chứ. Chắc hẳn có thể - nên - là người cha tốt hơn đối với con cái và là ông chồng tử tế hơn đối với vợ. Có lẽ nên quá tham lam như thế - chỉ về tiền bạc, mà cả về kiến thức - và chắc chắn là bao giờ nên nhận món quà, đúng ra là lời nguyền, bất tử.
      Nhận thức được điều này khiến như trúng phải cú đấm, hơi thở nghèn nghẹn trong lồng ngực. bất tử kết tội .
      Chiếc bóng đổ dài qua người và thoáng nghe có mùi kim loại.
      Vậy phải súc vật. con người chăng. kẻ cướp chăng. tự hỏi biết có bọn ăn thịt người Danu Talis nữa. "Làm nhanh ," thều thào. "Ban cho ta lòng thương xót ấy ."
      "Đó là lòng thương xót ông ban cho những người khác đấy hả?" Đột nhiên hai cánh tay mạnh mẽ xốc lên. "Song tôi giết ông đâu, Tiến sĩ Dee ạ. Tôi có việc cần đến ông."
      "Ông là ai?" Dee hổn hển, cố nhận ra gương mặt của người đàn ông bên mình.
      "Tôi là Marethyu. Tôi là Thần Chết. Nhưng hôm nay, Tiến sĩ, tôi là cứu tinh của ông đấy."

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG CHÍN


      đến lúc Dì Agnes phải chết.

      Bà lão đứng trước tấm gương trong phòng tắm, nhìn vào hình phản chiếu của mình. người già cỗi nhìn trả lại, khuôn mặt tất cả đều là góc cạnh và mặt phẳng, khung xương gò má cao, cằm nhô và mũi nhọn. Mái tóc xám như sắt chải tém sát khuôn mặt được giữ bằng búi tóc chặt sau gáy. Đôi mắt màu đá xám hõm sâu trong khung xương đầu. Trông bà như phụ nữ tám mươi bốn tuổi. Nhưng bà là Tsagaglalal, Bà Canh Giữ, và tuổi của bà vượt quá mọi khả năng tính toán.

      Tsagaglalal cải trang thành Dì Agnes gần hai mươi thế kỷ. Dần dà bà thấy thích thân thể này, và uổng khi phải để nó mất . Bà từng đội nhiều lốt người qua các thiên niên kỷ. Mưu mẹo giỏi là biết khi nào sống tiếp, khi nào phải chết.

      Tsagaglalal trải qua những thời đại khi mà bất cứ ai khác biệt - bằng cách nào đó - đều đáng ngờ. Loài người có nhiều đặc điểm tuyệt vời, nhưng họ luôn và tiếp tục nghi ngờ, sợ hãi những ai thuộc về đám đông. Thậm chí trong những thời kỳ tốt đẹp nhất, lúc nào họ cũng đề phòng sợ có gì đó bất ổn, hoặc cảnh giác với những ai có vẻ hơi bất thường. Từng có thời người nào giữ được nét thanh xuân lâu dài người đó luôn bị ngờ vực.

      Tsagaglalal sống suốt những thập kỷ vào thời mà đàn ông và phụ nữ bị đem thiêu như phù thủy đơn giản chỉ vì họ trông kỳ quặc hoặc thẳng thắn và phụ thuộc. Nhưng rất lâu trước những năm kinh khủng ấy, ở châu Âu, và sau này, gần đây thôi, ở Mỹ, bà biết được rằng nếu muốn sống sót, bà phải hòa mình, phải trở thành phần của loài người đến mức trở thành như vô hình.

      Tsagaglalal học cách già tương xứng với tuổi tác.

      Mỗi thế kỷ đều có nhận thức về những giá trị đúng đắn và chính đáng, Có những kỷ nguyên cho rằng ba mươi là già và bốn mươi là xưa cổ. Trong số nền văn hóa xa xưa và tách biệt hơn, tuổi già lại được kính trọng như dấu hiệu của thông thái, bà có thể trở nên người sáu mươi hoặc bảy mươi trước khi "chết" và sống tỉếp.

      Và khi già, bà làm cho nó trọn vẹn, thay đổi nước da, dáng điệu, thậm chí cả cơ bắp, bắt chước dấu ấn thời gian. Nhiều thế hệ trước - ở Ai Cập, hay phải gọi là Babylon? - bà hoàn thành kỹ thuật tạo ra những khớp tay, cổ tay và đầu gối sưng phồng để cho thấy chứng viêm khớp. Sau này bà biết được cách điều chỉnh da thịt mình để những đường gân máu dày lên và màu xanh nổi làn da mỏng như giấy. Bà từng bậc thầy trong các kỹ thuật làm cho lớp da cổ mềm và chảy xệ, thậm chí còn cố khiến hàm răng ngả vàng. Để hoàn tất quá trình lừa lọc này, bà cố tình để cho thính giác mình cùn nhụt và thị lực mờ nhòe. Bà bị già, và vì thế mất giây phút nào phải giả vờ. Chính đó mới là cách an toàn hơn cả.

      Chằm chặp nhìn hình phản chiếu của mình trong tấm gương ở phòng tắm. Tsagaglalal đưa tay lên đầu, rút ra mấy cây kẹp giữ búi tóc bà nằm yên và lắc lắc cho mái tóc bạc xổ bung.

      Nửa sau của thế kỷ hai mươi là thời gian dễ sống nhất. Đây là kỷ nguyên của sản phẩm trang điểm và phẫu thuật tạo hình. Đây là thời đại người ta ra sức làm việc để đừng bị già, các ngôi sao điện ảnh và ca nhạc trông trẻ hơn so với nhiều năm trước.

      Tsagaglalal nhấc bộ tóc giả ra khỏi đầu. Bà thả đống tóc bạc vào bồn tắm và mạnh tay xoa khắp khung xương sọ láng bóng. Bà ghét tóc giả; nó luôn gây ngứa ngáy.

      Tất nhiên là thế kỷ này cũng có những mối nguy hiểm riêng. Đây là kỷ nguyên của máy quay phim chụp ảnh - máy quay phim chụp ảnh dùng cho cá nhân, dùng đường phố, dùng trong an ninh, và bây giờ hầu hết các điện thoại di động cũng đều có chức năng quay phim chụp ảnh. Đây cũng là thời đại của việc chụp hình nhận dạng: hộ chiếu, bằng lái xe, thẻ chứng minh. Cái gì cũng có hình, và người bất tử trong những tấm hình đó phải thay đổi, phải biến đổi dần dần và già . sai lầm cũng khiến nhà cầm quyền chú ý, và người bất tử đặc biệt dễ bị tổn thương trước bất kỳ cuộc thẩm vấn nào hỏi về quá khứ của họ. Tsagaglalal chưa từng rời khỏi đất nước này nhiều thập kỷ nay và hộ chiếu Mỹ của bà hết hiệu lực. Tuy nhiên, có người bất tử làm việc ở New York từng là chuyên gia về tác phẩm giả mạo thời Phục hưng. Ông ta có vụ làm ăn ngoài lề nho về hộ chiếu và bằng lái xe giả. Bà cần phải đến thăm ông ta khi chuyện này chấm dứt. Nếu bà còn sống sót.

      Tsagaglalal mở vòi nước nóng, rồi nước lạnh, hứng đầy bồn nước. Cúi gập người, bà vốc nước vào hai bàn tay, rửa mặt bằng xà bông L'Occitane Shea Butter, chùi sạch những thứ bà trang điểm dịp các Elder và người bất tử đến họp mặt ăn uống ngoài trời ở sân sau nhà bà sớm ngày hôm nay.

      Chết luôn là phần khó khăn. Lúc nào cũng có quá nhiều việc phải làm trong những tuần, những tháng gần thời điểm chết: bảo đảm là tất cả các hóa đơn được thanh toán, bảo hiểm nhân thọ gia hạn, hủy đăng ký đặt mua báo, tạp chí dài hạn, và đương nhiên là phải lập di chúc để lại mọi thứ cho "người họ hàng". Những người đàn ông bất tử thường để lại cho cháu trai, phụ nữ bất tử thường để lại cho cháu . Các người khác, như Tiến sĩ John Dee, di chúc mọi thứ cho công ty, và Tsagaglalal biết Machiavelli để tất cả của cải của mình thế gian này cho "con trai" y. Nhà Flamel để di chúc cho nhau và người cháu trai tên Perrier, mà bà nghi ngờ biết có tồn tại bao giờ .

      Tsagaglalal nhìn vào gương lần nữa. có tóc và với gương mặt chùi sạch các thứ trang điểm, bà nghĩ mình thậm chí trông còn già hơn bình thường. Chồm sát vào mặt kính, bà để cho chút luồng điện hiếm khi dùng đến nở sâu trong lồng ngực. Thoang thoảng mùi hương hoa nhài tràn ngập phòng tắm , trộn lẫn vào hơi ấm nồng của cây hạt mỡ. Hơi nóng chảy tràn lên thân mình, lan tỏa lên cổ, lên mặt bà. Bà nhìn chằm chằm vào đôi mắt xám. Màng cứng mắt - hai tròng trắng - vàng chạch, giăng đầy những mạch máu, con mắt bên phải hơi có màu trắng sữa vì bệnh đục nhân mắt . Bà luôn nghĩ chi tiết đó rất tinh tế.

      Mùi hương hoa nhài mạnh hơn lên. Hơi nóng tràn vào cổ họng, vào miệng Tsagaglalal, lên khắp hai bên má, vào mắt và màng cứng mắt trắng ra.

      Người phụ nữ hít khí vào đầy phổi, rồi giữ hơi lại. Da mặt bà khẽ dao động và lớp thịt láng mướt, mềm mại phúng phính chảy dọc theo đường xương thô cứng nơi cằm, lấp đầy mũi, làm cằm tròn lại. Những đường nhăn biến mất, vết chân chim lấp đầy, bóng mắt sâu hoắm tím bầm dưới mắt còn nữa.

      Tsagaglalal bất tử, nhưng bà phải là người. Bà là đất sét. Bà được sinh ra tại Thành phố Vô Danh bờ rìa thế giới khi luồng điện nảy lửa của Prometheus dội tràn sinh khí và ý thức những pho tượng đất sét cổ xưa. Sâu tận bên trong mình, bà mang phần rất luồng điện của Elder ấy: nó giữ bà được sống. Bà và em trai, Gilgamesh, là người đầu tiên trong số những Người Nguyên thủy được sinh ra hoặc đạt được ý thức. Mỗi lần làm mới lại mình, bà có thể nhớ rất ràng giây phút bà mở mắt và hít vào hơi thở đầu tiên.

      Bà bật cười. Tràng cười bắt đầu bằng tiếng ho khò khè của bà lão già cỗi và kết thúc bằng thanh trong trẻo cao cao của trẻ hơn rất nhiều.

      Được làm mạnh lên bởi luồng điện của bà, quá trình biến tính tiếp tục. Lớp thịt cứng lại, xương thẳng ra, răng trắng, thính giác và thị giác trở nên sắc sảo lần nữa. mái tóc đen nhánh hơi xoăn được trùm lên vùng xương sọ, rồi được làm dày lên và buông xuống hai vai. Bà đóng và mở bàn tay, ngoe nguẩy mấy ngón tay, xoay cổ tay. Đặt hai bàn tay lên hông, bà vặn người từ bên này sang bên kia, cong gập thắt lưng, chạm lòng bàn tay tới mặt sàn.

      Đứng trước gương, Tsagaglalal quan sát tuổi già rời khỏi thân thể mình, nhìn thấy chính mình trẻ ra và xinh đẹp trở lại. Bà quên trẻ trung là thế nào, và từ khi bà xinh đẹp tính đến nay lâu lắm rồi. Lần cuối cùng bà trông như thế này là vào ngày Danu Talis nhấn chìm hồi mười ngàn năm trước.

      Và nếu ngày hôm nay thế giới kết thúc, bà quyết định trải qua vài giờ ít ỏi cuối cùng trái đất dưới dáng dấp bà lão đâu.

      Tsagaglalal xuống sảnh tới căn phòng ngủ để nằm cuối ngôi nhà Đường Scott. Bà sải bước uyển chuyển và dễ dàng, vui thích với cử động tự do mới mẻ. Bà quay người vào giữa đầu cầu thang hoàn toàn vui mừng vì có thể lướt xoay tròn.

      Gần như từ khi mua nhà, phòng ngủ để này được dùng làm kho chứa. Nó chất đầy những thứ bừa bộn cả trăm năm: va li, sách, tạp chí, mấy mẩu đồ gỗ, cái ghế da nứt gãy, cái bàn viết có trang trí và tá bao tải đen nhét đầy quần áo cũ mà có lần bà nghĩ đến việc vất bỏ vào thùng rác cho tới khi nhận ra rằng có thể chúng thành thời trang trở lại. Có lá cờ Mỹ cổ đó các ngôi sao xếp thành vòng tròn bên cạnh tấm áp phích được đóng khung quảng cáo phim King Kong bản gốc do Edgar Wallace ký. Nơi cuối phòng, ném vào góc, nửa bị chôn đằng sau đống tạp chí National Geographic gáy màu vàng, là cái tủ bằng gỗ đào xấu xí kiểu của vua Louis XV từ thế kỷ mười tám.

      Tsagaglalal băng qua phòng, cố kéo đống tạp chí qua bên để đến được cái tủ. Cánh cửa tủ khóa và có cái chìa nào trong lỗ khóa tròn bằng kim loại. Đứng nhón chân, Tsagaglalal với tới cánh cửa nằm sau vòng cuộn trang trí bằng gỗ và những ngón tay dò dẫm của bà tìm thấy chiếc chìa khóa lớn bằng đồng thau treo cái đinh cong vòng. Nhấc chìa khóa ra khỏi đinh, luồng ký ức bất chợt ùa về: lần cuối cùng bà mở cái tủ này là khi bà từ Berlin trở về vào cuối Chiến tranh Thế giới Thứ hai. Nước mắt ứa ra lích chích đằng sau mắt, nung đốt cổ họng bà. đường trở về New York, bà dừng chân ở London và gặp em trai, Gilgamesh. Ông ấy biết mình là ai, thậm chí còn nhớ mình có người chị, mặc dù cũng nhận ra là có quen biết bà. Bà ngồi với ông ta nơi đống đổ nát của ngôi nhà bị thả bom trong khu East End của London và xem qua mười ngàn trang giấy ông cất ở đó. Họ trải qua buổi chiều hồi tưởng về quá khứ, từ giấy thường đến giấy da, rồi giấy da bê, và cuối cùng tiếp tục đến vỏ cây và những tờ giấy mỏng tang gần như bằng vàng trong suốt, cho tới khi bà có thể chỉ ra tên mình được viết bằng chữ in và bằng ngôn ngữ mà con người vẫn chưa khám phá ra. Họ cùng khóc khi bà nhắc cho ông nhớ họ từng là người thế nào. "Em bao giờ quên chị," ông ta khi bà đứng lên . Bà quan sát ông nguệch ngoạc viết tên bà những mẩu giấy nhưng biết rằng ông chẳng thể còn nhớ mặt nhớ tên bà trong vòng giờ tới. Tsagaglalal bị nguyền rủa ký ức quên thứ gì; còn Gilgamesh lại bị kết tội bao giờ nhớ.

      Tra chìa vào ổ khóa, bà mở cánh cửa tủ.

      khí chớm mùi meo mốc, chút mùi da thuộc cũ kỹ, mùi gia vị đăng đắng, mùi băng phiến khô lâu ngày và thoang thoảng hương hoa nhài.

      Bộ đồng phục y tá treo mắc áo đối diện Tsagaglalal, bà với tay chạm lấy, rà rà ngón tay khắp mặt vải mỏng. Ký ức bộ đồ gợi lên khiến bà run rẩy. Bà từng làm y tá trong cả hai cuộc thế chiến, và gần như trong mọi cuộc chiến tranh hàng trăm năm trước đây. Bà là trong ba mươi tám tình nguyện viên làm y tá với Florence Nightingale trong khu trại Scutari ở Crimea. Tsagaglalal nhìn thấy - và gây ra - quá nhiều cái chết qua các thế kỷ; phục vụ trong vai trò y tá là phương cách nhoi để cố sửa chữa phần nào thương tổn bà gây ra.

      Đằng sau bộ đồng phục là quần áo của cả sáu thế kỷ nay: y phục bằng da thuộc và vải lanh, lụa tơ tằm và sợi tổng hợp, lông thú và len. Ở đây là những đôi giày do Marie Antoinette tặng, bộ đầm đính ngọc trai bà may cho Catherine thời nước Nga Vĩ đại, chiếc áo lót Anne Boleyn bà mặc ngày cưới Henry. Những quãng đời ký ức. Tsagaglalal mỉm cười, phô ra hàm răng hoàn hảo. Các viện bảo tàng và các nhà sưu tập trả cả gia tài cho những bộ quần áo này cho xem.

      Nơi lưng tủ là cái túi dày may bằng vải bao bì.

      Chẳng cần phải cố gắng Tsagaglalal giật mạnh cái túi và kéo từ phòng để vào phòng ngủ của mình. Bà nhấc cái túi đặt lên giường và giật mạnh sợi dây rút bằng da thuộc. Nó khựng lại chút; sau đó dải da cũ đứt phựt và tan thành bụi còn chiếc túi mở bung.

      Thò tay vào trong, Tsagaglalal nhấc ra bộ giáp bằng sứ trắng, đặt xuống giường. Trang nhã nhưng tô điểm, bộ giáp được thiết kế vừa khít với thân hình bà như lớp da thứ hai. Bà rà rà ngón tay khắp miếng che ngực láng mướt. Bộ giáp cổ xưa, sáng loa lóa như còn mới. Lần cuối cùng bà mặc, nó bị kim loại chém phải và móng vuốt rạch vào, nhưng bộ giáp có thể tự chữa lành và liền khít lại. "Pháp thuật ư?" bà hỏi chồng mình, Abraham.

      "Công nghệ của Thần Đất đấy," ông giải thích. "Chúng ta nhìn thấy thứ nào như nó nữa trong nhiều thiên niên kỷ tới, hoặc hy vọng là chẳng bao giờ."

      Nơi đáy túi, bà tìm thấy hai vỏ kiếm bằng gỗ có trang trí và bằng da thuộc. Mỗi bao chứa thanh kopesh kim loại, dạng kiếm cong như lưỡi liềm mà người Ai Cập rất ưa thích, dù thanh kiếm nguyên bản còn xưa hơn nhiều. Bà kéo thanh kopesh ra khỏi vỏ. Lưỡi kiếm sắc lẻm kêu vèo vèo khi bà múa kiếm trong trung.

      Tsagaglalal rà rà những ngón tay có móng trắng bóng khắp bộ giáp có nét gì đặc biệt. Mười ngàn năm trước, chồng bà, Pháp sư Abraham, tặng bà hai món vũ khí và bộ giáp này. "Để giữ bà an toàn," ông ấy , những lời lầm bầm líu ríu. "Bây giờ và mãi mãi. Khi bà mặc vào, hãy nghĩ đến tôi."

      "Ngay cả khi mặc, tôi vẫn nghĩ đến ông," bà hứa như vậy, và bao giờ ngày trôi qua mà bà nghĩ đến người đàn ông làm việc quá chăm chỉ và hy sinh quá nhiều để tạo ra và giải cứu thế giới này.

      Ký ức về ông sinh động.

      Abraham dáng cao ráo mảnh mai đứng trong gian phòng tối đỉnh tháp pha lê, ngọn Tor Ri. Đứng chìm vào vùng tối, người ngoảnh hướng khác vì thế bà nhìn thấy Quá trình Biến đổi gần như hoàn tất kia lấy da thịt ông, biến toàn bộ thành vàng. Bà nhớ mình xoay người ông ra ánh sáng để có thể nhìn vì biết có thể đây chính là lần cuối cùng. Sau đó bà ôm chầm lấy ông, áp lớp da thịt lẫn kim loại của ông vào da bà, và khóc ròng vai ông. Khi bà nhìn vào mặt ông, giọt nước mắt duy nhất, giọt vàng ròng, lăn xuống má ông. Nhón chân, bà hôn giọt nước mắt ấy, nuốt vào. Tsagaglalal ấn bàn tay nơi dạ dày. Giọt nước mắt ấy vẫn còn náu mình trong người bà.

      Bà Canh Giữ từng mặc bộ giáp trắng này vào ngày cuối cùng của Danu Talis. Nay đến lúc mặc lại bộ giáp này lần nữa.




      CHƯƠNG MƯỜI


      Chiều dần buông, sương mù trườn vào San Francisco.

      Vài búi sương xoắn trôi vào rồi giạt ra vịnh. Chúng cuộn mặt nước như những sợi hơi nước, sau đó biến mất ngay. Vài phút sau sương mù lại xuất trở lại, từng dải sương hơi trong trong màu trắng xám rập rờn băng qua làn nước.

      Sương mù dày đặc.

      hồi còi báo hiệu cho tàu bè trong sương mù rống vang.

      đám mây mờ đục tụ tập bên vùng biển Thái Bình Dương, mặt đáy tối sẫm - gần như đen - thấy lao nhanh về phía đất liền như bức tường hoàn toàn bằng sương mù. Màn sương bình lưu dày đặc sôi sùng sục nặt đất, chảy tràn xuống cầu cổng Vàng, rồi nở ra nuốt chửng lấy cây cầu, vươn cao hơn cao hơn nữa, cho tới khi ánh sáng màu hổ phách dọc theo mấy ngọn tháp nhạt thành những điểm màu xíu. Những ngọn đèn hiệu đo đỏ nhấp nháy đỉnh tháp, cao gần hai trăm ba chục mét so với mặt nước biển, thắp sáng màn sương bằng những đốm loa lóa đỏ như màu máu, nhưng ánh sáng ấy quá nhạt trở thành những đốm đùng đục. Và khi màn sương liền lạc lại những đốm sáng kia hoàn toàn biến mất.

      Đèn nhà và đèn đường tỏa sáng. Chỉ trong chốc lát, ánh đèn màu đỏ màu trắng của những chiếc xe hơi rọi sáng màn sương và các tòa cao ốc có vẻ như rộn ràng bừng sáng. Màn sương ấy tiếp tục lan ra và tối thẫm lại, làm mờ đục những ngọn đèn kia, che phủ, cướp hết vẻ rực rỡ của chúng. Chưa tới ba mươi phút - từ lúc những búi sương đầu tiên uốn éo giăng ngang qua vịnh đến lúc đám sương mù thể xuyên thủng xuất - tầm nhìn từ gần mười mét rơi xuống còn chưa đầy mét.

      thanh nghe như nghèn nghẹn, và từ từ, toàn bộ thành phố chìm vào im lặng. Chỉ còn lại tiếng rền rĩ của hồi còi báo hiệu cho tàu bè trong sương mù, và đó thanh khổ sầu, độc.

      Màn sương có mùi biển, có mùi muối mà nhuốm đầy mùi hôi thối của thứ gì đó chết và tàn rửa lâu ngày.




      CHƯƠNG MƯỜI


      Sophie kêu thét.

      người đàn ông da sẫm to bè chắc nịch mặc áo chùng trắng từ trong con hẻm lao ra, túm lấy tóc, kéo bé giật ngược ra sau, gần như ngã ngửa. Đòn Tae Kwan Do của Sophie phát huy tác dụng. bé chụp lấy bàn tay đó, ghì chặt, khóa cứng vào chỗ, rồi chuyển trọng tâm, xoay người chín mươi độ, và đá tung cẳng chân phải thành đòn yeop chagi - cú đá bổng bên hông. Gót chiếc giày bốt chạy bộ nặng trịch đá trúng tên tấn công vào ngay xương bánh chè bằng lực tàn sát.

      Hai con mắt tên kia lồi ra, miệng há ra ngậm lại, để lộ hàm răng xấu ghê gớm, nhưng gã chưa kịp lấy hơi để thét Josh phóng vào, đấm cú trời giáng bằng bốn khớp ngón tay. Cậu giáng ngay giữa thân mình gã đàn ông, và khi gã gập người xuống phía trước, cậu liền nện nắm đấm như búa bổ vào ngay sau ót, khiến gã gục rũ xuống đất.

      "Được rồi, ấn tượng nhỉ," Virginia Dare thầm. "Tôi bảo đảm hai cậu khỏi cần tôi bảo vệ."

      Josh nhìn Sophie. "Chị có sao ?"

      Cẩn thận, bé rà bàn tay run run lên đỉnh đầu, chỗ tóc bị giật. Mấy sợi tóc vàng hoe rơi khỏi ngón tay bé. "Có vẻ như những năm tập luyện võ thuật hoàn toàn uổng phí nhỉ." bé mỉm cười e ngại. "Cám ơn em vì ... ừm, em biết đó, cứu chị."

      Josh xua tay. " cần thế đâu. Cú đá này đủ, nhưng em để bất cứ ai đặt ngón tay lên bà chị của em hết."

      "Cám ơn nhé," lần nữa.

      " bảo em bảo vệ chị mà," cậu , hai má ửng hồng.

      "Ừ, em thế. Nhưng lần cuối cùng chị nhìn thấy em...

      Màu má hồng tối sầm, cậu nhún vai khó chịu. "Em biết rồi." Lần cuối cùng cậu nhìn thấy chị mình, cậu quan sát thấy bé tấn công Coatlicue xinh đẹp rất dã man. Cậu quay người bỏ chạy khỏi cách kinh sợ. Cậu lắc đầu. "Em vẫn biết phải suy nghĩ..."

      Sophie thở ra hơi dài. "Chị hiểu. Chị cũng biết nữa."

      "Nhưng ở đây - tại nơi này - chỉ có chị với em thôi, bà chị ạ."

      "Lúc nào mà chẳng chỉ có chị với em," bé nhắc. "Ngay cả khi lớn lên Trái Đất... hồi ở nhà... bất cứ đâu cũng vậy, luôn luôn chỉ có hai chị em mình chống lại thế giới."

      "Em biết." Rồi đột nhiên Josh toét miệng cười, nụ cười nhắc Sophie nhớ đến cậu em lâu nay bé từng biết. "Và bây giờ chính miệng chị hai chị em mình chống lại thế giới đấy nhé."

      bé gật đầu. "Rất mừng khi gặp lại em, Josh."

      "Em cũng thấy vậy khi gặp chị," cậu .

      "Chị rất lo lắng cho em."

      "Mọi thứ ..." Cậu dừng lại chút, tìm từ thích hợp.

      "Điên khùng hả?" Sophie gợi ý.

      Cậu gật đầu. "Tuy nhiên, phải có từ hay hơn cơ. Điên khùng vẫn chưa sát ý lắm."

      "Hết thảy chuyện này đều mủi lòng ghê nhỉ," Virginia . "Nhưng tôi có thể đề nghị chúng ta chuyện này sau được ?" Ả lấy mũi giày bốt thúc vào người đàn ông nằm sóng soài. rên rỉ. " ràng những kẻ này phải là người hâm mộ cha mẹ cậu. Và chàng đáng tiếc này chắc chắn là có bạn bè."

      Sophie nhìn cậu em trai. "Họ có phải là ba mẹ của tụi mình ?" bé hỏi.

      "Em biết. Họ trông giống như ba mẹ nhưng..."

      bé gật đầu. "Nhưng họ phải là ba mẹ mình."

      "Vậy họ là ai?" cậu em trai hỏi.

      Sophie lắc đầu. "Chị nghĩ câu hỏi quan trọng bây giờ phải là: tụi mình là ai?"

      " như Osiris : rồi được xem thấy phần còn lại," Josh .




      CHƯƠNG MƯỜI HAI


      Virginia Dare và cặp song sinh hối hả băng qua đường phố Danu Talis. Bên ngoài quần áo là những tấm áo chùng trắng chôm chỉa từ những hàng dây phơi, đầu giấu dưới những chiếc mũ rơm hình chóp nẫng được từ quầy hàng trong khu chợ. Họ cứ lần theo những con hẻm và đường phụ mà , di chuyển từ từ về phía đỉnh nhọn có cờ hiệu bay phấp phới.

      "Chị biết ," Josh , "được cho là thành phố quyền lực và đẹp đẽ nhất thế giới mà ở đây sao trông cứ tồi tàn thế nào ấy."

      Sophie gật đầu. "Tuy rằng khi bay bên , trông nó đáng kinh ngạc."

      "Khoảng cách làm cho mọi thứ xinh đẹp ra," Virginia thầm. Ả dừng lại nơi đầu hẻm chật hẹp, nhìn chằm chặp lên các mái nhà, cố định hướng, căng mắt tìm lá cờ đỉnh các tòa nhà.

      Sophie ngoái nhìn ngược xuống con hẻm để xem họ có bị theo dõi . Chuyển động duy nhất là con chógầy nhom như que củi đứng nép sát vào đống rác. Nó kéo ra thứ gì đó có lẽ từng là khúc thịt và ngước nhìn bé, đôi mắt nhấp nháy đỏ rực trong vùng tối u ám, rồi quay người lỉnh mất.

      Kể từ lúc rời khỏi khu chợ, họ chạy qua hơn cả chục con hẻm giống hệt nhau để đến được con hẻm họ đứng. Hai bên là hai bức tường có gì đặc biệt, làm cho con hẻm chật hẹp và tối tăm, rải rác trái cây thối và vo ve bầy ruồi. Sophie nhận ra con chuột tai dài lon ton chạy trong rãnh nước và quan sát thấy nó biến mất vào cái lỗ khoét trong tường. Luôn luôn có chuột và ruồi, bé nghĩ thế. bé và Josh khắp thế giới cùng với ba mẹ, tham quan bất cứ nơi đâu Richard và Sara Newman làm việc. bé từng nhìn thấy những con hẻm như thế này ở Nam Phi và Trung Đông, ở Nam Âu và khắp châu Á - dù khác những chỗ đó, ở đây có giấy hay rác nhựa, có vụn gỗ hay những vỏ hộp bằng nhôm vứt .

      Sophie quay nhìn qua vai cậu em trai mình. tương phản đến giật mình. Đằng sau bé là bẩn thỉu và nghèo nàn; phía trước bé lại là huyền thoại Danu Talis giàu có và đầy pháp thuật. Con hẻm mở ra dẫn vào đại lộ rộng rãi có hàng cây hai bên. Phía bên kia con đường là dòng kênh nhìn thấy từ trời cao. Bên kia dòng kênh là những con phố có nhiều hàng cây và hàng hoa, ghép với những đài phun nước, điểm xuyến những bức tượng người, thú và các sinh vật phải người cũng phải thú. Các tòa nhà với nét trang trí công phu được sơn vàng và bạc nằm phía sau những bức tường đầu chĩa đầy que nhọn và những cánh cổng bằng đá. Mỗi tòa nhà là kiểu mẫu kiến trúc khác nhau, và bé bắt gặp thấp thoáng các kim tự tháp cắm cờ đỉnh và những khu nhà khối vuông có cửa sổ, những đường xoắn uốn vặn thanh tú và những vòng tròn bọc pha lê.

      "Nhận ra chúng ?" Josh hỏi.

      Có. Đột nhiên bé nhận ra rằng các tòa nhà này giống với những tàn tích bé từng tham quan với cha mẹ mình: nơi đây là bản sao của Ai Cập, hang động Chaco Canyon, Angkor Wat và Scotland.

      Cậu nhìn thấy công nhận ấy trong mắt bé. "Em nghĩ mấy công trình này là nguyên gốc. Con người sao chép lại thiết kế."

      "Tại sao hình thù lại khác nhau?" Sophie hỏi.

      "Các bộ tộc khác nhau chăng?" Josh gợi ý.

      "Khi các Elder có tuổi, họ Biến đổi," Virginia . "Đôi khi bằng những cách kỳ quặc và bất bình thường. Họ cần phải có những công trình kỳ quặc và bất bình thường để sống trong đó."

      vài tòa nhà được chạm khắc hoặc vẽ tranh tường; vài tòa nhà khác được phết lên lớp sơn hoặc treo cờ lớn cờ . Số ít - chủ yếu có hình dáng kim tự tháp đỉnh bằng - lại tô điểm gì.

      "Tôi nghĩ chúng ta ngắm nhìn phần đẹp hơn của thành phố," Virginia kèm theo nụ cười. "Và cũng như cộng đồng dân cư giàu có ở bất kỳ đâu, ở đây cũng đầy rẫy những cánh cổng và lính canh. Những thứ bao giờ thay đổi."

      "Lính canh à? Đâu?" Sophie hỏi.

      Josh chỉ tay. "Ngay bên trong mấy cánh cổng..."

      bé gật đầu, bất ngờ nhận ra. Có những chốt canh bên trong cổng của những tòa dinh thự và cung điện. Bên trong các nhà gác, nhiều hình dáng di chuyển trong vùng tối, khuất sau vầng mặt trời phồng to. "Tôi nghĩ bên kia cầu còn có nhiều nhà gác hơn,".

      "Tôi tin là thế," Virginia . "Và tôi có học thuyết." Ả bước ra khỏi đường hẻm, sải chân băng qua đại lộ trống tiến đến cây cầu gần nhất. "Chúng ta hãy thử nghiệm nhé."

      Cặp song sinh nhìn nhau rồi vội vã theo sau.

      " học thuyết ư?" Josh hỏi.

      " ràng là Danu Talis này giống hệt như mọi nền văn minh khác mà tôi từng tiếp xúc." Đôi môi mỏng của người bất tử méo xệch khi đến nền văn minh, như thể ả thấy từ ngữ đó rất ghê tởm vậy.

      chuyển động nhộn nhịp bất ngờ trong những căn chòi hẹp ở phía bên kia cầu, và những hình thù xuất . Ánh mặt trời lấp lóa mặt kim loại.

      "Tôi đúng thấy chưa," Sophie . "Nhà gác."

      "Với lính canh," Josh hớn hở thêm.

      "Tôi sinh ra trong thời kỳ đơn giản," Virginia tiếp. "Tôi chạy chơi tự do trong rừng, sống cạnh thiên nhiên, săn giết chi khi cần thiết, chia sẻ những gì mình có với những cư dân khác trong rừng. Tôi có tiền bạc, vật sở hữu duy nhất của tôi là tấm vải khoác lưng. Tôi sống đọt cây và trong hang động. Vậy mà tôi hạnh phúc, thực hạnh phúc. Tôi mong muốn gì hết. Và rồi tôi đến với nền văn minh này." Người bất tử thả bộ dọc theo ven bờ kênh uốn cong dẫn về phía cây cầu. Các lính gác theo dõi ả băng qua mặt nước trong như thủy tinh; những tên khác tụ tập nơi cầu, và lúc này thấy ràng đó phải là người. Tất cả có đầu chó rừng và quần áo là bộ giáp đen gần như trong suốt. Khi nhìn qua con kênh, mắt chúng toàn màu đỏ như máu.

      "Anpu," Sophie thào.

      Virginia dừng lại nơi rìa cầu. "Và nền văn minh ấy cho tôi bài học gì nào?" ả tiếp. "Tôi học được rằng nó cai trị bằng cách tạo ra giai cấp và phân rẽ dân chúng, bằng cách khiến số này tốt hơn số khác."

      "Chẳng phải luôn là thế sao?" Josh hỏi. "Mọi nền văn minh đều bị phân chia..."

      " phải mọi nền văn minh," Virginia gắt. "Chỉ những cái gọi là nền văn minh tiên tiến thôi." Ả bước lên cầu và bọn anpu đứng sẵn vào vị trí ở đầu cầu bên kia.

      con lớn hơn các con còn lại, mặc bộ giáp đen sáng bóng như gương. bước tới trước, chìa bàn tay phải ra. Phải mất lúc ba người mới nhận ra rằng sinh vật ấy ra phải đeo găng tay kim loại. Bàn tay được thay thế bằng tác phẩm bằng kim loại và những chiếc bánh răng. chiếc kopesh lỏng lẻo nơi bàn tay phải của .

      "Còn ở đây chúng ta có nền văn minh vĩ đại này của Danu Talis," Virginia cay đắng tiếp, "được cai trị bởi tập hợp các Elder và Elder vĩ đại bất tử và chúng ta tìm thấy gì nào?" chờ câu trả lời, ả tiếp. "Chúng ta chẳng tìm thấy gì khác. Người nghèo sống bên kia những kênh rạch vòng ngoài, kẻ giàu sống an toàn bên trong những đường tròn nội bộ, được bảo vệ bởi những cây cầu có bọn quỷ sứ đầu chó canh gác. Người nghèo thậm chí còn được thả bộ những đường phố này. Tôi đoán hẳn chúng phải được lát bằng vàng cơ đấy."

      "Quả , tôi nghĩ là thế," Josh thầm. Những phiến đá lát đường và vỉa hè phía bên kia con kênh chiếu mờ mờ thứ ánh sáng như vàng chảy.

      Virginia Dare phớt lờ cậu. Ả xuống giữa cầu và hết thảy mọi tên lính gác đều rút ra sẵn những thanh kiếm cong cong. "Có chút ngạc nhiên nào khi thế giới mà chúng ta sống chỉ là mớ hỗn độn như thế ?" Ả giang rộng cánh tay. "Nó đến từ những thứ này đây. Giống người bắt chước nơi này để làm các tòa nhà của họ. Thế giới con người bị kết án ngay từ khởi đầu rồi. Khi tôi có thế giới của mình để cai trị, mọi thứ rất khác, tôi hứa đấy."

      "Bọn chúng có kiếm, Virginia," Josh .

      "Có sao," ả nhàng trả lời.

      Bọn lính canh tràn xuống hai bên phải trái dọc theo bờ kênh, lao vào hỗ trợ những tên chiếm sẵn vị trí cầu.

      "Thế cậu cần bao nhiêu lính gác để bảo vệ những đường phố bằng vàng quý giá trước người phụ nữ và hai đứa trẻ tuổi thiếu niên nào?" Virginia hỏi.

      Josh đếm nhanh trong đầu. "Ba mươi."

      "Ba mươi hai." Sophie .

      Virginia đến điểm giữa cầu. Bọn anpu dàn ra, tất cả đều rút vũ khí. Mõm há hoác, để lộ hàm răng lởm chởm, khiến trông như thể các sinh vật ấy cười toe. Tên cầm đầu gõ nhè vào thanh kopesh bằng móng vuốt kim loại của . thanh vang lên như tiếng chuông.

      Virginia tiếp tục hiên ngang bước thẳng tới. "Và cậu có biết tôi coi khinh cái gì nhất ?" ả cáu kỉnh. "Lũ bắt nạt. Đặc biệt là những tên bắt nạt tưởng thanh kiếm màu mè và bộ áo giáp làm cho chúng trở nên thể tổn thương." Lần tay xuống dưới tấm áo choàng trắng lùng nhùng, Virginia nhấc ống sáo ra khỏi lưng. Ả lắc lắc cho nó tuột khỏi bao vải và ấn vào môi mình.

      Ả thổi nốt nhạc duy nhất. thanh bắt đầu cất lên và trỗi cao cho tới khi ngay cả Sophie và Josh với thính giác được nâng cao vẫn thể nhận ra được nữa. Tác động bọn anpu xảy ra tức . Chúng cứng đờ người, nhảy dựng lên như bị giật dây, cánh tay giang rộng hai bên, ngón tay bung xòe. Từng thanh kopesh rơi loảng xoảng xuống mặt đá.

      Mấy ngón tay thanh tao của Virginia cử động uyển chuyển ngang qua chiếc ống sáo và bọn anpu nhảy múa tưng bừng. Các sinh vật ấy đứng ngón chân, lắc lư qua trái qua phải, ngã đổ vào nhau, áo giáp khua xủng xoẻng, lanh canh. Người bất tử bật cười, thanh cao the thé, khó chịu, gần như cuồng loạn. "Tôi nghĩ mình có thể làm cho chúng nhảy ngay vào dòng kênh đấy."

      "Virginia," Sophie gắt. "Đừng!"

      "Đừng ư? Đó chính là việc tôi thường làm mà."

      " cần thiết," Sophie . "Giết bọn chúng cũng trở thành y hệt như chúng thôi. Mà đâu có giống chúng, phải nào?"

      " biết được tôi là ai đâu," Virginia thầm , nhưng lại nhấc ngón tay khỏi ống sáo.

      Bọn anpu ngã nhào như bị tấn công, đổ sầm cầu, tiếng áo giáp với kim loại va vào nhau loảng xoảng. Bàn tay kim loại của tên cầm đầu khổng lồ nạo kèn kẹt và co quắp mặt đá, rạch những đường rãnh sâu hoắm đá mềm, rồi đông cứng lại và rơi vào yên tĩnh.

      Virginia len lỏi băng qua bọn anpu ngã nằm lăn lóc, tránh đụng vào chúng. Sophie và Josh làm theo ả. Nhìn gần, bọn sinh vật ấy kinh khủng. Thân hình đen nhánh là người, với đầy đủ cơ bắp, nhưng từ cổ trở lên, chúng có cái đầu chó rừng tai chĩa nhọn. Hai tay là tay người, nhưng phía đầu là những móng vuốt cong queo, còn bàn chân là chân chó. số có đuôi rậm uốn quăn ló ra từ phần lưng bộ giáp, phần lớn có những con bọ hung hoặc thứ gì đó trông giống vỏ ốc bám rịt vào lông.

      "Lối này, tôi tin là thế," Virginia vừa , vừa lấy ống sáo chỉ vào tòa nhà khổng lồ hình tròn, đỉnh cắm cây nhọn phấp phới lá cờ hiệu dài bên có hình con mắt đập phần phật như nhấp nháy. Tường ngoài cửa sổ được phủ bằng vàng, và được trang trí những chòm sao bằng đá quý. Tòa nhà được bảo vệ bởi đường hào hẹp chứa đầy chất lỏng sủi bọt màu xanh cỏ, hai bên cầu sắt là hai tên anpu bạch tạng lực lưỡng cầm hai ngọn giáo cao hơn thân mình.

      Virginia mỉm cười với hai sinh vật kia và xoay xoay chiếc ống sáo, để lại nốt nhạc nhè lơ lửng trong trung. Hai sinh vật liền thả rơi ngọn giáo, hạ cầu xuống rồi quay người co bốn chân chạy vào cái chuồng thấp dưới bụi cây. Lúc ả ngang qua, những con mắt đỏ màu máu nhìn người bất tử hết sức kinh sợ.

      "Được sợ còn hơn được ," Virginia khẽ khàng . "Tôi tin rằng chính Machiavelli thế đấy."




      CHƯƠNG MƯỜI BA


      "Trời đất, tôi bao giờ, tôi muốn bao giờ ăn thịt nữa đâu." Billy the Kid quay ngoắt dám nhìn cảnh Hel bị thương nhảy xổ vào xác con lợn đực khổng lồ.

      "Con người chẳng bao giờ được định nghĩa là loài ăn chay hết," Hel lúng búng, mặt và chân răng bà đen thui vì dính chất lỏng.

      "Bà có phải là người đâu." Billy , mặt vẫn quay chỗ khác.

      "Thứ này tốt cho tôi. Nó phục hồi luồng điện của tôi. giúp chữa lành tôi." Có tiếng gãy đánh tách cái như củi gãy, tiếp theo sau là tiếng hút rột rột.

      Billy ngước nhìn lên Machiavelli. "Ông làm gì cũng được, nhưng bây giờ đừng với tôi bà ấy làm gì nhé."

      Tay bất tử người Ý lắc đầu. "Bà ấy có thèm ăn của người khỏe mạnh, tôi đổi với bà ấy để được như thế," y , bồi thêm nụ cười toe ranh mãnh, "và tủy là thức ăn đặc biệt bổ dưỡng!"

      Billy tránh xa mùi hôi thối của con lợn bị xẻ thịt, hít vào từng ngụm lớn khí đêm lành lạnh. Màn sương dày bắt đầu cuồn cuộn trôi qua nhà tù như khói, và nhiệt độ rơi xuống rất nhanh.

      "Tôi nghĩ lại dễ kinh tởm đến thế," Machiavelli vừa , vừa sải bước cùng bạn. "Tôi tưởng hùng người Mỹ vĩ đại, sợ hãi, dũng cảm lắm chứ."

      Billy trợn mắt. "Ông xem quá nhiều phim kể về tôi rồi. Những bộ phim ấy luôn tạo cảm giác rằng chắc tôi nhận được nhiều đặc quyền đặc lợi lắm. Có vẻ công bằng khi họ sử dụng tên tôi mà trả tôi đồng nào."

      "Billy, được cho là chết rồi kia mà."

      "Biết là thế." thứ chất lỏng gì đó nổ bốp đằng sau, nhảy dựng và bụm chặt hai tay lên miệng mình. "Tôi dễ kinh tởm." Từng lời của Billy phun vào khí như khói. "Tôi từng săn trâu, mổ chia phần bò đực non, và giết gà, heo đãi tiệc. Tôi từng bắt cá và moi ruột. Nhưng tôi thích nấu chín thịt trước khi ăn!" Gã ta ngoái người liếc vào chỗ Hel nằm bậc thang dẫn ra sân tập thể dục thưởng thức xác con Hus Krommyon. Odin ngồi bên cạnh, đút cho bà những miếng ngon.

      Mars Ultor chiếm vị trí nơi ngưỡng cửa bị đổ, xua đuổi bất kỳ sinh vật nào đến quá gần. Từ trong nhà tù có thứ gì đó chưa bao giờ là người khúc khích cười bằng giọng của đứa con .

      Hel thấy Billy nhìn, nụ cười của bà đáng sợ. Bà đưa cho gã cái gì đó ướt lấp lánh. "Tôi để dành cái này cho . ưu ái đặc biệt đấy," bà ngọng nghịu.

      "Tôi xin phép từ chối. Cám ơn. Tôi ăn trước khi ra ngoài. Ngoài ra, tôi ăn kiêng. Tôi là người ăn chay mà. Thậm chí còn là người ăn chay chặt chẽ nữa là khác."

      Machiavelli chụp lấy cánh tay Billy, đẩy gã vào giữa sân thể dục. Y chỉ vào những đường kẻ phiến đá lát. " có ngửi thấy ?" y hỏi.

      "Ý ông là ngoài thứ bị xẻ -"

      "Tập trung , Billy."

      chàng bất tử người Mỹ hít vào. " khí đượm muối..."

      "Nữa."

      "Cam, vanilla, lưu huỳnh, và..." Gã hít thêm hơi sâu nữa. "Và cây xô thơm. Đó là của tôi đấy, Virginia," gã thêm.

      "Lưu huỳnh là Dee." Machiavelli lấy mũi giày bốt trầy xước lần theo nét phác của hình chữ nhật. "Và cặp song sinh huyền thoại cũng ở đây."

      "Bây giờ bọn họ ở đâu nhỉ?"

      " mất rồi."

      " mất ư?"

      "Tôi tin Dee kích hoạt bốn Thanh kiếm Quyền lực cổ xưa, tạo nên cổng tuyến để ngược thời gian."

      "Ngược bao xa?" Billy ngạc nhiên thốt ra.

      "Cỡ nào cũng được," tay người Ý dứt khoát. "Nếu là tay cờ bạc, điều mà bây giờ còn nữa, tôi ngược về đến Danu Talis."

      Billy khoanh hai tay ôm sát người và rùng mình. "Tôi nghĩ như thế hay chút nào."

      Machiavelli lắc đầu. ". Chắc chắn kế hoạch lớn nào đó để tiếp quản Danu Talis và thống trị thế giới này. Tay tiến sĩ ấy luôn theo đuổi những mưu đồ điên rồ kiểu đó. luôn chơi bằng luật lệ riêng của ."

      "Tôi hình dung được."

      "Và thường là sai. Dee có ấn tượng quá thổi phồng về tầm quan trọng của bản thân. Tay tiến sĩ ấy thông minh, nhưng sống sót được nhờ xảo quyệt hơn là tài giỏi. Mà lại luôn gặp may."

      "Ông thể lúc nào cũng gặp may được," Billy . "Sớm hay muộn may mắn của ông cũng hết." Gã ta chĩa ngón tay cái ra phía sau, về phía nhà tù chứa đầy lũ quỷ sứ. "Có lẽ may mắn của chúng ta còn. Chúng ta bị mắc bẫy hòn đảo chứa đầy lũ quỷ sứ và" - gã hạ giọng, hất đầu về phía Hel và Odin - "cho tới vài giờ trước, họ chính là kẻ thù của chúng ta."

      "Kẻ thù của kẻ thù tôi là bạn tôi kia mà," Machiavelli nhắc nhở gã.

      "Đúng, và kẻ thù của kẻ thù tôi vẫn có thể là kẻ thù tôi. Mà tôi nên nhắc nhớ rằng phần lớn người ta bị giết chết bởi những người họ quen biết. Tôi học được điều đó bằng xương máu đấy - tôi với Pat Garrett là chỗ quen biết."

      Tay người Ý đặt tay lên vai Billy và nhìn vào mắt gã. Làn sương khuấy đục ngầu màu như sữa biến đôi mắt xám kia thành thạch cao tuyết hoa, làm cho y trông như mù. "Liệu chúng ta có đưa ra quyết định đúng đắn khi cố ngăn ngừa Dee đừng phóng thích lũ quỷ sứ lên thành phố?" y hỏi gặng.

      "Chắc chắn rồi," Billy chút chần chừ.

      "Chúng ta có quyết định đúng đắn khi hỗ trợ và chiến đấu cùng các Elder này chống lại bọn quỷ sứ?"

      "Đúng, chút nghi ngờ," Billy lại lần nữa.

      "Xét thử xem." Machiavelli mỉm cười. "Chuyện gì xảy ra nếu và tôi chọn đứng về phía Dee và lũ quỷ sứ này?"

      Vẻ mặt Billy thẫn thờ. " tôi cũng biết nữa."

      "Dee và Dare biến mất, và chắc hẳn chúng ta bị bỏ lại hòn đảo này để đương đầu với Mars, Odin, và Hel. Trong khi ông có thể là người giỏi chiến đấu, Billy, nhưng tôi . Ông nghĩ chống lại bất kỳ ai trong ba người đó chúng ta sống sót được bao lâu?"

      "Đúng, tôi nghĩ mình có thể chọn chàng độc nhãn..."

      Machiavelli thở ra. " chàng độc nhãn là Odin."

      Billy thừ người nhìn y.

      "Chắc hẳn từ đến lớn từng có con chó chứ?" tay người Ý hỏi.

      "Chắc thế."

      " gọi nó là gì?"

      "Kid."

      " gọi con chó của mình là Kid à?"

      Billy cười nhe răng. "Đó là trước khi tôi có tên hiệu của mình cơ."

      Machiavelli gật đầu. "Odin - chàng độc nhãn - có hai con chó sói. Geri và Freki đấy."

      "Những cái tên hay nhỉ. Mạnh mẽ nữa."

      "Các từ ngữ hàm nghĩa 'phàm ăn' và 'tham tàn' - tên của chúng là những mô tả hoàn hảo cho hai cái tên ấy. Chúng to lớn như con lừa . Ông ta dắt chúng dạo chỉ với sợi dây xích chó."

      Billy quay nhìn vào người đàn ông có miếng vá băng ngang con mắt phải. "Ông ta mất con mắt trong trận chiến hả?"

      Machiavelli lắc đầu. " đâu. Ông ta tự móc ra đấy. Dùng nó để trả cho nhân vật khổng lồ. còn nghĩ mình có thể chọn ông ấy nữa ?"

      "Có lẽ ."

      Tay người Ý hất cằm về phía ngưỡng cửa. " nghĩ mình có thể cầm cự chiến binh tối thượng Mars Ultor trong bao lâu?"

      Billy mở bẹt bàn tay phải, lòng bàn tay hướng xuống, lắc từ bên này sang bên kia.

      "Hoặc là Hel, người cai trị vương quốc kẻ chết?"

      " lâu," Billy thừa nhận.

      " lâu," Machiavelli nhất trí. Y chồm tới, áp miệng mình sát vào tai chàng người Mỹ. "Hãy nhớ, Hel chẳng cầu kỳ gì về loại thịt mình ăn."

      Billy nuốt xuống khó khăn. Mắt gã lung linh hướng về phần còn sót lại của con lợn.

      "Thứ đó dễ dàng chính là đấy," Machiavelli .

      "Ông thích kể cho tôi nghe mọi thứ vớ vẩn ấy, đúng ?"

      "Liên quan đến giáo dục thôi."

      "Vậy được thôi, nhà giáo dục, bậc thầy chiến lược ạ. Hãy cho tôi nghe xem chúng ta rời hòn đảo này bằng cách nào ."

      Machiavelli dợm lắc đầu lần nữa, đột ngột làn sương biến đổi, xoắn vặn giữa hai người như bị cơn gió mạnh thổi đến. Nhưng đâu có chút gió nào trong khoảng sân nhà tù này. Từng giọt nước lơ lửng . Chúng kết lại với nhau, đổ vào nhau để hình thành nên những giọt hơi ẩm lớn hơn.

      Và bất thình lình đường viền mang hình dáng cái đầu thành hình giữa trung.

      khuôn mặt xuất : dài, hẹp, và từng rất điển trai. Có hai cái hốc nơi trước đây từng là đôi mắt, cái nữa nơi vị trí miệng. Sau đó sương mù đặc lại, những giọt nước màu trắng trở thành mái tóc, gương mặt định hình và liền lạc. Dấu vết y phục xuất : chiếc áo sơ mi bằng vải lanh trắng thùng thình nhét vào quần dài ngang đầu gối. Hai cẳng chân biến mất ngay dưới gối, và thấy được bàn chân.

      "Ma...," Billy kêu quác quác.

      Miệng con ma cử động, mở ra ngậm vào, rồi nghe được cả tiếng . Đó là chuỗi, loạt những bong bóng nước bắn tóe. "Tôi là Juan Manuel de Ayala. Tôi khám phá ra Alcatraz."

      "Vinh dự được gặp ông." Machiavelli cúi chào và lấy bàn chân đẩy Billy.

      Billy gật đầu nhanh nhảu. " vinh dự. Chắc chắn rồi ạ."

      "Các người chiến đấu với Nữ Phù thủy, Perenelle Flamel hả?" con ma hỏi.

      "Chúng tôi chiến đấu với kẻ thù chung mà," Machiavelli thận trọng .

      "Vậy chúng ta cùng phe rồi," con ma . "Hãy theo tôi."

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG MƯỜI BỐN


      Prometheus giơ bàn tay mang găng kim loại. "Khoan . Chúng ta chỉ mới sắp lên đến đỉnh thôi."

      Chiếc vimana Rukma tàn phế treo lưng chừng chút. Bất chợt tròng trành. Đồng loạt, tất cả mọi màn hình tối thui đều lắc rắc vỡ tan, những đường ray kim loại dưới sàn bung ra, đinh ốc và bu lông văng bật khỏi vách, và chút lửa xíu bắt cháy trong các bảng điều khiển dưới chân Prometheus. Ông ta đưa chân giậm tắt.

      "Vậy bây giờ chúng ta rớt xuống hả?"

      Chiếc vimana Rukma lao xuống. William Shakespeare biến tiếng thét the thé đến ngạc nhiên thành tràng ho.

      Hiệp sĩ Saracen da nâu nhoài người vỗ vào cánh tay ông ta. "Tôi bảo đảm người viết quá nhiều về cái chết chắc hẳn phải nghĩ nhiều về nó lắm nhỉ. Ông từng viết về hấp hối mà, Will," Palamedes .

      "Nhiều," Shakespeare , giọng đứt quãng. "Nhưng đâu có viết nhiều về tình huống rơi, ngã nhào, và đổ ầm vào quả banh lửa thế này."

      "Tôi nghi ngờ chẳng biết có lửa hay ," Prometheus .

      "Thế càng dễ chịu. Chỉ có rơi, ngã nhào, và đổ ầm chút thôi."

      Joan Arc chồm tới trước. "Tôi luôn thích câu ông viết Vì trong giấc ngủ nơi cõi chết ấy, những gì là giấc mơ ùa đến... Rất thơ mộng. Thế mới đúng là tính đa cảm của người Pháp. Tôi từng ngạc nhiên là câu ấy được viết bởi người ," thêm kèm theo nụ cười mím chi .

      "Hamlet," Will vừa , vừa cười yếu xìu. " trong những tác phẩm ưa thích của tôi."

      Palamedes cười toe, hàm răng trắng tương phản với gương mặt sậm màu. "Nhưng còn câu này sao: Ôi, tiêu diệt, phá hủy và suy tàn; tồi tệ nhất là cái chết, cái chết chiếm lấy cuộc đời ."

      "Lời từ miệng Rỉchard đệ nhị đấy," Shakespeare . "Hy vọng ngẫm nghĩ về câu ấy. câu hay, mặc dù chính tôi viết ra."

      Saint-Germain bắt tréo chân. "Tôi phải thừa nhận mình luôn là phần của King John: Thần chết ơi, thần chết; Ôi thần chết mới dễ thương làm sao, đáng làm sao!... Hãy đến, nhe răng ra với ta, và ta nghĩ là ngươi cười." Ông liếc qua vợ mình. " tính chất rất Pháp nữa, em có nghĩ thế ?"

      " Rất đa cảm. Will, chắc hẳn ông phải có máu Pháp đâu đó trong người," nhất định.

      Đại Thi hào chắp tay đặt trong lòng, gật đầu lịch . Như hầu hết các nhà văn, ông rất thích về tác phẩm của minh, và có thể thấy ông phấn khởi với chủ đề này. "Đúng, tôi sống với gia đình người Pháp theo đạo Tin Lành ở Cripplegate tại London thời gian."

      " người Pháp có thế lực. Tôi biết thông tin đó!" Joan vừa , vừa vỗ tay.

      "Hết thảy mọi người xong những lời trích dẫn về cái chết chưa?" Scathach gắt.

      "Ồ, tôi còn có nhiều hơn," Shakespeare đề nghị.

      "Đủ rồi!" Scathach nhắm mắt, hít thở sâu. Có lần người ta bảo chết tại nơi xa lạ, và đoán đâu xa lạ hơn trong chiếc vimana bên hòn đảo huyền thoại Danu Talis.

      Cái chết khiến sợ hãi - trải qua trọn cả đời mình trong vai trò là chiến binh. Luôn luôn có khả năng dẫn đến cái chết, và qua nhiều thiên niên kỷ, tiến đến rất sát ít hơn lần đâu. chỉ có hối tiếc duy nhất đó là được gặp lại chị mình nữa. Aoife hy sinh sống để kìm giữ Coatlicue đáng khiếp sợ cách xa khỏi Vương quốc Bóng tối này và xa khỏi Scathach. Bây giờ Aoife bị nhốt trong thế giới ánh sáng của Coatlicue, bị kết án phải chịu đựng vĩnh viễn trừ phi được ai đó giải cứu. Song ai giải cứu ấv kia chứ? Ai dại dột liều lĩnh - hay là dũng cảm - đủ để mạo hiểm vào địa hạt của Coatlicue? Scathach thề giải cứu chị mình, và lúc này có vẻ như thể giữ lời hứa đó được nữa rồi.

      "Cậu, dường như cậu quá quan tâm đến cái chết sắp đến của chúng ta nhỉ?" với Prometheus.

      " , đây là lần cuối cùng, tôi phải là cậu của ." Elder tóc đỏ cáu kỉnh.

      "Chưa đấy thôi." Bóng tối gắt trả lại. "Nhưng vào thời thứ trăm, ông thế. Bây giờ, chúng ta sắp đâm sầm xuống và chết có phải ?"

      "Đâm sầm đúng. Chết có thể. Còn tùy thuộc vào các tính toán của tôi có đúng ."

      Scathach bật ra khỏi chỗ ngồi, loạng quạng đụng vào lổ cửa sổ nứt gãy.

      Họ lao thẳng xuống khu rừng. Scathach lắc đầu. Điều đó thể được. Họ lên rất cao, và chưa rơi nhanh đủ hoặc lâu đủ. Làm thế nào lại có những cây gần đến thế được?

      Đột nhiên nhận ra phải là đám cây. cái cây, chỉ thôi. Họ rơi vào bên sườn của cái cây duy nhất.

      Scathach nhào qua buồng lái, bật nảy tưng khỏi vách, săm soi nhìn qua hết lỗ cửa sổ này đến lỗ cửa sổ khác. Cái cây sao mà đồ sộ. Khổng lồ và uốn éo, nó lùm lùm trước mặt họ như bức tường màu xanh to lớn hết sức. nghển cổ, nhìn lên nhìn xuống. Cành cây biến mất vào tán rừng xa tít bên dưới, và chóp cây cao vút lên chín tầng mây, vươn mãi vào chín tầng trời. chỉ nhìn vào phần xíu của nó thôi, nhưng phần đó to lớn khổng lồ.

      "Yggdrasill", rất khẽ.

      "Cây Duy Nhất", Prometheus xác nhận.

      "Cây Yggdrasill nguyên thủy của Danu Talis", Scathach đầy vẻ kính nể.

      "Cây nguyên thủy ư? Đây là cây duy nhất trong chủng loại của nó mà."

      Scathach há miệng định trả lời nhưng ngậm lại, nữa. Trước đây từng nhìn thấy Yggdrasill. Nhưng thân cây gặp trong Vương quốc Bóng tối tiếp giáp với Mill Valley, dù có to lớn đồ sộ vẫn rất bé bỏng so với cây này. Sau đó Dee phá hủy mất rồi.

      " nên ngồi xuống", Prometheus ra lệnh. "Ngay !"

      Bóng tối thả mình trở lại ghế, nắm vào tay tựa bị hư. Mọi người có thể nhìn thấy thân cây tiến đến gần. Ánh sáng lọc qua lỗ cửa sổ của chiếc vimana Rukma tối và có màu xanh lục, trông như con tàu rớt xuống khu rừng, nhưng ra họ hạ xuống theo góc xiên bên hông thân cây Yggdrasill.

      " ngồi chắc lại!" Prometheus la lớn khi những cành cây bắt đầu nạo kèn kẹt và xé dọc bên hông con tàu.

      Rồi họ đụng vào cành to tướng của Cây Thế giới.

      Chiếc vimana chẻ làm hai.

      Tiếng răng rắc khổng lồ xé toạc con tàu, nửa thân trước có Prometheus và Scathach bị hất ra phía trước và an toàn đáp xuống mạng lưới gồm những dây leo dày cộp và những nhánh to đồ sộ. Lá rơi như mưa xuống đầu họ. Nửa thân sau của con tàu, có Joan, Saint-Germain, Will và Palamedes mắc vào loạt nhánh cây, uốn cong vì sức nặng, rồi gãy lìa, thả con tàu lên nhánh cây có kích thước bằng cả con phố cách bên dưới sáu mét. Con tàu chao đảo ở đó lúc; sau đó nhánh cây kẽo kẹt trĩu xuống. tiếng răng rắc thứ hai hất các mảnh vụn lên. Phía dưới cành cây chẳng có gì ngoài cú rơi vô tận vào lớp mây xa bên dưới.

      Scathach bò ra khỏi con tàu, túm lấy đoạn dây leo và nhanh chóng biến nó thành sợi thừng dài. Cột dây thừng quanh nhánh cây mình nằm lên, hạ nó xuống tới thân con tàu bên dưới.

      Prometheus dùng răng giật phắt đôi găng tay kim loại ra, quấn đoạn dây leo thứ hai quanh thắt lưng mình, thả xuống tới nửa sau của con tàu nằm ngay phía dưới, gần như đúng vào hai tay của Hiệp sĩ Saracen.

      "Nhanh , nhanh !" Scathach gào lên. có thể nhìn thấy rằng cành cây mà chiếc vimana mắc đó sắp gãy tách ra mất.

      Bị bầm tím và chảy máu vì nhát cắt trán, Saint- Germain nhấc Joan nằm bất tỉnh ra khỏi chỗ ngồi của và hất lên vai mình. Nắm chặt sợi dây leo của Scathach trong tay, quấn nó quanh chân mình, ông ta nén hơi kéo mạnh lên phía , Scathach thọc chân vào, kéo lên, hàm răng nghiến chặt, cơ bắp căng tối đa.

      Palamedes nhấc Will Shakespeare run bần bật lên, giữ lấy ông lúc trong lúc quấn dây leo của Prometheus quanh người, cột thành gút dưới cánh tay mình. ngước nhìn lên Elder tóc đỏ, gật đầu. "Kéo mạnh ."

      Hai cánh tay lực lưỡng của Prometheus u phồng lên, ông bắt đầu kéo Shakespeare lên đến chỗ an toàn.

      Cành cây lại kêu kẽo kẹt lần nữa, rồi rắc tiếng. Gãy lìa.

      Palamedes nhảy lên, đúng ngay lúc cành cây đứt lìa khỏi thân cây, nắm giữ được bàn chân phải của Will và treo lủng lẳng, hơi lắc lư bên này bên kia.

      Prometheus càu nhàu kéo cơ căng thêm. Sợi dây leo trượt khỏi hai tay ông, xé rách thịt, y như nạo sống; rồi bắt đầu tuột ra. Elder kêu gào trong tuyệt vọng.

      "Will," Palamedes vừa , vừa nhìn lên. "Tôi phải thả"

      "!" mắt Đại Thi hào ngân ngấn nước. "Đừng, làm ơn..."

      "Will, nếu tôi thả, cả hai ta đều chết. Mà đâu cần phải thế."

      "Chờ ", Shakespeare thều thào. "Chờ ."

      "Tôi rất vinh dự có được tình bạn của chúng ta trải qua nhiều thế kỷ"

      "Đừng!"

      "Khi mọi việc này kết thúc, ông có thể nghĩ đến việc viết lách trở lại. Hãy viết cho tôi phần hay vào, hãy làm cho tôi bất tử. Tạm biệt, Will." Những ngón tay của Hiệp sĩ Saracen lỏng dần.

      Có tiếng rin rít, và bất thình lình vòng thòng lọng bằng dây leo quấn quanh ngực Palamedes đúng ngay khi buông tay. Bất ngờ, nào là dây nhợ, nào là dây leo rơi xuống như mưa, quấn quanh người Joan, Saint-Germain, Will, và Palamedes như tấm mạng nhện khổng lồ, chụp lấy, giữ chặt họ. Các sợi dây leo co rút, kéo họ lên tới nơi an toàn của nhánh cây to bè, ở đó họ được đặt xuống chút kiểu cách. Đám dây leo trượt ra, biến mất trở vào thân cây, để lại cả nhóm run rẩy nhưng vẫn còn sống.

      Hai dáng người xuất nơi đầu kia nhánh cây.

      "Bây giờ chúng ta gặp rắc rối rồi", Prometheus lẩm bẩm. "Bà ấy vui." Ông tập trung nhìn kỹ vào lòng bàn tay bị rách của mình, nhổ những vụn gỗ ra khỏi lớp thịt chắc.

      Dưới ánh sáng màu xanh lục, khó để nhận ra từng chi tiết, nhưng hình dáng to cao lực lưỡng, hoàn toàn che phủ trong lớp kính màu đen và bộ giáp kim loại, đôi mắt sáng xanh lơ lấp lánh dưới chiếc mũ bảo hiểm trang trí công phu. Dáng dấp thứ hai là phụ nữ trung niên nước da đen bóng và mái tóc trắng như băng buông rũ xuống vai. Bà ấy mặc chiếc áo choàng lung linh cứ mỗi bước lại nhấp nháy hai sắc vàng và xanh lục.

      Hiên ngang bước thẳng tới Prometheus, bà ta chống hai tay lên hông, giậm chân bực bội. "Ông lại đâm sầm vào cái cây của tôi, lại lần nữa."

      "Tôi rất tiếc, thưa quý bà. Chúng tôi vướng vào lắm rắc rối."

      "Ông làm hư hại cây của tôi. Muốn lành phải mất đến biết bao nhiêu thế hệ." Giọng bà ta hạ xuống thành tiếng thầm bí . "Lần này thậm chí ông còn làm gãy hết mấy cành. được như thế nữa đấy."

      "Tôi tạ lỗi. Với cả hào phóng của mình," ông thêm. "Tôi biếu tặng cho bộ rễ ạ."

      "Chuyện đó có thể đấy. Hãy tặng cho ra trò nhé. món gì tuyệt ấy. Bảo đảm phải có xương; nó thích xương mà." Người đàn bà đưa mắt nhìn quanh. "Vậy ra cuối cùng họ cũng ở đây cả rồi. lần nữa, Abraham đúng . Mặc dù ông ta đả động gì đến việc đâm sầm vào cái cây của tôi." Bà ta lom lom nhìn lần lượt từng người . "Họ trông như nhóm lắm tài xoay sở ấy nhỉ. Đặc biệt là người này." Bà chĩa ngón tay vào Scathach. Rồi bà chồm tới và hít hít. "Tôi quen biết phải ?"

      "Chưa ạ. Nhưng biết thôi."

      Người phụ nữ ngửi ngửi lần nữa. "Tôi biết mẹ ." Bà ta lại hít hít ngửi ngửi. "Và ông chẳng hay ho gì của ."

      Joan bước tới giữa hai người phụ nữ kia. "Prometheus, bộ ông quên cách cư xử của mình ư. Tại sao giới thiệu chúng tôi?" gợi ý.

      "Tất nhiên là phải làm thế", Prometheus . "Thưa quý ông quý bà, cho phép tôi được giới thiệu Elder Hekate, Nữ thần Ba Mặt." Người phụ nữ cúi chào lịch , chiếc đầm của bà lóe lên màu ngọc lục bảo. "Và hiển nhiên, đây chính là nhà quán quân, Huitzilopochtli."

      "Mars", Scathach thầm đầy kính nể.

      "Tôi biết đến cái tên đó", nữ chiến binh quát.

      "Bà biết thôi", lẩm bẩm.




      CHƯƠNG MƯỜI LĂM


      Nicholas và Perenelle ngồi cạnh nhau hàng ghế bằng kim loại bên ngoài quán cà phê Hard Rock nơi lối vào cầu tàu số 39. Mặc dù chỉ mới hơn bảy giờ chiều chút và mặt trời vẫn còn tiếng rưỡi nữa mới lặn, nhưng sương mù vây phủ đêm hôm đó vội vã đến rồi. thứ u ám xám xịt, ẩm ướt, lạnh lẽo bao trùm lên mọi thứ, tầm nhìn hạ xuống còn chừng mét. Xe cộ bật đèn và đường phố bắt đầu trống trơn. Vài quán ăn, cửa tiệm dọc theo cầu tàu số 39 thậm chí đóng cửa.

      Nicholas hít vào. "Này, tôi chưa bao giờ nghĩ trải qua đêm cuối cùng được sống của mình mà lại ngồi bên ngoài nhà hàng trong đêm đầy sương mù ở San Francisco thế này. Tôi luôn mong muốn được chết ở Paris cơ."

      Perenelle đưa tay siết mấy ngón tay ông. "Hãy nghĩ đến nhiều lựa chọn ", bà vừa , vừa quay lại với tiếng Pháp cổ thời trẻ của họ.

      "Đúng", ông khẽ khàng. "Có thể tôi ngồi ở đây mình."

      "Hoặc người đó là tôi", bà . "Sau hết thảy ngần ấy năm, tôi mừng là chúng ta vẫn còn bên nhau."

      "Chỉ là nhờ mình đấy", Nhà Giả kim . Ông quay nhìn vợ, bàn tay ông sờ vào con bọ hung cổ xưa đeo quanh cổ, dưới lớp áo sơ mi. Quá nhiều thứ xảy ra trong vài tiếng đồng hồ vừa qua đến nỗi tưởng như cách đây cả đời rồi, trong khi chỉ mới sáng sớm ngày hôm đó Perenelle sử dụng năng lượng từ luồng điện của Tsagaglalal và Sophie để chuyển chút ít luồng điện của bà qua con bọ hung này vào người Nicholas. Bà cho ông sống thêm hai mươi bốn giờ nữa. Đổi lại, bà bị rút ngắn cuộc đời mình cũng bằng chừng đó. ai trong họ cần đến đồng hồ mới biết được họ còn sống chỉ hơn mười chín tiếng chút thôi. Họ định ngủ vào tối hôm đó đâu.

      Perenelle đưa tay ra, áp lòng bàn tay vào cổ Nicholas. "Tôi bảo mình rồi: tôi muốn sống trong thế giới mà có mình."

      "Tôi cũng sống mà có mình", ông dịu dàng . Nicholas biết rằng việc nhường bớt luồng điện là cái giá khủng khiếp đối với cuộc sống của vợ ông. Ông có thể thấy nó hằn thêm những vết nhăn mới nơi khóe mắt và quanh miệng bà.

      Nhiều thế kỷ quan sát ông cho phép bà đọc được nét mặt ông dễ dàng như thể ông ra bằng miệng. "Vâng, tôi già ", bà . "Cứ mỗi giờ trôi qua tóc tôi lại bạc thêm." Bà vuốt mái tóc dài, vén ra khỏi mặt. "Tôi luôn mình làm cho tôi bạc tóc cơ mà." Bà xoa xoa bàn tay lên đầu tóc cắt sát của ông. lớp tóc đen xoăn xoăn mỏng dính, vài sợi ria má và cằm vẫn còn sậm màu. "Trong khi mình ... ràng là luồng điện của tôi hợp với mình lắm. Trông mình trẻ."

      " phải trẻ", ông chọc ghẹo.

      " phải trẻ", bà đồng ý. "Nhưng đủ để gọi là trẻ. ai đoán được mình tròn sáu trăm bảy mươi bảy tuổi trong vài tháng tới."

      Ông siết chặt tay bà. "Đó là sinh nhật tôi bao giờ có. Song", ông và nhoẻn cười, "sáu trăm bảy mươi sáu cũng phải là quá tệ."

      "Hãy nhớ nhé, mỗi lần sử dụng luồng điện là mình làm tiêu hao chút năng lượng còn lại trong con bọ hung này đấy." Bà sờ vào miếng đá ông đeo nơi cổ. tia lửa màu trắng nhảy ra khỏi ngón tay bà, kêu xì xì lớp vải áo.

      "Tôi hiểu mà. Tôi cố để dành cho tới khi cần."

      "Chẳng bao lâu nữa đâu, mình cần đến. Màn biểu diễn với con vẹt chắc ngốn của mình hai giờ sống rồi đó."

      Nicholas lắc đầu. "Ba mươi phút thôi, có lẽ thế. Cũng xứng đáng mà. Tôi quên mất cảm giác vui thích thế nào khi được bay bổng. Hơn nữa, tôi biết được nhiều thông tin từ màn biểu diễn ấy. Chúng ta khám phá được rằng Machiavelli và Billy giờ là đồng minh."

      "Tôi tin đâu."

      "Người nào?"

      " tin ai trong hai người đó. Nhưng đặc biệt phải kể đến Machiavelli. Với Dee mình luôn biết mình đứng ở đâu."

      "Tôi luôn có chút cảm giác tiếc xót cho tay Pháp sư người ", Nicholas thú nhận. "Và có chút ngưỡng mộ hơi miễn cưỡng với tay người Ý ấy. Tôi nghĩ trong những tình huống khác, tôi và ta hẳn là có khả năng kết bạn."

      Nữ Phù thủy nhăn mặt. "Nhớ hồi ở núi Mount Etna ", bà .

      "Mình đánh bại y. Mình còn làm y bị thương nữa."

      "Y chuốc thuốc độc mình. Rồi còn khiến ngọn núi lửa ấy phun trào!"

      "Công bằng mà , tôi nghĩ hoàn toàn do lỗi của y đâu. Đó là sản phẩm phụ sinh ra từ luồng điện của mình khiến nó sống dậy đấy chứ. Nhưng nhìn kìa ấy là những quãng thời gian kỳ lạ. Có nhiều biến cố chúng ta hiểu được. Hãy kết đồng minh bất cứ nơi đâu có thể tìm được. Dù sao nữa," ông cười toe, thêm, "chúng ta chết trước sáng mai và đó còn là vấn đề của chúng ta nữa!"

      "Mình thể chết được!" Perenelle rụt tay về, khoanh hai tay lại. "Đừng thế."

      "Đó là mà."

      Perenelle xoay người xuống con phố, săm soi nhìn vào màn sương mù. "Mấy chàng kia đâu hết vậy cà?" bà thắc mắc.

      "Mình cố tình đổi đề tài đó hả?"

      "Đúng."

      Ngay khi bà còn , hai hình dáng cao lớn, mảnh dẻ hơn, lùm lùm bước ra khỏi màn sương dày đặc, uốn éo. Chính là Niten và Prometheus. Elder cao lớn mang khay làm bằng giấy bồi đó có ba cái tách lớn bằng giấy màu trắng. Niten tay cầm cái tách hơn, miệng nhâm nhi phần bánh ngọt ló ra khỏi bịch giấy nâu.

      Elder ngồi thụp xuống bên hai vợ chồng, trao cho Nicholas và Perenelle tách cà phê bốc khói. "Chúng tôi quyết định chọn thế này vì cả hai ông bà đều là người Pháp nên chắc thích cà phê hơn trà." Ông ta liếc lên Niten. " ra, đó là ý của Niten."

      "Tôi lấy trà", Niten .

      "Tôi vẫn để cà phê đen đấy. Còn đường cất riêng trong túi."

      "Cám ơn ông." Perenelle khum bàn tay quanh chiếc tách trắng, cẩn thận húp ngụm, đầu cúi xuống để ông ta trông thấy vẻ nhăn nhó nơi mặt mình. "Phải có đường mới được", bà khẽ.

      "Mình thấy sao?" Nicholas hỏi. Ông hớp thử. " tệ lắm. Phải có đường mới được." Ông chồng ba gói màu nâu vào với nhau, xé chúng lượt, rồi đổ những hạt trong như pha lê vào cà phê.

      "Thành phố sắp đóng cửa", Prometheus . Ông ta lòn tay vào tóc. Hôm qua đỏ rực; lúc này lại là màu trắng xám dơ bẩn, lốm đốm từng giọt nước. "Nhìn quanh xem. Bây giờ là tháng Sáu, chúng ta cầu tàu số Ba Mươi Chín. Chỗ này đáng lẽ phải sáng bừng đèn đuốc và chật ních người ta ấy chứ. Vậy mà nó hầu như vắng ngắt. Có ti vi trong nhà hàng, hàng tá vụ đụng xe đường, phi trường đóng cửa và mọi phương tiện đường biển đều tạm dừng lại hết. Người ta đến việc đóng cả Vịnh lẫn cầu cổng Vàng. Nguồn tin đáng tin cậy gọi đây là đợt sương mù tệ hại nhất thế kỷ."

      Nicholas hít hơi. "Và là đợt sương biển bình thường chút nào. Chúng ta ngửi thấy mùi gì, đúng ra là mùi ai vậy nhỉ?" ông hỏi.

      Niten lắc đầu. "Thứ gì đó chết và mục rữa."

      Nicholas liếc sang vợ."Mình có nhận ra ?"

      Bà lắc đầu, đưa chiếc tách xa khỏi mặt để có thể hít mạnh hơi. "Thịt thối." Bà nhanh nhẹn đưa chiếc tách che mặt trở lại để xua thứ mùi ấy nhờ mùi dễ chịu của cà phê. "Đó có thể là bất cứ ai trong số nửa tá Elder. Vài người có mùi quả rất kỳ quặc, và nhiều người trong số họ dường như thích mùi gí có liên quan đến thịt phải." Bà mỉm cười với Prometheus. " có ý xúc phạm."

      " sao. Bản thân tôi có bao giờ thích mùi đó đâu." Prometheus uống hết tách cà phê chỉ bằng lần húp, vò nát chiếc tách, liệng nó vào thùng rác. "Có hai khả năng vùng Bờ Tây này", ông khẽ . "Đó có thể là Quetzalcoatl, hoặc tệ hơn, có thể là Bastet. Cả hai đều thích mùi thịt thối."

      "Mình nghĩ đó là ai?", Perenelle hỏi.

      Prometheus lắc đầu. "Hồi sớm, tôi nghĩ có khả năng là Quetzalcoatl. Tôi bắt gặp thứ mùi ngoại lai rất , hương gia vị bàng bạc trong trung."

      Niten hít sâu. "Tôi lại như thế. Tất cả những gì tôi ngửi được là mùi thịt ôi và có lẽ chỉ có lẽ thôi là dấu vết của mèo. Mặc dù điều đó có thể rút ra từ con mèo ở gần đâu đây", ta thêm.

      "Hoặc cũng có thể là cả hai Elder", Perenelle gợi ý.

      Prometheus lắc đầu rất kiên quyết. ", điều đó xảy ra đâu. Chúng luôn là kẻ thù đội trời chung mà."

      "Tại sao vậy?", Niten hỏi.

      "Có chuyện gì đó xảy ra cách đây lâu lắm rồi, trước cả khi Danu Talis bị nhận chìm. cách gì họ chịu hợp sức đâu."

      tiếng còi báo hiệu cho tàu bè trong sương mù cất lên, họ dừng lại để lắng nghe tiếng rống vang trầm trầm từng hồi dài. "Càng lúc càng tinh quái rồi đây", Nicholas thầm. Ông đặt chiếc tách của mình xuống, rồi xát nhanh hai bàn tay vào nhau. "Ông cố liên hệ được ai chưa?"

      Prometheus khẽ lắc đầu. "Vài người. Nhưng đủ. Những người trung thành với giống người biết náo loạn ở đây và tôi hy vọng họ đường đến. Tất nhiên vụ việc này cũng ứng dụng được cho cả những kẻ trung thành với các Elder Đen tối nữa. Tuy nhiên, tôi với Barbarossa."

      "Hoàng đế hay cướp biển?"

      "Hoàng đế.", Elder . "Ông ta ở Chicago, nhưng đến trong chuyến bay đầu tiên vào sáng mai. Nếu có chuyến bay. Ông ta thông báo hết với những bất tử và các Elder sống vùng Bờ Đông rồi, và mang theo nhiều hết sức."

      "Họ đến quá trễ mất thôi", Perenelle . "Chúng ta cần họ ở đây bây giờ kia."

      "Ông ấy rằng người bất tử Zenobia và Elder Pyrgomache đường đến đây. Họ sắp vào đến đây chiếc xe buýt Greyhound."

      "Trong sương mù thế này họ được rồi", Perenelle . "Và tôi tin Zenobia. bao giờ tin."

      "Tôi chuyện với Khutulun", Niten . "Bà ấy chăn nuôi ngựa ở Kentucky."

      Nhà Flamel đồng loạt lắc đầu. "Bà ta là ai thế?", Nicholas hỏi.

      Niten mỉm cười. "Có lẽ là chiến binh nổi tiếng nhất ông bà chưa hề nghe chăng. Bà ấy là cháu của Kublai Khan, và vì thế là họ hàng trực hệ với Genghis Khan. Trước tiên bà ấy được Scathach huấn luyện và sau đó là Aoife. Aoife gọi bà ấy là Trăng Sáng và đó là con mình luôn ao ước có được. Khutulun trong vòng tiếng nữa rời nhà ."

      "Bà ấy định lái xe à?" Perenelle hỏi.

      "Khutulun máy bay được."

      "Cho dù bà ấy dừng lại để ngủ, lái xe qua đất nước này cũng phải mất ít nhất hai ngày", Perenelle . "Mọi chuyện kết thúc trước lúc bà ấy đến mất thôi."

      "Bà ấy cũng biết vậy, và báo thù cho chúng ta."

      "Nghe được thế cảm thấy dễ chịu."

      "Bà ấy định nghỉ lại ở Wyoming và đón Elder Ynaguinid với Macanduc nữa."

      Prometheus gật đầu. "Các chiến binh dữ dội", ông . "Dũng cảm nhất trong những người dũng cảm."

      "... những ai ở Wyoming", Perenelle . "Những gì ở Wyoming đều có ích cho chúng ta."

      "Davy Crockette từ Seattle lái xe xuống đây", Niten . "Nhưng ít nhất phải mất ngày. Thậm chí với cách lái xe của ông ấy."

      Nicholas uống hết phần cà phê của mình, cẩn thận đặt chiếc tách mâm giấy. "Vậy điều mọi người là có nhiều giúp đỡ đến, nhưng .ai trong số đó đến được đúng thời điểm cả."

      Elder và người bất tử đồng loạt gật đầu.

      "Trong khi đó", Perenelle thêm, "chúng ta lại biết có vài Elder Đen tối sống trong và quanh thành phố này. Eris sống ngay dưới đường vào Haight-Ashbury."

      Prometheus thô bạo khoát tay. "Chúng ta có thể tâm đến mụ ta. Mụ ta im hơi lặng tiếng hàng bao nhiêu thế kỷ nay rồi. Dạo này mụ ta dùng thời gian chỉ để đan móc thôi."

      "Đây có đúng là Eris người gây ra cuộc chiến tranh thành Troa vì nhận được thư mời dự đám cưới phải ?", Perenelle hỏi với vẻ tin. "Ông có nghĩ mụ ta ngồi yên vị mà đan móc trong khi phe cánh xấu xa của mình tung hoành khắp thành phố này ?"

      "Gần như chắc chắn là ", Prometheus đồng ý.

      "Vậy ra chỉ có chúng ta thôi", Nicholas .

      "Chúng ta thế trước rồi mà. Hòn đảo này là vị trí then chốt", Niten .

      "Tôi lo cho Odin và Hel", Nhà Giả kim tiếp. "Cả Mars nữa. Khi tôi thấy, Hel bị thương, còn họ gần như giữ được mình cho vững. Và tôi đặc biệt lo cho Diều Hâu Đen. ta hoàn toàn biết đâu mất. Tôi sợ chúng ta mất ấy vào tay bọn Nữ thần Biển rồi."

      "Chúng ta cần phải đánh từ trong lòng địch", Niten đầy kiên quyết. "Phải giành lại thế chủ động. Nếu trì hoãn, các Elder Đen tối đến và chúng ta bị buộc phải chiến đấu hai mặt trận. Và đó là cuộc chiến chúng ta thể thắng được, cần phải đến được Alcatraz."

      "Bằng cách nào?", Prometheus hỏi. " gì có thể mạo hiểm vào vịnh trong sương mù thế này."

      Nicholas nhìn Perenelle. "Mình có nhớ hồi chúng ta ở hòn Đảo Người và Dee xuất cùng với lũ ma cà rồng được huấn luyện của ? Có nhớ chúng ta ra khỏi đó bằng cách nào ?"

      Perenelle cười toe. "Tôi nhớ vẻ mặt của tay Pháp sư ấy." Nụ cười của bà nhạt ngay. "Nhưng, Nicholas, vậy chúng ta phải là nhóm trẻ hơn, và là nhóm trọn cả nhóm mạnh hơn kia."

      "Được thôi, chúng ta đốt lên luồng điện ." Ông nhún vai. "Chúng ta đâu có gì để mất nào."

      Perenelle chồm tới hôn nhanh vào má chồng. "Đúng thế."

      "Hai ông bà làm thế nào để rời khỏi hòn đảo ấy?", Niten hỏi.

      "Chúng tôi thả bộ thôi."

      " mặt nước ư?"

      Nicholas và Perenelle Flamel cùng gật đầu.




      CHƯƠNG MƯỜI SÁU


      "Tôi hiểu lúc nãy có chút hiểu lầm", Osiris .

      " sao," Virginia giọng đều đều. Ả quan sát nhóm phục vụ bày biện chiếc bàn tròn bằng vàng và bạc trong khu vườn phía sau tòa nhà tròn. ai trong chúng là người. Cả nam lẫn nữ đều có phần thân là người, nhưng nét mặt hầu như dù phải hoàn toàn là mặt thú. Nữ giới dường như có yếu tố liên quan đến mèo, trong khi nam giới lại là chó hoặc heo. Và có hai kẻ nào giống hệt nhau.

      bộ ba mèo xuất . có bộ lông nhàng, có cái đuôi dài cong cong, và có hoa văn lốm đốm như loài báo mặt và hai vai trần. Tất cả đều có ria. Cả ba bày những rổ trái cây ra bàn và lặng lẽ lướt bốn chân.

      "Vận dụng di truyền ư?" Virginia hỏi.

      "Đại khái là thế", Osiris . " kết hợp tài tinh thông giữa Thần Đất, Quan chấp chính và Elder Vĩ đại, được nung bởi luồng điện của chúng tôi. Isis và tôi tạo ra các Vương quốc Bóng tối vô tận. Chúng tôi cần đưa dân cư đến đó. Mà con người lại thích hợp với mọi thế giới. Giống người bình thường phải chiến đấu mới tồn tại được thậm chí trong thế giới này. Vì thế chúng tôi nhào nặn, thêm bớt chút, ban cho chúng vài điểm thuận lợi. Chẳng hạn như, phụ nữ mèo này làm việc giỏi trong thế giới rừng, chúng tôi thử nghiệm cho chó và heo làm thợ săn và theo vết thú. Chúng uyển chuyển linh hoạt đủ để thâm nhập vào bất kỳ môi trường phong phú đa dạng nào."

      "Đó là khoa học hay pháp thuật?" Virginia hỏi.

      "Ai là người rằng bất kỳ công nghệ nào đủ tiên tiến đều thể tách biệt khỏi pháp thuật? Einstein hả? Hay là Newton?"

      "Clarke", ả khẽ.

      "Giống người về cơ bản là chủng loài dễ bị tổn thương. Chúng tôi định cho họ vài lợi thế mà tạo hóa bỏ quên."

      "Loài người dàn trải khắp quả địa cầu, trong bất kỳ môi trường nào, mà đâu cần có các lợi thế của mấy người", Virginia lạnh lùng . "Họ thích nghi luôn và luôn thế. Những gì các người làm sai lầm."

      "Chúng ta phải chấp nhận bất đồng thôi."

      "Sao mà tôi ghét câu đó thế cơ chứ."

      Osiris và Virginia Dare hai người ngồi hai bên cái ao tròn trong khoảnh sân có rào bao quanh. Phía đầu, mái hiên bằng lụa dệt hoa văn bảo vệ họ khỏi ánh mặt trời chênh chếch. Bầu khí sáng bừng những bông hoa và nằng nặng mùi hương. Virginia từng lớn lên trong rừng, sau đó được huấn luyện như nhà thực vật học và chuyên gia làm vườn, song ả nhận dạng được rất ít các loại thực vật này. Những đóa hoa huệ nước phủ kín bề mặt ao, và những con ếch kích thước cỡ ngón tay gần như trong suốt di chuyển chầm chậm ngang qua đám lá, theo vầng mặt trời. Bầy ếch kêu rin rít như mèo.

      Osiris thay trang phục, ông ta mặc áo sơ mi trắng bằng vải lanh rộng lùng thùng, quần trắng dài mắt cá chân, chân trần, và bất tử người Mỹ để ý thấy móng chân ông ta sơn màu đen.

      "Chuyện gì xảy ra với bọn anpu thế?", Osiris hỏi.

      Đôi mắt xám đen của Virginia nhấp nháy màu vàng, ánh kim, rời khỏi bàn. "Ồ, chuyện đó hả?", ả nhàng . "Bọn chúng ngáng đường tôi ấy mà."

      "Chắc hẳn chúng tránh đường cho nếu tự nêu đặc điểm nhận dạng. Đó là sai lầm.", Osiris mỉm cười, nhung gì hơn là cái nhếch môi, và chẳng có xúc cảm gì chân trong đó.

      "Sai lầm của chúng là cố ngăn tôi lại."

      " có thường hay cư xử gay gắt như thế với những ai cản đường ?"

      "Có chứ." Nụ cười của ả xứng hợp với nụ cười của Elder. "Tôi bực bội bất cứ ai hay cái gì cố tước tự do của mình."

      "Tôi ghi nhớ điều đó."

      "Cứ việc. Tôi lớn lên với hai bàn tay trắng. quần áo, thực phẩm, tiền bạc, tài sản. Tất cả những gì tôi có là tự do của mình. Tôi biết phải quý trọng nó."

      Osiris chắp hai tay trước mặt mình. " là người thú vị, Virginia Dare ạ."

      " thế đâu. Thực ra tôi rất giản dị, nguyên tắc của tôi đơn giản là có qua có lại ai tránh đường tôi tôi tránh đường họ."

      "Tôi cũng ghi nhớ điều đó."

      Sophie bật cười ra tiếng, khiến cả hai quay về nơi phát ra thanh. Xuyên qua bức tường bằng kính, họ thoáng bắt gặp Sophie và Josh khám phá ngôi nhà hình tròn mênh mông này.

      "Lần đầu tiên tôi nghe bé cười", người bất tử nhận xét, rồi quay trở lại vói Elder, thận trọng nhìn ông ta lom lom. "Hai đứa đến đây có gì ngạc nhiên. Tôi có ấn tượng chúng ta đến gần giai đoạn cuối cùng của kế hoạch được sắp đặt từ lâu lắm rồi."

      Osiris ngồi trở lại vào chiếc ghế được đẽo khắc từ khối vàng ròng và lại chắp hai tay trước mặt. " rất sắc sảo."

      "Đánh giá thấp tôi ông nguy hiểm." Ả mỉm cười, "Chủ nhân Elder của tôi làm thế và ông biết chuyện gì xảy ra cho ông ta rồi đấy."

      "Tôi tự hỏi nếu có chiếc ống sáo ấy liệu còn quá dũng cảm như vậy ", Osiris nhận xét.

      Virginia lần tay xuống dưới áo sơ mi, lấy ra chiếc ống sáo gỗ giản dị. Ả lắc lắc cho nó rơi ra khỏi túi vải, ánh mặt trời rung rung những thiết kế hình xoắn ốc khắc vào mặt gỗ. Osiris cứng đơ người, và ả để ý thấy bàn tay ông ta buông xuống hai bên cạnh ghế như thế nào. Ả đoán có thứ vũ khí giấu trong bên tay vịn, con dao hay có thể là ngôi sao quay cũng chừng. Bất ngờ ả ném ống sáo vào mình Elder.

      Osiris bắt trúng công cụ ấy giữa trung, rồi kêu ré lên vì lớp thịt trong lòng bàn tay ông ta kêu xì xì và bốc khói. Ông ta quăng ống sáo ra mặt ao, nhưng Virginia chụp lại, xoay vòng khiến nó phát ra tiếng rít , ả nhét nó vào túi, cất trở lại bên dưới lớp áo chỉ bằng chuyển động rất nhịp nhàng.

      Osiris khuỵu gối, nhúng bàn tay vào nước. "Lẽ ra phải cảnh báo cho tôi chứ", ông ta .

      "Nếu tôi rằng ông thể cầm nó được, liệu ông có tin tôi ?"

      "Có khả năng là ", ông ta thừa nhận.

      " lần thực nghiệm đáng giá hơn ngàn lời suông."

      "Trước nay tôi từng bắt gặp nhiều món đồ tạo tác như vậy rồi", Osiris bảo với ả. " số là của Thần Đất hoặc Quan chấp chính. Tôi chưa bao giờ có thể hiểu được tại sao các Elder lại thể chạm đến chúng. có biết ?"

      "Có, biết chứ", ả giản dị. Ị

      "Nhưng định cho tôi nghe à?"

      ", tôi ."

      Osiris trở về với chiếc ghế bằng vàng, ngồi xuống, bàn tay phải của ông từng giọt nước mặt sàn lát đá trắng tinh. "Quý Dare, đúng là người có tố chất", ông ta thầm. "Đột nhiên tôi nhận ra rằng trải qua nhiều thế kỷ nay, mình giao du với các giống người chẳng ra làm sao. Dee là tên ngốc, tên ngốc hữu dụng, phải thừa nhận là thế. Nhưng đáng lẽ chúng tôi nên kết bạn với hơn."

      Virginia Dare lắc đầu. "Các người luôn có thể kiểm soát tay tiến sĩ ấy. Còn các người thể kiểm soát được tôi đâu."

      Osiris gật đầu. "Có lẽ vậy. Nhưng chắc hẳn chúng tôi có thể giao thiệp với theo cách khác."

      "Thành , ý ông là gì vậy?"

      "Chúng tôi luôn thành với ", Elder thành khẩn . " lại hiếm khi nào thành với chúng tôi; hẳn biết biết điều đó mà."

      "Tại sao các người lại cần cặp song sinh ấy?"

      Osiris nâng bàn tay bị phỏng lên môi, liếm vào vết thương. Đôi mắt sáng màu xanh lơ nhìn ngang tầm với ả. Bất chợt ông ta nhoẻn miệng cười toe. "Tôi có thể với , nhưng rồi sau đó tôi phải giết chết mất", ông ta .

      "Nếu ông cho tôi nghe, biết đâu tôi có thể giết chết ông", Virginia đáp lại nụ cười của ông ta ỉần nữa.

      " cứ việc thử."

      "Tôi có thể. Nhưng ông muốn tôi làm đâu", Virginia .

      Giọng Sophie và Josh đột nhiên vang dội khắp ngôi nhà, Osiris và Virginia quay người hướng về phía phát ra thanh. Tiếng càng lúc càng lớn khi cặp song sinh tiến đến gần.

      "Đây là những gì tôi nghĩ", Virginia khẽ khàng . "Các người cần luồng điện của hai đứa . Các người cần sức mạnh của người Vàng người Bạc cho mục đích gì đó. thứ rất ngoạn mục. Tôi đúng chứ?"

      " sai", Osiris thừa nhận.

      "Chỉ có thứ khiến tôi chưa thỏa mãn", ả .

      Gương mặt Osiris giữ nguyên chút cảm xúc trong lúc tiếp tục liếm bàn tay mình.

      "Các người quả là cha mẹ của hai đứa chứ?"

      "Hai đứa là con chúng tôi", ông ta sau khi cân nhắc kỹ câu trả lòi. "Chúng tôi trải qua cả đời mình để chuẩn bị cho hai đứa trước biến cố này."




      CHƯƠNG MƯỜI BẢY


      Quetzalcoatl ghét cay ghét đắng ẩm ướt. Lão mặc bộ đồ vét kèm với áo ghi lê bằng vải len mua ở London cách đây thế kỷ, khoác lên mình chiếc áo bằng da thuộc màu đen có cổ cao bẻ lật ra, dài ba phần tư người. khăn choàng giữ nhiệt có hoa văn quàng quanh cổ, che phần miệng dưới, lão đội chiếc mũ phớt đen với chùm lông vũ lấy từ đuôi lão làm nẹp. Hai bàn tay lão bọc trong đôi găng viền lông thú. Vậy mà lão vẫn lạnh cóng. Sao lão căm ghét Vương quốc Bóng tối này đến thế kia chứ.

      Lão Rắn Lông quay người khi chiếc Cadillac đen đồ sộ với cửa sổ tối om cập vào bãi đậu xe vắng vẻ ở Vista Point Overlook. Thân xe lấm tấm hàng triệu giọt nước chiếu sáng mờ mờ.

      Quetzalcoatl đưa tay lên nửa chừng, rồi nhận ra là có thể ai thấy được mình trong bóng tối u ám và đặc sương mù này, lão tự giác thả tay xuống. Lão bắt đầu tiếc cho hành động bốc đồng lúc nãy. Lão còn sống lâu thế này nhờ là kẻ thui thủi mình; hiếm khi nào trà trộn với đồng loại. Thậm chí lão còn nhớ lần cuối cùng chạm trán với ai đó từ rất xa xưa trong quá khứ là khi nào. Liên lạc với bọn phục vụ thuộc giống người lúc nào cũng dễ dàng hơn; lão có thể kiểm soát được chúng. tài xế ăn mặc lịch đội mũ lưỡi trai trèo ra khỏi xe. Quetzalcoatl nghĩ có gì đó ổn trong cách của , mặc dù cũng dễ xảy ra khả năng đó là nàng, và khi người tài xế quay đầu, Elder nghĩ mình bắt gặp đôi mắt toàn màu đen phồng ra. Tên tài xế giở mũ, để lộ cái đầu hói và đôi tai dơi dài quá cỡ, trước khi mở cánh cửa sau xe.

      hình dáng bước ra.

      Người phụ nữ cao ráo, tao nhã, quấn mình trong chiếc áo lông dài chấm gót làm bằng da của những con thú còn lại trái đất này nhiều thời đại qua. Mụ ta có cái đầu mèo. Đấy là Bastet.

      Quetzalcoatl quan sát Elder sải bước băng qua bãi đậu xe tiến về phía lão và cảm thấy dâng lên cảm xúc kỳ quặc, cảm giác lão trải nghiệm suốt nhiều thiên niên kỷ rồi: sợ hãi. Cái đuôi của lão nhét vào sau thắt lưng, lúc này bị tuột, bò ra dưới lớp áo khoác hồi hộp đập nhè nền đất. Có lẽ tiếp xúc với nữ thần đầu mèo là sai lầm chăng.

      " thời gian dài, Quetzalcoatl nhỉ?", mụ , bằng ngôn ngữ cổ xưa của Danu Talis.

      Rắn Lông nhấc chiếc mũ phớt ra, cúi chào kính cẩn. "Quá lâu rồi."

      Bastet nghiêng nghiêng cái đầu mèo của mình sang bên, nhìn lão, đôi mắt khổng lồ màu vàng với con ngươi chỉ là khe hẹp. thể đọc được vẻ mặt mụ, nhưng Quetzalcoatl có cảm tưởng mụ ta vui vẻ.

      "Cám ơn vì đến", lão . "Tôi chắc là bà ..."

      "Ồ, các Elder chúng ta phải sát cánh bên nhau chứ", Bastet bằng giọng líu nhíu rin rít. "Đặc biệt là lúc này, trong thời gian thú vị này."Đế giày bốt lích kích vỉa hè khi mụ bước tới trước, vọt cao hơn hẳn Elder thấp bé. "Tôi vui mừng khi nhận được cuộc gọi của ông. Ngạc nhiên, tôi thừa nhận là thế. Nhưng vui."

      Quetzalcoatl tự hỏi biết Elder đầu mèo này có ý mỉa mai gì , vẻ trầm tĩnh của mụ khiến rất khó đoán. "Tôi định liên lạc", lão khẽ. "Nhưng bà biết thời gian trôi qua thế nào rồi đấy."

      "Chúng ta nên tiếp xúc với nhau thường xuyên hơn, thực tế chúng ta là láng giềng mà", mụ nghe rừ rừ.

      Rồi lão cũng biết mụ ta xỏ xiên. Mụ căm ghét lão vì những biến cố xảy ra Danu Talis mười ngàn năm trước.

      "Vậy giờ ông cần tôi giúp à?"

      "Vâng, tôi nghĩ biết đâu bà có thể hỗ trợ", lão thú nhận. "Bây giờ chúng ta quá gần rồi, chiến thắng hầu như trong tầm tay. Tôi muốn phó mặc bất kỳ thứ gì cho may rủi."

      "Rất khôn ngoan." Bastet khoát bàn tay phải, móng vuốt xé màn sương. "Đây là của ông hả? là tinh tế.”

      "Xin cám ơn. Tôi nghĩ bà chấp thuận."

      "Giống người luôn sợ ban đêm. Đặc biệt là những đêm mù sương. Sâu thẳm trong ký ức di truyền của mình, họ phải nhớ cảm giác thế nào khi bị săn đuổi." Nữ thần cười hoang dại, nhe cả hàm răng.

      Quetzalcoatl đưa tay chỉ qua bên phải. Xuyên qua lớp sương mù dâng cuồn cuộn, đường viền kim loại mờ nhòe chỉ vừa đủ nhìn thấy. Lão nhấp nháy mắt, con ngươi đổi dạng, và lão chợt nhìn thấy thế giới trong những sắc thái của hai màu đỏ, đen. "Cầu cổng Vàng ở đây." Lão chỉ sang bên trái. "Tôi chắc bà có thể thấy, nhưng tuốt bên kia là Alcatraz."

      "Tôi có thể thấy chứ. Bộ ông quên tôi là gì, và trở thành gì rồi à?", mụ rít lên cay đắng.

      "Quá trình Biến đổi hiệu chỉnh hai người chúng ta", Quetzalcoatl thận trọng .

      " thứ gì đó hơn các thứ khác."

      "Quả là vậy", Rắn Lông tiếp lời. "Bên kia Alcatraz là đảo Châu Báu, và ngay phía sau hòn đảo là cầu Vịnh."

      Bastet lật cổ áo lông của mình. "Tôi tới đây để học bài học địa lý."

      "Màn sương mù này che phủ mọi thứ trong bán kính ngàn sáu trăm mét. gì di chuyển đất liền hoặc biển. Tôi bảo đảm rằng có vô số tai nạn. Nhà cầm quyền bị kéo căng tới mức giới hạn rồi. Cầu cổng Vàng và Cầu Vịnh đóng." Lão tra cứu nơi chiếc đồng hồ lớn quá cỡ đeo ở cổ tay. "Chẳng bao lâu nữa xe bồn chở xăng dầu qua đường phân chia giữa cầu Dumbarton và nổ tung thành đám lửa ngọn."

      "Làm thế nào ông biết được?", Bastet hỏi.

      "Tôi tin vào việc phó mặc cho may rủi". Lão lại kiểm tra chiếc đồng hồ của mình. "Trong năm phút nữa, loạt tai nạn tại trạm thu phí cầu San Mateo, khiến cây cầu này bị niêm phong toàn bộ. Và trong mười phút nữa, công ty điện và khí ga Pacific chuyên cung cấp năng lượng cho phía bên này đất nước, bị loạt hỏng hóc trong mạng máy tính mang tầm phá hủy". Quetzalcoatl cười toe, khoe ra hàm răng man rợ. "Mọi thứ chìm vào tăm tối."

      "Ông có thể làm thế được sao?"

      " là vậy. Tôi thử nghiệm vài năm trước Bờ Đông rồi. Vụ cúp điện toàn bộ ở miền Đông Bắc là thành công đấy."

      "Tất cả những điều này rất ấn tượng. Vậy ông còn muốn tôi làm gì nữa?", Bastet hỏi.

      "Bà có biết chúng ta có các sinh vật Alcatraz ?"

      "Tôi biết."

      "Và bà có biết Dee phản bội chúng ta ?"

      "Tôi biết bị tuyên bố là utlaga."

      " được giao nhiệm vụ thả lũ quỷ sứ ra khỏi hòn đảo, nhưng thi hành, và bây giờ biến mất rồi."

      " phải ông có những người có thể dùng đến sao?", Bastet rít lên. "Tôi đâu còn tên phục vụ nào nơi miền bắc xa xôi này."

      "Tôi giao việc cho hai trong số những người giỏi nhất của tôi. Billy the Kid và Diều Hâu Đen." Lão dừng lại chút để ho. "Chúng còn được tháp tùng bởi tay bất tử người Ý, Machiavelli."

      Bastet kêu rít. "Có số giống người nhất định đáng lẽ chúng ta nên xẻ thịt ăn sống từ cách đây lâu lắm rồi. Chẳng hạn như nhà Flamel, Dee, và chắc chắn là Machiavelli. Ông biết tôi ẩm thực Ý mà."

      Quetzalcoatl thở dài. "Tôi nhất trí với bà. Machiavelli và Billy đến hòn đảo để thả lũ quỷ sứ vào thành phố rồi."

      "Và sao nữa?", Bastet quay người về phía San Francisco, đầu nghiêng qua bên, lắng nghe. "Tôi có nghe thấy bất kỳ tiếng thét gào nào đâu."

      "Bọn chúng thất bại", Quetzalcoatl khẽ . "Tôi biết sao lại thế. Tôi nhìn thấy Lotan bơi về phía Embarcadero, nhưng nó bị nhà Flamel giết chết. Tôi bị mất dấu Billy và Machiavelli, còn Diều Hâu Đen biến mất cách đơn giản. Tôi chỉ có thể giả thuyết rằng cả bọn chết hết." Lão nghiến răng thất vọng. "Chúng ta quá gần, quý bà. Hết sức gần. Chúng ta có hòn đảo đầy nhóc lũ quỷ sứ cách thành phố chỉ chừng cây số rưỡi, vậy mà khi chúng ta cố đưa được con đến gần bãi biển, đôi vợ chồng bất tử kia lại đánh bại chúng ta mất"

      "Có mấy người bất tử?"

      " nhúm chứ mấy. Flamel, bà vợ nguy hiểm của , tay chiến binh Nhật Bản, và may là có cả Prometheus của chúng ta nữa."

      Bastet khoanh hai cánh tay ép sát người, rùng mình. "Tôi tưởng ông ta bao giờ rời bỏ Vương quốc Bóng tối của ông ta chứ."

      "Nó đâu còn nữa. tan thành bóng tối và bụi đất hết rồi."

      " kỳ dị. Còn hai đứa được cho là cặp song sinh huyền thoại sao? Nhà Flamel và Dee bị cho rằng bọn họ giữ hai đứa đấy. lần nữa."

      Hàm răng Quetzalcoatl lóe lên khi lão nhoẻn cười. "Chúng biến mất khỏi thành phố luôn rồi. Tôi thể cảm nhận được chúng ở đâu lục địa châu Mỹ này cả."

      "Ít ra đó cũng là chút an ủi."

      "Bà biết nhà Flamel chắc phải gửi lời xin cứu viện. Chúng ta càng trì hoãn, càng có nhiều giờ hơn cho phép tăng viện đến kịp."

      "Chúng ta cũng có đồng loại đến mà, phải nào?"

      " ít thôi. Thậm chí ngay lúc này, bầy quỷ sứ và lũ quái dị tụ tập. Nhưng bà có biết rằng mọi hùng bất tử thuộc giống người, mọi vị thần trong truyện hoang đường và thần thoại trung thành với nhà Flamel, hoặc đơn giản là đối nghịch với chúng ta, đều hướng theo lối này ?"

      "Vậy chúng ta đừng trì hoãn nữa. Phải đưa lũ quỷ sứ lên bờ biển và đưa những người cùng mau chóng lên đường."

      "Kế hoạch nguyên thủy là cho Machiavelli và Billy đánh thức lũ sinh vật ấy, thả chúng ra khỏi các xà lim. Diều Hâu Đen được giao nhiệm vụ lái chiếc thuyền du lịch có chút sửa đổi tấp vào cầu tàu, chất lên và mang lũ sinh vật ấy vào thành phố. Sau đó trở về để lấy thêm."

      "Nhưng bây giờ Diều Hâu Đen lại biến mất."

      "Tôi e rằng bị bọn Nữ thần Biển ăn thịt mất rồi."

      "Nhưng ông có kế hoạch dự phòng chứ?"

      "Luôn luôn có."

      "Tôi nghĩ ông phải có."

      "Ngay bây giờ, chiếc thuyền du lịch được chỉnh sửa lại đôi chút đậu ngoài đảo. Tay hoa tiêu tụ tập những con quỷ sứ to lớn nhất, xấu xí nhất, thèm thuồng nhất, kinh khủng nhất có thể tìm thấy. Người đó mang lũ kia tới bờ biển và thả chúng lên đường phố. Sau đó trở lại cho chuyến thứ hai."

      "Ông có thể tin tưởng tay hoa tiêu này ?"

      "Là tôi mà."

      "Tôi hề biết là ông có người đấy."

      " ấy rời Danu Talis khá lâu trước biến cố nhấn chìm. Quá trình Biến đổi tàn ác với ấy. Nhưng khi tôi cần ai đó để tin cậy, tôi biết mình có thể nhờ ấy. ấy vui vẻ thậm chí còn nhiệt tình giúp đỡ tôi". Hàm răng lão lóe lên khi cười hiểm ác. "Sau bao nhiêu chuyện, nếu ta thể cậy dựa vào gia đình mình, còn có thể tin cậy ai được nữa?"

      "Vậy tại sao ông còn cần tôi?", Bastet hỏi, phớt lờ hòa hợp chủ đề. Con trai Aten của mụ phản bội mụ."Tôi nghe chữ 'nhưng...' đây", mụ thúc giục.

      "Nhà Flamel và đồng bọn làm tất cả trong khả năng của bọn họ để ngăn trở chúng ta."

      "Thế chúng ta phải loại trừ nhà Flamel, Prometheus và Niten?"

      "Đúng, mà chúng ta chỉ có thời gian rất ngắn để đánh bại bọn họ trước khi quân cứu viện đến."

      Ánh mắt Bastet đọng lại Rắn Lông. "Mà ông có bảo đảm là bọn họ có các đồng minh khác trong thành phố này ?"

      "Mọi người khác đều ở hòn đảo rồi." Lão cười toe. "Hy vọng là cung cấp bữa ăn phụ ngon lành cho thứ gì đó tàn ác."

      Bastet chà hai bàn tay vào nhau. Móng tay mụ nảy lửa văng vào nhau. "Thế đơn giản rồi. Chúng ta chia lực lượng chúng ra. Cử ai đó giao chiến với các chiến binh Prometheus và Niten. có hai người này, Nicholas và Perenelle chẳng còn gì hơn là những kẻ bất tử già cùng với từng lần sử dụng luồng điện thôi. Tôi biết luồng điện của bọn họ nhợt nhạt dần."

      "Chúng ta có thể cử cái gì? Tôi chẳng còn tiềm lực nào."

      "À, nhưng tôi có." Mụ thò tay vào túi lấy ra cái túi bằng da thuộc, lắc kêu lích kích. "Ông có nhớ mấy cái này ? Răng rồng đấy?"

      "Spartoi", lão .

      Bastet gật đầu. "Những chiến binh đất thể hủy diệt."

      "Hoàn hảo. Đúng là hoàn hảo." Quetzalcoatl lại kiểm tra đồng hồ đeo tay lần nữa, đĩa số sáng chói phết lên màu xanh lá. "Còn năm... bốn... ba... hai... ."

      Toàn bộ thành phố tắt phụt tối om.

      Xuyên khắp thành phố, tiếng chuông báo trộm tắt ngấm khi pin dự phòng mất nguồn cung cấp. Trong màn sương bao phủ lên tất cả, thanh phát ra nghe như tiếng chuột kêu rúc rích.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :