Bí Mật của Nicholas Flamel Bất Tử (Tập 5: Thầy phù thủy) - Michael Scott (Kỳ ảo)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      [​IMG]
      Giới Thiệu:

      Bí mật của Nicholas Flamel bất tử là bộ tiểu thuyết kỳ ảo dài 6 tập và phần ngoại truyện, được sáng tác bởi nhà văn người Ireland, Michael Scott, hoàn tất vào năm 2012. Quyển đầu tiên của bộ truyện, Nhà Giả kim được phát hành vào năm 2007, các phần tiếp theo được liên tiếp phát hành những năm sau đó, với tiến trình mỗi năm tập, và cuối cùng kết thúc với việc phát hành tập thứ sáu, nữ, vào năm 2012. Người minh họa cho bìa của bộ truyện là Michael Wagner. Michael Scott rằng rất may mắn khi có được những hình minh họa bìa tuyệt vời đến vậy. Phiên bản tiếng của bộ truyện được in bởi nhà xuất bản Doubleday (bìa cứng) và Corgi (bìa mềm) (chi nhánh của nhà xuất bản Random House), và được phát hành ở và Úc, còn ở Mỹ, bộ truyện được in bởi nhà xuất bản Delacorte Press (cả bìa cứng và bìa mềm) (chi nhánh của nhà xuất bản Random House). Tính đến tháng 11, 2009, cuốn đầu tiên của bộ truyện được dịch ra 20 thứ tiếng khác nhau và phát hành ở 37 quốc gia, trong đó có Việt Nam. Cả bốn tập đầu của Bí mật của Nicholas Flamel bất tử đều lọt được vào Top 10 danh sách truyện dành cho trẻ em bán chạy nhất New York Times Best Seller Children's Books. Nhà Giả kim đạt vị trí á quân vào ngày 26 tháng 8, 2007, và tính đến ngày 24 tháng 3, 2008, doanh số bán của tập truyện vượt quá 150,000 bản. Tập hai của bộ truyện, Pháp sư, đạt được vị trí thứ 4 vào ngày 13 tháng 7, 2008. Nữ Phù thủy đạt được vị trí thứ 5, và Kẻ Chiêu hồn đạt được vị trí thứ 3. bộ phim chuyển thể từ tập truyện Nhà Giả kim được mua bản quyền bởi AMPCO Films.

      Bí mật của Nicholas Flamel bất tử được xuất bản tại Việt Nam bởi Nhà xuất bản Trẻ

      Từ mất tích của cuốn sách cổ... Thế giới đại có thể bị xé toạc và rạn vỡ. Người nắm giữ bí mật có thể kết liễu thế giới. Và khi có ai chống lại bọn chúng, Dee và những kẻ giống như thả các Elder đen tối vào thế giới loài người lần nữa. Mọi thứ rất hỗn loạn , nền văn minh sụp đổ. Nicholas ở đâu?

      Nicholas Flamel là nhà luyện kim, sinh vào năm 1330.

      Cuộc chiến đấu giữa Flamel Bất Tử và Dee Đen Tối diễn ra giữa thời đại của wifi, ipod, internet, laptop và điện thoại di động vô tình lôi cuốn tham gia của hai chị em sinh đôi Josh và Sophie Newman. xuất của 2 chị em khá trùng hợp với lời tiên đoán trong Codex có từ hàng nghìn năm trước của Abraham. Trong cuộc chiến đấu giữa Flamel Bất Tử và Dee Đen Tối, hai chị em, mà trước mắt là chị Sophie được đánh thức những năng lực tiềm . Nhờ đánh thức, Sophie hỗ trợ đắc lực cho Flamel trong việc chống lại bè lũ Elder Đen Tối thông qua bàn tay của Dee. Cuộc chiến đấu cân sức giữa các thiện và điều ác, bước đầu đất Mỹ, phe thiện dành được thắng lợi và mở ra cuộc chiến đấu mới ở Paris, châu Âu.

      Bình Luận:

      - “ khả năng tưởng tượng làm mê hoặc người đọc. Ở đây có vô khối những chi tiết đẩy độc giả vào những kiến thức chung trong bách khoa thư… những ai đọc các mặt chữ đầy giá trị của quyển sách này hoàn toàn bị cuốn hút vào câu chuyện vô cùng thích thú.” – School Library Journal, Starred

      - “Những cùng những pháp thuật và chuyện hoang đường được đặt cạnh nhau khiến chúng cực kỳ hấp dẫn… cho đến tận trang cuối trong cuộc hành trình đầy phấn khích này, điều ràng vô cùng thú vị là đoạn kết cũng chính là phần mở đầu” – Kirkus Reviews

      - " kiện kết hợp với thần thoại, tác giả phải có tầm hiểu biết sâu rộng và tài hoa mới có thể viết nên tác phẩm mà vừa đọc xong người ta thể ngồi yên mà tra mua ngay tập tiếp theo, hoặc thoải mái đọc lại lần hay nhiều lần nữa để chờ đón đọc tập tiếp theo, kết hợp nhuần nhuyễn giữa kiện và thần thoại làm người đọc choáng ngợp..." - 1 độc giả​

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      TRANSLATOR: Nguyễn Hà Ly (nguyen_ly)


      MỞ ĐẦU
      Nicholas Flamel chết dần.

      Tôi sợ khoảnh khắc này từ lâu. Đêm nay tôi có thể trở thành góa phụ.

      Nicholas dũng cảm tội nghiệp của tôi. Giờ dù ông già yếu và sức cùng lực kiệt, ông vẫn ngồi cùng Prometheus và tôi dồn sức lực cuối cùng vào cái đầu lâu pha lê để tìm Josh trong lòng San Francisco, sâu trong hang ổ của tiến sĩ Dee.

      Chúng tôi kinh hoàng quan sát Dee biến cậu bé thành thầy đồng, kẻ triệu hồn người chết, bảo cậu nhóc triệu tập Coatlcue, Archon gớm ghiếc – Mẹ của tất cả các vị thần. Chúng tôi cố cảnh báo Josh, nhưng Dee quá mạnh và cướp được cậu từ tay chúng tôi. Và khi Aoife, Niten và Sophie tới, Josh về phía Dee và kẻ đồng hành nguy hiểm của , Virginia Dare. Tôi thể tự hỏi vì sao cậu nhóc lại tự nguyện đến như thế.

      Quan sát Josh – hy vọng cuối cùng của chúng tôi, cơ hội cuối cùng để đánh bại các Elder bóng tối và bảo vệ thế giới của chúng tôi – bỏ cùng kẻ thù là quá sức chịu đựng đối với chồng tôi. Ông quỵ ngã và bất tỉnh. Ông tỉnh lại còn tôi còn sức mạnh để cứu sống ông. Tôi phải giữ lại chút sức tàn để đối đầu với những gì sắp tới.

      Chúng tôi mất từng người, từng người có thể sát cánh cùng chúng tôi: Aoife ra , bị kẹt trong thế giới Bóng tôi, mãi mãi chiến đấu với Archon Coatlicue. Scathach và Joan ở thời quá khứ xa xôi. Chúng tôi có liên lạc gì với Saint- Germain và giờ chúng tôi mất liên lạc với Palamedes và Shakespeare.Thậm chí giờ đây Prometheus cũng quá yếu do sử dụng cái đầu lâu. Ông còn giữ nổi Vương quốc Bóng tối của mình và nó tan vỡ xung quanh ông.

      Chúng tôi chỉ còn Sophie. bé quá buồn do phản bội của em trai. ở đâu đó trong San Francisco, tôi biết chính xác là đâu, nhưng Niten bảo vệ . Tôi phải tìm bé – những điều bé cần biết là quá nhiều.

      Giờ tôi là người phải đứng mũi chịu sào, tôi luôn biết là thế.

      Khi tôi là đứa bé, cách đây hơn 680 năm, bà tôi giới thiệu tôi với ông già đội mũ trùm đen, tay trái có cái móc. Ông cho tôi biết trước tương lai của tôi và của thế giới. Sau đó ông bắt tôi thề giữ bí mật. Cả đời tôi tôi đợi ngày này.

      Giờ, khi kết thúc phụ thuộc vào chúng tôi, tôi biết mình cần làm gì.

      Trích Nhật ký Nicholas Flamel, Nhà giả kim

      Viết thứ Tư, ngày 6 tháng Sáu

      Perenelle Flamel, Nữ Phù thủy

      Tại Vương quốc Bóng tối của Elder Prometheus, tiếp giáp San Francisco, quê hương thứ hai của tôi



      CHƯƠNG
      Những Anpu xuất trước tiên. Đó là những chiến binh đầu chó cao lớn, đôi mắt đỏ sọc và răng sắc nhọn, khoác mình bộ giác đen sáng bóng như gương. Họ xộc ra từ miệng hang nghi ngút khói và tỏa khắp Xibalba, số chiếm vị trí ở miệng chín cổng dẫn vào những hang động rông lớn, số khác chui vào những Vương quốc bóng tối nguyên thủy để đảm bảo có ai trong đó. Họ di chuyển phát ra tiếng động, cũng như mọi khi. Họ giữ im lặng tới những giây phút cuối trước trận chiến, và khi đó tiếng hét của họ kinh khủng.

      Ngay khi những Anpu hài lòng vì Xibalba có ai cặp đôi xuất .

      Cũng giống như những anpu, họ mặc áo giáp làm bằng thủy tinh và sứ, nhưng trang phục của họ được trang trí hoa văn và có vẻ thực dụng trong chiến trận. Loại phục trang đó xuất lần cuối ở Ai cập cổ đại.

      Vài phút trước, cặp đôi này rời khỏi rời khỏi bản sao gần như hoàn hảo của Danu Talis tới hàng tá những vương quốc Bóng tối khác, vài cực kỳ giống trái đất, số khác giống như hành tinh ngoài trái đất. Dù theo bản năng cả hai đều tò mò về những vương quốc họ qua, nhưng họ nán lại lâu. Họ nhảy qua mạng lưới phức tạp các cổng vòm dẫn họ tới nơi được gọi là Ngã tư.

      Họ còn quá ít thời gian.

      Có chín cánh cổng mở tới Xibalba, mỗi cánh cổng hơn lỗi khắc trong bức tường đá đen là bao. Để tránh những bong bóng nham thạch làm bắn những tảng đá nóng chảy vào đường của họ, họ mở rộng chiều rộng Vương quốc bóng tối từ cổng chín tới cổng ba, Cánh cổng của Nước Mắt. Thậm chí cả anpu, những sinh vật biết sợ hãi đều dám bước tới hang động này. Những ký ức xa xưa khắc sâu trong DNA của chúng cho chúng biết chính nơi đó là nơi tổ tiên của chúng hầu như bị xóa sổ sau khi chúng cao chạy xa bay tới thế giới của loài người.

      Khi cặp đôi tới gần miệng hang, những chữ cái tượng hình khắc thô sơ đá bắt đầu tỏa ra ánh sáng trắng yếu ớt. Nó ánh lên áo giáp của họ, soi rọi những đường nét trong hang, vẽ nên hình ảnh cặp đôi trong ánh đen trắng nhập nhòe, và từ xa – trông họ đẹp.

      thèm liếc nhìn về phía sau, cả hai tiến tới miệng hang tối om...

      .... và đầy giây sau, cả hai chuyển phục trang thành quần bò trắng và áo phông và xuất cạnh tảng đó tròn được biết tới như Điểm Số phía trước Nhà thờ Đức Bà, Pari nước Pháp. Người đàn ông nắm tay người phụ nữ và họ cùng nhau sải bước vượt qua những viên đá vỡ vụn và những bức tượng còn nguyên vẹn vẫn nằm rải rác ở quảng trường nơi Sophie và Josh dùng Ma thuật cơ bản đánh bại những đầu thú bằng đá biết chuyển động của nhà thờ.

      Và vì đây là Pari nên ai để ý tới cặp đôi đeo kính râm trong đêm.



      CHƯƠNG HAI
      Ngọn lửa giận dữ liếm qua cả tòa nha. Hàng tá còi báo động hú lên inh ỏi, khí sặc mùi khói đen của cao su và nhựa cháy.

      ra, ra, ngay!” Tiến sĩ John Dee dùng thanh gươm ngắn trong tay phải chém đứt thanh sắt nặng nề và cánh cửa gỗ, như thể chém giấy vậy. “Xuống tầng,” ra lệnh.

      Virginia Dare chui qua lối thoát hiểm hề do dự, lửa làm cháy chút mái tóc dài đen của .

      theo tôi,” Dee ra lệnh cho Josh rồi cũng chui qua cánh cửa. Khói vàng bốc lên ràng từ da thịt , mùi trứng thối phả vào mặt Josh Newman khi cậu khẩn trương theo sau.

      Josh cảm thấy ốm nhưng phải chỉ vì cái mùi sulfur kinh khủng bốc ra từ Dee. Đầu cậu ong ong và rất nhiều những đốm sắc nhảy múa trước mắt cậu. Cậu chón mặt và vẫn còn run sau lần đụng độ với Archon xinh đẹp Coatlicue. Dù cậu cố nhưng cậu vẫn hiểu nổi những kiện xảy ra trong mấy phút trước. Cậu chỉ mang máng biết làm sao cậu lại ở đây. Cậu nhớ lái xe đường thành phố...đường cao tốc...và vào thành phố. Nhưng cậu biết cậu đâu. NHững gì cậu biết là cậu cần tới nơi nào đó.

      Josh cố tập trung vào lý do khiến cậu tới tòa nhà bốc hỏa này, nhưng cậu càng tập trung nhiều, cậu càng thấy mọi việc khó hiểu hơn.

      Rồi Sophie xuất . ĐIều đầu tiên Josh thấy là thay đổi kinh khủng người chị sinh đôi. Khi Sophie bước vào văn phòng tiến sĩ vài phút trước, Josh hồi hộp...nhưng bối rối. Sau chị ấy lại ở đây? Sao chị ấy tìm ra cậu? Cậu biết nhà Flamel gửi chị tới. Nhưng sao; chị về phe cậu và giúp cậu mang Coatlicue về. Đây là việc quan trọng nhất.

      Nhưng hạnh phúc của cậu kéo dài lâu. Nó nhanh chóng biến thành nỗi sợ, kinh tởm và thậm chí tức giận vì những hành động của chị. Sophie tới giúp cậu, chị ấy...ờ, Josh biết chị ấy muốn cái gì. Cậu quan sát và choáng váng, khi lớp khi của chị đông cứng thành lớp áo giáp bạc xung quanh cơ thể, sau đó chị nhẫn tâm dùng roi quất lên người Archon xinh đẹp và thể phòng vệ đó.

      Tiếng kêu đau đớn quằn quại của Coatlicue đau lòng, và khi bà quay mặt về phía Josh và vươn tay ra, đau đớn và cảm giác bị phản bội ánh lên trong đôi mắt bà khiến Josh chịu nổi. Cậu là người triệu tập bà ta từ thế giới bóng tối; cậu phải chịu trách nhiệm cho nỗi đau này. Nhưng cậu thể giúp được.

      Aoife chuồn ra sau lưng Coatlicue và giữ bà ta trong khi Sophie tiếp tục quất vào người bà. Sau đó Aoife lôi Archon bị thương về lại vương quốc bóng tối. Giây phút Coatlicue biến mất, Josh thấy mọt mất mát lo lớn. Cậu sắp, sắp làm được điều vĩ đại. Nếu Coatlicue chịu quay về thế giới, bà ... Josh nuốt miệng khói mùi cao su và mắt ầng ậng nước. Cậu biết chắc bà có thể làm gì.

      Từ dưới cậu hai bậc thang, Dee quay lại nhìn cậu, đôi mắt xám mở to và trong hoang dại trong ánh sáng mờ mờ. “ gần vào,” quát. hất hàm về phía căn phòng cháy. “Cậu thấy chưa? Họ làm điều họ luôn làm! Chết chóc và hủy diệt luôn theo nhà Flamel và đồng đảng của họ đó.”

      Josh lại ho, cậu cố gắng hít chút khí trong lành. Đây phải lần đầu cậu nghe lời buộc tội như thế này. “Scathach cũng thế.”

      “Sai lầm của Bóng tối là chọn nhầm phe.” Nụ cười của Dee trông xấu xí. “Cậu cũng suýt như thế.”

      “chuyện gì xảy ra kia vậy?” Josh hỏi. “Mọi chuyện xảy ra nhanh quá, và Sophie...”

      “Đây phải lúc để giải thích.”

      ,” Josh giận dữ cầu, và khí đột nhiên tràn ngập mùi vỏ cam.

      Dee dừng lại. Khí cậu cậu ta khiến đôi mắt sáng lên còn răng chuyển sang màu vàng. “Josh, cậu vuột mất khoảnh khắc làm biến đổi thế giới mãi mãi. Chúng ta suýt bắt đầu được quá trình biến trái đất thành thiên đường. Và cậu là phương tiện giúp chúng ta làm điều đó.” Khuôn mắt tiến sĩ chuyển thành chiếc mặt nạ cau có. “Hôm nay nhà Flamel phá ta. Và cậu biết vì sao chứ? Vì họ - cũng như những kẻ khác – muốn trái đất tốt hơn. Nhà Flamel thèm khát bóng tối, họ tồn tại bên lề xã hội, sống bí mật và trong dối trá. Họ mạnh lên nhờ nỗi đau và nhu cầu của những kẻ khác. Họ biết trong thế giới mới của ta có bóng tối cho họ trốn vào, có nỗi đau nào để họ lợi dụng. Họ muốn ta – và những người như ta – thành công. Cậu giúp ta tới thành công hơn bao giờ hết.

      Josh nhíu mày, cố hiểu những gì tiến sĩ . Liệu Dee có dối ? Cậu phải... mặc dù Josh thể có cảm giác rằng có trong lời người bất tử kia. Nhà Flamel có như thế ?

      cho ta nghe,” Dee hỏi. “Cậu có thấy Coatlicue?”

      Josh gật đầu. “Có.”

      “Bà ấy đẹp chứ?”

      “Vâng.” Cậu chớp mắt, nhớ lại. Bà ấy quá đẹp, giống ai cậu từng thấy.

      “Ta cũng nhìn thấy hình dạng của bà ta,” Dee nhàng . “Bà ta là trong số những Archon, những sinh vật cổ xưa, có khi còn là sinh vật người hình tinh quyền năng nhất, từng sống trái đất từ thời Khai nguyên. Bà ta là nhà khoa học sử dụng những công nghệ tối tân tới mức nó chẳng khác gì ma thuật. Bà ta có thể tạo ra những thứ khôi nguyên nhất.” Dee cẩn trọng nhìn Josh và từ từ tiếp. “Coatlicue có thể nhào nặn lại thế giới ngày nay, sửa chữa nó, khôi phuc nó. Nhưng cậu thấy Aoife làm gì bà ấy chưa?”

      Josh khó khăn nuốt nước bọt. Cậu thấy Aoife chuồn ra sau và lôi bà về lại vương quốc bóng tối. Cậu gật đầu lần nữa.

      “Cậu cũng thấy chị cậu làm gì chứ?”

      “Có.”

      “Sophie quất roi vào bà ấy – và đấy phải roi thương. Ta cá đấy là dồ của Perenelle, bện lại từ tóc của Medusa. Nó chị cần chạm vào ai cũng đủ khiến người đó đau đớn.” Dee vươn tay ra đặt lên vai cậu nhóc. Cậu cảm thấy hơi nóng dồn xuống hai tay. “Josh, giờ cậu mất Sophie rồi. ấy bị nhà Flamel kiểm soát quá mạnh. ấy là con rối của họ, nô lệ của họ. Họ lợi dụng ấy, như họ làm với bao nhiêu người khác trong quá khứ.”

      Josh gật đầu lần thứ ba. Cậu biến trước họ còn có những cặp song sinh khác, và cũng biết rằng họ sống sót được.

      “Cậu có tin ta , Josh Newman?” Dee đột nhiên hỏi.

      Josh nhìn Pháp sư, mở miệng định , nhưng lại gì.

      “À,” Dee cười. “Câu trả lời hay đấy.”

      “Tôi gì.”

      “Thi thoảng trả lời là câu trả lời,” người bất tử . “Để ta nhắc lại câu hỏi: cậu có tin ta hơn nhà Flamel ?”

      “Có,” Josh ngay. Cậu nghi ngờ điều đó.

      “Cậu muốn gì?”

      “Cứu chị tôi.”

      Dee gật đầu. “Tất nhiên rồi,” , thể giấu nổi khinh bỉ. “Cậu là con người mà.”

      “Chị ấy bị phù phép, đúng ? Làm sao tôi giải bùa được?” Josh lại hỏi.

      Tôi mắt Dee chuyển thành hai viên đá vàng. “Chỉ có cách: giết ai kiểm soát ấy – có thể là Nicholas hoặc Perenelle Flamel. Hoặc cả hai.”

      “Tôi biết làm sao...”

      “Ta có thể dạy cậu.” Dee hứa hẹn. “Và cậu chỉ cần tin ta.”

      Cửa kính trong tòa nhà phát nổ thành những mảnh , kêu lanh canh như tiếng nhạc, và rồi cánh cửa phía họ bật mở vì áp suất của hơi nóng và cơn gió thổi ngược xuống cầu thang. Hàng loạt những tiếng nổ lớn làm rung chuyển tòa nhà, làm vỡ rơi xuống. Tay vin cầu thang bằng kim loại đột ngột nóng đến nỗi thể sờ vào nổi.

      “Hai người cà kê gì đó thế?” Virginia Dare hét lên từ tầng dưới. Khí xanh tỏa ra từ người nâng mái tóc đen của lên khiến nó như cái áo choàng.

      “Chỉ làm vài thí nghiệm giả kim ấy mà...” Dee bắt đầu.

      tiếng nổ như sấm rền khiến cả ba người sụp xuống. Những mảnh vữa rơi từ trần nhà xuống và mùi nước thải xộc vào cầu thang.

      “Và hoặc hai thí nghiệm cũng hơi lớn,” thêm.

      “Chúng ta cần ra. Tòa nhà sắp sụp rồi đó,” Dare . quay người lại và tiếp tục lao xuống cầu thang. Dee và Josh bám sát.

      Josh hít mơi sâu. “Có phải tôi ngửi thấy mùi bánh mỳ cháy ?” cậu ngạc nhiên hỏi.

      Dare liếc nhìn Dee. “Em còn muốn biết mùi đó phát ra từ đâu.”

      “Em muốn biết đâu,” tiến sĩ đồng tình.

      Khi họ tới tâng cuối, Virginia lăng mình vào cánh cửa đôi để xông ra nhưng bị bật lại. Chúng bị khóa, sợi xích dày khóa hai tay cầm lại.

      “Tôi chắc chúng ta phải phá cái này mới hòng ra,” Dee lầm bầm.

      Virginia Dare thứ ngôn ngữ gì đó dùng ở Châu Mỹ hàng thế kỷ nay, rồi nhanh chóng chuyển qua tiếng . “Hôm nay còn tệ hơn được nữa cơ chứ?” càu nhàu.

      tiếng động tiếng rít, sau đó bình phun nước gắn trần nhà hoạt động, phun nước lên cả ba người, khiến mọi nơi bốc mùi cay xè.

      “Tôi đoán là ,” . đẩy ngón tay trỏ vào ngực Dee. “ giống nhà Flamel hơn dám thừa nhận đấy, Tiến sĩ: chết chóc và hủy diệt cũng theo đuôi đấy.”

      giống họ,” Dee nắm chặt lấy cái khóa. Khí vàng dập dờn quanh ngón tay , rơi xuống sàn thành dòng suối mỏng dài.

      “Em nghĩ là muốn dùng khí chứ?” Dare nhanh nhẩu .

      nghĩ lúc này ai biết chúng ta ở đâu quan trọng,” tiến sĩ , bẻ cái khóa làm đôi như thể làm bằng bìa cứng.

      “GIờ ai cũng biết mấy người ở đâu,” Josh .

      “Họ đuổi theo ta,” Dee đồng tình. đẩy cửa và đứng sang bên đê người bất tử đồng hành và Josh ra ngoài trước. Rồi liếc nhìn lại ngọn lửa bừng bừng cháy kệ cho bình tưới nước hoạt động, phóng ra ngoài cửa, về phía Josh và Dare, dừng lại trước ngưỡng cửa.

      “Tôi nghĩ họ sắp tới đây rồi,” Josh lẩm bẩm.



      CHƯƠNG BA
      “Mars Ultor.”

      Ông bị giam cầm quá lâu. Giờ đây ông thể biết ông mơ hay chỉ nhớ lại những chuyện trong quá khứ. Những hình ảnh và suy nghĩ lởn vởn trong đầu óc ông lúc này là của ông, hay những ký ức do thanh Clarent mang lại? Khi nhớ lại quá khứ, là ông nhớ lại thời quá khứ của ông, của thanh gươm, hay của thời kỳ những người từng cầm thanh gươm đó trước cả ông? Hay là của cả ba? Đâu là ?

      Và dù ông chắc về nhiều thứ nhưng ông vẫn nhớ vài chuyện. Những ký ức về phần chính trong cuộc đời ông. Những ký ức làm nên ông.

      Ông nhớ những người con trai của mình, Romulus và Remus. Những ký ức đó bao giờ ông quên. Nhưng dù ông cố thế nào nữa, ông vẫn nhớ nổi khuôn mặt vợ mình.

      “Mars.”

      Ông có thể nhớ từng chi tiết những trận chiến. Ông biết tên từng vị vua và người dân thường ông chiến đấu cùng, những hùng tử trận dưới lưỡi kiếm của ông và những kẻ hèn nhát bỏ chạy vì sợ ông. Ông nhớ những chuyến hải trình tìm kiếm, khi ông và Prometheus tới những vùng đất chưa ai biết tới và thậm chí còn tới những Vương quốc bóng tối mới được tạo dựng.

      “Chúa tể Mars.”

      Ông được chứng kiến những kỳ quan và những cảnh tượng hãi hùng. Ông từng chiến đấu chống lại những Elder và Archon, Những người cổ đại, thậm chí cả những chúa tể từng xuất trái đất này. Thời xa xưa đó ông từng được thờ phụng như vị hùng, cứu tinh của loài người.

      “Mars. Thức dậy.”

      Ông muốn thức giấc, vì thức giấc đến cùng với nỗi đau, nhưng còn hơn nỗi đau đó là nhận thức mình bị giam cầm, và đó còn mãi tới ngày tận thế. Và khi ông tỉnh dậy, trừng phạt của ông, nỗi đau của ông, gợi nhắc cho ông về thời khắc loài người sợ hãi và khinh ghét ông.

      “Thức dậy.”

      “Mars...Mars...Mars...”

      Giọng – hay là nhiều giọng ? – vang lên đều đặn, ngừng nghỉ và quen thuộc.

      “Thức dậy!”

      Sâu trong lăng mộ trong lòng Paris, từ trong đống xương cùm giữ ông, Elder mở mắt. Đôi mắt đó có màu xanh lơ chỉ trong phút chốc chuyển thành màu đỏ như ngọn lửa. “Giờ sao?” ông quát, giọng vang vọng trong chiếc mũ trụ bao giờ ông đội.

      Trước mặt ông có vẻ là hai con người. Họ cao và thanh mảnh, làn da màu đồng tương phản với áo phông trắng và quần bò trắng, giầy trắng. Người phụ nữ tóc cắt ngắn sát da đầu trong khi người đàn ông lại cạo trọc. Đôi mặt của cả hai sau lớp kính râm.

      Họ cùng lúc tháo kính ra. Đôi mắt họ sáng và xanh, đồng tử đen bé xíu. Dù ông đau đớn do lớp khí cháy và cứng lại gây ra, ông cũng nhận ra họ. Họ phải người: họ là Elder. “Isis?” ông hỏi bằng ngôn ngữ cổ xưa của Danu Talis.

      “Lâu lắm mới gặp lại ông bạn,” người phụ nữ .

      “Osiris?”

      “Chúng tôi tìm ông lâu lắm rồi,” người đàn ông thêm. “Giờ chúng tôi tìm thấy ông.”

      “Nhưng nhìn xem bà ấy làm gì ông này,” Isis nín thở, ràng là đau khổ.

      Phù thủy vùng Endor bẩy Mars vào trong nhà ngục này, bà tạo ra nó từ đầu lâu sinh vật chưa từng có mặt trái đất. Nhưng đối với bà giam cầm ông thôi là chưa đủ: bà thêm vào hình phạt cho người tù nhân. Phù thủy khiến khí của Mars cháy liên tục, rồi cứng lại làn da ông, giống như khi nham thạch ra khỏi nhân trái đất, để lại ông bị kẹt lại trong cũi bằng đầu lâu với nỗi đau thường trực này.

      Mars Ultor cười và thanh nghe như thể tiếng rống từ đâu vọng lại. “Hàng thiên niên kỷ nay ta gặp ai, vậy mà giờ ta lại nổi tiếng rồi.”

      Isis và Osiris tách nhau ra và tiến tới hai phía của thứ trông bức tượng xám khổng lồ bị đóng băng vĩnh viên trong tư thế cố vươn lên. Nửa thân dưới của Mars, từ thắt lưng trở xuống, bị chìm sâu trong lòng đất – Dee biến chúng thành xương hóa lỏng rồi lại làm cứng nó lại, bẫy ông trong đó. Cánh tay trái duỗi thẳng ra của ông bị phủ lớp ngà, còn lưng ông là hai hình hài hóa đá của hai sinh vật xấu xí Phobos và Deimos nhe nanh múa vuốt. Đằng sau vị Elder là bệ đá hình chữ nhật. Ông yên nghỉ ở đó hàng ngàn năm nay. Nhưng giờ bệ đá vỡ làm đôi.

      “Chúng tôi biết Dee ở đây,” Isis .

      “Đúng. tìm được ta. Ta rất ngạc nhiên vì cho các người biết ta ở đâu,” Mars nghiến răng . “Chúng ta đánh nhau. Chính giam lỏng ta như thế này.”

      “Dee ,” Osiris . Gã đứng đằng sau lưng Mars, xem xét những bức tượng thần rừng cả phút nay. “ phản bội ông. phản bội tất cả chúng ta.”

      Mars rít lên trong cơn đau. “Đáng ra ta bao giờ nên tin . cầu ta Đánh thức thằng nhóc, Vàng.”

      “Và rồi dùng Vàng để gọi Coatlicue từ Vương quốc bóng tối,” Isis thầm.

      Luồng khói màu đen đỏ xoắn vặn trong đôi mắt Mars Ultor. Cơn giận làm vỡ những mảnh bám cơ thể ông ra và những mảng cứng của luồng điện bị hóa cứng của ông rơi xuống. khí nồng nặc mùi thịt cháy. “Coatlicue: Lần cuối cùng bà ta tàn phá vương quốc này chính ta chiến đấu với mụ,” ông khó nhọc vì đau do luồng điện cháy. “Ta mất rất nhiều chiến hữu.”

      Người phụ nữ mặc đồ trắng gật đầu. “Chúng ta đều mất rất nhiều bạn bè và người thân chỉ vì mụ ta. biết làm sao mà tiến sĩ lại tìm được nơi bà ta cư ngụ và chiêu gọi bà ta.”

      “Nhưng vì sao?” Tiếng của Mars rền vang. “Giờ đâu có đủ Elder trái đất này để thỏa mãn khẩu vị của mụ ta chứ?”

      Osiris gõ vào lưng Elder để thử độ cứng. “Chúng tôi tin rằng muốn thả mụ ta vào trái đất. Chúng ta tuyên án Dee là utlaga vì phạm quá nhiều sai lầm. Giờ muốn phục thù, và phá hủy toàn bộ các Vương quốc bóng tối và toàn bộ thế giới này. muốn tất cả chúng ta tiêu đời.”

      Isis và Orisis được vòng quanh vị Elder và giờ lại đứng đối diện với ông. “Nhưng vì chúng tôi theo mùi của nên chúng tôi mới có thể theo dấu mà tìm thấy... ông,” Isis .

      “Thả tự do cho ta,” Mars cầu xin. “Hãy để ta tìm gã tiến sĩ đó.”

      Cả hai lắc đầu quầy quậy. “Chúng tôi thể.” Isis buồn bã . “Zephaniah dùng những phép thuật và bùa ngải của Archon và những chúa tể trái đất. nghi ngờ gì nữa Abraham dạy bà ta.”

      “Thế vì sao các người ở đây?” Mars gầm lên. “Thế các ngươi từ đảo của các ngươi tới đây làm gì?”

      bóng dáng xuất ở trước cửa. “Tôi cầu họ tới.”

      bà lão mặc áo sơ mi xám và váy dài bước vào trong. Bà ta lùn và béo, còn mái tóc màu xanh nhạt được uốn xoăn. Cái kinh râm quá khổ che gần hết khuôn mặt bà, tay phải bà ta cầm cây gậy trắng. Bà chống gậy bước tới chỗ vị Elder bị giam cầm, và dừng lại khi cây gậy trắng chạm vào bức tượng.

      “Bà là ai?” Mars hỏi.

      “Ông nhận ra tôi?” Luồng điện màu nâu bay lên từ bà lão, khí tràn ngập mùi gỗ cháy đắng đắng ngọt ngọt.

      Mars hít hơi sâu vì những ký ức lâu ngày ùa về. “Zephaniah!”

      “Chồng tôi,” Phù thủy Endor rất .

      Màu mắt Mars cứ nhảy múa hết từ đỏ sang xanh rồi xanh sang đỏ, khói bay lên từ dưới mũ trụ. Làn da cứng như đá của ông vỡ vụn ra. Ông cố gắng vươn ra trước trước khi lớp da cứng mới hình thành. Vị Elder lồng lộn gầm lên cho tới khi cả hang đong đầy nỗi tức giận và sợ hãi của ông, mùi thịt cháy và xương bị nung nóng. Cuối cùng, tới khi kiệt sức, ông đứng đó nhìn người phụ nữ từng là vợ ông, người ông từng hơn hết thảy mọi thứ, người giam cầm ông vĩnh viễn cùng nỗi khổ này. “Bà muốn gì, Zephaniah?” ông hỏi bằng giọng thầm nhưng đầy nỗi tức giận. “Bà tới đây để trêu ngươi tôi à?”

      “Sao tôi phải làm thế với ông chứ,” người phụ nữ và móm mém cười. “Tôi tới đây để thả tự do cho ông. Tới lúc rồi: thế giới này lại cần thầy phù thủy.”





      CHƯƠNG BỐN
      Hai cảnh sát thành phố San Francisco dừng lại khi nhìn thấy bộ ba kỳ lạ - phụ nữ, theo sau là cậu thiếu niên và sau cùng là người đàn ông lớn tuổi hơn – chạy ra từ cửa hậu tòa nhà cháy rụi.

      “Còn ai nữa trong tòa nh...” cảnh sát mở miệng nhìn thấy người đàn ông cầm theo thanh đoản kiếm và thanh nữa giắt ở thắt lưng. Khi người cảnh sát định cầm lấy khẩu súng ông thấy cậu thiếu niên cùng có hai thanh kiếm nữa hai bên hông. Kỳ lạ là, người phụ nữ tóc dài lại cầm thứ giống cây sáo dài.

      “Đứng lại đó,” viên cảnh sát thứ hai ra lệnh. “ Hạ vũ khí xuống.” Cả hai viên cảnh sát giơ súng lên.

      “May mắn là các ngài tới,” người đàn ông thó tóc hoa râm đứng lên trước.

      “Đứng nguyên đó.”

      “Tôi là Tiến sĩ John Dee, chủ công ty này, Doanh nghiệp Enoch.”

      “Đắt mấy thanh kiếm xuống đất, thưa ngài.”

      “Tôi nghĩ thế. Đây là mấy món đồ cổ vô giá trong bộ sưu tập cá nhân của tôi.” Pháp sư bước lên thêm bước nữa.

      “Đứng đấy! Tôi biết ông,” viên cảnh sát lên tiếng. “nhưng tôi biết tôi muốn ai cầm kiếm tiến tới gần tôi. Đặt vũ khí xuống và trở về chỗ cũ. Nhanh,” thêm, khi nhìn thấy cuộn khói bay ra từ thanh máy cạnh cửa.

      Hai viên cảnh sát chỉ nghe thấy những lời cuối là. “John, sao làm theo những lời hai cảnh sát ?” ta vừa vừa lôi cây sáo đặt lên môi. Hai người đàn ông chỉ nghe thấy có nốt nhạc trước khi họ ngã xuống, bất tỉnh nhân . “Và đừng phí thời gian nữa,” Virginia Dare cằn nhằn. ta bước qua hai người cảnh sát, qua lỗ hổng đáng ra là cửa chính của tòa nhà dẫn ra phố. “ thôi.”

      “Chúng ta lấy chiếc xe,” Dee bước ra đường Telegraph nhưng xựng lại, nhận ra rằng Josh vẫn đứng đó. Cậu nhóc đứng cạnh hai viên cảnh sát bất tỉnh. “ nào. Chúng ta có thời gian!”

      “Ông định bỏ họ lại đây à?” Josh hỏi, lỗ thất vọng.

      Dee nhìn Dare rồi nhìn Josh. Cả hai cùng gật đầu.

      Josh lắc đầu. “Tôi bỏ họ lại. Cả tòa này đổ sập lên người họ.”

      “Chúng ta có thời gian..” Dare dợm lời.

      “Josh.” Luồn điện của nổ tanh tách – cơn giận của quá ràng.

      .” Tay trái đặt lên hai bao da đựng gươm bên hông. Đột nhiên mùi vỏ cam tràn ngập tầng trệt tòa nhà đổ nát và hai thanh kiến đá phản ứng lại. Josh cảm thấy luồng hơi ấm ở tay trái lên vai và dừng lại ở cổ. Những ngón tay cậu nắm chặt lại quanh thanh gươm cậu hay dùng : thanh Clarent, thanh kiếm cổ được biết đến với cái tên Thanh Gươm Hèn Nhát.

      Những ký ức ràng hơn...

      Dee, trong trang phục của thời kỳ khác, chạy trong thành phố chạy rụi, cầm theo đống sách.

      Luân Đôn, 1666.

      Tay Josh đặt lên thanh gươm bên phải. luồng khí lạnh lan vào trong da thịt cậu và đột nhiên cậu biết tên nó. Đây là thanh Durendal, thanh Gươm của khí, từng theo những kỵ sĩ giỏi nhất thế giới này.

      NHững ký ức khác lại vươn tới với cậu...

      Hai hiệp sĩ mặc áo giáp bạc và vàng sáng lóa đứng cạnh chiến binh ngã xuống, bảo vệ khỏi lũ quái vật khát máu bao quanh họ trong ánh chiều tà.

      cơn giận nhen nhóm trong bụng cậu. “Mang họ ra ngoài,” Josh ra lệnh. “Tôi thể để họ chết ở đây.”

      Trong thoáng như thể tiến sĩ người định thách thwucs cậu, nhưng rồi gật đầu và nở nụ cười, nhưng mắt cười. “Tất nhiên. Cậu đúng. Chúng ta thể để họ lại, đúng , Virginia?”

      “Em có thể,” .

      Dee nhìn chằm chằm. “À, .” nhét hai thanh kiếm vào thắt lưng và trở lại tòa nhà. “Cậu có lương tâm, Josh ạ.” và đỡ bên tay của viên cảnh sát. “Cẩn thận: ta thấy nhiều người tốt chết vì cái đó rồi.”

      Josh dễ dàng đẩy viên cảnh sát thứ hai ra ngoài. “Bố tôi dạy tôi và Sophie rằng chúng tôi phải nghe theo tiếng của trái tim và làm theo lẽ phải.”

      “Có vẻ ông ây là người tốt.” Dee . hết hơi vì cố đẩy người cảnh sát ra ngoài đường. Họ đặt hai người trước xe tuần tra.

      “Có thể hôm nào đó ông gặp ông ấy,” Josh .

      “Tôi nghĩ thế.”

      Virginia Dare trèo lên chiếc limo vẫn đậu đường. Nóc xe đầy bụi bẩn, kính vỡ. “Giờ chúng ta cần ra khỏi đây – ngay!”

      Dee trườn vào ghế cạnh Dare, Josh rút hai thanh kiếm ở bên hông đặt xuống sàn xe phía trước ghế trước trước khi ngồi vào ghế tài xế. “Tới đâu?” cậu hỏi.

      Virginia Dare nhoài người lên. “Cứ ra khỏi phố Đồi này trước .” Khi , luồng khói xanh nhạt bốc lên từ nóc tòa nhà. Đột nhiên, cả ba luồng điện nhấp nhoáng – vàng, xanh nhạt và vàng cam. “Chúng ta cần ra khỏi thành phố này. Chuyện này đánh động toàn toàn bộ khu Bờ Đông Mỹ. Mọi thứ kéo tới đây.”

      khí buổi sáng sống động với thanh còi báo động tới gần.

      “Và tôi tới cảnh sát,” thêm.



      CHƯƠNG NĂM
      Thế giới tới hồi kết.

      Chiếc xe Jeep Wagoneer màu trắng đời 1963 phóng dọc qua những quang cảnh khiến mọi màu sắc nhanh chóng biến mất. Prometheus lái xe, đôi tay to bè đặt vô lăng, nắm chặt đủ để làm vỡ lớp nhựa và kim loại đó. Perenelle Flamel ngồi sau ông, cùng Nicholas nằm duỗi dài, đầu ông nằm trong lòng bà.

      Vương quốc bóng tối của Prometheus sụp đổ. Bầu trời màu xanh trứng sáo biến thành màu bụi phấn; những đám mây chỉ còn là những tán khói. Biển ngừng chuyển động. Các làn sóng hóa đá đứng im, màu nước xanh biến thành trắng trước khi chuyển thành những lớp bụi xám, còn cát vàng và những viên đá cuội sáng bóng trở thành những lớp giấy cháy và than củi. Những cơn gió ma mị cuối bay khói bụi, cuốn bay vào khí. Chúng rơi lên cây cỏ cũng mất hình dạng và màu sắc, như màu sắc vẽ giấy da; mọi thứ từng sinh trưởng chuyển sang màu vàng úa trước khi biến thành bụi xám.

      Khi toàn bộ màu sắc biến mất, hình dáng của những của những vật thể xám xịt cũng dần mờ nhạt, đường chân trời biến thành hàng ngàn những đốm sáng lấp lánh như trận mưa bụi, biến mất chẳng để lại gì ngoài màn đen kịt.

      Chiêc Wagoneer lao nhanh con đường ven biển hẹp, tiếng động cơ gầm rú, lpps xe nghiến mặt đường nghe rin rít. Nội thất trong xe ám mùi hoa hồi và mùi năng lượng của Elder tỏa ánh sang đỏ và nóng tới nỗi những chiếc ghế cháy xém và làm cháy nóc xe bên ông. Ông cố gắng trong tuyệt vọng giữ Vương quốc bóng tối của mình đến khi chiếc xe trở về trái đất ở Mũi Reyes. Nhưng ông thua: thế giới ông tạo ra hang thiên niên kỷ trước chết dần, trở về trạng thái Khai nguyên của nó.

      Những kiện cách đây có mấy tiếng đồng hồ vắt kiệt sức lực của Prometheus, việc sử dụng con ma cà rồng trong hình dạng chiếc đầu lâu pha lê để giúp nhà Flamel theo dấu Josh ở San Francisco lấy năng lượng của ông. Ông biết chiếc đầu lâu đó nguy hiểm ra sao – chị ông, Zephaniah, cảnh báo ông nhiều lần – nhưng ông vẫn quyết định giúp Nhà giả kim và vợ ông ta. Prometheus luôn luôn đứng về phía loài người.

      Và thế thế ông đặt tay lên vật cổ xưa đó và sử dụng sức mạnh của nó… và đổi lại cái đầu lâu lấy ký ức của ông và dòng điện của ông. Giờ ông yếu ớt, cực kỳ yếu ớt, và ông biết ông gặp nguy vì sử dụng luồng điện quá mức. Chỉ vài giờ nữa thôi, mái tóc ông bạc trắng và thậm chí đôi mắt xanh của ông mờ đục.

      Ông tới rất gần, rất gần với ranh giới giữa thế giới của ông và trái đất...nhưng ngay khi ông nghĩ thế, cuộn khói xám bỗng bao lấy chiếc xe.

      Phản ứng tức của Prometheus là lái xe vào con đường hẹp. Trong giây lát ông nghĩ rằng phân hủy của Vương quốc bóng tối vươn tới nơi ông; nhưng rồi ông hít vào luồng khí lạnh và mùi muối biển khiến ông nhận ra làn sương mù lúc nãy chỉ là sương mù tự nhiên của biển thường có ở Mũi Reyes. Thi thoảng làn sương mùi này cũng chui vào các vương quốc bóng tối khác. Nhưng nó cũng là dấu hiệu cho thấy ông tới gần ranh giới bóng tối của mình.

      Những bóng người mờ nhạt đột nhiên xuất ở bên ngoài màn sương, bóng họ đổ dài vệ đường. “Những đứa con của ta,” vị Elder hít hơi dài. Những người đó là những gì còn sót lại của người Khởi nguyên. Thời xa xưa, trong Thành phố Vô danh bên lề thế giới, luồng điện của Elder bắn những tia lửa vào trong những người bùn và ban cho chúng sống. Những người đất đó trở thành những Người khởi nguyên:bề ngoài họ giống như quái vật – nhưng chúng phải quái vật – như những thứ mà thế giới này từng nhìn thấy. Những sinh vật đó được làm ra từ bùn đất, hình dạng xấu xí, đầu trọc nhưng lại quá to so với cái cổ và khuôn mặt định hình chỉ với những nét mờ nhạt nhất như mũi hay mắt ở đâu. Họ theo Prometheus về Vương quốc bóng tối này, mang theo những huyền thoại, bí mật và nỗi sợ hãi theo. Họ sống hàng thiên niên kỷ. Nhưng giờ chỉ còn lại những sinh vật này. Chúng gào thét trong Vương quốc bóng tối để tìm kiếm sống và ánh sáng từ những tia lửa điện. thanh từ động cơ chiếc xe thu hút họ, và giờ, như những bông hoa hướng về phía mặt trời, khuôn mặt họ quay về phía chiếc chảo đầy nguồn điện bên trong chiếc xe – đặc biệt là nguồn năng lượng quen thuộc, nguồn năng lượng ban cho họ cuộc sống vĩnh hằng.

      Nhưng của có nguồn năng lượng vô biên của vị Elder giúp duy trì thế giới và những sinh vật sống trong đó, làn da bùn của họ nứt toác và chuẩn bị rơi xuống; hóa thành từng đám đất trước khi rơi xuống đất. Những những người Khởi nguyên cuối cùng biến thành hư , Prometheus sụt sùi, những giọt nước mắt đỏ như máu ứa ra từ khóe mắt. “Tha thứ cho ta,” ông thầm bằng thứ ngôn ngữ cổ của Danu Talis.

      trong những sinh vật bằng bùn đừng ngay sau xe, vươn bàn tay dài bất thường ra như kiểu chào mừng hay tạm biệt. Vị Elder nhìn qua gương chiếu hậu nhìn những sinh vật đó. Ông chưa bao giờ đặt cho họ cái tên, nhưng ông nhận ra sinh vật đó nhờ vệt sẹo ngwucj. Đấy là trong những sinh vật đầu tiên được ông ban cho sống ở thành phố của những vị thần trái đất. Màu đen hư vô bao trùm đằng sau sinh vật, màu bùn nâu chuyển thành màu muối khi sinh vật chìm vào lãng quên. “Tha thứ cho ta,” Prometheus van vỉ lần nữa nhưng sau khi những sinh vật thuộc tộc Khởi nguyên cuối cùng, những sinh vật ông ban tặng cuộc sống bình thường biến mất, mọi dấu hiệu cho diện của họ cũng biến theo.

      Bên trong xe tràn ngập mùi năng lượng của vị Elder, và những đốm lửa xíu nhảy máu bề mặt kim loại. Đầu ngón tay rực cháy của ông nắm chặc lấy tấm gương khi ông nghiêng nó xuống để nhnf hai sinh vật đằng sau xe. “Scathach đúng,” ông than thở. “ ấy luôn luôn rằng chết chóc và hủy diệt luôn theo nhà Flamel.”



      CHƯƠNG SÁU
      thôi – đừng chạy,” Niten cầu. Những ngón tay cứng như sắt đặt lên vai bé buộc phải dừng lại.

      lắc vai để đẩy tay ta ra. “Chúng ta phải ...”

      “Chúng ta nên thu hút chú ý,” người đàn ông Nhật Bản thó đều đều . “Giấu cây roi dưới áo khoác cháu .”

      Sophie Newman nhận ra rằng vẫn cầm cây roi da màu đen bạc của Perenelle ở tay phải. cuộn chặt nó lại và giấy dưới tay trái.

      “Nhìn xung quanh cháu ,” Niten tiếp. “Em thấy cái gì?”

      Sophie quay lại. Họ đứng ở chân Đồi Telegraph. cột khói đen sì bốc lên từ đống lửa nhảy múa, vươn cao tận trời xanh. Tiếng còi cứu hỏa và các loại xe khác rú lên trong khi xung quanh họ mọi người chen chúc nhìn đám cháy nuốt chửng trong những tòa nhà duy dáng nhất chỉ sao Tháp Coit.

      “Em thấy lửa...khói...”

      tiếng nổ từ trong tòa nhà và những mảnh kính vỡ và vữa rơi như thác đổ xuống chiếc xe bus hiệu Volkwagen trắng đậu bên ngoài. Tất cả các cửa kính bên phải đều thành vụn. Bóng tối của thất vọng thoáng xuất khuôn mặt thường biểu lộ cảm xúc của Niten. “Nhìn mọi người xem,” . “ chiến binh cần phải đề phòng mọi thứ xung quanh.”

      Sophie để ý những khuôn mặt. “Mọi người theo dõi trận hỏa hoạn,” .

      “Chỉ có thế,” Niten đồng tình. “Và chúng ta cũng phải làm thế, nếu chúng ta muốn hòa đồng vào dòng người. Quay người lại và quan sát .”

      “Nhưng Josh...”

      “Josh rồi.”

      Sophie bắt đầu lắc đầu.

      ‘Quay người nhìn ,” Niten vẫn khăng khăng. “Nếu cháu bị bắt cháu thể cứu em em.”

      bé quay lại và liếc nhìn trận hỏa hoạn. Niten đúng, nhưng đứng đó đuổi theo em trai mình đúng. Mỗi giây họ trì hoãn là giây Josh trượt xa hơn và xa hơn khỏi . Hình ảnh tòa nhà cháy và nhạt nhòa vì đôi mắt đong đầy nước mắt. khó khăn lắm mới chớp mắt và gạt nước mắt . Mùi cao su khen khét và mùi dầu cùng mùi kim loại cháy cũng những thứ mùi khác khiến mọi người phải lùi lại. Nithen và Sophie làm theo họ.

      Josh mất rồi.

      cố gắng hiểu câu đó nhưng dường như là thể. Cậu rời bỏ . Vài phút trước cậu ở gần đến nỗi có thể chạm vào cậu, nhưng khi muốn giúp cậu lại quay cùng cái nhìn ghê tởm và sợ hãi và theo Dee và Virginia Dare.

      Josh mất rồi.

      Cảm giác tuyệt vọng khiến mệt mỏi: bụng quặn thắt và họng khô rát. Em sinh đôi của , em trai của , làm điều cậu từng hứa bao giờ làm: cậu rời xa . Những giọt nước mắt rơi, sụt sùi, người run lên khiến thở nổi.

      khiến người khác để ý đấy,” Niten thầm. bước lại gần Sophie hơn và nhàng đặt tay trái lên mu bàn tay phải của . Đột nhiên bé thấy xung quanh mình rộn lên mùi cay cay của trà xanh và đột nhiên thấy bình tĩnh. “ cần em phải dũng cảm lên Sophie à. Người mạnh có thể sống sót nhưng người dũng cảm chiến thắng.”

      hít hơi sâu và nhìn vào đôi mắt nâu của Niten. bàng hoàng và choáng váng vì thấy chúng cũng đong đầy nước mắt. Kiếm sĩ chớp mắt và giọt nước mắt chảy xuống hai bên gò má.

      “Em phải người duy nhất mất người mình thương trong ngày hôm nay,” Niten lại nhàng tiếp. “ biết Aoife hơn bốn trăm năm nay. ấy là...” dừng lại và nét mặt giãn ra. “ ấy khiến người khác tức điên, xấu tính, hách dịch, ích kỷ và ngang ngạnh...nhưng rất, rất thân thiết với tôi.” Khói xanh xám cặn xoắn bốc lên từ tòa nhà cháy và chui vào trong đám đông.

      Sophie theo dõi những người quan sát quay mặt vì khói, ho vì khói xông vào cổ họng. Nhiều người bắt đầu khóc vì khói và bụi bay làm cay mắt họ thành ra Niten khóc hề bị để ý.

      chị ấy,” Sophie thầm.

      gật đầu . “ ấy cũng theo cách của mình, dù ấy bao giờ thừa nhận.” Bàn tay của Kiếm sĩ nắm chặt lấy tay bé, và khi , có chút gì đó trong sáng và duyên dáng của tiếng Nhật thời trai trẻ của . “Nhưng ấy chết.” khẳng định. “Thậm chí các Archon cũng biết rằng họ thể giết Aoife bóng tối. Hai thế kỷ trước, ấy đơn thương độc mã mở đường máu thoát khỏi Vương quốc bóng tối Jigoku khi bị bắt cóc bởi những tay chân của Shinigami, Thần Chết. ấy tìm thấy . tìm ra ấy.” dừng lại rồi thêm, “Cũng như em tìm ra và cứu được em trai mình.”

      Sophie gật đầu. tìm ra Josh, và cứu cậu dù cho có chuyện gì xảy ra. “Vâng. Nhưng em phải làm gì?” hỏi, biết rằng mình bằng thứ tiếng Nhật hoàn hảo.

      theo ,” Nithen và dễ dàng lách qua đám đông, qua Đại Lộ Telegraph Hill tới phố Lombard.

      Sophie chạy theo , gần đến mức có thể. muốn mất dấu trong đám đông. Niten di chuyển tốn tý hơi sức nào qua những khách du lịch và những người quan sát vụ cháy. “Chúng ta đâu đây?” phải hét lên vì tiếng ồn từ những chiếc xe cứu hỏa và còi xe cảnh sát.

      “Tới gặp Tsagagalalal.”

      “Tsagaglalal,” nhắc lại, cái tên đó gợi lên ký ức của Bà Phủ thủy Endor. “Giám quan.”





      CHƯƠNG BẢY
      “Ông nên để dành cơn giận cho những người xứng đáng ấy,” Perenelle Flamel đáp lại. “Đây phải lỗi của chồng tôi.”

      “Ông ấy là tác nhân,” Prometheus .

      “Nhưng đó luôn luôn là nhiệm vụ của ông ấy.” Perenelle ngồi ở ghế sau, Nicholas nằm dài bên cạnh bà. Bà xoa trán chồng bà. Nhà giả kim bất tỉnh, da xám ngoét, má nổi những đường gân và những mạch máu tím. Túi mắt ông có vết thâm tím, và mỗi khi bà vuốt lên đầu ông, nắm tóc ngắn lại rơi tay bà. Nicholas nhúc nhích, hơi thở của ông đứt đoạn khó có thể cảm nhận được. Cách duy nhất Nữ Phù thủy có thể rằng ông ấy còn sống là nhờ ấn ngón tay vào cổ họng để cảm nhận những nhịp đập yếu ớt.

      Nicholas chết dần và bà cảm thấy...

      Bà cảm thấy...

      Perenelle lắc đầu; bà chắc bà cảm thấy thế nào/ Bà gặp và người đàn ông này từ hồi giữa thế kỷ mười bốn, tại Paris. Họ cưới nhau vào ngày mười tám tháng Tám năm 1350, và bà có thể đếm đầu ngón tay số tháng họ xa nhau kể từ ngày đó. Bà hơn Nicholas 10 tuổi và ông phải người chồng đầu tiên của bà, nhưng họ lấy nhau được thế kỷ trước khi bà với ông bà là góa phụ.

      ông từ giây phút bà gặp ông, và giờ bà vẫn ông, bà chắc chắn rằng bà còn ông nhiều hơn... chắc chắn rằng bà nên thất vọng...giận dữ...buồn bã hơn khi ông chết dần thế này?

      Nhưng bà thấy thế.

      Bà thấy ... lòng.

      hề biết mình gật đầu. Bà lòng vì cuối cùng mọi chuyện cũng tới hồi kết.

      người bán sách trở thành nhà giả kim – hầu như là ngẫu nhiên – dạy cho bà những điều kỳ diện và cho bà xem những điều kỳ diệu. Họ cùng nhau khắp thế giới này và tới những Vương quốc bóng tối tiếp giáp. Họ cùng nhau chiến đấu với lũ quái vật và những sinh vật được tồn tại ngoài những cơn ác mộng. Và mặc dù họ có vài người bạn – loài người và người bất tử, vài Elder và thậm chí vài Thế hệ Kế tiếp – đó là những kinh nghiệm cay đắng dạy họ chỉ được tin người kia. Họ chỉ có thể hoàn toàn tin tưởng người còn lại. Ngón tay Perenelle nhàng vuốt lên má và quai hàm chồng. Nếu ông chết vào giờ phút này, ông chết tay bà, và chắc chắn rằng bà cũng sống lâu hơn ông là mấy, vì bà nghĩ rằng sau hơn sáu trăm năm chung sống, bà có thể sống mà có ông. Nhưng ông chưa thể chết – bà đồng ý để ông chết; bà phải làm mọi thứ để ông được sống.

      “Tôi xin lỗi,” Prometheus đột nhiên .

      “Ông việc gì phải xin lỗi cả,” Perenelle . “Scathach đúng: chết chóc và hủy diệt theo chân chúng tôi ngần ấy thế kỷ. Mọi người chết vì chúng tôi – chết để cứu chúng tôi, bảo vệ chúng tôi, chết vì họ biết chúng tôi.” Khuôn mặt bà đột nhiên hằn in nỗi đau. “Qua hàng đó năm bà tự tạo vỏ bọc bảo vệ bà khỏi những cảm xúc về những cái chết và những nỗi đau, nhưng có những lần – như lúc này – khi lớp vỏ vỡ ra và bà cảm thấy bà có trách nhiệm cho mọi mất mát.

      “Nhưng bà cứu rất, rất nhiều người, Perenelle ạ.”

      “Tôi biết,” Nữ Phù thủy đồng tình, mắt bà vẫn hướng về Nicholas. “CHúng tôi giữ chân những Elder đen tối, chúng tôi chống lại Dee và Machiavelli và đồng bọn trong hàng thế kỷ.” Bà động đậy chút để nhìn những sinh vật từng tồn tại biến mất ở gần xe hơn. “Và chúng tôi chưa làm xong. Prometheus, ông thể để chúng tôi chết ở đây.”

      “Tôi lái nhanh nhất có thể.” Dòng mồ hôi màu đỏ rỉ khuôn mặt Elder. “Nhưng tôi chỉ có thể giữ thế giới này tồn tại trong chốc nữa...” Bên ngoài những đám mây mang mùi muối dày lên, phủ lấy chiếc xe, và Prometheus bật cần gạt lên để xua chúng . “Chúng ta tới gần rồi,” ông , và rồi khi họ rời Vương quốc bóng tối và trở lại Mũi Reyes, đám sương mù bay và thế giới ra với màu sắc tươi sáng khiến mắt họ đau khi nhìn lên. Elder đạp chân phanh khiến chiếc xe dừng đứng con đường đất. Ông tắt máy và trèo ra ngoài. Ông chống tay vào nóc xe và quay lại nhìn đám sương mù, nhìn chúng vặn xoắn thành những sợi chỉ mảnh.

      Ông dành cả cuộc đời tạo ra thế giới này, hình thành nó. Đó là phần của ông. Nhưng giờ Vương quốc Bóng tối của ông sụp đổ thành hư , luồng điện của ông yếu ớt, ký ức của ông bị đầu lâu pha lê hút lấy, và ông biết ông bao giờ có thể tái tạo nổi nó. Trong giây phút đám sương mù bay , để lại cho ông hình ảnh cuối cùng về vương quốc bóng tối xinh đẹp và thanh bình của ông...

      Mất rồi.

      Prometheus chui lại vào xe và quay qua nhìn Perenelle và Nicholas. “Vậy là sắp tới phút cuối rồi hả? Abraham có về chuyện này.”

      “Sớm thôi,” Perenelle . “Nhưng phải lúc này. Chúng ta còn phải làm việc nữa.”

      “Bà luôn biết cách kết thúc mọi việc.”

      “Luôn luôn,” bà tự tin .

      VỊ Elder thở dài. “Bà có thể Nhìn thấy trước.”

      “Đúng, nhưng còn hơn thế nữa. Tôi từng được người khác cho nghe.” Bà nhìn Prometheus, đôi mắt xanh của bà sáng lên trong bóng tối. “Nicholas tội nghiệp của tôi: số phận của ông ấy được định đoạt khi người đàn ông tay bán cho ông ấy cuốn Codex. Cuốn sách thay đổi cuộc đời ông – của cả hai chúng ta – và chúng tôi cùng nhau thay đổi lịch sử nhân loại. Khi tôi còn là đứa bé, và trước khi Nicholas được sinh ra, cũng người đàn ông đó cho tôi thấy trước tương lai của tôi và của thế giới này. phải tương lai chắc chắn như thế, nhưng là trong số những khả năng của nó. Và qua nhiều năm, tôi thấy rất nhiều khả năng trở thành thực. Người đàn ông cụt tay đó với tôi những gì cần xảy ra – những gì tôi phải làm, những gì chống tôi phải làm – nếu muốn nhân loại sống sót. Ông ta điều khiển chúng ta qua hàng thiên niên kỷ, sống và di chuyển quanh chúng ta – tất cả chúng ta. THậm chí cả ông nữa, Prometheus ạ.”

      Vị Elder lắc đầu. “Tôi nghĩ thế.”

      “Thậm chí cả ông. Ông nghĩ ai khuyến khích bạn ông Saint – Germain đánh cắp ngọn lửa từ ông, ai dạy cậu ta bí mật của lửa?”

      Vị Elder mở miệng định nhưng lại thôi.

      “Người đàn ông với bên tay móc câu đó với tôi là ông ta ở đó từ lúc mọi việc bắt đầu cho tới phút chót.” Perenelle nhoài người lên. “Ông cũng ở đó, Prometheus; ông ở Danu Talis trong Trận Chiến Cuối cùng. Ông ta tuyên bố rằng ông ta ở đó – ông phải gặp ông ta rồi.

      Prometheus chậm rãi lắc đầu. “Tôi nhớ nổi ông ta.” Ông cười buồn bã. “Cái đầu lâu pha lê ăn mất những ký ức khai sơ nhất của tôi. Tôi xin lỗi, NỮ phù thủy, nhưng tôi nhớ gì về Người đàn ông tay móc câu đó.” Nụ cười ông nhạt dần và trở nên cay đắng. “Nhưng cũng có quá nhiều thứ về hồi đó khiến tôi bối rối từ trước khi cái đầu lâu cướp ký ức của tôi.”

      “Ông có nhớ gì về người đàn ông mắt xanh có móc câu bạc thay cho bàn tay trái ?”

      Prometheus lắc đầu. “Tôi xin lỗi. Tôi nhớ khuôn mặt những hảo hữu tôi mất, dù nhớ ra tên họ. Tôi nhớ những người chống lại tôi, những người tôi giết.” Ông nhíu mày và giọng ông bỗng nhàng và có vẻ xa xăm. “Tôi nhớ những tiếng la hét, thanh của những trận chiến, tiếng kim loại va vào nhau, mùi của phép thuật cổ xưa. Tôi nhớ có thời lửa thiên đường... và rồi thế giới tách lìa ra và biển xâm lấn vào.

      “Ông ta ở đó.”

      “Đó là Trận Chiến cuối cùng, Nữ Phù thủy ạ. Ai cũng ở đó.”

      Perenelle ngồi lại chỗ ngồi. “Khi tôi gặp ông ta lần đầu, tôi hơn đứa trẻ là bao. Tôi hỏi tên ông ta là gì. Ông ta tên là Marethyu,” bà nhàng .

      “Đó phải cái tên. ĐÓ là danh hiệu: có nghĩa là Thần Chết. Những cũng có thể là “người,” vị Elder dịch ngôn ngữ cổ ra.

      “Tôi nghĩ ông ta là Elder...”

      Prometheus nhíu mày, đột nhiên ký ức khiến ông kinh ngạc. Những ngón tay ông nắm chặt lấy ghế. “Marethyu,” ông lẩm bẩm gật đầu. “Thần chết.”

      “Ông nhớ ra à?”

      “Ông lắc đầu. “ mảnh ký ức thôi. Marethyu phải người của chúng tôi. Ông ấy phải Elder hay Thế hệ Kế tiếp, phải Archon hay Người cổ đại. Ông ấy là – là – thứ gì đó hơn hoặc kém hơn chúng tôi. Tôi tin ông ấy là người.” Prometheus buông tay và đặt đôi tay to bè lên vô lăng. “Bà muốn đâu hả Nữ Phù thủy?”

      “Đưa tôi tới chỗ Tsagaglalal.”



      CHƯƠNG TÁM
      “Ôi mèn ơi, dưới này hôi quá.” Billy the Kid khịt mũi. “Ý tôi là hôi thực ấy.” Cậu ta ấn hai đầu ngón tay vào hốc mắt chảy nước và lại hắt hơi lần nữa.

      ra cũng phải quá tệ đau. Tôi còn ngửi thấy tệ hơn,” Niccolo Machiavelli nhàng .

      Hai người đàn ông đứng trong đường hầm bên dưới nhà tù Alcatraz. Nước giọt từ xà lim và những những con sóng đập nhè vào mặt cá chân họ. khí có mùi cá ươn và mùi rong biển hôi hám, trộn với mùi phân chim hăng hăng và mùi a xít của phân dơi. Ánh sáng duy nhất chiếu từ đầu họ, chỉ là vùng màu xanh đối nghịch với màu đen thăm thẳm.

      Người đàn ông đẹp mã cao ráo mặc bộ đồ dính đầy bụi hít hơi sâu. “ ra nó gợi cho tôi nhớ tới nhà tôi.”

      “Nhà á?” Billy ho. Cậu ta lôi chiếc khăn tay họa tiết đỏ ra khỏi túi quần sau đặt lên mũi và miệng. “Nhà ông thường có mùi như là phòng vệ sinh của lũ động vật hoang dã à?”

      Hàm răng của Machiavelli sáng lên khi ông cười. “À, Rome và Venice – à, Venice xinh đẹp – thời thế kỷ mười lăm và mười sáu rất bốc mùi.. nhưng tệ bằng Paris thế kỷ mười tám hay Luân Đôn giữa thế kỷ mười chín. Tôi ở đó vào năm 1858; khí có mùi rất kinh đến nỗi khó mà thở nổi. Được gọi là thời kỳ Đại Ô Nhiễm đấy.

      “Chắc chắn tôi thích ở đó,” Billy . “Tôi thích khí trong lành, nhiều.” Cậu ta búng ngón tay và khí có mùi ớt đỏ. cột khói cuộn màu tím đỏ bao lấy ngón tay cậu và sau đó khối cầu lửa

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG CHÍN

      “Đảo Danu Talis,” Marethyu , quấn chặt chiếc áo choàng dài quanh người. “ trong những kỳ quan mất của trái đất.”


      Scathach, Joan of Arc, Saint-Germain, Palamedes và William Shakespeare đứng ngọn đồi nhìn xuống thành phố đảo bằng vài trải dài ngút tầm mắt. Thành phố được xây dựng theo kiểu mê cung hình tròn, với những lạch sông xung quanh. Ánh sáng mặt trời khiến mặt nước lấp lánh ánh bạc, bản chiếc những tòa nhà bằng vàng. Vài nơi còn quá sáng khiến người ta khó có thể nhìn được.


      Saint-Germain ngồi thảm cỏ xanh rì và Joan ngồi xuống bên . “Danu Talis còn nữa,” đều đều. “ nhớ nó chìm rồi mà nhỉ.”


      “Chúng ta quay ngược lại mười ngàn năm,” người đàn ông đội mũ trùm giải thích. Làn gió ấm áp thổi bay áo choàng của ông ta, thổi tung nó ra phía sau và để lộ cái móc câu bằng kim loại thay cho tay trái. Đây là Danu Talis, trước khi Sụp Đổ.


      “Trước Sụp Đổ,” Scathach thầm. Nữ chiến binh bước ngọn đồi và lấy tay che mắt. muốn những người khác thấy đôi mắt chan chứa nước mắt. hít hơi sâu, cố - nhưng thất bại – để giữa giọng rung. “Bố mẹ và em tôi có ở đó ?”


      “Mọi người đều ở đó,” Marethyu . “Tất cả các Elder đều hòn đảo này – họ vẫn chưa vào trong các Vương quốc bóng tối. số - như Prometheus và Zephaniah – gặp ở thời đó – nhưng ở đây họ còn trẻ. Họ biết , tất nhiên vì họ chưa từng gặp . gặp bố mẹ , Nữ chiến binh ạ, nhưng họ nhận ra , bởi vì lúc này chưa được sinh ra.”


      “Nhưng tôi có thể gặp lại họ,” Scathach lẩn bẩm, những giọt nước mắt đỏ như máu chảy xuống gương mặt.


      “Có thể. Dù có lẽ phải lúc.”


      “Vì sao?” Saint Germain nhanh nhảu .


      “Danu Talis tới hồi kết. Chuyện đó có thể xảy ra trong , hay hoặc ba ngày. Tôi biết. Tôi chỉ biết nó sớm chìm thôi.”


      “Nếu sao?” Saint- Germain hỏi. ta gạt những sợi tóc đen dài ra khỏi mặt. “Nếu hòn đảo này sống sót và phát triển sao?”


      thế giới biết bị xóa sổ,” Marethyu vui vẻ . “Hòn đảo này phải nằm sâu dưới đáy đại dương và các Elder phải tản ra khắp thế giới. Phép thuật cần hủy diệt Danu Talis, làm nhiễm độc đất đai, khí, nước biển và núi lửa. Để sau đó, những đứa trẻ được các Elder sinh ra sau thảm họa Danu Talis, Thế hệ Kế tiếp, khác với bố mẹ chúng cũng như bố mẹ chúng khác với giống người Cổ đại.” Người đàn ông tay móc câu quay lại với Scathach. “Nếu hòn đảo này sụp đổ, hay chị cũng tồn tại.”


      Scathach lắc đầu. “Nhưng tôi ở đây, và vì thế hòn đảo phải chìm.”


      “Theo chu trình thời gian, tất nhiên...” Marethyu dợm lời, nhưng Shakespeare ngắt lời ông.


      cho tôi nghe về chu trình thời gian ,” đại văn hào .


      Người đàn ông tay lưỡi câu kéo áo choàng lại và quay qua đối mặt với cả nhóm. “Có nhiều chu trình thời gian. Elder Chronos có thể quay ngược hay vào tương lai nhưng chỉ như người quan sát. thay đổi có thể ảnh hưởng tới toàn bộ chu trình thời gian và toàn bộ chu trình theo cách đó.”


      “Chủ nhân của tôi, Tammuz, có thể di chuyển qua thời gian,” Palamedes .


      Marethyu gật đầu. “Nhưng ông ta chỉ có thể vào quá khứ và xem chuyện gì xảy ra. Chronos có thể tới tương lai xem chuyện gì xảy ra.”


      Saint-Germain ngước nhìn Marethyu. “Tôi từng đàm phán với lão điên Chronos rồi. Ông ta đáng tin cậy.”


      Đôi mắt xanh của Marethyu nhấp nháy khi ông ta cười. “Ông ta quý gì . Chúng tôi hy vọng gặp người nào khác nữa.”


      “Thế vì sao chu trình thời gian này lại đặc biệt thế?” Saint- Germain hỏi.


      Marethyu quay lại nhìn thành phố vàng. “THời nào cũng có những kiện vĩ đại, có nhưng khả năng và những điều nếu như.” Ông ta vẫy tay. “ có thể tưởng tượng rằng hủy diệt nơi này tạo ra hàng vô số những dòng thời gian khác nhau.”


      “Vâng...Và?” Saint-Germain sắc bén .


      “CHúng ta nhảy qua mười ba cổng vào các Vương quốc bóng tối để tới đây. Chronos tặng nó cho tôi nên chúng ta chỉ ngược lại thời gian mà còn qua các dòng chảy thời gian. Ở đây, lúc này, chúng ta ở dòng thời gian chính trước khi thế giới sụp đổ và các dòng thời gian rẽ nhánh.”


      “Nhưng vì sao?” Will hỏi. “Nếu chúng ta làm gì, vậy thế giới có chìm và mọi thứ có theo đúng trình tự ?”


      “Ờ, nhưng các Elder, dưới lãnh đạo của Osiris và Isis làm theo kế hoạch và thay đổi mọi thức. Họ làm điều gì đó để chắc rằng Danu Talis bao giờ chìm.”


      Saint-Germain gật đầu. “Tôi cũng làm thế nếu tôi ở vị trí của họ, và tôi đoán họ mất hàng thiên niên kỷ để vạch ra kế hoạch hoàn hảo.”


      “Chuyện gì xảy ra nếu họ thành công?” Joan hỏi.


      “MỌi thứ biết biến mất,” Marethyu lặp lại. “ chỉ ở thế giới này mà còn ở tất cả các Vương quốc bóng tối phụ cận. Hàng tỷ sinh mạng, hàng chục tỉ, còn. Nhưng mọi người – tất cả các bạn ở đây – có sức mạnh để tránh điều đó xảy ra.”


      Ngồi ngọn đồi và nhìn khắp hòn đảo, Joan of Arc vươn tay ra và nắm lấy tay chồng. Bá tước Saint-Germain nắm lấy tay bằng cả hai tay và bóp tay chặt. quay qua và hôn lên má . “Em cứ nghĩ đây là chuyến phiêu lưu khác ,” thầm. “CHúng ta có nhiều chuyến như thế mà.”


      chuyến nào giống chuyến này,” lẩm bẩm bằng tiếng Pháp/


      Shakespeare dịch lại gần Palamedes, hiệp sĩ Saracen. “Tôi ước răng tôi vẫn viết,” ông lầm bầm . “Đây trở thành huyền thoại.”


      “Nhưng cách câu chuyện kết thúc khiến tôi lo lắng,” Palamedes . “Tôi muốn gì hơn cuộc đời yên tĩnh. Nhưng tôi luôn luôn phải sống trong chiến trận và đánh nhau.” Ông lắc đầu.


      “Thành phố này bao tuổi rồi?” Saint-Germain phân vân hỏi lớn. nhíu mắt nhìn những đường phố và các rạch nước như mê cung. “Nó làm tôi hơi nhớ tới Venice.”


      Marethyu nhún vai. “Thành phố này trẻ hơn hòn đảo và hòn đảo này trẻ hơn trái đất. Nghe đồn là các Elder Vĩ đại nâng hòn đảo lên chỉ trong ngày nhờ vào tất cả Những Phép thuật cơ bản. Đó là đỉnh cáo của phép thuật mà thế giới từng biết tới.”


      “Ở đây có thư viện ?” Shakespeare hỏi.


      “Có, Đại thi hào ạ. trong những thư viện hoành tráng nhất thế giới. Đại Thư viện của Danu Talis gồm hàng tá phòng nối với nhau năm ở chân kim tự tháp. có thể giành thời gian còn lại của đời mình chỉ để đọc sách trong kệ sách thôi. Và có hangf trăm dặm kệ sách. Hòn đảo này khá là đại, nhưng những cư dân của Danu Talis già, già hơn rất nhiều. Các Elder vĩ đại trị vì nơi này trước các Elder, có Danh sách các Vị Vua khắc các bậc thang kim tự tháp có niên đại cách đây hàng trăm nghìn năm. Và trước các Elder Vĩ đại còn có những giống loài khác: Archon, Người Cổ đại, và trong quá khứ là Chúa Đất. Những nền văn minh này xây dựng tàn tro của những nền văn minh khác.” Marethyu dùng móc câu chỉ vào kim tự tháp bậc thang khổng lồ. “Đây là Kim tự tháp MẶt trời, chỉ là trái tim của hòn đảo mà còn của cả đế chế. Trận Chiến cuối cùng thắng lợi hoặc thất bại ở đó.”


      “Và ông biết tát cả vì nó xảy ra,” Scathach .


      “Trong chu trình gian là đúng.”


      “CÒn trong chu trình khác?”


      Marethyu nhún vai. “Có nhiều chu trinh, nhiều khả năng, nhưng chúng ta về điển trước khi các chu trình phân tán, nơi hành động của chúng ta có thể định hình tương lai.”


      “Sao ông biết chúng ta làm đúng?” Scathach thách thức hỏi.


      “Vì Nhà thông thái Abraham với tôi vậy.”


      “Tôi nghĩ chúng ta nên gặp ông Abra...” Scatty dừng lại, mắt tóe lửa.


      Buổi sáng trong lành bỗng có những tiếng vỗ cánh , thanh của đàn ông tới từ xa.


      “NẰm xuống...” Marethyu mở lời, và rồi luồng điện trắng xanh bốc lên từ ngực ông, phát sáng và tụ lại ở móc câu. Ông đổ sụp xuống mặt đất, khói nhạt bay lên từ người ông, phát sáng móc câu.


      Joan định đến cạnh Marethyu, nhưng Saint-Germain nắm tay giữ lại. lắc đầu nhè . “. Em đợi .”


      Shakespeare và Palamedes lập tức tách ra, đại thi hao đứng đằng sau bên trái người bạn. Nếu đây là trận chiến, Will bọc hậu cho bạn mình.


      “Vimanas tới,” Scathach gầm gừ. thu mình lại nhưng động tới thanh kiếm sau lưng. “Đứng yên, động vào vũ khí.”


      “Vim là cái...” Joan định nhưng nhìn thấy ngón tay của Scathach. Ngón tay chỉ lên trời.


      khí ấm áp rung lên và chuyển lạnh, những chiếc đĩa bay lớn rơi xuống tờ bầu trời và rú lên đầu họ, rung lên nho . MỌi người nhìn lên. Ở mặt dưới của cái đĩa bằng kim loại là bản đồ của Danu Talis.


      “Vimanas,” Scathach giải thích. “Đĩa bay. vài người sống sót sau khi Danu Talis sụp đổ và tạo ra nó để tới Trái đất. Cha chị có cái... tới khi Aoife phá hỏng nó. Chị ấy đổ tội cho chị,” thêm cách cay đắng.


      Chiếc đĩa lớn nhất – ít nhất phải có đường kính 12 feet – hạ xuống thấp hơn nhưng dừng hẳn mặt đất, và lớp băng mỏng xuống lớp cỏ bên dưới. Từ dưới nắp bằng pha lê đỉnh đĩa , hai sinh vật đầu chó đen với đôi mắt đỏ sọng nhìn họ chằm chằm.


      “Tôi ghết mấy con nay,” Saint-Germain lẩm bẩm.


      “Anpu,” Scathach thầm. “Tôi nghĩ chúng ta gặp rắc rối rồi. Rắc rối to.”




      CHƯƠNG MƯỜI

      “Rẽ ở đây,” Tiến sĩ John Dee nhoài người ra trước và chỉ sang bên phải. “ vào đường ven biển Barbary và vòng quanh Embarcadero. SAu đó theo biển chỉ dẫn tới cầu Oakland Bay.


      Josh gật đầu, ngậm nhặt miệng, ko muốn và cố hít quá sâu. Hơi thở của Pháp sư hôi thối với mùi trứng thối.


      “Chúng ta đâu đây?” Virginia Dare từ trong bóng tối hỏi.


      “Thoát khỏi đây,” Dee cụt lủn. “GIờ đường phố toàn cảnh sát với cứu hỏa .”


      Josh chỉnh lại gương để nhìn cho đằng sau xe. Dee ngồi ngay sau cậu, bóng vàng đổ lên người ông ta trong khi người phụ nữ trẻ hơn ngồi bên phải, tránh xa Pháp sư hết mức có thể. ta gõ gõ cây sao gỗ vào môi dưới.


      Josh tập trung vào việc lái xe, giữ chiếc xe tải trọng nặng dưới tầm kiểm soát và trong giới hạn tốc độ cho phép. Cậu có nghĩ tới những gì vừa mới xảy ra và, quan trọng hơn, những gì xảy ra với chị cậu. phản bội cậu – hoặc đúng hơn, nhà Flamel bắt phản bội cậu. Nhưng giờ ở đâu... và cậu phải với bố mẹ thế nào về chuyện lạc mất chị đây? Cậu phải chăm sóc , bảo vệ . Nhưng cậu thất bại.


      “Tên của nhà hài kịch,” đột nhiên Virginia Dare hỏi. “ phần trong cặp đôi , ‘ lại lôi tôi vao đống rắc rối hay ho nữa’?”


      “Stan Laurel,” Dee đáp.


      “Oliver Hardy,” Josh sửa lưng ông ta. Cha cậu thích Laurel và Hardy. Dù Josh thích kiểu đùa vô tổ chức của em nhà Marx hơn, nhưng cậu nhớ rằng trong những lần sớm nhất cậu xem hài đó là được ngồi trong lòng bố, cảm thấy cơ thể mình rung lên vì những câu đùa của Laurel và Hardy.


      “Oliver Hardy,” Virginia Dare nhắc lại, gật đầu đồng ý. “Tôi từng gặp họ, lâu rồi, khi tôi lần đầu đến với Hollywood.”


      “Chị đóng phim à?” Josh hỏi, liếc nhìn ta trong gương. Tất nhiên ta khá là xinh đẹp rồi.


      Hàm răng trắng của Dare lóe sáng trong cảnh tranh tối tranh sáng. “Trước khi có thanh,” chị ta rồi quay lại nhìn Pháp sư. “À, lại lôi tôi vào đống rắc rối hay ho.”


      phải bây giờ đâu, Virginia.” Dee mệt mỏi .


      “Trước đây lôi em vào rắc rối, John, nhưng giống thế này. Em biết em bao giờ nên tham gia cùng .”


      đâu có phải thuyết phục em nhiều đâu,” Dee nhắc khéo .


      hứa với em là...” định nhưng Dee nắm lấy tay ta, mắt liếc xéo Josh. ta dừng có lúc nên cậu để ý nhiều. “... bị đau đớn hay khổ sở gì,” kết thúc câu, giấu nổi mỉa mai trong giọng .


      Josh rẽ phải ở đường Vịnh rẻ vào đường Embarcadero.


      “Chúng ta chưa mất tất cả đâu,” Dee . “Chưa khi chúng ta còn những thứ này.” Ông ta mở mảnh vải và cái áo ra, lôi ra cuốn sách bìa bằng đồng xanh. Cuốn sách rộng khoảng 6 inch, dài 9 inch và còn lâu đời hơn cả loài người. Tiến sĩ lướt những ngón tay bề mặt kim loại và những ký tự màu vàng nhảy nhót và vỡ ra dưới ngón tay ta. khí chua chua do cả 3 mùi: cam, cây xô thơm và lưu huỳnh trộn lại. NHững đốm lửa nhảy nhót bề mặt da bên trong xe. Đèn xe lúc tắt lúc bất; rồi chết ngóm, màn hình hệ thống dẫn đường vệ tinh chuyển màu bảy sắc cầu vồng. Radio bật lên và chạy hàng tá kênh trước khi tịt ngóm. Mọi bảng điều khiển sáng đèn báo nguy hiểm màu đỏ. Chiếc xe chết máy tại chỗ.


      “ĐÓng nó lại,” Josh vọng từ phía trước. “Nó phá hủy hệ thống điện trong xe,” Dee đóng sập cuốn sách lại và nhét nó lại dưới áo khoác và Josh khởi động lại xe. Động cơ vang lên, rồi tắt và Josh cũng tăng tốc được.


      “Giỏi lắm,” Virginia Dare .


      “Cuốn Codex là chìa khóa.” Dee tiếp, như thể có gì xảy ra.” ta vươn lên và vỗ vai Josh. “Nếu có người xé mất hai trang cuối.”


      Josh gì. Cậu tập trung vào việc lái xe giúp cậu suy nghĩ kỹ hơn. Dưới áo phông đỏ hiệu Faithful của cậu là hai trang cậu xé ra từ cuốn Codex đựng trong túi vải đeo quanh cổ. Dù cậu quyết định tin Pháp sư – hoặc là cậu thấy ông ta tin cậy hơn Flamel, nhưng –vì lý do gì đó chính cậu cũng hiểu , Josh vẫn chưa muốn Dee biết cậu có hai trang kia.


      “Mọi thứ kéo tới đây,” Virginia đều đều . “Ý tôi là mọi thứ đấy. Lũ cucubuth chúng ta đụng độ ở Luân Đôn là gì nếu so sánh với những thứ tiến tới thành phố này.” nhúc nhích ghế để nhìn ra ngoài cửa sổ. cột khói cao ngất bốc lên khắp bầu trời San Francisco. “Những nhà chức trách giống người tiến hành điều tra. Đầu tiên công ty của gây mất trật tự ở Ojai và giờ trụ sở công ty bốc cháy.” Trong lúc đó, thanh rền vang như có tiếng sâm từ xa vang tới. “Và đây phải trận hỏa hoạn thông thường. Tôi chắc họ biết trữ hàng cấm trong tòa nhà đó.”


      “Tôi cần vài hóa chất dùng cho thí nghiệm,” Dee tùy tiện ra.


      “Những hóa chất nguy hiểm,” Dare tiếp. “ còn tấn công hai cảnh sát nữa. Chính quyền sờ gáy thôi, tiến sĩ Dee ạ. Sao đối phó được đây?”


      Dee nhún vai thoải mái. “Nếu họ đào sâu chắc họ tìm thấy thứ gì đó. gì có thể giữ bí mật hoàn toàn trong thời buổi số hóa mà.”


      Virginia thổi hơi vào ống sáo. thanh nghe khô cứng và chói tai. “SFPD tới cùng FBI; nó với Scotland Yard ở Luân Đôn, và nếu họ kết hợp với những vụ gần đây ở Paris, họ liên lạc với sở Cảnh sát Pháp. khi cảnh sát bắt tay tìm họ tìm thấy thôi. Rồi họ hỏi cung . Em chắc họ muốn biết làm sao được từ Ojai tới Paris mà có hồ sơ nào ghi lại hành trình của , rồi sau đó lại về lại San Francisco mà máy bay dân hay trực thăng riêng gì cả.”


      “Em cần làm vui thế đâu,” Dee lẩm bẩm.


      “Và chúng ta cũng thể quên các Elder được. Em nghĩ ngay lúc này, các Elder, thế hệ kế tiếp, và những sinh vật liên quan tìm đường tới đây, theo dấu mùi ma thuật của chúng ta. phần thưởng lớn cho cho việc bắt được dù sống hay chết là chắc chắn đó.”


      “Còn sống,” Dee buồn thảm . “họ muốn còn sống.”


      “Sao biết được?”


      “Machiavelli với .”


      “Machiavelli!” Virginia và Josh đồng thanh hô lên.


      có bạn đâu John,” Virginia . “trừ khi thay đổi trái tim mình hoàn toàn trong vài trăm năm gần đây.”


      phải bạn , nhưng cũng hẳn là kẻ thù. ta cũng hoàn thành nhiệm vụ chủ nhân Elder ta giao phó.” nghịch nghịch ngón tay. “Em có biết, chỉ cách đây có hai dặm . ở Alcatraz cùng Billy the Kid đó.”


      “Billy the Kid á?” Josh nhanh. “Billy the Kid đó á? Kẻ ngoài vòng pháp luật đó á?”


      “Ừ, ừ,” Dee đáp cụt ngủn. “Kẻ bất tử Billy the Kid.”


      “Thế họ làm gì ở đó?” Josh bối rối hỏi.


      “Điều ác,” Dee cười .


      “Sao họ tới hòn đảo đó được? Tôi nghĩ nó bị đóng cửa rồi”


      “Đúng,” Dee đáp. “Công ty tôi, Enoch Enterprises sở hữu hòn đảo đó. Chúng tôi mua nó từ chính phủ. Chúng tôi với họ rằng biến nó thành bảo tàng lịch sử sống.”


      Josh lái chậm lại vì đèn trước mắt chuyển sang đỏ. “Tôi đoán là dối,” cậu .


      “Tiến sĩ John Dee biết đâu,” Virginia .


      Người bất tử lờ ta . “Chủ nhân của tôi bảo tôi tập hợp đội quân quái vật ở nơi an toàn và gần thành phố nhất mức có thể. Nhà tù đảo là địa điểm hoàn hảo. Và những xà lim trở thành nhà dành riêng cho chúng.”


      Người phụ nữ ngồi nhỉnh lên . “Dạng quái vật gì?” ta hỏi. “Dạng bình thường hay những con thú vị?”


      “Những con tệ nhất,” Dee . “Những cơn ác mộng, những kẻ khát máu, những con ghê tởm nhất.”


      “Vì sao?”


      “Khi đến lúc, họ muốn thả chúng vào thành phố.”


      “Vì sao?” hỏi lại.


      “Để phân tán loài người và để các Elder trở lại Vương quốc bóng tối này. NHững sinh vật đó chạy trong thành phố, và với đội quân vũ trang đại nhất, với tất cả những vũ khi và trang thiết bị tối tân nhất cũng thể ngăn chặn được chúng. Khi thành phố sắp sụp đổ, những Elder xuất và hạ gục chúng. Những Elder trở thành cứu tinh của loài người và lại được thờ cúng như những vị thần.”


      “Nhưng sao phải làm thế?” tới phiên Josh hỏi.


      khi họ trở lại, họ sửa chữa lại trái đất.”


      “Tôi biết. Nhưng sao họ chỉ quay lại thôi? Sao các người phải hủy hoại thành phố?”


      phải toàn bộ...” Dee dợm .


      “Ông biết tôi có ý gì!”


      “Các Elder giết lũ quái vật và tu sửa thành phố. Nó được truyền thông để ý tới và trở thành trận diễn tập phô trương quyền năng của họ. Josh, cậu hãy nhớ sức mạnh của các Elder có gì là kỳ diệu. Ờ, họ có thể với con người về sức mạnh đó hoặc có thể đơn giản chỉ cho loài người thấy họ có thể làm gì. Và những bức tranh đó còn đáng giá hơn ngàn lời .”


      Dare gật gù. “Và khi nào chuyện này xảy ra?”


      “Lễ Litha.”


      “Nhưng cách đây hai tuần rồi. Vậy giờ Machiavelli và the Kid còn làm gì ở hòn đảo đó nữa.”


      “Có thể kế hoạch phải thay đổi,” Dee cụt lủn.


      “Nhưng Machiavelli thả quái vật vào thành phố chứ?” Josh hỏi vội. Cậu dễ dang tưởng tượng cảnh Dee thả lũ quái vào San Francisco, nhưng cậu nghĩ Machiavelli có gì đó nhân đạo hơn.


      “Ai biết người Ý đó có thể làm gì?” Dee bực tức . “Đó là người vẽ ra bản kế hoach trong suốt nhiều thế kỷ. Lần cuối tôi nghe ông ta ông ta bị kẹt ở đảo...”


      “Đợi ,” Josh chen ngang. “Nếu Enoch Enterprises sở hữu Ancatraz...”


      “...và cảnh sát điều tra tập đoàn Enoch Enterprises,” Virgina tiếp, “ họ sớm tới thăm honf đảo thôi.”


      “Thế mọi chuyện tệ lắm.” Dee .


      Virginia cười lớn. “Sao hả tiến sĩ Dee, dương như còn chỗ dung thân ở San Francisco đâu. Và khi FBI nhảy vào, mặt và tên được toàn nước Mỹ biết tới. Thế rồi đâu? làm gì?”


      “Sống sót thôi,” người bất tử trả lời. “Bao lâu nay vẫn thế,”


      Josh dọc đường Green Street chợt nhìn thấy thanh niên đeo cái ba lô nặng nề đứng ở cầu tầu số 15 bên trái cậu. Có cái gi đó bình thường ở ta. Josh nhíu mắt va tập trung nhìn – đột nhiên cậu thấy luồng khói xanh mờ nhạt chảy ra từ người đó. Cậu quan sát khuôn mặt xanh xao dõi theo họ rồi người đàn ông cầm điện thoại lên gọi. “Chúng ta bị theo dõi rồi,” cậu ngay.


      Tiến sĩ tì người vào cửa kính bọc đen và nhìn ra đường. “Ba bị,” ông ta cụt lủn.


      Virginia vươn người ra nhìn. “Thực ra phải gọi là Ông Túi,” . “và chính xác chúng nhận ra chúng ta. Ông Túi hầu như gây nguy hiểm gì, nhưng họ có tầm nhìn còn đáng sợ hơn những sinh vật khác.”


      Josh có thể nhận ra ba Ông Túi đứng cạnh cầu tầu 9. Cậu nghĩ họ giống như... cậu cũng chắc cậu mong chờ điều gì, nhưng họ trông cũng giống những thanh niên bình thường, mặc quần bò, áo phông, giày thể thao mòn đế và đeo lưng chiếc ba lô phồng to và cũ vẹt.


      “Tôi thấy họ rồi,” Dee khổ sở .


      Mấy Ông Túi quan sát chiếc xe khi nó qua. Họ đồng thời áp điện thoại lên miệng. người đặt ván trượt xuống vỉa hè và đuổi theo chiếc xe, lạng lách qua dòng xe đông đúc.


      “Tôi đoán là họ đặt bẫy chúng ta,” Virginia .


      Đèn tín hiệu chuyển mầu Josh nhấn ga phóng sang đường Broadway. Lại có thêm nhóm thanh niên nữa đứng ở Cầu tầu số 5 và nhóm nữa xa hơn ở đứng ngoài Cảng San Francisco cạnh Cầu tàu số 1. nhóm ăn mặc đặc biệt ngồi những chiếc xe đạp tự chế phóng đường, vượt đèn tín hiệu và theo đuôi chiếc xe.


      “Tôi chưa bao giờ thấy có nhiều sinh vật này ở cùng nơi như thế. Tiền công thuê họ hề rẻ; tôi phân vân biết họ làm việc cho ai.”


      trong những tên xe đạp đuổi kịp chiếc xe và tiếp tục theo đuôi. Trông cậu thanh niên đó giống những tay xe đạp bình thường – áo phông sáng màu, mũ bảo hiểm, kính bảo vệ màu đen – trừ có cái ba lô lưng. Jos điều chỉnh gương chiếu hậu để theo dõi cậu kia. “Trong túi cậu ta có gì thế?” cậu hỏi.


      Dare cười cay đắng. “Tin tôi , cậu muốn biết đâu.”


      John Dee ngồi quay lưng lại khi tên xe đạp cố chụp hình bằng điện thoại.


      Josh nắm chặt lấy vô lăng, sợ rằng cậu đâm vào tay kia và khiến ngã lộn vòng đường.


      “Họ còn quan tâm chuyện chúng ta biết họ tìm thấy chúng ta,” Dare . “Họ phải rất tự tin rằng bắt được chúng ta.” ta đặt cây sáo lên môi và thổi lên giai điệu vượt qua ngưỡng nghe của con người.


      Bánh trước và sau của chiếc xe đạp nổ thành từng mảnh và người lái bắn sang bên kia đường. Chiếc xe đâm sầm vào gốc cọ khiến chiếc xe biến dạng.


      Virginia Dare ngồi lại vào chiếc ghế da và cười lớn. “ bị săn lùng rồi đó Tiến sĩ. Săn lùng, và có chỗ nào ở nơi này hay bất cứ Vương quốc bóng tôi nào để dung thân đâu. Giờ làm gì nào?”


      Dee vẫn im lặng lúc lâu. “Vì sao chứ, tôi trở thành thợ săn.”


      “Săn ai hả Tiến sĩ Dee.”


      “Các Elder.”


      định dùng Coatlicue và thất bại,” Dare nhắc nhở ta.


      Đuôi xe bỗng sặc lên mui lưu huỳnh hôi thối. “Hai người có biết động vật nguy hiểm nhất là con gì ?” đột nhiên ta hỏi.


      Để đáp lại câu hỏi kỳ lạ đó, Josh nhún vai . “Gấu bắc cực à? Hay người sói?”


      “Tê giác à?”


      “Tất cả những con gì bị bẫy,” Dee đưa ra câu trả lời đơn giản. “Những con động vật đó đâu còn gì để mất.”


      Người phụ nữ thở dài. “Em nghĩ em nên đến nơi sắp đưa chúng ta tới.”


      “Ồ, lại nghĩ em thích nó lắm,” Dee nhàng . “Virginia, hứa cho em cả thế giới này...nhưng định cho em thứ lớn hơn. Ở lại với , chiến đấu cùng , cho mượn sức mạnh của em, và cho e tất cả những Vương quốc bóng tôi tồn tại. cho em những gì em muốn.”


      “Em nghĩ đề nghị với em thế rồi.”


      “Nghĩ , Virginia,” ông ta ngay. “ chỉ thế giới này, mà có thể là hai, ba hoặc nhiều hơn nữa. Em có thể xây dựng đế chế của riêng em. Em luôn muốn thế, đúng ?”


      Dare nhìn thấy Josh qua gương. “ĐƯờng phố làm cậu ta điên lên kìa,” ta buồn buồn .


      “Và cậu nữa, Josh. Ở bên ta, cho ta dòng điện vàng của cậu, ta cho cậu trái đất này, Vương quốc bóng tối này, để cậu trị vì. Và ta hứa với cậu rằng ta cho cậu quyền năng gì cậu muốn. Cậu – Josh Newman – có thể trở thanh cứu tinh của trái đất này.”


      Ý tưởng kinh khủng đó khiến Josh nín thở. Mới tuần trước, cậu rằng nó nực cười, nhưng giờ... Cậu có thể cảm thấy những trang của cuốn Codex nóng dần lên da cậu, và đột nhiên ý tưởng đó còn bất khả thi nữa. Trị vì thế giới. Cậu cười rung lên. “Tôi nghĩ Dare đúng: ông điên rồi.”


      phải điên đâu. Thần kinh đấy. Lần đầu tiên trong cuộc đời dài dằng dặc của tôi tôi có thể nhìn nhận mọi việc ràng, quá ràng. Tôi làm nô bộc cả đời rồi, là nô bộc cho nữ hoàng và đất nước, cho các Elders và Thế hệ Kế tiếp. Tôi làm theo những mệnh lệnh của loài người và những người bất tử. Giờ tới lúc tôi làm chủ nhân.”


      Josh nhìn thẳng về phía trước gì. Cậu lái xe qua đường tòa nhà Ferry Building. Tháp đồng hồ chỉ mười giờ ba mươi. Cuối cùng cậu cũng . “Các người định đâu?” cậu hỏi, dạ dầy bỗng quặn lại. Thậm chí khi hỏi câu đó, những trang codex vẫn nóng lên da cậu, đập nhịp từng nhịp như nhịp tim.


      “Tôi định sử dụng sức mạnh của cuốn Codex để tiêu diệt các Elder.”


      “Tiêu diệt họ á?” Josh thấy dạ dày mình thắt lại. “Nhưng ông chúng ta cần họ cơ mà.”


      “Chúng ta cần quyền năng của họ,” Dee nhanh. “để sửa chữa và tôn tạo thế giới. Nhưng nếu chúng ta có quyền năng đó sao? Nếu chúng ta có thể làm mọi thứ họ làm? Chúng ta cần họ nữa. Chúng ta trở thanh các vị thần.”


      về việc hủy diệt các Elder,” Virginia bình tĩnh , mắt nhìn thẳng vào mặt Dee.


      “ĐÚng.”


      “Tất cả?” hỏi giọng hoài nghi.


      “Tất cả.”


      Người phụ nữ cười, sung sướng. “Sau có thể có ý định đó chứ, Tiến sĩ? Họ nấp trong hàng ngàn các Vương quốc Bóng tối.”


      Mùi luồng điện của Dee bao quanh như nấm. “Giờ họ ở đó. Nhưng có lúc họ ở cùng chỗ, và có quyền năng như giờ.”


      Dare lắc đầu bối rối. “Lúc nào? Bao giờ?”


      Josh đột nhiên biết câu trả lời.


      “Mười ngàn năm trước,: cậu nhàng . “ở Danu Talis”




      CHƯƠNG MƯỜI

      Elder mắt qua thế giới bằng kim loại. Ông biết rằng từng có sống ở Vương quốc bóng tối này, nhưng còn có thể nhận ra gì ở đây nữa.


      Cát đen vặn xoắn và hình thành những hoa văn kỳ bí dưới chân ông ta, những cồn cát lung lay và bay về khía trước khi ông qua. Những bong bóng thủy ngân nổi lên từ mặt hồ lấp lánh sáng bạc. Khi chúng vỡ ra, những giọt bay về phía hình dáng rắn chắc kia. có bầu trời, chỉ có mái nhà bằng kim loại cao được bao phủ bởi những ánh sáng nhiều màu sắc. từng có nguồn năng lượng ở trung tâm mái nhà, nhưng lâu rồi.


      Odin biết ai tạo ra Vương quốc bóng tối kim loại này. Ông tin bừng đây từng là thế giới sống động, và ông biết nó phải rất qun trọng – nỗ lực tạo ra nó là tưởng tượng được, vượt quyền năng có hạn của ông. Thế mà nó còn có nổi cái tên.


      Vị Elder trèo lên đồi cát đen thấp và quay lưng lại nhìn toàn cảnh. Hàng loạt các đụng cát đen kết thúc ở đường chân trời đỏ. Vẫn có khí, nhưng có gió làm bay áo choàng đen xám của ông. Hàng thiên niên kỷ trước, trong những nô bộc loài người của ông giết con rồng Archon xấu xí và tặng cho ông chiếc áo choàng làm từ da sinh vật đó. Màu tự nhiên của nó là xanh dương, nhưng nó đổi màu tùy theo môi trường xung quanh, và theo mức nguy hiểm.


      Tấm áo choàng trở nên cứng như sắt và nặng đè lên vai ông.


      “Ai đó đó?” Odin gọi. Phong cảnh kim loại này khiến giọng ông vang vọng khắp miền cát, đập lên trần và từng ngóc ngánh những hòn đá kim loại. Bàn tay trái của vị Elder cầm chặt cây quyền trượng, thứ còn sót lại của cây Yggdrasill nguyên thủy, từng mọc ở trung tâm Danu Talis.


      Odin đưa cây quyền trượng lên trước mắt trái. MẮt phải của ông được che bằng mảnh da bạc màu; ông đổi nó với Archon Mimer cách đây rất lâu để có được kho kiến thức vô tận, và ông chưa bao giờ ân hận vì quyết định đó. Ngọn lửa đỏ như máu bập bùng ở đầu cây quyền trượng. Bên trong ngọn lửa là những sinh vật còn tồn tại trước khi các Chúa Đất sinh sống, những sinh vật nhó bé của pha lê và xương, của gốm và ki tin.


      Odin nhìn ngọn lửa và để cho chút luồng điện của ông chảy vào cây quyền trượng Yggdrasill. luồng khói xám vặn xoắn khỏi cây gậy và khí sặc mùi dầu của kim loại bị biến mất thay vào đó là trong lành của tầng ozone.


      Thế giới được định hình, những màu sắc xuất theo – và trong lúc ngắn ngủi – Odin nhìn thấy Vương quốc Bóng tối từng là: vùng trù phú cỏ cây, nơi những kim loại định hình và được định hình cả vùng đất, tạo nên những kỳ quan đẹp tuyệt vời. Con mắt còn tinh của vị Elder hấp háy và hình ảnh nhòe và để lộ ra thế giới của ngày này... và sinh vật lén theo ông.


      Nó trườn tay và chân. Nó giống hình dạng phụ nữ, lùn và béo lẳn. Mái tóc nhờn dày màu đen bên thành hai bím dày ở hai bên đầu. Khuôn mặt và cánh tay trần có dấu hiệu bệnh, với những đốm đen trắng. Nó ngửng đầu lên và hít khí như con thú.


      “Ta có thể nhìn thấy ngươi,” Odin .


      Sinh vật đứng lên, xóa bỏ kết giới xung quanh và tập tách bước về phía vị Elder. ta từng rất xinh đẹp nhưng giờ như thế nữa. Những đường nét khuôn mặt giờ giống chó, với hai răng nanh dài ở dưới môi. Đôi mắt thụt lùi hẳn trong xương sọ, từ đó chảy ra chấy lỏng màu đen có mùi khó chịu mặt. Thi thoảng nó thụt thò lưỡi để đánh hơi khí. Kể từ khi ông biết ta, ta vẫn ăn mặc như vậy: áo choàng ngắn bằng da xám, hợp với chiếc quần da và đôi bốt cao cổ đế dày.


      Odin để ý thấy trong khí cát dưới chân ông hình thành những đường tròn mờ mờ, đất dưới chân ta lại có hình tia chớp. Cát dường như có xu hướng tiến về phía ông nhưng lại tránh xa sinh vật kia. “ muốn gì?” ông gọi.


      Miệng sinh vật cử động, nhưng phải mất lúc từ ngữ mới được hình thanh, như thể ta biết cách . “Tôi muốn cái ông muốn,” ta lầm bầm. ta lê chân về phía ông và suýt ngã xuống nền cát đen chuyển động.


      Odin lắc đầu. “.”


      Sinh vật cố trèo lên đụn cát nhưng đầu gối ta thể cong lại khiến ta ngã bổ chửng về phía trước. Odin biết rằng cũng lời nguyền tương tự lấy sắc đẹp cũng như lấy các cơ bắp chân, và giờ hầu như chỉ còn da bọc xương, dễ gẫy và hầu như mang nổi trọng lượng cơ thể . ta lại bò chầm chậm và đau đớn lên đồi tiến tới vị Elder. “Tôi muốn cái ông muốn,” ta nhắc lại. “Công bằng cho thế giới chết của tôi. Trả thu cho những cái chết.”


      Odin lại lắc đầu. “.”


      Sinh vật nằm cát và ngóc đầu nhìn lên. “ hủy hoại vương quốc bóng tối của chúng ta. cố thả Coatlicue,” ta và thở dốc. “Có những kẻ khác săn đuổi ta. Khi Isis và Osiris tuyên án là utlaga, họ trao phần thưởng lớn cho ai tóm được . Những Vương quốc bóng tối. bất tử. NHững kho báu và tri thức thể đong đếm nổi cho người bắt sống .” Sinh vật cố đứng chân mình nhưng được và ta lại ngã xuống. “Nhưng ông và tôi muốn mang ra vòng công lý. Cuộc tranh đấu của chúng ta với người bất tử đó là vấn đề cá nhân. Ông ta giết người chúng ta thương... và chúng ta báo thù.”


      Odin thương tiếc sinh vật kia và chìa cây trượng ra. ta tóm lấy nó, những ngón tay móng đen xỉn nắm lấy cây gỗ cổ xưa. Luồng điện của ta lóe màu đỏ như máu và trong nhịp đập Odin thấy lại hình ảnh ngày xưa của ta: cao, tao nhã, rất xinh đẹp, đôi mắt màu bầu trời ban sáng và mái tóc như những đám mây lúc bão. Rồi hình ảnh nhòa , để lại hình ảnh sinh vật đứng im, xấu xí trước ông. Odin đỡ ta đứng lên và ngồi cạnh ông. Dù bốt cao nhưng ta cũng chỉ đứng tới ngực ông.


      “Isis và Orisis tới – cả hai người – và hứa trả lại tôi sắc đẹp nếu tôi đãn đường cho họ tìm ra .”


      “Sao họ lại hỏi ?”


      “Họ biết tôi gửi Torbalan – Ông Túi – theo dấu .”


      với họ cái gì?”


      “Tôi tôi biết chắc ở đâu?”


      dối à?”


      toàn bộ ,” . “tôi muốn họ là những người đầu tiên tìm ra .”


      “Vì được xét xử.”


      Sinh vật gật đầu. “Chỉ có như thế. Nếu họ có , nằm ngoài tầm với của tôi.”


      “Hình như cả hai chúng ta đều muốn trả thù.”


      “Tôi thích là đòi lại công bằng hơn.”


      “Công bằng. Tôi cứ thấy nhột nhạt khi thốt ra từ đó đó.” Odin đặt tay dưới cằm ta và nâng lên. “Cháu thế nào, Hel?”


      “Tức giận, chú ạ. Còn chú?”


      “Cũng tức giận,” ông hưởng ứng.


      “Cháu có thể giúp chú,” Hel .


      “Cách nào?”


      Sinh vật giơ chiếc di động lên đưa trước mặt vị Elder. màn hình là hình ảnh chiếc xe đen. Khuôn mặt Tiến sĩ John Dee khó nhìn qua lớp kính đen. “Cháu biết Dee ở đâu. Cháu có thể đưa chú tới đó.”




      CHƯƠNG MƯỜI HAI

      “Em muốn gì làm dì em thất vọng,” Sophie khi họ tới gần góc đường Sacramento ở Pacific Heights – nhà dì Agnes.


      gì,” Niten hứa.


      “NẾu em có thể vào nhà và lấy quần áo mà bị dì phát là tốt nhất, nhưng mà bà thường ở phòng khách trước nhà xem TV hoặc nhìn ra đường xá,” tiếp. Mặt đỏ lựng và thở ra hơi đường từ Coit Tower tới đây. “Thế nên em có thể phải giới thiệu với bà ấy. Nếu dì ấy vẫn nhớ a, em bảo là bạn em.”


      “Cám ơn,” Niten lẩm bẩm, khuôn mặt biểu cảm.


      “Sau đó, khi chuyện với dì, e lẻn lên tầng thay quần áo. Em mang vài bộ đồ của Josh cho , dù có lẽ chúng hơi to hơn chút.”


      rất cám ơn,” Niten . giơ cổ áo véc đen hỏng lên mũi và hít hít cẩn thận. “ có mùi khói và mùi ma thuật cổ xưa. Em cũng thế, em à,” thêm. “Em nên tắm nữa.”


      Má Sophie ửng đỏ. “ em có mùi hả?”


      “Em sợ là thế.” nhắm mắt nghiêng đầu lại và hít hơi sâu. “Nhưng chỉ có mùi luồng điện trong khí. với em có thể ngửi thấy gì?” hỏi.


      Sophie hít hơi sâu vào phổi. “Em có thể ngửi mùi khói trong quần áo em,” . “Mùi muối trong khí... mùi chất thải oto,” dừng lại, rồi . “Có mùi gì khác nữa cơ.” hít thêm hơi nưa và nhìn những khu vườn xung quanh. “Có lẽ là mùi hoa hồng.”


      phải hoa hồng,” Niten .


      “Nhưng quen lắm,” . “THế mùi gì?”


      “Hoa nhài,”


      “Đúng là hoa nhài. Nhưng sao lại có mùi hoa nhài nhỉ?”


      “Đó là mùi của ma thuật cổ xưa. Tsagaglalal yếu .”


      nhận thức được là mình run rẩy. khoanh tay quanh người và quay sang nhìn Niten. “Bà ấy là ai? Bà ấy là gì? Mỗi lần em cố tiếp cận với ký ức của Bà phù thủy đều có gì.. kể cả mảnh.”


      “Tsagaglalal là .” Niten thừa nhận. “ ấy phải Elder hay Thế hệ Kế tiếp, phải người bất tử mà cũng hẳn là người, già như Vua Gilgamesh. Aoife từng với rằng Tsagaglal biết mọi thứ và Vương quốc bóng tối này từ hồi khởi thủy để quan sát và chờ đợi.”


      “Chờ đợi cái gì, quan sát cái gì?” Sophie nhấn mạnh. cố lần nữa gợi lại trí nhớ của Bà phù thủy về Tsagaglalal. Nhưng được gì.


      Niten nhún vai. “Khó lắm. Có những sinh vật suy nghĩ như con người. Tsagaglalal và số khác từng ở trái đất này trong hàng thiên niên kỷ chứng kiến các nền văn minh thịnh rồi suy. Thế vì sao họ cân quan tâm tới đời sống loài người? Chúng ta – loài người – có nghĩa lý gì với họ.”


      Họ tiếp tục xuống đường Scott Street và Sophie lại hít hơi lần nữa. Mùi hoa nhài dường như còn mạnh hơn.


      “Người bất tử thay đổi cách con người suy nghĩ,” Niten , và đột nhiên nhận ra rằng ấy ít khi bắt đầu trước. “ chỉ về bản thân họ, mà còn về thế giới xung quanh họ. biết sống hàng trăm năm là như thế nào, chứng kiến ảnh hưởng của điều đó ...và thể tự hỏi nó ảnh hưởng ra sao đối với những người sống hàng ngàn, chục ngàn năm.”


      “Em trai em và em gặp Vua Gilgamesh ở Luân Đôn. Nicholas ông ấy là người già nhất hành tinh này.” Những cảm xúc ùa về khi ông nhớ về Nhà vua. chưa từng thương tiếc ai trong đời.


      Niten liếc nhìn sang , chút biểu cảm xuất khuôn mặt. “Em gặp Người cổ đại sống lâu đó rồi hả? vinh hạnh hiếm có. đừng sánh vai chiến đấu cùng ông ấy. Ông ấy là chiến binh phi thường.”


      “Ông ấy điên loạn và đơn,” Sophie , đong đầy nước mắt.


      “Ừ.”


      là người bất tử, Niten. có hối hận ?”


      Niten nhìn , mặt cảm xúc.


      “EM xin lỗi,’ Sophie nhanh. “Em định thọc mạch.”


      “Em cần xin lỗi. suy nghĩ về câu hỏi của em. nghĩ về điều đó hàng ngày trong đời,” thừa nhận với nụ cười buồn.”Đúng là hối hận vì những gì bất tử bắt trả giá: cơ hội giành cho gia đình, bạn bè và cả quốc gia. trở thành người đơn, người ngoài, lãng khách – dầu thực , từng như thế trước khi trở thành người bất tử. Nhưng sống lâu cũng giúp chứng kiến nhiều điều kỳ diệu,” thêm, và đây là lần đầu tiên Sophie thấy Kiếm sĩ có vẻ sống động. “ thấy quá nhiều những thứ kỳ diệu. ĐỜi người quá ngắn khong thể trải qua những thứ mà thế giới này dành cho họ. thăm mọi ngóc ngách của mọi châu lục hành tinh này và khám phá những Vương quốc bóng tối khác cả những cái đáng sợ và những cái đáng ngưỡng mộ. cũng học được nhiều. Bất tử là món quà còn hơn cả tưởng tượng. Nếu em được tặng: hãy nhận nó. Những lợi ích của nó vượt xa những bất lợi.” đột nhiên dừng lại. Có thể đây là cuộc chuyện dài nhấ Sophie và có.


      “Scathach bảo với em bất tử là lời nguyền.”


      “Bất tử là cách em nghĩ về nó,” Niten . “ lời nguyền hoặc lời chúc phúc - ừ, có thể la cả hai. Nhưng nếu em dũng cảm và tò mò món quà nào tuyệt hơn đâu.”


      “Em nhớ nếu có ai đó đề nghị tặng nó cho em,” .


      “Và tất nhiên cũng phụ thuộc xem ai là người tặng nữa chứ!”


      Sophie hít hơi sâu khi nhìn thấy ngôi nhà gỗ trắng của dì ở góc rẽ. gì với Dì Agnes đây? Đầu tiên biến mất; giờ trở veefl nhưng em trai mát. Agnes có thể già lão, nhưng bà ngốc: bà biết cặp sinh đôi luôn kè kè bên nhau. Ít khi tìm được người này mà có người kia. Sophie biết phải cẩn thận. Mọi điều với dì Agnes có thể được truyền đạt thẳng lại với bố mẹ . Và giải thích chuyện của Josh thế nào? biết cậu ta ở đâu. Lần cuối cùng thấy cậu, cậu còn là cậu em cùng lớn lên với . Cậu vẫn giống Josh, nhưng đôi mắt cậu, từng là tấm gương soi đôi mắt , lại giống người xa lạ.


      nuốt khó khăn và chớp mắt để xua nước mắt. tìm ra cậu. phải tìm ra cậu.


      Sophie thấy tấm thảm lưới trắn khi bước tới bậc tam cấp và biết dì nhìn mình. liếc nhìn Niten và gật đầu . cũng nìn thấy những cử động. “Dù em gì cũng đơn giản thôi,” khuyên.


      Cửa mở và dì Agnes xuất , người bé, gầy gò và xương xẩu, với đầu gối củ lạc và những ngón tay xưng vù vì chứng viêm khớp. Khuôn mặt bà góc cạnh, cằm nhòn, xương gò má thẳng khiến mắt bà sâu hoắm. Mái tóc xám chải gọn về đằng sau và búi sau đầu. Nó kéo da mặt bà căng ra.


      “Sophie,” người phụ nữ nhàng . Bà rướn người lên và nheo mắt nhìn. “Em trai cháu đâu?”


      “Ờ, cậu ấy tới mà dì.” Sophie vừa vừa bước lên bậc thang dẫn vào cửa chính. Khi tới bậc caao nhất, vươn người và hôn vào má dì. “Dì thế nào ạ?”


      “Đợi cháu về nhà,” bà lão , có vẻ mệt mỏi.


      Sophie cảm thấy tội lỗi. Dù dì của cặp song sinh khiến họ điên lên, họ đều biết bà tốt bụng. “Dì à, con muốn dì gặp bạn con. Đây là...”


      “Miyamoto Musashi,” Dì Agnes , có chút thay đổi sắc trong giọng , trầm hơn, nghe giống câu ra lệnh. “Chúng ta lại gặp lại nhau rồi Kiếm sĩ.”


      Sophie vừa qua dì bước vào hành lang tối tăm, nhưng khi nghe những từ ngữ lạ lùng của bà lão, dừng lại và xung quanh. Dì vừa tiếng Nhật! Và bằng cách nào đó dì biết tên Niten – tên ấy. Sophie chưa từng giới thiệu ! chớp mắt: luồng khói mờ nhất thoát ra từ nguwofi bà lão. Và đột nhiên mùi hoa nhài mạnh lên.


      Hoa nhài...


      Các ký ức tụ họp lại.


      Những ký ức đáng sợ và đen tối: hỏa hoạn và lũ lụt, bầu trời đầy khói đen biển đầy xác tàu.


      Còn Aoife bóng tối đáng nghi đâu rồi?” Agnes tiếp, chuyển từ tiếng Nhật về tiếng .


      Ký ức của những tòa tháp pha lê, trôi nổi biên sôi sùng sục. Những vết nứt dài xuất bề mặt tòa tháp, rồi liền ngay lập tức. Chớp lóe xung quanh tòa tháp. Và người phụ nữ, chạy mãi, chạy mãi lên những bậc thang biết đâu là diểm dừng.


      Sophie thấy thế giới đảo lộn xung quanh . vươn tay ra chạm vào tường và nhận ra luồng điện bạc lấp lánh da thịt .


      Hoa nhài...


      Ký ức của phụ nữ quỳ trước bức tượng vàng, ôm cuốn sách bìa kim loại, đằng sau thế giới vỡ thành từng mảnh kính và lửa .


      Niten bước lên trước Agnes và cúi thấp người. “ vào Vương quốc bóng tối với Archon Coatlicue, thưa bà.” .


      “Ta tiếc cho Archon đó,” Dì Agnes nhàng.


      Và đột nhiên Sophie nhớ ra vì sao mùi hoa nhài lại quen thuộc đến thế. Đó là mùi nước hoa thích của dì. Và đó cũng là mùi hương của Tsagaglalal, Giám quan.


      Và giờ thế giới xung quanh chuyển thành màu đen.




      CHƯƠNG MƯỜI BA

      Ở bờ biển Đông Bắc đảo Danu Talis, tháp cao tưởng, thanh mảnh ngờ nâng lên từ dưới biển. Đó chính là thành phố Murias. Thành phố đó cổ cưa nhưng tháp đó còn hơn thành phố cả thiên niên kỷ. Khi các Elder vĩ đại tạo ra hòn đảo Danu Talis bằng cách nâng đáy biển lên nhờ vào những Phép thuật cơ bản, tòa tháp bằng kính này và phần còn lại của thành phố của các Chúa Đất nằm ở đó. Hâu hết các thành phố cổ đại chỉ còn lại những mảnh kính vỡ và vàng vụn, băng chứng của trận chiến kinh khủng giữa các Chúa đất với các Archon và các Elder Vĩ đại thời khởi thủy.


      Nhưng tòa tháp pha lên đó vẫn ở đó, bị động chạm hay ảnh hưởng bởi nhiệt độ làm nóng chảy những tòa nhà xung quanh. Nó trở thành điểm. Bình thường nó là đỉnh núi nhưng khi thủy triều lên cao nó trở thành đảo. Ngọn tháp pha lên trắng có thể chuyển màu theo thời tiết và thủy triều, từ màu xám đậm tới xanh đậm, từ màu trắng của núi tuyết tới màu xanh của băng cực. Khi những đợt thủy triều xô sóng vào bức tường phẳng, nước biển sùi lên và bị đun nóng, vì thế tòa tháp có hơi bốc lên dù bản thân đá làm tường mát lạnh. Buổi tối, tòa tháp lập lòe ánh sáng lân tinh màu chữa chua, sáng lên từng đợt theo nhịp đập chầm chậm như của trái tim vĩ đại, tỏa ra những tia sáng – đỏ và tím – như sợi chỉ. Trong những tháng mùa đông, khi những cơn mưa đá phủ trắng Đại Băng ĐỈnh của Thế giới và phủ trắng Murias, ngọn tháp vẫn đứng nguyên bị động đến.


      Các Elder và các Elder vĩ đại sống tại Murias vừa sợ hãi vừa ngưỡng mộ tòa tháp. Dù ai xây dựng tòa tháp, họ cũng là những Chủ nhân của Phép thuật cơ bản, và hầu như có gì có thể nằm ngoài quyền năng của họ. Họ biết rằng họ sống ở thế giới cổ xưa, thế giới cổ đại, và những phần của bí mật xa xưa vẫn còn năm yên trong bóng tối. Qua nhiều thế hệ, những Elder Vĩ đại và các Elder tới sau họ chiến đấu với các Archon và đánh bại họ, xóa sổ những Chúa đất xấu xí cuối cùng. Quyền năng của các Elder – hòa hợp của khoa học và năng lượng luồng điện – giúp họ đầu như thể bị tổn thương. Nhưng đến họ cũng sợ tòa tháp. Truyền thuyết gọi hòn đảo đó là Tor Ri. Theo ngôn ngữ cổ của Danu Talis từ đó có nghĩa là “Tòa tháp của Nhà Vua,” – nhưng có vị vua nào sống ở đó.


      Tòa tháp pha lê đó là ngôi nhà của Nhà thông thái Abraham.


      Chiếc binh tóc đỏ mặc bộ giáp sáng loáng loạng choạng bước qua cánh cửa hẹp và vươn người ra phía trước, tay chống hông, thở dốc. “Abraham, những bậc thang này giết tôi mất,” ông thở hổn hển. “Cứ như thể chúng dài vô tận và luôn luôn khiến tôi thở nổi. ngày nào đó tôi tính xem có bao nhiêu bậc.”


      “Hai trăm bốn mươi tám,” người đàn ông cao và góc cạnh đứng ở giữa phòng lơ đãng . Ông tập trung vào quả địa cầu màu xanh trắng xoay quanh ông trong khí.


      “Tôi nghĩ có nhiều hơn cơ. Tôi luôn thấy như thể mình leo hàng năm trời.”


      Abraham nửa quay lại, ánh sáng từ quả địa cầu quay hắt ánh sáng lên nửa mặt bên phải của ông, khiến lớp da trắng của ông có màu xanh bệnh tật. “ vào và ra ít nhất cả tá các Vương quốc bóng tối đường tới đây mà, Prometheus. Tại sao lại nghĩ tôi bảo bao giờ được nán lại ở bậc thang?” ông thêm kèm nụ cười tinh khôn. “ có tin gì cho tôi à?” Nhà thông thái Abraham quay cả người đối diện với người chiến binh cao lớn.


      Prometheus đứng thẳng người, kỷ luật của người chiến binh cho ông biết rằng khi ông nhìn vào Nhà thông thái, khuôn mặt ông biểu cảm gì. Trước khi ông , quả địa cầu xanh trôi xuống và bay thẳng về phía ông, ở giữa hai người.


      nhìn thấy gì hả bạn già?”


      Prometheus chớp mắt và tập trung vào quả cầu. “Thế giới...,” ông dợm lời, rồi nhíu mày. “Nhưng có gì đó đúng. Có quá nhiều nước,” ông chậm rãi khi theo dõi khối cầu xoay vần. Ông nhận ra quê hương mình khi ông nhìn thấy các lục địa hình thành. “ còn Danu Talis nữa.”


      Abraham đưa bàn tay đeo găng kim loại ra và chỉ ngón tay trỏ vào quả cầu: nó nổ như bóng bóng. “Danu Talis còn,” ông đông tình. “Đây là thế giới giống như nó thế, nhưng như nó có thể thế.”


      “Gần ?” Prometheus hỏi.


      “Gần thôi.”


      Prometheus nhìn thẳng vào Nhà thông thái Abraham. Từ trước khi gặp ông ta, vị Elder nghe những huyền thoại vầ bậc hiền triết lang bạt, người được truyền tụng là phải Elder cũng chẳng phải Archon nhưng già hơn cả hai, thậm chí còn hơn cả Chúa Đất. Người ta rằng ông sống từ thời Khởi thủy, nhưng Abraham chưa bao giờ về tuổi của mình. Chị của Prometheus, Zephaniah, với ông rằng lịch sử của mọi loài đều tới hiền triết, học giả thông thái, người mang những kiến thức và trí khôn tới cho những con người từ thời xa xưa của lịch sử. Có rất ít miêu tả về nhà hiền triết...nhưn rất nhiều câu chuyện kể về người có thể là Nhà thông thái Abraham.


      Nhà thông thái có mái tóc màu vàng nhạt, mắt xám, da xạm chứng tỏ ông tới từ vùng đất phía bắc xa xôi, nhưng ông cao hơn những người Miền Bắc rất nhiều, và đặc điểm khuôn mặt ông đẹp hơn, với gò má cao, và đôi mắt hơi xếch. Những ngón tay của ông dài khác thường.


      Trong những thập kỷ gần đây, thay đổi bắt đầu tác động lên Abraham.


      Prometheus biết rằng có những điều tương tự đối với các Elder Vĩ đại – thê nên có thể Abraham thuộc giống loài đó – nhưng vì còn rất ít người trong số họ sống sót và ai xuất công khai, nên ai biết thực như thế nào. Zephaniah từng giải thích với ông rằng khi những Elder Vĩ đại có thể cực kỳ già, căn bênh hoặc đột biến gì đó, thậm chí có thể là tái cấu trúc, bắt đầu xảy ra DNA của họ.


      Các Elder Vĩ đại thay đổi. Và các Thay đổi lại khác nhau.


      Có vài người chuyển hóa hoàn toàn thành quái vật, mọc lông và răng nanh; số khác trở thành những sinh vật lai mọc cánh hoặc vẩy người. số lùn , trong khi số khác cao lớn đồ sộ. Rất nhiều người phát điên.


      Abraham dần dần chuyển hóa thành bức tượng mỹ miều. Nguồn điện vàng của ông còn tỏa sáng người ông nữa. Nó đóng vẩy da thịt ông, khóac lên mình ông, biến da thịt ông thành kim loại. Phía mặt trái từ trán tới cằn và từ mũi tới tai biến thành mặt nạ vàng cứng. Chỉ có con mắt của ông là bị động tới dù phần lòng trắng chuyển sang màu nghệ tây nhạt với những sợi chỉ vàng xoắn vặn vào mống mắt màu xám. Hàm răng và dưới bên nửa trái khuôn mặt ông biến thành vàng còn tay trái như thể đeo găng tay vàng, dù Prometheus biết đó thực ra là lớp da của ông.


      Prometheus chợt nhận ra Abraham nhìn mình chằm chằm. Ông cười nhếch môi. “Hôm qua thấy tôi rồi đấy,” Nhà thông thái chậm rãi . “Tôi thay đổi gì cả.”


      Vị Elder gật đầu, má ông chuyển sang cùng màu với tóc.


      Quá trình biến đổi vừa kinh khủng mà vừa đẹp. Và dù Abraham gì nhưng cả ông và Prometheus đều biết nó kết thúc ra sao: Thay đổi khiến nhà Thông thái thành pho tượng sống, thể hay cử động, dù đầu óc ông vẫn hoạt động. Prometheus chưa từng hỏi nhưng ông nghi ngờ rằng Abraham biết chính xác mình còn bao nhiêu thời gian.


      cho tôi có gì mới nào,”Abraham .


      “Tin tốt,” Prometheus cảnh báo. Ông nhìn thấy đau đớn nét mặt Nhà thông thái nhưng vẫn tiếp tục tiếp. “Những người lạ xuất – nhưng ông ngọn đồi phía nam thành phố. Nhưng những anpu đón lõng họ. Họ bị bắt và đưa tới kim tự tháp. Tôi biết giờ họ ở đâu, nhưng tôi đoán họ ở ngục thất bên dưới tòa án đế chế.”


      “Vậy là chúng ta lạc mất họ và chúng ta tong.” Abraham quay . Ông giơ cả hai tay lên và lần nữa quả cầu xanh lại xuất trong khí. Những cụm mây trắng bao quanh khối câu, lững lờ trôi vùng đất màu xanh và nâu. Giữa khối câu là Danu Talis.”


      “Giờ sao rồi?” Prometheus hỏi.


      Abraham giơ cả hai tay, bằng kim loại và bọc da lên tới gần thế giới trôi nổi. RỒi ông nắm chắt lấy. Những hạt bụi màu xanh và trắng, xanh lơ và nâu biến thành những hạt cát tay ông. Ông quay qua vị Elder, ánh sáng tắt hẳn tren nửa mắt kim loại hóa của ông. “Giờ thế giới kết thúc.”

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG MƯỜI BỐN
      “Đó là Nereus,” Niccolo Machiavelli nhanh với Billy the Kid. Tay trái ông ta đặt vai chàng trai trẻ, nhưng những ngón tay bấu chặt lên cổ cậu ta. Mỗi lần Billy định mở miệng gì, Machiavelli nắm chặt lấy buộc cậu ta câm họng. “Billy, Đó là ông già của Biển cả, trong những Elder quyền năng nhất.” Ông ta giảm áp lực cổ người Mỹ bất tử trong lúc.

      “ tôi rất vui được biết ông,” Billy cau có.

      Ánh sáng trắng sáng Machiavelli tạo ra vẫn chiếu sáng đường hầm. Nó chiếu tỏ người đàn ông to bè với máu tóc dày dài tới vai và bộ râu xoăn tít. Có vết bỏng trán nâu sạm của ông ta, có vài vết tương tự ngực và vai. Áo chẽn tay của ông phủ đầy tảo biển cùng rong rêu ngực, tay trai ông cầm cây ba chia. Ông tiến lên và ánh sáng trắng lập lòe chiếu sáng nửa dưới người ông. Machiavelli thấy Billy hít hơi vì choáng và lần nữa ngón tay ông ta nắm chặt lấy cổ người Mỹ để tránh mở miệng nhận xét linh tinh. Ông già của Biển cả chỉ có nửa giống người; nửa dưới là những chiếc chân bạch tuộc bên dưới.

      hân hạnh được gặp ông,” Michavelli rào đón.

      “Và là người Ý bất tử,” giọng của Nereus giống như bọng nước bị vỡ ra. “Người được họ gọi là Người tạo ra các Vị vua.”

      Machiavelli cúi người. “Tôi lâu nghe thấy cái tên hiệu đó rồi.”

      “Đấy là cách chủ nhân gọi ,” ông già của Biển cả tiếp.

      “Chủ nhân tôi là hào phóng,” người bất tử ngượng mồm.

      “Chủ nhân của rất nguy hiểm. Và hài lòng với . Tuy nhiên, tôi quan tâm. Nhiệm vụ của ta là hỗ trợ , Người tạo ra Vua ạ. muốn gì?”

      “Tôi tới đây để thả lũ quái vật vào San Francisco. Chỉ dẫn của tôi là trước hết thả loài lưỡng cư vào vịnh. Họ với tôi là ông hoặc các con của ông dẫn chúng vào thành phố.

      Giọng của Nereus nghe ướt át và nhớp nháp. “ biết cách đánh thức chúng chưa.”

      Michavelli giơ tấm ảnh màu độ phân giải cao lên. “Chủ nhân tôi gửi cho tôi cái này. Từ Kim tự tháp Unas.”

      Nereus gật đầu. Ba cái chân của ông ta giơ lên trong khí và vẫy trước mặt người Ý. “Đưa ta xem.”

      Machiavelli bước lùi lại khỏi tầm với của vị Elder.

      tin tôi phải , người bất tử?” Nereus gầm ghè.

      Machiavelli quay tấm ảnh ra trước mặt sinh vật. “Tôi muốn bức ảnh bị ướt,” ông giải thích. “Tôi tin bằng máy in màu. Nếu bị ướt mực nhòe. Và tôi muốn làm chủ nhân tôi thất vọng thêm chút nào nữa hết.”

      “Giữ nó đó cho ta xem.” Nereus nhoai người ra nhíu mắt nhìn. Rồi, cách lưỡng lự, ông ta cho tay vào túi áo và lấy ra chiếc túi nhựa trong suốt. Bên trong túi là hộp đựng kính. Nerus mở nó ra và lấy ra chiếc kính nửa vầng trăng đeo sống mũi và nhìn bức ảnh thêm lần nữa. “Vương quốc cổ,” ông ta thầm, rồi gật đầu. “Đây là những Phát ngôn. Người Ý à, cần phải cẩn thận: những câu đó chứa quyền năng vĩ đại. muốn thả con gì trước?”

      Machiavelli thả Billy ra và lấy trong túi ra tập giấy. “Chủ nhân của tôi cũng đưa cho tôi bản hướng dẫn,” ông , mở tờ giấy ra để lộ hàng dòng những chấm chấm, phẩy.

      “Ở đây có thủy quái ?” Billy nhanh nhảu hỏi. “Chúng ta có thả thủy quái ?” Nereus và Machiavelli quay lai nhìn chàng người Mỹ. “Làm sao thế?” ta hỏi, hết nhìn người này rồi người kia. quay qua Machiavelli. “Làm sao?”

      Đôi mắt người Ý ảnh lên tia nhìn cảnh báo.

      “Chúng ta có thủy quái,” Nereus . “Ngoài ra, nếu ta có thủy quái chẳng nữa, chúng chỉ lớn thế này,” ông ta dùng ngón cái và ngón trỏ để so ra khoảng cách 1 inch.

      “Tôi cứ nghĩ là nó lớn hơn cơ.”

      “Những thần thoại của người biển. Và cậu biết đấy những thủy thủ là những tay dối tệ hại.”

      “Thế ông có những gì?” Machiavelli hỏi. “Tôi muốn cái gì đó ấn tượng. Tôi nghĩ chúng ta nên bắt đầu với cái gì đó phô trương, cái gì đó gây ấn tượng với cả thành phố, cái gì đó thu hút được chú ý của họ.”

      Nereus cân nhắc lát rồi mỉm cười, để lộ ra hàm răng xấu xí. “Tôi có con Lotan.”

      Machiavelli và Billy nhìn ông ta hiểu.

      “Lotan ấy,” Nereus .

      Cả hai người bất tử lắc đầu. “Tôi biết đấy là gì,” Machiavelli thừa nhận.

      “Nó khiến tôi thấy sợ,” Billy .

      “Nó là con rồng biển bảy đầu ấy.”

      Machiavelli gật đầu. “Có lẽ được đấy.”

      “Chắc chắn nó thu hút được chú ý đấy chứ,” Billy lẩm bẩm.



      CHƯƠNG MƯỜI LĂM
      “Chúng ta bị theo đuôi,” Josh .

      John Dee và Virginia Dare quay lại nhìn qua cửa kính sau. Năm tay cua rơ đạp nhanh sau họ, lạng lách đánh võng ở dưới cầu Oakland Bay. “Tôi nghĩ là xe đạp được lên cầu,” Dee , chạm vào thanh gươm dưới chân.

      “Sao ra đó mà với chúng ,” Virginia Dare gợi ý.

      “có hai tên phi xe máy tiến tới rất nhanh, bên phải và bên trái.” Josh . Trong những thời điểm khác cậu rất sợ hãi nhưng tuần rồi làm thay đổi cậu. khiến cậu mạnh mẽ và tự tin. Và cậu có thể tự bảo vệ mình, cậu nghĩ, khi nhìn xuống những thanh kiếm đá sàn xe bên cạnh cậu.

      “Có thể chúng chẳng là gì..” Dee dợm lời.

      “Chúng đeo ba lô,” Josh thêm.

      “Ông Túi,” Dare tự tin .

      Josh liếc nhìn cả hai bên gương và tim đập rộn lên. NHững tay lái mô tô đầu đội mũ bảo hiểm đen dễ dàng nhìn thấy được từ hai hướng. Chúng ở ngay sau chúng ta.”

      “Cậu nên tập trung lái xe ,” Dee . “Virginia và tôi lo chuyện này.”

      “Đằng trước ùn tắc,” Josh đều đều , quan sát những đèn pha lóe lên từ phía chân cầu. Cậu vẫn bình tĩnh và tự chủ.

      Dee nhoai người ra giữa hai ghế. Rồi ta chỉ sang bên trái. “ theo đường Treasure Island . cần xi nhan.”

      Josh quay vô lăng và chiếc xe nặng nề xoay tròn giữa hai làn đường. Gã lái mô tô bên trái nhấn phanh sau để lại đống khói bụi dài phía sau. Chiếc xe đổ ra khiến gã lái xe lăn đùng xuống đất. Hàng xe dài phải dừng lại.

      “Hay lắm,” Virginia . “Lái xe lâu rồi hả?”

      lâu tới thế,” – Josh cười toe toét. – “nhưng tôi phải thực hành nhiều trong suốt tuần qua.” Đoạn đường ngoằn sang trái và Josh trào nước mắt do từ trong bóng râm của cây cầu ra ngoài ánh sáng rực rỡ. Rồi đột nhiên cả khoảng trời của Vịnh San Francisco và thành phố mở rộng trước mặt. Từ xa, phía trước mặt cậu, chính giữa vịnh chính là hòn đảo Alcatraz.

      “Virginia. Tên lái xe ở bên phía kìa!” Josh gọi.

      Người phụ nữ nhấn nụt hạ cửa sổ xuống. Gã lái xe còn lại tăng tốc theo kịp chiếc limo và cố lấy trong ba lô cái gì đó ra bằng tay phải trng khi tay trái điều khiển xe. “Xin chào,” ta . Bên trong xe nháy lên luồng sáng xanh ấm áp và mùi gỗ cây xương tràn ngập khí. Virginia xoa ngón cái và ngons trỏ, qua gương Josh thấy quả cầu xanh xuất . ta ném quả cầu vào gã lái mô tô.

      “Trật rồi!” Dee quát. “Đây, để tôi...”

      “Bình tĩnh nào Tiến sĩ, bình tĩnh,” Virginia .

      Cao su bánh xe trước đột ngột chảy thành nhựa đen. Nan hoa gẫy còn bánh xe long ra và yên xe bay tít sang bên kia đường, phuộc bánh trước đập thẳng xuống nền đường. Sau đó chiếc xe đập xuống dải phân cách thấp dọc bờ vịnh. Gã lái xe bay khỏi xe và biến mất tiếng động.

      “Luôn luôn khốn khéo, Virginia,” Dee đáp.

      Josh đạp chân ga và phóng đường Treasure Island. Đằng sau họ xe cộ ùn tắc lại vì những tài xe bỏ xe lại và chạy giúp người lái mô tô. Josh chậm lại kh con đường hướng thẳng đến hòn đảo. Cậu có thể nhìn thấy bên du thuyền ở bên tay phải. Qua khóe mắt cậu nhìn thấy vật chuyển động khi qua đường Macalla và cần suy nghĩ, cậu đạp ga. Chiếc xe dồ lên phía trước, khiến Virginia và Dee phải ngồi lại vào ghế. “Mấy gã lái xe quay lại rồi,” Josh . Mặc dù tim cậu đập thùm thụp nhưng cậu hề sợ Cậu nhận ra mình tự mình vạch ra kế hoạch trốn thoát. Cậu làm bài tính nhanh. “Có nhiều đấy.”

      Mấy tay cua rơ xuất ở bên kia đường và đạp nhanh theo chiếc xe. Cả tám tên đeo kính và mũ bảo hiểm khí động lực làm cho họ trông họ giống như sâu bọ.

      “mọi việc càng lúc càng mệt mỏi,” Dee lẩm bẩm. “Lái xe . Rẽ vào câu lạc bộ du thuyền ấy. Tôi có ý kiến này.” quay qua nhìn Virginia. “ có thể cản đường chúng ?” chỉ ngón cái về những tay cua rơ.

      Virginia nhìn khinh miệt. “Tôi có thể chặn đứng cả đội quân ấy chứ. Hay quên rồi?”

      nghĩ là em chưa bao giờ làm quên,” thở dài rồi nhét ngón tay vào tai.

      Virginia hạ cửa kính xuống nữa rồi đặt cây sáo lên mép tấm kính, hít hơi sâu, nhắm mắt lại và nhàng thổi sáo.

      thanh quyến rũ.

      Josh cảm thấy nó lan truyền vào tận xương tủy. Giống như lưỡi khoan của nha sĩ...nhưng tệ hơn, rất rất nhiều. Răng và xương gò má của cậu đau ê ẩm, và cậu còn cảm thấy thanh lan vào tận trong màng nhỉ. Nguồn điện vàng kim của cậu lóe lên xung quanh đầu để tự vệ, và trong tích tắc quanh đầu cậu hình thành chiếc mũ trụ. thanh đột ngột giảm cường độ và Josh cứ mở rồi lại ngậm miệng để thư giãn quai hàm mỏi nhừ. Tốc độ hình thành bộ giáp đáng kinh ngạc và cậu còn ý thức được việc triệu hồi nó. Cậu duỗi những ngón tay đeo găng. Điều này có ám chỉ rằng cậu hình thành và kiểm soát luồng điện dễ dàng hơn ?

      con hải âu xuất . Nó bay lên từ mặt nước, đập thẳng vào kính chắn gió, và trong tích tắc Josh nghĩ nó làm vỡ lớp kính. Nhưng đến phút cuối, nó lại lượn lên và đâu đầu tay cua rơ thứ nhất. Chiếc xe chòng chành như điên vì gã lái xe cố đuổi con chim bay ra khỏi đầu gã

      Lại con thứ hai rồi con thứ ba và cả bầu trời kín những cánh chim trắng. Chúng tấn công những tay lái xe, ị xuống đầu chúng, đậu chúng. Tay thứ nhất ngã xuống đường và tên thứ hai ngã đè lên. Tên thứ ba và thứ tư chồng chất lên chúng. NHững tên còn lại phanh xe và quay lại, vô vọng xua đàn chim lượn tròn và kêu ầm ĩ.

      Virginia ổn định lại chỗ ngồi và đặt cây sáo vào lòng rồi kéo cửa sổ lên. “Hài lòng rồi chứ?” ta hỏi Dee.

      Dee thả ngón tay ra khỏi tai. “Đơn giản mà hiệu quả, như mọi khi.”

      Qua kính chiếu hậu. Josh quanh sát cả bầy hải âu lớn lao vào đám hỗn độn người và xe đường. NHững con chim mổ vào những tên ngã xe. tên tháo mũ bảo hiểm ra và ném vào chúng, tên khác tháo cả yên xe nhưng tên nào tên nấy đều dính đầy phân chim từ đầu tới chân. Giao thông đường Treasure Island rơi vào ách tắc, hầu như các tài xế đều cầm điện thoại hoặc máy ảnh tay ghi lại cảnh tượng kỳ lạ này.

      “Tôi cá là cảnh này được đăng YouTube ngay đấy,” Josh lẩm bẩm. “Trong ba lô của chúng có gì thế?” cậu lại hỏi.

      “Tôi rồi,” Virginia mỉm cười. “Cậu muốn biết đâu!”

      “Thực , tôi muốn đấy,” Josh cự nự.

      “Rẽ ở chỗ này,” Dee ra lênh, chỉ sang bên phải. “Tìm chỗ đỗ xe .”

      Josh quay xe vào Clipper Cove Way và đỗ xe vào chỗ trống giữa hai chiếc xe thể thao đắt tiền. Cậu đừng xe lại và quay qua nhìn hai người bất tử. “Giờ sao?”

      Dee mở cửa bước ra. RỒi chui lại vào trong vớ lấy hai thanh kiếm đá, nhét vào hai bên sườn. “Chúng ta ,” .

      Cả Josh lẫn Virginia đều đứng yên. “Tôi chừng nào tôi biết chúng ta làm gì ở đây,” Virginia quát.

      Pháp sư chui lại vào trong xe. “Như em chỉ ra chúng ta bị kẹt lại San Francisco. Và giờ chúng ta mắc kẹt ở đường Treasure Island. Đây là đường độc đạo để tới và ra khỏi hòn đảo mà chúng ta bị theo dõi.” Ông ta quay ra nhìn đàn hải âu khổng lồ vẫn lượn vòng quanh đám cua rơ thất trận. “Chúng ta cần có chiến lược...”

      con thuyền,” Josh ngay.

      Dee nhìn cậu ngạc nhiên. “ĐÚng, chính xác. Chúng ta thuê nếu có thê, trộm nếu chúng ta phải làm thế. Khi có ai tới đây chúng ta cao chạy xa bay rồi.”

      “Tới đâu?” Virginia hỏi.

      Dee xoa tay là nhau phấn chấn. “Nơi cuối cùng họ tìm chúng ta,”

      “Alcatraz,” Josh đáp.




























      CHƯƠNG MƯỜI SÁU
      Đây là giấc mơ.

      hơn gì giấc mộng quá sống động. Và giờ giấc mơ đó là gì nào!

      Sophie Newman nằm giường và nhìn lên trần nhà quen thuộc. Cách đây khá lâu, người nào đó – có thể là mẹ , họa sĩ lạ thường – sơn trần bằng màu danh dương đậm. Những ngôi sao bạc hình thành nên chòm Đại Hùng và chòm Thợ săn, và mặt trăng khuyết treo lơ lửng đối diện giường . Mặt trăng được sơn màu lân tinh, và nó tỏa ra ánh sáng mờ ảo mỗi đêm ngủ lại nhà dì. Phòng của Josh, ở bên canh, là hoàn toàn trái ngược: phòng được sơn màu trứng sáo với mặt trơi lớn ở chính giữa trần nhà. Sophie thích gì hơn việc được ngủ khi nhìn lên trần nhà nhà này, nhìn theo các chòm sao. Thường tưởng tượng mình rơi vào các ngôi sao, và mơ được bay. đặc biệt thích những giấc mơ đó.

      Sophie duỗi thẳng người và phân vân biết mấy giờ rồi. Căn phòng tối như nó thường thế sau bình mình, nhưng bầu khí yên ắng, giống với sau khi thành phố sống dậy. Mắt rời khỏi trần nhà: có dấu hiệu của ánh sáng ban ngày tường. Thực ra, căn phòng có vẻ ảm đạm như thể đầu giờ chiều. ngủ tới muộn thế cơ á? giấc mơ điên rồ. thể đợi để kể cho Josh nghe.

      Sophie lăn qua và thấy dì Agnes và Perenelle Flamel ngồi bên kia giường quan sát . Và đột nhiên bé cảm thấy dạ dày quặn thắt: đây phải giấc mơ.

      “Con tỉnh rồi,” Dì Agnes .

      Sophie nhíu mắt nhìn dì. Trông bà vẫn vậy nhưng giờ biết bà phải con người bình thường.

      “Chúng ta lo lắng cho cháu,” Agnes . “Dậy rồi tắm rửa và mặc quần áo vào. Chúng ta đợi cháu trong bếp.”

      “Chúng ta cần về nhiều chuyện,” Perenelle thêm.

      “Josh...” Sophie dợm lời.

      biết,” Perry nhàng . “ Nhưng chúng ta tìm lại cậu ấy về. hứa đấy.”

      Sophie ngồi giường, chân chống cằm còn khuôn mặt vui trong hai lòng bàn tay. “ giây trước cháu còn nghĩ đây là mơ.” hít sâu cách run rẩy. “Và cháu định sang kể với Josh và cậu ấy cười vào mặt cháu, và rồi chúng cháu thử nghĩ xem những phần khác nhau của giấc mơ đến từ đâu, và sau đó...” Những giọt nước mắt lăn xuống, bé cứ sụi sùi khóc. “Nhưng phải mơ. Nó là cơn ác mộng.”

      Sau khi tắm rửa, thay quần áo và cảm thấy hơi khá hơn, Sophie rời phòng xuống bếp. nghe thấy tiếng vọng ra từ phòng dì ở phía cuối hành lang.

      .

      NHững câu khiến lạnh người.

      Từ khi còn nhớ được, gia đình tới thăm dì Agnes. Cặp song sinh có phòng riêng của chúng trong nhà, và phòng ngủ phía trước dành cho bố mẹ chúng. Josh và Sophie biết rằng dì Agnes có quan hệ máu mủ với chúng, dù theo cách nào đó bà có quan hệ với em hoặc em họ của bà ngoại chúng. Nhưng chúng luôn gọi bà là dì: kể cả bố mẹ chúng cũng gọi bà lão là dì Agnes.

      Thế bà là ai? Bà là cái gì?

      Sophie nhìn thấy luồng điện trắng, ngửi thấy mùi hoa nhàu, nghe thấy bà tiếng nhật với Niten và gọi ta bằng tên . Agnes là Tsagaglalal, người phải là Elder nhưng già hơn Thế Hệ Kế tiếp. Kể cả Zephaniah, Phù thủy Endor cũng biết rất ít về bà.

      Đột nhiên dòng ký ức tràn về

      tòa tháp pha lê tỏa sáng, những con sóng vỗ vào tòa tháp ngay lập tức biến thành hơi nước.

      Mặt nạ bằng vàng.

      Cuốn Codex.

      Ký ức nhạt nhanh như khi nó đến và để lại cho nhiều câu hỏi hơn câu trả lời. Những gì biết chắc chắn là người phụ nữ lớn lên cùng, người tin là dì Agnes thực ra là Tsagaglalal, Giám Quan. Nhưng câu hỏi khiến lạnh gáy còn đó: vừa nhìn thấy ai? Và vì sao?

      Sophie xuống hạnh lang tiến với phòng dì Agnes. mất lúc mới nhận ra những giọng tới từ sau cánh cửa đóng. Hai người đàn ông chuyện, chuyển dễ dàng từ tiếng Nhật sang tiếng và chuyển ngược lại: Prometheus và Niten. bị các kiện làm cho lú lẫn nên việc Chủ nhân của Lửa ở đây cũng chẳng khiến ngạc nhiên. Theo bản năng Sophie biết cả hai người đàn ông đều ý thức được ở hành lang. đặt lòng bàn tay lên cánh cửa trắng định đẩy vào, nhưng thay vào đó lại nhàng hỏi.

      “Cháu vào được ?”

      “Cứ tự nhiên,” Prometheus dịu dàng đáp.

      Sophie đẩy cửa bước vào phòng.

      tới ngôi nhà này hơn mười năm nay, Sophie chưa bao giờ bước vào trong phòng ngủ của dì. Cả lẫn em trai đều luôn tò mò về nó. Cánh cửa luôn luôn khóa, và nhớ có lần cố nhìn qua lỗ khóa, nhưng chỉ thấy có cái gì treo đằng sau cửa, che mất lối vào. Josh thậm chí còn thử trèo lên cây để nhìn qua cửa sổ nhưng cành cây bị gẫy. May là bụi hồng của dì Aunes đỡ cho cậu, dù cậu bị xước xát từ đầu tới chân. Dì Agnes gì khi lau rửa vết thương bằng dung dịch màu xanh có mùi gắt, dù tụi sinh đôi biết bà đoán ra chúng cố làm cái gì. Hôm sau tấm rèm xuất ở cửa sổ phòng bà.

      Sophie luôn nghĩ nó mang phong cách thowiff kỳ Victoria, với những đồ gỗ màu tối nặng nề, đồng hồ tròn lớn đặt bệ lò sưởi, tường đầy những bức ảnh khung gỗ, chiếc giường lớn, với những chiếc gối thêu ren, ga giường dườm dà và chiếc chăn bông xấu xí.

      bị choáng vì giản dị của căn phòng. chiếc giường đơn được đặt ở chính giữa căn phòng sơn trắng. có bức ảnh nào mà chỉ có hộp bằng gỗ nhám và đánh bóng loáng treo tường đựng những tạo tác của người xua. Sophie đoán đấy là những món quà từ ba mẹ dành cho dì Agnes: đầu giáo, đồng xu, đồ nữ trang, hạt cườm và mặt dây chuyển xanh hình con bọ hung. Thứ duy nhất có màu bên cạnh con bọ hung là chiếc găng tay treo cửa sổ đầu giường. tường là hai hình lục giác đặt lồng vào nhau, giữ đúng chỗ nhờ đây đăng ten vàng. Hai các đều làm được làm bằng đá mã não đen và vàng, và bên trong vòng lục giác trong là mê cung màu xanh đá ngọc lục bảo. Sophie đoán rằng khi mặt trời mọc, mặt trời chiếu vào trong vật bắt cơn mơ này và căn phòng sống động với màu ngũ sắc.

      Giờ căn phòng chìm trong bóng tối.

      Niten và Prometheus đứng hai bên chiếc giường hẹp của dì Agnes. Nằm bất động chiếc giường phủ ga trắng là Nicholas Flamel.

      Sophie thấy tim mình chùng xuống. đặt tay lên miệng.

      “Chú ấy ...”

      Prometheus lắc đầu và đột nhiên nhận ra rằng mái tóc đỏ của ông chuyển thành bạc trắng chỉ trong vài giờ đồng hồ kể từ lần cuối gặp ông. Nước mắt khiến đôi mắt xanh của ông trở nên to lớn mặt ông. “. Nhưng chỉ là chưa thôi.”

      “Nhưng sớm thôi,” Niten thầm. vươn tay ra đặt lên trán Nhà giả kim. “Nicholas chết dần. Ông ấy qua nổi hôm nay đâu.”



      CHƯƠNG MƯỜI BẢY
      Isis và Osiris tay trong tay như bất cứ đôi tình nhanh nào thưởng ngoạn cảnh tối, hai người dọc theo Quai de Montebello bờ sông Sein thành phố Paris. Bên trái họ chính là điểm đến của họ, nhà thờ Đức bà tỏa ra ánh sáng vàng ấm áp.

      “Đẹp,” Isis , sử dụng ngôn ngữ có trước khi các pha ra ông trị vì Ai Cập.

      “Quá đẹp,” Osiris gật đầu, ánh lửa như chất lỏng đầu ông. Ông ta tháo chiếc kính mát treo ở cổ áo phông trắng. Isis vẫn đeo kính, và hai hình ảnh thu của nhà thơ phản chiếu chiếc kính đen.

      Dù giờ là mười giờ tối nhưng vẫn còn rất nhiều du khách quanh các danh lam nổi tiếng – có khi còn nhiều hơn bình thường. Những bức tượng bị phá hủy đầu tuần rồi thu hút quan tâm của giới truyền thông thế giới. vài bản báo cao cho rằng đây là hành động của phe khủng bố hoặc bọn quá khích nào đó, số khác đây là kết quả của quá trình ấm lên toàn cầu và sói mòn axit, nhưng hầu hết các tờ báo đều nêu lên câu chuyện đơn giản. Những bức tượng đó được tạc vào tòa nhà hơn sáu trăm năm trước. Chỉ là vẫn đề thời gian trước khi nó lở ra.

      “Em thích Vương quốc Bóng tối này,” Isis đột ngột . “Luôn luôn là thế giới em thích. EM rất thích được kiểm soát nó lần nữa.”

      “Sớm thôi,” Osiris đồng tình. “Mọi thứ về đúng chỗ của nó.”

      Isis nắm lấy tay chồng để nhấn mạnh. “ có nhớ lúc chúng ta làm ra thế giới này ?”

      “Chúng ta á?” ông ta trêu chọc.

      “À thực ra là . Nhưng em có giúp mà.” thêm vào.

      “Em có làm”

      “Đây phải thế giới đầu tiên của chúng ta, đúng ?” ta hỏi, hàng lông mày hoàn hảo của ta nhíu lại như kiểu cố nhớ ra.

      , Em nhớ à... chúng ta tạo ra hai...ờ, chúng ta gọi chúng là sai lầm nhé?”

      Isis gật đầu. “Chúng ta làm ra vài bản nháp và thiếu sót.”

      “Hầu hết đều thiếu sót. Khi Danu Talis sụp đổm chúng ta biết về thứ ma thuật đầu độc trong khí. Phải mất vài lần chúng ta mới nhận ra nó làm ô uế mọi thứ chúng ta tạo ra và chúng ta phải đợi vài thế khí trước khi bắt đầu xây dựng lại thế giới.” Ông nhún vai. “Nhưng sao chúng ta biết nhỉ?” Ông dừng lại đột nhột nhìn vào bà lão với cây gậy trắng ngồi chên chiếc ghế sắt ở góc vỉa hè. Bà ta quay lưng với nhà thờ, đối mặt với dòng sông. “Sao bà ta tới đây trước chúng ta nhỉ?” ông ta thở hắt. “Hà ta vẫn còn trong hầm mộ với Mars Ulthor khi chúng ta rời mà.”

      Bà lão giơ tay trái lên và, cần quay đầu, ra hiệu cho họ tới.

      “Sao bà ấy biết chúng ta ở đây?” Isis thầm. “Bà ta thể nhìn thấy chúng ta, đúng ?”

      “Ai mà biết bà ta có thể làm gì,” Osiris thầm. “Thưa lệnh bà Zephaniah,” ông ta lớn khi tiến tới ghế băng.

      “Ngồi cạnh ta.” Zephaniah, Phù thủy xứ Endor, chuyển câu đơn giản đó thành mệnh lệnh.

      Isis và Orisis trao đổi cái liếc mắt trước khi ngồi xuống hai bên bà lão.

      “Chồng bà tham gia với chúng ta chứ, lệnh bà?” Orisis hỏi và liếc nhìn xung quanh.

      “Giờ ông ấy bận. Ông ấy... bắt kịp với thế giới,” bà kèm nụ cười hài hước. “Thế giới thay đổi kể từ lần cuối ông ấy bước trái đất này.”

      “Và ông ấy sao rồi?” Isis hỏi.

      “Ờ, nếu xét đến thử thách của ông ấy, ông ấy vẫn còn tốt lắm. Tất nhiên là giận dữ rồi... Và khi mọi thứ...” và vẫy tay trong khí và màn đêm Paris bao trùm mùi khói gỗ. “Khi mọi thứ vui vẻ này qua , tôi nghĩ tôi và ông ấy cuộc trò chuyện khó khăn. Tất nhiên là nếu chúng tôi còn sống.” Bà Phù thủy im lặng và nhìn thẳng ra phía trước, khuôn mặt giấu sau chiếc kinh râm to quá khổ. Cả hai tay bà đặt chiếc ba toong trắng, ngay trước mặt bà.

      “Sao bà lại triệu hồi chúng tôi?” Osiris chậm rãi hỏi. “Bà chuyện với chúng tôi cả thiên niên kỷ rồi; bà thuộc phe loài người hay phe chúng tôi. Và đột nhiên bà muốn –, cầu - gặp chúng tôi.”

      “Ờ, cũng tốt thôi,” Zephaniah , chuyển sang ngôn ngữ cổ của Danu Talis và lờ câu hỏi . “ bao lâu rồi kể từ khi chúng ta cùng ngồi chuyện?”

      “Chúng ta chưa bao giờ chuyện,” Osiris nở nụ cười khoe hàm răng trắng bóng. “Bà luôn ra lênh, cầu và đòi hỏi.”

      “Bà đối xử như thể chúng tôi là trẻ con,” Isis thêm, có chút giận dữ trong giọng của ta.

      “Các người là trẻ con. Abraham đúng. Các người là những đứa trẻ ngang ngạnh và cứng cổ.” Zephaniah hít hơi sâu. “Nhưng ta cho cho rằng đáng lẽ ta nên...” bà dừng lại, cố tìm từ cho đúng.

      “Tốt bụng hơn?” Isis gợi ý.

      “Thông cảm hơn chăng?” Osiris thêm.

      “Tôi định là cứng rắn hơn.” Bà quay qua người phụ nữ tóc đen ngắn. “Có vẻ có vài thứ thay đổi.”

      “Còn vài thứ có đấy bà Zephaniah ạ,” Isis . “Bà già , trong khi chúng tôi còn trẻ và mạnh mẽ.”

      “Già à?” Bà phù thủy mỉm cười. “Nhìn có thể là thế.” Trong giây ngắn ngủi, biến đổi xảy ra toàn bộ cơ thể Phù thủy xứ Endor, da bà đột nhiên trắng, rồi đen, vàng rồi nâu. Người phụ nữ ngồi ghế đột ngột cao, thấp, béo, gầy, già rồi trẻ, rồi trung niên. “Ta – như ta vẫn thế - là nhiều thứ. Dù hai người ở đâu,” ba thêm, giọng đanh lại. “vẫn chỉ luôn chập chững thôi.”

      “Và bà luôn là nữ bạo chúa...” Isis bắt đầu.

      “Đủ rồi,” Osiris nạt. “Tất cả chỉ là quá khứ. Quá lâu rồi. “

      Bà Phù thủy gật đầu. “Quá lâu rồi. Những gì làm làm rồi và thể rút lại được.” Những ngón tay xưng vù vì khớp của bà nắm chặt lấy đầu gậy trắng. “Trừ khi hai người cố làm lại quá khứ.”

      Isis định mở miệng nhưng Orisis lắc đầu.

      “Đừng có chối,” Zephaniah . “Tôi biết kế hoạch của hai người cả thiên niên kỷ rồi.” Bà với lấy chiếc kính đen, đẩy xuống dưới mũi rồi quay qua nhìn từng người . PHù thủy xứ Endor có mắt thay vào fđó là hai mảnh gương. “Ờ, những thứ ta nhìn thấy,” bà . “Vô số những tương lai, những quá khứ có thể xảy ra, những tại thể đếm được.”

      “Bà muốn gì hả Zephaniah?” Isis lạnh lùng hỏi.

      lần nữa Phù thủy lờ câu trả lời. “Đầu tiên tôi phản đối kế hoạch của mấy người và làm mọi thứ để phá hoại nó. Tôi muốn Vương quốc bóng tối này được yên ổn. Thế nên tôi chọn dính líu tới mấy người khi mấy người chiến đấu với Thế Hệ Kế Tiếp. Tôi cũng động chạm gì khi các người tạo ra động đất và lũ lụt vì tôi biết cuối cùng mọi thứ cân bằng. Các người thắng vài hiệp, những kẻ thù của các người thắng vài hiệp và những trật tự cũ được giữ nguyên.”

      “Như thế trong cả thiên niên kỷ,” Osiris .

      Bà PHù thủy gật đầu đồng tình. “Đến khi các người tìm ra Tiến sĩ John Dee.

      tay sai đắc lực. Xảo quyệt, hiểu biết, tham vọng, tò mò và rất, rất mạnh,” Isis ngay lập tức.

      “Và giờ nằm ngoài tầm kiểm soát. Giờ những ưu điểm của – xảo quyệt, hiểu biết, có tham vọng, tò mò và quyền năng – chống lại hai người. “

      “Chúng tôi dần trung lập ,” Isis tự tin . “ thoát được đâu.”

      “Tới giờ vẫn thoát đấy chứ,” Zephaniah trả lời. “Các người nên hành động ngay khi biết định triệu hồi Archon Coatlicue.”

      Isis bắt đầu lắc đầu nhưng Orisis . “Tất nhiên rồi. CHúng tôi đáng ra nên thế. Chúng ta có được Machiavelli chúng ta lập được .”

      “Nhưng giờ hành động của chỉ đe dọa thế giới này mà tất cả các Vương quốc bóng tối khác.” Zephaniah đột ngột đứng dậy và Isis và Osiris cũng đứng lên theo. “ cùng tôi,” bà .

      Bà gấp cây gậy lại và nhét vào trong túi rồi vòng tay qua tay hai người kia. “Đừng sợ,” bà , đập vào bàn tay cơ bắp săn chắc của Osiris.

      “Bà dọa được tôi đâu bà già,” Isis quát.

      “Ờ, tôi nên thế đây con . Đúng là ta nên thế. Đưa ta tới nhà thờ và để ta kể cho hai người nghe về tương lai ta nhìn thấy, tương lai mà khi Coatlicue được thả ra, tương lai mà Archon đó chạy khắp các Vương quốc bóng tối, để lại gì ngoài tro bụi. Tương lai mà chúng ta còn nữa. còn các Elder, Thế hệ Kế tiếp, còn. Và khi chúng ta tiêu tùng hết, bà ta bắt đầu chuyển sang giống người. Ờ, và cả hai người thuộc những người đầu tiên ra đó – và hai người chết rất kinh khủng,” bà thêm.

      “còn Dee ở đâu trong tương lai của bà?” Osiris hỏi.

      “An toàn,” Zephaniah . “ phong ấn thế giới nayf khỏi các Vương quốc Bóng tối khác, sử dụng thanh kiếm quyền năng để hủy diệt cánh cửa tới Xibalba. trị vì Vương quốc Bóng tối này như đế vương.”

      “Và Dare, kẻ giết người, ở bên ta à?” Isis hỏi.

      “Trong tương lai, ta chết. Bị Dee phản bội, làm thức ăn cho Archon.”

      “Đó là tương lai có thể hay rất khả dĩ?” Osiris cẩn trọng hỏi.

      phải cả hai. Các kiện tiếp nối nhau. Dòng thời gian thay đổi và chuyển sang chương khác. Dee có kế hoạch mới, cái gì đó còn lớn hơn nhiều.” Bà Phù thủy buộc hai người dừng lại. “Đợi chút.”

      Cả ba dừng lại trước nhà thờ theo kiểu Gothic và Zephaniah ngửng đầu, gần như thể bà có thể nhìn thấy tòa nhà. “Hmm, đây là nơi họ đánh nhau...” Khuôn mặt bà quay sang trái rồi sang phải khi bà đánh hơi khí. “Vẫn còn mùi ma thuật.”

      “Mùi va ni,”

      “Mùi cam,” Osiris thêm vào.

      “Và mùi bạc hà của Flamel.” Zephaniah lẩm bẩm. “có mùi hôi của Dee và Machiavelli.”

      bảo vệ trông có vẻ kiệt sức qua đám khách du lịch dừng lại chụp những chỗ tòa nhà hư hỏng, cố đẩy họ ra chỗ khác đề phòng đá rơi xuống tiếp. ta thẳng tới chỗ ba người, giờ đứng quá gần lối ra vào. Ngay khi bảo vệ tới gần họ, người đàn ông trọc đầu quay qua cười. Người bảo vệ ràng là trắng bệch ra như thể nhìn thấy bóng ma. ta bỏ di thèm nhìn lại.

      “Đưa ta về lại chỗ ngồi,” Zephaniah ra lệnh.

      Isis và Osiris quay lại và đưa Bà phù thủy lại chỗ ghế băng. “Hai người chưa từng thích Nhà thông thái Abraham, đúng ?” Zephaniah hỏi.

      ,” Isis đáp luôn.

      Osiris nghĩ lúc mới trả lời. “Tôi nghỉ chúng ta đều sợ ông ấy,” cuối cùng ông ta .

      “Tôi làm việc ông ấy khá lâu và tôi nghĩ tôi hiểu ông ấy hơn hết thảy mọi người, nhưng tôi cũng chắc ông ấy là gì. Người Cổ đại, có thể; cũng có thể là Archon. Tất nhiên trong dòng máu ông ấy có dòng máu các Elder vĩ đại. Prometheus và tôi ở bên ông ấy khi Cuộc biến đổi đến với cơ thể ông ấy. Tôi quan sát ông ấy làm việc cả ngày lẫn đêm hề ngơi nghỉ để tạo ra cuốn Codex.” Bà cười nghe có vẻ đau đớn và cay đắng. “Các người biết vì sao ông ấy tạo ra cuốn Codex ?”

      “Làm nơi ghi chép lại kiến thức của thế giới à?” Osiris .

      “Cuốn sách được tạo ra vì mục đích duy nhất . Abraham biết rằng đến lúc này.”

      “Lúc nào?” Isis hỏi.

      “Khi các người bỏ mặc Dee, khi các người tuyên án là utlaga, các người ta tạo ra kẻ thù nguy hiểm. định hủy diệt tất cả các người.”

      “Bằng cách nào?” Osiris hỏi. “Dee có quyền năng, nhưng quyền năng tới thế.”

      “Giờ là thế. có cuốn Codex. Nó chứa đầy kiến thức của nhân loại. Và có Nguồn điện vàng song sinh để giúp dịch. tiếp cận với nguồn ma thuật cổ xưa nhất, chết người nhất. Dee định quay ngược quá khứ và hủy diệt các Elder ở Danu Talis.” Bà cười gằn. “ muốn chắc rằng tất cả chúng ta đều chết vào ngày hòn đảo chìm.”

      Isis định cười, thanh cao và trong vắt trong màn đêm. Khách du lịch quay lại nhìn, cười vì thanh đó, nhưng mắt chồng vẫn lạnh như đá, mắt mở lớn vì choáng váng. Cuối cùng tiếng cười của Isis chết trong im lặng. Osiris gật đầu. “Đúng...đúng, có thể làm thế. Và quan trọng hơn là, làm thế.”

      “Làm sao chúng ta chặn được ?” Isis hỏi.

      “Vậy là cuối cung các người cũng xin ta lời khuyên?”

      “Làm ơn mà, Zephaniah,” Osiris năn nỉ.

      Bà lão vươn tay ra nắm lấy tay Osiris. “Các người nghĩ tại sao ta lại giải thoát cho chồng ta khỏi lời nguyền?” Zephaniah cẩn trọng . “Các người nghĩ tại sao ta giam ông ấy ở đó? Ta cần ông ấy an toàn và khỏe mạnh cho ngày này.”

      “Bà biết chuyện này xảy ra?” Isis ngờ vực hỏi.

      “Ta biết nó có thể xảy ra,” Bà hạ cặp kính xuống để lộ hai mảnh gương khuôn mặt. “Ta đánh đổi đôi mắt vì điều đó.”

      “Giờ Mars Ultor ở đâu?” Osiris hỏi.

      “Tới San Francisco để giết Ts. John Dee.”



      CHƯƠNG MƯỜI TÁM
      “ Cái này giống lái xe.” Josh nghiến răng và bám chặt lấy vô lăng chiếc thuyền cao tốc mà Dee thuê ở Bến du thuyền Treasure Island. con song nữa lại đập vào con tàu khiến cậu long tận óc. Cậu bị sóc lên sóc xuống chiếc ghế đệm cao su.

      “Nhanh hơn, nhanh hơn nữa!” Virginia Dare giục, phớt lờ lời phàn nàn của Josh. ngồi ở ghế lái phụ bên cạnh , mái tóc dài tung bay trong gió, những hạt nước đọng lên mái tóc. Khi ta quay sang nhìn Josh, đôi mắt xám của ánh bừng sang niềm vui khiến cậu ngạc nhiên – trông quá trẻ như thể cậu nhìn thấy ở trường trung học của cậu.

      ,” John Dee càu nhàu từ đuôi thuyền. Pháp sư người nằm dài đằng đuôi thuyền, trông xanh xao và đổ mồ hôi. ta bị say sóng ngay từ khi Josh bắt đầu lái thuyền từ ngoài bến du thuyền tới khi gặp con sóng đầu tiên. “Chậm lại , chậm lại mà,” ta khổ sở .

      Josh phải thừa nhận là cậu thấy có chút hài lòng vì mình chiếm thế chủ động. Cậu nhìn Virginia và cả hai cùng cười toe toét; rồi Dare hất hàm về phía bộ điều chỉnh. Josh gạt cần điều chỉnh lên khiến hai động cơ chân vịt hoạt động, bắn nước lên ngay cạnh đầu Dee. Họ nghe thấy tiếng Pháp sư làu bàu khó chịu, và khi họ quay lại nhìn họ thấy nhìn họ chằm chằm và vuốt mặt.

      vui đâu. vui tí nào cả. Chắc chắn là đầu trò, Virginia,” Dee lồng lộn quát.

      “Em lại nghĩ chút nước giúp ảnh tỉnh.” nhìn Josh. “Ông ấy luôn là thủy thù tồi. Đó là trong những lý do ông ấy lỡ chuyến Armada của Tây Ban Nha. Và bụng dạ ông ấy lại luôn nôn nao.” ta thêm, “điều đó khiến mùi hương ông ta chọn còn đáng ngạc nhiên hơn.”

      “Tôi thích mùi lưu huỳnh,” Dee lẩm bẩm từ đuôi thuyền.

      “Đợi .” Josh quên mất Ông Pháp sư bệnh trong giây lát. “Ông chọn được mùi hương à?” Đây là lần đầu tiên cậu nghe về điều này. Cậu tự hỏi hiểu mình có thể chuyển mùi hương của cậu thành cái gì đó thú vị hơn . “Ông có thể chọn bất cứ mùi nào?”

      “Tất nhiên. Ờ, trừ những mùi của luồng điện vàng và bạc. Những luồng điện này được lựa chọn mùi vị: từ lâu rồi, họ luôn có mùi giống nhau.” ta quay sang Dee, tóc bay vào mặt khiến ít tóc dính ở khóe miệng khi ta . “Sao có thể thuê được chiếc thuyền này thế?”

      nhàng hỏi họ,” ông ta trệu trạo . “Khi muốn có thể răng rất thuyết phục đấy.” Ông ta quay người lại nhìn Bến du thuyền Treasure Island, nơi ông lão đội mũ lưỡi trai trắng ngồi cầu tầu nhìn mặt nước. Rồi, ông ta lắc đầu và bước trở lại câu lạc bộ du thuyền.

      “Chúng ta ăn cắp thuyền, đúng ?” Josh hỏi, ràng là vui vẻ gì với ý nghĩ đó.

      “Chúng ta mượn tạm nó.” Dee nhếch mép cười. “Ông ta tự nguyện đưa chìa khóa cho ta.”

      dùng luồng điện nữa đấy chứ?” Virginia cảnh cáo hỏi. “Nó đánh động mọi thứ...”

      “Đừng xem như thằng ngu thế chứ!” Dee tức giận ngắt lời nhưng rồi ông ta lại phải nằm vật ra thuyền vì cơn ợ chua lại tới.

      Virginia cười toe toét và nháy mắt với Josh. “Khi buồn nôn rất khỏ giọng kẻ cả, nhỉ?”

      ghét em, Virginia Dare ạ,” Dee lẩm bẩm.

      “Em biết có ý đó ,” cao giọng .

      có đấy,” đáp lại luôn.

      Virginia vỗ vai Josh và chỉ về phía bờ biển bên trái. “Cứ ở gần Treasure Island. Chúng ta qua mũi phía bắc, rồi sau đó chúng ta có thể nhìn thấy Alcatraz đối diện với vịnh.”

      Trước khi Josh trả lời, đê chắn sóng khổng lồ như bức tường bằng bê tông xuống ngay trước mặt họ và cậu đánh bánh lái sang phải. . Nước sóng vào và Pháp sư lăn lộn sàn.

      Virginia cười khùng khục.

      “Các người quên là tôi có khiếu hài hước hả,” Dee gầm gừ.

      “Nhưng em có,” Virginia . Co quay qua Josh và chỉ thẳng trước mặt. “rẽ trái qua đê chắn sóng, rồi lượn sang bên trái và gần bờ biển vào. Nhưng đừng gần quá,” ta thêm. “Có đá ngầm đó. Đây là hòn đảo nhân tạo nên nó luôn có nguy cơ bị tách rời. Tôi quan sát nó được xây dựng vào những năm 1930, lúc đó nó cao hơn bây giờ. Hòn đảo chìm dần. Trận động đất tiếp theo xé tan nó thành từng mảnh.”

      Josh liếc nhìn bờ biển đầy sỏi đá. Hầu hết các tòa nhà trông đều có hơi hướm công nghiệp, nhưng rất nhiều tòa trông ọp ẹp. “HÌnh như nó bị bỏ hoang rồi. Còn ai sống ở đây nữa ?”

      “Có, tôi có vài người bạn sống ở phía bên kia đảo.”

      nghĩ em có bạn,” Dee rên rỉ.

      giống , thưa Tiến sĩ, em là người bạn tốt,” Dare thèm quay lại rồi tiếp. “Hòn đảo này từng là căn cư hải quân cho tới cuối những năm chín mươi. Sau đó, hàng loạt các bộ phim và vài phim dài tập được quay tại đây.”

      “Sao nó lại được gọi là Treasure Island?” Josh hỏi. “ có châu báu ở đây à?” có lúc cậu ta cười vì ý tưởng đó, nhưng lúc này cậu chuẩn bị tinh thần để tin bất kỳ thứ gì.

      Tiếng cười của Virginia có sức lan truyền tới người khác, và Josh thấy mình càng lúc càng thích nàng hơn.”, nó được gọi là Treasure Island theo tên cuốn sách cùng tựa đề của tác giả Robert Louis Stevenson. Stevenson sống ở San Francisco khoảng năm trước khi sáng tác cuốn truyện.” Khi họ vòng quanh hòn đảo, Virginia đứng quay lưng với nó. “Tôi chắc chắn tên của nó chỉ là trò đùa – đây là hòn đảo được xây dựng những thứ rác rưởi thế mà lại được gọi là Đảo Châu báu.” quay qua và chỉ mỏm đá ở giữa vịnh. “Đó là Alcatraz. thẳng tới đó.”

      Josh nhăn nhó khi thuyền đâm vào con sóng khác. Nó trồi lên và trụt xuốn với tiếng động rung người. “Tôi chưa từng xa tới thế này. Tôi cũng chưa từng lái thuyền trước đây nữa.”

      “Cái gì mà chẳng có lần đầu,” Virginia .

      “Tôi có chút lo lắng,” cậu thừa nhận.

      “Vì sao?” Virginia tò mò hỏi. ngồi lại chiếc ghế bọc nhựa và nhìn cậu.

      Cậu trai trẻ đột nhiên cảm thấy thoải mái vì cái nhìn của . “ờ,” cậu thủng thẳng . “thứ gì cũng có thể xảy ra. Tàu có thể chìm, hoặc động cơ chết máy, hoặc...”

      “Hoặc gì?” hỏi. “Cậu có biết, theo kinh nghiệm bản thân, loài người có quá nhiều thời gian để mà lo lắng những thứ chẳng bao giờ xảy ra. Đúng, thuyền có thể chìm...nhưng có thể .. Động cơ có thể chết...nhưng tôi nghi ngờ khả năng đó. Chúng ta có thể bị sét đánh, hoặc...”

      Ts. John Dee đột nhiên hét tướng lên từ đuôi thuyền. “Hoặc bị nàng tiên cá ăn thịt,” ông vội. “Tôi mới nhớ ra. Hòn đảo này nằm trong vòng bảo vệ của Nereid.” ta ho vì xấu hổ. “Và tôi chỉ thị cho họ được cho cái gì tiêp cận hòn đảo trong vòng năm mươi feet.”

      Virginia quay nhìn quanh. “có tiên cá quanh đảo cơ à?”

      “Ông già của Biển cả ở Alcatraz, ông ta mang theo những con Nereid hoang dã,” Dee . “Tôi cần chuyện với Machiavelli! Ông ta cần biết là chúng ta tới.” rút điện thoại ra nhưng khi vừa lôi được ra nước đổ vào nó. ngừng lại, Dee bẻ điện thoại ra lấy bin và cho vào túi áo.

      Josh nhìn Virginia. “Tôi hiểu ông ta cái gì.”

      “Nereus, Ông già Biển cả là Elder cực kỳ xấu xa,” Virginia giải thích. “Ông ta từ thắt lưng trở lên giống người nhưng dưới lại là bạch tuộc. Dưới đấy đại dương là nhà của ông ta. Phần lớn nhất mà vương quốc của ông ta giao với trái đất chính là khu vực được biết dưới cái tên Tam giác Quỷ Bermuda.”

      “Nơi tất cả các con tàu biến mất à?” Josh hỏi.

      “Chính đó. Bức tường giữa hai thế giới rất mỏng nên thỉnh thoảng tàu bè và máy bay của thế giới này chui sang thế giới kia, và thỉnh thoảng vài quái vật biển xấu xa từ thế giới của ông ta qua Vương quốc Bóng tối Trái đất. Nereid là những con của ông ta.” Virginia mỉm cười. “Đừng để bản thân bị mê hoặc bởi nụ cười hay giọng hát của họ. Họ là động vật ăn thịt đó.”

      Dee nhanh chóng lắp lại máy và khởi động nó lên. chán nản ném nó ra góc. “ có gì. Tôi thể nào liên lạc được với Machiavelli.”

      Virginia xoay cây sáo đầu ngón tay. “Em hiểu sao lại quá lo lắng tới thế. Em có thể dễ dàng đưa chúng vào giấc ngủ với...”

      Trước khi có thể hết câu phụ nữ da xanh, tóc xanh, đuôi cá chuồi lên từ mặt biển, chộp lấy cây sáo của và mang nó xuống nước ở phía bên kia tàu.

      Tiếng hét của Virginia Dare kinh khủng. ném chiếc áo sơ mi ám khói và cởi giầy ra và lao xuống biển, biến mất trong làn nước vết tích.

      “Tiến sĩ!” Josh hét qua tiếng động của động cơ. Cậu giơ tay trái ra chỉ và cậu hài lòng vì tay cậu run quá.

      Dee vội vàng tiến tới và nghiêng người qua lan can tàu.

      Xung quanh họ là hàng tá đầu phụ nữ, tóc xanh như tảo biển. CÙng lúc họ mở miệng nhe những chiếc răng như răng cá hổ. Sau đó họ ném mình lên thuyền, trồi lên trụt xuống mặt biển như những con cá heo.

      “Giờ chúng ta gặp rắc rối rồi,” Dee . Rắc rối rất rất nghiêm trọng.”

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG MƯỜI CHÍN

      Sophie Newman đứng ở nhà bếp nhìn vào sân trong nhà nơi Perenelle Flamel và Tsagaglalal ngồi cạnh nhau. Nếu những người bình thường quan sát, họ chỉ thấy hai người phụ nữ lớn tuổi, cao gầy nhưng khỏe mạnh, thấp béo, ngồi cạnh nhau dưới ô uống trà và nhấm nháp bánh Sô la. Nhưng họ phải những quý bà thông thường: người xấp xỉ bảy trăm tuổi, còn người kia,... ờ Sophie nghĩ bà ta còn hơn tuổi đời của toàn nhân loại.


      Cả hai người đều nhìn , và dù họ ngồi dưới bóng râm của cây dù, đôi mắt họ phát sáng – xanh lơ và xám – khiến họ giống như những người ngoài hành tinh.


      Tsagaglal gọi Sophie từ trong nhà ra. “Tới đây con. Ngồi cùng chúng ta. Chúng ta đợi con.” BÀ ta tiếng nhưng Sophie hiểu và nhận ra đó là ngôn ngữ cổ xưa của Danu Talis.Khi đứng cạnh, bà lão nắm lấy tay . “Cháu định hôn người dì cháu quý à?” bà , chuyển sang tiếng .


      Sophie rụt tay lại. biết người phụ nữ này là ai – hoặc giả như bà ta là phụ nữ - nhưng bà ta ràng có quan hệ gì với . “Bà phải dì tôi,” lạnh lùng .


      phải quan hệ máu mủ, nhưng cháu là gia đình của ta. Luôn luôn là như thế,” Tsagaglalal , giọng thểu não. “luôn luôn như thế. Ta chăm sóc cháu và em trai cháu từ khi các cháu chào đời.”


      Sophie nuốt cục nghen trong họng, ngồi xuống nhưng hôn vào đôi má nhăn nheo của bà. Có cốc trà đá và bánh sô la chuẩn bị sẵn cho . cầm cốc trà lên để ý có miếng cam trong đó. Vị am khiến nhớ tới Josh, và thấy bụng quặn lại. đặt nó xuống uống lấy chút và đẩy đĩa bánh . cảm thấy tuyệt vọng. Trong tuần rồi, mất mọi thứ, kể cả em trai. Kể cả những cái liên kết với quá khư – như dì – cũng biến mất. cảm thấy lạc lối và đơn tột cùng.


      “Cháu đói à?” Tsagaglalal hỏi.


      “Sao bà có thể hỏi tôi câu đó chứ?” Nỗi tức giận của Sophie quá mãnh liệt. “, tôi đói. Tôi bệnh rồi đây. Josh mất rồi – và cậu ấy ghét tôi. Tôi nhìn thấy điều đó trong ánh mắt cậu ấy.”


      Hai người phụ nữ nhìn nhau.


      Sophie quay qua Perenelle. “Và Nicholas hấp hối ở tầng. Sao đó với chú ấy?”


      “Ta lên đó khi cần,” Nữ Phù thủy thầm.


      Sophie lắc đầu và thấy có nước mắt của tức giận trong mắt. “Bà là cái gì?” cao giọng hỏi Tsagaglalal. “Bà phải là... bà thậm chí còn chẳng phải người. Và nữa,” buộc tội Perenelle. “còn có tính người! Tôi ghét ! GHét cả hai người! Tôi ghét những gì các người làm cho tôi và Josh. Tôi ghét cái thế giơi các người lôi chúng tôi vào. Tôi ghét những quyền năng này, và những thứ tôi nên biết và suy nghĩ của tôi bị xâm chiếm...”Những dòng nước mắt lăn xuống má , nưng muốn họ nhìn thấy khóc. ấn tay lên bàn định đẩy ghế ra nhưng đột nhiên cả Tsagaglalal và Perenelle vươn tay ra và đặt lên tay . Luồng điện của Sophie lóe lên trong tích tắc, rồi mờ và mất hẳn, mùi hương vani của bị lấn át bởi mùi hương hoa nhài. Luồng điện của Perenelle có mùi.


      “Ở lại ,” Perenelle lạnh lùng , và chắc chắn đó phải lời mời. Sophie thể di chuyển như thể giấc mơ. tỉnh và cảm thấy cảnh giác, nhưng cơ thể phản ứng được.


      “Nghe lời Nữ phù thủy ,” Tsagaglalal nhàng . “Tương lai của thế giới này cũng như các thế giới khác giờ nằm ở mức cân bằng và cả hai cháu đều có khả năng làm lệch cán cân đó. Mọi dòng thời gian tụ lại chỗ, giống như lời tiên đoán cách đây mười ngàn năm. Hoàn cảnh chỉ ra hai cháu đúng là cặp song sinh trong truyền thuyết.” Đôi mắt xám của bà đong đầy nước mắt. “Vì lợi ích của cháu, ta mong đó là những đứa trẻ khác. Đây là con đương khó khăn mà các cháu phải bước . Josh cùng phe với Dee, và dù cháu có tin hay , cũng được tiên đoán từ cả thiên niên kỷ trước. Cái thể nhìn thấy trước được – thể trước được – là điên rồ của Dee và cái định làm.


      “Sophie,” Perenelle Flamel . “Cháu phải tin khi mong chuyện này xảy ra với cả cháu hay Josh. Cháu có tin .”


      Sophie còn chắc nên tin cái gì. muốn tin Nữ phù thủy, nhưng... có cái gì đó ngăn cản . Người phụ nữ này dối , nhưng nhà Flamel dối cả thế kỷ rồi. Sophie đoán họ chỉ sống để bảo vệ họ và những người xung quanh họ. Josh cũng muốn tin nhà Flamel. Có thể cậu đúng. Có thể với Dee là quyết định đúng đắn. suy nghĩ đột ngột làm lạnh sống lưng: Nếu như chọn sai bên trong trận chiến lâu đời này sao?


      – cay đắng là nghiệt ngã – là biết gì hết. Đúng hay sai, tốt hay xấu đan xen và lẫn lộn. thể phân biệt bạn và thù nữa.


      Tsagaglalal và Sophie nhấc tay khỏi tay Sophie cùng lúc, và cảm giác trở lại với cơ thể . Luồng điện bạc của lóe sáng và kêu lách tách bảo vệ cơ thể , bốc khói trong ánh năng đầu chiều. hít hơi sâu nhưng rời bàn.


      “Sophie, cháu làm gì để giúp Josh đây, để cứu cậu ấy và mang cậu ấy về?” Tsagaglalal hỏi.


      “Bất cứ điều gì. Mọi điều.”


      Perenelee đặt cả hai tay lên bàn và nhoài người ra. Hay tay bà đan chặt vào nhau căng thẳng. “Và Sophie này, cháu nghĩ ta làm gì để giúp chồng ?”


      “Bất cứ điều gì,” Sophie nhắc lại. “Mọi điều.”


      “Chúng ta làm bất cứ điều gì – mọi điều – để giúp những ai chúng ta thương. Đấy là điều khiến cho loài người chúng ta khác với Thế Hệ Kế tiếp hay Elder hay những ai sống trái đất này trước chúng ta. Chính tình khiến chúng ta là con người. Đó cũng là lý do khiến giống loài cũng ta sinh sôi; đó là lý do khiến giống loài chúng ta luôn tồn tại.


      “Nhưng dạng thương này đòi hỏi hy sinh,” Tsagaglalal chậm rãi . “Thi thoảng đòi hỏi hy sinh vĩ đại...” Đôi mắt bà lão bỗng chan chứa nước mắt.


      Sophie chợt có những ký ức về người phụ nữ này – trẻ hơn, rất rất nhiều, nhưng vẫn có gò má cao và đôi mắt xám của Tsagaglalal – quay lưng với bức tượng vàng cao lớn. Người phụ nữ đứng nhìn lại, rồi Sophie nhận ra đôi mắt bức tượng đó vẫn sống động và dõi theo người phụ nữ. Tiếp đó, Tsagaglalal quay và chạy nhanh xuống những bậc cầu thang bằng thủy tinh biết đâu là điểm kết. Bà ôm chặt cuốn sách bằng cả hai tay: cuốn Codex. Nước mắt bà xuống bìa sách kim loại.


      “Sophie,” Perenelle tiếp. “hơn mười ngàn năm trước, Nhà thông thái Abraham nhìn thấy trước tất cả những điều này, và ông ấy bắt đầu xây dựng kế hoạch giúp cứu lấy thế giới. Cháu và em trai song sinh của cháu được chọn để làm việc này trước cả khi các cháu sinh ra đời. Các cháu được tiên tri trước cả khi Danu Talis Sụp đổ và trận Đại Hồng Thủy.


      “Hai mà là , là tất cả. cứu thế giới, hủy diệt thế giới,” Tsagaglalal nhắc lại. “Đó là định mệnh của các cháu. Và ai có thể thoát khỏi số mệnh.”


      “Lúc nào bố cháu cũng thế.”


      “Bố cháu đúng đấy.”


      “Hai người rằng cháu và em cháu chỉ là những con rối?” Sophie dợm lời, nhưng miệng khô khốc. uống hơi dài cốc nước trước mặt. “Chúng cháu có quyền lựa chọn?”


      “Tất nhiên các cháu có,” Perenelle . “Josh lựa chọn và tất cả lựa chọn đều bắt đầu từ tình hay hận thù. Cậu ta chọn cùng Dee – phải vì cậu ta thích , nhưng vì khi cậu ấy nhìn thấy cháu tấn công Archon, cậu ấy ghét cháu. Cậu ấy nhìn thấy Coatlicue là phụ nữ trẻ đẹp chứ phải sinh vật xấu xí như . Và cháu,... ờ, giờ cháu cần phải quyết định xem mình làm gì.”


      Những từ ngữ của Perenelle khiến nhột nhạt. Josh ghét . Và Sophie biết đó là . nhìn thấy nó trong mắt cậu. Nhưng nó chẳng ảnh hưởng gì tới việc cậu nghĩ về thế nào – nó thể thay đổi cái biết trong tim mình và cảm thấy về cậu thế nào. “Cháu đuổi theo Josh.”


      “Dù cậu ấy từ bỏ cháu?” Tsagaglalal nhàng hỏi.


      “Dì mọi lựa chọn đều bắt nguồn từ tình và thù hận. Cậu ấy là em cháu. Cháu đuổi theo cậu ấy. Đó là lựa chọn của cháu?”


      “Và cháu đâu?” Perenelle hỏi.


      Sophie nhìn bà cách trống rỗng. biết. “Cháu tìm cậu ấy,” với tự tin mà hề cảm thấy. “Khi...Khi cậu ấy gặp rắc rối, hay đau đớn, cháu thường cảm thấy. Thi thoảng cháu còn nhìn thấy những gì cậu ấy thấy.”


      “Giờ cháu có cảm thấy cậu ấy ?” Tsagaglalal hỏi giấu diếm tò mò.


      Sophie lắc đầu. “Nhưng cháu có trong mình những ký ức của Bà phù thủy xứ Endor. Có thể cháu biết được gì đó từ nó.”


      “Ta nghĩ bà phù thủy nhìn thấy trước bước ngoặt mới nhất,” Tsagaglalal . “Ta biết bà ấy trong cả quãng đời dài dằng dặc của mình, và trong khi bà ấy có thể nhìn thấy cả dòng kiện lớn trong lịch sử, bà ấy lại thể biết những hành động của những cá nhân đơn lẻ. giống em trai bà ấy, Prometheus, hay chồng bà ấy, Mars Ultor, bà ấy chưa bao giờ thực hiểu về loài người.”


      “Cháu có thể đưa ra lựa chọn khác,” Perenelle . “Cháu có thể chọn giúp chúng ta cứu thế giới. Chúng ta cần cháu,” bà thêm. “Ngay giờ, Machiavelli ở Alcatraz. Chúng ta biết định thả lũ quái vật vào San Francisco. Cháu nghĩ thành phố đại này làm gì để chống trả lại khi bầu trời đầu những con rồng hay những cơn ác mộng chui lên từ những ống cống và chui vào thành phố?”


      Sophie lắc đầu. Ý tưởng đó thể nào hiểu nổi.


      “Bao nhiêu người chết?” Perenelle tiếp. “Bao nhiêu người bị thương? Bao nhiêu người bị chấn động khi chứng kiến cảnh đó?”


      Sophie choáng váng nổi. lắc đầu.


      “Và nếu cháu biết có ai đó có thể giúp – ai đó có sức mạnh chiến đấu với lũ quái vật đó – liệu cháu có muốn họ đứng lên chiến đấu và bảo vệ hàng chục nghìn người, hay cháu muốn họ chạy trốn chỉ để giúp người?”


      Sophie định trả lời nhưng nhận ra mình bị dụ vào bẫy cách khôn ngoan.


      “Chúng ta cần cháu chiến đấu cùng chúng ta, Sophie ạ,” Tsagaglalal tiếp. “Cháu còn chớ Hakate, Nữ thần Ba mặt ?”


      “Người sống ở Yggdrasill và là người Đánh thức cháu. Sao cháu quên được?” với giọng tôn kính.


      “Bà ấy có quyền năng thể đong đếm nổi: buổi sáng là trẻ, buổi chiều là phụ nữ trung niên, tối là bà lão. Bà ấy đại diện cho toàn bộ sức mạnh và kiến thức của người phụ nữ.” Tsagaglalal nhoài người lên, mặt bà chỉ cách Sophie có inch. “Cháu là trẻ, Perenelle là phụ nữ trung niên, còn ta là người già. Hợp tác với nhau chúng ta có khối kiến thức vô kể và quyền năng vô song. Cùng nhau cả ba chúng ta có thể đứng lên bảo vệ thành phố này.”


      “Cháu cùng chúng ta đứng lên chứ, Sophie Newman?” Perenelle Flamel hỏi.


      Cửa sổ bên họ mở ra va Niten xuất . ấy câu nào nhưng ánh nhìn của là quá đủ.


      “Đến lúc quyết định rồi,” Perenelle . “ đến lúc cháu phải chọn mình đứng về phe nào.”


      Sophie đứng lên quan sát Nữ phù thủy giúp Tsagaglalal ra khỏi chỗ ngồi và vào nhà. muốn chạy khỏi nhà ra ngoài đường... nhưng sau đó sao? đâu? muốn tìm Josh. Nhưng biết phải làm gì. Và chuyện gì xảy ra khi những sinh vật kia tràn vào thành phố. Luồng điện và những phép thuật cơ bản của co có thể bảo vệ ...nhưng có bảo vệ nổi những người khác ?


      Đây quả thực là lúc để lựa chọn.


      Nhưng đứng về phe nào?


      Từ đằng xa tiếng còi tàu vọng lại khiến nghĩ đến Alcatraz. Những con quái vật hòn đảo đó là những cơn ác mộng. Và Perenelle đúng: nếu họ thả chúng vào thành phố, chúng gieo chết chóc và hủy diệt hàng loạt...và người có đầu óc nào lại muốn thế. người có đầu óc nào lại cố tình mang những dạng hỗn loạn đó vào thành phố.


      Nhưng đó là những gì Machiavelli, Dee và Dare – Josh nữa – định làm.


      Sophie tự động gật đầu, và đột nhiên lựa chọn trở nên đơn giản. có thể làm việc cùng Nữ phù thủy và Tsagaglalal tránh những việc đó xảy ra. Sau đó, có thể tìm em.


      theo hai người phụ nữ vào nhà, qua bếp và lên gác.


      Prometheus đợi họ trước cửa phòng ngủ. Ông đứng sang bên để họ vào phòng đứng quanh nơi Nicholas Flamel nằm. Nhà giả kim trông bé và thảm hại, da ông trắng như ga giường. Chỉ có cử động ở ngực ông cho thấy ông còn thở. “ đến lúc ông ấy ra rồi,” Prometheus thầm.


      Perenelle úp mặt vào tay khóc.




      CHƯƠNG HAI MƯƠI

      “Đĩa bay á?” William Shakespeare hỏi. Ông ta đẩy gọng kính lên sống mũi và nheo mắt nhìn vui thích. “Đĩa bay kìa.” Ông dùng khuỷu tay chọc vào Palamedes. “Tôi với chúng có mà. Tôi với rằng có nhiều thứ ở...”


      “Vimana,” Scathach sửa lại. “Chúng là những chiếc tàu bay huyền thoại của Danu Talis.” cúi đầu xuống dùng tay che mắt quan sát thêm sáu chiếc đĩa bay nữa xuất bầu trời trong xanh gầm rú đầu họ. Bốn chiếc đậu bập bềnh mặt đất, giống như thuyền đậu mặt nước. khí rung chuyển rất , cỏ bên dưới những chiếc đĩa bay xuất lớp băng mỏng.


      Nóc vimana mở ra và những anpu xuất . Chúng cao lớn và cơ bắp, mặc giáp đen với những đường chỉ bằng vàng và bạc. Chúng sử dụng những thanh kiếm cong- những thanh kopesh chết người. Những chiến binh đầu chó bắt Marethyu trước tiên. Người đàn ông tay móc câu vẫn chưa tỉnh và nằm dưới đất, tiếp tục rùng mình khi những tia lửa điện xanh trắng bắn ra từ móc câu tay và tạo nên cung lửa điện cỏ. Ba con anpu lôi ông ta vào chiếc thuyền lớn nhất. Nó bay mất trong tích tắc.


      Scathach theo dấu nó qua thành phố trông như mê cung. NHững chiếc đĩa bay phản chiếu bóng xuống mặt nước trong khi bóng của nó tạo nên bóng râm phủ lên đường phố phía dưới. nhìn nó bay qua đại kim tự tháp ở trung tâm thành phố trước khi đậu xuống khu giữa các tòa lâu đài bằng vàng và bạc.


      Scathach quay lại nhìn những con anpu tụ tập lại. đối đầu với anpu trong nhiều vương quốc bóng tối, và dù chưa bao giờ chiến đấu với chúng nhưng biết sức mạnh đáng sợ của chúng. Chúng là những chiến binh nguy hiểm chết người, nhưng Bóng tôi còn nguy hiểm hơn. Nữ chiến binh sẵn sàng lâm trận. xoa hai tay vào chân, vặn đầu từ bên này sang bên kia, thư giãn cổ. Những con anpu mặc sai lầm chủ chốt: chúng chưa tước vũ khi của kẻ thù. Scathach vẫn còn thanh kiếm, dao và nhị khúc côn. Chiến trận dạy cho bản năng chiến đấu: hạ tên anpu gần nhất, dùng vũ khí để cắt rời chân nó ra khỏi phần còn lại. tóm lấy nó ngay khi nó ngã xuống và ném cơ thể nó vào hai bạn đồng hành của nó, hạ gục chúng luôn. phân tâm đủ cho Joan và Palamedes tham trận, cùng lúc đó ném kiếm cho Saint –Germain và Shakespeare. Tất cả chỉ xảy ra trong vòng vài phút. Sau đó họ chiếm lấy vimana và...


      Scathach thấy Palamedes nhìn . “ được đâu,” hiệp sĩ lảm bẩm bằng ngôn ngữ cổ của quê nhà. Ông quay và che mắt lại, nhìn về thành phố và tiếp tục với . “ có ai giỏi hơn Nữ chiến binh ạ, nhưng lũ anpu dễ dàng ngã xuống đâu. có thương vong. Có thể là Saint-Germain, cũng có thể là Joan, chắc chắn có Will. Đó là những tổn thất thể chấp nhận được. Ngoài ra nếu chủ nhân của những anpu kia muốn chúng ta chết, họ có thể giết chúng ta từ trời.”


      Những chiếc răng ma cà rồng của Scathach cắn vào môi. Palamedes đúng. Chỉ cần người trong số họ chết hay bị thương cái giá cho việc chạy thoát là quá lớn. hầu như quay đầu nhiều nhưng biết Hiệp sĩ Sacaren nhìn thấy. “Để lức khác vậy,” .


      “Luôn có thời gian.” Ông đồng tình.


      Những anpu di chuyển xung quanh họ, tước vũ khí của họ rồi chia họ ra thành từng nhóm. Palamedes là nhóm, trong khi Saint-Germain và Shakespeare hơn là nhóm. Scathach và Joan bị áp giải trong vimana bằng bạc bởi ba anpu trang bị vũ khí hạng nặng. Scathach leo lên thuyền trước, chiếc thuyền hơi nhún xuống do sức nặng của . Bên trong thuyền hầu như có gì, ngoại trừ bốn chiếc ghế dài được thiết ké dành cho chó. trong những anpu, thấp và to hơn những con khác, có vết sẹo trắng mờ tịt ngang mõm, câu gì mà chỉ vào ghế và chỉ vào hai người phụ nữ. Scathach cố ngồi nhưng hầu như trước khỏi ghế trước khi phát ra ngồi đất dễ chịu hơn nhiều. Joan làm theo. Những anpu dùng xích khóa từng người lại.


      “Chúng ta gặp rắc rối tới mức nào rồi?” Josh hỏi bằng tiếng Pháp.


      Con anpu có sẹo ở mõm nhìn chằm chằm, nhe hàm răng sắc lẻm ra. Nó đưa tay lên miệng ra dấu im lặng. Joan mặc kệ.


      “Nếu thước đo từ tới mười,” Scathach . “Chúng ta sắp lên ngưỡng mười hai.”


      Con anpu có sẹo vươn người qua chỗ Nữ chiến binh, đôi mắt đen thô lố của nó xoáy vào , nước miếng ra từ răng nó.


      “Chúng biết à?” Joan hỏi.


      “Chỉ khi chúng bắt đầu vào trận,” Scatty . “Và sau đó tiếng gầm của chúng khiến chúng ta lạnh xương. Tiếng hét thường khiến con mồi choáng váng tới mất ý thức.”


      “Chúng là cái gì?”


      “Chị tin chúng là nhánh của tộc Torc. trong những thí nghiệm thất bại của Elder.”


      Cuối cùng, sau khi nhận ra những người phụ nữ kia chịu nghe lời, con anpu sẹo chán nản bỏ .


      “Chúng là bạn hay thù?” người phụ nữ Pháp hỏi.


      “Khó lắm,” Scathach thừa nhận. “Kể cả chị cũng còn chẳng biết ai với ai nữa.” nhìn qua nắp đĩa bay mở lên bầu trời. Chiếc vimana nhún xuống vì có thêm hai con anpu lớn khác trèo vào. Sau đó lớp kính nhàng trượt về đỉnh, ngăn cách thanh bên ngoài. Scathach để ý thấy lốm đốm những xác côn trùng.


      “Nhưng chúng biết Marethyu là ai,” Joan .


      “Dường như ngoại trừ chúng ta ra ai cũng biết ông ta. ràng ông ta giật dây tất cả vụ này. Chị thực ghét cái ý tưởng chúng ta bị xỏ mũi cả đám,” Scatty dứt khoát . “Chị thề là chị và cái ông tay móc câu đó còn gặp nhau. Và lúc đó chị hỏi ông ta vài câu ‘hay ho’.”


      Họ cảm thấy có rung động từ tận trong xương tủy khi họ hình như bay qua những đám mây trắng. Con tàu nhún xuống, những đám mây xoay tròn rồi đâm qua – bằng chưng duy nhất cho thấy họ di chuyển.


      “Và nếu Marethyu trả lời chị sao?” Joan hỏi. “Chị để ý thấy những người bạn cún con của chúng ta rất cẩn thận khi hạ ông ta từ xa. ràng chúng sợ ông ta và quyền năng của ông ta.”


      “Ông ta trả lời chị,” Scathach tự tin . “Chị có thể rất thuyết phục đấy.”


      “Em biết chị có thể.” Joan of Arc nhắm mắt và hít hơi dài. cười kệ cho lũ anpu nhìn chằm chằm. “Em chỉ nghĩ: chúng ta chuyến phiêu lưu thực thụ trong khoảng thời gian khá dài.” thở dài. “ giống ngày xưa đây.”


      Scathach cười gằn. Ông chắc chắn chuyến này giống những chuyến phiêu lưu khác. và Joan từng chiến đấu – để cứu lấy các vương quốc và thậm chí là cả những đế quốc, để khôi phục hoàng tộc và ngăn cản các cuộc chiến, nhưng giờ mục đích còn cao cả hơn. Nếu họ tin Marethyu, họ chiến đấu cho tương lai chỉ của loài người mà còn cho rất nhiều giống loài ở rất nhiều vương quốc Bóng tối bí .


      Joan đụng đậy cố gắng để thoải mái hơn. “Khi Francis và em ở Ấn Độ vào năm ngoái, chúng em thấy bức hình những chiếc đĩa bay ở trong văn tự cổ được khắc trong đền thờ. Francis bảo em là có rất nhiều câu truyện về những chiếc phi thuyền trong truyền thuyết của người Ấn Độ cổ đại.”


      “Đúng đấy,” Scathach . “Chúng cũng xuất ở Babylon và Ai Cập. Rất nhiều vimana ở Danu Talis khi nó chìm nên tránh được bị hủy hoại. Bố mẹ chị có cái,” tiếp. “nhưng giống cái này. Khi chị đủ lớn để điều khiển nó, máy móc của chiếc phi thuyền quá cũ và được sửa chữa vá lắp quá thường xuyên nên nó còn ở trạng thái nguyên bản nữa. Nó chỉ bay được là là mặt đất thôi.” lắc đầu, cười khi nhớ lại. “Bố chị từng bảo là ông đấy chứng kiến bầu trời tối đen lại với những chiến vimana chiến đấu khi hạm đội chiến đấu với những Chúa Đất cuối cùng...”


      Giọng của Scathach lạc . rất hiếm khi về bố mẹ, và thường bao giờ tự nguyện . coi bản thân mình là kẻ độc và hành động mình quá lâu rồi. Nhưng có gia đình – người chị ở Vương quốc Bóng tôi trái đất bao giờ gặp mặt và bố mẹ và trai sống ở Vương quốc bóng tối xa xôi khác mô phỏng theo Danu Talis mất. Giờ quay ngược lại mười ngàn năm. thấy rất kỳ lạ khi nghĩ tới bố mẹ sống ở thành phố ngay bên dưới . Suy nghĩ đó khiến ngừng thở.


      đột nhiên nhận ra muốn gặp họ. , còn hơn thế. cần biết họ như thế nào trước khi và chị ra đời. Bố mẹ của Scathach và Aoife trở nên cay nghiệt và cáu bẳn bởi thế giới của họ bị hủy diệt. Họ lớn lên ở nơi họ là những chủ nhân thể chối cãi được. Tất cả kết thúc khi hòn đảo chìm xuống. Đột nhiên mọi thứ trở nên ràng trong những giờ đồng hồ sau khi Danu Talis chìm. còn chủ nhân và bề tôi nữa, còn Elder Vĩ đại và Elder nữa. Chỉ còn những người sống sót.


      Lớn lên, Scathach và chị sớm nhận ra họ khác bố mẹ vì họ được sinh ra sau khi hòn đảo chìm. Cặp song sinh và những cá thể đầu tiên của Thế Hệ Kế tiếp. Sau đó, rất, rất lâu sau đó, Aoife và Scathach biết rằng bố mẹ họ xấu hổ vì họ. Những hiểu rằng người trai của họ, với mái tóc đỏ và nước da xám, sinh ra ở Danu Talis là con cưng của họ. giống với cặp song sinh, ấy là Elder.


      Scathach cảm thấy bụng sôi lên khi phi thuyền hạ xuống thành phố.


      muốn gặp họ. Dù chỉ trong chốc lát. muốn đứng quan sát mẹ , bố , trai trước khi hòn đảo chìm. Vì trong thiên niên kỷ biết, chưa bao giờ thấy họ cười, và khi họ chuyện với những người khác – kể cả Elder – cũng với giọng nghiệt ngã. Giận dữ in hằn dấu vết lên người họ, khiến họ trở nên xấu xí và còng xuống. Trong giây phút, Scathach muốn nhìn thấy họ còn trẻ và xinh đẹp. muốn biết họ có bao giờ hạnh phúc .


      Đột nhiên phi thuyền tối om. Scathach và Joan nhìn thấy ngọn núi đen nhọn cao quá đầu đâm thẳng lên bầu trời tạo thành vòng tròn màu xanh bình thường.


      “Chúng ta rơi xuống...” Scathach dợm lời và ngửi thấy có mùi lưu huỳnh. hít sâu, cố phân biệt nó khỏi mùi lũ chó lâu ngày tắm và mùi sắt thép của chiếc vimana.


      “em cũng có thể ngửi thấy,” Joan . cười rung người. “Lưu huỳnh – làm em nhớ tới Dee.”


      Chiếc đĩa bay dừng lại. Con Anpu sẹo xuất trước mặt Scathach. Nó vẫy thanh kiếm cong trước mặt vì nó cẩn thận tháo xích cho bằng tay trái. Đôi mắt xanh của Scathach nhíu lại khi nhìn thấy vũ khí. Nó mang lại cho ý ức đen tối cay đắng: quãng đời trước dạy vị vua Tutankhamen cách chiến đấu với hai thanh kiếm cong. Nhiều năm sau, phát ra ông ta được chôn cùng hai thanh kiếm tặng ông ta.


      “Scatty...” Joan dợm chút xíu xíu hoảng loạn trong giọng . quay đầu quan sát Nữ chiến binh từ đầu tới chân. “Chúng ta ở đâu thế này?”


      “Nhà tù.” Scatty quay người và cười. “Và em có biết có nhà tù nào thế giới này có thể giam nổi chị ,” liến thoắng bằng tiếng Pháp.


      Nóc chiếc vimana bật mở để mùi lưu huỳnh sộc vào khiến họ thở nổi. luồng nhiệt hun nóng da thịt họ. Họ bị bao quanh bởi những tiếng rên la.


      “Em có cảm giác đây phải kiểu nhà tù bình bình của chị,” Joan gọi khi Scatty bị lôi tới mép phi thuyền.


      Anpu đẩy lưng Bóng tối khiến định quay lại gầm ghè, miệng đột nhiên đầy những chiếc răng ma cà rồng. Lũ anpu nhảy giật lùi lại. Ngay trước khi bước khỏi phi thuyền, Scathach nhìn xuống, quay lại nhìn bạn. NHững dốm lửa nhảy nhót phản chiếu qua mắt . “Em có thể thế - chúng ta ở trong miệng ngọn núi lửa hoạt động.”




      CHƯƠNG HAI MƯƠI MỐT

      Những Nereid áp sát hay tay bên người, trồi trụt mặt nước như trường luyện cá heo.


      “Vấn đề gì?” Josh thắc mắc. “Tôi có thể dùng luồng điện và...”


      “và tiết lộ vị trí của chúng ta cho người khác biết,” Dee đáp cụt lủn.


      , tôi làm thế,”


      “Ờ, nếu ông có kế hoạch thông minh, giờ là lúc ông xúc tiến đó,” Josh lo lắng . NHững Nereid tiến tới gần hơn, mái tóc xanhh dài dập dềnh đằng sau họ. Có vài sinh vật là những mỹ nhân, những sinh vật khác có vẩy và móng vuốt nên nhìn giống cua cá hơn là người. Mồm chúng đầy những chiếc răng nham nhở nhọn như đầu kim khiến cậu nghĩ tới đàn cá hổ.


      “Cứ lái xuyên qua chúng ,” Dee nạt. “Tốc độ tối đa?”


      “Đấy là kế hoạch đấy hả?” Josh hỏi.


      “Cậu có ý tưởng hay hơn à?” Dee phát rành rọt từng chữ và bàn tay gã thó này nắm thành nắm đấm.


      Josh đẩy cần điều khiển lên, động cơ gầm rú và chiếc thuyền máy nặng nề phóng vọt lên phía trước, mũi thuyền xé nước phóng . Cậu quay bánh lại vượt qua cả bầy Nereid... chúng chỉ nhàng tách ra, rồi lại bơi tới nắm lấy thuyền. Bóng vuốt cáo xé hai bên cạnh thuyền, có hai con còn bám được vào thang thấp bên dưới và cố kéo mình lên.


      “Nhanh nữa lên!” Dee quát. cầm cuộn dây thừng lên và dúng nó để quất vào những sinh vật biển tránh xa con tàu. Chúng rơi lại xuống nước từ cao, kêu ré lên như tiếng cười trẻ con. trong số chúng đột ngột trèo được lên đuôi thuyền, chỉ còn inch nữa nó cắn được vào chân Dee. Tiến sĩ tức giận nhảy lùi ra sau và nhìn thấy con Nereid khác dùng đuôi tung mình lên thuyền. chùi hai tay vào quần, để lại cái vẩy cá sáng loáng màu vải tối. “Tôi ghét lũ Nereid,” ta lẩm bẩm.


      “Tiến sĩ...” Josh hét lên. “Nắm chắc nhé!” con Nereid bò lên trước cậu ta, những móng tay sắc như dao cạo đâm sâu vào vỏ tàu bằng sợi thủy tinh. Josh đánh bánh lái và con tàu cao tốc nghiêng gần tới 45 độ. Sinh vật bị trượt thuyền, để lại những vệt dài thần tàu. Nó treo mình lúc rồi rơi tõm xuống nước.


      “Nhanh nữa lên!” Dee hét.


      hơn được nữa đâu,”Josh . Con thuyền chập chềnh sóng nước, đập mạnh vào những con sóng khiến cậu bật ra khỏi ghế lái. Cậu thấy đau răng, lộng óc, nước biển bắn vào mắt cậu, môi cậu khô cong. Dù bình thường cậu bị say sóng, nhưng giờ cậu biết cậu có thể nôn bất cứ lúc nào.


      Đột nhiên con thuyền di chuyển chậm lại như thể nó chạm phải bãi cát. Động cơ gầm rú nhưng con thuyền di chuyển được thêm. Josh liều nhìn ra sau. Hàng tá con Nereid túm tụm xung quanh tàu, bám lấy thân tàu kéo nó xuống biển. Nước bắt đầu tràn vào đuôi thuyền. Khi nhìn ánh mắt đói khát và hàm răng sắc nhọn như kim của lũ Nereid, Josh biết cậu và Dee thể sống sót hơn phút dưới nước.


      Dee đứng sau Josh, quất dây vào Nereid nhưng chúng quá nhanh nên chẳng trúng con nào. quất vào con vừa búng mình khỏi mặt nước. Con quái giữ thăng bằng đuôi và cắn sợi dây ra làm đôi khi nó bay qua mặt.


      “Sử dụng luồng điện của ông chúng ta chết!” Josh hét lên.


      “Nếu tôi sử dụng luồng điện, chúng ta chết chắc!”


      “Và nếu ông sử dụng luông điện, chúng ta làm mồi cho cá trong vòng vài phút nữa.” Cậu trai trẻ nghiến răng trong vô vọng. “Chúng ta cần làm gì đó...”


      kế hoạch...” Dee , nhấn mạnh từng từ.


      Josh gật đầu. “ kế hoạch,” cậu , và ngay cả khi cậu cậu thấy những hình ảnh trong ký ức, nhưng phải ký ức của cậu.


      ....của đội quân mặc giáp sáng loáng của Nhật, bị vây hãm và yếu thế...


      ...của chiến binh mặc giáp da và lưới sắt, đầu đội mũ trụ sắt, đứng đơn độc chiếc cầu, đối mặt với đội quân phải người...


      ...của ba con tàu trang bị vũ khí thô sơ bị vây hãm bởi hạm đội lớn...


      Và trong bất cứ trường hợp nào kẻ lép vế cũng chiến thắng vì...vì họ có chiến lược.


      “can nhiên liệu để dành,” Josh hét lên. “Trong đó còn dầu ?”


      Dee quất cây roi vào con Nereid có hai càng thay cho tay. Móng vuốt của nó chém đoạn dây lại ngắn lại hơn khi nó rơi xuống nước. Pháp sư cầm can dầu bằng nhựa lên lắc. Có chất lỏng bên trong. “Còn nửa. Có thể hơn.” lắc can thứ hai. “Cái này còn nguyên.”


      “Bám chắc lấy,” Josh . “Chúng ta quay thuyền.” Cậu quay vòng lớn mặt nước xa khỏi hòn đảo. Những con Nereid thấy bối rối và bị bỏ lại sau quãng ngắn. “Đổ chúng lên thuyền,” Josh ra lên. “Nhưng đừng đổ hết lần. Từ từ thôi.”


      Tiến sĩ gì và mở nắp can và ném nó . Mùi dầu diesel quá năng khiến ho khan, chảy nước mắt. đổ can dầu lên rìa tàu và kệ cho dầu đổ cả xuống mặt vịnh


      Josh cảm thấy mình quan sát mọi việc cách chậm chạp. Cậu nhìn những Nereid bơi trong nước và biến chúng định tới đâu. Cậu quan sát những đợt sóng đập vào thân tàu và cậu có thể đếm có bao nhiêu giọt nước chạm vào mặt cậu.


      con Nereid cực kỳ xấu xí – giống cá nhiều hơn người – xuất trước mặt cậu. Cậu nhìn cơ bụng của nó phẳng đẹt và biết dưới làn nước kia, chiếc đuôi to lớn của nó khua nước rất nhanh, giúp nó bay lên trong khí. Nó hạ cánh xuống tàu và cắn ngập cổ họng cậu. Josh đánh bánh lái ngay lúc con Nereid búng mình lên. Nó cách thuyền có vài inch và rơi trở lại biển.


      “Xong,” Dee hét.


      “Châm đầu dây ,” Josh ra lệnh.


      “Bằng gì?” Dee hỏi.


      “Ông có diêm à?”


      bao giờ dùng đến.” Dee ngoắc ngón tay. “Tôi luôn luôn dùng luồng điện.”


      Đầu óc Josh quay cuồng, cậu liên tục nghĩ ra và loại bỏ hàng tá những cảnh tượng. “Cầm bánh lái ,” cậu chỉ dẫn. “Ông cứ rẽ vòng vòng .” Và trước khi Pháp sư cầm lấy bánh lái Josh chui vào cabin bên dưới. Cậu tìm thứ gì đó...và cậu lập tức thấy nó.


      Chiếc hộp cứu thương ở tường, và ngay dưới nó, chiếc tủ kính treo khẩu súng báo sáng bằng nhựa dùng để thu hút chú ý nếu thuyền gặp nguy.


      Josh mở hộp và lấy khẩu súng ra khỏi tường. Cậu nhìn thấy bố cậu dùng cậu súng bắn pháo sáng trước đây, và cậu biết chúng hoạt động ra sao dù chưa từng sử dụng. Cậu trở ngược lại thuyền. Nếu cậu có diêm, cậu nhúng đầu dây vào dầu dùng bật lửa đốt và thả nó xuống nước.Với khẩu súng cậu chỉ có cách duy nhất là bắn pháo sáng vào lớp dầu mỏng mặt nước.


      Những Nereid tiến tới gần. Chúng tụ lại quanh tàu, mồm mở ra rồi ngậm lại, răng nghiến vào nhau, mùi cá ươn gần như quá sức chịu đựng.


      Josh cầm can nhiên liệu lên lắc. Có chất lỏng bên trong. Cậu nắm lấy tay cầm và quăng như thể ném bóng chày và ném về chỗ cậu có thể nhìn thấy vệt dầu loang màu bảy sắc cầu vồng. Can dầu bay thẳng vào giữa vết dầu loang.


      Chiếc thuyền chìm xuống khi những Nereid tay như càng cua kéo hai bên thân tàu xuống.


      Cậu nắm chiếc súng bắn pháo bằng cả hai tay và nhắm vào chiếc can nổi lềnh phềnh. Cậu biết đích xác về hướng gió, và cậu biết pháo sáng bay theo hình vòng cung rồi rơi xuống.


      Như mũi tên.


      Cậu bóp cò súng. quả pháo đỏ bay ra, vẽ hình vòng cung trong khí, rơi xuống... trúng can dầu, ngay lập tức tạo ra những ngọn lửa vàng cam. Ngọn lửa nhảy nhót mặt nước, con sóng này tới con sóng khác, bao quanh con tàu.


      Trong giây ngắn ngủi khí rung lên với tiếng hát tuyệt vời của những Nereid, và rồi, lời, chúng lặn xuống và biến mất. lúc sau những ngọn nửa xanh cũng còn.


      Ts. John Dee nhìn xung quanh con tàu tả tơi. gật đầu với Josh. “Rất ấn tượng đấy, cậu trai trẻ.”


      Josh thấy kiệt sức. Thế giới quay trở lại tốc độ bình thường đến cùng với mệt mỏi. Cậu cảm thấy như vừa chơi thêm hai hiệp phụ trong trận bóng đá.


      “Sao cậu nghĩ ra ý tưởng đó?” Dee hỏi và quan sát Josh kỹ.


      Josh lắc đầu. “Những ý ức,” cậu lẩm bẩm.


      ...của đội quân mặc giáp sáng loáng của Nhật, bị giam hãm, bao vây và yếu thế tạo ra mê cung rơm rạ cháy để chia lẻ và vây hãm quân thù.


      ...của chiến binh mặc giáp da và lưới sắt, đầu đội mũ trụ, ở giữa cầu đối mặt với đội quân phải người, đốt cây cầu để chắc những con quái vật thể tiến tới gần mình.


      ...của ba con tàu trang bị vũ khí thô sơ bị hạm đội bao vây. trong ba con thuyền chở đầy bột đep, gỗ tàu bị đổ đầy dầu cá. Người ta đốt thuyền và lái về hướng hạm đội. Nó phát nổ và gây ra hỗn loạn.


      Josh biết đó phải ký ức của cậu, và cậu biết nó cũng phải của thanh Clarent. Khi cậu cầm thanh kiếm Hèn nhát những ký ức của nó thường khiến cậu phát bệnh. Những ký ức này, ý nghĩ này lại khác. Chúng mang theo hào hứng, hồ hởi và trong vài dịp khi mọi thứ chậm lại, khi mọi vấn đề đều có lời giải và có cái gì có thể hơn cậu, cậu cảm thấy mình thực sống. Ngay khi những ký ức phải của cậu biến mất, thế giới quay về nhịp độ bình thường, cậu nghĩ cậu chưa thể thoát. Nếu pháo sáng đánh lửa cho dầu được, cậu biết có hàng tá những giả thiết khác có thể có.


      “Cậu thấy sao rồi?” Dee hỏi. quay tàu quay lại hướng Alcatraz, nhưng mắt vẫn dán vào Josh.


      “Mệt.” Cậu liếm đôi môi khô cong vì vị muối biển khi nhìn theo những con sóng. “Tôi hy vọng Virginia có thể xuất lúc này...”


      Dee nhìn xung quanh. “ ấy xuất . ấy luôn luôn có thể,” ông ta cằn nhằn.


      Pháp sư đánh vòng lớn, Josh rướn người ra tìm bóng dáng người bất tử,, nhưng có. “Có thể Nereid tóm được ấy ?”


      “Tôi nghi ngờ điều đó. Họ để ấy lại nếu họ biết cái gì tốt cho họ.”


      “Họ cũng rồi.”


      “Nhưng quay lại,” Dee . Cậu bước qua bên để Josh cầm lại bánh lái. Alcatraz ra lờ mờ trước mặt họ. “Giờ chúng ta quan sát bạn người Ý thả lũ quái vật nào.”








      CHƯƠNG HAI MƯƠI HAI

      “Tới lúc rồi.” Perenelle thả tay xuống. Đôi mắt bà tràn ngập nước mắt. Những dòng nước mắt lăn dài má bà. “Prometheus,” bà bình tĩnh . “Ninten. Hai người cho chúng tôi chút riêng tư được ?”


      Vị Elder và người bất tử nhìn nhau rồi cùng gật đầu và rời khỏi phòng lời, để lại Perenelle, Tsagaglalal và Sophie đứng chung quanh giường.


      Sophie nhìn Nicholas. Nhà Giả kim có vẻ thanh thản, bình yên. Dù cho vài ngày trước những nếp nhăn hằn sâu lên khuôn mặt ông, nhưng giờ khi khuôn mặt ông giãn ra, nư nhìn thấy lại những nét đẹp từng có ở ông. nuốt khó khăn. luôn luôn thích ông, và biết trong những tuần Josh làm việc cùng ông ở hiệu sách, cả hai khá thân thiết. Có lẽ vì bố mẹ họ thường xuyên vắng, Josh luôn mong muốn có người thầy và huấn luyện viên. Sophie biết em trai luôn kính trọng Nicholas Flamel.


      Perenelle đứng trước đầu giường. Chiếc đuổi tà mộng hình tròn màu xanh vàng ở đầu bà kêu lên và tỏa ra ánh sáng màu xanh bạc. “Tsagaglalal, Sophie, tôi biết tôi có quyền cầu hai người điều này,” Giọng Pháp của người bất tử rành rọt và đôi mắt xanh lơ của bà nhòe nước mắt. “Nhưng tôi cần hai người giúp tôi.”


      Tsagaglalal cúi đầu. “Bất cứ điều gì,” bà ngay lập tức.


      Sophie nghĩ lúc trước khi trả lời. biết Perenelle muốn gì, nhưng đoán là điều gì đó với xác chú Nicholas. chưa từng nhìn thấy thi thể trước đây, và ý nghĩ chạm vào nó khiến lúng túng. nhìn lên và thấy hai người phụ nữ nhìn mình.


      “Cháu thể... ý cháu là... muốn cháu làm gì? Cháu giúp, tất nhiên. Nhưng cháu thể làm gì như khâm liệm tử thi. Cháu nghĩ cháu có thể chạm vào nó nữa. À ông ấy,” vội vàng sửa lại.


      , nhờ cháu làm việc đó,” Perenelle . Những ngón tay của bà vuốt mái tóc ngắn của chồng, nhàng chạm vào da đầu ông. Luồng chỉ trắng bạc chảy ra từ đầu ngón tay bà. Bà mỉm cười. “Và, ngoài ra, Nicholas chết. Chưa chết.”


      Sophie choáng váng nhìn Nhà giả kim lần nữa. tưởng ông ra bình yên trong giấc ngủ. Nhưng giờ, khi nhìn kỹ hơn, có thể thấy những cử động nhất nhịp đập ở cổ, đều. nhắm mắt lại và tập trung vào thính giác được Đánh thức của . chủ tâm nghe ngóng và có thể nghe thấy những tiếng đập thình thịch chậm – rất chậm của con tim ông. Nhà giả kim còn sống – nhưng bao lâu nữa? mở mắt nhìn Nữ Phù thủy. “ cần cháu làm gì?” hỏi ngay.


      Perenelle vui vẻ gật đầu. Bà mở rộng hai bàn tay và đặt chúng lên hai bên đầu chồng. “Khi còn bé,” bà , đôi mắt nhìn xa xăm và mơ màng. “ gặp người đàn ông tay móc câu, mắt xanh, mặc áo choàng.”


      Tsagaglalal hít hơi. “ gặp Thần Chết! Tôi biết chuyện đó.”


      Nụ cười của Perenelle trông buồn bã và u uẩn. “Bà biết ông ấy à?”


      Bà lão từ tốn gật đầu. “Tôi gặp ông ta ở Danu Talis trước khi nó sụp đổ...và lần nữa, khi mọi việc kết thúc. Abraham biết ông ta.”


      Sophie chầm chậm quay lại nhìn Tsagaglalal. Có phải dì vừa ở Danu Talis? Vậy bà bao nhiêu tuổi? Những ký ức và hình ảnh rời rạc xuất và trôi trong đầu óc .


      ...của người phụ nữ trẻ xinh đẹp ôm chặt cuốn sách bìa kim loại, chạy lên những bậc cầu thang biết đâu hồi kết của kim tự tháp cao khó tin. Những người khác chạy vượt qua bà, người và phải người, quái vật và động vật tháo chạy khi những ma thuật hoang dã nhảy múa đầu họ. sinh vật trùm kím mặt xuất ở đỉnh kim tự tháp. Đó là người đàn ông với móc câu sáng loáng ở bên tay trái mang quả cầu lửa xanh nhàn nhạt...


      Giọng của Perenelle cắt đoạn dòng ký ức và mang Sophie quay về thời tại. “Khi bà ngoại mang tới gặp người đàn ông đội mũ trùm mới lên sáu.” Dòng điện trắng như tinh khiết của Perenelle ra từ người bà, bao xung quanh bà, khoác lên người bà ông tấm áo choàng trắng. “Ở trong cái hang đá pha lê ở bờ biển vịnh Douarrnenez, ông ấy cho biết trước tương lai của mình. Và ông ấy còn cho về thế giới, thế giới thể có được, thế giới của pháp thuật, với những giấc mơ và những tạo vật tuyệt mĩ.”


      Vương quốc Bóng tối?” Sophie thầm.


      tin thế trong thời gian dài, nhưng giờ biết rằng lúc đó ông ta mô tả thế giới đại.” Perenelle lắc đầu và bà chuyển sang tiếng Pháp rồi sau đó giọng vùng Breton của thời thơ trẻ. “Người đàn ông tay móc câu với rằng gặp được tình của đời và trở thành người bất tử.”


      “Nicholas Flamel,” Sophie , và lần nữa nhìn cơ thể bất động giường.


      “Lúc đó còn quá trẻ,” Perenelle tiếp như thể nghe thấy Sophie gì. “Và dù thời đó bọn tin vào phép thuật – cháu nên nhớ là lúc đó mới là đầu thế kỷ mười bốn – cũng biết con người sống mãi được. nghĩ người đàn ông đó bị điên hoặc bị thiểu năng... nhưng hồi đó bọn coi trọng người khác hơn và luôn lắng nghe họ, để ý tới những lời tiên tri của họ. Nhiều thế kỷ sau, biết được tên người đàn ông tay móc câu đó: Marethyu.”


      “Thần Chết,” Tsagaglalal nhắc lại.


      “Ông ấy tiên đoán cho từ khi còn là đứa trẻ rằng kết hôn...”


      “với Nicholas,” Sophie lẩm bẩm.


      .” Perenelle lắc đầu khiến ngạc nhiên. “Nicholas phải người chồng đầu tiên của . Còn có người khác, lớn tuổi hơn , là địa chủ và chúa đất quyền lực nhiều. Ông ta mất sau khi chúng ta kết hôn lâu, và trở thành góa phụ giàu có. có thể chọn bất cứ người đàn ông nào – nhưng lên Paris và công chứng viên xu dính túi trẻ hơn tới mười tuổi. Lần đầu gặp Nicholas nhớ ra Marethyu rằng đời tràn đầy những cuốn sách và những con chứ. Và thế là biết lời tiên tri thành .”


      Nhiệt độ trong phòng giảm xuống, từ mát chuyển qua lạnh. Hơi thở của Sophie trở thành khói trước mặt , và phải cố lắm mới xoa hai tay vào nhau cho ấm. Luồng điện của Nữ Phù thủy thoát khỏi người bà, chảy ra đằng sau và tạo thành hai đôi cánh lớn sau lưng bà. Sophie cảm thấy luồng điện của kêu lách tách da, và khi quay sang nhìn Tsagaglalal, thấy những đặc điểm khuôn mặt bà khó có thể nhận ra qua lớp sương mỏng. Giống như Nữ Phù thủy, bà khoác áo choàng trắng, khi cúi xuống nhìn mình, chính cũng mặc chiếc áo choàng màu bạc từ cổ tới mắt cá. Tay áo dài che mất bàn tay .


      “Marethyu – hầu như quên mất người đàn ông này cho tới ngày ông ta xuất ở cửa hiệu của vợ chồng ,” Perenelle tiếp. áp hai lòng bàn tay vào đầu chồng khi , những sợi chỉ xanh từ luồng điện của ông bay ra ngoài vỡ ra như bong bóng. “Đó là ngày thứ Tư – có thể nhớ như nó vừa xảy ra ngày hôm qua – bởi vì hôm đó ở cùng với Nicholas trong cửa hàng. nghi ngờ gì việc Marethyu chủ ý xuất khi chú ấy chỉ có mình. về nhà và thấy cửa hiệu đóng cửa dù mới là đầu giờ chiều và mắt trời chưa tắt nắng. Căn phòng lập lòe sáng – nến đủ mọi kích cỡ ở mọi nơi. Chú ấy đặt chúng bàn, xung quanh vật hình chữ nhật bằng kim loại. Đó là cuốn Codex, cuốn sách của Nhà thông thái Abraham. Đấy là lần đầu tiên nhìn thấy nó, ánh sáng phản chiếu từ bìa cuốn sách ra như thể nó là mặt trời thu . Trước khi Nicholas cho biết tên cuốn sách, biết nó là gì. chưa từng nhìn thấy nó, nhưng biết nó ra sao.”


      “Marethyu,” Tsagaglalal gật đầu . Nước mắt lăn xuống hai má bà. “Ông ta có nó.”


      “Sao bà biết?” Sophie thầm hỏi. Dù hỏi nhưng câu trả lời hình thành...


      “Vì ta đưa nó cho ông ta,” Tsagaglalal , luông điện của bà lóe sáng.


      Và kí ức đập mạnh vào Sophie.


      Bầu trời bị xé tan bởi những tia chớp, mặt đất bốc lửa, những bậc thang kim tự tháp rời ra...và người phụ nữ trẻ mắt xám ném cuốn sáng bìa kim loại cho người đàn ông tay...


      Siphie lùi xa chiếc bàn và những hình ảnh biến mất.


      Căn phòng lạnh như băng và mọi thứ bắt đầu đóng đá. Luồng điện của Perenenelle bắt đầu chảy xuống sàn như thể sương mù trong khi phần còn lại của luồng điện như đôi cánh lớn vỗ vai bà. Những sợi chỉ của luồng điện vặn xoắn ngón tay bà trowcs khi chui vào đầu Nicholas như những con sâu.


      “Lúc Marethyu với rằng chồng có thể trở thành người bảo vệ cuốn sách bìa kim loại còn là đứa trẻ. Vợ chồng là những con người cuối cùng bảo vệ vật quý giá đó. Ông ta cuốn sách chứa đựng tri thức của cả thế giới... nhưng lần đầu tiên thấy nó, biết đó phải . Trong đó có rất ít trang. Làm sao mà tri thức của cả thế giới có thể chứa đựng được trong có hai mươi mốt trang sách? Rất lâu sau Nicholas và mới biết được bí mật của cuốn Codex và những câu chữ thay đổi mọi thứ liên tục của nó.”


      đọc được à?” Sophie hỏi, và choáng khi nhận ra mình dùng cùng thứ ngôn ngữ với Perenelle.


      . Hai mươi năm sau mới đọc nổi.” Làn da Perenelle ánh lên ánh sáng trắng. Những mao mạch hồng hồng nổi lên ràng tay bà, và ánh sáng tập trung trong đôi mắt xanh của bà, khiến màu mắt của bà biến mất, trông bà như thể bị lòa. “ ra, tất cả những gì Marethyu với chúng ta đều trở thành thực...” Bà thở dài. “Cuối cùng chỉ còn lại lời tiên đoán chưa thành thực thôi.”


      cho chúng tôi nghe , Nữ Phù thủy,” Tsagaglalal . Luồng điện của bà giờ bao kím người bà, khoác lên người bà chiếc bào như của người Ai cập, và bên dưới làn da nhăn nheo của bà, Sophie thấy lại được hình ảnh xưa kia của bà, phụ nữ trẻ đẹp.


      “Marethyu với tôi rằng có ngày – trong tương lai xa, tại vương quốc chưa được đặt tên – khi cả chồng tôi và tôi đều cận kề cái chết.” Giọng của Perenelle nghe , vô cảm nhưng những giọt nước mắt vẫn lăn má bà. “Nicholas chết trước, và hai ngày sau, tôi theo ông ấy.”


      Sophie chớp mắt và những giọt nước mắt bằng bạc lăn xuống má . thể tưởng tượng nổi làm sao để sống với những ký ức về những người thân sang thế giới bên kia. thấy sợ hãi, hay thực lòng?


      “Marethyu hỏi tôi làm gì để giúp chồng tôi sống thêm ngày. Và tôi rằng tôi làm...”


      “Mọi thứ. Bất kể điều gì,” Sophie thầm, ý thức được những từ đó lúc trước.


      “Mọi thứ. Bất kể điều gì,” Perenelle đồng tình. “ có thuốc trường sinh, có lẽ tôi chỉ sống được hai ngày nữa.” Luồng điện của bà còn sáng hơn, đôi cánh sải rộng hơn, vươn tới tận trần nhà. “Marethyu rằng tôi thể cứu Nicholas thân của tôi, nhưng tôi có thể cho ông ấy thêm ngày nữa...bằng cách chia sẻ cho ông ấy ngày của tôi.”


      Sophie hớp hớp khí.


      “Cháu làm điều tương tự với em trai cháu,” Perenelle hề do dự.


      Sophie run rẩy như thể cái gì đó lạnh lẽo trườn vào trong xương sống. Cái giá của tình là bất cứ điều gì...là mọi điều.


      Nữ phù thủy nhìn Sophie và Tsagaglalal và rồi nhìn lại . “Tôi cần cả hai người giúp ta chuyển luồng điện của ta sang cho Nicholas.”


      “Cách nào?” Sophie thở hắt ra.


      “Tôi cần hai người cho tôi luồng điện của hai người.”




      CHƯƠNG HAI MƯƠI BA

      trong những niềm kiêu hãnh của Scathach là nhà tù nào có thể giữ nổi bạn bè nào của có thể bị giam cầm trái với ý muốn. Nhưng biết rằng nhà tù ở Danu Talis rất khác biết. “Tôi nghĩ,” Scatty . “rằng chúng ta gặp rắc rối. Rắc rối đấy.”


      Nữ chiến binh đứng trước cửa hang tự nhiên ở vào vách miệng núi lửa hoạt động. Hang này là xà lim giam giữ .


      Trong suốt cuộc đời dài của mình, Scathach bị giam cả tá lần.Nhưng chưa lần nào như thế này. Nữ chiến binh bị săn đuổi và bị giam hãm ở các Vương quốc bóng tối nguy hiểm chết người, bị bỏ lại những hòn đảo hoang và tự lo liệu cho bản thân ở những nơi biệt lập nhất và nguy hiểm nhất trái đất. thoát được khỏi lâu đài Elmina quỷ quái ở Ghana và từng thoát khỏi Cung điện Chateau d’lf ở Địa Trung Hải.


      Scatty nhìn quanh. Những vách đá cao như tháp của ngọn núi lửa có hàng trăn hang động. Hơn nửa dùng để giam giữ, số còn lại chứa đựng xương và quần áo của người chết.


      quan sát những chiếc vimana bay lên, mùi kim loại cũng át được mùi lưu huỳnh trong quãng ngắn. Nó dừng lại trước hang động khác và thấy Joan nhảy ra từ phi thuyền và vào trong hang. Chiếc đĩa bay thứ hai hạ cánh xuống miệng núi lửa dừng lại gần như trước mặt . Nắp phi thuyền bật mở và Saint-Germain bị đẩy vào hang. Người bất tử phủi bụi người mình rồi đưa mắt tìm và Joan. ta vẫy vẫy lại. Saint-Germain chụm tay trước miệng và hét lớn, nhưng những tiếng động bên dưới át mất tiếng . ta nhún vai và biến mất trong hang, xuất lại sau đó, lắc đầu.


      Scathach chui vào hang của mình để xem xét. Xà lim của – và đoán của những người khác cũng thế - giống hốc hơn là hang. Nó chỉ cao bằng người và chật đến nỗi có thể chạm vào hai bên tường cùng lúc. cười khi nghĩ tơi hình ảnh Palamedes ở trong cái xà lim như thế này. Trừ khi có những xà lim to hơn, chàng ta chẳng thoải mái gì. có cửa, mà cũng chẳng cần cửa: ngay bên dưới cửa động – rất sâu bên dưới là lớp mắc ma đen đỏ xủi bọt. Tính từ cửa hang tới hết chỉ được có ba bước chân ngắn. Chỉ có Joan, nhất trong nhóm mới có thể nằm được. Những ánh sáng hắt lên từ bên dưới. Mùi và nhiệt độ khó có thể chịu nổi.


      Bóng Tối khoanh tay trước ngực và nhìn xung quanh. có thang bậc, thang dây hay cầu; cách duy nhất để tới được các hang là dùng đĩa bay. Và vừa nhìn thấy chiếc cuối cùng bay khỏi miệng núi lửa.


      nhìn Saint-Germain và rồi nhìn lên chỗ William Shakespeare chuồi người ra từ bên nhìn xuống . Đối diện với ông ta là Palamedes ngồi ở miệng hang, chân đu đưa. liếc nhìn lên và thấy Joan nhoài người ra mép hang nhìn . ấy vẫy Bóng tối và Bóng tối vẫy lại. Tất cả đều nhìn . Và Scathach biết vì sao.


      Khi nào bạn bè gặp rắc rối, Scathach luôn giải thoát cho họ. cứu Nicholas khỏi nhà tù Lubyanka ở Mat- xơ- cơ- va vài tiếng trước giờ hành hình, giải cứu cho Saint-Germain – dù thực thích chàng này lắm – khỏi nhà tù khét tiếng ở Đảo Ác Quỷ. Khi Perenelle bị nhốt ở Tháp Luân Đôn, Scathach chiến đấu với hàng trăm lính canh trang bị tới tận răng và tới với người chờ đợi . mất chưa đầy ba mươi phút để cứu Nữ Phù thủy. Và tất nhiên, chui vào tận trung tâm Rouen để cứu Joan khỏi bị hỏa thiêu.


      nằm sấp xuống xem xét vách đá, tìm kiếm những chỗ có thể đặt tay, đặt chân nhưng có. quay người lại xem xét vách đá đầu mình. Nó cũng như thể được đánh bóng vậy. ngồi thẳng dậy, khoanh chân ngồi theo tư thế đài sen và đặt hai tay vào lòng. “Thử thách đây,” lẩm bẩm.


      Thường chỉ cần diện của Bóng Tối cũng đảm bảo tù nhân được giải thoát. Khi Hel bắt Joan và lôi vào Vương quốc bóng tối, Scathach tuyên bố đứng cây cầu Gjallarbu trước cửa vào vương quốc bóng tối của Hel đúng nửa đêm. Nếu Joan được trả tự do và xây xước gì, Scathach thề là bước tiếp cây cầu vàng vào Vương quốc bóng tối. Khi xong việc, thề, toàn bộ thế giới đó chẳng còn gì ngoài cát bụi. Thế là đúng phút trước nửa đêm, Hel phải tự hộ tống Joan tới cây cầu giao cho Nữ chiến binh.


      Đá cuội rơi xuống đầu nhìn lên. Joan nhìn lên góc hang cách mười feet. “Theo thước đo từ tới mười, chúng ta ở mức nào rồi?” Người Pháp bất tử hét xuống.


      Chúng ta vượt qua cả thước đo đó rồi, Scatty nghĩ, nhưng chỉ “Chúng ta vượt qua mức mười hai, sắp lên mức mười ba.” nhìn thấy Người phụ nữ Pháp nhướn mày tin tưởng. “Được rồi, có thể là mười bốn,” Scatty sửa lại.


      “THế chúng ta may mắn là đây phải nhà tù có thể giữ chân được chị,” Joan , có chút chế nhạo trong đó.


      Trừ việc, đây là nhà tù duy nhất giữ được chị, Scathach nghĩ.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :