Bí Mật của Nicholas Flamel Bất Tử (Tập 4: Kẻ chiêu hồn) - Michael Scott(Kỳ ảo)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      [​IMG]
      BÍ MẬT CỦA NICHOLAS FLAMEL BẤT TỬ - KẺ CHIÊU HỒN
      Tác Giả: Michael Scott
      Khổ sách: 13.2x21cm
      Số trang: 474
      Năm xuất bản: 06/2011
      Giá bán: 97.000 VNĐ
      Hai chị em song sinh nhà Newman trở lại San Francisco bằng đường cổng tuyến từ London và đối diện với những thử thách mới từ các thế lực của Elder Đen tối. Gặp lại vợ chồng nhàFlamel bất tử, Josh được truyền thêm Phép thuật Lửa từ Prometheus, nhưng lại bị dẫn dụ bởi thuật Chiêu hồn của Tiến sĩ Dee nên vô tình trở thành kẻ chông lại những nỗ lưc cứu lấy thế giới loài người của các thế lực Elder Đen tối.

      Vợ chồng nhà Giả kim Nicholas Flamel được tiếp sức bởi nhiều người bất tử khác cố gắng ngăn chặn mưu giải thoát những con vật ác độc bị giam giữ trong nhà tù ở đảo đá Alcatraz, bảo vệ thế giới loài người thoát khỏi muu hủy hoại của các Elder Đen tối.

      KẺ CHIÊU HỒN là tập thứ tư của bộ truyện Bí mật của Nicholas Flamel Bất Tử. Các tập xuất bản: Nhà Giả kim; Pháp sư; Nữ Phù thủy​

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      KẺ CHIÊU HỒN

      NICOLAS FLAMEL BẤT TỬ 4


      Michael Scott



      Chap 1

      Tôi thấy sợ. phải cho bản thân tôi, nhưng cho những người tôi để lại sau lưng mình: Perenelle và cặp song sinh. Tôi cam đành chấp nhận rằng chúng tôi thể nào giành lại kịp cuốn Codex để cứu vợ tôi. Có lẽ tôi chỉ còn đúng tuần lễ, chắc chắn thể hơn hai tuần được, rồi tuổi già đến đòi mạng tôi; còn Perenelle khả năng có thể kéo dài được gần hai tuần. Tôi muốn chết. Tôi sống trái đất này sáu trăm bảy mươi sáu năm, và vẫn còn quá nhiều việc tôi chưa từng làm, quá nhiều việc tôi ước ao mình vẫn còn thời gian để thực . Dù vậy, tôi thấy mình được an ủi, vì tôi sống đủ lâu để tìm được cặp song sinh huyền thoại, và tự hào rằng tôi khởi đầu việc huấn luyện hai đứa những pháp thuật cơ bản, Sophie tinh thông được ba, Josh chỉ mới có , nhưng nó lại bộc lộ các kỹ năng khác, và lòng can đảm của nó là phi thường. Chúng tôi trở về tới San Francisco, bỏ Dee lại ngay giữa Lodon. Tôi hy vọng đó là lần cuối cùng chúng tôi gặp . Tuy nhiên, tôi lo lắng vì Machiavelli ở đây, trong thành phố này. Perenelle đánh bẫy y và tên bạn đồng hành của y Alcatraz cùng với những con quái thú khác, nhưng tôi hòn đảo Đá ấy có thể cầm giữ trong bao lâu kẻ như tay người Ý bất tử kia. Và cả tôi lẫn Perenelle đều đồng ý rằng Alcatraz là mối đe dọa mà chúng tôi phải đương đầu bao lâu chúng tôi còn có thể. Chỉ mỗi việc ý thức rằng các xà lim chứa đầy những bọn quỷ sứ cũng đủ làm người ta thấy kinh khiếp. Mặc dù vậy, lo lắng hơn nữa là tin tức cho biết Scathach và Joan Arc biến đâu mất. Lẽ ra cổng tuyến ở Notre Dame phải đưa họ đến ngọn Mount Tamalpais, nhưng họ chưa bao giờ đặt chân lên đến đó. Francis điên cuồng vì lo lắng, nhưng tôi có nhắc cậu ấy rằng Scathach hai ngàn rưỡi tuổi, và ấy là chiến binh tối thượng. Mối quan tâm của tôi nằm ở hai đứa sinh đôi. Tôi bọn trẻ suy nghĩ thế nào về tôi nữa. Tôi luôn ý thức rằng Josh chất chứa trong lòng nó những nghi ngại về tôi, nhưng bây giờ tôi lại có cảm giác là bọn trẻ vừa sợ hãi vừa mất lòng tin cậy khi hai đứa khám phá ra những phần trong lịch sử cuộc đời tôi mà tôi thích được che giấu hơn. Tôi tự hào về số việc tôi làm, nhưng tôi tiếc gì cả. Tôi làm những gì phải làm để bảo đảm sống còn của toàn nhân loại, và nếu được chọn lựa, tôi sẵn sàng lặp lại tất cả những điều ấy lần nữa. Hai đứa song sinh trở về nhà dì tụi nó ở Pacific Heights. Tôi để cho bọn trẻ hoặc hai ngày nghỉ ngơi và hồi phục sức khỏe. Rồi chúng tôi lại bắt đầu. Việc huấn luyện cần phải được hoàn tất; hai đứa cần phải được chuẩn bị sẵn sàng khi các Elder Đen tối quay lại. Bởi vì ngày đó hầu như lơ lửng lưng chừng ngay mỗi người chúng tôi.

      THỨ BA, NGÀY 5 THÁNG 6 Chương , “Chị chẳng bao giờ nghĩ mình được nhìn thấy lại nơi này,” Sophie Newman

      “Em chẳng bao giờ nghĩ khi nhìn thấy nó mình lại mừng dữ vậy,” Josh thêm. “Nó trông… Em biết nữa. Trông khang khác.” “Nó cũng vẫn y chang vậy thôi,” chị sinh đôi của cậu . “Tụi mình mới là những người thay đổi nè.” Sophie và Josh Newman thả bộ xuống đường Scott ở Pacific Heights, hướng đến nhà dì Agnes góc đường Sacramento. Năm ngày trước – thứ Năm, 31 tháng Năm – hai đứa rời chỗ làm, Sophie ở tiệm cà-phê, Josh ở tiệm sách. Đó chỉ là ngày bình thường… song đó lại là ngày bình thường cuối cùng mà hai đứa được trải nghiệm. Từ ngày đó thế giới của hai đứa thay đổi vĩnh viện; bản thân hai đứa cũng thay đổi, cả thể chất lẫn tinh thần. “Tụi mình thế nào với dì?” Josh hỏi với vẻ bồn chồn. Dì Agnes tám mươi bốn tuổi, và dù hai đứa gọi là dì, nhưng ra bà ấy có quan hệ huyết thống gì với hai chị em. Sophie nghĩ có lẽ bà là chị của bà ngoại… hoặc là họ hàng, hoặc có thể chỉ là người bạn, nhưng bé cũng chắc lắm. Bà là người rất tử tế tốt bụng nhưng hay nóng nảy, lúc nào cũng làm om sòm nhặng xị và rất lo lắng nếu cặp sinh đôi về trễ và bà sẵn sàng báo cáo lại cho ba mẹ hai đứa về từng việc mà chúng làm. “Tụi mình cứ đơn giản thôi,” Sophie . “Tụi mình dựa vào câu chuyện kể với ba mẹ ấy – trước tiên là tiệm sách đóng cửa vì Perenelle khỏe, và rồi, khi ấy bệnh viện về, nhà Flamel – ” “Nhà ,” Josh chữa lại. “Nhà mời tụi mình ở lại chơi trong căn nhà ở vùng sa mạc của họ.” “Vậy tại sao tiệm sách đóng cửa?” “Rò rỉ khí gas.” Josh gật đầu. “Rò rỉ khí gas. Mà ngôi nhà trong vùng sa mạc ở đâu?” “Joshua Tree.” “OK, em hiểu rồi.” Cậu cười toe. “Chị biết đó, tụi mình buổi tra hỏi cho coi.” “Chị biết mà. Thậm chí khi tụi mình chưa kịp chuyện với Ba Mẹ nữa kìa.” Josh gật đầu. “Em nghĩ,” cậu từ từ. “Có lẽ tụi mình nên kể .” Cặp song sinh bộ qua bên kia đường Jackson. Hai đứa có thể nhìn thấy ngôi nhà gỗ màu trắng cầu kỳ thời nữ hoàng Victoria cách đó ba khối nhà. Sophie gật đầu. “Để chị sắp xếp chuyện này lại nhé. Em muốn với ba mẹ rằngcông trình cả đời của ba mẹ chẳng là gì cả. Rằng mọi thứ ba mẹ từng học – sử học, khảo cổ học và cả sinh vật học – là sai lầm.” bé cười nhăn răng. “Ý tưởng tuyệt lắm. Cứ . Chị canh chừng cho.” Josh nhún vai với vẻ khó chịu. “Được rồi, được rồi, vậy tụi mình kể gì với ba mẹ hết.” “Ngay bây giờ chưa, bất luận thế nào.” “Nhất trí, nhưng sớm muộn gì cũng lộ ra thôi. Chị biết giữ bí mật với ba mẹ là điều thể mà.” Chiếc limousine thon dài màu đen kiểu dáng đẹp với những khung cửa sổ sẫm màu lái chầm chậm ngang qua hai đứa, người tài xế chồm người ra phía trước, kiểm tra số nhà con đường có hai hàng cây, Chiếc xe bật đèn hiệu và chạy xuống xa hơn. Josh hất cằm chỉ vào chiếc limo. “Có vẻ như chiếc xe kia muốn dừng lại bên ngoài nhà dì Agnes.” Sophie thờ ơ nhìn lên. “Chị chỉ mong sao có ai đó mà tụi mình có thể chuyện được,” . “ người nào như Gilgamesh ấy.” Nước mắt côi bé ứa ra. “Hy vọng ông ấy ổn.” Lần cuối cùng

      bé gặp người bất tử ấy, ông bị thương vì mũi tên do Thần Sừng bắn ra. bé nhìn cậu em trai, phát cáu. “Thậm chí cả em cũng chịu nghe chị .” “Chiếc xe kia dừng lại phía bên ngoài nhà dì Agnes rồi kìa,” Josh chậm rãi. Cậu chăm chú nhìn người tài xế mảnh khảnh mặc bộ vest đen trèo ra khỏi xe và bước lên mấy bậc thềm, bàn tay mang găng đen lướt thanh vịn bằng kim loại. Thính giác được Đánh thức của cặp song sinh bắt được rọ ràng tiếng gọ cửa. Bất giác, cả hai đứa đều rảo bước nhanh hơn. Dì Agnes mở cửa. Bà là phụ nữ mỏng mảnh, gầy ốm, tất cả đều góc cạnh và bằng phẳng, đầu gối u lên và các ngón tay sưng phồng vì chứng viêm khớp. Josh biết hồi thời trẻ bà được xem là người xinh đẹp tuyệt vời. Cậu cho rằng thời trẻ của bà qua rất lâu rồi. Bà lập gia đình, và người trong nhà kể lại rằng bà bị vị hôn phu bỏ quên trước bàn thờ hồi năm mười tám tuổi. “Có cái gì đó ổn,” Josh lầm bầm. Cậu bương người chạy đến, Sophie theo sát đằng sau. Cặp song sinh nhìn thấy bàn tay của người tài xế cử động và dì Agnes dõi theo. Bà chồm người tới trước, nheo mắt nhìn vào cái gì đó giống như tấm ảnh. Trong lúc người phụ nữ nhìn xuống, người tài xế lòn người vòng ra sau bà và lao vào nhà. “Đừng để chiếc xe bỏ !” Josh vừa la lên với Sophie, vừa phóng qua bên kia đường và lao lên mấy bậc thềm lao thẳng vào nhà. “Chào dì Agnes, tụi cháu về,” cậu gọi to trong lúc chạy ngang qua bà. Người phụ nữ lớn tuổi quay người đúng vòng tròn, tấm ảnh bay ra khỏi đầu ngón tay bà. Sophie phóng qua bên kia đường, gập người xuống và nhấn mấy đầu ngón tay vào lớp xe phía sau chỗ ghế hành khách. Ngón tay cái lướt qua vòng tròn phía trong cổ tay và mấy đầu ngón tay rực lên ánh sáng cực kỳ nóng. bé ấn các ngón tay vào, và với năm tiếng nổ bốp rệt, đâm thủng mấy chiếc vỏ xe cao su. Hơi kêu xì xì thoát ra và chiếc xe lún xuống xẹp lép vành kim loại. “Sophie!” người phụ nữ lớn tuổi kêu thét lên khi lao lên bậc thềm và níu lấy bà dì rối tung lên. “Chuyện gì vậy? Tụi cháu ở đâu ra? Người thanh niên tử tế kia là ai? Có phải dì vừa thấy thằng Josh đó ?” lời, Sophie kéo bà dì ra khỏi cửa phòng khi Josh hoặc tay tài xế kia lao ra và bà ngã xuống bậc thềm mất. Josh bước vào gian tiền sảnh tối thui và đứng dựa sát vào tường, chờ cho tới khi mắt cậu quen với ánh sáng. Tuần trước chắc hẳn cậu biết làm như thế, nhưng nghĩ lại, nếu là tuần trước chắc hẳn cậu cũng chạy vào nhà đuổi theo tên đột nhập thế này đâu. Hẳn cậu phải làm việc gì đó thiết thực và gọi 911. Cậu vói tay lấy cây dù đứng sau cánh cửa và nhấc ra cây gậy to của bà dì dùng để bộ. co thanh Clarent, nhưng cái này cũng được việc. Josh đứng yên, đầu nghiêng nghiêng, lắng nghe. Kẻ đột nhập đâu rồi ta? Có tiếng cọt kẹt đầu cầu thang, và rồi thanh niên mảnh mai mặc bộ vest đen giản dị, áo sơ-mi trắng, đeo cà-vạt đen hẹp bản vội vã từ tầng hai lao xuống. ta có hơi chậm lại khi chợt trông thấy Josh, nhưng vẫn cứ . ta mỉm cười, nhưng đó chỉ là phản xạ và nụ cười hề lướt ngang qua đôi môi ta. Bây giờ thanh niên ở gần hơn, Josh nhận ra ta là người châu Á; người Nhật, có lẽ vậy. Josh bước tới, cây gậy bô giơ lên trước mặt cậu như thanh kiếm. “ tưởng đâu đây?” “ ngang qua cậu hoặc là xuyên qua cậu, với tôi chẳng khác gì nhau đâu,” thanh niên thứ tiếng hoàn hảo, nhưng bằng giọng Nhật Bản.

      làm cái gì ở đây?” Josh hỏi gằn. “Tìm người.” Kẻ đột nhập bước ra khỏi nấc thang cuối cùng vào sảnh và ra cánh cửa trước. Josh lấy cây gậy chặn đường ta lại. “ nợ tôi câu trả lời.” Người thanh niên mặc bộ vest đen chụp lấy cây gậy, giật mạnh nó ra khỏi bàn tay Josh nắm chặt, và dùng đầu gối bẻ gãy cây gậy kêu tiếng tách. Josh nhăn mặt; chắc là phải đâu lắm. Người kia quăng hai khúc rời sàn. “Tôi chẳng nợ cậu cái gì cả.” ta lướt ra khỏi căn nhà và di chuyển nhanh xẹt xuống mấy bậc thềm, nhưng rồi dừng hẳn lại khi ta chợt thấy vỏ ve sau bị thủng. Sophie mỉm cười và vẫy ngón tay với ta. Cửa kính phía sau xe chậm hạ xuống chút và thanh niên người Nhật vội vã vừa vào đó, vừa quơ tay chỉ về phía lốp xe. Ngay lập tức, cánh cửa bật mở và trẻ bước ra. ta mặc bộ vest đen đặt may rất khéo bên ngoài chiếc áo sơ-mi trắng bằng lụa. mang găng tay đen, cặp kính râm tròn xíu tựa sống mụi. Nhưng chính mái tóc đỏ đập vào mắt người ta và nước da xanh xao đầy tàn nhang mới tố giác . “Scathach!” Cả Josh và Sophie đều la lên vui mừng. mỉm cười, đưa ra cái miệng với hàm răng ma cà rồng. ta kéo mắt kính xuống để lộ đôi mắt màu xanh lá nổi bật. “ phải,” gắt lên. “Tôi là Aoife Bóng tối. Và tôi muốn biết các người làm gì với em sinh đôi của tôi.”

      Chap 2

      " bao giờ nghĩ rằng muốn thấy nơi này lần nữa," Nicholas Flamel vừa vừa mở cửa sau của hiệu sách "Em cũng hơn," Perenelle đồng ý. Phần dưới của cánh cửa bị kẹt khiến Nicholas phải ép vai đẩy mạnh nó. Ngau khi cánh cửa cào loẹt xoẹt nền sàn đá, mùi hôi thối lập tức đập vào khứu giác của họ: đó là vị ngòn ngọt của gỗ mục và giấy bị mốc trộn lẫn với mùi hôi của cái răng sâu. Perenelle sau khi ho hục hặc liền lấy tay che miệng, khóe mắt bất ngờ nhấp nháy những giọt nước mắt. "Hôi quá!" Nicholas hít thở cẩn trọng. Ông vẫn còn ngửi được mùi lưu huỳnh, nghe như mùi trứng thối của Dee trong khí. Họ dọc xuống hành lang tối tăm với hàng đống các thùng sách cũ. Những thùng bìa cứng đó đều bị cột dây màu đen và phần nắp hộp bắt đầu bị sờn. số trong đó rách tả tơi, khiến những quyển sách bên trong rơi rớt sàn nhà. Perenelle lấy ngón tay sờ qua cái hộp và nhận ra ngón tay mình dính đầy nấm mốc đen. Bà đưa lên cho chồng thấy: " có gì muốn ?” "Tiến sĩ và chiến đấu," ông nhàng. "Em có thể đoán được," Perenelle với nụ cười. "Và thắng." "Uhm, chiến thắng là thuật ngữ tương đối ...." Nicholas mở cửa ở cuối hành lang và bước vào hiệu sách này. " e rằng hàng sách này buôn bán được tốt lắm." Quay trở lại nắm lấy tay vợ, ông dẫn bà vào phòng căn phòng lớn chứa đầy sách

      "Ôi, Nicholas ...," Perenelle thở sâu. Hiệu sách hoàn toàn bị phá hủy lớp mốc dày xanh đen mềm mại bao phủ tất cả mọi thứ, và mùi của lưu huỳnh đầy ắp trong khí. Sách nằm la liệt khắp mọi nơi – yển trang bị rách, có quyển bìa bị sờn, số khác gáy sách bị gãy – chúng nằm chen chúc trong những cái bàn và kệ sách giờ bị nghiền nát, vỡ vụn. mảnh trần nhà khá lớn biến mất, các tấm trần thạch cao treo lơ lửng như vải rách, làm lộ ra phần khung trần bằng gỗ và vô số dây điện, lối vào tầng hầm giờ cũng lỗ hổng, các thanh gỗ xung quanh nó bị mục nát thành đống bầy hầy màu đen hôi thối. đó, vô số những con giòi trắng bò lúc nhúc. Tấm thảm lót sàn rực rỡ bị sờn đến độ lộ ra xơ vải màu xám xấu xí. "Tiêu hủy và phân rã," Perenelle thầm, "thẻ triệu hồi của Dee." Bà cẩn thận chọn lối vào phòng. Tất cả mọi thứ bà chạm hoặc sụp đổ thành bụi, hoặc rã thành bột. Những tấm ván sàn xốp như bọt biển, và kêu kẽo cọt cách đáng ngại dưới mỗi bước , đe dọa đưa bà xuống tầng hầm bên dưới. Đến được giữa phòng, bà đặt tay lên hông rồi quay chậm lại. Đôi mắt màu xanh lá cây ngập trong nước mắt. Bà rất hiệu sách này, nó từng là nhà, là cuộc sống của vợ chồng bà trong thâp kỷ qua. Họ từng làm rất nhiều việc trong hàng thế kỷ nhưng công việc nào hơn nơi này. Nó nhắc bà nhớ về cuộc sống ban đầu của bà với Nicholas, khi ông là người cho thuê và bán sách tại Paris vào thế kỷ mười bốn. Lúc đó họ chỉ là những con người đơn giản, bình thường với cuộc sống bình lặng, chí ít là cho đến ngày định mệnh khi Nicholas mua Codex, quyển sách của Pháp sư Abraham, từ người đàn ông trùm mũ với đôi mắt xanh đáng kinh ngạc. Đó là ngày cuộc sống trần tục của họ kết thúc và họ bước vào thế giới của những điều bất thường, nơi có gì giống như vẻ bề ngoài của nó và ai đáng tin cậy Bà quay lại nhìn chồng. Ông di chuyển khỏi cánh cửa và trải mắt nhìn xung quanh hiệu sách với biểu bi thương khuôn mặt. "Nicholas", bà gọi nhàng, và khi ông nhìn lên, bà nhận ra thời gian vừa qua ảnh hưởng lớn đến ông ấy như thế nào. Trong nhiều thế kỷ, vẻ ngoài của ông thay đổi rất ít. Với mái tóc cắt tỉa cẩn thận, khuôn mặt nếp nhăn và đôi mắt xanh xao, ông luôn luôn trông chỉ ở độ tuổi năm mươi, là tuổi của ông khi họ bắt đầu pha chế trường sinh dược. Hôm nay, ông trông như bảy mươi. Phần lớn tóc ông rơi rụng, và trán ông hằn sâu những nếp nhăn; nhiều dấu chân chim sâu hoắm nơi đuôi mắt, và vô số những đốm đồi mồi bàn tay. Nhà giả kim bắt gặp ánh nhìn của bà và mỉm cười cách buồn bã. " biết. nhìn già nhưng vẫn quá tệ cho ai đó sống 677 năm. " "Bảy mươi sáu," Perenelle nhàng sửa lỗi. " cũng qua năm 77 trong ba tháng nữa" Nicholas bước về phía trước và ôm siết Perenelle vào vòng tay của mình. " nghĩ rằng đó là ngày sinh nhật muốn ăn mừng", ông rất nhàng vào tai của bà. " sử dụng luồng điện của mình của mình trong tuần rồi nhiều hơn cả trong hai thập kỷ. Và nếu có cuốn Codex ... "giọng ông lạc . Ông cần phải hết câu. Nếu có câu thần chú bất tử xuất mỗi tháng lần ở trang bảy của cuốn Codex, ông và Perenelle, cả hai bắt đầu già , và cái chết nhanh chóng bắt kịp theo những năm tháng họ tích lũy.

      Perenelle bất ngờ đẩy chồng mình ra. "Chúng ta vẫn chưa chết!", Bà cáu kỉnh, giận dữ đến độ dùng cả tiếng Pháp thời trẻ. "Chúng ta từng ở trong những tình huống tồi tệ nhưng chúng ta sống sót" Luồng điện của Perenelle bắt đầu kêu lách tách, những luồng khói lạnh giá bốc lên từ cơ thể bà Nicholas lùi bước, khoanh tay trước vòm ngực hẹp của mình. "Chúng ta luôn luôn có Codex", ông nhắc nhở bà bằng cùng ngôn ngữ "Em về bất tử bây giờ," Perenelle lên tiếng, giọng đặc trưng vùng Breton. "Chúng ta sống nhiều thế kỷ, Nicholas, thế kỷ. Em sợ chết nữa bởi vì em biết rằng khi chúng ta đ cùng nhau. Sống mà quá sức chịu đựng của em. " Nhà giả kim gật đầu, tin tưởng bản thân có thể thế. Ông thể tưởng tượng được cuộc sống mà có Perenelle. "Chúng ta cần phải làm những gì chúng ta vẫn làm", bà khẳng định, "đấu tranh cho sống còn của nhân loại." Perenelle bước đến và nắm lấy tay chồng, cắm sâu ngón tay mình vào da của ông. "Chúng ta bảo vệ Codex 600 năm qua và ngăn các Elder đen tối xâm chiếm trái đất. Chúng ta dừng lại. "Gương mặt của bà đanh lại. "Nhưng bây giờ, Nicholas, chúng ta chẳng còn gì để mất. Thay vì chạy trốn, thân nơi nào đó để bảo vệ cuốn sách, chúng ta nên tấn công, "bà quyết liệt. "Chúng ta phải chiến đấu với chống lại các Elder đen tối Nhà giả kim gật đầu cách miễn cưỡng. Những lúc như thế này, Perenelle khiến ông sợ. Mặc dù họ cưới nhau trong nhiều thế kỷ, vẫn còn có rất nhiều điều ông biết về vợ của mình, kể cả món quà đặc biệt cho phép bà ấy thấy các bóng ma ói đúng, chúng ta chẳng còn gì để mất nhàng. "Chúng ta mất quá nhiều rồi." "Lần này chúng ta có lợi thế của cặp sinh đôi," Perenelle nhắc nhở ông. " chắc rằng chúng hoàn toàn tin tưởng chúng ta", Nhà giả kim . Ông hít hơi thở sâu. "Ở London, chúng biết được ý nghĩa tồn tại của các cặp song sinh trước đây." "A,” Perenelle . "Từ Gilgamesh?" Nhà giả kim gật đầu. "Từ nhà vua. Bây giờ chắc chúng tin vào bất cứ điều gì chúng ta nữa "Vậy ," Perenelle với nụ cười tàn nhẫn. "Chúng ta với chúng . Toàn bộ , "bà thêm, đưa cái nhìn cứng rắn đến người chồng. Nicholas Flamel nhìn sâu vào ánh mắt bà trong giây lát và sau đó gật đầu rồi quay mặt ngoài ." Ông thở dài. Ông đợi cho đến khi bà rời khỏi phòng mới nhàng thêm vào "Nhưng con dao hai lưỡi, nó là điều nguy hiểm." "Em nghe rồi đấy," bà gọi

      Chap 3

      “Gọi cho bố mẹ các cháu ngay .” Dì Agnes nhìn trừng trừng vào Sophie, sau đó lại đến Josh đứng cạnh . “Họ lo đến phát ốm vì hai đứa. Cứ gọi cho dì mỗi ngày phải đến hai ba lần. Chỉ có sáng

      nay họ nếu trong hôm nay mà hai đứa vẫn chưa về, họ gọi cảnh sát và thông báo vụ mất tính.” Dì ngừng chút rồi đột ngột thêm vào: “Họ định hai đứa bị bắt cóc.” “Chúng cháu bị bắt cóc. Chúng cháu với bố mẹ cách đây vài ngày rồi mà,” Josh lẩm bẩm Cậu cố nhớ lại cách vô vọng lần gần đây nhất cậu chuyện với bố mẹ là khi nào. Là thứ sáu… hay thứ bảy nhỉ? Cậu liếc nhìn sang bên cạnh chị mình cầu cứu, nhưng vẫn rời mắt khỏi trong bộ đồ đen cực kì giống Scathach kia. Josh đành phải quay lại đối mặt với bà dì. Cậu biết nhận được e mail từ bố mẹ vào… có phải vào thứ bảy khi họ còn ở Paris? Bây giờ cậu trở về San Francisco, những ngày vừa qua dần dần mờ nhạt .Cuối cùng, để làm dịu tình hình, cậu : “Chúng cháu về đây,” Josh hôn lên hai má của người dì. “Dì khỏe ? Chúng cháu nhớ dì lắm.” “Hai đứa có thể gọi về nhà cơ mà.” Người phụ nữ nhắn cắt lời. “Lẽ ra phải gọi về nhà.”Đôi mắt màu xám tro của bà như được phóng to ra đằng sau cặp kính cận khổng lồ, cứ nhìn chằm chằm vào cặp sinh đôi. “Dì cũng lo đến phát ốm đây. Gọi điện đến hiệu sách cả chục lần để kiếm hai đứa, mà hai đứa cũng chẳng thèm trả lời điện thoại nữa. Thử hỏi có di động làm gì nếu chịu nghe máy chứ.” “Chúng cháu hầu như được tiếp ai cả,” Josh , cố gắng theo sát , “và cháu bị mất điện thoại rồi,” cậu thêm vào, điều này cũng hoàn toàn đúng. Điện thoại và hầu hết các vật dụng khác của cậu biến mất khi Dee phá hủy Yggdrasill “Cháu mất cái điện thoại xịn rồi sao?” Người dì lắc đầu cách chán chường. “Cái thứ ba năm nay rồi.” “Thứ hai,” Josh lẩm bẩm Dì Agness quay lại và chậm chạp trèo lên lầu. Bà ngoắc tay nhờ Josh giúp đỡ. “Cứ mặc kệ ta. Ta đâu phải loại người vô dụng.” Bà , rồi ghì chặt lấy tay Josh. “Giúp ta nào, chàng trai trẻ.” Khi hai người tới cửa, bà quay lại, nhìn xuống Sophie – vẫn đứng trước người phụ nữ tóc đỏ. “Sophie, cháu có ?”

      chút nữa, thưa dì.” Sophie nhìn em mình, đôi mắt dạt về phía cánh cửa mở. “Chị tới ngay, Josh. Sao em đưa dì Agnes vào trong và làm cho dì tách trà?” Josh lắc đầu, nhưng bà dì lại bám chặt lấy tay cậu với sức mạnh đáng ngạc nhiên. “Và trong khi chờ nước sôi, các cháu có thể gọi điện cho bố mẹ.” Bà lại liếc nhìn Sophie. “Đừng lâu đấy.” Sophie lắc đầu. “Khônh đâu ạ.” Ngay khi Josh và dì Agnes biến mất vào trong ngôi nhà, Sophie quay qua người phụ nữ. “ là ai?” gặng hỏi “Aoife”, người phụ nữ đáp, phát cái tên “E fa”. cúi người, đặt đôi bàn tay mang găng đen lên cái bánh xe limo bị đâm thủng, rồi ngôn ngữ mà Sophie có thể nhận ra là tiếng Nhật. Chàng thanh niên Josh gặp trước nhà cởi bỏ áo khoác, ném nó vào ghế trước, lôi thùng sửa chữa và lấy ra cái trụ chống và cái kích. Sau khi đặt cái kích ở dưới chiếc xe to lớn, ta nâng nó lên dễ dàng và bắt đầu thay lốp xe

      Aoife phủi phủi đôi tay mình, rồi khoanh tay và nghiêng nghiên đầu nhìn Sophie. “Hai người cần phải làm như vậy.” Có chút điệu tiếng nước ngoài trong giọng điệu của “Chúng em nghĩ chị bắt cóc dì Agnes.” Sophie khẽ . Cái tên Aoife làm cho hàng trăm ý nghĩ và hình ảnh ào đến trong đầu , nhưng Sophie cảm thấy khó mà phân biệt được những ký ức giữa Scathach và Aoife. “Chúng em chỉ muốn ngăn chị lại.” Aoife mỉm cười, lộ hàm răng mình. “Nếu tôi muốn bắt cóc dì của em, liệu tôi có xuất ở đây vào ban ngày thế này ?” “Em biết,” Sophie , “chị có làm thế ?” Aoife đẩy gọng kính màu đen lên để che cặp mắt màu xanh lục, và lưỡng lự chút. “Có thể có. Có thể . Nhưng,” thêm vào với môt nụ cười làm lộ ra hàm răng của ma cà rồng. “Nếu tôi muốn dì của em, tôi chắc chắn có thể làm được.” “ Chị là Aoife Bóng tối,” Sophie “ Tôi là chị em của Scathach. Chúng tôi là cặp song sinh. Tôi là chị.” Sophie lùi lại bước, ký ức của bà phù thủy cuối cùng ra. “Scathach có kể với em về gia đình chị ấy, nhưng người chị nào cả,” sẵn sàng cho người phụ nữ thấy những gì Sophie biết về ta “Hẳn nhiên là nó rồi. Chúng tôi có chút bất hòa với nhau.” “Bất hòa?” Sophie hỏi lại, dù biết trước họ tranh giành nhau vì chàng trai thậm chí còn biết tên của ta nữa “Vì chàng trai,” Aoife , giọng chỉ thoáng qua chút buồn. nhìn quanh con đường lát rồi mới trở lại với Sophie. “Chúng tôi chuyện thời gian dài. “ nhún vai, bờ vai khẽ rung lên. “ Nó từ bỏ tôi. Tôi cũng thế. Nhưng tôi vẫn luôn để mắt đến nó.” lại cười. “ Tôi chắc em cũng biết tìm kiếm người em song sinh như thế nào rồi đấy.” Sophie gật đầu. hiểu chính xác điều Aoife . Dù Josh có lớn hơn và khỏe hơn , vẫn nghĩ cậu là đứa em bé bỏng của mình “Nó là em sinh đôi của em.” “Tôi biết.” Aoife chậm rãi . Khẽ cúi đầu, nhìn Sophie từ phía cặp kính tối màu. “ Và cả hai cũng đều được đánh thức rồi,” thêm vào “Tại sao chị lại tới đây?” Sophie hỏi “Tôi cảm thấy Scathach… ra .” “Ra ?” Sophie chưa hiểu “Biến mất. Rời khỏi Vương quốc Bóng. Chúng tôi liên kết với nhau, nó và tôi, bởi mối liên kết tượng tự như mối liên kết giữa em và em trai. Tôi luôn biết được khi nào Scathach đau đớn, bị thương, đói ngấu hay lo sợ…”

      Sophie thầm tán thành. cũng cảm thấy khi nào em trai mình đau đớn: khi cậu gãy xương sườn lúc chơi đá bóng, cảm thấy đau nhói trong lòng, và khi cậu gần chết đuối ở Hawaii, thức dậy, thở hổn hển và cảm thấy cực kỳ khó chịu. Khi bị trật khớp vai hồi học taekwando, vai của em trai cũng bị sưng lên rồi chuyển sang bầm tím ở vị trí y hệt như vậy Aoife tuôn ra tràng câu hỏi bằng tiếng Nhật với tốc độ tên lửa, và chàng tài xế trả lời với từ duy nhất. Sau đó quay lại với Sophie.” Chúng ta có thể đứng đây và chuyện ngoài đường,” , mỉm cười, lấp lóa những cái răng nanh ma cà rồng, “hoặc em có thể mời tôi vào nhà và trò chuyện thoải mái chứ.” hồi chuông báo động khẽ vang trong đầu Sophie. Ma cà rồng thể băng qua ngưỡng cửa nhà nào đó trừ phi họ được mời vào, và đột nhiên muốn mời Aoife vào nhà dì mình chút nào. Có gì đó về chị ta…từ từ và cẩn trọng, Sophie để cho phần còn lại của ký ức trong đầu được dâng lên. Đột ngột – sửng sốt – biết những gì mà bà phù thủy Endor biết và Aoife bóng tối. Những hình ảnh và ký ức đáng sợ. Cặp mắt mở to đầy lo sợ, Sophie lùi bước, tránh xa sinh vậy kia, nhận ra gã tài xế ở đằng sau . Ngay lập tức, chạm vào hình xăm gọn ghẽ cổ tay mình, nhưng người đàn ông túm lấy tay , kéo nó ra sau trước khi kịp tạo mối liên kết. Aoife bước tới, cầm lấy cổ tay Sophie và vặn nó làm hình vẽ của Saint Germain ăn sâu vào thịt da. Sophie cố gắng chống cự, nhưng gã tài xế giữ chặt quá, bóp mạnh cánh tay đến nỗi có thể cảm thấy các ngón tay mình bắt đầu tê dần. “Bỏ tôi ra! Josh – ”. “Cặp song sinh các người vô dụng.”Aoife kéo bên găng tay ra và cầm lấy bàn tay bằng những ngón tay lạnh ngắt của mình. Làn da của ma cà rồng có màu khói xám nhạt bẩn thỉu. ả cọ xát ngón tay cái của mình lên hình trang trí giống Celtic ở cổ tay Sophie. Rồi dừng lại ở vòng tròn màu vàng với điểm màu đỏ ở giữa. “Ồ, dấu hiệu của gạc nai. Dấu hiệu của Lửa.” Aoife khẽ . “Vậy cố gắng thiêu cháy tôi sao?” “Bỏ tôi ra!” Sophie cố gắng đá vào gã tài xế, nhưng ngày giữ chặt tay và đột nhiên thấy sợ hãi. Thậm chí bà phù thủy Endor cũng phải thận trọng với Aoife bóng tối. ả vặn cổ tay của Sophie và gập về phía trước để kiểm tra hình xăm “ Đây là tác phẩm của chuyên gia. Ai cho …món quà này?” Môi ả cong lên đầy ghê tởm Sophie gắng cắn chặt môi. gì với người phụ nữ này Cặp kính của Aoife trượt xuống sống mũi, để lộ cặp mắt giống như thủy tinh màu xanh lục. “Maui … Prometheus … Xolotl … Pele … Agni …” Aoife lắc đầu. “, đều phải. Chúng ta vừa trở về từ Paris, vậy phải là người từ thành phố đó…” Giọng ả lạc . ta nhìn qua vai Sophie, về phía người tài xế áo đen. “Có chuyên gia về Lửa nào ở thủ đô của Pháp ?” “Kẻ thù cũ của , bá tước, sống ở đó,” người đàn ông khẽ bằng tiếng “Saint Germain,” Aoife ngắt lời ta nhìn đôi mắt mở to của Sophie và cười hoang dại. “Saint Germain tên dối trá. Saint Germain tên trộm cắp. Lẽ ra ta phải giết khi có cơ hội.” ta nhìn gã tài xế. “Mang nó . Chúng ta tiếp tục cuộc trò chuyện ở nơi kín đáo hơn.” Sophie mở miệng kêu cứu, nhưng Aoife ấn ngón trỏ vào sống mũi . Dòng điện màu xám rỉ ra từ ngón tay của ả, khói cuộn quanh đầu , chui tọt vào hai lỗ mũi và miệng

      Sophie cố gắng kích hoạt dòng điện của mình. Dòng điện khẽ kêu lách tách trong vài nhịp, rồi Sophie ngã xuống bất tỉnh

      Chap 4

      Dì Agnes bấm số rồi đưa điện thoại cho Josh. “ chuyện với bố mẹ cháu, ngay bây giờ.” Bà ra lệnh. “Sophie đâu rồi nhỉ? Nó chuyện với ai ở ngoài vậy?”

      “Chị người quen của tụi cháu.” Josh , áp điện thoại sát mặt mình. Chuông chỉ reo lần trước khi có người nhấc máy

      “Dì Agnes đó à?”

      “Bố ơi! Con Josh đây.”

      “Josh!”

      Cậu bé thấy mình mỉm cười – giọng bố cậu nhõm thấy – và rồi cậu cảm thấy lúng túng dâng lên trong lòng, cảm giác tội lỗi vì liên lạc với bố mẹ mình sớm hơn

      “Mọi chuyện ổn cả chứ?” giọng ông Richard Newman gần như lạc vì niềm vui vỡ òa

      Josh bịt tai lại và tập trung vào cuộc gọi. “Mọi chuyện ổn cả, bố ạ. Tụi con khỏe. Tụi con vừa từ San Francisco về.”

      “Mẹ và bố bắt đầu lo lắng về các con. Thực lo lắng.”

      “Chúng con ở với Fla Flemings,” Josh sửa ngay. “ được gọi điện thoại khi làm việc.”,cậu thành thực thêm, “dù chúng con cố gắng nhận email của bố tối chủ nhật. Con thấy tấm hình răng cá mập rồi. Hơi khó nhận biết, nhưng từ kích cỡ, con đoán phải là loại cá mập nước ngọt?” cậu hỏi nhanh, cố tình đổi chủ đề

      “Đúng lắm, con trai. con Lissodus từ kỷ Upper Cretaceous. Vẫn còn trong tình trạng rất tốt

      “Bố mẹ khỏe ạ?” Josh tiếp tục, cố giữ bố cậu chuyện. Cậu liếc nhìn cánh cửa, mong chị mình mau mau vào nhà. Cậu có thể làm bố xao nhãng với vài câu hỏi, nhưng trò này hiệu quả với mẹ cậu chút nào, mà chắc bà cũng chỉ ở đâu đó cạnh bố cậu và giật điện thoại từ tay ông bất kỳ lúc nào. “Còn chuyến khai quật sao bố?”

      “Tuyệt vời.” Có tiếng gió hú từ đầu dây bên kia, bụi và cát va đập lên chiếc điện thoại. “Bố mẹ tìm thấy thứ có vẻ như là con ceratopsid.”

      Josh cau mày. Cái tên này quen quá. Khi còn , cậu từng thuộc tên hàng trăm loài khủng long “Khủng long ăn thịt sừng ạ?” cậu hỏi “Ừ, thuộc kỷ Phấn trắng, khoảng 75 triệu năm tuổi. Chúng ta cũng tìm thấy phần của loài Ansazi vẫn còn nguyên vẹn trong hẻm núi, vài mẫu khắc đá văn hóa Fremont tại hẻm núi Range Creek.”

      Cười thầm trước nhiệt tình của bố mình, Josh về phía cửa sổ. “Tộc người nào được gọi là Giống loài Cổ xưa ở Navajo thế bố?” (The Ancestor Ones) cậu hỏi, dù biết trước cả câu trả lời. “Fremont hay Anasazi?” Cậu muốn giữ bố chuyện lâu hơn, cho Sophie có chút ít thời gian nữa

      “Anasazi,” Richard Newman . “Mà ra , phải dịch đúng là ‘Tổ tiên kẻ thù’ cơ”

      Những từ này làm Josh chết sững người. Vài ngày trước đây, cái tên ấy chẳng hề có nghĩa gì với cậu, nhưng đó là trước khi cậu biết đến tồn tại của các Elder, giống loài thống trị thế giới ở quá khứ xa xôi. Cậu nhận thấy rằng luôn có nhúm trong tất cả các huyền thoại và truyền thuyết. “Tổ tiên kẻ thù,” Josh lặp lại, cố gắng giữ cho giọng bình tĩnh.”Nghĩa là gì ạ?”

      “Bố biết,” Richard Newman , “Nhưng bố vẫn thích cái tên Ancestor hay Ancestral Pueblo hay Hisatsinom hơn.”

      “Đúng là cái tên lạ lùng.” Josh vẫn khăng khăng. “Bố có nghĩ ra ai sử dụng nó ? Họ chắc tự gọi mình như vậy đâu.”

      “Có thể từ tộc người khác. Bọn người lạ, người ngoài.”

      “Ai xuất trước họ, bố?” Josh hỏi nhanh. “Ai xuất trước Anasazi và Fremont?”

      “Bố nữa,” Richard thừa nhận. “Đó là thời Cổ xưa con à. Sao bỗng dưng con lại hứng thú đến châu Mỹ cổ đại thế. Bố tưởng con đâu có thích thú môn khảo cổ.”

      “Con nghĩ con cũng bắt đầu thấy hứng thú với lịch sử và thế giới cổ đại rồi,” Josh thành thực . Cậu lại nhìn về phía cửa sổ… vừa đúng lúc thấy chị của Scatty ấn đầu Sophie xuống và chị cậu bị cánh tay của gã tài xế áo đen khóa chặt. Josh sợ hãi quan sát khi ả ma cà rồng nhìn thấy cậu và nhe mấy cái răng nanh ra như thể cười vậy. Ả đột ngột mở cửa sau của xe và giữ nó cho gã tài xế nhấn Sophie vào hàng ghế sau. Đứng ở cửa trước, Aoife vẫy tay khiêu khích chào Josh

      Josh thấy như thể bị đấm thậm mạnh vào bụng. Cậu thở được, tim cậu dậm thình thịch. “Bố – con gọi lại sa…”, cậu thầm. Đánh rơi điện thoại xuống sàn, Josh ào ra cửa và xuống tiền sảnh. Vớ lấy cây gậy đường gã tài xế làm gãy mở cửa rồi sém té ở bậc thềm. Cậu nghĩ chiếc xe chạy mất, nhưng Aoife vẫn kiên nhẫn chờ đợi. “Trả chị tôi đây!” cậu gào lên

      ,” Aoife nhàng

      Josh chạy về phía chiếc xe, cố gắng nhớ mọi thứ Joan of Arc chỉ mình về kiếm thuật. Cậu ước gì có thanh Clarent cạnh bên. Thậm chí Scatty –nổi tiếng chẳng sợ gì đời – cũng phải e sợ trước thanh kiếm. Nhưng tạy cậu chỉ có hai mẩu gãy của cây gậy đường

      nghiêng đầu, nhìn cậu bé chạy về phía mình và mỉm cười

      Khi Josh băng qua đường, nỗi khiếp sợ làm cho luồn điện của cậu tỏa ra ánh sáng và bao lấy toàn cơ thể. Cậu nhìn thấy chị mình bất tỉnh ở hàng ghế sau của chiếc xe, và nỗi sợ của cậu biến thành cơn giận dữ mãnh liệt. Đột nhiên, luồn điện lóe lên, làn khói vàng phủ lên da của Josh, còn mắt cậu lại hóa thành hai đồng xu nóng chảy. Luồng điện đặc dần quanh tay Josh, tạo thành đôi găng tay

      kim loại, rồi nó chảy xuống hai cây gỗ, biến chúng thành hai cây vàng . Cậu cố , nhưng cổ họng như bị thắt lại, và giọng của cậu trầm đục hơn, nghe giống tiếng của loài thú hơn con người. “ ả – chị – –đây”. Nụ cười kiêu ngạo của Aoife nhạt dần. ả gào lên từ tiếng Nhật gì đó, ném người vào chiếc limousine và đóng sầm cánh cửa sau lưng. Động cơ lập tức rống lên, bánh xe sau miết vào mặt đường đến mức bốc khói con phố “!” Josh chỉ vừa chạm được chiếc xe khi nó bắt đầu lao . Phóng về phía trước với cây gậy vàng, cậu đập vào cái cửa sổ gần mình nhất, kính vỡ vụn ra thành lớp bột trắng, cây gậy để lại vết thủng khá dài lên lớp kim loại màu đen sáng loáng. Lại cú đánh khác vào chiếc xe, cái đèn sau bị nứt. Chiếc xe vẫn tiếp tục gầm rú con đường. Trong cơn tuyệt vọng, Josh ném hai cây gậy vàng về phía chiếc xe, nhưng ngay lúc cậu vừa rời tay khỏi chúng, hai cây gậy trở lại là gỗ trơn và đập vào chiếc xe mà chẳng gây hư hại gì nữa cả Josh vẫn tiếp tục đuổi theo. Cậu có thể thấy luồng điện trào lên trong cơ thể, cho cậu tốc độ và sức mạnh để bước đường. Cậu hiểu mình di chuyển nhanh hơn bao giờ hết, nhưng chiếc limo còn nhanh hơn cậu. Nó băng ngang ngã tư, quay vòng ở qóc đường trong tiếc gào thét phản đối kịch liệt của mấy cái bánh xe rồi biến mất. Và đột ngột sức mạnh của Josh còn nữa, cũng nhanh như khi nó xuất . Cậu đổ gục xuống hai tay và đầu gối ở cuối phố Scott mà thở hổn hển, tim cậu đập mạnh như tiếng sấm, tất cả các cơ bắp người cậu đều căng ra và như bốc cháy. Những hình tròn đen nhảy múa trước mắt Josh. Cậu nghĩ mình sắp nôn ra mất. Josh nhìn ánh sáng vàng nhạt dần tay mình, dòng điện lặn vào cơ thể cậu trông giống như đám hơi nước màu vàng, chúng khiến cho cậu đau đớn và kiệt sức. Josh run lên, bất ngờ bị chuột rút ở phần bắp chân dưới đầu gối. Đau đớn vô cùng, cậu nhanh chóng lăn qua lại, dùng gót chân bám chặt lên mặt đường, gắng làm dịu cơn đau. Gượng đứng dậy, Josh muốn bệnh và thấy mình khốn đốn vô cùng đường trở về nhà bà dì. Sophie mất tích. Bị Aoife bắt cóc. Cậu phải tìm người chị sinh đôi của mình

      Nhưng như thế đồng nghĩa với việc phải gặp lại Nicholas và Penerelle Flamel.

      Chap 5

      Vương quốc Bóng Tối này từng được gọi là Xibalba. Dù là trong hằng hà sa số các vương quốc bóng tối cổ xưa, Xibalba được cho là còn cổ xưa hơn nữa, tuy nhiên nó lại rất thô sơ đơn giản nếu so với các vương quốc xinh đẹp và phức tạp khác. Xibalba là hang động đơn lẻ, rộng lớn bất thường và cao tới mức thể tưởng tượng nổi, với những vệt lốm đốm xuất ở các hố bong bóng chứa cặn đen do dung nham tạo ra. Thỉnh thoảng, vài bong bóng vỡ phun thứ đá lỏng vào khí, tạo thành những điệu nhảy màu đỏ đen ma quái vách hang. Ở đây, khí nồng lên mùi lưu huỳnh, chỉ có chút ánh sáng do loại nấm màu vàng-trắng bám chặt vào vách hang mang đến, ngoài ra còn rất nhiều nhũ đá khổng lồ treo từ trần hang rất xa và khó lòng mà thấy được. Mỗi vương quốc Bóng Tối đều có ít nhất cánh cổng dẫn tới vương quốc khác. Vài vương quốc có thể dẫn tới hai nơi. Xibalba là trường hợp độc nhất: nó dẫn tới chín vương quốc Bóng Tối khác, do vậy đôi lúc nó còn được gọi là Đường giao

      nhau. Cánh cổng dẫn tới chín vương quốc này được đặt cách đều vách hang. Chúng được chạm khắc khá đơn giản, sơ sài. Và dù cho loại nấm phát sáng kia bao phủ hầu hết vách hang, chúng thể đến gần các dấu hiệu này. Vì đây chính là cánh cổng dẫn tới các vương quốc Bóng Tối. Thường chẳng có gì đến Xibalba ngoại trừ lớp dung nham bong bóng. Nhưng bây giờ, chuỗi những tin nhắn được viết nguệch ngoạc dịch chuyển từ cánh cổng này tới cánh cổng khác. số được làm bằng da trông tựa như những con dơi, số khác được làm từ lông lại trông giống chuột, nhưng trong số chúng chẳng cái nào có sức sống cả. Chúng được tạo ra chỉ với mục đích duy nhất: Lan truyền những tin nhắn từ Vương quốc bóng tối của các Elder đen tối đến các thế giới được kết nối. khi nhiệm vụ truyền tin hoàn tất, chúng chảy ra, trở lại thành bùn, tóc và những mẩu da. Cáctin nhắn lan truyền thông tin về án tử hình dành cho Tiến sĩ John Dee. Và ai trong số những người nhận tin – các Elder, Thế Hệ Kế Tiếp hay con người – ngạc nhiên cả. Chỉ có cái giá phải trả cho thất bại, và tiến sĩ John Dee thua cuộc cách ngoạn mục.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chap 6

      “Có lần còn tệ hơn thế này.” Tiến sĩ John Dee , dù rằng ông chẳng nhớ đó là lúc nào. Sau thảm họa tại Stonehenge và cặp sinh đôi biến mất, vị Pháp sư trải qua nốt đêm và rạng sáng ngày hôm sau trong cái kho bị phá nát, nơi trước đó chỉ vài giờ đồng hồ, Flamel và cặp sinh đôi nấp. Có tiếng mấy cái máy bay trực thăng rền rĩ phía , và cảnh sát, và còi báo động cũng làm náo động cả khu A344 gần đó. Khi công việc của cảnh sát hoàn tất vào đầu giờ chiều, Dee rời nhà kho và bắt đầu bộ về phía London. Phía dưới áo khoác của ông, được bọc trong mớ vải rách là thanh kiếm đá, từng có lúc là hai thanh kiếm là Clarent và Excalibur. Nó va mạnh vào da thịt ông giống như trái tim đập vậy. Chẳng hề có xe cộ qua lại con đường quê hẹp này. Vừa lúc ông bắt đầu nghĩ đến việc cướp cái xe ở thành phố hay ngôi làng kế tiếp, vị cha xứ lớn tuổi chiếc xe Morris Minor khá cổ ngừng lại và cho ông quá giang. “Ông may mắn gặp được tôi đấy,” cha xứ bằng giọng Welsh rè rè. “Chẳng mấy người dùng con đường này nữa, khi có xa lộ ở gần đây.” “Xe của tôi bị hư, và tôi phải trở về London để tham dự cuộc họp,” Dee . “Tôi bị lạc,” ông thêm vào, cố tình đổi giọng của ông cho giống với người kế bên. “Tôi có thể đưa ông . Rất vui vì có bạn đồng hành.” Cha xứ thừa nhận. “ Tôi vẫn nghe radio – chỉ toàn về đe dọa an ninh làm tôi bất an.” “Chuyện gì vậy?” Dee hỏi, cố giữ cho giọng mình tự nhiên. “Tôi nghĩ có khá nhiều chuyện với bên cảnh sát.” “Nửa ngày rồi ông ở đâu vậy?” Cha xứ hỏi với nụ cười làm dịch chuyển mấy cái răng giả của ông.

      “Tôi bận lắm,” Dee . “Gặp gỡ vài người bạn cũ; chúng tôi có rất nhiều chuyện để làm.” “Vậy ông lỡ cuộc vui rồi…” Dee cố biểu thị cảm xúc gì cả. “Bên an ninh đóng cửa toàn thành phố hồi hôm qua. BBC đưa tin bọn khủng bố từng hoạt động ở Paris nay đến London.” Nắm chắc tay lái. Ông liếc nhìn vị khách của mình. “Mà ông có biết chuyện ở Paris đấy?” “Tôi có đọc rồi.” vị Pháp sư lẩm bẩm, biết là mình lắc đầu. Machiavelli kiểm soát cả Paris – làm sao hắt có thể để Flamel và cặp sinh đôi trốn thoát được chứ? “Bây giờ lắm chuyện nguy hiểm.” “ vậy,” Dee đáp. “Nhưng ông cũng chả muốn tin vào mọi thứ cánh nhà báo đâu,” ông thêm. Nhiều trạm kiểm soát được dựng lên tất cả các con đường chính dẫn vào thủ đo, nhưng cảnh sát hiếm khi nào để mắt đến cái xe cổ lỗ chở hai người đàn ông này. Cha xứ thả Dee ở Mayfair, trung tâm thành phố, và tiến sĩ bộ về phía ga Grenn Park. Ông bắt chuyến tàu về Jubilee Line, thẳng đến Canary Wharf, trụ sở tại của công ty Enoch. Tiến sĩ tham gia vào canh bạc khó. Chủ nhân Elder của ông có thể kiểm soát tòa nhà, nhưng Dee hy vọng mọi người đều nghĩ ông cao chạy xa bay và ngu ngốc tới độ quay trở về trụ sở của mình. Bí mật vào bằng gara ở tầng ngầm, ông thẳng lên văn phòng ở đỉnh tòa nhà, tắm táp trong nhà tắm sang trọng của mình, gột rửa mọi bụi bẩn và rác rưởi của vài giờ qua. Nước nóng làm dịu cơn đau ở vai phải,, vốn làm ông phải chuyển động cẩn thận. Josh ném lại thanh Clarent trong trận chiến ở nhà kho, dù Dee xoay sở biến luồng điện thành cái khiên che chắn mình khỏi thanh gươm đó, sức mạnh của cú ném vẫn làm ông ngã xuống. Ông nghĩ mình bị trật vai; chỉ đến khi ông nhận ra vai mình sưng tấy lên chứ chưa bị gãy, điều làm ông cảm thấy may mắn. ra vai có gãy cũng hề gì – ông có thể dùng ít luồng điện để chữa lành ngay lập tức, nhưng nó thu thu hút các Elder đen tối và bọn tay sai của họ. Pháy sư thay bộ đồ mới, chiếc áo khoác màu xanh thẫm, chiếc áo sơ mi cũng màu xanh tối với cà vạt họa tiết hình hoa huệ tây vàng của trường St. John, Cambridge. Trong khi chờ ấm nước trong căn phòng bếp bé tí đun sôi nước để pha trà, Dee lôi hết những đồng bảng , euro và dolla từ két sắt vào cái thắt lưng đựng tiền ông đeo quanh mình, dưới lớp áo. Có hàng tá các loại hộ chiếu dưới nhiều cái tên ở đằng sau cái két sắt. Dee nhồi chúng hết vào các túi áo khoác. Ông thu thập hộ chiếu trong nhiều năm và bỏ chúng bây giờ. Ấm nước sôi, pháp sư làm cho mình cốc Earl Gray. Nhấm nháp hương thơm của trà, cuối cùng ông để mắt tới cái bọc rách nát đặt bàn. nụ

      cười nở môi ông. Ông có thể thua trận, nhưng ông chắc chắn là người giành được phần thưởng tuyệt vời nhất. Clarent và Excalibur. Cùng nhau. Hôm qua, ông nâng chúng tay và nhìn hai thanh kiếm hợp lại thành cây kiếm đá duy nhất. Thậm chí từ phía bên kia căn phòng, Dee có thể cảm thấy được sức mạnh từ cái vật kia phát ra thành những làn sóng dài và chậm. Nếu ông giảm bớt vòng bảo vệ, ông còn nghe được những lời gợi ý từ những suy nghĩ thầm bằng vô số các loại ngôn ngữ mà ông chỉ biết mặt được vài mà thôi. Đột nhiên ông nhận ra – gần như cùng lúc với kinh ngạc – rằng cuối cùng, sau cả cuộc đời tìm kiếm, cuối cùng ông tìm thấy bốn Thanh kiếm sức mạnh cổ đại. Hai cái – Durendal và Joyeuse – được cất giấu tại nhà riêng của ông ở San Francisco, và hai cái còn lại diện chiếc bàn trước mặt ông… hay bây giờ thành ? Và chuyện gì xảy ra, ông tự hỏi, nếu ông đưa thanh kiếm này hội ngộ hai thanh kiếm đá kia? Và tại sao chúng chưa bao giờ kết hợp lại cơ chứ? Chúng ở cạnh nhau hàng thế kỷ nay rồi. Tiến sĩ dành thời gian để dùng nốt trà, bình tâm lại và dựng các loại rào chắn bảo vệ trong căn phòng trước khi ông tiếp cận cái bọc và mở nó ra. số pháp sư dùng kết hợp của ngôn từ – bùa chú và phép thuật – để bảo vệ luồng suy nghĩ của họ, nhưng Dee sử dụng loại cổ nhất trong các tiếng động ma thuật: nhạc. Nhìn chằm chằm vào chiếc bàn, ông bắt đầu ngâm nga bài “Greensleeves,” bài hát ưa thích của nữ hoàng Elizabeth đệ nhất. Nữ hoàng tin rằng cha của bà, vua Henry VIII viết bài hát này cho mẹ bà, Anne Boleyn. Nhưng Dee biết phải thế, mặc dù ông chưa bao giờ có gan với bà. Dù sao nữa, điệu đơn giản và nhạc điệu cổ xưa của bài hát tạo nên loại bùa chú bảo vệ hoàn hảo. Vừa lẩm nhẩm từng chữ , ông vừa tiến lại chiếc bàn. “Alas, my love, ye do me wrong to cast me off discourteously …” Những ngón tay của ông run rẩy khi ông cẩn thận bóc lớp vải xám bẩn thỉu từ cái nhà kho bị phá hủy, làm lộ ra cái vật mà nó che dấu. “And I have loved you so long, delighting in your companie …” Nằm chiếc bàn cẩm thạch đen bóng là trong những vật cổ xưa nhất hành tinh. Nó giống như bất kỳ thanh kiếm bằng đá nào, nhưng phải, nó có rất rất rất nhiều điều hơn thế. Người ta rằng cặp vũ khí song sinh này còn xuất trước cả các Elder và thậtm chí các Archons, thuộc về Thời Trước Thời Gian bí . Nổi tiếng hơn, vua Arthus từng mang thanh Excalibur, và Mordred, con trai ông, giết ông bằng thanh Clarent, nhưng Nhà vua và Kẻ hèn nhát chỉ là hai trong số hàng thế hệ các hùng và bạn thủ ác từng nắm giữ những thanh kiếm này, trong các kiện lịch sử, diễn ra độc lập hoặc liên quan tới nhau trong lịch sử trái đất. “Greensleeves was all my joy, Greensleeves was my delight, Greensleeves was my heart of gold …”

      thể tin được cuối cùng ông tìm thấy đối thủ của thanh Excalibur. Nửa thế kỷ trước, khi vua Henry VIII trị vì nước , Dee bắt đầu truy tìm thanh Kiếm Lửa huyền thoại. “I have been readie at your hand, to grant what ever you would crave …” Hít hơi sâu, tiến sĩ nhấc thanh kiếm lên. Dù chỉ nhỉnh hơn 20 inch tý, thanh kiếm khá là nặng. Lưỡi và cán kiếm tương đối trơn láng trông giống như thể được chạm ra từ khối đá granite óng ánh. Giây phút những ngón tay chạm vào lớp đá ấm áp, sức mạnh từ thanh kiếm quét lên người ông. Tiếng của giận dữ. Tiếng la của nỗi khiếp sợ. Tiếng khóc của những đau thương. Dee chợt rùng mình khi những thanh dội lên trong đầu ông, đe dọa lấn át cả tâm trí ông. Giọng hát của ông yếu dần. “I … I have waged life and … and land, your love and …and good will for to have …” Thanh kiếm mạnh mẽ, quá mạnh mẽ, được phủ trong hàng loạt những truyền thuyết và bí . Hôm qua, khi Gilgamesh nhìn thấy thanh kiếm, lão đưa ra những lời tiên đoán cổ xưa – Hai mà là , là tất cả – để miêu tả nó. Dee luôn nghĩ rằng lời tiên đoán ấy về cặp song sinh nhưng giờ ông dám chắc nữa. “Greensleeves, now farewell adieu …” ra , ông chẳng còn dám chắc về bất kì điều gì nữa. Trong vài ngày qua, cả cuộc đời ông, cả thế giới của ông, thay đổi. Và tất cả đều do Flamel và cặp song sinh mà ra. Chúng biến ông thành kẻ ngốc và đưa ông vào vòng nguy hiểm. Những ngón tay ngắn ngủ của Dee vuốt dọc theo chiều dài của lớp đá ấm áp. Những bí mật được thầm … Những lời hứa mơ hồ… Lời gợi ý của những kiến thức cổ xưa, những truyền thuuyết bí … Dee giật tay ra và những giọng cũng xa dần trong tiềm thức ông. Đôi môi mỏng dính của ông lại nở nụ cười độc ác; thanh kiếm này có thể là cứu rỗi cho mình. Các Elder đen tối trả cái giá hời cho loại vũ khí này. Ông tự hỏi có khi nào nó còn đáng giá hơn cuộc sống bất tử của ông. Điện thoại tiến sĩ đột nhiên reo lên và rung bần bật trong túi áo, làm cho ông giật mình. Tránh xa thanh kiếm nằm bàn, ông lấy điện thoại ra và nhìn vào màn hình bị mờ những dấu vân tay. Ông nghĩ nhìn thấy số điện thoại dài vô tận của chủ nhân Elder, nhưng nó lại ra dòng chữ Hạn chế. Mất lúc, ông định trả lời, nhưng rồi tính tò mò – luôn là điểm mạnh nhất và yếu nhất của ông – chiến thắng và ông nhấn nút Trả lời. “Nhận ra giọng tôi chứ?” Tiến sĩ John Dee chớp mắt kinh ngạc.

      Giọng ở đầu dây bên kia là của Niccolò Machiavelli, người đến San Francisco. “Có”, ông trả lời thận trọng”

      “Đây vốn là đường dây mật, nhưng ông biết khẩu hiệu của tôi rồi đấy… tin ai cả.” “Khẩu hiệu hay đấy.” Dee lẩm nhẩm. “Tôi thấy ông vẫn chưa chết.” “Chắc vậy.” Tiến sĩ nhanh chóng bước tới màn hình bảo vệ và mở lên, bật nhanh qua tất cả các kênh. Ông nghi đây là cái bẫy: Có thể Machiavelli chuyện với ông, làm ông xao nhãng, trong khi tòa nhà này bị bao vây. Nhưng toàn bộ các văn phòng và hành lanh đều trống còn chỗ gửi xe chẳng có bóng nào. “Sao ông lại gọi cho tôi?” Ông hỏi. “Để cảnh báo ông.” “Cảnh báo tôi!” Dù trải qua hàng nghìn thế kỷ, ông vẫn thể giấu được kinh ngạc trong giọng mình. “Vài phút trước đây, các tin nhắn qua Xibalba và đến các vương quốc Bóng tối. Ông biết thế nghĩa là gì ?” Bất giác, Dee gật đầu. “Xibalba?” Ông hỏi. Ở bên kia của trái đất, giọng của Machiavelli gấp gáp hơn. “Phải, Đường giao nhau, Chốn Hoảng sợ. Là trong những Vương quốc Bóng tối cổ xưa.” “Tôi biết rồi,” Dee đáp cộc lốc. “Nữ thần quạ Morrigan từng đưa tôi đến đó trong lần bầu Giáo Hoàng gần nhất. (??? The Great Conclave.) “Ông ở đó?” Machiavelli thốt lên kinh ngạc. “Phải.” Xibalba là vùng đất nơi các Elder và Elder Đen tối từ khắp các vương quốc bóng tối gặp gỡ nhau. Dee là trong số rất ít con người đếm được đầu ngón tay từng có mặt tại đó. Ông thậm chí còn chọn mùi vị đặc trưng của luồng điện mình cho phù hợp với mùi Sunphuaric khó chịu của nơi này. Nếu các Elder đen tối gửi tin nhắn qua Xibalba, nghĩa là họ muốn tất cả các vương quốc Bóng tối, dù xa xôi nhất cũng nhận được mệnh lệnh của họ. “Tôi được phán xét?” Pháp sư hỏi. Từ cái kết thảm bại, chắc chắn mức án tử hình giáng xuống ông và các chủ nhân Elder đen tối của ông cũng tìm được ông dù ông ở vương quốc Bóng tối nào. Ông bị mắc kẹt trái đất. Quay gót khỏi màn hình, Dee liếc nhìn ảnh phản chiếu của mình trong gương: ông thấy mình chẳng khác gì cái xác chết. “Phát xét và quyết định có tội.” Dee gật đầu, gì cả. Ông phục vụ chủ nhân Elder của mình cả đời, và giờ đây họ quy tội chết cho ông. “Ông còn nghe tôi đấy?” Machiavelli gắt. “Tôi vẫn nghe đây,” Dee đáp nhàng. cơn mệt mỏi dâng lên, ông phải dựa mình vào tường. Đầu dây từ bên Mỹ nổ lốp bốp: “Tất cả thế hệ những người bất tử kế tiếp ông gọi đến London để săn tìm Nicholas Flamel và cặp song sinh giờ chuyển mục tiêu sang ông… đặc biệt khi phần thưởng cho họ nếu tìm thấy ông được gấp đôi mức của Nhà giả kim.” “Tôi chắc mình có nên thấy sợ nữa.” “Có khác biệt.” Đường dây lốp bốp lần nữa và giọng của Machiavelli nghe lúc được lúc mất. “ Chủ nhân của chúng ta chấp nhận Flamel sống hoặc chết, nhưng họ muốn ông còn sống. Họ rất về điều này: Bất kỳ ai giết ông chịu số phận thê thảm.”

      Dee rùng mình. Ông biết chủ nhân muốn ông còn sống để họ có thể lấy bất tử của ông, chứng kiến tận mắt lão hóa của ông, và rồi lại làm ông bất tử. Ông phải chịu lời nguyền mãi mãi là con người rất rất già lão. “Sao ông biết điều này?” Ông hỏi. Giọng Machiavelli dần, ông thầm, “Tay cộng người Mỹ của tôi liên lạc được với chủ nhân của .” “Và tại sao ông lại với tôi?” “Bởi vì, giống như ông. Tôi cũng thất bại nhiệm vụ của mình.” Machiavelli gấp gáp. “Perenelle trốn thoát khỏi đảo. ra, chính tôi bị mắc kẹt ở Alcatraz.” Dee thể kìm nén nụ cười thỏa thuê, nhưng ông cố gắng giữ cho bật thành tiếng. “Có lẽ đến lúc ông và tôi cần tương trợ nhau, tiến sĩ.” Machiavelli tiếp tục. “Kẻ thù của kẻ thù chính là bạn ta.” Dee đáp, dùng câu từ xưa. “Chính xác. Tiến sĩ, đến lúc ông phải chạy , phải trốn. Chủ nhân ông cho tuyên ông là utlaga.” Đường dây đột nhiên bị cắt. Dee chậm rãi bỏ điện thoại vào túi áo và nhìn vào gương lần cuối. Ông là utlaga, tên bị truy nã, kẻ sống ngoài vòng pháp luật. Rồi ông cười lớn: sinh vật cuối cùng các Elder tuyên bố là utlaga chính là Elder Mars Ultor.

      Chap 7

      Khi Josh lê bước vào nhà, dì Agnes đứng ở cửa vào, khuôn mặt thó của bà cau có hết cỡ và đôi môi mỏng biến mất hoàn toàn: “Cháu ném điện thoại sàn rồi xông ra khỏi nhà,” bà trở nên cáu bẳn sau mỗi bước . “Dì muốn lời giải thích, chàng trai trẻ.” “Cháu có. Sophie …” Cậu ngập ngừng. “Sophie gọi cho cháu.” “ nhất thiết phải ném điện thoại sàn chứ.” “Xin lỗi dì.” Josh thở dài, quyết định bất kì điều gì nữa. Cậu lo lắng cho chị mình; nghe bà dì cằn nhằn là điều cuối cùng cậu lựa chọn phải làm lúc này. “ Gọi điện tốn tiền lắm…” Josh ngắt lời. “ Cháu gọi điện cho bố ngay.” “Bố cháu rồi. Đường truyền dở tệ – rồi còn rất nhiều chuyện tồi hơn nữa xảy ra khi cháu bỏ điện thoại lại,” bà thêm. “Nó gọi lại sau. Mẹ cháu là cả hai đứa được rời khỏi nhà cho đến khi mẹ cháu chuyện với cả hai. Phải là mẹ cháu hề vui tí nàovới cả hai đứa đâu nhé,” dì Agnes báo trước. “Chắc chắn rồi,” Josh lẩm bẩm. Cậu băng qua hành lang, tìm đến chỗ cầu thang. “Mà chị cháu đâu rồi nhỉ?” Dì Agnes hỏi. “Cháu biết.” Josh trả lời thành thực. Người phụ nữ già khoanh tay, liếc mắt nhìn Josh. “Ý cháu là nó bỏ thèm chào tạm biệt ta hay sao?” “Chắc có chuyện gì đó quan trọng.” Josh , ráng mở miệng cười dù trong lòng cậu héo queo. “Ta chẳng hiểu nổi chuyện gì với hai đứa nữa.” Dì Agness càu nhàu. “Biến mất đến vài ngày…thậm chí chẳng buồn gọi điện…Bọn trẻ ngày nay chẳng có chút lễ độ…”

      Josh bắt đầu trèo lên lầu. “Cháu đâu vậy?” “Về phòng cháu,” Josh . Cậu biết mình cần tránh xa bà dì này trước khi cậu kịp làm chuyện gì đó đáng tiếc xảy ra. “Cứ ở đó , cậu trẻ. Ta linh cảm hai đứa bị cấm túc lâu đấy. Cần phải dạy lại cho chúng bay cách tôn trọng người lớn thôi.” Josh cố gắng phớt lờ bà dì , cậu tiếp tục về phòng và đóng cánh cửa sau lưng lại. Thả người lên chiếc giường gỗ mát lạnh, cậu nhắm mắt, hít hơi sâu và cố gắng kìm lại cơn buồn nôn trong bụng. Sophie biến mất rồi. Chị ấy gặp nguy hiểm. Aoife với chị mình. Cậu hiểu tại sao – nhưng cậu biết chuyện tốt đẹp gì đâu. Aoife có thể làm cho các Elders đen tối nhỉ? Tại sao ta lại bắt Sophie –và tại sao ảlại trốn chạy cậu? Dù hoảng sợ và kiệt sức, Josh thể ngăn nụ cười toe toét môi. Khi cậu chạy ra ngoài, Aoifechẳng tỏ ra sợ hãi gì cả, ta trông rất ngạo mạn, và khi cậu đòi chị mình, ta cũng nhanh chóng từ chối. Nhưng có điều gì đó làm cho ả ma cà rồng run sợ. Có lẽ vì dòng điện cậu kích hoạt tạo thành lớp áo giáp vàng bao lấy cơ thể cậu. Josh giơ hai tay mình lên rồi nhìn vào chúng. Chỉ còn lại thịt và máu,lớp da ở lòng bàn tay bị xây xát và thâm tím và chỗ cậu bị ngã, các móng tay bị sứt ra và bẩn thỉu. Vậy mà cách đó chưa lâu đôi bàn tay này được bao bọc bằng đôi găng bằng vàng. Josh có thể nhớ lúc vàng chảy xuống đôi bàn tay cậu, bọc lấy hai nửa cái cây bộ, rồi biến chúng thành hai thanh kim loại hoàn chỉnh. Khi cậu đập vào chiếc xe, các lớp kính và thép đều bị gãy vỡ chút khó khăn gì. Nhưng khoảnh khắc khi cậu ném cây gậy từ phía sau xe, do rời xa cánh tay của Josh, cây gậy lại trở về là khúc gỗ bình thường. Josh đột nhiên nhớ lại câu chuyện thần thoại Hy Lạp về vua Midas. Mọi thứ cậu chạm vào trở thành vàng.Có lẽ vị vua này cũng sở hữu luồn điện vàng. Rồi nụ cười của Josh nhạt dần . Cậu mất chị mình. Lẽ ra cậu phải tiếp tục chạy; biết đâu cậu bắt kịp chiếc xe. Có lẽ, nếu bằng cách nào đó cậu có thể tập trung dòng điện của mình, cậu có thể làm được điều gì đó…dù cậu cũng chắc nó là cái gì. Cậu tìm Sophie, Josh tự nhủ. Khẽ cúi người, Josh lôi cái balô từ dưới gầm giường. Sau đó, cậu đứng dậy và mở ngăn kéo, lôi ra mớ quần áo và tống chúng vào balô: tất, đồ lót, quần jeans và vài cái áo thun. Cậu cởi bỏ bộ quần áo cáu bẩn vẫn mặc từ khi còn ở Paris, trút hết vào cái giỏ mây ở cuối giường và tròng vào bộ cánh mới. Trước khi mặc cái áo thun kiểu từ những năm 49, Josh gỡ cái túi vải đeo quanh cổ và ngồi xuống mép giường. Cậu mở cái túi, liếc nhìn vào phía trong. Có hai trang sách cậu xé từ cuốn Codex tuần trước. Theo nhà Giả Kim, chúng chứng đựng lời triệu hồi cuối cùng, cái mà Dee cần để đưa các Elders đen tối trở lại Trái Đất.

      Josh giữ hai tờ giấy, để chúng lên phần giường bên cạnh mình. Sau đó, cậu xếp chúng lại cạnh nhau. Chúng chỉ rộng chừng 6 inch, dài chừng 9 inch và trông như thể được làm từ vỏ cây ép với xơ lá. Lần cuối cùng cậu nhìn thấy hai trang giấy này là khi sàn của hiệu sách bị phá hủy. Cả cậu và chị đều bị choáng váng và bối rối vì mọi thứ mình vừa chứng kiến. Khi Josh nhìn lại hai tờ giấy lần nữa, cậu dám thề là các chữ di chuyển, nhưng giờ hết rồi. Cả hai trang giấy đều đặc kín những chữ viết lam nham ở hai mặt. Josh từng thấy những hình khắc tương tự các thứ đồ khảo cổ trong văn phòng của bố mình, và cậu khá chắc là những chữ này rất giống của người Sumer. lá thư –cậu nghĩ ban đầu rất có thể đây là lá thư – với những màu vàng và đỏ rất sống động, trong khi phần còn lại được viết bằng mực đen nhưng vẫn giữ nguyên nét sắc sảo dù trải qua biết bao nhiêu thế kỷ. Chọn lấy trang, Josh đưa nó ra ánh sáng. Chớp mắt đầy kinh ngạc. Những con chữ di chuyển. Chúng bò chầm chậm, đổi chỗ với nhau trang giấy, tạo thành những nhừng từ, những câu, những đoạn mới bằng vô số thứ tiếng. vài ký tự Josh có thể nhận ra được – Josh nhận thấy có nhiều chữ tượng hình và chữ Run, cậu thậm chí có thể chỉ ra vài ký tự Hy Lạp nữa, nhưng phần đông còn lại lạ hoắc. cụm từ bằng tiếng Latin đập vào mắt cậu: magnum opus.Nghĩa của nó là “công việc tốt đẹp”. Josh dò theo những chữ này bằng ngón trỏ…và cái phút mà tay cậu chạm vào mặt giấy, sức nóng bùng phát trong cơ thể cậu, còn ngón tay cậu bắt đầu tỏa ra làn khói màu cam ấm áp. Sau đó, Josh nhận ra trong khi tất cả những ký tự khác bao quanh cụm từ đơn giản này cứ liên tục thay đổi thành những lời lẽ và ngôn ngữ khác nhau, mười chữ cái bên dưới ngón tay cậu vẫn hề di chuyển. Josh thử nhấc tay ra, dòng chữ vụt biến mất. Cậu lại thử chạm tất cả ngón tay mình lên trang giấy, kỳ lạ thay tất cả các câu chữ ngừng di chuyển, tạo thành những câu chữ hoàn chỉnh dưới da thịt câu. Josh ước sao có bố mẹ mình ở đây: họ chắc chắn dịch được những ngôn ngữ cổ này. số đoạn được viết bằng tiếng Hi Lạp và Latin rải rác trong trang giấy, ngoài ra còn có chữ tượng hình Ai cập và vài loại chữ có trong điêu khắc của người Maya. Ghi nhớ lời cảnh báo của Flamel về việc sử dụng luồng điện, Josh cẩn thận nhấc tay mình lên và các con chữ lại trở về là mớ hỗn độn. Bỏ hai tờ giấy trở vào cái túi được may bằng tay, Josh đeo cái túi quanh cổ mình. Hơi ấm lại trở về với da thịt cậu. Cậu dám chắc mình vừa phát ra cái gì, nhưng cậu nhớ lại khi Flamel chạm vào tờ giấy tuần trước đó, những con chữ vẫn hề dừng dưới tay ông. Josh nắm các ngón tay lại: phải có gì đó liên quan tới luồng điện của cậu. Cậu đá văng đôi giày hỏng của mình vào gầm giường rồi mở tủ và lôi ra đôi giày ống để bộ cậu dùng khi leo núi với bố mình. Quăng cái balô lên lưng, Josh ép chặt tai vào cửa phòng và lắng nghe chăm chú.

      Cậu có thể nghe thấy tiếng bà dì trong bếp…rồi tiếng nước sôi réo trong nồi…cửa tủ lạnh mở…tiếng va chạm của cái muỗng với cái cốc sứ… radio chuyển sang kênh NPR. Josh ló đầu ra ngoài. Bếp nằm ở cuối nhà. Cậu chẳng cách nào có thể nghe thấy những thứ tiếng ban nãy. Rồi cậu nhận ra làn khói mong manh màu vàng cuộn tròn trong bàn tay mình. Đưa tay vào sát mặt, Josh xem xét chứng cữ ràng nhất về luồng điện của mình. Trông nó giống như đá khô cậu thấy ở lớp Hóa học, ngoại trừ việc có màu vàng nhạt và mùi vị khá giống cam. Thình lình, làn khói mỏng manh ấy lặn mất tăm vào bàn tay Josh. Cậu siết chặt các ngón tay. Josh từng chứng kiến Sophie tạo ra đôi găng tay bạc, và ở ngoài đường, chỉ vài phút trước đó, đôi găng tay tương tự bằng vàng xuất với cậu dù bản thân cậu thậm chí còn nghĩ về nó. Nhưng chuyện gì xảy ra nếu cậu chăm chú nhìn vào bàn tay trái được bọc trong cái găng tay kim loại? Đột nhiên, làn da Josh sáng lên, thứ ánh sáng tinh khiết. Cậu cảm thấy có chiếc găng tay nhàng bọc lấy tay mình. Josh nhận ra cái găng tay bằng kim loại dần xuất , đầu ngón tay xuất những cái móng tay bằng vàng. Josh thử nắm chặt tay lần nữa. Chiếc găng cũng nắm chặt lại, kèm theo đó là tiếng động của kim loại va chạm nhau. “Josh Newman!” Giọng của dì Agnes ở bên kia cánh cửa làm Josh nhảy dựng lên. Cậu quá tập trung vào việc tạo ra chiếc găng đến nỗi nghe tiếng bà lên lầu. Dòng điện của cậu yếu dần, chiếc găng cũng tan ra theo làn khói vàng. Dì Agnes đập cửa thình thịch: “Cháu có nghe ta gọi ?” Josh thở dài. “ ạ.” Cậu thành trả lời. “Hừm. Ta pha chút trà. Mau xuống đây trước khi cháu bị cảm lạnh.” Bà ngừng lại rồi thêm, “ Ta cũng vừa làm ít bánh xốp sáng nay.” “Tuyệt.” Bụng của Josh réo ầm lên; dì Agnes rất giỏi làm bánh xốp. “Cháu thay đồ. Cháu xuống ngay.” Josh chờ đến khi cậu nghe thấy bà dì lê bước , đôi giày đế mỏng của bà cọ vào tấm thảm. Cậu nhìn tay mình lần nữa và nở nụ cười toe khi ý nghĩ chợt đến. Nếu cậu có thể kiểm soát được dòng điện mà cần ai huấn luyện, chắc hẳn cậu phải mạnh hơn Sophie rồi. Khoác balô lên vai, Josh dịch ra mở cửa và lắng nghe bằng các giác quan được đánh thức. Cậu có thể nghe được bà dì rót trà từ cái bình, có thể ngửi thấy mùi của món trà đen và bột nhồi. Bụng Josh lại biểu tình và cậu cảm thấy miệng mình toàn là nước bọt; cậu gần như nếm được món bánh kem. Cậu tự hỏi nếu cậu có thể dừng lại chỉ …. Nhưng vậy nghĩa là cậu phải chuyện với dì Agnes, và bà gặng hỏi tất cả mọi điều về những ngày qua. Mà cậu lại chẳng có nhiều thời gian đến thế. Josh bước xuống lầu, hé mở cửa trước và lẻn ra ngoài trong cái lạnh buổi sáng ở San Francisco. “Xin lỗi dì.” Cậu lẩm bẩm, đóng cánh cửa êm phía sau mình. Bà

      phát điên lên nếu biết cậu bỏ . Bà có thể gọi cho bố mẹ cậu, và cậu cũng biết phải giải thích sao cho họ nữa. Cậu chỉbiếtmột điều: cậu trở về căn nhà ở Pacific Heights mà có Sophie.

      Hết Chap

      Chap 8

      Agnes nghe tiếng cửa đóng, bà rảo bước ra khỏi nhà bếp. Chớp mắtnhìn cánh cửa, bà hơi nghiêng đầu sang bên nghe ngóng. “Josh?” Bà gọi. Căn nhà im ắng. “Josh?” Bà lại gọi, giọng lạc . “Thằng bé đâu rồi?” bà lẩm bẩm. “Josh Newman, xuống đây ngay lập tức!” Bà la lên. Vẫn có tiếng trả lời. Lắc lắc đầu, bà lão chuẩn bị leo lên lầu có cái gì đó gặm lấy dép bà. Bà cúi người để bỏ nó ra khỏi thảm. Là đống bùn khô cứng lại. Agness liếc nhìn các bậc thang. Chúng từng sạch bong khi bà bước xuống chỉ vài phút trước, vậy mà giờ, toàn bộ cầu thang lên lầu hai chỉ toàn những bùn là bùn. Có ai đó theo bà xuống nhà,mang đôi bốt cũ dính đầy bùn. Ngoảnh đầu lại, bà nhìn theo các vế bùn dẫn thẳng lên cánh cửa. “Josh Newman,” bà thầm , rất . “Cháu làm gì vậy nè?” rồi, dì Agnes cố leo lên lầu nhanh hết mức mà các khớp xương già yếu của bà cho phép. Bà mở toang cửa vào phòng, chẳng buồn gõ cửa. Mắt bà chú ý ngay đến đống quần áo bẩn quăng trong chiếc giỏ và đôi giày cũng dơ kém bị thảy dưới gầm giường. Bà mở tủ quần áo, khoang đựng đôi giày bộ trống . Đứng giữa căn phòng, dì Agness từ từ quay lại, nhận thấy có điều gì đó khác lạ trong khí. Các giác quan của bà còn nhạy bén như ngày xưa, tuổi già cướp thị lực và thính lực sắc sảo của bà, nhưng khướu giác cũa bà vẫn còn tốt lắm. khí khô hanh trong phòng tràn ngập mùi thơm của cam. Bà lão thở dài, moi chiếc điện thoại trong túi ra. Bà chẳng trônh mong gì kể cho Richard và Sara Newman đám trẻ nhà họ biến mất. lần nữa. Thành ra bà lại là người bảo mẫu của chúng!

      Chap 9

      “Ở đâu cũng thấy mùi hôi thối của Dee”, Perenelle phàn nàn. Bà thay bộ đồ mới: Quần jeans bạc màu, cái áo sơ mi thêu từ Ai cập và đôi ủng được làm bằng tay cho riêng bà từ những năm 1901 ở New York. Mái tóc còn ẩm của bà được tết thành bím dày. Nhấc chiếc áo len lông cừu từ ngăn kéo, bà áp nó vào mặt và hít hơi sau. “Ừm! Mùi trứng thối.” Nicholas gật đầu. Ông cũng thay đổi y phục, chuyển sang kết hợp rất thường thấy là quần jean đen và áo thun. Chiếc áo này có biểu tượngDark Side of the Moonở trước ngực. Tất cả các mọi thứ mục nát dần.” rồi ông cầm

      cái áo thun nhuộm màu xấu xí. Nấmmốc kịp bao phủ cả chiếc áo, và gần như nửa phần dưới của nó bị tưa ra chỉ còn là những sợi chỉ quăn queo. Mặc dù ông chỉ cầm lên xem xét, bên vai áo bị rách mất. “ mua nó ở Woodstock đấy.” Ông than. “ phải.” Perenelle sửa lại. “ mua nó ở cửa hàng đồ cũ tại Đại lộ Ventura cách đây mười năm.” “À.” Nicholas cầm chiếc áo bị hỏng lên lần nữa. “Em chắc chứ?” “Chắc chắn. chưa hề tới Woodstock.” “ sao?” Nicholas ngạc nhiên. “ vì Jethro Tull quyết định còn Joni Mitchell ngược lại. như vậy phí thời giờ lắm.” Perenelle mỉm cười. Bà bận rộn với mấy cái khóa ở chân giường. “ ra, dễ đến vài lần ấy chứ.” “Vậy chắc nhầm lẫn gì đó.” Ông nhìn quanh phòng ngủ và dấn bước lên sàn phòng. “ nghĩ chúng ta nên ở đây lâu. Sàn phòng có thể bị sập bất kỳ lúc nào.” “ chút nữa thôi.” Chiếc khóa bé bằng bàn tay mở ra và Perenelle mở nắp. Mùi thoang thoảng của hoa hồng và các loại gia vị kì lạ tràn ngập khí. Nicholas tới bên vợ mình và quan sát trong khi bà cẩn thận bỏ lớp hoa hồng phủ lên lớp da bên dưới. “ có nhớ lần cuối ta đóng chiếc hộp này ?” Bà hỏi khẽ, vô tình chuyển sang tiếng Pháp. o, người bạn cũ của ta.” Bà lẩm nhẩm. Nicholas rùng mình. “Thứ đồ đáng tởm.” “À ha, nhưng nó cứu mạng chúng ta hơn lần rồi.” Perenelle , quấn cái roi quanh eo mình, sợi roi cuộn tròn ngoài chiếc quần jeans trông giống như cái đai vậy. Phần cán của nó nằm dọc chân phải của bà. “Nó được làm từ những con rắn đầu Medusa,” Nicholas nhắc nhở. “Em còn nhớ hôm đó chúng ta suýt chết như thế nào ?” “Về cơ bản , chúng ta chết được,” Perenelle . “Ả chỉ đông cứng luồn điện của chúng ta…” “… rồi biến ta thành đá,” Nicholas nốt. “Dù sao ,” Perenelle cười tươi, vỗ vào chiếc hộp gỗ, “ chúng ta lấy được thứ ta muốn, và cũng đáng xem bộ mặt của Gorgon khi ta trốn thoát lắm chứ.” Chạm vào chiếc rương, bà lại kéo ra cái hộp khác. “Cái này là của .” Nicholas chà bàn tay đột nhiên ướt đầm của ông vào quần. hề bước tới lấy chiếc hộp từ vợ mình, ông khẽ hỏi : “Perry, em chắc chứ?” Đôi mắt xanh của nữ phù thủy trở ánh lên cứng rắn. “Chắc về chuyện gì ạ?” Bà đáp lời. Bà bước duyên dáng, chiếc hộp gỗ được nâng niu trong cánh tay bà. “Chắc về chuyện gì?” bà lại hỏi, tức giận trong giọng . “Chúng ta chờ đợi điều gì, Nicholas Chúng ta đợi quá lâu và bây giờ chúng ta chẳng còn nhiều thời gian nữa. Chúng ta chỉ có thể sống được vài tuần nữa thôi…”

      “Đừng vậy,” Ông nhanh chóng đáp lời. “Tại sao ? Nó là . Nếu em sống sót được sau tuần hay mười ngày,vậy là may mắn rồi. Nhưng có biết rằng: Cả hai ta cùng sống đủ lâu để thấy cái kết của thế giới mà ta biết. Các Elder đen tối có gần hết cuốn Codex, ngày Hạ chí cũng đến gần. Nhiều Elder đen tối lại tự do trong thế giới này, và với em có Archon ở London.” Bà chỉ tiếp về phía vịnh. “Còn Alcatraz đầy rẫy các loại quái vật chờ ngày được thả vào thành phố. Có những sinh vật em còn chưa gặptrong hàng nhiều thế kỷ nay.” Nicholas giơ tay đầu hàng, nhưng Perenelle vẫn chưa hết. “Chuyện gì xảy ra, nghĩ xem, nếu San Francisco bị giày xéo bởi những cơn ác mộng đen tối nhất trong các câu truyện thần thoại của loài người? Hãy cho em biết,” Bà cầu. “ nghiên cứu lịch sử và quá trình tự nhiên của con người, cho em biết chuyện gì xảy ra.” Cơn tức giận làm cho dòng điện chạy lách tách tóc của bà. “Hãy !” “ mớ hỗn độn.” Ông thừa nhận. “Bao lâu trước khi thành phố sụp đổ?” Cái dây buộc tóc bằng nhựa vỡ ra và mái tóc của bà ánh lên hai màu đen và bạc cứ kêu lên tanh tách. “Vài tuần, vài ngày, hay vài giờ? Và khi thành phố này trở thành đống đổ nát, chắc rằng bọn quái vật lan ra cả châu Mỹ giống như trận dịch vậy. nghĩ loài người – thậm chí với tất cả vũ khí và kỹ thuật tối tân nhất của họ –có thể sống sót mà chống lại chúng trong bao lâu?” Nhà giả kim lắc đầu và nhún vai. “Bọn họ từng tàn phá nhiều nền văn minh trước đây.” Perenelle . “Lần cuối cùng các Elder đen tối thả lũ quái vật vào thế giới này, Popeii biếnmất.” Nicholas rướn người, lặng lẽ mở chiếc hộp gỗ trong tay vợ mình. “Điều cuối cùng chúng ta làm, Nicholas, trước khi tuổi già và cái chết bắt kịp ta, là phá hủy đội quân ở Alcatraz. Do vậy, ta cần đồng minh.” Bà vỗ lên nắp chiếc hộp. “Chúng ta cần vật này.” Nhà giả kim xoay chiếc hộp và đặt nó lên giường. Mặt của nó được chạm ba hình xoắn ốc, và Nicholas dùng ngón tay mình lần theo những đường cong này. Ông mua chiếc hộp tại chợ trời ở Delhi, Ấn Độ, chỉ chừng ba trăm năm trước. Sau đó, ông phác thảo hình xoắn ốc này với thanh củi. nghệ nhân địa phương giúp họ biến hình xoắn ốc này thành bốn mặt của chiếc hộp, và nắp, và đế của nó. “Ở nước tôi, đây là dấu hiệu bảo vệ cổ xưa cực kỳ quyền lực.” Người đàn ông thó nhăn nheo lẩm bẩm bằng tiếng Hindi, nghĩ rằng mấy người nước ngoài này hiểu được gì. Ông bị sốc khi gã người Tây kia nhấc chiếc hộp từ tay ông và trả lời bằng cùng ngôn ngữ, “Ở chỗ tôi cũng vậy.” Chẳng hề có khóa hay then cài nào cái hộp, Nicholas cẩn thận nhấc phần nắp được chạm trổ ra rồi đặt nó lên giường. Mùi hương của hoa nhài và gia vị cũng tràn vào khí: thứ mùi lẫn vào đâu được của nước Ấn Độ. Ông vừa chạm tới phần được bọc vải bên trong Perenell đột nhiên chộp lấy cánh tay ông, các ngón tay của bà ấn vào da thịt ông. Ông quan sát trong khi bà cẩn thận nhấc tay

      mình ra và hơi nghiêng đầu. Bà lắng nghe. Nicholas cũng nghe thấy: ai đó lén lút vào cửa hàng bên dưới.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chap 6

      “Có lần còn tệ hơn thế này.” Tiến sĩ John Dee , dù rằng ông chẳng nhớ đó là lúc nào. Sau thảm họa tại Stonehenge và cặp sinh đôi biến mất, vị Pháp sư trải qua nốt đêm và rạng sáng ngày hôm sau trong cái kho bị phá nát, nơi trước đó chỉ vài giờ đồng hồ, Flamel và cặp sinh đôi nấp. Có tiếng mấy cái máy bay trực thăng rền rĩ phía , và cảnh sát, và còi báo động cũng làm náo động cả khu A344 gần đó. Khi công việc của cảnh sát hoàn tất vào đầu giờ chiều, Dee rời nhà kho và bắt đầu bộ về phía London. Phía dưới áo khoác của ông, được bọc trong mớ vải rách là thanh kiếm đá, từng có lúc là hai thanh kiếm là Clarent và Excalibur. Nó va mạnh vào da thịt ông giống như trái tim đập vậy. Chẳng hề có xe cộ qua lại con đường quê hẹp này. Vừa lúc ông bắt đầu nghĩ đến việc cướp cái xe ở thành phố hay ngôi làng kế tiếp, vị cha xứ lớn tuổi chiếc xe Morris Minor khá cổ ngừng lại và cho ông quá giang. “Ông may mắn gặp được tôi đấy,” cha xứ bằng giọng Welsh rè rè. “Chẳng mấy người dùng con đường này nữa, khi có xa lộ ở gần đây.” “Xe của tôi bị hư, và tôi phải trở về London để tham dự cuộc họp,” Dee . “Tôi bị lạc,” ông thêm vào, cố tình đổi giọng của ông cho giống với người kế bên. “Tôi có thể đưa ông . Rất vui vì có bạn đồng hành.” Cha xứ thừa nhận. “ Tôi vẫn nghe radio – chỉ toàn về đe dọa an ninh làm tôi bất an.” “Chuyện gì vậy?” Dee hỏi, cố giữ cho giọng mình tự nhiên. “Tôi nghĩ có khá nhiều chuyện với bên cảnh sát.” “Nửa ngày rồi ông ở đâu vậy?” Cha xứ hỏi với nụ cười làm dịch chuyển mấy cái răng giả của ông.

      “Tôi bận lắm,” Dee . “Gặp gỡ vài người bạn cũ; chúng tôi có rất nhiều chuyện để làm.” “Vậy ông lỡ cuộc vui rồi…” Dee cố biểu thị cảm xúc gì cả. “Bên an ninh đóng cửa toàn thành phố hồi hôm qua. BBC đưa tin bọn khủng bố từng hoạt động ở Paris nay đến London.” Nắm chắc tay lái. Ông liếc nhìn vị khách của mình. “Mà ông có biết chuyện ở Paris đấy?” “Tôi có đọc rồi.” vị Pháp sư lẩm bẩm, biết là mình lắc đầu. Machiavelli kiểm soát cả Paris – làm sao hắt có thể để Flamel và cặp sinh đôi trốn thoát được chứ? “Bây giờ lắm chuyện nguy hiểm.” “ vậy,” Dee đáp. “Nhưng ông cũng chả muốn tin vào mọi thứ cánh nhà báo đâu,” ông thêm. Nhiều trạm kiểm soát được dựng lên tất cả các con đường chính dẫn vào thủ đo, nhưng cảnh sát hiếm khi nào để mắt đến cái xe cổ lỗ chở hai người đàn ông này. Cha xứ thả Dee ở Mayfair, trung tâm thành phố, và tiến sĩ bộ về phía ga Grenn Park. Ông bắt chuyến tàu về Jubilee Line, thẳng đến Canary Wharf, trụ sở tại của công ty Enoch. Tiến sĩ tham gia vào canh bạc khó. Chủ nhân Elder của ông có thể kiểm soát tòa nhà, nhưng Dee hy vọng mọi người đều nghĩ ông cao chạy xa bay và ngu ngốc tới độ quay trở về trụ sở của mình. Bí mật vào bằng gara ở tầng ngầm, ông thẳng lên văn phòng ở đỉnh tòa nhà, tắm táp trong nhà tắm sang trọng của mình, gột rửa mọi bụi bẩn và rác rưởi của vài giờ qua. Nước nóng làm dịu cơn đau ở vai phải,, vốn làm ông phải chuyển động cẩn thận. Josh ném lại thanh Clarent trong trận chiến ở nhà kho, dù Dee xoay sở biến luồng điện thành cái khiên che chắn mình khỏi thanh gươm đó, sức mạnh của cú ném vẫn làm ông ngã xuống. Ông nghĩ mình bị trật vai; chỉ đến khi ông nhận ra vai mình sưng tấy lên chứ chưa bị gãy, điều làm ông cảm thấy may mắn. ra vai có gãy cũng hề gì – ông có thể dùng ít luồng điện để chữa lành ngay lập tức, nhưng nó thu thu hút các Elder đen tối và bọn tay sai của họ. Pháy sư thay bộ đồ mới, chiếc áo khoác màu xanh thẫm, chiếc áo sơ mi cũng màu xanh tối với cà vạt họa tiết hình hoa huệ tây vàng của trường St. John, Cambridge. Trong khi chờ ấm nước trong căn phòng bếp bé tí đun sôi nước để pha trà, Dee lôi hết những đồng bảng , euro và dolla từ két sắt vào cái thắt lưng đựng tiền ông đeo quanh mình, dưới lớp áo. Có hàng tá các loại hộ chiếu dưới nhiều cái tên ở đằng sau cái két sắt. Dee nhồi chúng hết vào các túi áo khoác. Ông thu thập hộ chiếu trong nhiều năm và bỏ chúng bây giờ. Ấm nước sôi, pháp sư làm cho mình cốc Earl Gray. Nhấm nháp hương thơm của trà, cuối cùng ông để mắt tới cái bọc rách nát đặt bàn. nụ

      cười nở môi ông. Ông có thể thua trận, nhưng ông chắc chắn là người giành được phần thưởng tuyệt vời nhất. Clarent và Excalibur. Cùng nhau. Hôm qua, ông nâng chúng tay và nhìn hai thanh kiếm hợp lại thành cây kiếm đá duy nhất. Thậm chí từ phía bên kia căn phòng, Dee có thể cảm thấy được sức mạnh từ cái vật kia phát ra thành những làn sóng dài và chậm. Nếu ông giảm bớt vòng bảo vệ, ông còn nghe được những lời gợi ý từ những suy nghĩ thầm bằng vô số các loại ngôn ngữ mà ông chỉ biết mặt được vài mà thôi. Đột nhiên ông nhận ra – gần như cùng lúc với kinh ngạc – rằng cuối cùng, sau cả cuộc đời tìm kiếm, cuối cùng ông tìm thấy bốn Thanh kiếm sức mạnh cổ đại. Hai cái – Durendal và Joyeuse – được cất giấu tại nhà riêng của ông ở San Francisco, và hai cái còn lại diện chiếc bàn trước mặt ông… hay bây giờ thành ? Và chuyện gì xảy ra, ông tự hỏi, nếu ông đưa thanh kiếm này hội ngộ hai thanh kiếm đá kia? Và tại sao chúng chưa bao giờ kết hợp lại cơ chứ? Chúng ở cạnh nhau hàng thế kỷ nay rồi. Tiến sĩ dành thời gian để dùng nốt trà, bình tâm lại và dựng các loại rào chắn bảo vệ trong căn phòng trước khi ông tiếp cận cái bọc và mở nó ra. số pháp sư dùng kết hợp của ngôn từ – bùa chú và phép thuật – để bảo vệ luồng suy nghĩ của họ, nhưng Dee sử dụng loại cổ nhất trong các tiếng động ma thuật: nhạc. Nhìn chằm chằm vào chiếc bàn, ông bắt đầu ngâm nga bài “Greensleeves,” bài hát ưa thích của nữ hoàng Elizabeth đệ nhất. Nữ hoàng tin rằng cha của bà, vua Henry VIII viết bài hát này cho mẹ bà, Anne Boleyn. Nhưng Dee biết phải thế, mặc dù ông chưa bao giờ có gan với bà. Dù sao nữa, điệu đơn giản và nhạc điệu cổ xưa của bài hát tạo nên loại bùa chú bảo vệ hoàn hảo. Vừa lẩm nhẩm từng chữ , ông vừa tiến lại chiếc bàn. “Alas, my love, ye do me wrong to cast me off discourteously …” Những ngón tay của ông run rẩy khi ông cẩn thận bóc lớp vải xám bẩn thỉu từ cái nhà kho bị phá hủy, làm lộ ra cái vật mà nó che dấu. “And I have loved you so long, delighting in your companie …” Nằm chiếc bàn cẩm thạch đen bóng là trong những vật cổ xưa nhất hành tinh. Nó giống như bất kỳ thanh kiếm bằng đá nào, nhưng phải, nó có rất rất rất nhiều điều hơn thế. Người ta rằng cặp vũ khí song sinh này còn xuất trước cả các Elder và thậtm chí các Archons, thuộc về Thời Trước Thời Gian bí . Nổi tiếng hơn, vua Arthus từng mang thanh Excalibur, và Mordred, con trai ông, giết ông bằng thanh Clarent, nhưng Nhà vua và Kẻ hèn nhát chỉ là hai trong số hàng thế hệ các hùng và bạn thủ ác từng nắm giữ những thanh kiếm này, trong các kiện lịch sử, diễn ra độc lập hoặc liên quan tới nhau trong lịch sử trái đất. “Greensleeves was all my joy, Greensleeves was my delight, Greensleeves was my heart of gold …”

      thể tin được cuối cùng ông tìm thấy đối thủ của thanh Excalibur. Nửa thế kỷ trước, khi vua Henry VIII trị vì nước , Dee bắt đầu truy tìm thanh Kiếm Lửa huyền thoại. “I have been readie at your hand, to grant what ever you would crave …” Hít hơi sâu, tiến sĩ nhấc thanh kiếm lên. Dù chỉ nhỉnh hơn 20 inch tý, thanh kiếm khá là nặng. Lưỡi và cán kiếm tương đối trơn láng trông giống như thể được chạm ra từ khối đá granite óng ánh. Giây phút những ngón tay chạm vào lớp đá ấm áp, sức mạnh từ thanh kiếm quét lên người ông. Tiếng của giận dữ. Tiếng la của nỗi khiếp sợ. Tiếng khóc của những đau thương. Dee chợt rùng mình khi những thanh dội lên trong đầu ông, đe dọa lấn át cả tâm trí ông. Giọng hát của ông yếu dần. “I … I have waged life and … and land, your love and …and good will for to have …” Thanh kiếm mạnh mẽ, quá mạnh mẽ, được phủ trong hàng loạt những truyền thuyết và bí . Hôm qua, khi Gilgamesh nhìn thấy thanh kiếm, lão đưa ra những lời tiên đoán cổ xưa – Hai mà là , là tất cả – để miêu tả nó. Dee luôn nghĩ rằng lời tiên đoán ấy về cặp song sinh nhưng giờ ông dám chắc nữa. “Greensleeves, now farewell adieu …” ra , ông chẳng còn dám chắc về bất kì điều gì nữa. Trong vài ngày qua, cả cuộc đời ông, cả thế giới của ông, thay đổi. Và tất cả đều do Flamel và cặp song sinh mà ra. Chúng biến ông thành kẻ ngốc và đưa ông vào vòng nguy hiểm. Những ngón tay ngắn ngủ của Dee vuốt dọc theo chiều dài của lớp đá ấm áp. Những bí mật được thầm … Những lời hứa mơ hồ… Lời gợi ý của những kiến thức cổ xưa, những truyền thuuyết bí … Dee giật tay ra và những giọng cũng xa dần trong tiềm thức ông. Đôi môi mỏng dính của ông lại nở nụ cười độc ác; thanh kiếm này có thể là cứu rỗi cho mình. Các Elder đen tối trả cái giá hời cho loại vũ khí này. Ông tự hỏi có khi nào nó còn đáng giá hơn cuộc sống bất tử của ông. Điện thoại tiến sĩ đột nhiên reo lên và rung bần bật trong túi áo, làm cho ông giật mình. Tránh xa thanh kiếm nằm bàn, ông lấy điện thoại ra và nhìn vào màn hình bị mờ những dấu vân tay. Ông nghĩ nhìn thấy số điện thoại dài vô tận của chủ nhân Elder, nhưng nó lại ra dòng chữ Hạn chế. Mất lúc, ông định trả lời, nhưng rồi tính tò mò – luôn là điểm mạnh nhất và yếu nhất của ông – chiến thắng và ông nhấn nút Trả lời. “Nhận ra giọng tôi chứ?” Tiến sĩ John Dee chớp mắt kinh ngạc.

      Giọng ở đầu dây bên kia là của Niccolò Machiavelli, người đến San Francisco. “Có”, ông trả lời thận trọng”

      “Đây vốn là đường dây mật, nhưng ông biết khẩu hiệu của tôi rồi đấy… tin ai cả.” “Khẩu hiệu hay đấy.” Dee lẩm nhẩm. “Tôi thấy ông vẫn chưa chết.” “Chắc vậy.” Tiến sĩ nhanh chóng bước tới màn hình bảo vệ và mở lên, bật nhanh qua tất cả các kênh. Ông nghi đây là cái bẫy: Có thể Machiavelli chuyện với ông, làm ông xao nhãng, trong khi tòa nhà này bị bao vây. Nhưng toàn bộ các văn phòng và hành lanh đều trống còn chỗ gửi xe chẳng có bóng nào. “Sao ông lại gọi cho tôi?” Ông hỏi. “Để cảnh báo ông.” “Cảnh báo tôi!” Dù trải qua hàng nghìn thế kỷ, ông vẫn thể giấu được kinh ngạc trong giọng mình. “Vài phút trước đây, các tin nhắn qua Xibalba và đến các vương quốc Bóng tối. Ông biết thế nghĩa là gì ?” Bất giác, Dee gật đầu. “Xibalba?” Ông hỏi. Ở bên kia của trái đất, giọng của Machiavelli gấp gáp hơn. “Phải, Đường giao nhau, Chốn Hoảng sợ. Là trong những Vương quốc Bóng tối cổ xưa.” “Tôi biết rồi,” Dee đáp cộc lốc. “Nữ thần quạ Morrigan từng đưa tôi đến đó trong lần bầu Giáo Hoàng gần nhất. (??? The Great Conclave.) “Ông ở đó?” Machiavelli thốt lên kinh ngạc. “Phải.” Xibalba là vùng đất nơi các Elder và Elder Đen tối từ khắp các vương quốc bóng tối gặp gỡ nhau. Dee là trong số rất ít con người đếm được đầu ngón tay từng có mặt tại đó. Ông thậm chí còn chọn mùi vị đặc trưng của luồng điện mình cho phù hợp với mùi Sunphuaric khó chịu của nơi này. Nếu các Elder đen tối gửi tin nhắn qua Xibalba, nghĩa là họ muốn tất cả các vương quốc Bóng tối, dù xa xôi nhất cũng nhận được mệnh lệnh của họ. “Tôi được phán xét?” Pháp sư hỏi. Từ cái kết thảm bại, chắc chắn mức án tử hình giáng xuống ông và các chủ nhân Elder đen tối của ông cũng tìm được ông dù ông ở vương quốc Bóng tối nào. Ông bị mắc kẹt trái đất. Quay gót khỏi màn hình, Dee liếc nhìn ảnh phản chiếu của mình trong gương: ông thấy mình chẳng khác gì cái xác chết. “Phát xét và quyết định có tội.” Dee gật đầu, gì cả. Ông phục vụ chủ nhân Elder của mình cả đời, và giờ đây họ quy tội chết cho ông. “Ông còn nghe tôi đấy?” Machiavelli gắt. “Tôi vẫn nghe đây,” Dee đáp nhàng. cơn mệt mỏi dâng lên, ông phải dựa mình vào tường. Đầu dây từ bên Mỹ nổ lốp bốp: “Tất cả thế hệ những người bất tử kế tiếp ông gọi đến London để săn tìm Nicholas Flamel và cặp song sinh giờ chuyển mục tiêu sang ông… đặc biệt khi phần thưởng cho họ nếu tìm thấy ông được gấp đôi mức của Nhà giả kim.” “Tôi chắc mình có nên thấy sợ nữa.” “Có khác biệt.” Đường dây lốp bốp lần nữa và giọng của Machiavelli nghe lúc được lúc mất. “ Chủ nhân của chúng ta chấp nhận Flamel sống hoặc chết, nhưng họ muốn ông còn sống. Họ rất về điều này: Bất kỳ ai giết ông chịu số phận thê thảm.”

      Dee rùng mình. Ông biết chủ nhân muốn ông còn sống để họ có thể lấy bất tử của ông, chứng kiến tận mắt lão hóa của ông, và rồi lại làm ông bất tử. Ông phải chịu lời nguyền mãi mãi là con người rất rất già lão. “Sao ông biết điều này?” Ông hỏi. Giọng Machiavelli dần, ông thầm, “Tay cộng người Mỹ của tôi liên lạc được với chủ nhân của .” “Và tại sao ông lại với tôi?” “Bởi vì, giống như ông. Tôi cũng thất bại nhiệm vụ của mình.” Machiavelli gấp gáp. “Perenelle trốn thoát khỏi đảo. ra, chính tôi bị mắc kẹt ở Alcatraz.” Dee thể kìm nén nụ cười thỏa thuê, nhưng ông cố gắng giữ cho bật thành tiếng. “Có lẽ đến lúc ông và tôi cần tương trợ nhau, tiến sĩ.” Machiavelli tiếp tục. “Kẻ thù của kẻ thù chính là bạn ta.” Dee đáp, dùng câu từ xưa. “Chính xác. Tiến sĩ, đến lúc ông phải chạy , phải trốn. Chủ nhân ông cho tuyên ông là utlaga.” Đường dây đột nhiên bị cắt. Dee chậm rãi bỏ điện thoại vào túi áo và nhìn vào gương lần cuối. Ông là utlaga, tên bị truy nã, kẻ sống ngoài vòng pháp luật. Rồi ông cười lớn: sinh vật cuối cùng các Elder tuyên bố là utlaga chính là Elder Mars Ultor.

      Chap 7

      Khi Josh lê bước vào nhà, dì Agnes đứng ở cửa vào, khuôn mặt thó của bà cau có hết cỡ và đôi môi mỏng biến mất hoàn toàn: “Cháu ném điện thoại sàn rồi xông ra khỏi nhà,” bà trở nên cáu bẳn sau mỗi bước . “Dì muốn lời giải thích, chàng trai trẻ.” “Cháu có. Sophie …” Cậu ngập ngừng. “Sophie gọi cho cháu.” “ nhất thiết phải ném điện thoại sàn chứ.” “Xin lỗi dì.” Josh thở dài, quyết định bất kì điều gì nữa. Cậu lo lắng cho chị mình; nghe bà dì cằn nhằn là điều cuối cùng cậu lựa chọn phải làm lúc này. “ Gọi điện tốn tiền lắm…” Josh ngắt lời. “ Cháu gọi điện cho bố ngay.” “Bố cháu rồi. Đường truyền dở tệ – rồi còn rất nhiều chuyện tồi hơn nữa xảy ra khi cháu bỏ điện thoại lại,” bà thêm. “Nó gọi lại sau. Mẹ cháu là cả hai đứa được rời khỏi nhà cho đến khi mẹ cháu chuyện với cả hai. Phải là mẹ cháu hề vui tí nàovới cả hai đứa đâu nhé,” dì Agnes báo trước. “Chắc chắn rồi,” Josh lẩm bẩm. Cậu băng qua hành lang, tìm đến chỗ cầu thang. “Mà chị cháu đâu rồi nhỉ?” Dì Agnes hỏi. “Cháu biết.” Josh trả lời thành thực. Người phụ nữ già khoanh tay, liếc mắt nhìn Josh. “Ý cháu là nó bỏ thèm chào tạm biệt ta hay sao?” “Chắc có chuyện gì đó quan trọng.” Josh , ráng mở miệng cười dù trong lòng cậu héo queo. “Ta chẳng hiểu nổi chuyện gì với hai đứa nữa.” Dì Agness càu nhàu. “Biến mất đến vài ngày…thậm chí chẳng buồn gọi điện…Bọn trẻ ngày nay chẳng có chút lễ độ…”

      Josh bắt đầu trèo lên lầu. “Cháu đâu vậy?” “Về phòng cháu,” Josh . Cậu biết mình cần tránh xa bà dì này trước khi cậu kịp làm chuyện gì đó đáng tiếc xảy ra. “Cứ ở đó , cậu trẻ. Ta linh cảm hai đứa bị cấm túc lâu đấy. Cần phải dạy lại cho chúng bay cách tôn trọng người lớn thôi.” Josh cố gắng phớt lờ bà dì , cậu tiếp tục về phòng và đóng cánh cửa sau lưng lại. Thả người lên chiếc giường gỗ mát lạnh, cậu nhắm mắt, hít hơi sâu và cố gắng kìm lại cơn buồn nôn trong bụng. Sophie biến mất rồi. Chị ấy gặp nguy hiểm. Aoife với chị mình. Cậu hiểu tại sao – nhưng cậu biết chuyện tốt đẹp gì đâu. Aoife có thể làm cho các Elders đen tối nhỉ? Tại sao ta lại bắt Sophie –và tại sao ảlại trốn chạy cậu? Dù hoảng sợ và kiệt sức, Josh thể ngăn nụ cười toe toét môi. Khi cậu chạy ra ngoài, Aoifechẳng tỏ ra sợ hãi gì cả, ta trông rất ngạo mạn, và khi cậu đòi chị mình, ta cũng nhanh chóng từ chối. Nhưng có điều gì đó làm cho ả ma cà rồng run sợ. Có lẽ vì dòng điện cậu kích hoạt tạo thành lớp áo giáp vàng bao lấy cơ thể cậu. Josh giơ hai tay mình lên rồi nhìn vào chúng. Chỉ còn lại thịt và máu,lớp da ở lòng bàn tay bị xây xát và thâm tím và chỗ cậu bị ngã, các móng tay bị sứt ra và bẩn thỉu. Vậy mà cách đó chưa lâu đôi bàn tay này được bao bọc bằng đôi găng bằng vàng. Josh có thể nhớ lúc vàng chảy xuống đôi bàn tay cậu, bọc lấy hai nửa cái cây bộ, rồi biến chúng thành hai thanh kim loại hoàn chỉnh. Khi cậu đập vào chiếc xe, các lớp kính và thép đều bị gãy vỡ chút khó khăn gì. Nhưng khoảnh khắc khi cậu ném cây gậy từ phía sau xe, do rời xa cánh tay của Josh, cây gậy lại trở về là khúc gỗ bình thường. Josh đột nhiên nhớ lại câu chuyện thần thoại Hy Lạp về vua Midas. Mọi thứ cậu chạm vào trở thành vàng.Có lẽ vị vua này cũng sở hữu luồn điện vàng. Rồi nụ cười của Josh nhạt dần . Cậu mất chị mình. Lẽ ra cậu phải tiếp tục chạy; biết đâu cậu bắt kịp chiếc xe. Có lẽ, nếu bằng cách nào đó cậu có thể tập trung dòng điện của mình, cậu có thể làm được điều gì đó…dù cậu cũng chắc nó là cái gì. Cậu tìm Sophie, Josh tự nhủ. Khẽ cúi người, Josh lôi cái balô từ dưới gầm giường. Sau đó, cậu đứng dậy và mở ngăn kéo, lôi ra mớ quần áo và tống chúng vào balô: tất, đồ lót, quần jeans và vài cái áo thun. Cậu cởi bỏ bộ quần áo cáu bẩn vẫn mặc từ khi còn ở Paris, trút hết vào cái giỏ mây ở cuối giường và tròng vào bộ cánh mới. Trước khi mặc cái áo thun kiểu từ những năm 49, Josh gỡ cái túi vải đeo quanh cổ và ngồi xuống mép giường. Cậu mở cái túi, liếc nhìn vào phía trong. Có hai trang sách cậu xé từ cuốn Codex tuần trước. Theo nhà Giả Kim, chúng chứng đựng lời triệu hồi cuối cùng, cái mà Dee cần để đưa các Elders đen tối trở lại Trái Đất.

      Josh giữ hai tờ giấy, để chúng lên phần giường bên cạnh mình. Sau đó, cậu xếp chúng lại cạnh nhau. Chúng chỉ rộng chừng 6 inch, dài chừng 9 inch và trông như thể được làm từ vỏ cây ép với xơ lá. Lần cuối cùng cậu nhìn thấy hai trang giấy này là khi sàn của hiệu sách bị phá hủy. Cả cậu và chị đều bị choáng váng và bối rối vì mọi thứ mình vừa chứng kiến. Khi Josh nhìn lại hai tờ giấy lần nữa, cậu dám thề là các chữ di chuyển, nhưng giờ hết rồi. Cả hai trang giấy đều đặc kín những chữ viết lam nham ở hai mặt. Josh từng thấy những hình khắc tương tự các thứ đồ khảo cổ trong văn phòng của bố mình, và cậu khá chắc là những chữ này rất giống của người Sumer. lá thư –cậu nghĩ ban đầu rất có thể đây là lá thư – với những màu vàng và đỏ rất sống động, trong khi phần còn lại được viết bằng mực đen nhưng vẫn giữ nguyên nét sắc sảo dù trải qua biết bao nhiêu thế kỷ. Chọn lấy trang, Josh đưa nó ra ánh sáng. Chớp mắt đầy kinh ngạc. Những con chữ di chuyển. Chúng bò chầm chậm, đổi chỗ với nhau trang giấy, tạo thành những nhừng từ, những câu, những đoạn mới bằng vô số thứ tiếng. vài ký tự Josh có thể nhận ra được – Josh nhận thấy có nhiều chữ tượng hình và chữ Run, cậu thậm chí có thể chỉ ra vài ký tự Hy Lạp nữa, nhưng phần đông còn lại lạ hoắc. cụm từ bằng tiếng Latin đập vào mắt cậu: magnum opus.Nghĩa của nó là “công việc tốt đẹp”. Josh dò theo những chữ này bằng ngón trỏ…và cái phút mà tay cậu chạm vào mặt giấy, sức nóng bùng phát trong cơ thể cậu, còn ngón tay cậu bắt đầu tỏa ra làn khói màu cam ấm áp. Sau đó, Josh nhận ra trong khi tất cả những ký tự khác bao quanh cụm từ đơn giản này cứ liên tục thay đổi thành những lời lẽ và ngôn ngữ khác nhau, mười chữ cái bên dưới ngón tay cậu vẫn hề di chuyển. Josh thử nhấc tay ra, dòng chữ vụt biến mất. Cậu lại thử chạm tất cả ngón tay mình lên trang giấy, kỳ lạ thay tất cả các câu chữ ngừng di chuyển, tạo thành những câu chữ hoàn chỉnh dưới da thịt câu. Josh ước sao có bố mẹ mình ở đây: họ chắc chắn dịch được những ngôn ngữ cổ này. số đoạn được viết bằng tiếng Hi Lạp và Latin rải rác trong trang giấy, ngoài ra còn có chữ tượng hình Ai cập và vài loại chữ có trong điêu khắc của người Maya. Ghi nhớ lời cảnh báo của Flamel về việc sử dụng luồng điện, Josh cẩn thận nhấc tay mình lên và các con chữ lại trở về là mớ hỗn độn. Bỏ hai tờ giấy trở vào cái túi được may bằng tay, Josh đeo cái túi quanh cổ mình. Hơi ấm lại trở về với da thịt cậu. Cậu dám chắc mình vừa phát ra cái gì, nhưng cậu nhớ lại khi Flamel chạm vào tờ giấy tuần trước đó, những con chữ vẫn hề dừng dưới tay ông. Josh nắm các ngón tay lại: phải có gì đó liên quan tới luồng điện của cậu. Cậu đá văng đôi giày hỏng của mình vào gầm giường rồi mở tủ và lôi ra đôi giày ống để bộ cậu dùng khi leo núi với bố mình. Quăng cái balô lên lưng, Josh ép chặt tai vào cửa phòng và lắng nghe chăm chú.

      Cậu có thể nghe thấy tiếng bà dì trong bếp…rồi tiếng nước sôi réo trong nồi…cửa tủ lạnh mở…tiếng va chạm của cái muỗng với cái cốc sứ… radio chuyển sang kênh NPR. Josh ló đầu ra ngoài. Bếp nằm ở cuối nhà. Cậu chẳng cách nào có thể nghe thấy những thứ tiếng ban nãy. Rồi cậu nhận ra làn khói mong manh màu vàng cuộn tròn trong bàn tay mình. Đưa tay vào sát mặt, Josh xem xét chứng cữ ràng nhất về luồng điện của mình. Trông nó giống như đá khô cậu thấy ở lớp Hóa học, ngoại trừ việc có màu vàng nhạt và mùi vị khá giống cam. Thình lình, làn khói mỏng manh ấy lặn mất tăm vào bàn tay Josh. Cậu siết chặt các ngón tay. Josh từng chứng kiến Sophie tạo ra đôi găng tay bạc, và ở ngoài đường, chỉ vài phút trước đó, đôi găng tay tương tự bằng vàng xuất với cậu dù bản thân cậu thậm chí còn nghĩ về nó. Nhưng chuyện gì xảy ra nếu cậu chăm chú nhìn vào bàn tay trái được bọc trong cái găng tay kim loại? Đột nhiên, làn da Josh sáng lên, thứ ánh sáng tinh khiết. Cậu cảm thấy có chiếc găng tay nhàng bọc lấy tay mình. Josh nhận ra cái găng tay bằng kim loại dần xuất , đầu ngón tay xuất những cái móng tay bằng vàng. Josh thử nắm chặt tay lần nữa. Chiếc găng cũng nắm chặt lại, kèm theo đó là tiếng động của kim loại va chạm nhau. “Josh Newman!” Giọng của dì Agnes ở bên kia cánh cửa làm Josh nhảy dựng lên. Cậu quá tập trung vào việc tạo ra chiếc găng đến nỗi nghe tiếng bà lên lầu. Dòng điện của cậu yếu dần, chiếc găng cũng tan ra theo làn khói vàng. Dì Agnes đập cửa thình thịch: “Cháu có nghe ta gọi ?” Josh thở dài. “ ạ.” Cậu thành trả lời. “Hừm. Ta pha chút trà. Mau xuống đây trước khi cháu bị cảm lạnh.” Bà ngừng lại rồi thêm, “ Ta cũng vừa làm ít bánh xốp sáng nay.” “Tuyệt.” Bụng của Josh réo ầm lên; dì Agnes rất giỏi làm bánh xốp. “Cháu thay đồ. Cháu xuống ngay.” Josh chờ đến khi cậu nghe thấy bà dì lê bước , đôi giày đế mỏng của bà cọ vào tấm thảm. Cậu nhìn tay mình lần nữa và nở nụ cười toe khi ý nghĩ chợt đến. Nếu cậu có thể kiểm soát được dòng điện mà cần ai huấn luyện, chắc hẳn cậu phải mạnh hơn Sophie rồi. Khoác balô lên vai, Josh dịch ra mở cửa và lắng nghe bằng các giác quan được đánh thức. Cậu có thể nghe được bà dì rót trà từ cái bình, có thể ngửi thấy mùi của món trà đen và bột nhồi. Bụng Josh lại biểu tình và cậu cảm thấy miệng mình toàn là nước bọt; cậu gần như nếm được món bánh kem. Cậu tự hỏi nếu cậu có thể dừng lại chỉ …. Nhưng vậy nghĩa là cậu phải chuyện với dì Agnes, và bà gặng hỏi tất cả mọi điều về những ngày qua. Mà cậu lại chẳng có nhiều thời gian đến thế. Josh bước xuống lầu, hé mở cửa trước và lẻn ra ngoài trong cái lạnh buổi sáng ở San Francisco. “Xin lỗi dì.” Cậu lẩm bẩm, đóng cánh cửa êm phía sau mình. Bà

      phát điên lên nếu biết cậu bỏ . Bà có thể gọi cho bố mẹ cậu, và cậu cũng biết phải giải thích sao cho họ nữa. Cậu chỉbiếtmột điều: cậu trở về căn nhà ở Pacific Heights mà có Sophie.

      Hết Chap

      Chap 8

      Agnes nghe tiếng cửa đóng, bà rảo bước ra khỏi nhà bếp. Chớp mắtnhìn cánh cửa, bà hơi nghiêng đầu sang bên nghe ngóng. “Josh?” Bà gọi. Căn nhà im ắng. “Josh?” Bà lại gọi, giọng lạc . “Thằng bé đâu rồi?” bà lẩm bẩm. “Josh Newman, xuống đây ngay lập tức!” Bà la lên. Vẫn có tiếng trả lời. Lắc lắc đầu, bà lão chuẩn bị leo lên lầu có cái gì đó gặm lấy dép bà. Bà cúi người để bỏ nó ra khỏi thảm. Là đống bùn khô cứng lại. Agness liếc nhìn các bậc thang. Chúng từng sạch bong khi bà bước xuống chỉ vài phút trước, vậy mà giờ, toàn bộ cầu thang lên lầu hai chỉ toàn những bùn là bùn. Có ai đó theo bà xuống nhà,mang đôi bốt cũ dính đầy bùn. Ngoảnh đầu lại, bà nhìn theo các vế bùn dẫn thẳng lên cánh cửa. “Josh Newman,” bà thầm , rất . “Cháu làm gì vậy nè?” rồi, dì Agnes cố leo lên lầu nhanh hết mức mà các khớp xương già yếu của bà cho phép. Bà mở toang cửa vào phòng, chẳng buồn gõ cửa. Mắt bà chú ý ngay đến đống quần áo bẩn quăng trong chiếc giỏ và đôi giày cũng dơ kém bị thảy dưới gầm giường. Bà mở tủ quần áo, khoang đựng đôi giày bộ trống . Đứng giữa căn phòng, dì Agness từ từ quay lại, nhận thấy có điều gì đó khác lạ trong khí. Các giác quan của bà còn nhạy bén như ngày xưa, tuổi già cướp thị lực và thính lực sắc sảo của bà, nhưng khướu giác cũa bà vẫn còn tốt lắm. khí khô hanh trong phòng tràn ngập mùi thơm của cam. Bà lão thở dài, moi chiếc điện thoại trong túi ra. Bà chẳng trônh mong gì kể cho Richard và Sara Newman đám trẻ nhà họ biến mất. lần nữa. Thành ra bà lại là người bảo mẫu của chúng!

      Chap 9

      “Ở đâu cũng thấy mùi hôi thối của Dee”, Perenelle phàn nàn. Bà thay bộ đồ mới: Quần jeans bạc màu, cái áo sơ mi thêu từ Ai cập và đôi ủng được làm bằng tay cho riêng bà từ những năm 1901 ở New York. Mái tóc còn ẩm của bà được tết thành bím dày. Nhấc chiếc áo len lông cừu từ ngăn kéo, bà áp nó vào mặt và hít hơi sau. “Ừm! Mùi trứng thối.” Nicholas gật đầu. Ông cũng thay đổi y phục, chuyển sang kết hợp rất thường thấy là quần jean đen và áo thun. Chiếc áo này có biểu tượngDark Side of the Moonở trước ngực. Tất cả các mọi thứ mục nát dần.” rồi ông cầm

      cái áo thun nhuộm màu xấu xí. Nấmmốc kịp bao phủ cả chiếc áo, và gần như nửa phần dưới của nó bị tưa ra chỉ còn là những sợi chỉ quăn queo. Mặc dù ông chỉ cầm lên xem xét, bên vai áo bị rách mất. “ mua nó ở Woodstock đấy.” Ông than. “ phải.” Perenelle sửa lại. “ mua nó ở cửa hàng đồ cũ tại Đại lộ Ventura cách đây mười năm.” “À.” Nicholas cầm chiếc áo bị hỏng lên lần nữa. “Em chắc chứ?” “Chắc chắn. chưa hề tới Woodstock.” “ sao?” Nicholas ngạc nhiên. “ vì Jethro Tull quyết định còn Joni Mitchell ngược lại. như vậy phí thời giờ lắm.” Perenelle mỉm cười. Bà bận rộn với mấy cái khóa ở chân giường. “ ra, dễ đến vài lần ấy chứ.” “Vậy chắc nhầm lẫn gì đó.” Ông nhìn quanh phòng ngủ và dấn bước lên sàn phòng. “ nghĩ chúng ta nên ở đây lâu. Sàn phòng có thể bị sập bất kỳ lúc nào.” “ chút nữa thôi.” Chiếc khóa bé bằng bàn tay mở ra và Perenelle mở nắp. Mùi thoang thoảng của hoa hồng và các loại gia vị kì lạ tràn ngập khí. Nicholas tới bên vợ mình và quan sát trong khi bà cẩn thận bỏ lớp hoa hồng phủ lên lớp da bên dưới. “ có nhớ lần cuối ta đóng chiếc hộp này ?” Bà hỏi khẽ, vô tình chuyển sang tiếng Pháp. o, người bạn cũ của ta.” Bà lẩm nhẩm. Nicholas rùng mình. “Thứ đồ đáng tởm.” “À ha, nhưng nó cứu mạng chúng ta hơn lần rồi.” Perenelle , quấn cái roi quanh eo mình, sợi roi cuộn tròn ngoài chiếc quần jeans trông giống như cái đai vậy. Phần cán của nó nằm dọc chân phải của bà. “Nó được làm từ những con rắn đầu Medusa,” Nicholas nhắc nhở. “Em còn nhớ hôm đó chúng ta suýt chết như thế nào ?” “Về cơ bản , chúng ta chết được,” Perenelle . “Ả chỉ đông cứng luồn điện của chúng ta…” “… rồi biến ta thành đá,” Nicholas nốt. “Dù sao ,” Perenelle cười tươi, vỗ vào chiếc hộp gỗ, “ chúng ta lấy được thứ ta muốn, và cũng đáng xem bộ mặt của Gorgon khi ta trốn thoát lắm chứ.” Chạm vào chiếc rương, bà lại kéo ra cái hộp khác. “Cái này là của .” Nicholas chà bàn tay đột nhiên ướt đầm của ông vào quần. hề bước tới lấy chiếc hộp từ vợ mình, ông khẽ hỏi : “Perry, em chắc chứ?” Đôi mắt xanh của nữ phù thủy trở ánh lên cứng rắn. “Chắc về chuyện gì ạ?” Bà đáp lời. Bà bước duyên dáng, chiếc hộp gỗ được nâng niu trong cánh tay bà. “Chắc về chuyện gì?” bà lại hỏi, tức giận trong giọng . “Chúng ta chờ đợi điều gì, Nicholas Chúng ta đợi quá lâu và bây giờ chúng ta chẳng còn nhiều thời gian nữa. Chúng ta chỉ có thể sống được vài tuần nữa thôi…”

      “Đừng vậy,” Ông nhanh chóng đáp lời. “Tại sao ? Nó là . Nếu em sống sót được sau tuần hay mười ngày,vậy là may mắn rồi. Nhưng có biết rằng: Cả hai ta cùng sống đủ lâu để thấy cái kết của thế giới mà ta biết. Các Elder đen tối có gần hết cuốn Codex, ngày Hạ chí cũng đến gần. Nhiều Elder đen tối lại tự do trong thế giới này, và với em có Archon ở London.” Bà chỉ tiếp về phía vịnh. “Còn Alcatraz đầy rẫy các loại quái vật chờ ngày được thả vào thành phố. Có những sinh vật em còn chưa gặptrong hàng nhiều thế kỷ nay.” Nicholas giơ tay đầu hàng, nhưng Perenelle vẫn chưa hết. “Chuyện gì xảy ra, nghĩ xem, nếu San Francisco bị giày xéo bởi những cơn ác mộng đen tối nhất trong các câu truyện thần thoại của loài người? Hãy cho em biết,” Bà cầu. “ nghiên cứu lịch sử và quá trình tự nhiên của con người, cho em biết chuyện gì xảy ra.” Cơn tức giận làm cho dòng điện chạy lách tách tóc của bà. “Hãy !” “ mớ hỗn độn.” Ông thừa nhận. “Bao lâu trước khi thành phố sụp đổ?” Cái dây buộc tóc bằng nhựa vỡ ra và mái tóc của bà ánh lên hai màu đen và bạc cứ kêu lên tanh tách. “Vài tuần, vài ngày, hay vài giờ? Và khi thành phố này trở thành đống đổ nát, chắc rằng bọn quái vật lan ra cả châu Mỹ giống như trận dịch vậy. nghĩ loài người – thậm chí với tất cả vũ khí và kỹ thuật tối tân nhất của họ –có thể sống sót mà chống lại chúng trong bao lâu?” Nhà giả kim lắc đầu và nhún vai. “Bọn họ từng tàn phá nhiều nền văn minh trước đây.” Perenelle . “Lần cuối cùng các Elder đen tối thả lũ quái vật vào thế giới này, Popeii biếnmất.” Nicholas rướn người, lặng lẽ mở chiếc hộp gỗ trong tay vợ mình. “Điều cuối cùng chúng ta làm, Nicholas, trước khi tuổi già và cái chết bắt kịp ta, là phá hủy đội quân ở Alcatraz. Do vậy, ta cần đồng minh.” Bà vỗ lên nắp chiếc hộp. “Chúng ta cần vật này.” Nhà giả kim xoay chiếc hộp và đặt nó lên giường. Mặt của nó được chạm ba hình xoắn ốc, và Nicholas dùng ngón tay mình lần theo những đường cong này. Ông mua chiếc hộp tại chợ trời ở Delhi, Ấn Độ, chỉ chừng ba trăm năm trước. Sau đó, ông phác thảo hình xoắn ốc này với thanh củi. nghệ nhân địa phương giúp họ biến hình xoắn ốc này thành bốn mặt của chiếc hộp, và nắp, và đế của nó. “Ở nước tôi, đây là dấu hiệu bảo vệ cổ xưa cực kỳ quyền lực.” Người đàn ông thó nhăn nheo lẩm bẩm bằng tiếng Hindi, nghĩ rằng mấy người nước ngoài này hiểu được gì. Ông bị sốc khi gã người Tây kia nhấc chiếc hộp từ tay ông và trả lời bằng cùng ngôn ngữ, “Ở chỗ tôi cũng vậy.” Chẳng hề có khóa hay then cài nào cái hộp, Nicholas cẩn thận nhấc phần nắp được chạm trổ ra rồi đặt nó lên giường. Mùi hương của hoa nhài và gia vị cũng tràn vào khí: thứ mùi lẫn vào đâu được của nước Ấn Độ. Ông vừa chạm tới phần được bọc vải bên trong Perenell đột nhiên chộp lấy cánh tay ông, các ngón tay của bà ấn vào da thịt ông. Ông quan sát trong khi bà cẩn thận nhấc tay

      mình ra và hơi nghiêng đầu. Bà lắng nghe. Nicholas cũng nghe thấy: ai đó lén lút vào cửa hàng bên dưới.

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chap 10

      Đám đông khách du lịch về khuya ở Covent Garden , London, chẳng thèm để ý đến người phụ nữ mảnh dẻ với suối tóc đen óng. đến vị trí chính giữa hai trong số những cây cột trước tiệm rượu Punch & Judy và đặt chiếc hộp vuông bọc da với những hình xoắn ốc màu đỏ lên chiếc thuyền dẹt dưới chân mình. Cuối cùng, lần giở lớp da khác ra chiếc sáo gỗ được chạm khắc tinh xảo. Đặt cây sáo lên môi, nhắm mắt lại, khẽ thổi. thanh tuyệt diệu. Nhờ các cột đá dội lại, thanh ám ảnh mà thanh tao ấy trôi dạt ra Covent Garden, làm cho mọi người phải dừng cuộc vui. Chỉ vài phút sau, đám đông tụ lại thành vòng tròn xung quanh người phụ nữ. Vẫn tiếp tục đứng cách duyên dáng, vừa nhắm mắt vừa chơi nhạc. Đây là giai điệu mà chưa ai trong đám đông kia nhận ra được, dù rằng vài người mơ hồ thấy nó có vẻ quen đấy, số khác nhận ra các ngón tay hay chân của mình, như có ai sai bảo, nhịp theo điệu nhạc. Thậm chí số người cũng bắt đầu rơi lệ. Cuối cùng, bản nhạc có vẻ xa xưa ấy kết thúc với nốt cao vút giống như có vài con chim bay lượn ở ngay phía vậy. im lặng kéo dài và người nhạc công mở mắt, khẽ cúi người. Đám đông nhiệt liệt hưởng ứng, hầu hết đột ngột quay lại và thẳng tới Apple Market. Vài người khác móc tiền ra –đồng bảng , tiền xu Mỹ và Euro – bỏ vào cái túi da và hai người hỏi người chơi sáo có bán CD nhạc của mình , nhưng lắc đầu và giải thích mỗi màn biểu diễn đều khác biệt và độc nhất. cám ơn họ quan tâm bằng giọng thủ thỉ ngọt ngào che giấu chất giọng vùng biển phía Đông nướcMỹ của mình. Cuối cùng, chỉ còn lại duy nhất người: Người đàn ông lớn tuổi nhìn chăm chú vào , đôi mắt xám theo sát từng cử động của khi lau chùi chiếc sáo và xếp nó trở vào cái túi vải thủ công. Ông chờ đến khi cúi xuống gom tấm vải da đỏ cùng mớ tiền xu rồi bước tới và đặt tờ 50 bảng lên mặt đất. Người phụ nữ nhặt nó lên, nhìn vào ông, nhưng ông di chuyển tới chỗ ánh đèn bị che khuất sau lưng, giấu khuôn mặt mình vào bóng tối. “ tờ 50 bảng khác nếu dành chút ít thời gian trò chuyện với tôi.” đứng thẳng lên. “Giọng của người quen đây mà.” cao hơn người đàn ông, và trong khi khuôn mặt thanh thoát của vẫn chẳng có chút xúc cảm gì, cặp mắt xám đen của lại ánh lên cái nhìn thích thú. “Tiến sĩ John Dee,” lẩm bẩm bằng thứ tiếng chẳng còn tồn tại ở từ thời nữ hoàng Elizabeth thế kỷ 16. “Quý Virginia Dare,” Dee trả lời, dễ dàng sử dụng cùng loại ngôn ngữ. Ông nghiêng đầu và ánh sáng ban đêm chiếu vào khuôn mặt ông. “Rất vui lại được gặp .”

      “Tôi lại nghĩ vậy.” liếc nhanh về hai bên, hai cánh mũi phập phồng. Lưỡi rung lên, hơi giống của loài rắn, gần như thể nếm khí vậy. “Tôi chắc muốn bị bắt gặp chuyện với ông. Cái chết của ông được định, tiến sỹ. Đám tay sai chỉ vừa hôm qua săn đuổi nhà giả kim nay chuyển sang ông rồi. Nụ cười của chẳng hề có tình cảm nào cả. “Làm sao ông biết tôi giết ông rồi nhận phần thưởng.” “Ồ, thực ra có tới hai lý do. , tôi biết chủ nhân muốn tôi còn sống. Hai, các chủ nhân Elder bóng tối có rất ít cái giá để trao đổi với .” Dee , hơi cười. “ bất tử sẵn rồi, và chẳng có chủ nhân nào cả.” “Mạng ông đáng giá lắm đấy.” Virginia , nhét tiền vào túi áo của mình. ấn mớ vải da vào cái túi khác và đeo cái sáo lên vai, giống như đeo súng trường vậy. “Còn tôi có thể cho hơn thế.” Dee tự tin . “Nhiều hơn thế nữa.” “John,” Virginia trìu mến gọi, “Ông lúc nào cũng khoác lác cả.” “Nhưng tôi chưa bao giờ lừa dối .” Virginia hơi ngạc nhiên.Mất đến vài phút tiếp, thừa nhận với Dee “, chưa hề.” “Và thắc mắc tại sao à?” Ông hỏi. “John, ông biết tôi lúc nào cũng tò mò mà.” Dee cười. “ muốn điều gì nhất đời này?” cái nhìn chứa đầy những mất mát khủng khiếp thoáng khuôn mặt Virginia Dare, đôi mắt như có mây mù. “Dù là ông cũng thể cho tôi cái tôi muốn.” Pháp sư hơi cúi người.Ông quen biết Virginia Dare hơn bốn tram năm. có lúc họ từng nghĩ đến hôn nhân, nhưng ông phải thừa nhận rằng ông chẳng biết gì về con người bất tử bí này. “Ông có thể cho tôi vương quốc bóng tối?” khẽ hỏi. “Tôi cho rằng mình có thể làm tốt hơn thế. Tôi có thể cho cả thế giới.” Virginia Dare dừng lại ngay chính giữa Covent Garden. “Thế giới nào?”. “Chính thế giới này.” khoác cánh tay Dee và chỉ về quán cà phê ở phía đối diện quảng trường. “Ông có thể mua cho tôi cốc trà chứ, rồi chúng ta cùng bàn bạc. Tôi luôn thích thế giới này.” Dee đứng như trời trồng, nhìn chằm chằm về phía bên trái. Virginia từ từ quay lại, hai cánh mũi lại phập phồng lần nữa. bộ ba gãtrọc đầu vào quảng trường. Chúng mặc cùng kiểu đồ, áo thun bẩn thỉu, quần jean và ủng làm việc. Cánh tay và vai chúng đầy những hình xăm, và gã, tên thấp nhất, xăm hình xoắn ốc đen đỏ uốn lượn từ yếu hầu tới đỉnh đầu gã. “Cucubuths,” pháp sư lẩm bẩm. “Có lẽ chúng ta ra khỏi đây mà bị chúng để ý…” Dee ngừng lại, khi trong ba gã kia nhìn về phía hai người. “Hoặc là .” Ông thở dài.

      Virginia dare lùi về phía sau bước rồi hai bước, để mặc ông đứng mình. “Tạm biệt ông, tiến sĩ.” “ vẫn thay đổi, Virginia,” Ông . “Đó là lý do tại sao tôi sống sót được lâu đến thế. Tôi bao giờ đứng về phía nào cả.” “Có lẽ phải thay đổi thôi.”

      Chap 11

      Hai con quạ lớn, Huginn và Muninn, rảo khắp London. Dù trông chúng giống như những con chim bình thường, thực những sinh vật này có tuổi đời gần bằng với lịch sử loài người. Chúng sống cũng chết mà tồn tại theo cách nào đó ở giữa hai khá niệm này. Thực tế, chúng sở hữu sức mạnh sử dụng ngôn ngữ loài người và được tạo ra bởi nữ thần quạ-ba-mặt, Hekate, để làm quà tặng cho Elder mắt Odin.

      Nhưng giờ Hekate còn nữa – lần đầu tiên Elder bị sát hại như vậy – và vương quốc bóng tối của bà cũng như các vương quốc tiếp giáp Asgard và Niflheim cũng tránh khỏi cảnh bị phá hủy. Tất cả là do Dee. Rất nhiều Elder muốn Dee phải chết, thế nhưng những ngày sau vụ phá hủy tại Yggdrasill và các vương quốc bóng tối, chủ nhân Elder bóng tối quyền lực của Dee bảo vệ cho gã. Tiếp sau vụ tàn sát tại Paris và cuộc đào thoát của Nhà giả kim cùng cặp sinh đôi tại , bảo vệ đó, tiếc thay, bị thu hồi. Khi Dee được phán là mộtutlaga(người bị truy nã, cho bạn nào nhớ :p) gã trở thành canh bạc được chia đều cho tất cả. Odin thề trút lên Dee trả thù kinh khủng nhất, kẻ phải chịu trách nhiệm cho cái chết của Hekate, người mà ông từng quý. Vị Elder mắt biết rằng kẻ thù gớm ghiếc của ông Hel thoát ra được vương quốc bị phá hủy của mình, Niflheim, và cũng truy tìm Dee, nhưng Odin quyết tâm phải tìm và xử lý Pháp sư trước tiên. Do vậy, ông gửi tin nhắn của mình vào vương quốc bóng tối của loài người. Hai con chim sục sạo cả thành với với con mắt nhìn thấu được mọi vật, đánh động trước bất kỳ hành vi khác thường nào. Chúng nhận thấy và báo về với Elder hàng nghìn sinh vật di chuyển những con đường đông đúc của thành phố. Lượn lờ đống tàn tro của cái sân xe cũ ở London, trôi theo những luồn gió, chúng cảm thấy được các dấu hiệu mỏng manh của từ những nguồn năng lượng tuyệt đỉnh và cổ xưa. Rảo Salisbury Plain, chúng bay quanh vùng Stonehenge, nơi khí vẫn còn nồng mùi cam và vanilla, mặt đất bị giày xéothành bùn bởi những dấu móng chằng chịt. Sau đó, chúng trở lại thành phố và lười biếng lượn theo những luồn gió trong khí, gần như quá cao đến nỗi thể thấy được, cứ thế đảoquanh thành phố nhiều vòng, chờ đợi, chờ đợi, chờ đợi.

      Và vì chúng biết được ý nghĩa của thời gian, chúng chờ đợi, đến vĩnh viễn cũng được.

      Chap 12

      THE NECROMACER THẦY GỌI HỒN PHẦN 4 BỘ NICHOLAS FLAMEL BẤT TỬ Ba gã trọc đầu tiến gần tới Dee. “ có phần thường cho bọn mày,” gã có hình xăm sọ người , đứng ngay trước mặt tiến sĩ. Dù vị pháp sư được cao lắm, gã này thậm chí còn thấp hơn ông dễ đến 1 inch (2.54cm). Đôi môi ta mấp máy, cố bắt chước nụ cười của con người, nhưng miệng đơn thuần chỉ phát ra tiếng động gầm gừ man rợ, lộ ra hàm răng xỉn vàng. “ phần thưởng hậu hĩ.” “Còn sống,” tên khác thêm vào. cũng chiếm lấy vị trí bên phải Dee. “Dù cần thiết phải nguyên vẹn,” gã thứ ba từ vì trí bên trái. Gã là tên to nhất trong cả bọn. Gã mặc cái áo xanh cáu bẩn, có vẻ bị căng cứng do những cơ bắp to khỏe bên trong. “Cuộc đời thay đổi mới ngoạn mục làm sao,” tên cầm đầu . Giọng pha giữa vùng Bắc London với vùng phía đông châu Âu. “Ngày hôm qua, chúng tao làm việc cho mày, săn đuổi Nhà giả kim. Vậy mà hôm nay chúng tao lại săn tìm mày.” chà mạnh hai tay. “Cái giá cũng gấp đôi. Tao nghĩ có lẽ cái giá của Flamel và bọn trẻ khá là thấp đấy.” lại mỉm cười. “Mày lúc nàocũng rẻ mạt cả, tiến sĩ Dee.” “Tôi thích dùng chữtằn tiệnhơn.” Dee bình tĩnh đáp. “Tằn tiện. Hay đấy. Tao cá nó nghĩa là “rẻ mạt”. rồi nhìn hai tên bạn của mình, cả bọn cùng gật đầu. “Rẻ mạt,” tên nhắc lại. “Keo kiệt,” tên lớn nhất thêm. “Tằn tiện thể mua nổi lòng trung thành. Nếu mày chi cho tụi tao thêm chút đỉnh, bọn tao có lẽ hành động theo kiểu khác rồi.” “Nếu tôi trả thêm cho các người, các người sẽlàm như vậy chứ?” Dee tò mò hỏi lớn. “Chắc là ,” gã kia . “Chúng tao là thợ săn. Chúng tao túm lấy con mồi mình săn đuổi.” Dee mỉm cười mỉa mai. “Nhưng các người bắt được Flamel và bọn trẻ ngày hôm qua đấy thôi,” ông . Gã thấp người nhún vai miễn cưỡng. “À, phải…” “Thất bại,” Dee nhắc. Gã xăm mình bước gần hơn, thấp giọng trong lúc liếc nhìn ngang dọc. “Bọn tao lần được mùi của bọn chúng ở nhà thờ St.Marylebone. Sau đó bọn Dearg Due xuất ,” gã thêm, giọng có phần sợ hãi. Dee gật đầu, cẩn thận giữ cho khuôn mặt mình vẫn ở thế chủ động. Mùi hôi thối bốc ra từ bọn này khó chịu – hỗn hợp của thịt hư thối, quần áo hôi hám và cơ thể tắm gọi. Cucubuth là những thợ săn, con cái của ma cà rồng và Torc Madra, giống thú hơn người, và ông đoán phải có ít nhất trong số ba gã này giấu

      đuôi bên trong quần. Nhưng thậm chí lũ lính đánh thuê này cũng phải sợ Dearg Due, đám Hút Máu Người. “Bọn chúng có bao nhiêu người?” ông hỏi. “Hai,” Tên cầm đầu thầm. “Là phụ nữ,” thêm, gật đầu dứt khoát. Dee lại gật gù, đám phụ nữ luôn luôn hung bạo hơn đám đàn ông. “Nhưng họ bắt Flamel hay cặp sinh đôi,” ông lại hỏi. “.” Gã kia nhe răng cười, lộ hàm răng đáng sợ. “Chúng bận đuổi theo bọn tao. Bọn tao cắt đuôi chúng ở công viên Regent. Kể ra cũng xấu hổ chút vì bị đuổi trong công viên bởi hai kẻ trông giống như nữ sinh vậy.” thừa nhận. “Nhưng bắt được mày bù lại được nhiều hơn phần ấy nữa,” gã . “Ông vẫn chưa bắt được tôi đâu,” Dee lẩm nhẩm. Gã cucubuth lùi lại, dang rộng hai cánh tay. “Mày làm gì hả, tiến sĩ? Mày dám sử dụng năng lượng đâu. Dòng điện làm cho mọi thứ – ý tao là mọi thứ– ở London tìm kiếm mày. Mà dù mày có dùng nó để tẩu thoát chăng nữa, mùi sunfuaric cũng bám theo mày hàng giờ đồng hồ. Rồi mày cũng bị bắt tới tận ổ thôi.” Gã cucubuth đúng, Dee biết. Nếu ông sử dụng dòng điện, tất cả các Elder thường, Elder đen tối và người bất tử ở London đều biết vị trí của ông. “Vậy mày có thể cùng chúng tao trong im lặng…,” gã cucubuth đề nghị. “Hoặc là chúng tao phanh phui vị trí của mày bây giờ,” gã lớn hơn tiếp lời. Tiến sĩ Dee thở dài và liếc nhìn đồng hồ. Ông sắp hếtthời gian rồi. “ vội sao, tiến sĩ?” Gã cucubuth hỏi, miệng cười nhăn nhở. Tay phải của Dee di chuyển. Ban đầu cánh tay hơi ở ngang hông, sau đó lòng bàn tay lật lên, tới góc nhất định, vừa vặn để lòng bàn tay chụp lấy cằm của sinh vật kia. Răng của gã xăm mình va vào nhau, lực của cú đánh nhấc bổng lên và cho hắm nằm bò lên đống sỏi lát đường. Chân phải Dee đá mạnh, trúng gã to con nhất, làm toàn bộ chân tê liệt rồi cho rớt xuống vũng nước bẩn với cái nhìn ngạc nhiên sửng sốt khuông mặt tàn bạo to bè của .(>”< Đoạn đánh nhau này mình hiểu lắm). Tên cucubuth thứ ba nhảy lùi ra sau. “Sai lầm, tiến sĩ à,” gã gầm ghè, “sai lầm lớn.” “Tôi phải người mắc sai lầm,” Dee nhủ thầm. Ôngbước tới gần hơn, hai tay buông thõng. Pháp sư sống sót qua hàng mấy thế kỷ nay vì người ta luôn đánh giá thấp ông. Họ chỉ thấy người đàn ông mảnh dẻ tóc bạc. Thậm chí cả những người biết đến danh tiếng ông cũng chỉ nghĩ ông là học giả. Nhưng Dee còn nhiều- nhiều nhiều hơn thế nữa. Ông từng là chiến binh. Khi ông vẫn còn là con người bình thường, và sau này khi ông trở nên bất tử, Dee từng du lịch khắp châu âu. Đó là thời còn nhiều hỗn độn, khi bọn kẻ cướp và tội phạm gầm rú khắp nơi, thậm chí đến cả các thành phố cũng chẳng an toàn chút nào. Nếu muốn sống sót, người ta phải tự bảo vệđược mình. Rất nhiều người mắc sai lầm khi đánh giá thấp tiến sĩ người này. Đó là sai lầm ông bao giờ cho phép họ lặp lại. “Tôi cần dùng dòng điện để đánh nhau với các người.” Pháp sư nhàng .

      “Tao là cucubuth,” sinh vật tự mãn . “Mày có thể làm em tao bất ngờ, nhưng trò đó tác dụng gì với tao đâu.” Pháp sư nghe có tiếng gầm gừ đằng sau. Ông liếc nhìn qua vai, gã cầm đầu trườn bò về phía chân ông. nâng cằm bằng cả hai tay, đôi mắt đờ đẫn. “Mày làm em tao bị thương.” “Tôi dám chắc lành lặn như xưa thôi,” Dee . Cucubuth là loài sinh vật hầu như gì giết được, chúng thậm chí có sức mạnh của các ma cà rồng để tự chữa lành vết thương. Gã to nhất từ từ tới gần, vẫn còn đau đớn ở chân. cố gắng đứng thăng bằng cách kì quái chân trái, chân phải chà chà, cố gắng lấy lại cảm giác. “Quần jeans của tao cũng hỏng nốt,” gã rống lên. Phần ống và đũng quần jeans của gã lấm lem những nước bẩn. “Mày tính làm gì đây, tiến sĩ?” Gã chưa bị thương lên tiếng. “Cứ tới gần đây rồi tôi cho các người thấy.” Nụ cười của Dee cũng xấu xí và man rợ như bọn cucubuth vậy. Gã kia đột nhiên quay ngoắt đầu lại, tạo ra thanh mà chẳng có con người nào làm được. Vừa giống tiếng sủa lại vừa giống tiếng tru vậy. Những con bồ câu tụ tập mái nhà của Covent Garden bay vù lên, tiếng vỗ cánh như có tiếng nổ lớn vậy. Gần đó, tiếng sói tru vang vọng các mái nhà của London. Cứ tiếng này rồi tiếng khác nối tiếp nhau, cho tới khi khí đầy ụ những thanh hoang dại. Những đường nét của con người hằn mặt gã cucubuth khi gã cười vang. “Đây là thành phố của chúng tao, tiến sĩ à. Chúng tao trị vì Trinovatum từ trước khi người La Mã tuyên bố nơi đây thuộc chủ quyền của họ. Mày biết có bao nhiêu đứa bọn tao ở đây ?” “Có lẽ là nhiều hơn nhúm đấy.” “Hơn, hơn thế nhiều,” sinh vật gầm gù. “Và chúng tới đây. Tất cả bọn chúng.” Từ khóe mắt của gã, ông nhìn thấy những chuyển động. Liếc nhìn phía , ông thấy hình dáng di chuyển mái nhà hình tam giác của nhà thờ St.Paul phía đối điện. gã đầu trọc xuất , bóng lên bầu trời đêm, rồi tên khác, lại tên khác nữa. chấn động xảy ra ở bên kia quảng trường khi sáu tên đầu trọc xuất , rồi, ở lối vào đối diện, thêm ba tên khác ra. Đám khách du lịch, nhận thấy cuộc đổ bộ bất ngờ của đám trọc đầu và sợ hãi trước những tiếng gầm gừ, dần tản ra. Các cửa hàng cũng gấp rút đóng cửa. Trong vài phút, chỉ còn lại đám cucubuth trọc đầu thống trị quảng trường Covent Garden đầy sỏi đá. “Giờ , mày làm gìhả, tiến sĩ Dee?”

      Tiếng động vang vọng các nóc nhà London đánh động lũ quạ: tiếng tru hoang dại của bọn cucubuth có thời làm cho loài người nguyên thủy trong các hang động phải khiếp sợ. Huginn và Muninn hướng về phía có thanh này. Lũ chim két và quạ lũ lượt kéo qua chúng, lũ sinh vật bé tỏ ra sợ hãi cùng cực. Bọn chim câu cũng trong trạng thái gần như hoảng loạn, nhưng thể làm gì được Chúng đậu lại mái của những ngôi nhà xung quanh cái quảng trường rộng rắc đầy sỏi cuội nhưng rồi cũng hốt hoảng bay khi tiếng tru nữa lại xé toang màn đêm. Hai con quạ bay dọc sông Thames, băng qua con đê Victoria và nhà hát Opera hoàng gia. húng nhận thấy đám cucubuth đầu tiên những con đường phía dưới, xuyên qua cả cái lốt gần-như- người của chúng, nhìn thấu ra cái bản chất quái-người bên dưới, với những răng nanh và móng vuốt. Mỗi cucubuth đều thủ sẵn dòng điện đen tối của mình. Chúng có hàng trăm tên, chạy, nhảy nhót, bộ, mình hoặc thành từng cặp, tất thảy hội tụ trong cái gian kín của Convent Garden. Ngay lập tức, lũ quạ biết rằng chúng tìm thấy Pháp sư người kia. chần chừ, mỏ chúng hoạt động, phát ra từ duy nhất: “Dee.” Và tại nơi nằm ngoài giới hạn thời gian, trong vương quốc bóng tối biệt lập, Odin thức giấc. Đôi mắt khổng lồ màu đen của vị Elder này mở to, nhưng ông hề thấy cánh đồng tuyết rét buốt và tinh thể đá tụ lại xung quanh. Cái ông thấy là cảnh tượng trong bức họa thay đổi liên tục, thanh: con người đơn độc bị bao vây bởi ba gã cucubuth. Ngoài ra, hàng đàn những tên cucubuth khác tiến tới ngày gần hơn. Và dù chẳng có biểu gì từ dòng điện đặc biệt của Dee, Odin biết con người kia ai khác chính là Pháp sư. Vị Elder cười nham hiểm, để lộ hàm răng của mình. Những người chủ của Dee muốn đưa về để kết tội và trừng phạt, nhưng Odin lại có kế hoạch khác. Ông lùi ra xa khỏi sinh vật sống duy nhất trong vương quốc của mình – phiên bản của Yggdrasill – và sẵn sàng băng qua các vương quốc bóng tối.

      Chap 14

      Cậu tìm thấy cửa hậu vào hiệu sách. Josh Newman xốc ba lô, bước vào cái sảnh tối hù và chờ đợi, cho đến khi mắt cậu quen dần. Mùi hôi kinh khủng –mùi mục nát pha lẫn với mùi nấm mốc, nhưng cái

      mùi mốc ấy vẫn át nổi mùi trứng thối độc hại. Josh cố gắng chỉ thở bằng miệng. Nhắm mắt lại, cậu tập trung lắng nghe. Kể từ khi Mars Ultor đánh thức, cậu trở nên cực kỳ nhạy bén với các giác quan để nghe, nếm, và ngửi. Loài người đại dựa dẫm quá nhiều vào thị giác; Josh giờ nhận ra rằng các giác quan được đánh thức của cậu giống như các giác quan của loài người thuở xa xưa từng có để sinh tồn. Nhưng hề có tiếng động nào trong căn nhà: thậm chí nó còngiống nhưbị bỏ hoang vậy. Cách đây chưa đầy tuần, cậu còn chạy lên xuống hành lang này để dỡhàng đống sách từ xe tải. Giờ tất cả các hộp từng được xếp chồng cẩn thận hóa đen với đủ thứ mốc meo, bên thùng rách toác, mấy cuốn sách phồng lên như trái cây thối, gần như nhận ra nổi. Cáchđây chưa đầy tuần. Dòng hồi tưởng đột nhiên làm Josh nhận ra cậu thay đổi như thế nào trong vài ngày qua, cậu phát được bao nhiêu điều và có quá ít những điều mà cậu – và cả thế giới –biết về . Hít hơi sâu, để mùi hôi hám chui tọt vào cổ họng, Josh bèn mở mắt, men theo hành lang, đẩy cánh cửa và bước vào cửa tiệm. Và dừng lại trong choáng váng. Cửa tiệm hóa thành đống đổ nát, bị phủ lên lớp bụi và mốc meo –nó mục ruỗng ngay trước mắt cậu. Ánh nắng xộc vào qua khung cửa bám bụi cho thấy khí toàn những đám bào tử trôi nổi. Josh mím chặt môi; cậu muốn liều mình cho chúng lọt vào miệng. Bước về phía trước, cậu cảm thấy tấm sàn ọp ẹp kêu răng rắc dưới sức nặng của mình. cái bong bóng chứa chất lỏng màu đen hôi thối xuất gỗ, rồi chân cậu bắt đầu bị lún xuống. Vội rút chân lại, Josh nép mình vào tường, phát ra nó cũng bị ăn mòn đến nhầy nhụa. Lớp thạch cao mềm đến độ ngón tay của cậu có thể hằn lên nó nữa. Nhìn quanh, Josh thấy rợn người khi nhận ra cửa tiệm bị ăn mòn: Đám nấm này ăn tất thảy mọi thứ –gỗ, giấy, thảm. Vài giờ nữa nơi này như thế nào đây? Cậu đến tiệm sách vì Nicholas và Perenelle sống ở căn hộ phía nó, và cậu mong họ trở về đây. Liếc nhìn phía , Josh nhận thấy có lỗ hổng trần nhà, chỗ đám dây điện và rầm nhà. (>”< Ai biết rầm nhà là gì chỉ giúp mình với). Josh chợt tự hỏi mất bao lâu những trụ cột trong nhà chống đỡ nổi và tầng lầu đổ xuống, sau đó cả căn nhà ập xuống tầng hầm. Josh lách người dọc theo bức tường, hướng về phía cầu thang. Chắc chắn nhà Flamels phải có hơn nơi cư trú trong thành phố. Họ ắt hẳn lập các địa điểm để trốn nếu gặp nguy hiểm. Josh hy vọng cậu tìm thấy địa chỉ nào đó lầu – hóa đơn, thư từ, vật gì đó, bất kì vật gì có thể gợi ý cho cậu nơi họ trú ngụ. Lan can bị trật ra khi cậu vịn lấy, phần gỗ bây giờ mềm như cọng bún vậy. Josh rút tay lại, đầy kinh tởm, vừa định chùi chùi lên quần cậu ngừng lại. Nếu bọn nấm mốc quái quỷ này có thể ăn thủng cả gỗ, vậy quần cậu ra sao? Có lẽ điều cuối cùng cậu muốn

      đời này là để quần của mình bị mục rữa ra. Chúng có thể ăn da thịt cậu nhỉ? Josh đột nhiên tự hỏi, tránh khỏi giật mình. Khao khát được quay lại và chạy gần như lấn át, nhưng cậu biết rằng cơ hội duy nhất để tìm chị mình nằm trong tay Flamel, thế là cậu bước tiếp lên cầu thang. Mỗi bước nay hứng chịu cả sức nặng của cậu. Josh được nửa đường, bàn chân cậu bước từng bậc cầu thang bị hư hại nặng nề. Cậu có thể cảm thấy cả cầu thang rung chuyển, và nó sắp sập rồi. Josh phóng người lên nốt phần đường còn lại vừa kịp lúc chiếc cầu thang lắc lư và đổ sụp xuống cửa tiệm bên dưới. Trống ngực Josh đập vào phần sàn nhà, chân cậu lơ lửng trong trung còn tay cậu cố gắng bấu víu lấy tấm thảm dày lót sàn, nhưng nó lại bị rách và tước ra thành chỉ trong tay . Cậu cố gắng la hét nhưng thanh bị tắc lại trong cổ họng mất rồi. phần thảm rách ra và Josh bị giật lùi lại… Những ngón tay cứng như sắt túm lấy cổ tay cậu. Josh được kéo lên, cậu bắt gặp ánh mắt màu xanh lục của Perenelle Flamel. “Josh Newman,” bà lẩm nhẩm khi kéo cậu ngồi chỉnh tề sàn. “Chúng ta nghĩ là cháu.” Nicholas xuất ở cửa ra vào và dừng lại bên cạnh vợ mình. “Chúng ta nghĩ là…có rắc rối.”, ông khẽ. “Gặp được cháu tốt rồi.” Josh chà chà cổ tay tê cứng. Sức mạnh của Perenelle đáng kinh ngạc, bà xém tí nữa bẻ ngược vai của Josh lúc bà kéo cậu đứng thẳng lên. Cậu ấn bàn tay lên ngực, ngay vị trí đập vào sàn và hít sâu. Có vài vết bầm, nhưng cậu nghĩ mình vẫn chưa bị gãy cái xương sườn nào cả. “Có chuyện gì vậy, Josh?” Perenelle nhàng, đôi mắt bà dò xét khuôn mặt Josh. Rồi bà tự trả lời: “Sophie.” “Sophie biến mất.” Josh đứt quãng. “Chị ấy bị tự xưng là Aoife bắt cóc. ta ta là chị của Scathach,” cậu thêm. “Mà ấy giống Scathach.” Cậu có thể thấy vẻ mặt hai người kia hơi thay đổi, nỗi sợ hãi thoáng qua cặp mắt của Nhà giả kim. “ tốt rồi.” Perenelle gật đầu. “ tốt chút nào.” THE NECROMACER -THẦY GỌI HỒN -PHẦN 4 BỘ NICHOLAS FLAMEL BẤT TỬ

      Chap 15

      “Hai mươi…hai mươi mốt (Tiếng Pháp)…hai mươi hai.” Joan of Arc trượt xuống dốc cỏ bắt kịpbạn đồng hành của mình dọc theo bờ của con suối cạn. “ gọi hai mươi hai con hổ răng kiếm là gì nhỉ?” người phụ nữ mảnh dẻ mắt nâu hỏi. “ nhóm, bầy?” “Tôi gọi chúng là rắc rối.” Scathach đáp gọn. đứng thẳng người, nhìn về phía con dốc. “Ý là chúngđang về phía này.” Joan gật đầu. “Chúng về đây.” đáp với nụ cười. Scathach nhịp nhịp chân ở bờ suối. Có cái hố lớn hình bàn chân ở giữa đám bùn. “Đây là chỗ uống nước của chúng.” Nhắm mắt lại, hít hơi sâu và ra dấu

      bằng thanh kiếm ngắn. “Thêm vài con nữa tới từ phía nam.” “Và cả phía đông.” Joan thêm vào. Scatty mở to mắt, nhìn bạn mình. Ánh nắng cuối chiều làm làn da của Joan như được dát vàng vậy. “Làm sao biết?” Người phụ nữ Pháp kéo lấy vai nữ chiến binh tóc đỏ và xoay người lại. Ba con hổ răng kiếm to lớn xuất đám cỏ. Chúng đứng yên, răng nhe ra, mắt mở to chớp, chỉ có đuôilà khẽ đưaqua lại. “Đánh hay chạy?” Joan hỏi. “Nếu chạy, chúng đuổi theo ta.” Scatty , giọng vô cảm. “Nếu đánh, chúng áp đảo chúng ta. Bọn chúng quá đông. Dễ có đến ba mươi con cả thảy.” Con hổ lớn nhất di chuyển chậm chạp và tiến tới thăm dò. Cặp mắt vàng khè to cộ dán chặt lấy Scathach.

      “Nó thích đấy.” Joan rù rì. chạm lấy thanh gươm đeo vai và nhận thấy nếu tất cả đám hổ này tấn công cùng lúc, vũ khí của trở nên vô dụng. “Tôi ưa chó hơn,” Scathach , quan sát con hổ kỹ. “Với chó, biết được mình ở đâu.” rồi, Scathach đút kiếm vào bao ở sau lưng và rút nunchaku (côn =D ) từ phía bên hông ra. “Ở yên đó.” ra lệnh, và trước khi Joan trả lời, kịp lao về phía con hổ. Con vật vẫn đứng im. Nữ chiến binh nhảy lên , thanh côn quay tròn , kêu vù vù trong tay . Con hổ cong người, đuôi quất lên, nước bọt nhễu ra thành từng dòng bộ răng vĩ đại… và nó nhảy chồm lên, vuốt mở to ra. “Scatty!” Joan thở hổn hển, khi nữ chiến binh tóc đỏ tung mình trong trung, giống như vận động viên bơi lội nhảy ào xuống biển vậy. Thoắt cái, đối mặt với con hổ, chiếc côn vung ra, phần cán của khúc gỗ dài 12 inch đập vào xương sống của con vật.

      Scatty lại xoay vòng rồi tiếp đất nhàng. Còn con hổ, bị đòn đau đến mức choáng váng, té uỵch xuống đất. Con thú cố run rẩy đứng dậy, nhưng loạng choạng rồi lại té xuống. Scatty quay sang hai con khác, đập đập cây côn vào lòng bàn tay trái. Hai con vật nhìn , rồi nhìn con bị thương, chúng lùi lại, lẩn khuất trong đám cỏ lau. Joan ngoảnh mặt lại, bọn hổ khác cũng biến mất. “Rất ấn tượng.” . “Phải dạy cho chúng biết ai là chủ ở đây.” Scatty nở nụ cười khuôn mặt có phần hoang dại của mình. “Nhưng tôi đánh trượt đâu.” vỗ vỗ lên con vật to lớn. “Đầu nó đau lắm cho coi.” Joan of Arc đứng thẳng lên, vỗ vào vai bạn mình. “Gì vậy?” Scatty nhìn lên. Joan gật đầu hướng về phía ngọn đồi. Hai mươi hai con hổ răng kiếm tề tựu đó. Vừa có hai con nhập nữa nhập bọn, rồi lại bốn con khác. Chúng đều nhìn về phía hai người phụ nữa, tiếng gầm làm rung chuyển mặt đất. “ có nghĩ đây là con đầu đàn ?” Joan hỏi. Đám hổ tách ra và con hổ răng kiếm xuất . Nó khá to lớn, đầu nghểnh cao, vai rộng và dài ít nhất là gấp rưỡi những con khác. Lông nó màu trắng với các vết sẹo có từ lâu rồi, trong những răng dưới của nó bị mẻ, và mắt trái nó chỉ là khối cầu đục ngầu. “Con này chính là đầu đàn.” Scatty , lùi về sau bước. Con mắt duy nhất của con hổ nhìn từ con bị thương dưới đất sang Scatty, lại trở về con hổ bị thương. Rồi nó ngoác miệng, rống lên. Tiếng rống ghê hồn, làm cho lũ chim phải bỏ chạy tán loạn. Từ từ, nó lần bước xuống con dốc. Scatty bước bước tới gần con thú, nhưng Joan giữ tay lại. “ có nhớ những gì dạy tôi khi tôi lâm trận tại ?” hỏi gấp gáp. Scatty nhìn ngây ra. “ rằng nên đánh nhau với những chiến binh mang sẹo. Chúng chính là kẻ sống sót.” Joan hất đầu về phía con thú tới gần họ. “Nhìn nó xem. Nó chiến thắng rất nhiều trận rồi.” Scathach nhìn con hổ răng kiếm to lớn đầy sẹo. “Tôi là bóng tối.” đáp gọn. “Tôi có thể đánh bại nó.” Những ngón tay của Joan siết chặt cánh tay của bạn mình. “ cũng từng bao giờ nên tham chiến trừ phi thể tránh được. cần phải làm vậy.” “Tôi nghĩ là phải.” Scatty thở dài, rồi hỏi lại, giọng đầy tiếc nuối. “Vậy chúng ta làm gì đây?” “Chạy thôi!”

      Chap 16

      Niccolò Machiavelli hít hơi sâu, khí tràn mùi nồng mặn của biển. Ông ấn hai tay vào cái bụng đau của mình. Trước khi trở nên bất tử, ông từng bị loét bao tử, và dù chủ nhân Elder đảm bảo ông bao giờ mắc phải các căn bệnh của loài người nữa, những lúc căng thẳng bao tử ông vẫn thường hay trở chứng lắm. Giờ

      đây, đứng bến cảng ở Alcatraz, nhìn về phía San Francisco, trong lòng ông như có lửa đốt vậy. “Chúng ta ổn thôi, ổn thôi,” chàng trai trẻ trong chiếc quần jeans bạc màu và đôi giày cao bồi đứng canh ông tới lần thứ mười. “Chúng ta ổn thôi.” “William,” Machiavelli cẩn trọng, cố giữ giọng mình thấp, “cậu bất tử được bao lâu rồi?” “ trăm hai mươi sáu năm,” Billy the Kid tự hào đáp. “Tôi bất tử từ năm 1527,” Michiavelli , liếc nhìn Billy. “Tôi từng tồn tại khi Columbus tuyên bố tìm thấy đất nước này. Tôi phải là người bất tử già nhất – có lẽ là già hơn Dee, nhưngNhà giả kim Flamel già hơn tôi, Duns Scotus già hơn nữa, và cả Mo-Tzu nữa. Gilgamesh già hơn tất cả bọn tôi. Nhưng tôi lại có nhiều mối quan hệ với các Elder hơn bất kỳ ai. Và để tôi cho cậu hay, các chủ nhân Elder hứng thú với thất bại chút nào đâu. Họ cầu mọi phải được tuân lệnh. Họ mong muốn kết quả tốt đẹp. Và chúng ta thất bại,” ông thêm. Michiavelly giơ nắm tay lên và mở ngón út ra. “Chúng ta được cử tới đây để giết Nữ phù thủy Perenelle” – ông lại mở ngón tay thứ hai – “và thả lũ quái vật trong nhà ngục vào thành phố.” Lại ngón tay khác. “Perenelle trốn thoát, bằng tàu của ta,” ông lại mở tiếp ngón tay thứ tư, “làm chúng ta mắc kẹt hòn đảo này với lũ quái vật vẫn ở trong xà lim. Ta thua. Chúng ta chắc chắn ổn tí nào cả.”

      Hai người chợt quay lại khi nghe tiếng động cơ gầm rú ngày mọt gần hơn. Đôi mắt màu nâu xám của Machiavelli tối sầm lại khi ông trông thấy chiếc thuyền tấp vào bờ, để lại đường bọt nước trắng đục ngang qua hòn đảo. Bill giữ lấy chiếc điện thoại. “Tôi gọi cứu viện,” cậu , giọng hối lỗi. “Nhưng ai mà biết được chuyện gì xảy ra?” Machiavelli thở dài. “Rồi chúng ta bị triệu hồi trước cả khi chủ nhân và bất tử rời bỏ ta. Chúng ta chết. Nhanh thôi, nếu may mắn, nhưng chủ nhân chúng ta lại rất tàn nhẫn…” Billy rùng mình. “ chắc tôi thích ý nghĩ đó đâu. Tôi quen bất tử rồi.” Rồi cậu chàng lắc đầu.“Chủ nhân của tôi là…” Cậu ngập ngừng, cố tìm từ cho phù hợp. “Ông ấy khác với các Elder khác. Tôi có thể giải thích cho ông ấy.” Rồi cậu vẫy tay mông lung về phía nhà tù đằng sau mình. “Rồi ổn thôi.” “Xin đừng câu ấy nữa.” chiếc thuyền siêu tốc màu đỏ tươi cập bến và người Mỹ cao, trông khá nổi bật với nước da màu đồng và thân hình gầy gò mỉm cười với Bill the Kid. “Chủ nhân chúng ta muốn gặp cậu – và ông nữa.” Người kia , mắt nhìn Machiavelli. “Cả hai gặp rắc rối to rồi đấy.”

      Chap 17

      Bọn cucubuth khép dần vòng vây.

      Hàng tá tên tụ tập ở Covent Garden; hàng chục tên khác xếp hàng những mái nhà xung quanh đó, tiếng hú man rợ của chúng vẫn tiếp tục vang vọng khắp thành phố. Tên đầu sỏ trọc đầu dang rộng cánh tay, để lộ mấy cái hình xăm uốn éo dưới tay. “Mày làm gì nào, Tiến sĩ?” Dee luồn tay dưới áo choàng, ông chạm lấy phần cán của thanh kiếm đá đeo dưới cánh tay. Ông tự tay làm vỏ bọc cho nó từ hai chiếc thắt lưng da. Thậm chí ông cũng chuyện gì xảy ra nếu ông dùng đến thanh kiếm. Dù mang thanh Excalibur ngót vài thế kỷ, những gì Dee biết về sức mạnh của thanh kiếm cũng còn rất mơ hồ. Đến thanh Clarent ông chỉ còn biết rằng nó mạnh mẽ hơn thanh Excalibur rất nhiều. Dù tại chúng hợp nhất lại với nhau, chúng có thể mạnh hơn… hoặc cũng có thể triệt tiêu lẫn nhau lắm chứ? Pháp sư nhanh tay nhẩm tính. Nếu ông dùng kiếm, chắc chắn nó thắp sáng bầu trời London đến cả trăm dặm, có khả năng còn chiếu qua các vương quốc bóng tối lân cận nữa. Nhưng nếu dùng đến thanh kiếm hay năng lượng của mình, ông bị bắt và bị đưa đến chủ nhân Elder đen tối của mình. Và ông hầu như chắc chắn mình hề muốn thế. Ông vẫn chưa tròn 500 tuổi. Ông còn quá trẻ để mà chết. “Đến đây nào, Tiến sĩ,” gã cucubuth bằng ngôn ngữ Wendish cổ vùng đông Âu. Bàn tay Dee siết chặt lấy cán của thanh kiếm. Ông cảm thấy cái lạnh của thanh kiếm làm tê liệt các ngón tay mình, và ngay lập tức, những ý nghĩ kỳ quái và lạ lùng xuất trong tâm trí ông. Bọn cucubuth trong lớp da và áo giáp được giấu kín...bọn ma cà rồng đeo các loại dây xích và áo giáp… bọn chúng lội vào bờ từ những chiếc thuyền kim loại hẹp, chiến đấu bãi biển, đánh lại bọn quái vật lông lá mắt… thanh cao vút xé toạc màn đêm, cao đến độ con người khó lòng nghe nổi: nốt nhạc kéo dài dứt.

      Bọn cucubuth té nhào như thể bị ai đánh. Đám gần Dee nhất bị té đầu tiên, sau đó lần lượt bọn chúng đổ xuống như cơn sóng dài, hai tay chúng bịt chặt tai, quằn quại trong đau đớn. Virginia bước ra khỏi bóng tối, chiếc sáo gắn chặt môi, và mỉm cười với Dee. “Tôi nợ lần này.” Tiến sỹ cúi đầu thấp, cử chỉ lỗi thời thường được dùng trong cung điện nữ hoàng Elizabeth đệ nhất. Virgina lấy hơi . “Coi như đáp lại lần ông cứu tôi tại Boston.” tên cucubuth chạm tới cổ chân của Dee, bị đạp ra. “Ta nên thôi.” Dee . Vài tên cucubuth gượng đứng dậy, nhưng Virginia lại thổi vài nốt nhạc làm cả bọn té nhào ra lần nữa. Khẽ bước về phía bọn quằn quại dưới đất, Virginia và Dee rút ra khỏi Covent Garden. Dee dừng lại chút ở lối vào King Street và ngoái đầu nhìn lại. Quảng trường rải sỏi bây giờ là mớ những sinh vật uống éo, quằn quại. vài tên bắt đầu mất hình hài con người. Tay và mặt chúng trở về hình hoài loài thú.

      ngoạn mục,” ông , nhanh chóng bắt kịp Virgina, người vẫn tiếp tục về phía cuối đườmg, miệng vẫn ngừng chơi sáo. “Bùa phép này có tác dụng trong bao lâu?” Dee hỏi. “ lâu đâu. Bọn sinh vật càng thông minh, bùa càng kéo dài. Với lũ sinh vật cổ quái này: 10, 20 phút.” đường rải rác mấy tên cucubuth oằn mình trong cơn đau đớn, tay chúng ép chặt lên tai. Hai tên ngã từ mái tòa nhà đối diện với bọn Dee, đập xuống đất, đủ mạnh để làm nứt các miến lót đường. hề chùn chân, Virigina bước qua bọn chúng. Dee vòng qua; ông biết cú ngã đơn giản thể làm tổn hại gì bọn này, có chăng chỉ là làm chúng chậm mà thôi. “Tôi học giai điệu này từ người Đức,” Virginia gấp. “Ông ta từng là người bắt chuột.” “Sao lại về phe tôi?” Dee hỏi. “Ông hứa cho tôi thế giới,” Virginia nghiêm túc đáp. “Tốt hơn hết ông nên giữ lấy lời hứa đó” thêm “Tôi biết vài giai điệu khác từ người bắt chuột, và tin tôi , ông muốn tôi chơi chúng đâu.” Pháp sư bật cười. “Sao chứ, nghe cứ như lời đe dọa vậy…” ông bắt đầu. “Đúng vậy.” Virginia , nhoẻn miệng cười. “ ra, còn hơn lời đe dọa. Nó là lời hứa.”

      Chap 18

      Hai con quạ chăm chú nhìn người phụ nữ mảnh dẻ bước ra ngoài bóng tối, miệng ngừng thổi cây sáo gỗ. Có gì đó hơi mơ hồ – giống cảm giác từ trong xương tủy của chúng hơn là dao động trong khí –chúng thấy bóng ma của thanh. Bản năng cổ xưa mách bảo chúng tung cánh bay, cao và cao hơn nữa, tránh xa khỏi tiếng động chết người. Từ độ cao lý tưởng, chúng nhìn bọn cucubuth ngã rạp như cỏ trước cơn gió lớn. Và chúng thấy Dee cùng người phụ nữ băng ngang những sinh vật kia, tản bộ thư thái khỏi đám lộn xộn. Trong vương quốc bóng tối của mình, Odin nhìn thấy hai người nọ thông qua cặp mắt của con quạ. Người phụ nữ đó là ai, tại sao ả lại làm bọn cucubuth mất tự chủ như vậy? Vị Elder cau mày, cố gắng tập trung vào kia. Có điều gì đó về ả, điều gì đó quen lắm. ta ràng là đồng minh của Dee, và có lẽ ta sở hữu tạo tác năng lượng cổ xưa. Rồi đột nhiên, cái tên làm bao nhiêu ký ức đau đớn ùa về tâm trí ông, ông quay đầu, tru dài trong niềm vui sướng tột độ. Virginia Dare: trong số rất ít người bất tử tàn sát chủ nhân của mình và sống sót. Ông biết chủ nhân của ả, thậm chí còn coi vị ấy là bạn mình nữa. Bây giờ, ông có thể trả thù cho người và bạn mình.

      “Đem Dee về cho ta,” ông ra lệnh cho bọn quạ. “Giết ả kia .” Từ cao của thành phố, hai con quạ bám theo những người bất tử, còn vị Elder lại tiếp tục quan sát từ mắt của chúng.

      Chap 19

      “Vừa mới nhìn qua, bọn cháu cứ tưởng ta là Scatty.” Josh . “Aoife bóng tối,” Perenelle , “Chị em sinh đôi của Scathach.” “Là chị hay em ạ?” Josh hỏi. Cậu ra đời trễ hơn chị mình 28 giây, và dù cậu cao hơn bé cả cái đầu, cậu vẫn cảm thấy mình là đứa em trai bé bỏng. Perenelle và Josh trèo xuống lối thoát hiểm và đứng ở con hẻm đằng sau tiệm sách, chờ đợi Nicholas xuống cùng. “Ừm cũng còn tùy người cháu hỏi chuyện nữa,” Perenelle mỉm cười . “Scathach bảo ấy là chị, nhưng Aoife luôn miệng tuyên bố mình sinh ra trước.” Nicholas xuất hiệt ở đầu cầu thang và bắt đầu trèo xuống. Ông di chuyển chầm chậm và khá kì quặc vì phải đeo chiếc hộp gỗ phía sau lưng. “Scatty bao giờ gì về chị mình.” :)P Để tiện dịch truyện chúng ta hãy tạm Aoife là chị nhá) Josh . Cậu thấy chuyện này khó mà tin được. Cậu thể tưởng tượng nổi mình bao giờ thừa nhận chị mình, người chị sinh đôi của mình. “À, phải, họ cãi nhau khá là căng từ khá lâu rồi. Họ cùng chàng trai. Cuchulain, được mệnh danh là Chó Săn vùng Ulster. Dù cái tên nghe kêu như vậy, câu ta hoàn toàn là người bình thường. “Chuyện gì xảy ra?” Josh hỏi. “Cậu ta chết.” Perenelle ngắn gọn, rồi bà thở dài. “Scatty muốn nhắc đến chuyện này đâu, nhưng Cuchulain chết như vị hùng. Hai chị em họ cứ đổ lỗi cho nhau, dù theo ta thấy , chẳng ai mắc lỗi cả. Cuchulain còn trẻ và khá ương bướng. ai điều khiển được cậu ta. Cậu ta cũng là trong những chiến binh thiện chiến nhất từ trước tới nay, và là người cuối cùng được cả Aoife và Scathach huấn luyện. Chị em họ chuyện suốt thời gian dài. Lúc đầu, Scatty vẫn lưu lại châu Âu và châu Mỹ trong khi Aoife du lịch về phía Nam đến châu Phi; ở đó ta được tôn vinh như nữ thần. Rồi Aoife về vùng viễn đông, và ở đó gần như suốt cuộc đời. nghi là họ gặp nhau phải đến 4 hay 5 thế kỷ nay rồi.” “Aoife có chịu trách nhiệm cho … Cu…Coo…” “Cuchulain.” “Cho cái chết của ta ?” Josh hỏi. “Cũng giống như Scathach thôi. Nếu họ chiến đấu cạnh ta, có lẽ ta phải chết.” Nicholas tới chân cầu thang, Perenelle và Josh giúp đỡ ông những bước cuối cùng. Ông đứng dựa lưng vào tường,thở từng hơi nặng nhọc, và Josh đột nhiên nhận ra Nhà giả kim bây giờ già lắm rồi. Cậu nhìn kỹ Flamel hơn, ràng những gì trải qua tuần rồi làm ông già khá nhanh – mái tóc ngắn của ông giờ bạc trắng, và những nếp nhăn hằn sâu lên trán và má ông. Những đường gân máu ở tay ông giờ nổi mồn , những đốm đồi mồi cũng kéo nhau lên da. Josh chuyển qua Nữ phù thủy. Bà cũng già , dù nhanh chóng như chồng mình. Perenelle bắt gặp ánh nhìn của Josh, nụ cười của bà trở nên chua chát hơn. Tới gần Josh, bà trỏ ngón tay vào ngực cậu. Mấy tờ giấy nhăn nhúm đằng sau lớp áo thun. “Nếu lấy lại được quyển Codex và thực bùa chú bất tử, chỉ mấy

      ngày nữa thôi chúng ta chết vì tuổi già.” Đột ngột, đôi mắt màu lục của bà mở to, giàn giụa nước mắt. “Đầu tiên là Nicholas, rồi đến ta.” Josh thấy như có gì đó tắc nghẹn trong họng. Dù cậu tin Nicholas và mình nghĩ thế nào về Perenelle, suy nghĩ về cái chết của họ thực làm cậu thấy hoảng sợ. Cậu và Sophie cần vợ chồng Flamel.

      “Chúng ta phải lấy lại Quyển sách của Đại pháp sư Abraham.” Perenelle lặp lại. “Dee giữ quyển Codex.” Josh . “Có thể chuyển nó cho chủ nhân mình rồi.” Nicholas lắc đầu. “Ta nghi rằng ta chưa thể làm chuyện ấy. Mọi thứ diễn ra quá nhanh.” Ông đưa cho Josh chiếc hộp gỗ. “Cháu có thể mang nó giúp ta chứ?” Josh khuỵu xuống vì sức nặng của cái hộp; nó nặng đến bất ngờ. “Nghĩ xem – Pháp sư theo sát chúng ta kể từ lúc chiếm được quyển Codex tuần trước. Ta cho rằng có đủ thời gian nộp nó cho chủ nhân Elder của mình. Và ta nghĩ lý nào mang nó sang cùng với đống hành lý. Về mặt logic mà , có lẽ nó vẫn ở đâu đây tại San Francisco này.” “Ở đâu chứ?” Josh hỏi nhanh. “Chúng ta có thể trộm nó lại…” Cậu ngừng bặt. Cả Perenelle và Nicholas đều lắc đầu. “Dù có thể,” Nữ phù thủy , “ Ta dám cá nó được bảo vệ bởi những sinh vật phải con người. Ngoài ra” – bà gõ gõ lên chiếc hộp trong tay Josh – “Chúng ta có việc quan trọng hơn phải làm.” “Chúng ta phải tìm chị cháu.” Nicholas . “Và tiêu diệt những sinh vật Alcatraz,” Perenelle bổ sung. Josh nhìn cả hai với ánh mắt dè chừng. “Nhưng chúng ta phải làm thế nào đây? Chẳng phải chú phải dùng hết cả năng lượng lẫn tuổi tác của mình sao? Và chú chết?” Cậu thêm, giọng thầm . “Phải.” Nicholas và Perenelle Flamel đồng thanh . “Và đó là cái giá chúng ta sẵn sàng trả.” Perenelle tuyên bố.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :