Bản thảo tìm thấy trong chai - Edgar Allan Poe(Kinh dị)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Bản thảo tìm thấy trong chai - Edgar Allan Poe
      Nguồn: http://vnthuquan.net
      Phát hành: Nguyễn Kim Vỹ.
      Truyện Bản thảo tìm thấy trong chai được in lần đầu tiên năm 1831. Rất nhiều năm về sau, tôi mới biết đến những bản đồ do Mecrator vẽ, trong đó đại dương được thể như đổ vào vực Bắc Cực bằng bốn cửa rồi mất hút trong lòng quả đất.
      [​IMG]

      Bản Thảo Tìm Thấy Trong Chai

      Về quê hương và gia đình, tôi chẳng có gì nhiều để . bạc đãi khiến tôi phải rời bỏ quê hương, và rồi sau những năm tháng quá dài tôi trở thành xa lạ với cả gia đình mình. giàu có của dòng họ giúp tôi có được số vốn học vấn hơn người. Tôi suy nghĩ và sắp xếp cách có phương pháp những gì gặt hái được trong việc học chăm chỉ trước đây. tất cả, những tác phẩm của các triết gia Đức mang lại cho tôi nhiều thích thú, tất nhiên phải do thán phục mù quáng, mà nhờ có giờ nhàn rỗi cộng với thói quen suy nghĩ cách nghiêm nhặt, tôi khám phá ra những sai lầm của họ....







      Khi cuộc sống chỉ còn trong khoảnh khắc
      Nào có ai muốn giấu giếm điều chi
      Quinault-Atys
      Về quê hương và gia đình, tôi chẳng có gì nhiều để . bạc đãi khiến tôi phải rời bỏ quê hương, và rồi sau những năm tháng quá dài tôi trở thành xa lạ với cả gia đình mình. giàu có của dòng họ giúp tôi có được số vốn học vấn hơn người. Tôi suy nghĩ và sắp xếp cách có phương pháp những gì gặt hái được trong việc học chăm chỉ trước đây. tất cả, những tác phẩm của các triết gia Đức mang lại cho tôi nhiều thích thú, tất nhiên phải do thán phục mù quáng, mà nhờ có giờ nhàn rỗi cộng với thói quen suy nghĩ cách nghiêm nhặt, tôi khám phá ra những sai lầm của họ. Tôi thường bị chê trách bởi tài năng vô vị ấy. Mọi người trút vào tôi cái tội thiếu óc tưởng tượng. Còn việc tôi luôn luôn có thái độ của người theo chủ nghĩa hoài nghi trong mọi vấn đề là điều ai cũng biết . Mà vậy, tôi e rằng bởi quá say mê triết học vật lý nên tôi phạm vào điều lầm lỗi phổ thông nhất của thời đại này. Đó là thói quen luôn luôn liên hệ mọi việc, ngay cả khi ít có khả năng nhất, với những nguyên lý của triết học ấy. Tóm lại, chính tôi là kẻ đáng phải chịu trách nhiệm nặng hơn ai hết nếu tôi tự để cho mình bị mê hoặc bởi những “ánh lửa chập chờn” của óc mê tín dị đoan vượt ra ngoài ranh giới khắc nghiệt của chân lý. Tôi quyết định viết những lời nhập đề dài dòng này vì e rằng câu chuyện khó tin tôi sắp kể ra đây bị xem là điều điên rồ của trí tưởng tượng lỗ mãng chứ phải là kinh nghiệm tích cực của trí tuệ vốn vẫn xem những điều mơ mộng viển vông chỉ là bức thư có người nhận và hoàn toàn vô giá trị.
      nhiều năm lang bạt ở nước ngoài, lần này tôi đáp tàu từ cảng Batavia nằm đảo Java sầm uất và giàu có để đến Archipelago thuộc quần đảo Sunda. Tôi cứ mãi như vậy có mục đích gì mà chỉ bởi cái tâm trí vốn bất định của tôi cứ luôn dày vò dằn vặt như kẻ bị ma ám.
      Chiếc tàu tôi rất đẹp, trọng tải khoảng bốn trăm tấn, vỏ bọc đồng, đóng tại Bombay bằng gỗ tếch vùng Malabar. Nó chở đầy bông vải và dầu ăn từ quần đảo Lachadi. tàu còn có cả sợi dừa, đường thốt nốt, bơ, hạt cacao và vài thùng thuốc phiện. Hàng hóa chất lên tàu rất cẩu thả nên tàu dễ bị chòng chành.
      Chúng tôi lên đường khi có gió , suốt nhiều ngày liền tàu vẫn còn gần bờ biển phía đông Java. Chẳng có chuyện gì lạ để chúng tôi có thể giải khuây buồn tẻ đơn điệu của cuộc hành trình ngoài những chiếc thuyền hai cột buồm với những cánh buồm hình tam giác của dân bản xứ thuộc đảo Archipelago mà chúng tôi vẫn còn ở trong hải phận của nó.
      buổi chiều, đứng tựa lan can phía đuôi tàu, tôi nhìn thấy đám mây lẻ loi rất kỳ lạ ở hướng tây bắc. Lạ những vì màu sắc của nó mà còn vì đó là đám mây đầu tiên xuất kể từ khi chúng tôi rời bến Batavia. Tôi chăm chú quan sát đám mây cho tới lúc mặt trời sắp lặn. Lúc ấy, thình lình nó trải dài từ đông sang tây, che kín đường chân trời bằng dải hơi nước hẹp, từ xa trông giống bờ cát dài. Tôi chuyển chú ý vào mặt trăng màu đỏ bầm từ từ xuất và cái vẻ lạ lẫm của biển. Biển thay đổi nhanh, làn nước trở nên trong suốt cách bất thường. Mặc dù tôi có thể nhìn mồn đáy biển, nhưng khi tôi thả dây buộc chì xuống đo mới độ sâu lên đến ba mươi mét. khí lúc này trở nên oi bức chịu nổi, hơi nóng bốc lên cuồn cuộn hệt như ta thường thấy ở cái bàn là nóng. Khi đêm xuống, trời chút gió, yên tĩnh khó có thể tưởng tượng nổi. Ngọn lửa cây nến cuối đuôi tàu hầu như lay động. ngọn tóc cầm đầu ngón tay cũng thể nào nhận ra nó có đung đưa hay . Tuy nhiên con tàu cứ bị giạt dần vào bờ. Viên thuyền trưởng thấy có triệu chứng nào nguy hiểm, ra lệnh cho thủy thủ cuốn buồm, thả neo. cắt người canh, cả đám thủy thủ, chủ yếu người Malaysia, nằm nghỉ la liệt sàn tàu.
      Tôi bước xuống hầm tàu, lòng linh cảm điều may. vậy, những triệu chứng ấy khiến tôi lo sắp có bão. Tôi thổ lộ với viên thuyền trưởng nhưng ông ta chẳng để ý gì đến lời tôi, quay lưng tiếng trả lời. Tuy thế, lòng tôi vẫn cứ bất an, thể ngủ được. Khoảng nửa đêm tôi lại trèo lên boong. Khi bước lên tới bậc thang cùng, tôi giật mình bởi tiếng rì rầm rất lớn nghe như tiếng cối xay, và trước khi tôi kịp hiểu xuất xứ, toàn thân con tàu rùng lên. Ngay liền đó, đợt sóng dữ dội hất tôi ngã xuống. Sóng rùng rùng tràn qua mọi người, quét sạch sàn tàu từ mũi đến tận lái.
      hung hãn đến cực điểm của cơn gió hầu như lại giúp cho con tàu sống sót. Mặc dù ngập hẳn trong nước và các cột buồm gãy phăng, phút sau con tàu từ từ trồi lên, lắc lư lúc bởi sức ép quá lớn của cơn bão rồi đứng thẳng.
      Nhờ điều kỳ diệu nào mà tôi thoát chết là việc thể cắt nghĩa nổi. Tỉnh lại sau cơn choáng váng vì bị sóng đập, tôi thấy mình kẹt cứng giữa càng và bánh lái. Khó khăn lắm tôi mới đứng dậy được. Lảo đảo nhìn quanh, đầu tiên tôi nhận ra mình đứng giữa cảnh đổ nát. Cho dù có trí tưởng tượng man rợ nhất cũng phải vô cùng kinh sợ bởi tôi nhận ra con tàu ở giữa vùng biển sôi sục những cột nước cao như núi. Lát sau, tôi nghe tiếng của ông già người Thụy Điển, hành khách cuối cùng lên tàu vừa kịp lúc nhổ neo. Tôi lấy hết sức để gọi. Ông già nghe được, liền bước về phía lái. Chúng tôi nhận ra chỉ còn hai chúng tôi sống sót sau tai nạn vừa qua. Mọi thứ boong tàu đều bị quét sạch xuống biển. Viên thuyền trưởng và các sĩ quan đều chết ngạt trong cabin vì nước biển tràn vào quá nhanh. còn ai phụ giúp, chúng tôi khó hy vọng làm được gì nhiều cho an toàn của con tàu. Và thoạt tiên cái hy vọng nhoi ấy cũng bị dập tắt vì hình như con tàu sắp chìm đến nơi rồi. Dĩ nhiên sợi dây neo đứt phăng như sợi dây cột đồ ngay từ khi đợt gió đầu tiên thổi tới, chứ nếu chúng tôi chìm nghỉm rồi. Con tàu bị gió cuốn phăng mặt biển. Những đợt sóng trắng xóa tung lên đầu chúng tôi. Bánh lái gãy hoàn toàn. Khắp con tàu hầu như bộ phận nào cũng bị hư hại đáng kể. Nhưng chúng tôi quá đỗi mừng khi thấy những cái bơm nước bị nghẹt và những vật nặng dùng để giằng thuyền được thăng bằng bị dời chỗ. Chúng tôi cảm thấy mối nguy hiểm vì gió giảm nhiều, nhưng khi nghĩ đến việc gió hoàn toàn ngưng thổi chúng tôi lại vô cùng kinh hãi vì tin chắc rằng trong tình trạng hư hỏng thế này con tàu bị hủy diệt dưới những con sóng ghê gớm. Nhưng cái điều dự đoán chính xác này dường như trở thành thực ngay. Suốt năm ngày đêm, trong thời gian này chúng tôi sống bằng vài viên đường thốt nốt khó khăn lắm mới moi được ở đầu mũi tàu - con tàu trôi nhanh vùn vụt. Những cơn gió cứ tiếp tục nổi lên, dữ dội như lúc cơn bão bắt đầu nhưng vẫn kinh khiếp hơn tất thảy những gì tôi từng trông thấy trước đây. Suốt bốn ngày đầu, con tàu lao theo hướng nam - đông nam, thỉnh thoảng có thay đổi chút, và như thế chúng tôi đâm thẳng vào bờ biển Tân Hà Lan. Ngày thứ năm, trời lạnh ghê gớm, mặc dù gió đổi chiều chếch về hướng bắc. Mặt trời nhô lên với những tia sáng vàng vọt bệnh hoạn. Nó chỉ lê lên được chừng vài độ đường chân trời, tỏa ra mấy chút ánh sáng. đám mây nào xuất , gió cứ tăng lên mãi với cuồng nộ bất thường. Vào buổi trưa, chúng tôi đoán như vậy, sắc thái của mặt trời lại khiến chúng tôi chú ý. Nó tỏa ra ánh sáng, có thể như vậy, mà phát ra thứ lửa u ám buồn bã như thể tất cả những tia sáng đều bị chiết tán. Ngay trước khi chiếu vào lòng biển trương phình, những ngọn lửa trung tâm mặt trời đột ngột tắt ngấm như thể có sức mạnh huyền bí nào đó vội vàng dập tắt chúng . Mặt trời như cái bánh xe màu trắng bạc nhợt nhạt đơn khi bắt đầu phóng vào lòng đại dương thăm thẳm.
      Chúng tôi đợi cái ngày thứ sáu đến trong nỗi tuyệt vọng. Cái ngày ấy đối với tôi chưa đến, còn với ông cụ người Thụy Điển mãi mãi bao giờ đến. Từ đấy chúng tôi chìm trong bóng đêm đen như mực, tối đến nỗi chúng tôi thể nhìn thấy xa quá hai mươi bước. Bóng đêm vĩnh cửu tiếp tục bao trùm chúng tôi, hề giảm bớt chút nào bởi mặt nước biển lấp lánh ánh lân tinh như chúng ta thường thấy ở miền nhiệt đới. Chúng tôi cũng nhận thấy, mặc dù gió vẫn tiếp tục thổi và hề giảm cơn thịnh nộ nhưng những bọt sóng trắng tận tình giúp đỡ chúng tôi nay còn nữa. Chung quanh chúng tôi chỉ là hãi hùng, bóng tối dày đặc như sa mạc nồng nực đen tối màu gỗ mun. nỗi kinh khiếp mê tín trườn dần vào trí não ông cụ người Thụy Điển. Còn tâm hồn tôi chìm vào nỗi ngờ vực câm lặng. Chúng tôi thiết săn sóc con tàu nữa. Việc đó trở nên vô ích. Dán người sát vào chân cột buồm thấp nhất, chúng tôi cay đắng đưa mắt nhìn vào đại dương thăm thẳm. Chúng tôi còn phương tiện nào để đoán biết thời gian và cũng cách nào đoán biết được chúng tôi ở vào hoàn cảnh như thế nào. Tuy nhiên chúng tôi vẫn biết chắc rằng con tàu rất xa về phương nam hơn bất cứ nhà hàng hải nào và rất ngạc nhiên là tại sao vẫn chưa gặp những chướng ngại thường thấy là những tảng băng trôi. Dù vậy mỗi phút vẫn đe dọa là phút cuối cùng trong đời. Từng con sóng khổng lồ lao tới như muốn nuốt chửng chúng tôi. Sóng là cái gì vượt quá sức tưởng tượng của tôi. Mỗi lần sóng qua mà con tàu chưa bị chôn vùi là cả điều kỳ diệu. Ông già đồng hành của tôi rằng hàng hóa tàu chưa đủ nặng và nhắc tôi nhớ đến phẩm chất tuyệt hảo của con tàu. Nhưng tôi hoàn toàn hy vọng mình có thể thoát nạn. Lòng buồn rầu, tôi chuẩn bị cho cái chết mà tôi nghĩ đến trong vòng quá tiếng đồng hồ nữa. Vượt qua mỗi hải lý sóng biển đen đủi khổng lồ càng u khủng khiếp hơn. Nhiều lần chúng tôi nín thở khi con tàu leo lên đến độ cao của chim hải âu, rồi lại xây xẩm choáng váng khi nó lao xuống cái địa ngục bằng nước với tốc độ kinh hoàng. ở đó khí như ứ đọng lại, tuyệt đối thanh nào khuấy động đến giấc ngủ loài thủy quái.
      Chúng tôi ở dưới đáy của trong những vực thẳm như thế bỗng tiếng la thất thanh của ông bạn đồng hành vỡ ra trong bóng tối:
      - Kìa, kìa! - Ông cụ hét lớn vào tai tôi - Lạy chúa quyền năng! Hãy nhìn kìa!
      Tôi nhìn thấy vầng sáng màu đỏ lù mù, ảm đạm lao xuống theo triền vực bao la, nơi chúng tôi ở tận đáy, hắt sang sàn tàu chúng tôi những tia sáng lay lắt. Ngước mắt nhìn lên, tôi bắt gặp cảnh tượng khiến cho máu trong người như đông lại. Ở độ cao kinh khủng, ngay đầu chúng tôi, sát bên mép bờ vực, lượn lờ con tàu khổng lồ ước phải đến bốn ngàn tấn. Mặc dù con tàu đứng đầu ngọn sóng cao gấp trăm lần chiều cao của chính nó nhưng trông nó vẫn lớn hơn bất kỳ con tàu nào của Công ty Đông Ấn. Cái vỏ khổng lồ của nó sơn màu đen kịt, chạm trổ hình vẽ như vẫn thường thấy. Chỉ có dãy đại bác bằng đồng chĩa mũi ra từ các ô cửa sổ để mở, bề mặt bóng láng của nòng súng phản chiếu lấp lánh ánh sáng từ những ngọn đèn tín hiệu treo đung đưa lắc lư giữa các cột buồm. Nhưng điều làm chúng tôi kinh ngạc nhất là con tàu ấy giương hết buồm lên mà chạy giữa những chiếc răng nanh khổng lồ của biển siêu nhiên lên cơn giông tố cuồng dại này. Đầu tiên, chúng tôi chỉ nhìn thấy phần mũi của con tàu lạ vì nó chậm chạp ngoi lên đỉnh vực. Trong thoáng, con tàu bỗng ngưng lại, ngay cái đỉnh cao tít ấy, như thể để trầm tư về siêu việt của mình. Rồi rùng mình cái, nó bắt đầu chúi mũi lao xuống.
      Ngay lúc ấy, hiểu sao bình tĩnh chợt trở lại với tôi. Cố lao người về phía lái, tôi chờ đợi chút sợ hãi giây phút hủy diệt. Cuối cùng con tàu chúng tôi chấm dứt cuộc chiến đấu. Nó cắm mũi vào lòng biển. Cái khối khổng lồ lao xuống kia cuối cùng xô vào chúng tôi ở phía lườn tàu vốn mấp mé nước. Việc đó dẫn đến kết quả phi thường. Sức chấn động hất tung tôi lên và sau đó tôi rơi ngay xuống lòng con tàu lạ.
      Khi tôi rơi xuống, con tàu lạ khựng lại giây rồi chợt đổi hướng. Nhờ nhộn nhạo ấy mà tôi thoát khỏi chú ý của các thủy thủ. khó khăn gì lắm và cũng chẳng bị ai nhìn thấy, tôi tìm ra lối chính xuống hầm tàu. Lúc ấy cửa khép hờ, tôi dễ dàng chọn được chỗ trốn. khó mà tại sao tôi lại làm thế. cảm giác sợ hãi mơ hồ khi nhìn thấy dáng vẻ của những người tàu có lẽ là nguyên nhân chính của hành động này. Tôi dám tin tưởng vào loại người mà ngay từ cái nhìn đầu tiên cảm thấy có quá nhiều điểm xa lạ mù mờ, ngờ vực và đầy sợ hãi. Vì thế tôi nghĩ tốt hơn nên tìm chỗ náu trong hầm tàu. Dỡ mảnh ván cạp vách, tôi dễ dàng tạo được chỗ giữa những cột kèo đồ sộ của con tàu.
      Có tiếng bước chân trong hầm tàu ngay khi tôi vừa làm xong công việc. Tôi liền chui vào hốc trốn. người đàn ông bước ngang qua chỗ tôi nấp, dáng chậm chạp vững. Tôi thấy khuôn mặt nhưng lại có dịp quan sát hình tướng chung của gã. Có những nét cho thấy hẳn gã rất lớn tuổi và yếu ớt. Đầu gối của gã như muốn khuỵu xuống dưới sức nặng của năm tháng, toàn thân run rẩy. Gã lầm bầm với bản thân bằng thứ tiếng trầm trầm xa lạ tôi hiểu được. Gã lục soạn trong góc hầm tàu chất đầy dụng cụ kỳ quái và những bản đồ hàng hải rách nát. Bộ tịch của gã là trộn lẫn man rợ giữa cáu kỉnh của ông già hồi trở lại thời trẻ thơ và oai vệ của vị thần. Cuối cùng, gã quay lên boong và tôi còn nhìn thấy gã nữa.
      ……. (*)
      cảm giác tên tuổi vây kín tâm hồn tôi, cảm giác mong được phân tích. Với nó, có sách vở nào thích hợp cả. Và tôi e rằng cả trong tương lai cũng thể tìm được lời giải đáp. Đối với tôi, đây đúng là điều khủng khiếp. Tôi bao giờ - tôi biết chắc bao giờ - nhìn nhận bản chất của những ý niệm này. Dù sao cũng lấy gì làm lạ về những cảm giác này bởi chính nó bắt nguồn từ câu chuyện hoang đường. cảm giác mới lạ, thực thể hoàn toàn mới ghi vào tâm hồn tôi.
      ….
      qua thời gian khá lâu kể từ khi tôi lọt vào con tàu khủng khiếp này. Tôi nghĩ rằng giờ đây, mọi nẻo lối của số phận tôi quy về điểm. Chìm trong cơn mặc tưởng nào đó mà tôi thể nào hiểu nổi, những thủy thủ hờ hững ngang qua trước mặt tôi mà buồn chú ý. Phần tôi, quả là thừa khi vội tìm chỗ trốn. Bởi chính họ có muốn trông thấy gì đâu. Mới lúc nãy đây, tôi ngang trước mặt viên thuyền phó. Và cũng chẳng lâu gì, tôi mạo hiểm vào tận phòng viên thuyền trưởng. Tôi lấy ở đấy được ít giấy và dùng để viết. Thỉnh thoảng tôi lại viết tiếp những trang bản thảo này. Thực ra tôi có cách nào truyền lại cho thế giới bên ngoài. Nhưng tôi cố thử xem. Vào phút cuối, tôi bỏ những trang bản thảo này vào cái chai đóng kín và thả xuống biển.

      vài biến cố vừa xảy ra khiến tôi phải suy nghĩ. Có phải tất cả những điều này là cuộc run rủi rủi may hay ? Tôi mạo hiểm bước lên boong, nằm dài xuống giữa những đống dây thừng và buồm cũ hoặc trong chiếc xuồng mà chẳng ai chú ý cả. Trong khi suy nghĩ miên man về số phận kỳ quặc của mình, tôi lơ đễnh cầm chiếc bàn chà chải hắc ín bôi lên tấm buồm phụ được xếp cẩn thận đặt cái thùng tròn. Cánh buồm phụ bây giờ được căng lên, chiếc bàn chải vô tình lúc nãy viết thành hai chữ: khám phá.
      , tôi có tả sơ qua kiến trúc của con tàu. Mặc dù được trang bị đại bác nhưng theo tôi, nó phải là chiếc tàu chiến. Cấu trúc và trang thiết bị đều phải của tàu chiến. Nhưng nó thực là loại tàu gì tôi e rằng khó xác định. Tôi biết tại sao như thế. Nhìn vóc dáng lạ lẫm, kỳ quặc của các cột buồm, những bộ buồm khổng lồ cao vòi vọi, cái mũi tàu quá đơn giản, phần đuôi cổ lỗ, trong tôi chợt lóe lên tia sáng từ ký ức mơ hồ hỗn độn. Đó là những hình ảnh gợi nhớ về triều đại cổ xưa ở vương quốc nào đó.

      Tôi nhìn kỹ loại gỗ làm sườn tàu. Đó là thứ vật liệu hoàn toàn xa lạ đối với tôi. Tính chất đặc biệt của gỗ khiến tôi phải nghĩ rằng nó thích hợp với mục đích sử dụng. Tôi muốn rằng nó hoàn toàn xốp, phải do bị mối ăn mà bởi lại quá nhiều biển, cũ đến mục ruỗng. Tôi quan sát thấy điều rất đỗi kỳ lạ, loại gỗ này có đủ mọi đặc tính của loại sến Tây Ban Nha, nếu như gỗ sến Tây Ban Nha có thể xẻ ra được bằng những dụng cụ nhân tạo.
      Đọc lại đoạn vừa viết, tôi chợt nhớ đến câu kỳ quặc của con sói biển già người Hà Lan: “Cái điều ấy e cũng chắc chắn”. - Ông thường vậy khi tấm lòng trung thực của ông bị nỗi nghi ngờ xâm chiếm. - “Như đời này có vùng biển mà ở đó những con tàu lại có thể phình lớn như thân thể của thủy thủ”.

      Tôi chen vào đám thủy thủ được hơn giờ. Mặc dù tôi đứng ngay giữa bọn họ nhưng dường như có mặt của tôi hoàn toàn nằm ngoài nhận thức của họ. Giống như người đầu tiên tôi nhìn thấy dưới hầm tàu, tất cả những thủy thủ đều râu tóc bạc phơ. Đầu gối còn giữ vững, lưng còng xuống với tuổi tác, làn da run run trước gió rét, giọng trầm trầm rè rè, đôi mắt suy yếu kèm nhèm nước mắt, mái tóc bạc phất phơ trong gió cách kỳ dị. Chung quanh họ, khắp cả sàn tàu, rải rác những dụng cụ toán học kiểu rất cổ, còn thích hợp.

      , tôi có chuyện những cánh buồm phụ được căng lên. Kể từ lúc ấy, con tàu lồng gió phóng thẳng về hướng nam, tiếp tục cuộc hành trình khủng khiếp. Mọi cánh buồm đều căng phồng, từ buồm chính đỉnh đến những cánh buồm phụ bên dưới. Những đòn tay buồm chòng chành nghiêng ngả như muốn thọc vào cái địa ngục bằng chất lỏng khủng khiếp mà óc tưởng tượng của con người có thể nặn ra được. Tôi vừa mới rời boong tàu vì ở đó khó mà đứng vững hai chân mặc dù các thủy thủ vẫn bình thản lại. Tôi cảm thấy quá đỗi kỳ diệu khi cái khối khổng lồ này vẫn chưa chịu chìm đắm vĩnh viễn. Chúng tôi hẳn bị trời đày phải mãi mãi vòng quanh cái mép rìa của vĩnh cửu mà chẳng bao giờ được phép thực cú nhảy cuối cùng để lao vào vực thẳm. những con sóng to lớn kinh dị gấp ngàn lần trước đây, chúng tôi lướt nhanh như loài én biển. Những đợt sóng khổng lồ ngóc đầu chồm lên chúng tôi như những con thủy quái. Nhưng chúng chỉ doạ nạt chứ được phép tàn phá. Tôi cho rằng sở dĩ con tàu thoát nạn mãi như thế chỉ là nhờ vào nguyên nhân tự nhiên. Và chỉ như vậy mới có thể cắt nghĩa nổi những kết quả thế này. Tôi cho rằng có lẽ con tàu nằm trong ảnh hưởng của dòng hải lưu cuồn cuộn nào đó hoặc giả có dòng nước ngầm rất mạnh ngay bên dưới con tàu.

      Tôi nhìn tận mặt viên thuyền trưởng, ngay trong cabin của ông ta, nhưng như tôi đoán trước, ông ta hoàn toàn chú ý gì đến tôi. Mặc dù vẻ bề ngoài của ông ta chẳng có gì khác hơn người đàn ông bình thường, nhưng cảm giác kính trọng và sợ hãi trộn lẫn niềm kinh ngạc nào đó vẫn khiến tôi ngưỡng mộ ông ta. Về hình dạng, ông ta cao ngang bằng tôi, khoảng mét sáu lăm. Dáng vóc ông chắc gọn nhưng có vẻ mạnh mẽ hay đáng chú ý. Có lẽ do cái vẻ đặc biệt biểu lộ khuôn mặt ông ta, bằng chứng khốc liệt và dữ dội của tuổi tác già nua quá độ - già nua trọn vẹn, gợi trong tôi ý tưởng, cảm giác khó tả. Vầng trán của ông dù ít nếp nhăn nhưng vẫn hằn dấu ấn năm tháng chồng chất. Mái tóc xám như bản ghi chép của quá khứ. Và đôi mắt xám hơn cả mái tóc lại như bầy phù thủy của tương lai. sàn phòng bày la liệt những xấp giấy tờ có nẹp sắt, những dụng cụ khoa học méo mó cũ kỹ, những tấm bản đồ lâu dùng đến. Hai tay ông ta bưng đầu, đôi mắt sáng quắc và lo âu chú mục vào tờ giấy mà tôi cho là tờ chiếu chỉ bởi mặt giấy có đóng dấu triện của nhà vua. Ông ta cũng lầm bầm, như người thủy thủ đầu tiên tôi nhìn thấy trong hầm tàu, giọng trầm trầm càu nhàu của thứ tiếng nào đó lạ hoắc. Và mặc dù ông ta ở sát ngay bên cạnh mà tôi nghe như ở tận dặm xa nào vọng lại.

      Con tàu và những thứ nó mang theo đều nhuốm màu thời đại xa xưa nào. Các thủy thủ lại như bóng ma của những thế kỷ bị chôn vùi, đôi mắt toát ra hăm hở và lo âu. Nhìn những bàn tay của họ rọi bóng nghiêng nghiêng dưới ánh sáng những ngọn đèn tín hiệu, trong tôi dấy lên cảm giác chưa từng có, mặc dù suốt đời tôi là kẻ say mê đồ cổ, nhập nhiễm trong bóng mát các cột trụ đền đài đổ nát ở Balbec, Tadomor, Persepolis cho đến nỗi chính bản thân tôi cũng trở thành thứ đồ cổ.

      Nhìn lại chung quanh, tôi cảm thấy xấu hổ về những mối lo sợ ban đầu của mình. Nếu tôi khiếp hãi trước cơn bão vẫn theo đuổi chúng tôi cho đến tận bây giờ lúc này tôi khiếp hãi đến nhường nào trước đụng độ giữa gió và biển, mà để diễn đạt điều này, những từ như lốc xoáy, bão tố là tầm thường và thiếu sót: vây quanh con tàu là bóng tối của đêm đen vĩnh cửu và khối nước khổng lồ đảo lộn nhưng sủi lên chút bọt nào. Từ phía xa, cách chúng tôi khoảng dặm, có thể nhìn thấy lờ mờ những bức tường thành khổng lồ và vĩnh cửu của băng giá đứng chọc thẳng vào bầu trời ảm đạm, trông giống những bức tường của ngôi nhà vũ trụ.

      Như tôi nghĩ đến lúc nãy, con tàu có vẻ bị cuốn bởi dòng hải lưu, nếu tôi có thể dùng từ này để gọi con thủy triều gầm rú chảy ào qua vùng băng giá trắng xóa. Dòng hải lưu ấy vừa rền lên như sấm vừa lao băng băng về phương nam với tốc độ con thác chúi đầu đổ xuống.

      Tôi cho rằng khó ai hiểu được cảm giác kinh hoàng của tôi. Tuy vậy tò mò muốn lý giải những bí mật của vùng biển kỳ dị này thắng được cơn sợ hãi trong tôi. Nó giúp tôi cảm thấy dễ chịu trước khuôn mặt xấu xí của thần chết. ràng là chúng tôi vội vã lao vào hiểu biết kỳ thú nào đó, thứ bí mật bao giờ có thể chia sẻ cùng ai và kẻ nào biết được phải trả giá bằng cái chết. Có lẽ dòng nước này dẫn chúng tôi đến tận Bắc Cực. Phải thấy rằng giả thuyết này cũng có nhiều cơ sở để trở thành .

      Những thủy thủ lại boong với bước chân bồn chồn run rẩy. Nhưng vẻ mặt của họ vẫn phẳng phất niềm hưng phấn đầy hy vọng hơn là nỗi thờ ơ của tuyệt vọng.
      Lúc này, gió vẫn thúc vào lưng chúng tôi. Khi giương hết buồm lên, con tàu như muốn bay bổng lên khỏi mặt biển. Ồ, là khủng khiếp! Băng giá chợt rẽ ra bên phải rồi bên trái và chúng tôi bắt đầu quay tít theo những vòng tròn đồng tâm rộng lớn. Quay và quay theo những đường xoáy của hý trường vĩ đại. Bên con vực là bóng đen mịt mùng thăm thẳm. Tôi chẳng còn bao nhiêu thời gian để suy ngẫm về số phận mình nữa. Những vòng tròn nhanh chóng thu hẹp lại. Chúng tôi phóng như điên cuồng vào giữa vòng ôm của vực xoáy giữa tiếng gầm gừ, rú rít, rền rĩ của đại dương bão tố. Con tàu bỗng rùng mình - ôi, Thượng đế! - và chìm xuống. (*)
      Hoàng Văn Quang dịch từ nguyên bản tiếng
      Văn học nước ngoài, số 3, tháng 5-6/2004, số kỷ niệm 195 năm sinh E.A.Poe (1809-2004)
      ______________
      Chú thích:
      (*) Tác giả để trống vài hàng.
      (*) Truyện Bản thảo tìm thấy trong chai được in lần đầu tiên năm 1831. Rất nhiều năm về sau, tôi mới biết đến những bản đồ do Mecrator vẽ, trong đó đại dương được thể như đổ vào vực Bắc Cực bằng bốn cửa rồi mất hút trong lòng quả đất. Bản thân Bắc Cực được biểu đạt bằng tảng đá đen cao nghễu nghện lạ thường. (TG)

    2. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :