Bá tước Dracula - Bram Stocker(Kinh dị)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      [​IMG]



      Tên sách : Bá tước Dracula



      Tác giả : Bram Stocker



      Người dịch : Nguyễn Tuyên



      Nhà xuất bản : Nhà xuất bản văn học



      Đánh máy : http://www.phuonghong.com/








      Giới thiệu



      Dracula là tên nhân vật có , nhân vật gợi lại những kỷ niệm đau đớn và tàn bạo của lịch sử Rumani. Theo lời của Haữy Ludlam, người viết tiểu sử của tác giả Bram Stoker, Dracula là lãnh chúa khét tiếng hung bạo ở xứ Valachie hồi thế kỷ thứ XV. dã man phi nhân tính của kẻ bạo chúa này đối với người Thổ được những người cùng thời ghi lại trong hai bản thảo viết tay, trong đó có bản mô tả như bóng ma cà rồng với những lời lẽ như stregoicca phù thủy, ordog và pokol - quỷ satăng và địa ngục?



      Sử sách ghi rằng trong các cuộc chiến đẫm máu chống lại người Thổ ở Valachie và Transylvanie, những người thuộc dòng dõi quý tộc Dracula luôn tỏ ra hung bạo và khát máu.



      Người đứng đầu các chiến binh này là Dracula, nhân vật mang đầy đủ những tính cách hắc ám nhất khiến người đương thời nghi có dính líu đến quỷ dữ. Trong những lời truyền tụng của người xưa có đoạn: “ cho chôn tù binh đến rốn rồi ra lệnh hạ sát cả loạt.. hoặc cho lấy dùi xiên vào những kẻ bại trận và nếu giãy giụa quyết liệt quá, họ bị đóng cọc ghim bàn tay xuống đất. Có lần còn cho quẳng tên trộm vào vạc nước sôi rồi cho xẻo thịt bắt người nhà của tên tội đồ phải ăn ngay trước mặt quần thần.



      còn tự tay mổ bụng người vợ mang thai để xem đứa con trong bào thai... Đến Saint- Barthelemy, ra lệnh giết chết ba mươi ngàn người vô tội đến Schylta, hai mươi nhăm ngàn... cho treo ngược tóc những người thích, cho chém tù binh để lấy thủ cấp mời những kẻ thù khác ăn và rồi lại ra lệnh cho chém các thực khách này vào lúc tàn bữa. Ba trăm khách du mục tới xứ sở của đều bị bắt xâu xé lẫn nhau. cho nấu chín con trẻ rồi bắt các bà mẹ của chúng phải ăn. sai cắt vú đàn bà và bắt đàn ông phải ăn...”



      Hình ảnh và tính cách man rợ, khát máu của nhân vật có trong lịch sử này được Bram Stocker mượn để xây dựng thành hình tượng mang màu sắc kỳ bí có tính cách ma quái theo những lời truyền tụng dân gian của người châu Âu, đặc biệt là người Rumani. Theo tiếng Rumani, “Dracula” được dùng để chỉ thói tham tàn của những kẻ xấu xa, nhưng đồng thời nó cũng là lời ám chỉ “ma cà rồng” tưởng tượng rất phổ biến trong dân gian Rumani và các nước lân cận. Theo tín ngưỡng của người Rumani, linh hồn của người chết chỉ lìa khỏi thể xác khi được linh mục chính thống giáo rút phép thông công trong nhà thờ, nếu xác người chết thể thối rữa và biến thành ma quỷ để rồi lại có ngày hút máu của những người sống.



      Theo truyền thuyết của người Rumani, ma cà rồng có thể biến thành các giống vật như chó, mèo, cóc nhái, chấy rận, nhện... Đặc điểm chung của các con vật ma quái này là đều thích cắn cổ và hút máu người sống, đặc biệt là trẻ em và phụ nữ. Tuy nhiên, những người nông dân Valachie (Rumani) lại quan niệm rằng ma cà rồng mang hình hài của loài dơi hay bất cứ loài vật nào kể , và những bóng ma đội lốt thú vật này cũng nhất thiết phải cắn vào cổ nạn nhân để hút máu.



      Trong suy tưởng của họ, ma cà rồng thường mang hình hài của con chó sói (như mô tả trong tiểu thuyết của Bram Stocker); thú vui của con sói này là lang thang khắp chốn đồng quê để giết chết và hút máu tất cả các gia súc, gia cầm mà nó gặp trong đêm, chính vì vậy mà con ma sói có thể mãi mãi giữ được cái làn da tươi trẻ và mọng máu của nó. Họ còn cho rằng ma sói bao giờ chết hẳn và mỗi lần sống lại, nó lại như tiếp thêm sức mạnh sau những lần no máu. Vì vậy, mỗi khi phải chôn người quá cố, họ thường đặt ngay bên cạnh ta mẩu bánh và đồng xu bạc. Sau đó, họ đặt vài cực đất lên bụng và hòn đá nặng lên đầu, hoặc lên hai chân của người chết khiến cho thây ma thể ngóc đầu dậy để ám người khác...



      Có thể thấy điều rằng khác với văn học và các câu chuyện dân gian của phương Đông - nơi các bóng ma phải lúc nào cũng bị coi là thế lực tà ác - văn học và truyền thống dân gian phương Tây thường xem bóng ma là thân của cái ác và luôn mang đến chết chóc, tai họa cho thế gian. Trong khi ma của văn học phương Tây thường hóa thân vào những cơn vật ghê tởm hoặc mang nguyên hình nhân quái dị và thường trú ngụ trong những tòa lâu đài cổ u tịch, những ngôi nhà lâu ngày người ở, nhưng khu vườn, cánh rừng hoang dại, hoặc lúc lúc các đường phố tối tăm, vắng tanh của thành phố chết, ma của người phương Đông lại có thể hóa thân vào bất cứ vật hoặc muông thú nào - từ gốc cây gạo đến bóng chim bay qua cửa, từ con bướm trắng đến cái chổi cùn nằm ở xó nhà bỏ hoang... và thường hay xuất ở đình, đền miếu mạo hoặc ở ngay tại nơi mà người khuất còn mắc ân tình, duyên nợ... chưa trả với người còn sống.



      Giải thích khác biệt này phải là điều khó, bởi đơn giản là vì triết lý về vạn vật của người phương Tây có nhiều khác biệt với người phương Đông người phương Tây ưa khoa học và rạch ròi, trong khi người phương Đông thích sống chan hòa với thiên nhiên, xuất phát từ tự nhiên và trở về với tự nhiên. Các truyện kỳ ảo của phương Đông thường để lại cho người đọc cảm giác hư hư thực thực, mờ mờ ảo ảo như ở trong thế giới vừa xa lạ lại vừa gần gũi với con người. Ngược lại, trong văn học kinh dị của phương Tây, người ta dễ dàng phân biệt được hai mảng màu sáng và tôi, thiện và ác, thực và hư, ân oán và hận thù, sống và cái chết... Chưa hết, các nhân vật ma quái trong văn học phương Đông phải lúc nào cũng xấu xa, tội lỗi và nhiều khi còn mang những nỗi niềm nhân tình thế thái, những buồn vui u hoài hoặc cũng có thể tận số, mạt vận như kẻ song.



      Có thể nhận ra đặc điểm nổi bật của văn học kỳ ảo phương Tây trong tác phẩm của các nhà văn như Arthur Machen, Sax Rohmer, Théophile Gautier, Rachard Mathenson hoặc Guillaume, Maupassant, Balzac, Tsekhov...



      Quay trở lại với Bram Stoker, có thể thấy điều rằng nhìn chung, tiểu thuyết của ông cũng nằm ngoài tư tưởng chủ đạo của văn học kỳ ảo phương Tây. Đối với bá tước Dracula, ta có thể chia ra làm hai vế ràng: vế giữ nguyên các câu chuyện được lưu truyền trong dân gian có , tức là các tín ngưỡng và các thực tiễn lịch sử, vế còn lại là phần sáng tạo vì mục đích văn học của tác giả. Bram Stoker biết sử dụng các chất liệu chuyện kể dân gian phương Tây, các tài liệu và sử ký cổ xưa để xây dựng nhân vật lịch sử thành nhân vật văn học hoang đường mà vẫn giữ nguyên được màu sắc, tính cách được truyền tụng qua bao đời về con người đó: vẫn , hoang đường vẫn hoang đường, bởi chính người Rumani ngày nay vẫn thể khẳng định bá tước Dracula ngày xưa có giao du với ma quỷ, hút máu người hay ? Đối với người Rumanl, tất cả bây giờ chỉ là dĩ vãng xa xôi từng nuôi sống tm ngưỡng qua bao đời.



      Dĩ vãng ấy rằng Dracula là xác chết rời khỏi mộ vào ban đêm để kiếm ăn: nguồn sống giúp nó tồn tại chính là sức sống của những người còn sống, chính nguồn sống ấy giúp nó giữ nguyên được thể xác qua nhiều thế kỷ! Do sống cuộc sống đầy tội ác và đặc biệt là phó thác cuộc sống ấy cho tà đạo và ma thuật nên bá tước Dracula lịch sử phải biến thành quỷ. hoán đổi giữa người chết và người sống trong các câu chuyện hoang đường phương Tây thường được hỗ trợ bởi các thông ước của ma quỷ với các thế lực của thần. Tội Lỗi hoặc của cái gì đó tương tự nơi địa ngục. Bởi vậy, chỉ cần hút máu người sống là ma cà rồng thể chết, và tất cả những người bị ma cà rồng hút máu lại trở thành ma cà rồng. Trong tiểu thuyết của Bram Stoker, giáo sư Van Helsing có rằng:



      “Nosferatu (con ma) thể chết như loài ong mà ngược lại, mỗi khi cắn vào con mồi, nó lại tìm được sức sống mới.” Ma cà rồng thể chết định mệnh, mà chỉ có thể chết phi mệnh. Mặc dù luôn được coi là thần hộ mệnh của các nước Thiên Chúa giáo, nhưng cây thánh giá vẫn phải là vũ khí có hiệu quả chống lại ma quỷ trong các câu chuyện kinh dị phương Tây. Người ta chỉ có thể giết chết con ma bằng cách đâm cây cọc hoặc vật nhọn khác vào giữa trái tim nó. Những lớp bụi mờ tứ tán chính là cách thể cái chết của ma cà rồng. Chúng ta có thể thấy chi tiết này qua hình ảnh của các nhân vật phản diện trong Bá tước Dracula.



      Tuy nhiên, Bram Stoker chỉ dừng lại ở những đặc điểm mang tính truyền thống đúc kết từ văn học dân gian Rumani, mà ông còn thêm số chi tiết vào tác phẩm của mình cho sinh động hơn. Ví dụ, trong tác phẩm của ông, ít lần chúng thấy có xuất của loài dơi con vật có trong các câu chuyện của người Rumalli. Việc nhân vật hùng Van Helsing dùng hoa tỏi để xua đuổi tà ma ở phòng bệnh nhân Lucky cũng là nét mới, thậm



      chí còn trở thành chủ đề cho điện ảnh rùng rợn khai thác trong suốt thời gian dài. Cũng như vậy, chúng ta có thể bắt gặp những chi tiết như mà cà rồng có bóng và cũng hề được phản chiếu trong gương... Đây là những chi tiết có trong dân gian và văn học kỳ ảo phương Tây trước đó; và chúng ta cũng nên biết rằng chỉ sau tiểu thuyết Bá tước Dracula, các tác phẩm văn học, sân khấu và sau này điện ảnh kỳ ảo của phương Tây mới có đổi mới đáng kể về nội dung và hình thức.



      Nếu xét về truyền thống kịch bản của tiểu thuyết Bá tước Dracula cũng giống như phần lớn các chuyện kể dân gian phương Tây: nhân vật Jonathan rời quê hương đến địa chỉ xa xôi để rồi phải đương đầu với vô vàn khó khăn, nguy hiểm trong suốt cuộc hành trình và khi sắp đến đích, khiếp đảm vì bóng ma bất ngờ xuất ngay trước mặt. Nhưng biết phải làm gì, bởi phải bản năng thích phiêu lưu mà là công việc kinh doanh bắt buộc phải tới Transylvanie.



      tìm thấy kho báu hay bất cứ khám phá nào khác để có thể làm rạng danh cho đời. Cuộc hành trình kết thúc trong sợ hãi, nỗi thất vọng và cả ám ảnh của những hình hài ma quái, mặc dù luôn được cảnh báo trước những việc nguy hiểm chờ đợi mình. Con đường dẫn tới Transylvanie - với đoạn văn tả cảnh dẹp nhất có thể có trong văn học kỳ ảo của mọi thời đại luôn thiếu những điểm gở, chẳng hạn như bóng dáng nghĩa địa lạnh lẽo hoặc những tiếng tru thê thảm của loài lang sói trong đêm đen.



      Tuy nhiên, đoạn văn tả cảnh bậc thầy này chỉ được đưa vào tác phẩm vào năm 1914 với tựa đề cách mời của Dracula, các lần trước đó đều thấy có. Đoạn văn thực ra là lời cảnh báo nghiêm túc đối với Jonathan: nó muốn hãy từ bỏ cuộc viễn du, quên mục đích của cuộc hành trình, được liều lĩnh dấn thân vào nguy hiểm đường tới Valachie.



      Trong đoạn văn khác, chúng ta còn thấy Jonathan thoát khỏi cái chết trong gang tấc, bởi trong lúc bất cẩn, vô tình để mình trở thành con mồi quyến rũ của ba ả đàn bà tuyệt đẹp nhưng dâm đãng cũng chính là ba bóng ma cà rồng đáng ngờ được sinh ra nhờ ánh trăng lọt qua cửa sổ căn phòng địa phủ... Cảnh này khiến chúng ta có cảm tưởng rằng Jonathan cũng giống như các tín đồ tôn giáo chờ được thụ pháp trong các nền văn minh cổ xưa: phải chịu thử thách được thân trong thân thể người đàn bà quyến rũ, và kết quả có biết chống lại cám dỗ hay là điều kiện để được bất tử hay phải chết.



      Trong khi đó, bá tước Dracula lại chọn hành trình ngược lại, nhưng đó phải là con đường cuối cùng để có thể quay trở lại điểm xuất phát. Lão là kẻ bị trừng phạt bởi những tội ác gây ra. Lão hoàn toàn bị lập trước những người ra sức chống lại lão, của thèm khát được an toàn, của chủ nghĩa hùng cổ điển phương Tây. Chúng ta cũng có thể nhận thấy rằng số nhân vật trong tiểu thuyết của Bram Stoker có tính cách thực ; họ phụ thuộc vào quyền sở hữu của bá tước mặc dù hề được lần trông



      thấy lão, chẳng hạn trường hợp của nhân vật Renueld.



      Tất cả chỉ tồn tại bởi , qua và người ta chỉ biết tới qua những thư trao đổi hoặc những dòng nhật ký riêng tư của nhân vật khác. có nhân vật nào trong tác phẩm thể kính phục hoặc lòng tôn trọng đối với siêu nhiên: chỉ quái gở của việc mới làm nổi bật từng nhân vật trong kịch bản. Cái đáng sợ ở nhân vật Dracula chỉ thể ở chỗ lão có thể sai khiến cả đàn thú hoang dã hoặc làm thay đổi việc theo ý muốn, mà còn ở chỗ lão có thể mò tới thành Luân Đôn để biến các mạng sống khác thành những thây ma như sau nhiều thế kỷ chuẩn bị! Sức mạnh của được nhân dần lên và mở rộng dần ra, từ điểm rất có thể trải rộng ra toàn thế gian.



      Khi Jonathan và những người bạn của biết được ngọn nguồn của mối nguy hiểm để tìm ra phương án đối phó quá muộn. Tuy nhiên, vòng vây của những kẻ đội trời chung vẫn cứ siết dần, dần xung quanh Dracula. Chúng ta có thể cảm nhận được cao trào của câu chuyện trong đoạn văn mô tả các nhân vật chính cưỡi ngựa phi nước đại về phía trung tâm điểm của mọi mối nguy hiểm - nơi đặt quan tài của thầy ma Dracula, dưới bảo vệ của những người Bôhêm trong khi mối nguy hiểm cứ lớn dần trong thời gian ngắn ngủi.



      Xét phương diện kỹ thuật, tác giả rất khéo léo trong bút pháp khi chủ ý để các nhân vật tỏ thái độ khâm phục bá tước Dracula, bởi nếu làm ngược lại, cái kỳ ảo trong câu chuyện bị lộ liễu thô thiển trước khi phai nhạt dần rồi chìm nghỉm vào cái thần bí mông lung. Stoker thích khoảng gian cách biệt để có thể hạn định cội nguồn gây nên nỗi kinh ngạc và lo sợ, để rồi lại phá tan những cảm giác mơ hồ này theo cách tất nhất. Ông cũng tỏ ra hoàn hảo trong việc sử dụng nhiều chất liệu tản mạn có trong kho tàng chuyện kỳ ảo truyền thống của phương Tây để lồng vào lời kể của mình cách tự nhiên nhất. Kỹ thuật ấy càng đắt hơn khi ông biết cách tạo nên khoảng khí, gian có sức thôi thúc gợi cảm theo cấp độ tăng dần.



      Cuộc hành trình đầy gian nguy của Jonathan từ Luân Đôn đến Transylvanie thực ra chỉ có chung vai trò gợi mở như chính con người Renueld, cho dù chưa lần rời khỏi trại tâm thần. Sừ xuất của người Bôhêm đầy màu sắc dân gian địa phương ở số cảnh đẹp như tranh vẽ đâu cũng chung tác dụng là mạng lại hiệu quả văn học như các cuộc tìm kiếm của giáo sư Van Helsing trong các thư viện ở châu Âu. Bá tước Dracula lập tức đưa người đọc lạc ngay vào thế giới kỳ ảo, mà cái bí chỉ thực hé mở khi có xuất ngày của lực lượng siêu nhiên.



      Chi tiết những bóng ma cà rồng bị đâm cọc và biến thành cát bụi chỉ là hóa những gì được gọi là siêu nhiên; tuy nhiên, độc giả vì thế mà thất vọng, bởi việc hành quyết của thế giới đối với thế giới khác cũng chỉ xảy ra khi độc giả bắt đầu khám phá ra thiện ác. Và sau khám phá này, thế giới xung quanh chúng ta còn được đảm bảo nữa; bóng ma bị ngắn



      chặn ở nơi xứng đáng với nó, nhưng ai dám đảm bảo rằng ngày mai còn bóng ma nào chui ra từ chiếc quan tài khác? Cuối tiểu thuyết là cảnh Jonathan cùng gia đình trở lại thăm mảnh đất mà ngày trước từng bị bá tước Dracula ám. Tất cả dường như kết thúc cách tất đẹp nhất thế giới tốt đẹp nhất... Song cũng dường như vẫn còn cái gì đó ổn định, cái gì đó hiển , như muốn chứng tỏ rằng ma cà rồng vẫn còn tồn tại cõi đời này!



      Vâng, dường như điều trái khoáy thường hay xuất đúng vào lúc ta thanh thản nhất hoặc lúc ta ít ngờ tới nhất!



      N.T.T

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 1


      Bistriz, ngày 3 tháng 5:




      Tôi rời Munich vào ngày lúc 8:35 ngày 1 tháng 5, và đến Vienna vào buổi sáng sớm. Đáng lẽ tôi đến nơi vào lúc 6:46, nhưng xe lửa đến trễ giờ. Với tất cả những gì mà tôi nhìn thấy được qua xe lửa cộng với quang cảnh những con đường mà tôi có dịp ghé qua, Buda Pesh xem ra là thành phố tuyệt vời.


      Tôi sợ dám quá xa nhà ga, vì rằng chúng nếu tôi trễ xe lửa vẩn cứ khởi hành đúng giờ như thường.



      Việc di chuyển từ phía Tây sang phía Đông, ngang qua cây cầu nằm xa nhất về miền Tây trong số những cây cầu tráng lệ bắt qua sông Danube, để lại ấn tượng rệt với tôi. Chuyến mang tôi đến vùng đất đầy quý phái với những phong tục truyền thống của người Thổ Nhĩ Kỳ.




      Chúng tôi giã biệt vùng đất này cách vui vẻ, và khi màn đêm buông xuống, chúng tôi đến Klausenburgh. Tôi qua đêm tại khách sạn Hòang Gia. Tôi ăn chiều, đúng hơn là ăn tối, với món thịt gà nấu cùng ớt. Nó khá ngon nhưng làm cho tôi khát cháy cổ. (Phải ghi nhớ công thức của nó cho Mina mới được.) Tôi hỏi người chạy bàn, và ta bảo món ăn này có tên là "paprika hendl", và đó là món ăn địa phương. Tôi có thể thưởng thức nó ở bất cứ nơi đâu miền Carpathians này.




      May mắn thay, tôi biết chút tiếng Đức, và điều đó giúp đỡ tôi rất nhiều, nếu tôi cũng chẳng biết làm cách nào để có được những thông tin quý giá như vậy.




      Để chuẩn bị cho chuyến của mình ở Luân Đôn, tôi ghé Viện Bảo Tàng , lục tung các cuốn sách và bản đồ trong thư viện về Transylvania; đổi lại tôi có được số hiểu biết quan trọng về cách thức giao tiếp với những nhà quý tộc của vùng đất này.




      Cái vùng đất mà tôi muốn tìm nằm ở rất xa phía Đông của đất nước này, nằm giữa biên giới ba nước Transylnavia, Moldavia và Bukoniva, nằm ở giữa dãy Carpathian, nó là trong những vùng đất hoang dã và ít được biết đến nhất ở châu Âu.




      Chẳng có bản đồ nào giúp tôi xác định được vị trí của lâu đài Dracula cả. Xem ra những bản đồ của đất nước này tại đây chẳng thể nào so sánh được với những bản đồ giao thông hành chánh của chúng ta. May thay, thành phố Bistriz, nơi mà bá tước Dracula gửi thư cho tôi, lại là nơi đến nỗi bí hiểm như vậy.


      Tôi nhất định ghi chép về chuyến hành trình này, điều này giúp đỡ cho trí nhớ của tôi trong việc kể lại với Mina vể cuộc du hành của tôi.




      Cộng đồng cư dân của Transylvania bao gồm bốn sắc tộc khác nhau: người Saxon ở phía Nam, sống lẩn lộn với họ là người Wallach, là hậu duệ của người Dacian; người Magyard ở phía Tây, và người Szekely nằm ở phía Đông và phía Bắc. Tôi ở giữa cái cộng đồng cư dân cuối này, những người tự hào rằng là hậu duệ của Attila và người Hun. Điều này có thể xuất phát từ việc người Hun định cư vùng đất này trước khi người Magyard xâm chiếm nó vào thế kỷ 11.


      Có lẽ là tất cả mê tín thế giới đổ dồn vào cái khối đá Carpathian này, và điều đó ném tôi vào giữa vòng xóay của những trí tưởng tượng đầy thú vị khi tôi dừng chân tại nơi đây.(Phải kể cho bá tước nghe về những điều này mới được.)




      Tôi chẳng ngủ được mấy chốc, dù giường đệm của tôi xem ra cũng khá êm ấm, bởi vì tôi kịp sưu tập được đủ các loại giấc mơ kỳ quặc trong đêm đó. Có thể là do có tiếng chó tru ai óan như thể nó gặp phải tai họa gì cứ lởn vởn dưới cửa sổ của tôi, hoặc có thể do cái món ớt quái quỷ khiến tôi phải nốc sạch cả bình nước mà vẩn còn khát như thường. Đến gần sáng tôi mới có thể chợp mắt và bị đánh thức bởi những tiếng gõ cửa liên hồi. Có lẽ là ngay sau khi giấc ngủ ập đến tôi ngủ rất say.




      Tôi được phục vụ bữa ăn sáng với ớt, bao gồm loại cháo với thứ bột vàng vàng được gọi là "mamaliga", và loại cà dồn thịt ngon tuyệt được gọi là "impletata". (Tất nhiên là cũng phải ghi lại công thức món này.)




      Tôi phải chén cho nhanh bữa sáng, bởi vì xe lửa bắt đầu trước tám giờ chút, đúng hơn là nó có giờ khởi hành như vậy. Sau khi cuống cuồng phóng đến nhà ga lúc 7:30, tôi phải ngồi chầu chực trong toa hơn giờ trước khi khởi hành.


      Có lẽ là càng về miền Đông bạn càng đúng giờ hơn xe lửa. Chẳng hiểu ở Trung Quốc mọi chuyện như thế nào nhỉ?




      Suốt cả ngày dài chúng tôi chìm đắm trong những cảnh đẹp khác nhau trải rộng khắp đất nước này. Đôi khi chúng tôi thấy những thị trấn , những lâu đài xuất đỉnh của những đồi dốc đứng đưa chúng tôi về khí của thời cổ xưa, lúc khác chúng tôi băng qua những dòng sông, suối mà hai bên bờ đá rộng của chúng cuồn cuộn những cơn sóng thủy triều cuốn trôi tất cả những gì nằm dọc hai bờ.




      Tại mỗi nhà ga là những nhóm người, đôi khi là cả đám đông với những kiểu quần áo khác nhau. số ăn mặc giống như những người nông dân tại quê hương tôi hoặc tại những vùng ở Pháp và Đức, với các loại áo vét tông, mũ rộng vành và quần dài tự may; nhưng số khác tạo nên bức tranh đầy sinh động về thời trang.



      Nếu như bạn đừng đến gần những người phụ nữ ở đây, trông họ rất đẹp, nhưng có phần thô kệch ở phần eo. Họ mặc các loại áo phủ kín tay khác nhau, và phần lớn trong số họ thắt dây lưng lớn với các loại váy bay tung lên phất phới như các nghệ sĩ ba lê, nhưng tất nhiên là họ có mặc váy lót trong.




      Tạo nên hình ảnh lạ lùng nhất có lẽ là người Slovaks, hoang dã hơn những sắc tộc còn lại. Họ mang loại nón cao bồi lớn, những cái quần dài trắng dơ bẩn lùng thùng, áo sơ mi vải lanh, đóng thùng sau cái thắt lưng khổng lồ rộng gần bằng bàn chân, và tất cả các khuy áo được cài bằng những cái đinh đồng.


      Ống quần họ được nhét vào những chiếc ủng cao, ngòai ra họ còn trang điểm thêm mái tóc dài và hàng ria mép rậm, tất cả đều màu đen. Họ trông sặc sỡ, nhưng chẳng thể tạo nên ấn tượng tốt đẹp về mình.


      Nếu họ xuất sân khấu khán giả nghĩ ngay đến đảng cướp Oriental thời cổ xưa. Tuy nhiên, như tôi , họ rất hiền lành và ra họ chỉ muốn giữ gìn truyền thống của dân tộc mình.



      Chúng tôi đến Bristriz vào lúc mờ sáng, vùng đất cổ kính đầy thú vị. con đường biên giới dẩn từ Borgo Pass vào Bukoniva, người ta có thể thấy nhiều dấu vết còn lại chứng thực cho quá khứ đầy giông bão diễn ra vùng đất này. Năm mươi năm trước đây, có nhiều đợt hỏa hoạn , và nơi đây bị tàn phá nặng nề trong năm lần. Vào thời kỳ đầu của thế kỷ mười bảy, nó lại bị vây hãm trong suốt ba tuần lễ và mất 13000 người, trong đó đói kém và bệnh tật góp thêm vào cho mất mát của chiến tranh.



      Bá tước Dracula chỉ dẩn tôi đến khách sạn Krone Vàng. Và tôi hết sức vui mừng khi thấy đấy là khách sạn mang dáng dấp đầy cổ kính, và tất nhiên là tôi có thể biết tất cả những điều tôi muốn về đất nước này.




      Như tôi chờ đợi, khi tôi đến gần cữa, tôi gặp người phụ nữ trung niên trông rất vui vẻ trong bộ váy áo nông dân thường lệ – bộ quần áo trắng được bao phủ bởi hai cái tạp dề phía trước và phía sau, thắt chặt với mức độ vừa phải. Khi tôi đến gần, bà ta nhún mình chào và lên tiếng: "Ông là người ?"



      "Vâng", tôi trả lời, "tôi là Jonathan Harker".




      Bà ta mỉm cười, và trao đổi điều gì đó với người đàn ông đứng tuổi mặc cái áo dài tay trắng theo bà ta đến tận cửa.




      Ông ta quay và ngay lập tức trở lại với bức thư:




      "Bạn của tôi. Chào mừng ngài đến Carphathian. Tôi rất nôn nóng chờ đợi ngài. Hãy an giấc đêm nay.


      Vào lúc ba giờ sáng mai chuyến xe ngựa khởi hành Bukoniva, vùng đất chờ đón ngài. Xe ngựa của tôi đợi ngài tại Borgo Pass và đưa ngài đến với tôi. Tôi tin rằng ngài chuyến hành trình vui vẻ từ London và ngài thích thú khi dừng chân mảnh đất này—Bạn của ngài, Dracula."


      Ngày 4 tháng 5:




      Tôi tìm đến người chủ quán, cầu ông ta tìm cho tôi chỗ tốt nhất chuyến xe ngựa, nhưng khi tôi bắt đầu hỏi han chi tiết ông ta trở nên dè dặt và giả vờ như hề biết tiếng Đức.


      Vô lý, ông ta từng hiểu nó rất đúng, ít ra cũng trả lời những câu hỏi trước đây của tôi hòan tòan chính xác.




      Người chủ quán và vợ ông ta, người đàn bà tiếp đãi tôi, nhìn nhau với vẻ kinh sợ. Ông ta lầm bầm rằng mọi phí tổn được gửi đến cùng với bức thư, và đó là tất cả những gì ông ta biết. Khi tôi hỏi về bá tước Dracula và lâu đài của ông ta, người chủ quán và vợ làm dấu thánh, rằng họ biết gì, và từ chối gì thêm. gần đến giờ khởi hành, tôi có thời gian để hỏi thêm ai nữa, và tất cả những điều bí này có những giải định thỏa đáng.




      Trước khi tôi , người đàn bà đến phòng tôi và cách kích động: " phải ư? Ôi, con người trẻ tuổi, chẳng lẽ phải ư?". Bà ta ở trong trạng thái kích động , và có vẻ như đánh mất sạch kiến thức về tiếng Đức của mình, để rồi pha trộn nó với thứ ngoại ngữ khác mà tôi chẳng hiểu chút gìø. Hàng tá những câu hỏi của bà ta lại càng làm tôi rối tinh rối mù. Và khi tôi rằng tôi phải ngay, rằng tôi vụ làm ăn quan trọng, bà ta lặp lại:




      " biết bữa nay là ngày gì à?" Tôi trả lời bữa nay là ngày bốn tháng Năm. Bà ta lắc đầu và lặp lại:




      "Ồ, vâng! Tôi biết! Tôi biết chứ! Tôi biết, nhưng có biết hôm nay là ngày gì hay ?"




      Khi tôi là tôi hiểu, bà ta tiếp tục:


      " Hôm nay là đêm trước của ngày lễ thánh George. biết rằng vào tối nay, khi đồng hồ điểm nữa đêm, các loại ma quỷ ngự trị khắp thế giới, và rồi làm gì?" Bà ta ràng là mất tinh thần và tôi cố trấn an bà, nhưng chẳng có hiệu quả gì. Cuối cùng, bà ấy quỵ xuống đầu gối và van nài tôi đừng , ít nhất cũng đợi hai ngày nữa hãy khởi hành.




      Tất cả những điều này quá buồn cười nhưng tôi bắt đầu cảm thấy bất an. Tuy nhiên, công chuyện làm ăn phải giải quyết, và tôi cho phép bất cứ thứ gì ngăn trở nó.




      Tôi cố nâng bà ta dậy, và với tất cả dũng cảm tôi có, tôi rằng tôi cám ơn bà, nhưng bổn phận của tôi là hết, vì thế tôi phải .




      Bà ta đứng dậy và chùi mắt, và trao cho tôi cây thánh giá được đeo cổ bà bởi chuỗi tràng hạt.



      Tôi biết nó có ý nghĩa như thế nào, và như mọi người ngoan đạo khác, tôi buộc phải nhận vật có ý nghĩa linh thiêng như thế, vả lại, có vẻ như rất bất nhã khi từ chối người đàn bà tốt bụng ở trong trạng thái tinh thần như vậy.


      Hình như là bà ta nhận ra vẻ nghi ngờ nét mặt của tôi, bà bèn vòng chuỗi tràng hạt quanh cổ tôi, lên tiếng "Vì mẹ ," và ra khỏi phòng.




      Tôi viết phần này của nhật ký khi tôi ngồi đợi xe ngựa. Tất nhiên bây giờ rất muộn và cây thánh giá vẩn còn cổ tôi.


      Có thể là do nỗi kinh hãi của người phụ nữ, hoặc do đầy rẫy những truyền thuyết về ma quỷ của vùng đất này, hoặc do chính bản thân cây thánh giá, tôi lắm, nhưng tôi thể bình tĩnh như thường lệ được.



      Nếu như quyển sách này đến được với Mina trước tôi, hãy mang đến cho ấy hộ tôi lời tạm biệt. Xe ngựa đến rồi.




      Ngày 5 tháng 5. Lâu đài:




      Cái ảm đạm lúc sáng sớm trôi qua, và mặt trời vượt quá đường chân trời, xuất những rặng cây hay những rặng đồi gì đó, chúng ở quá xa nên thể phân biệt được nữa.




      Tôi buồn ngủ, và tất nhiên là khi có ai đánh thức tôi dậy, chính là tôi viết cho đến giờ ngủ.




      Có nhiều việc lạ lùng cần phải ghi lại, và nếu ai đọc chúng có thể rất lạ lùng với bữa ăn mà tôi trải qua trước khi rời Bistriz, và tôi mô tả chúng chính xác.




      Tôi ăn món được gọi là "thịt kẻ trộm", bao gồm thịt lợn xông muối, hành, thịt bò, rắc ớt, được xuyên qua cái cây và quay lửa, đơn giản là giống như món thịt mèo ở London!




      Rượu vang là món rượu Mediash Vàng, khiến cho người ta say ngay khi nếm vào lưỡi, tuy nhiên dễ thương lắm.




      Tôi chỉ uống vài cốc, hơn.




      Khi tôi lên xe ngựa, người tài xế chưa vào chỗ. Tôi thấy ông ta chuyện với bà chủ quán.




      Với những gì xảy ra và cái cách họ liếc nhìn tôi, rồi số hành khách ngồi gần cửa cũng đến và lắng nghe cuộc chuyện, phần lớn trong số họ nhìn tôi với vẻ thương hại, ràng là họ chuyện về tôi.


      Tôi có thể nghe số từ thường lặp lặp lại, những từ lạ lùng, và vì có rất nhiều sắc tộc khác nhau trong đám đông, tôi lặng lẽ lấy ra cuốn từ điển nhiều thứ tiếng ra khỏi túi xách và tra chúng.



      Tôi phải là họ hoan nghênh tôi, và số từ tôi tìm ra được là "Ordog" – quỷ vương, "Pokol" – địa ngục, "stregoica" – phù thủy, "vrolok" và "vroloslak" , cả hai từ này, bằng tiếng Slovak và bằng tiếng Servian đều có nghĩa là ma sói hoặc ma cà rồng. (Phải hỏi bá tước về mê tín này mới được.)



      Khi chúng tôi khởi hành, tất cả những người bao quanh cửa nhà trọ, bấy giờ trở thành đám đông khổng lồ, đều làm dấu thánh và đưa hai ngón tay bắt chéo hình chữ thập về phía tôi.


      Hơi khó khăn chút, nhưng tôi cũng khiến được gã hành khách cho tôi biết họ muốn gì. Đầu tiên trả lời, nhưng sau khi biết được tôi là người , giải thích rằng đó là loại bùa hoặc loại khiên chắn gì đó để chống lại con mắt của quỷ dữ.




      Điều này chẳng hề làm tôi an tâm, khi vừa bắt đầu cuộc hành trình đến nơi xa lạ để gặp con người xa lạ. Nhưng tất cả mọi người đều tốt bụng, họ quá buồn bã và thông cảm với tôi khiến tôi thể xúc động.


      Tôi bao giờ quên được hình ảnh cuối cùng tôi nhìn thấy khi tôi rời khỏi nhà trọ. bức tranh ấn tượng về đám đông người, tất cả đều làm dấu thánh, đứng vùng mọc đầy những bụi trúc đào và cam, tạo thành bó xanh rì giữa khỏang đất rộng.


      Rồi người tài xế của chúng tôi, người mặc bộ quần áo bằng lanh rộng thùng thình ngồi ở phía trước cổ xe, ở đây họ gọi là "gotza", quất roi ngựa lên bốn con ngựa xếp thành hàng trước mặt, và chúng tôi khởi hành.



      Tôi nhanh chóng mất các suy nghĩ và hồi tưởng về những nỗi sợ hãi ma quỷ bởi vẻ đẹp của khung cảnh đường. Mặc dù tôi cũng có biết về ngôn ngữ, hay đúng hơn là những thứ ngôn ngữ mà hành khách chuyến xe của tôi dùng để trò chuyện, tôi cũng thể nhanh chóng hiểu được họ. Phía trước chúng tôi trải dài dãi đất được bao phủ bởi màu xanh của những cánh rừng, đây đó là những đồi dốc, nhô lên những lùm cây hoặc những ngôi nhà của nông dân, những cột chống nằm ở phía cuối con đường. Rải rác bên đường là những lùm hoa nở rộ của các loại trái cây: táo, mận, lê, đào.


      Rồi tôi còn nhìn thấy những khu đất xanh phủ đầy lá sồi và những cánh hoa rơi. Nằm giữa những ngọn đồi màu xanh mà họ gọi là "Mittel Land" là những con đường chạy dài, rồi đột ngột tự biến mất bởi những khúc quanh đầy cỏ dại, hoặc bị chấm dứt bởi rừng thông, nhấp nhô những sườn đồi trông giống như những ngọn lửa. Đường trở nên khó , nhưng chúng tôi vẩn cảm thấy là vượt qua với vội vã và bồn chồn. Tôi thể cắt nghĩa được vội vã này, nhưng ràng là người tài xế chẳng hề lãng phi thời gian để đến được Borgo Prund.


      Tôi rằng con đường này vào mùa hè tuyệt vời, nhưng nó chưa hề được chuẩn bị để đón những đợt tuyết mùa đông. Bởi những quan điểm khác nhau của những thế hệ lần lượt sinh sống vùng Carpathian, với những tập quán cổ xưa, họ làm cho nó tốt hơn. Những người Hospadar cổ sữa chữa chúng, người Thổ cho rằng chúng được sữa chữa chỉ để dành cho quân xâm lược, và khi chiến tranh ập đến vấn đề này trở nên nghiêm trọng.




      Đằng sau những ngọn đồi xanh lá cây đặc sắc vùng Mittel Land nhô lên hay đổ xuống những cánh rừng từng bước tạo nên dãy Carpathian hùng vĩ. Chúng vươn lên từ bên phải và bên trái, rồi khi chiều xuống, mặt trời lặn vào giữa chúng, tỏa thứ ánh sáng lộng lẫy tạo ra vẻ đẹp huy hòang, màu xanh dương sâu thẳm và tím của bóng những cây lê, màu xanh lá cây và nâu của những thảm cỏ và vách đá trộn lẫn vào nhau, rồi phối cảnh có tận cùng của những mỏm đá và vách núi, mà chỉ có khỏang cách xa vô hạn mới có thể làm chúng biến mất, nơi mà những ngọn núi tuyết sừng sững vươn lên.


      Mặt trời có lẽ lặn vào đâu đó giữa những đường nứt của các kẽ núi, và phản chiếu lại những ánh sáng lung linh trong nước. người hành khách nằm lấy tay tôi khi chúng tôi qua chân những ngọn đồi vươn lên cao ngất,những đỉnh núi tuyết phủ trắng xóa, nằm bên phải chúng tôi khi chúng tôi con đường quanh co uốn khúc.




      "Nhìn xem! Isten szek " –"Nơi ở của Chúa!" – và ta làm dấu thánh cách cung kính.




      Khi chúng tôi đến hết con đường, mặt trời lặn sâu phía sau, bóng đêm bắt đầu bao phủ mọi cảnh vật. Nổi bật lên trong cảnh hòang hôn là những đỉnh núi tuyết trắng, và chúng tôi được phản chiếu bởi màu hồng thanh tú và mỏng manh. Chúng tôi có lẽ vượt qua Cszeks và Slovaks, với tất cả những vẻ đẹp của nó, nhưng phải chú ý rằng bệnh bướu cổ nỗi phiền muộn thường thấy nơi đây. Bên đường có rất nhiều cây ngôi mộ được cắm thập giá, và tất cả những bạn đồng hành của tôi đều làm dấu thánh khi chúng tôi qua chúng. Rải rác có những nông dân, nam và nữ, quỳ bên cạnh những ngôi mộ và thậm chí chẳng buồn quay lại khi chúng tôi đến gần, hầu như mọi giác quan của họ, cả tai và mắt, đều để ở thế giới khác. Lại thêm nhiều điều mới mẻ với tôi. Ví dụ như những đám cỏ khô cây, rải rác những khóm cây bulô ẩm ướt, với những thân cây sáng như bạc với những chiếc lá xanh mỏng manh.


      Bây giờ chúng tôi qua loại xe bò đặc biệt của những người nông dân, được thiết kế giống như hình đốt sống rắn, được tính tóan để có thể di chuyển được mọi địa hình. Và đây chắc chắn là những nhóm nông dân đường trở về nhà, những người Cszeck trong y phục trắng, những người Slovak trong những bộ quần áo da cừu sặc sỡ, mang mình cây thương dài bằng kim loại với cây rìu gắn ở đầu. Khi chiều xuống, trời trở lạnh, bóng đêm hòa lẩn thứ ánh sáng chạng vạng tạo nên vẻ u ám những cây thông, sồi mọc xuyên qua thung lũng giữa những ngọn đồi, chúng tôi qua Con Đường, bóng đêm bắt đầu đầu cuộc chiến của mình chống lại nền tuyết trắng bao la.


      Có những lúc, khi con đường bị cắt ngang bởi những rừng thông chúng tôi giống như là bị cả màn đêm phủ ụp xuống đầu, những thân cây trở thành những khối màu xám thấp thóang rải rác, tạo nên cảm giác huyền bí và uy nghiêm lạ thường, khiến cho những suy nghĩ và cảm giác ghê sợ vào buổi chiều quay trở lại, khi hòang hôn buông xuống, mặt trời gần biến mất sau những đám mây ma quái cứ trôi dứt qua vùng thung lũng Carpathian. Đôi khi những ngọn đồi trở nên quá dốc, nhưng đàn ngựa chỉ chậm lại dưới điều khiển vội vã của người đánh xe.


      Tôi muốn xuống xe và bộ giống như ở quê nhà, nhưng người đánh xe đồng ý. ", ", ta bảo, "ông thể bộ ở đây. Lũ chó rừng ở đây rất hung hãn." Và ta còn thêm, bằng vẻ dịu dàng kiên quyết, với những nụ cười đồng tình của các hành khách còn lại khi ta liếc nhìn chung quanh – "Và ông có đủ những vấn đề để giải quyết trước khi ngủ đêm nay đấy." Người đánh xe chỉ dừng lại lần duy nhất để thắp sáng ngọn đèn xe.




      Khi bóng đêm lan dần, những người hành khách xem ra sôi nổi hơn, họ thay phiên nhau chuyện với người đánh xe, càng lúc càng dồn dập. Về phần mình, người đánh xe liên tục quất thẳng cánh ngọn roi của mình lên lũ ngựa. khuyến khích chúng bằng những tiếng hú man dại. Xuyên qua bóng đêm, tôi có thể nhìn thấy dãi xám phía chúng tôi, nằm giữa những ngọn đồi. Những người hành khách cùng xe với tôi càng lúc càng tỏ ra bị kích thích. Cỗ xe điên khùng phóng với rung lắc khủng khiếp, và lắc lư như con tàu giữa cơn bão lớn. Tôi phải cố bám chặt. Con đường dẩn chúng tôi lên vùng cao hơn nữa, và chúng tôi xem như lơ lững giữa trời. Những vách núi càng lúc càng đến gần chúng tôi và có vẻ như sắp rơi xuống đầu tôi. Chúng tôi đến Borgo Pass.


      Nhiều hành khách lần lượt trao cho tôi những món quà , họ ấn vào tay tôi với tha thiết cho phép từ chối. Đó là nhiều món đồ lạ lùng khác nhau, nhưng chúng đều gửi kèm cầu mong tốt lành, những lời tốt đẹp, những lời chúc phúc, và tất cả đều gửi đến cho tôi cái dấu hiệu lạ lùng đầy kinh sợ mà tôi nhận thấy ở Bistriz – hai ngón tay bắt chéo hình chữ thập để bảo vệ chống lại con mắt của ma quỷ. Rồi liền đó, khi chúng tôi đơn độc giữa trời, người đánh xe nghiêng về phía trước, các hành khách chồm ra từ hai bên cửa xe, nhìn chăm chú vào bóng đêm với vẻ bồn chồn. ràng là sắp sữa diển ra điều gì đó rất kỳ lạ và ghê gớm, nhưng hành khách nào chịu trả lời những câu hỏi của tôi cách ràng. Trạng thái kích động này trôi qua khá lâu.


      Cuối cùng, con đường chúng tôi hướng sang phía Tây. đám mây đen cuồn cuộn phía , khí trở nên ngột ngạt, nghe như có tiếng sấm đâu đây vọng về. Rặng núi đá này giống như chia khí quyển ra làm hai phần, và chúng tôi vào phần sấm sét của nó. Tôi ngắm nhìn chuyến hành trình của chính mình gặp bá tước. Mỗi khỏanh khắc trôi qua, tôi lại chờ đợi tia sáng xuyên qua màn đêm, nhưng tất cả quanh tôi vẩn hòan tòan tăm tối.


      Rọi sáng đường chỉ là ngọn lửa bập bùng chiếc xe của chúng tôi, và nỗ lực tột cùng của những con ngựa kéo xe tìm đến những đám mây trắng trong lành. Chúng tôi bây giờ có thể nhìn thấy con đường trắng đầy cát phía trước chúng tôi, nhưng chẳng có dấu hiệu nào về chiếc xe khác chờ đợi như trong thư hẹn. Những người hành khách ngả người ra phía sau với vẻ hân hoan, xem ra họ chế giễu cuộc lỡ hẹn của tôi. Tôi suy tính xem mình nên làm gì người đánh xe nhìn quanh, với những hành khách khác rất khẽ, khiến tôi rất khó nghe "Còn gần giờ nữa." Và quay về phía tôi, ta bằng thứ tiếng Đức còn tệ hơn của tôi.


      " có chiếc xe nào ở đây. Ông người nên chờ ở đây. Ông ta nên đến luôn Bukoniva và trở về đây ngày mai hoặc ngày tiếp theo, tốt hơn là ngày tiếp theo nữa." Trong khi ta , bầy ngựa chợt hí vang và khịt mũi với vẻ hoang dại. Rồi, những người nông dân cùng thốt lên những tiếng kêu và đồng lọat làm dấu thánh, cỗ xe với bốn ngựa xuất phía sau chúng tôi và dừng lại bên cạnh cỗ xe của tôi.


      Tôi có thể nhìn thấy từ ánh đèn và qua những vệt chân chúng để lại, rằng đây là những con ngựa ô than tuyệt vời. Chúng được điều khiển bởi người đàn ông cao gầy, với bộ râu dài màu nâu và cái nón đen lớn.


      Hình như ông ta muốn giấu mặt với chúng tôi. Tôi chỉ có thể nhìn thấy tia mắt từ đôi mắt rực lửa, đỏ rực như hai ngọn đèn, và ông ta quay sang phía chúng tôi.




      Ông ta với người đánh xe, "Tối nay đến sớm đấy, bạn."




      Người đánh xe lắp bắp trả lời, " Ông người rất bận."




      Người lạ mặt tiếp, "Và tôi cho rằng đó là lý do khiến đề nghị ông ta tiếp tục đến Bukoniva. bạn, thể đánh lừa tôi, và những con ngựa của tôi rất nhanh."




      Khi ông ta , ông ta mỉm cười, ánh đèn chiếu vào soi đôi môi rất đỏ và hàm răng trắng như ngà của ông ta. trong những bạn đồng hành của tôi thầm với người khác dòng trong kinh thánh "Lenore"



      "Denn die Todten reiten Schnell." ("Hãy để cho cái chết đến mau.")




      Người đánh xe lạ hẳn nhiên là nghe thấy câu này, ông ta nhìn lên với nụ cười sáng trắng đến rợn da gà. Người hành khách quay mặt , cùng lúc đưa ra hai ngón tay bắt chéo và làm dấu thánh. "Hãy chuyển cho tôi hành lý của ngài đây", người đánh xe lạ mặt , và với sốt sắng quá mức, ông ta đón hành lý của tôi ra và chuyển sang chiếc xe của ông. Khi tôi xuống xe, người đánh xe giúp tôi tay. Cánh tay ông ta nắm lấy tay tôi cứng như thép. Người này hẳn là có sức khỏe phi thường.




      lời, ông ta giật cương, đàn ngựa quay đầu, và chúng tôi tiến trở lại vào vùng bóng tối. Khi nhìn lại, tôi thấy qua ánh đèn bầy ngựa của cỗ xe khách cuống cuồng, và hình ảnh cuối cùng về những người bạn đồng hành của tôi làm dấu thánh. Rồi người đánh xe quất roi và gọi lũ ngựa, tiếp tục chuyến của chúng Bukoniva. Khi họ hòan tòan chìm khuất trong đêm, tôi đột ngột cảm thấy rùng mình, và cảm giác đơn xâm chiếm lấy tôi. Nhưng tấm áo chòang đen chòang qua vai tôi, tấm mền vắt ngang đầu gối tôi, và người tài xế cất tiếng bằng thứ tiếng Đức tuyệt hảo:




      "Bóng đêm là đáng sợ, thưa quý Ngài, và ngài bá tước chủ tôi ra lệnh cho tôi phải chăm sóc ngài. Có bình slivovitz ( thứ rượu mạnh làm từ mận của đất nước này) dưới chỗ ngồi, và ngài nên dùng thử nó."




      Tôi lời nào, nhưng bắt đầu trấn tĩnh. Tôi cảm thấy lạ lùng, nhưng phải là cảm giác kinh sợ. Tôi nghĩ rằng mọi diễn tiến thay đổi và tôi có thể chấp nhận được, bất chấp chuyến xe đêm kỳ lạ cuốn tôi . Cỗ xe phóng nước đại thẳng tiến, và chúng tôi hòan tòan quay trở lại và tiến vào con đường thẳng khác. Hình như là chúng tôi quay quay lại cùng nơi, và đó là cái điều chính yếu nhất tôi ghi lại được. Tôi muốn hỏi người đánh xe xem điều đó nghĩa là gì, nhưng tôi lại sợ phải làm điều đó, bởi tôi nghĩ rằng, vùng đất mà tôi ở có cái gì đó an tòan, và tốt hơn là đừng nên ở lại đây thêm phút nào..




      Tuy nhiên, sau đó tôi tò mò muốn biết thời gian, tôi bật lửa và liếc nhìn đồng hồ của mình. quá nữa đêm vài phút. Điều này làm tôi run rẩy, bởi những điều mê tín huyền bí về cái nữa đêm này mà tôi liên tục thu nhận được trong những ngày gần đây. Tôi cố trấn áp cảm giác bệnh lý này.


      Rồi con chó nào đó bắt đầu tru lên ở ngôi nhà nông dân nằm xa phía dưới con đường, tiếng kêu đau đớn quằn quại như kinh sợ điều gì. thanh này được nối tiếp bởi con chó khác, rồi con này tiếp theo con khác, gia tăng bởi tiếng gió thổi Con Đường. Hình như là những tiếng tru hoang dại kia bắt đầu lan khắp đất nước, lan xa đến bất cứ nơi nào mà trí tưởng tượng có thể vươn tới trong cái đêm u ám này.


      Ngay từ khi tiếng tru đầu tiên cất lên, những con ngựa bắt đầu căng thẳng và lồng lên, những người đánh xe với chúng bằng giọng dịu dàng. Chúng dần trở lại bình tĩnh, nhưng run rẩy và tóat mồ hôi như thể chúng chạy trốn nỗi sợ hãi bất thình lình. Và vọng lại từ những sườn núi phía xa, những tiếng tru có vẻ càng lớn hơn và ràng hơn. Tiếng tru của những con sói, điều này cùng lúc tác động lên lũ ngựa và tôi. Trong khi tôi chuẩn bị nhảy phắt ra khỏi cổ xe và bỏ chạy, bầy ngựa lại trở nên căng thẳng và bắt đầu hóa rồ, dù người đánh xe cố dùng hết cái sức mạnh kinh khiếp của ông ta để giữ chúng đừng chạy trốn. Tuy nhiên, sau vài phút, khi mà tai tôi bắt đầu quen với những thanh này, bầy ngựa đứng khựng cả lại, im lặng. Người đánh xe tuột xuống và đứng trước mặt chúng.




      Ông ta âu yếm và dịu dàng với chúng, thào vào tai chúng, như là tiếng của người dạy thú với ngựa, và với nỗ lực phi thường, dưới vuốt ve của người đánh xe, bầy ngựa lại lần nữa trở lại dưới điều khiển, dù chúng vẩn còn run rẩy. Người đánh xe lần nữa trở về vị trí, giật dây cương, và chuyến xe lại bắt đầu phóng vùn vụt. Lúc này, sau khi về phía xa của Con Đường, thình lình ông ta đổi hướng và rẽ vào con đường hẹp chạy thẳng về phía phải.


      Chúng tôi nhanh chóng chui vào những lùm cây, và khi rẽ vào vùng đất phía phải con đường chúng tôi tiếp tục xuyên qua đường ống. Những vách đá hiểm trở bao bọc lấy chúng tôi cách vững chắc.Dù chúng tôi được bảo vệ như thế, chúng tôi vẩn có thể nghe thấy tiếng gió gào, với những tiếng than van và thầm của vách đá, những cành cây xào xạc vào nhau khi chúng tôi phóng qua.


      Càng lúc trời càng trở lạnh, bụi tuyết rơi càng lúc càng nhiều, và chẳng mấy chốc gần như chúng tôi được phủ bởi lớp màn trắng. Những cơn gió lạnh lẽo vẩn mang theo tiếng tru của chó, chúng càng lúc càng ngột ngạt con đường chúng tôi qua.Tiếng chó sói sủa càng lúc càng gần, hình như chúng tiến đến chỗ chúng tôi từ mọi hướng. Tôi sợ điếng người, và bầy ngựa cũng thế. Người tài xế, ngược lại, chẳng chút bận tâm. Ông ta liên tục nhìn sang hai bên, nhưng tôi chẳng thấy gì ngòai bóng đêm dày đặc.




      Thình lình, phía bên trái tôi xuất ngọn lửa màu xanh lập lòe. Người đánh xe dừng lại thóang. Ông ta kiểm tra lại lũ ngựa, rồi nhảy xuống đất, biến mất vào bóng đêm. Tôi biết phải làm gì, trong khi tiếng sói tru càng lúc càng gần. Trong khi tôi còn phân vân, người đánh xe thình lình xuất trở lại, và chẳng lời trở lại vị trí của mình, rồi chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình.


      Tôi nghĩ là tôi ngủ, ở trong giấc mơ chẳng bao giờ chấm dứt, và những gì xảy ra với tôi cơn ác mộng khủng khiếp. Khi ngọn lửa xuất gần con đường, gần đến nỗi với bóng tối bao trùm như vậy tôi vẩn có thể nhìn thấy mọi cử động của người đánh xe. Ông ta nhanh chóng thẳng đến chỗ ngọn lửa xanh hồi sinh, nó yếu ớt đến nỗi thể phản chiếu được những vùng đất chung quanh. Người đánh xe nhặt số hòn đá và tạo thành thứ dụng cụ gì đó.




      Ở đây hình như có ảo ảnh thị giác nào đó. Khi người đàn ông đứng giữa tôi và đám lửa, ông ta hòan tòan che khuất nó, nên tôi vẩn có thể nhìn thấy tòan bộ cái thứ ánh sáng ma quái này như thường. Điều đó khiến tôi giật bắn mình, nhưng tượng này chỉ diễn ra trong thóang chốc, cho nên tôi nghĩ rằng mắt mình bị đánh lừa khi nhìn xuyên qua bóng đêm. Đến lúc còn cái thứ ánh sáng xanh này nữa, chúng tôi hình như vùng tối u ám, với những tiếng chó tru bao quanh chúng tôi, hình như chúng theo chúng tôi theo vòng tròn.


      Cuối cùng người đánh xe khuất qua khỏi cánh đồng, trong thời gian ông ta biến mất, bầy ngựa bắt đầu run rẩy và lồng lộn và hí lên những tiếng đầy sợ hãi. Tôi thể xác nhận được nguyên nhân, bởi vì ngay lúc này những tiếng sói tru thình lình dừng lại. Nhưng khi mặt trăng ra khỏi đám mây đen, bắt đầu rọi ánh sáng phủ lên những vách đá lởm chởm thứ ánh sáng hồng, tôi có thể nhìn thấy bao quang chúng tôi là vòng tròn sói, với hàm răng trắng và cái lưỡi dài thè lè ra, những cái cẳng gân guốc và bộ lông bờm xờm. im lặng ghê rợn của chúng còn đáng sợ trăm lần hơn là những tiếng tru của chúng. Tôi gần như bị tê liệt bởi sợ hãi. Điều này chỉ xảy ra khi người nào đó đối mặt với điều ghê rợn mà chính bản thân ta có thể cảm nhận được hết tầm quan trọng của nó.




      Ngay lập tức bầy sói bắt đầu tru lên như thể ánh trăng có tác dụng đặc biệt với chúng. Những con ngựa nhảy vọt và lồng lên, nhìn quanh tuyệt vọng với những con mắt hỏang loạn tìm kiếm con đường sống. Nhưng cái vòng tròn sống kinh khiếp kia bao quanh khắp mọi hướng và giữ chặt bên trong chúng con mồi của mình. Tôi gọi người đánh xe quay lại, với chúng tôi bây giờ, cơ hội sống còn duy nhất là vượt qua vòng vây sói này với trợ giúp của người đánh xe.


      Tôi gào lớn và hung hãn từ trong xe, hy vọng rằng giọng của tôi có thể làm bầy sói hỏang sợ ở hướng nào đó, và giúp cho người đánh xe có được cái bẫy đánh lừa lũ sói này. Ông ta đến như thế nào, tôi cũng chẳng biết, nhưng tôi nghe tiếng ông ta cất lên những mệnh lệnh đầy uy lực, và nhìn theo hướng của thanh, tôi thấy ông ta đứng đường. Ông ta vung những cánh tay dài của mình, giống như quét những chướng ngại vô hình nào đó. Lũ sói lùi dần về phía sau. Lúc này đám mây khác lại che phủ mặt trăng, và chúng tôi lại đứng giữa vùng đất tối tăm.




      Khi tôi có thể thấy người đàn ông lần nữa leo trở lại lên xe, bầy sói biến mất. Cái điều kỳ lạ và phi thường này làm tôi kinh khiếp, và tôi thể cất tiếng hay cử động gì được với nỗi sợ hãi của mình. Thời gian lại trôi khi chúng tôi tiếp tục con đường, nhưng bây giờ bóng tối lại bao phủ, bởi đám mây cuộn quanh mặt trăng.




      Chúng tôi lên, đôi khi xuống đoạn ngắn, nhưng nhìn chung là lên. Thình lình tôi như sực tỉnh khi người đánh xe dừng bầy ngựa trước tòa lâu đài rộng lớn hoang tàn, với những ô cửa sổ đen cao cho ánh sáng lọt vào, với những bức tường đổ nát có lỗ châu mai cắt thành đường lởm chởm ngang bầu trời.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 2



      Ngày 5 tháng 5:





      Buộc lòng tôi phải ngủ, bởi vì nếu cứ thao thức tôi thể kìm lại được thôi thúc phải ghi chép về cái nơi kỳ lạ này. phần lớn ở nơi đây chìm trong bóng tối ảm đạm. Lãnh địa của bóng đêm kéo dài vòng tròn có bán kính gần như thể đo lường được. Có thể là nó còn lớn hơn ước lượng của tôi.



      tôi chưa hề trông thấy ban ngày ở nơi đây.





      Khi cỗ xe ngựa dừng trước lâu đài, người đánh xe nhảy xuống và đưa tay giúp tôi xuống xe. lần nữa tôi thể có ấn tượng về cái sức mạnh phi thường chứa trong con người này. Cái cánh tay này cái êtô thép có thể kẹp nát cánh tay của tôi nếu ông ta muốn. Rồi ông ta tóm lấy hành lý của tôi và đặt xuống cạnh tôi. Lúc này tôi đứng trước cái cổng lớn làm bằng đá tảng khép chặt với cái đấm cửa được đóng vào bằng những chiếc đinh thép lớn. ra cái cổng này là khối đá tảng được mài mòn bởi thời gian và thời tiết. Tôi thậm chí thể tia sáng lờ mờ nào nơi đây. Người đánh xe nhảy lên ngựa và giật cương. Bầy ngựa thẳng để lại mớ hành lý và cả vùng bao quanh tôi màu tối tăm.





      Tôi đứng yên lặng, bởi vì tôi chẳng biết phải làm gì. có chuông và đừng có mơ tưởng đến việc gõ cái cổng đá này. Giọng của tôi thể xuyên qua bức tường sừng sững và những cánh cửa sổ đen ngòm kia được. Thời gian chờ đợi trôi dường như vô tận, và cái cảm giác nghi ngờ pha lẩn sợ hãi mà đám đông kia gây ra quay lại với tôi. Tôi ở đâu và sắp phải gặp những loại người nào? tôi dấn thân vào cuộc phiêu lưu quái quỷ gì vậy? Bản năng của người cố vấn pháp luật khiến tôi rời khỏi London để cố vấn về vụ mua bán bất động sản cho người nước ngòai muốn mua đất tại đây phải chăng để gặp những chuyện như thế này.



      cố vấn luật pháp! Mina muốn tôi làm cái nghề này. Ngay trước khi rời khỏi Luân Đôn tôi vượt qua kỳ thi để trở thành người cố vấn luật pháp cách vẻ vang. Tôi dụi mắt và tự véo mình để tin rằng mình nằm mơ. Đáng ra tôi phải giật mình thức dậy ngay giữa nhà mình, ngắm ánh bình minh rọi qua cửa sổ để tận hưởng buổi sáng khoan khóai sau ngày làm việc vất vả. Nhưng cái cảm giác đau nhói do bị véo khiến tôi thực tỉnh. Mắt tôi hề bị đánh lừa. Tôi tỉnh như sáo và ở đâu đó giữa dãy Carpathian. Bây giờ tôi chỉ còn nước đợi trời sáng mà thôi.





      Thình lình, người đàn ông già xuất , mày râu nhẵn nhụi, chỉ chừa lại hàng ria mép trắng, vận đồ đen từ đầu đến chân. thể tìm thấy màu nào khác y phục của ông ta. Ông ta cầm trong tay ngọn đèn bạc cổ. Nó cháy sáng dù chẳng hề có cái ống thông gió hay chao đèn nào. Bóng tối như run lên bởi tiếng kéo cửa lách cách của con người này. Bằng cử chỉ thanh nhã, ông ta ra hiệu cho tôi và bằng tiếng tuyệt hảo, tuy có đá giọng nước ngòai:



      " Mừng ngài đến thăm tệ xá. Xin mời vào và hãy cứ tự nhiên cho." Ông ta làm thêm cử động nào nữa. Ngoại trừ động tác mời chào đầy lịch , xem ra ông ta chẳng khác gì cái khối cửa đá này mấy. Tuy nhiên, sau lúc, thấy tôi vẩn đứng ngẩn ra ở ngòai cửa, ông ta bước đến, nắm lấy tay tôi bởi bàn tay lạnh giá như tay người chết và với sức mạnh khủng khiếp khiến tôi nhăn mặt. Ông ta lại lần nữa:




      "Xin mời vào! Mời ngài vào. Mọi vật ở đây đều vui mừng chào đón ngài." Cái bắt tay của con người này chứa cái sức mạnh mà tôi từng bắt gặp nơi người đánh xe khi nãy, người mà tôi chẳng hề nhìn thấy mặt. Trong thóang, tôi nghi ngờ cả hai chính là người. Để tìm lời giải đáp, tôi hỏi lại, "Ngài là bá tước Dracula?"





      Ông ta cúi chào cách rất lịch cùng với câu trả lời: "Tôi chính là Dracula, người mời ngài đến đây. Xin mời, đêm nay là phiền ngài quá, và cái ngài cần bây giờ là bữa ăn và sau đó là nghỉ ngơi." xong, ông ta nhấc lấy hành lý của tôi, trước. Tôi phản đối, nhưng ông ta cứ khăng khăng.





      ", thưa ngài, ngài là khách của tôi. Bây giờ trễ và chắc là bọn đầy tớ ngủ sạch rồi. Hãy cho tôi cái hân hạnh được phục vụ ngài." Ông ta cứ nhất quyết mang hành lý của tôi trước, dẩn tôi qua cái cầu thang uốn lượn khủng khiếp, rồi sau đó qua lối lớn khác mà nền đá rung lên dưới bước chân của chúng tôi. Cuối cùng ông ta mở cánh cửa lớn và nặng nề, dẩn vào căn phòng.Tôi vui mừng khi thấy căn phòng này đầy ánh sáng. Bên trong là cái bàn trải khăn sẳn sàng cho bữa khuya, và cái mà tôi cần nhất cho sức khỏe của mình là cái lò sưởi mới được chất đầy củi cháy sáng rực rỡ.





      Bá tước dừng lại, đặt hành lý của tôi xuống, đóng cửa lại, rồi băng ngang phòng, mở cánh cửa khác thông vào căn buồng bát giác được chiếu sáng bởi ngọn đèn duy nhất. qua nó, ông ta lại mở cánh cửa khác, và ra hiệu tôi vào. đón tiếp của bá tước quả vô cùng chu đáo. Phòng trong này là phòng ngủ lớn, được chiếu sáng và sưởi ấm bởi lò sưởi khác cuồn cuộn nhả khói qua cái lỗ thông hơi lớn. Củi ở đây cũng chỉ mới được chất vào, do những que cùng vẩn còn tươi. Bá tước đích thân đem hành lý của tôi vào trong và lui ra. Trước khi đóng cửa, ông ta lên tiếng:



      " Tôi tin rằng trong nhà tắm có đủ mọi thứ ngài cần cho mình sau chuyến vất vả. Và bữa ăn tối sẳn sàng khi ngài bước ra phòng ngòai."





      tiếp đón ân cần và nồng hậu cùng với vẻ quý phái của Bá tước xua tan mọi nghi ngờ và sợ hãi trong tôi. Khi trở lại bình thường, tôi mới nhận ra rằng mình gần như chết nữa vì đói. Do đó, sau khi tắm táp cách vội vã, tôi ra phòng ngòai.



      Bữa ăn tối dọn sẳn. Người chủ nhà của tôi dựa vào các bệ đá khổng lồ của lò sưỡi, trang nhã đưa tay về phía bàn ăn, cất tiếng.





      "Xin mời ngài dùng bữa. Xin lỗi vì tôi thể hầu tiếp ngài được vì tôi dùng bữa rồi."





      Tôi đưa ông ta bức thư mà ngài Hawkin chuyển cho tôi. Ông ta mở nó ra và đọc cách trịnh trọng. Cuối cùng, với nụ cười quyến rủ, ông ta chuyển lại cho tôi đọc nó. Và nội dung bức thư khiến tôi rất hài lòng.




      " Tôi rất tiếc là nay tôi phải chăm sóc cho người bệnh mà tình trạng bệnh lý khiến tôi phải túc trực thường xuyên cạnh bệnh nhân. Tuy nhiên, tôi có thể giới thiệu với ngài người hòan tòan xứng đáng thay thế tôi. Đó là con người trẻ tuổi đầy sức lực, tài năng và hòan tòan trung thực. ta kín đáo và dè dặt, và trở thành trong những người phụ tá tài ba của tôi. ta luôn sẳn sàng khi ngài cần và cung cấp cho ngài những lời chỉ dẩn hữu ích cho bất kỳ vấn đề gì."





      Bá tước tự mình bước đến để tiếp thức ăn cho tôi. Và tôi bắt đầu tấn công vào món gà rôti ngon tuyệt. Cùng với phó mát và xà lách, thêm vào hai cốc rượu tokay lâu năm, đấy là bữa tối của tôi. Trong khi tôi ăn, bá tước hỏi thăm về chuyến của tôi, và tôi kể lại cho ông ta những gì mình trải qua.





      Sau khi tôi ăn xong bữa tối, người chủ nhà mời tôi ngồi chiếc ghế cạnh lò sưỡi. Ông ta mời tôi hút xì gà và cáo lỗi vì hút thuốc. Lúc này tôi mới có cơ hội quan sát ông ta và thấy rằng ông ta có diện mạo rất đặc biệt.





      Ông ta có khuôn mặt tráng kiện, rất tráng kiện, hơi khoằm. Mũi cao, gầy với hai lỗ mũi cong lên cách đặc biệt. Trán ông rộng, nhô cao, mái tóc phủ lơ phơ bên thái dương nhưng mọc rất dày ở những chỗ khác.



      Lông mày ông ta rất dài, gần chạm đến mũi và uốn cong lên cùng với mái tóc rậm của ông. Miệng ông, với những gì tôi nhìn thấy dưới hàng ria mép dày, mím chặt và và có vẻ hơi độc ác với hàm răng trắng tóat nhô ra từ cặp môi đỏ rực thể sức khỏe đáng kinh ngạc đối với con người ở vào lứa tuổi như vậy. Cuối cùng, tai ông ta trắng bợt, nhô rất cao. Cằm ông rộng và mạnh mẽ, gò má nhô cao. Nhìn chung con người này tóat ra vẻ xanh xao rất kỳ lạ.





      Đến lúc này tôi vẩn rời mắt khỏi đôi bàn tay của người đàn ông này dặt lên đầu gối bên lò sưởi. Chúng trông có vẻ hồng hào và trắng trẻo. Tuy nhiên, khi nhìn gần, tôi nhận ra rằng đó là đôi bàn tay to bè, thô lỗ với những ngón tay thô kệch, với những sợi lông mọc giữa lòng bàn tay gây cảm giác dị thường. Móng tay dài và đẹp, được cắt nhọn hoắt. Khi bá tước xích lại gần và chạm vào tôi, tôi thể để lộ rùng mình. Có thể là do hơi thở khó chịu của ông ta gây cho tôi cảm giác buồn nôn, và cảm giác này tôi thể che đậy được.





      Bá tước có vẻ nhận ra điều này. Ông ta thu người lại, và với cái nụ cười ma quái bằng hàm răng trắng tóat của mình, ông ta quay lại chỗ của mình bên lò sưỡi. Chúng tôi im lặng trong phút chốc. Và tôi chợt nhận ra vệt sáng lờ mờ nào đó hạ xuống bên ngòai cửa sổ. ràng là những điều kỳ lạ vẩn chưa hề chấm dứt. Rồi tôi nghe thấy hàng loạt tiếng sói tru từ bên ngòai thung lũng. Mắt bá tước ánh lên tia kỳ lạ, ông ta .



      " Hãy nghe , bài ca được cất lên bởi những đứa con của bóng đêm!" Và có thể là nhận thấy vẻ khác lạ mặt tôi, ông ta tiếp tục, "A, có thể rằng do ngài là người thành thị, và ngài có được cái cảm xúc của dân săn bắn." Đoạn ông ta đứng dậy và cất tiếng.





      "Nhưng ngài hẳn phải mệt lắm rồi. Phòng ngủ của ngài sẳn sàng. Xin ngài hãy ngủ cho thỏa thích suốt ngày mai. Mai tôi có việc bận cho đến tận chiều tối, và vì vậy, thưa ngài, ngài hãy ngủ ngon và có nhiều giấc mơ đẹp." Với cái cúi chào nhã nhặn, ông ta đích thân mở cánh cửa vào căn phòng bát giác cho tôi, và tôi vào giường ngủ của mình.





      ràng là tôi chìm ngập giữa những điều kỳ lạ. Tôi nghi ngờ. Tôi sợ hãi. Mọi thứ đều quá lạ lùng với tôi, và tôi thậm chí dám thú nhận mình nghĩ gì. Chúa phù hội cho tôi, và mang lại cho tôi mọi điều tốt lành.





      Ngày 7 tháng 5:





      Lại thêm buổi sáng sớm nữa khi tôi thức dậy. Nhưng ra tôi ngủ suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ và ngay bây giờ, tôi cố lắm mới thức dậy bằng ý chí của chính mình. Sau khi thay quần áo, tôi ra phòng ăn và nhìn thấy bữa ăn sáng nguội lạnh, ấm cà phê được giữ nóng lò sưởi, và tấm thiếp với những dòng chữ sau:





      "Tôi phải vắng mặt thời gian. Vì vậy xin đừng đợi tôi. D." Tôi ngồi xuống và ăn uống ngon lành. Ăn xong, tôi tìm cái chuông để gọi người hầu, nhưng thể tìm được. Ngôi nhà này có vẻ như thiếu hụt cái gì đó cách rất bình thường, so với giàu có ghê gớm mà nó tỏ ra. Cái bàn được làm từ vàng, và vẻ đẹp của nó chứng tỏ nó có giá trị rất cao. Màn cửa và vải bọc ghế ngồi lẩn ghế xôpha cũng như những thứ được treo giường tôi được làm từ loại vải đẹp và đắt tiền nhất, và do chúng được làm từ những thế kỷ xa xưa, nên giá trị của chúng cao đến mức khó tin, tuyệt vời. vài thứ hình như được làm ở Hampton Court, nhưng chúng sờn và bị rệp cắn. Nhưng trong phòng tuyệt đối cái gương nào, ngay cả trong phòng tắm của tôi.



      Tôi phải cạo râu và chải đầu bằng cái gương tôi mang theo trong hành lý. Tôi hề thấy người hầu nào, hay nghe thấy tiếng động nào trong lâu đài ngoại trừ tiếng sói tru. Sau khi tôi kết thúc bữa ăn mà chính tôi cũng biết nên gọi nó là bữa sáng hay bữa trưa, bởi vì lúc này là khỏang giữa năm hay sáu giờ gì đó, tôi tìm cái gì đó để đọc, nhưng tôi muốn thăm thú lâu đài trước khi có cho phép của bá tước. Hòan tòan có sách, báo hay cái gì đó có thể đọc trong phòng. Nhưng khi tôi mở cánh cửa trong phòng thấy nó dẩn vào thư viện. Cái cửa đối diện tôi cũng thử mở, nhưng nó được khóa.





      Trong thư viện tôi vô cùng vui mừng khi nhận thấy có rất nhiều sách tiếng chất đầy những cái kệ, và hàng tập tạp chí và báo khác. cái bàn giữa thư viện vung vãi những tạp chí và báo, tuy phải là những số ra gần đây. Sách gồm rất nhiều loại, lịch sử, địa lý, chính trị, kinh tế chính trị, thực vật học, địa chất học luật pháp, tất cả đều liên quan đến nước , đến cuộc sống và phong tục tập quán nơi quốc.



      Chúng thậm chí còn có các loại sách tham khảo như bản chỉ dẩn London, các sách "Xanh" và "Đỏ", niên giám Whitaker, sổ kê khai quân đội và hải quân, và tôi vui mừng tìm thấy cuốn sổ kê khai luật pháp.




      Trong khi tôi còn mãi đọc, thình lình cửa mở ra. Bá tước bước vào. Ông ta chào tôi cách thân mật và mong rằng tôi giấc ngủ ngon. Đoạn ông tiếp tục.





      "Tôi rất mừng là ngài cảm thấy hài lòng ở nơi đây, và tôi tin chắc rằng nơi đây còn nhiều thứ hấp dẩn ngài.



      Ở đây tôi có những thứ này," và ông ta đặt ra bàn những cuốn sách ông ta cầm tay nãy giờ, "đây là những người bạn tốt của tôi. Nhiều năm trước, tôi có ý định đến London, và chúng cho tôi những giờ khắc đầy thú vị. Qua chúng, tôi biết được nhiều về nước vĩ đại của ngài, và càng biết về nó tôi lại càng thích nó. Tôi lang thang giữa những đường phố nhộn nhịp của thành phố London hùng vĩ, để hòa mình vào giữa đám đông người nhộn nhịp và vội vã, để cùng sống, cùng phấn đấu, cùng chết, cùng chia xẻ những gì họ có. Nhưng Chúa ơi, tôi chỉ có thể làm điều đó qua những quyển sách. Và nay nhờ có ngài, bạn thân mến, tôi có thể diễn đạt điều đó thành lời."



      "Nhưng, bá tước ạ," tôi , "ngài hiểu và tiếng rất tuyệt!" Ông ta nghiêng người khiêm tốn.





      "Tôi cám ơn ngài, bạn của tôi về những đánh giá quá tốt của ngài, nhưng tôi e rằng như thế là còn quá ít để tôi có thể du hành những nẻo đường tôi . tôi nắm vững cú pháp và từ vựng, nhưng tôi chưa thể giao tiếp tốt lắm."





      " ra ngài tiếng rất tuyệt."



      " thế đâu," ông ta trả lời, "Tôi biết vậy vì tôi đến và chuyện ở thành phố London của ngài, và ai biết tôi là người lạ. Điều đó chưa đủ đối với tôi. Ở đây tôi là nhà quý tộc, là người có dòng máu quý phái. Mọi người ở đây đều biết tôi và tôi là chúa tể. Nhưng là người lạ mặt ở vùng đất lạ, tức thị chẳng là gì cả. ai biết là ai và cũng chẳng ai cần biết. Tôi muốn làm sao cho chẳng ai dừng lại chú ý khi ta thấy tôi, hoặc chẳng ai thốt lên khi nghe tôi : "Ha ha! người lạ ở đâu vất vưởng tới đây!" Tôi làm chúa tể quá lâu đời này và tôi muốn vẩn tiếp tục làm chúa tể, hoặc ít ra ai làm chúa tể của tôi. Ngài đến với tôi chỉ với tư cách là nhân viên của bạn Peter Hawkins, hoặc Exeter, để cố vấn với tôi về vấn đề bất động sản ở London.



      Tôi muốn ngài ở lại đây với tôi thời gian, để giúp tôi hòan thiện ngữ điệu tiếng của mình qua những cuộc đàm thoại của chúng ta. Và tôi muốn ngài chỉnh lại cho tôi, dù là những lỗi nhất trong văn của tôi. Tôi rất tiếc rằng phần lớn thời gian vào ban ngày tôi phải ra ngòai, nhưng tôi tin rằng ngài tha thứ cho người có trong tay nhiều công chuyện phải giải quyết." Tất nhiên tôi rằng tôi sẳn lòng, và muốn biết rằng tôi có thể vào thăm bất kỳ căn phòng nào trong lâu đài . Ông ta trả lời" Vâng, tất nhiên là được." và thêm vào.





      "Ngài có thể bất cứ đâu ngài muốn trong lâu đài, ngoại trừ số cửa được khóa kín. Lý do là bên trong đó có những thứ mà khi ngài quan sát chúng cùng với tôi, cùng hiểu chúng như tôi hiểu, ngài có thể biết thêm những vấn đề liên quan." Tôi rằng điều đó là hiển nhiên, và ông ta tiếp tục.





      "Chúng ta ở Transylvania, và Transylvania phải là nước . Cách sống của chúng tôi có thể khác với ngài, và ngài cảm thấy số điều xem ra lạ lùng. Ngài có thể hỏi tôi về tất cả những chuyện đó, về những gì lạ lùng mà ngài trải qua."



      Điều này dẩn đến cuộc đối thoại sôi nổi, và đó cũng là điều mà ông ta muốn. Tôi hỏi ông ta nhiều câu hỏi về những gì nảy ra cho tôi và những điều mà tôi ghi chép. Đôi khi ông ta lẩn tránh các vấn đề, hoặc giả vờ hiểu để chuyển hướng cuộc chuyện. Tuy nhiên phần lớn các câu hỏi của tôi được trả lời khá thành thực. Sau lúc đàm thoại, tôi được làm sáng tỏ khá nhiều điều. Tôi hỏi ông ta về những điều kỳ lạ xảy ra vào các đêm trước, ví dụ như việc người đánh xe tìm đến chỗ có ngọn lửa xanh. Ông ta giải thích rằng đó là vì mọi người đều tin rằng vào đêm đặc biệt trong năm, chính xác là đêm ấy, các hồn ma được tòan quyền ngự trị mặt đất, và những ngọn lửa xanh xuất ở những nơi có của cải được chôn giấu.





      "Những của cải được chôn giấu " ông ta tiếp "có thể là trong vùng đất mà ngài đến tối hôm qua, điều đó còn nghi ngờ gì nữa. Những vùng đất này được cày xới lên hàng thế kỷ bởi người Wallachian, người Saxon, và người Thổ Nhĩ Kỳ. Bởi vì những vùng đất màu mỡ ở đây được làm cho màu mỡ thêm bởi máu của những con người, những người nước và những kẻ xâm lược. Trong những ngày tháng xa xưa khi người Aùo và người Hungari lũ lượt xâm chiếm chiếm nơi này, những người nước nối tiếp nhau chống lại họ. Đàn ông và đàn bà, người già và trẻ con, họ đợi kẻ thù từ những dốc đá phía con đường, và tiêu diệt kẻ thừ bởi những dòng thác nhân tạo những chướng ngại. Khi những kẻ xâm lược chiến thắng, chúng tìm thấy số châu báu nhưng rất ít, bởi vì phần lớn chúng được chôn giấu trong đất mẹ bạt ngàn."





      "Nhưng vì sao những của cải này vẩn còn được chôn giấu lâu như vậy mà bị phát , trong khi chắn chắn nó được chỉ dẩn lại, chẳng lẻ chúng lại vô cùng khó tìm?" Bá tước mỉm cười, và môi ông ta nhếch lên đến tận lợi, lộ ra đôi hàm răng dài sắc như răng sói, nhìn kinh hãi. Ông ta trả lời.





      "Bởi vì những người nông dân của ngài là ngu xuẩn và hèn nhát. Những ngọn lửa như vậy chỉ xuất trong những đêm mà kẻ nào vùng đất này dám ra khỏi nhà của mình. Và, thưa ngài thân mến, thậm chí nếu dám, cũng biết phải làm gì. Chính là vì liệu cái tên nông dân ấy có dám đến đánh dấu những ở những nơi mà ngọn lửa ấy xuất hay . Nếu dám bao giờ xác định được nơi chính xác ngọn lửa ấy xuất vào ban ngày. Ngay cả ngài nữa, tôi dám thề rằng ngài cũng thể xác định lại vùng đất ấy lần nữa."





      "Ngài đúng," tôi trả lời. " tôi gần như chết khiếp khi trông thấy chúng." Và chúng tôi chuyển sang đề tài khác.




      "Nào," cuối cùng ông ta bảo, "hãy kể cho tôi nghe về London và về những ngôi nhà mà ngài chuẩn bị cho tôi." Với lời xin lỗi về chểnh mảng của mình, tôi vào phòng tôi và lấy ra những giấy tờ từ hành lý của mình. Trong khi tôi sắp lại thứ tự chúng, tôi nghe những tiếng va chạm của đồ sứ và đồ bạc ở phòng bên cạnh. Và khi tôi qua chúng trở lại, tôi để ý thấy rằng cái bàn được dọn sạch, và ngọn đèn được thắp sáng. Trước đó nó để tối. ngọn đèn nữa được thắp sáng trong phòng thư viện mà cũng có thể là phòng nghiên cứu, ở đó tôi thấy bá tước ngồi ghế sofa, châu đầu vào hàng tá những loại sách vở khác nhau, cùng với cẩm nang Bradshaw bằng tiếng bên cạnh. Khi tôi đến, ông ta dọn dẹp lại các loại sách báo bàn để tôi trải các bản đồ, văn bản và hình ảnh lên. Ông ta tỏ vẻ rất quan tâm và hỏi tôi hàng tá những câu hỏi về những vùng đất này và các vùng lân cận. ràng ông ta chuẩn bị từ trước về những nơi này qua các mối quan hệ của mình, và ông ta còn biết nhiều hơn tôi nữa. Khi tôi về điều này, ông ta trả lời.





      "Tất nhiên, bạn thân mến, đương nhiên là tôi phải chuẩn bị kỹ lưỡng rồi, đúng ? Khi tôi đến đấy, tôi độc hòan tòan, còn ông bạn Harker Jonathan nữa, xin thứ lỗi cho tôi. Tôi lại sống theo tập quán của nước tôi thay vì của nước các bạn, và lúc đó bạn Jonathan Harker có bên cạnh để bổ khuyết hay giúp đỡ cho những lỗi lầm của tôi. ta lúc đó ở Exeter, cách xa hàng dặm, có thể chìm ngập trong đống giấy tờ luật pháp của người bạn khác của tôi, Peter Hawkins. Thế đấy!"





      Chúng tôi chuẩn bị kỹ lưỡng cho cuộc mua bán bất động sản ở Purfleet. Khi tôi chỉ dẩn mọi thứ cho ông ta và có được chữ ký của ông ở những giấy tờ cần thiết, tôi viết bức thư để gửi cùng với chúng cho ông Hawkin, ông ta thăm hỏi tôi xem tôi cảm thấy thế nào ở nơi ở mới. Tôi đọc cho ông ta những ghi chép của mình về vùng này mà tôi có mang theo.





      " Purfleet là con đường phụ, ít người qua lại. Tôi đến xem xét, và thấy nó có vẻ hoang tàn thường thấy ở những mảnh đất được rao bán. Nó là dinh thự xây cất theo lối cổ bằng đá, được bao quanh bởi những bức tường cao, và bị bỏ hoang chẳng được sữa chữa nhiều năm. Cổng nhà nặng chịch bằng gỗ sồi và thép, gần như hoen rỉ hòan tòan, đóng lại quanh năm suốt tháng.



      "Khu bất động sản này được gọi là Carfax, chắc chắn là chịu phá hủy của cơn động đất thời cổ xưa. Đấy là ngôi nhà bốn cạnh ứng với bốn hướng của la bàn. Nó rộng khỏang hai mươi arch, được bao quanh bởi bức tường đá như kể . Bên trong có khá nhiều cây cối, tạo nên vẻ u ám, và còn có cái hồ hay cái ao gì đó, khá tăm tối, ăn thông với ngọn suối bên ngòai khiến nước hồ luôn sạch và hiền hòa. Đây là ngôi nhà rất lớn và lâu đời, có thể là từ thời trung cổ, làm từ những tảng đá lớn với những cửa sổ cao và ngăn bởi những chấn song thép.



      Nó giống như phần của pháo đài, và chứa đựng bên trong nhà thờ hoặc tu viện cổ. Tôi thể vào được vì tôi có chìa khóa từ cánh cửa dẩn vào ngôi nhà này, nhưng tôi chụp hình nó từ chiếc máy Kodak này từ nhiều góc độ khác nhau.Ngôi nhà này gồm nhiều phần ghép lại, nhưng trông có vẻ rất lộn xộn. Tôi chỉ có thể đóan là nó tọa lạc vùng đất rất lớn. Bên trong có nhiều tòa nhà ghép với nhau, nhưng có ngôi nhà rất lớn chỉ mới thêm vào gần đây, được xây dựng thành nhà thương điên tư nhân. Tuy nhiên, nó trông được lắm."





      Sau khi tôi ngừng lời, bá tước ,"Tôi rất vui mừng khi đấy là ngôi nhà to lớn và cổ kính. Bản thân tôi sinh ra và lớn lên trong gia đình cổ, và bắt tôi sống trong ngôi nhà đại tức là giết tôi. ngôi nhà thể ở được chỉ sau ngày, và biết đấy, biết bao nhiêu ngày người ta mới tạo nên thế kỷ. Tôi cũng rất thích là nơi đấy có nhà thờ. Chúng tôi là những nhà quý phái xứ Transylnavia, chúng tôi thích những nắm xương của mình rồi cũng chìm đắm giữa bao kẻ tầm thường khác. Tôi tìm kiếm những vui vẻ hay đùa giỡn, tôi tìm đến những ánh mặt trời khóai lạc, những con nước rực rỡ dành cho những người trẻ tuổi và ham vui.



      Tôi còn trẻ nữa, và trái tim của tôi, qua bao năm tháng đau buồn bởi tang tóc và chết chóc, trở lại với niềm vui. Thêm nữa, những bức tường lâu đài của tôi sắp đổ sập. Bóng đêm ngày càng nhiều, và những cơn gió lạnh thổi xuyên qua những lỗ châu mai cũng như những khung cửa sổ. Tôi thích bóng tối và ban đêm, nhưng thể sống đơn độc mãi với chính mình." Trong khi ông ta , đôi khi tia nhìn và lời của ông ta hòa hợp vào nhau, hoặc giả nụ cười xuất mặt ông ta mang dáng vẻ lạnh lùng và độc ác nào đó.





      Ngay sau đó, với lời xin lỗi, ông ta biến , hỏi mang theo tất cả những giấy tờ của tôi. Ông ta lúc, còn tôi bắt đầu đọc những cuốn sách chung quanh tôi. Tóm được cuốn bản đồ, theo bản năng, tôi lật ngay đến chỗ nước , và tấm bản đồ này được bá tước sử dụng. Tôi nhìn thấy vùng được khoanh tròn, và tôi xác định được rằng đó là nơi gần phía Đông London, ràng là ông ta vừa mới mua vùng đất ở nơi đó. Hai nơi khác ở Exeter và Whitby nằm bờ biển Yorkshire.





      Khỏang hơn nữa giờ sau, bá tước quay lại. "A ha", ông ta . "Vẩn dứt ra được các quyển sách à? Tối lắm, nhưng cần phải cần mẫn thế. Lại đây! Ý tôi muốn là bữa ăn tối sẳn sàng." Ông ta nắm lấy tay tôi và chúng tôi vào phòng bên, nơi bày sẳn bữa ăn tối ngon lành. Bá tước lại xin lỗi lần nữa, rằng ông ta ăn khi ông ra ngòai. Nhưng cũng giống như lần trước, ông ta ngồi lại và trò chuyện trong khi tôi ăn. Sau bữa ăn, tôi hút thuốc, và cũng giống như đêm trước, bá tước ngồi lại với tôi, trò chuyện và trao đổi về những vấn đề chúng tôi cùng quan tâm hàng giờ.



      Tôi nhận thấy rằng lúc này quá khuya, nhưng tôi gì. Tôi cảm thấy cần phải ở bên cạnh người chủ nhà của tôi với bất kỳ cách nào . Tôi buồn ngủ, do tôi ngủ quá dài ngày hôm trước, và tôi có kinh nghiệm rằng nỗi run sợ của tôi thường xảy đến vào lúc bình minh, nó giống như những đợt thủy triều. Người ta rằng những người sắp chết thường chết vào lúc bình minh hoặc những lúc thay đổi của thủy triều. Những người nào khi mệt mõi, muốn tìm cái gì đó để bám víu, thấy rằng thay đổi khí giúp họ lấy lại niềm tin. Và thình lình chúng tôi nghe thấy tiếng gà gáy cất lên lanh lảnh báo hiệu ngày mới bắt đầu.



      Bá tước Dracula nhảy dựng lên, cất tiếng "Ồ, trời lại sáng rồi! Tôi sơ xuất khi để ngài thức khuya như vậy. ràng là cuộc trao đổi của ngài về đất nước mới mẻ và thân mến của tôi kém thú vị đến nỗi, tôi thể nhận ra thời gian trôi qua như thế nào," và với cái nhún người lịch , ông ta nhanh chóng biến .





      Tôi quay trở lại buồng mình và buông màn, nhưng còn ghi chép thêm chút. Cửa sổ tôi trông ra khỏang sân , và tôi có thể thấy những tia nắng mặt trời xám ấm áp soi rọi khỏang trời đón ánh ban mai. Vì vậy tôi đóng màn lại và chấm dứt việc ghi chép cho ngày hôm nay.





      Ngày 8 tháng 5:



      Tôi sợ rằng tôi quá dài dòng khi viết đoạn này. Nhưng tôi thấy rằng cần phải vào chi tiết trước, do có quá nhiều điều kỳ lạ diễn ra tại nơi đây và tôi thể cảm thấy bình tĩnh được. Tôi ước ao rằng tôi có thể an tòan rời khỏi đây, hoặc giả tôi chẳng bao giờ ra khỏi đây được nữa. Có thể rằng hữu của cái đêm kỳ lạ này gây ra cho tôi cảm giác này, hoặc do tất cả mọi thứ! Nếu có ai để trò chuyện tôi còn có thể chịu đựng được, nhưng ở đây có ai. Tôi chỉ có bá tước để chuyện, và ông ta – tôi e rằng tôi là linh hồn sống duy nhất còn tồn tại nơi đây. Hãy để tôi có thể sống với những gì diễn ra. Nó giúp tôi chịu đựng, và những điều tưởng tượng nổi loạn chống lại tôi. Nếu tôi chết mất. Hãy để cho tôi kể về những gì xảy ra với tôi, hoặc có vẻ như thế.





      Tôi chỉ ngủ được vài giờ sau khi lên giường, và sau khi cảm thấy thể ngủ được nữa, tôi tỉnh dậy, tôi treo cái kính cạo râu của tôi lên cửa sổ, và bắt đầu cạo râu. Thình lình tôi giật bắn người khi nghe thấy giọng của bá tước vọng từ sau lưng tôi, "Chào buổi sáng." Tôi hỏang hồn vì tôi hề nhìn thấy ông ta, dù cái gương của tôi phản chiếu tòan bộ căn phòng sau lưng tôi. Lưỡi dao cạo râu của tôi cắt cả vào da thịt, nhưng tôi hầu như nhận ra điều này trong thoáng.



      Sau khi đáp trả lời chào của bá tước, tôi nhìn lại vào gương để xác định rằng mình hề nhầm lẫn. Lúc này thể có sai sót nào ở đây, bởi vì người đàn ông đứng quá gần tôi, tôi có thể nhìn thấy ông ta qua vai mình. Nhưng hòan tòan có hình ảnh phản chiếu của ông ta gương. Cả căn phòng sau lưng tôi đều được , nhưng chẳng có bóng dáng người nào, ngoại trừ tôi.





      Điều này làm tôi giật bắn người, và nó lên đến đỉnh điểm của hàng loạt những điều kỳ lạ, những cảm giác mơ hồ về những lạ lùng tôi luôn luôn cảm thấy khi bá tước lại gần tôi. Trong thóang chốc, tôi cắt phải cái mụn , và tia máu bắn ra cằm tôi. Tôi để lưỡi dao cạo xuống, nhìn quanh để tìm miếng băng dính. Khi bá tước nhìn thấy mặt tôi, mắt ông ta chợt rực lên nỗi thèm khát mãnh liệt. Ông ta thình lình chộp lấy cuống họng của tôi. Tôi gạt ra và tay ông ta chạm phải chuỗi hạt tôi đeo cây thánh giá đó.



      Nó tạo nên thay đổi ngay tức khắc nơi con người này, và cơn thèm khát thịnh nộ kia biến nhanh đến mức tôi sao tin được.



      "Hãy cẩn thận," ông ta "chú ý đừng để tự cắt phải da thịt của chính mình. Ở đất nước này điều đó khiến ngài gặp nguy hiểm hơn là ngài tưởng đó." Và tóm lấy cái gương cạo râu, ông ta tiếp tục, "Và cái vật gớm giếc này có thể gây ra những việc xấu xa. Nó chỉ là món đồ trang sức xa hoa bẩn thỉu của con người. Vứt nó !" Và giật tung cửa sổ ra bằng cánh tay ghê gớm của mình, ông ta ném mạnh cái gương . Nó vỡ tan ra hàng nghìn mảnh khi chạm vào nền sân đá phía dưới. Rồi ông ta ra chẳng thêm lời nào. là chẳng ra làm sao, vì tôi chẳng thể nào cạo râu được, trừ khi dùng cái vỏ đồng hồ hoặc phần đáy của hộp cạo râu, may thay là nó lại bằng kim loại.





      Khi tôi vào phòng ăn, bữa ăn sáng sẳn sàng, nhưng tôi tìm thấy bá tước. Vì vậy tôi ăn sáng mình. Lạ lùng , hình như ông bá tước này chẳng hề ăn hoặc uống phải. Ông ta quả là con người kỳ dị! Sau bữa ăn sáng tôi bắt đầu thử tham quan lâu đài. Tôi ra cầu thang, và tìm thấy căn phòng trông về phía Nam.



      Quang cảnh là nguy nga, và tôi có thể tha hồ thưởng ngoạn. Lâu đài nằm ở địa thế cheo leo hết sức nguy hiểm đỉnh núi thẳng dốc. hòn đá rơi ra từ cửa sổ có thể rơi hàng nghìn food mà chẳng chạm vào bất kỳ cái gì. Phóng xa tầm mắt có thể nhìn thấy rừng cây bạt ngàn, thỉnh thỏang lại bổ khuyết bởi những đường nứt. Đây đó là những đường chỉ bạc là nơi mà những con sông luồn lách vào bên trong rừng rậm.




      Nhưng tôi chẳng còn tâm trạng đâu mà miêu tả cảnh đẹp, bởi vì sau khi tham quan thêm lúc nữa, tôi nhìn ra tình trạng của mình. Khắp nơi tòan là cửa, và tất cả được khóa và chèn chắc. cửa sổ nào trong lâu đài có thể mở ra con đường thóat an tòan. Tóm lại, lâu đài là nhà tù , và tôi trở thành tù nhân.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 3



      Khi biết rằng mình là tù nhân, tôi như hóa điên hóa dại. Tôi cuống cuồng lên xuống các cầu thang, thử mọi cánh cửa và xăm xoi mọi cửa sổ mà tôi tìm thấy được. Tuy nhiên lúc sau, trong người tôi chỉ còn cảm giác bất lực bao trùm. Sau vài giờ vẫy vùng bất lực, tôi bình tâm lại, và thấy rằng đóng vai con chuột vật lộn trong cái bẫy như nãy giờ là điên khùng. Đến khi biết rằng mình hòan tòan bất lực tôi ngồi lặng xuống bình tĩnh. Chưa bao giờ trong đời tôi lại bình tĩnh hơn thế, và tôi bắt đầu suy xét xem phải làm gì. Tôi nghĩ rằng, mọi chưa phải hòan tòan kết thúc. Chỉ có điều tôi chắc chắn phải làm. Đó là đừng để cho bá tước biết tôi nắm được tình. Ông ta biết là tôi bị giam lỏng.



      nghi ngờ gì nữa, chính ông ta là kẻ chủ mưu vụ này, và hẳn là phải có nguyên do. Và phải đánh lừa ông ta bằng cách giả vờ tin tất cả những gì ông ta . Tôi nhận thức rằng mình chỉ có kế hoạch duy nhất là giữ kín trong lòng nỗi sợ hãi cùng những gì khám phá được, và ngược lại, phải mở to mắt ra. Trong trường hợp này, hoặc là tôi bị đánh lừa như đứa trẻ, hoặc là tôi phải dốc hết sức vào cuộc mạo hiểm nhằm thóat khỏi tình thế. Muốn làm được điều sau này tôi cần phải tập trung tất cả những cái gì có trong đầu mình.





      Trong khi tôi dần đến quyết định cuối cùng này, thình lình tôi nghe thấy tiếng cánh cửa lớn phía dưới đóng lại, báo hiệu rằng bá tước trở về. Ông ta vào thư viện ngay, và tôi rón rén trở về phòng mình. Tôi thấy ông ta dọn giường cho tôi. Điều này là lạ lùng, nhưng nó xác nhận điều tôi nghĩ.



      Ngòai ông ta ra, tôi hòan tòan đơn độc trong lâu đài, người hầu nào khác. Khi tôi thấy ông ta luồn qua bản lề cửa để vào trải bàn cho bàn ăn tôi hòan tòan chắc chắn. Do ông ta tự mình làm hết tất cả các công việc của người hầu, chứng tỏ là chẳng còn ai khác trong lâu đài, và chính bá tước là người đánh xe cho tôi trong cái đêm tôi mới đến. Đó là ý nghĩ làm tôi tôi kinh hòang. Ông ta là người như thế nào mà có thể điều khiển bầy sói, có thể giữ chúng im lặng bằng những dấu hiệu? Những người ở Bistriz và trong xe ngựa lo sợ điều khủng khiếp gì cho tôi? Họ tặng cho tôi cây thánh giá, tỏi, hoa hồng dại và tần bì núi để làm gì?




      Xin Chúa hãy phù hộ người đàn bà tốt bụng, là tốt bụng đeo cây thánh giá quanh cổ tôi. Bây giờ, khi chạm vào nó, tôi cảm thấy lấy lại niềm tin và sức mạnh. Cái vật kỳ lạ mà ban đầu tôi muốn nhận, và giờ đây nó mang lại trợ giúp đầy linh thiêng trong những lúc đơn và bối rối. Đó phải chăng là bản chất của nó, hay nó là phương tiện giúp đỡ hữu hình, để chuyên chở những nỗi lòng cảm thông và an ủi? Tôi cố kiểm tra lại vấn đề này khi nào có thể để giúp mình có được xác nhận chính xác. Trong khi chờ đợi tôi tìm hiểu về bá tước Dracula, và điều này giúp tôi có thể hiểu thêm nhiều vấn đề khác. Tối nay may ra ông ta về chính mình, nếu tôi chuyển hướng đối thoại cách khéo léo. Tất nhiên là phải cẩn thận đừng để ông ấy đâm ra nghi ngờ.





      Nữa đêm. Tôi cuộc chuyện dài với bá tước. Tôi hỏi ông ta những câu hỏi về lịch sử Transylvania, và ông ta rất sôi nổi với chủ đề thú vị này. Ông ta về những kiện và những con người, đặc biệt là những trận đánh, ông ta kể lại như thể chính ông ta có mặt tại các thời khắc đó. Lúc sau ông giải thích rằng niềm kiêu hãnh lưu danh tại ngôi nhà của ông ta, và tên tuổi của người Boyar chính là niềm kiêu hãnh của ông ta, vinh quang của họ là vinh quang của ông ta, và định mệnh của họ cũng chính là định mệnh của ông ta. Bất cứ lúc nào về ngôi nhà của mình, ông ta đều dùng từ "chúng tôi" và chia các động từ ở số nhiều, cứ như ông là vì vua kể về đế chế của mình.



      Ước gì tôi có thể ghi lại hòan tòan chính xác những gì ông ấy kể, chúng quá hấp dẩn. Nó gần như dựng lại tòan bộ lịch sử của đất nước này. Khi kể chuyện, ông ta là khích động. Ông ta vòng quanh phòng, vuốt hàm ria trắng của mình, tóm lấy bất cứ cái gì trong vòng tay như thể sắp bẻ phăng chúng bằng sức mạnh của mình. Trong lúc ông ta tôi ngồi sát lại, cố nắm bắt lại câu chuyện được kể cách sôi nổi của ông.




      "Những người Szekelys chúng tôi có lý do chính đáng để tự hào, khi mà trong huyết mạch chúng tôi tuôn chảy dòng máu của những chiến binh dũng cảm chiến đấu với trái tim sư tử để giành lấy và bảo vệ vùng đất này. Ở đây, trong vòng xóay của những những cuộc trường chinh của châu Âu, những dòng giống người Ugric đến từ Iceland để tiến hành cuộc chiến thần thánh do Thor và Wodin dẩn đầu. Những người này khiến mọi người phải tưởng họ là những con ma sói khi biết bao lần những cơn thịnh nộ của họ tạo nên kinh hòang ở khắp bờ biển châu Âu, đến tận châu Phi và châu Á. Đến đây, họ gặp những người Hun, những kẻ làm nên những cuộc chinh phạt đốt sạch mặt đất như những ngọn lửa sống, đến nỗi những người chết nghĩ rằng trong mạch máu họ là những dòng máu của những phù thủy già bị trục xuất khỏi Scythia kết bạn cùng quỷ sứ ở sa mạc.



      Những kẻ ngu ngốc, ngu ngốc! Quỷ sứ hay phù thủy nào có thể sánh với Attila, với những dòng máu hùng như vậy?" Ông ta vung tay lên. "Chúng tôi chiến thắng tất cả, chúng tôi tự hào rằng, những người Magyar, người Lombard, người Avard, người Bulgar, người Thổ phơi xác hàng loạt biên giới chúng tôi, chúng tôi đánh lui tất cả, điều đó là là kỳ diệu, phải ? Khi Arpad và binh đòan của quét qua đất nước Hungarian, gặp chúng tôi tại biên giới và cuộc trường chinh Honfoglalas của chấm dứt, kỳ lạ quá phải ? Rồi khi người Hungarian tạo thành cơn lũ quét về phía đông, người Szekelys cùng chia xẻ vinh quang bởi chiến thắng của người Magyars.



      Chúng tôi qua hàng thế kỷ bảo vệ đường biên giới Thổ Nhĩ Kỳ. Và những công việc nơi biên giới bao giờ chấm dứt, giống như người Thổ ‘nước sông ngủ, nhưng kẻ thù chẳng hề ngủ bao giờ.’ Ai có thể tự hào hơn chúng tôi, những người trong cuộc chiến Bốn Dân Tộc nhận được ‘thanh gươm máu’, hoặc chính tại cuộc chiến này lời kêu gọi tập hợp dân chúng của chúng tôi còn có hiệu lực hơn chính lời hiệu triệu của vua? Đâu là lúc rửa nhục cho mối hờn dân tộc của chúng tôi, nỗi nhục nhã của Cassova, khi mà cờ chiến của người Wallach và người Magyar ngã xuống dưới Crescent? Ai là người trong dòng giống chúng tôi, giống như Voivode băng ngang sông Danube và khuất phục người Thổ ngay đất của họ? Đó chính là Dracula.



      Chỉ đau buồn rằng đó là người em đáng khinh bỉ, khi bại trận, bán rẻ dòng tộc mình cho người Thổ và chấp nhận nỗi nhục nhã làm nô lệ cho họ. Đó phải là dòng giống Dracula này, nòi giống được truyền lại để rồi biết bao nhiêu lần mang theo sức mạnh của mình theo dòng sông lớn cuồn cuộn đổ vào đất Thổ, kẻ mà khi bị đánh bại, lại tiếp tục vùng lên, kẻ lang thang độc giữa cánh đồng máu, nơi mà các chiến binh của ta bị tàn sát, vững tin rằng dù chỉ còn lại mình, ta cũng nhất định giành lấy thắng lợi sau cùng! Người ta rằng ta chỉ nghỉ đến mình. Bah! Những người nông dân mà có lãnh đạo như thế nào? Làm sao chiến thắng được cuộc chiến tranh nếu thiếu khối óc và con tim để chỉ đạo nó? lần nữa, sau cuộc chiến với người Mohacs, chúng tôi lật đổ ách thống trị của người Hungarian, chúng tôi, những người mang trong mình dòng máu Dracula chống lại những kẻ cầm đầu họ, bởi vì truyền thống của chúng tôi bao giờ chấp nhận chúng tôi là những kẻ mất tự do.



      Ah, thưa ngài trẻ tuổi, người Szekelys, mà dòng giống Dracula là máu trong tim họ, là khối óc của họ, là thanh gươm của họ, là dân tộc kiêu hùng mà những bọn người Hapsburgs, người Romanoff mọc lúc nhúc như nấm kia thể nào sánh nổi. Ngày nay chiến tranh chấm dứt. Máu trở thành thứ quý giá trong những ngày tháng hòa bình đầy hổ thẹn này, và những vinh quang của những trận chiến oai hùng ngày xưa chỉ còn lại trong những truyền thuyết được kể lại cùng năm tháng mà thôi."





      Lúc này gần sáng, và chúng tôi ngủ. (Có lẻ quyển nhật ký này trở thành thứ gì đó kỳ lạ như câu chuyện về "Những đêm Ả rập", khi mà mọi chuyện kết thúc cùng với tiếng gà gáy sáng, hoặc giống như hồn ma của cha Hamlet.)





      Ngày 12 tháng 5:





      Hãy để tôi bắt đầu những kiện, những kiện đơn giản và ràng, được kiểm chứng bằng sách vở và hình ảnh. Tôi phải xáo trộn nó lên bởi những điều tôi quan sát hoặc nhớ về chúng. Vào buổi tối cuối cùng khi bá tước đến từ phòng ông ta, ông ta bắt đầu hỏi tôi những câu hỏi về các vấn đề luật pháp và tiến hành các công việc kinh doanh. Tôi trải qua những ngày mệt mõi giữa các trang sách, giải quyết số vấn đề mà tôi kiểm chứng trong cuốn Nhà trọ Lincoln. Đó cũng là những cầu của bá tước, và tôi ghi chép lại cách tuần tự. Những kiến thức này đôi khi cũng hữu ích cho tôi cách nào đó.





      Trước tiên, ông ta hỏi tôi là tại nước người ta có thể có hai luật sư riêng . Tôi trả lời là nếu thích người ta có thuể thuê đến hàng tá, tuy nhiên người khôn ngoan thuê quá luật sư cho chuyện làm ăn. Khi có hai người trở lên thay vì đưa ra ý kiến cho công chuyện, họ quay ra bảo vệ những ý kiến khác nhau và điều đó chỉ có hại mà thôi. Ông ta xem ra rất hiểu, rồi ông ta hỏi tiếp về việc thuê người để phục vụ, giao thiệp, mua bán, cách khác là người chăm sóc về mọi mặt khi ở chiếc tàu, liệu có khó khăn gì . Tôi muốn ông ấy giải thích , để tránh việc tôi hiểu sai ý ông ta, và ông ta .





      " Tôi minh họa nhé. Bạn của ngài và của tôi, ngài Peter Hawkins, người mình dưới bóng tòa thánh đường xinh đẹp của ngài ở Exeter, ở chốn London xa xôi, mua cho tôi dưới giúp đỡ của ngài nơi ở tại London. Tốt! Nào, bây giờ tôi nhé, ngài đừng lấy làm lạ là tôi tìm cho mình người hầu trong số những cư dân tại thành phố London xa lắc đó, bởi vì đối với tôi, ai có thể phục vụ được những ý muốn của tôi tốt hơn người ở quê tôi, trong khi người địa phương có thể phục vụ theo cách gì đó đơn thuần theo ý muốn của tôi, mà cho ta hay bạn bè của chẳng hạn.



      Do vậy tôi tìm người hầu của mình những cánh đồng tại nơi đây, những người chỉ lao động vì ý thích của tôi. Bây giờ, giả sử là tôi cần làm ăn với những chuyến tàu chở hàng, giả dụ như từ Newcastle, Durham, Harwich hoặc Dover, liệu việc tôi ủy quyền cho người khác làm việc tại những bến cảng như vậy có dễ dàng ?"




      Tôi trả lời rằng có gì dễ dàng hơn chuyện đó. Nhưng những luật sư chúng tôi hệ thống chi nhánh từ nơi này sang nơi khác, do đó những công việc tại các địa phương có thể hòan tòan làm việc dưới chỉ dẩn của bất cứ luật sư nào tại địa phương đó. Khách hàng chỉ cần đơn giản ủy quyền cho người bất kỳ nào đó những ý muốn của mình, công việc tiến hành mà chẳng có rắc rối gì.





      "Nhưng," ông ta , "tôi có thể làm việc đó trực tiếp, đúng ?"



      "Tất nhiên," tôi trả lời, "vẩn có những chuyện thường xảy ra như vậy, số người có những công chuyện kinh doanh riêng và muốn người nào khác biết về công chuyện của mình."





      "Tốt!" ông ta , và tiếp tục bàn về việc thiết lập ủy quyền của những các dạng giấy tờ cần thiết, cẩn thận xem xét sao cho chẳng có sơ xuất nào. Tôi giải thích tất cả với ông ta bằng tất cả khả năng của mình, và ràng là ông ta từ giã tôi với ấn tượng là mình làm việc với luật sư cự phách, do đó ông ta chẳng hề nghi ngờ điều gì cả. Trong khi ông ta còn đắm chìm trong tự thỏa mãn, còn tôi kiểm tra mọi thứ qua sách vở, chợt ông ta dừng lại và , "Hình như ngài có viết thêm những thứ gì đó sau khi ngài viết bức thư đầu cho người bạn của chúng ta, ngài Peter Hawkins, phải?"





      Với chút giật mình trong tim , tôi trả lời là , cũng vì tôi thấy có gì cần phải gửi thư cho ai cả.





      "Vậy ngài hãy viết , người bạn trẻ của tôi," ông ta , đặt tay lên vai tôi, "viết cho bạn của chúng ta và những người nào ngài cần thông báo rằng ngài ở đây với tôi thêm tháng nữa, nếu điều đó làm phiền ngài."





      "Ngài muốn tôi ở lại với ngài lâu đến thế sao?" tôi hỏi, cảm thấy tim mình trở nên lạnh ngắt trong thóang.





      "Tôi rất muốn điều đó, và tôi muốn nghe về từ chối. Khi chủ của ngài, giao cho người nào đó thay mặt cho ông ta, với mục đích ràng là phục vụ cho việc thỉnh thị ý kiến của tôi, hẳn là người đó làm hết mình chứ, có phải ạ?"





      Tôi có thể làm gì ngòai việc cúi chào tán thành. Đây là quyền lợi của ngài Hawkins, chứ phải tôi, và tôi nên nghĩ đến ông ta chứ chỉ nghĩ đến mình. Ngòai ra, qua ánh mắt và cử chỉ của bá tước Dracula khiến tôi nhớ ra rằng mình là tù nhân, và tôi còn lựa chọn nào khác. Khi bá tước thấy thắng lợi của mình qua cái cúi chào của tôi, thấy được quyền lực của mình qua bối rối mặt tôi, ông liền bắt đầu sử dụng chúng cách khéo léo sao cản lại:





      "Tôi mong rằng ngài, người bạn trẻ tuổi thân mến của tôi, rằng ngài thêm gì trong những bức thư ấy ngòai công việc làm ăn của chúng ta. Nó làm các bạn của ngài an tâm rằng ngài rất khỏe mạnh, và về nhà sau khi xong công việc. Ngài có bằng lòng ạ?" trong khi ông ta , ông ta trao cho tôi ba xấp giấy viết thư và ba chiếc phong bì, tất cả đều là những thứ giấy tờ bưu kiện thuộc loại mỏng nhất ở nước ngòai. Rồi ông ta, với nụ cười lặng lẽ, đưa ra đôi hàm răng chó sắc nhọn bên trong đôi môi đỏ rực, như thể rằng tôi nên cẩn thận với những gì viết trong thư, vì ông ta có thể đọc được chúng. Vì vậy tôi quyết định rằng bây giờ hãy tạm viết thư cách bình thường theo ý ông ta, rồi hãy bí mật kể lại mọi chuyện cho ông Hawkin, và viết cho Mina qua số ký hiệu viết tắt, điều làm cho bá tước Dracula lâm vào bài tóan đố chữ đủ làm ông ta nhăn nhó nếu ông tìm cách đọc nó.



      Sau khi tôi viết hai lá thư xong, tôi ngồi yên và đọc sách, trong khi bá tước viết rất nhiều, tham khảo số sách bàn. Sau đó ông ta lấy hai lá thư của tôi, đặt vào giữa những mớ giấy tờ ông ta vừa viết, rồi ông ta ra ngay tức khắc và đóng cửa lại. Tôi chồm qua bàn và đọc những lá thư vẩn còn nằm bàn. Tôi chẳng hề ân hận vì hành động của mình, bởi vì trong hòan cảnh này tôi phải tự bảo vệ mình bằng tất cả mọi cách có thể được.





      trong những lá thư được gửi đến Samuel F.Billington, số 7, Crescent, Whitby, và bức khác gửi cho Herr Leutner, Varna. Bức thứ ba gửi cho Coutts & Công ty, London, bức thứ tư gửi cho Herren Klopstock & Billreuth, giám đốc ngân hàng, Buda Pesh. Bức thứ hai và thứ tư chưa được dán lại. Tôi vừa định đọc nó kịp thấy tay nắm cửa động đậy. Tôi ngồi trở lại chỗ của mình, quay lại đọc tiếp cuốn sách của mình trước khi bá tước quay trở về phòng, trong tay là bức thư khác. Ông ta thu nhặt những bức thư bàn, dán tem lại cẩn thận và quay lại về phía tôi, cất tiếng,





      " Tôi tin là ngài bỏ qua cho tôi, vì tôi có số việc riêng phải giải quyết trong chiều tối nay. Hy vọng là ngài đêm như ý." ra đến cửa, ông ta quay lại, ngập ngừng chút rồi , " Tôi cho ngài lời khuyên, người bạn trẻ của tôi. cho đúng hơn, đây là lời khuyến cáo rất nghiêm túc. Ngòai căn phòng của ngài ra, chẳng có nơi nào trong lâu đài này ngài có thể qua đêm được. Đây là tòa lâu đài cổ, mang trong nó nhiều câu chuyện của quá khứ, và nó mang lại cho những kẻ dại dột nhiều cơn ác mộng khó quên.



      Hãy cẩn thận! Ngài hãy ngủ lại đây. Còn nếu có điều gì xảy ra cho ngài tại những nơi khác, hãy nhanh chóng quay trở về phòng riêng của mình hoặc những căn phòng chung quanh, đó là nơi ngài ngủ an giấc. Nếu như ngài lưu ý vào những điều cảnh báo này, ," Ông ta kết thúc bài của mình cách đầy đe dọa, tay ông vung vẫy thành những cử động như quét sạch những cái gì. Tôi hiểu ra. Tôi chỉ nghi ngờ là liệu có cơn ác mộng nào có thể ghê gớm hơn cái lưới khủng khiếp và siêu nhiên của những điều bí ma quái siết dần lại chung quanh tôi hay .





      Đêm khuya.—Tôi ghi lại tất cả những điều ông ta , nhưng thêm vào đó nghi ngờ của mình. Tôi sợ ngủ lại ở bất kỳ nơi nào trong lâu đài nếu ông ta có trong đó. Tôi đặt cây thánh giá của mình lên đầu giường ngủ, và tôi tin rằng điều đó làm giấc ngủ của tôi được giải phóng khỏi những cơn ác mộng.





      Khi ông ta khỏi tôi vào phòng của mình. lúc sau, còn nghe tiếng động nào nữa, tôi ra và leo lên cái cầu thang đá, đứng ở đây tôi có thể trông về phía Nam. dãi đất rộng mênh mang trải dài trước mắt tôi, khiến khao khát tự do của tôi càng cháy bỏng khi tôi so sánh nó với khỏang sân tối tăm chật hẹp của lâu đài. Nhìn thấy nó, tôi càng nhận thức tôi là tù nhân , và tôi càng thèm muốn được hít thở bầu khí trong lành của tự do, dù cho bây giờ là đêm đen. Tôi bắt đầu cảm thấy thấy hữu của đêm tối bên trong tôi, nó hủy hoại ý chí của tôi. Tôi bắt đầu tự làm cho mình u mê với những nỗi tưởng tượng kinh khủng. Chúa biết rằng nguồn gốc của những nỗi sợ hãi kinh khủng trong tôi chính là vùng đất đáng nguyền rủa này!



      Tôi nhìn ra vùng đất rộng mênh mông xinh đẹp tắm mình trong ánh trăng đêm sáng rực như thể ở giữa ban ngày. Trong cái thứ ánh sáng huyền dịu đó, những ngọn đồi cao ngất như bị tan ra trong bóng đêm mượt mà của những thung lũng và kẽ núi. Vẻ đẹp này khiến tôi bị cuốn hút vô cùng. Mỗi hơi thở tôi hít vào mang theo êm ả và cảm giác an ủi. Khi tôi trườn người ra từ cửa sổ, tôi chợt thấy có cái gì chuyển động ở tầng dưới tôi, nằm ở phía bên trái, nơi tôi nghĩ rằng theo bố trí các phòng của lâu đài, đó là nơi cửa sổ phòng bá tước trông ra. Cái cửa sổ tôi đứng là cái cửa sổ rộng và cao, bao bằng những đá, xem ra hòan tòan bền vững với mọi thời tiết. Nhưng ràng là có cái gì đó diễn ra ở đằng kia. Tôi thu người lại sau bệ đá, và chăm chú quan sát.





      Tôi thấy cái đầu của bá tước thò ra từ cửa sổ. Tôi thấy mặt, nhưng tôi biết đó là con người bởi cái cổ và chuyển động của lưng và cánh tay. Tôi thể nhầm lẫn những cánh tay mà tôi nhiều lần nếm thử sức mạnh của nó. Tôi cảm thấy thích thú và ở chừng mực nào đó là buồn cười, bởi vì bất kỳ chuyện nào cũng làm cho người ta thích thú và buồn cười khi ta là tù nhân. Nhưng tôi nhanh chóng chuyển sang kinh hòang và sợ hãi khi thấy tòan bộ thân người của bá tước nhô ra cửa sổ và bắt đầu trườn xuống.



      Bao quanh lâu đài là những vực thẳm chết chóc, và khi bá tước tuột xuống, cái áo chòang xám của ông ta bay phấp phới như những cái cánh khổng lồ. Thoạt tiên tôi tin vào mắt mình. Tôi nghĩ đó là ảo giác của ánh trăng, là đánh lừa của bóng đêm, nhưng khi tiếp tục quan sát, tôi biết rằng mình hề lầm. Tôi thấy những ngón tay và mũi giày bám vào những góc cạnh vào những hòn đá bức tường mà lớp vôi vữa bị bào mòn bởi thời gian, tận dụng từng góc cạnh lồi lõm để tuột xuống với tốc độ ghê hồn, như là con thằn lằn tường.



      Đây là loại người gì, hay đúng hơn là loại sinh vật gì, mà có thể làm được những chuyện như thế? Tôi sợ chết khiếp cái vùng đất ma quái chế ngự tôi. Tôi sợ hãi, sợ hãi đến rụng rời, và hầu như tôi thể trốn thóat khỏi nơi đây được nữa.Tôi bị bao bọc bởi những điều kinh khủng mà tôi thậm chí dám nghĩ đến.





      Ngày 15 tháng 5:





      lần nữa tôi thấy bá tước ra ngòai bằng kỹ năng của thằn lằn. Ông ta trườn xuống theo con đường nghiêng về bên trái dài tới hàng trăm food. Khi cái đầu của ông ta khuất, tôi trường người ra để cố nhìn thêm nhưng vô hiệu. Khỏang cách quá xa và góc nhìn hòan tòan bị che khuất. Tôi biết rằng lúc này ông ta rời khỏi lâu đài, và đây là lúc tôi nên lợi dụng cơ hội này để thám hiểu thêm về lâu đài, điều mà tôi chưa từng dám làm. Tôi trở về phòng, lấy cái đèn, và thử tất cả các cửa. Như tôi dự đóan, chúng được khóa sạch, và những cái khóa vẩn còn mới.



      Nhưng khi tôi xuống cầu thang đá để vào đại sảnh, nơi tôi vào lúc mới đến, tôi có thấy rằng tôi có thể đẩy được then cửa cũng như tháo sợi dây xích lớn dễ dàng, nhưng cánh cửa bị khóa, và chìa khóa bị lấy mất. Chiếc chìa khóa này chắc hẳn ở trong phòng của bá tước. May ra cửa phòng ông ta khóa, tôi có thể lấy chìa khóa và trốn thóat. Tôi cẩn thận kiểm tra mọi lối và cầu thang, thử mở tất cả mọi cánh cửa. hoặc hai cánh cửa gần đại sảnh khóa, nhưng bên trong trong nó có gì đáng để ý, ngoài những vật dụng cũ kỹ đầy bụi bởi thời gian và mối gặm.



      Tuy nhiên, tôi tìm thấy cánh cửa đỉnh cầu thang, mặc dù cũng bị khóa, nhưng khi tôi thử đẩy nó nhúch nhích. Tôi thử mạnh hơn, và thấy rằng cánh cửa ra bị khóa, nó bị kẹt bởi bản lề long ra và cánh cửa nặng nề giống như được dựa vào sàn nhà. Đây là cơ hội có hai, tôi cố sức đẩy cho cánh cửa dịch chuyển được khỏang tôi có thể len vào. Bây giờ tôi ở vào tầng bên của lâu đài, có lẽ là nằm ở tầng dưới và ở phía bên phải căn phòng tôi biết. Từ cửa sổ tôi có thể nhìn thấy dãy phòng nằm dọc theo phía nam lâu đài, cửa sổ của cái cuối cùng trông ra phía tây và phía nam. Cả hai phía đều là những vách đá dựng đứng.



      Lâu đài được xây dựng mỏm đá cao, trong đó có đến ba phía là thể vượt qua được, với những cánh cửa sổ cao ngất mà cây ná, cánh cung hay cánh chim câu nào có thể vươn tới. Phía tây là thung lũng rộng, và vươn ra phía xa là những rặng núi nhấp nhô, các đỉnh nối tiếp nhau. Giữa những vách đá thẳng đứng là những cây tần bì núi và bụi gai có gốc bám cứng vào những vết và kẽ nứt đá. Chắc là phần này của lâu đài vào những ngày xa xưa được sử dụng bởi những người phụ nữ, vì những đồ vật trong phòng trong có vẻ tiện nghi hơn những phòng khác.





      Cửa sổ ở đây được trải màn, và ánh trăng vàng lấp lánh tràn ngập qua những tấm cửa sổ lóng lánh, làm mọi vật trở nên rực rỡ hơn, mặc dù chúng chìm ngập trong bụi, trông như chúng cố cải trang khỏi tàn phá của thời gian và mối. Ngọn đèn của tôi góp thêm phần vào ánh trăng huyền dịu này. Nhưng tôi rất cần có nó bên mình, nếu độc khủng khiếp ở nơi này làm con tim tôi lạnh giá và thần kinh của tôi run lên trong sợ hãi. Dù sao, ở nơi đây vẩn tốt hơn là độc trong những căn phòng mà diện thường xuyên của bá tước làm cho tôi chán ghét, và sau những cố gắng để tìm lại cân bằng cho thần kinh, tôi tìm thấy nơi đây cảm giác bình thản an lành.



      Và tôi ngồi đây, trước cái bàn bằng gỗ thông, nơi mà ngày xưa có lẽ là tiểu thư từng ngồi, mơ mộng và thẹn thùng, viết những lá tình thư của ta, tôi lại viết tốc ký tiếp tục vào sổ nhật ký của tôi tất cả những gì xảy ra cho tôi từ lần tôi gấp lại gần đây nhất. Bây giờ gần cuối thế kỷ mười chín, nhưng nếu như cảm giác lừa dối tôi, những thế kỷ trước vẩn tồn tại trong nó những năng lực mà " đại" thể tiêu diệt được.





      Đêm khuya. Buổi sáng của ngày 16 tháng 5:



      Chúa hãy phù hộ cho lý trí của tôi, đó là điều tôi cần. An tòan và những bảo đảm cho an tòan thuộc về quá khứ. Trong khi tôi sống tại nơi đây, tôi chỉ hy vọng vào điều là tôi hóa điên, nếu như tôi vẩn còn chưa điên. Nếu như tôi còn tỉnh, ràng tôi hóa điên nếu nghĩ đến những việc khủng khiếp diễn ra ở cái nơi ở đáng ghét này của bá tước, đó là việc tệ hại nhất cho tôi. Nếu chỉ có mình bá tước, tôi còn được an tòan, mặc dầu điều đó chỉ là vì tôi còn có ích cho ông ta. Chúa cao cả, Chúa từ bi, hãy để cho tôi được bình tĩnh, tránh xa được những chuyện giả dối điên khùng diễn ra.



      Tôi tìm thấy được những tia sáng mới giữa những mớ hỗn độn đánh đố tôi. Đến bây giờ tôi mới hiểu Shakespeare muốn gì khi ông ta cho Hamlet " Những tấm thẻ ghi của tôi! Nhanh, những thẻ ghi của tôi! Tôi viết ngay khi có nó,!" v.v., Đến nay, những lúc nào tôi cảm thấy đầu óc mình còn cân bằng được nữa, hoặc những cú sốc gần đánh quỵ được tôi, tôi lại tìm cân bằng nơi quyển nhật ký của mình. Sở thích này làm tôi dịu .





      Những điều cảnh cáo bí của bá tước làm tôi kinh hỏang trong lúc. Nó còn làm tôi hoảng sợ nữa khi tôi nghĩ về nó, bởi vì trong tương lai ông ta còn tiếp tục cầm giữ tôi cách đầy ghê sợ. Và tôi sợ để hiểu những điều ông ta có thể !





      Khi tôi viết xong cuốn nhật ký, may mắn là tôi kịp cất cuốn nhật ký và viết vào túi khi tôi bắt đầu buồn ngủ. Những lời cảnh cáo của bá tước lỡn vỡn trong tâm trí tôi, nhưng tôi rất vui lòng tuân lệnh ông ta. Cảm giác buồn ngủ tràn ngập tâm trí tôi, và cùng với nó là bướng bĩnh khiến giấc ngủ càng trở nên quyến rủ. Ánh trăng đêm êm dịu, và khỏang bao la dù mang lại tự do làm tôi phục hồi. Tôi quyết định đêm nay trở về căn phòng ma quái u ám của tôi nữa, mà ngủ lại đây, nơi mà ngày xưa những tiểu thư ngồi bên song cửa, cất cao tiếng hát, sống những cuộc sống êm ả trong khi tâm tưởng họ tràn ngập những nỗi buồn về những người đàn ông ra vì những cuộc chiến tranh tàn nhẫn.



      Tôi thấy cái tràng kỷ lớn nằm gần góc phòng, và khi tôi nằm đấy, tôi có thể thưởng ngoạn phong cảnh nên thơ ở phía đông và phía nam. Chẳng thèm nghĩ ngợi hay quan tâm gì đến bụi bặm, tôi có thể dỗ được giấc ngủ của mình. Tôi nghĩ rằng tôi ở trong giấc mộng. Tôi hy vọng như vậy, nhưng tôi sợ rằng những gì xảy ra tiếp theo cho tôi là , rất , diễn ra trong ánh sáng ban ngày rực rỡ, và tôi thể tin rằng đó là giấc mơ.





      Tôi mình. Căn phòng vẩn như vậy, hề thay đổi so với lúc tôi bước vào. Tôi có thể nhìn thấy dưới ánh trăng rực rỡ, những dấu chân của tôi sàn khi tôi làm xáo trộn những lớp bụi dày được tích lũy nơi đây. Đứng đối diện với tôi dưới ánh trăng là ba phụ nữ trẻ, ba tiểu thư qua cách ăn mặc và dáng vẻ của họ. Khi nhìn thấy họ, tôi nghĩ rằng tôi nằm mơ, bởi vì sàn nhà hề có bóng của họ. Họ tiến lại gần tôi, quan sát tôi lát rồi bắt đầu quay qua rì rầm với nhau. Hai người trong số họ ngăm ngăm, có những chiếc mũi chim ưng cao như bá tước, với những đôi mắt đen, trũng sâu, có vẻ như đỏ rực lên tương phản với ánh trăng vàng nhạt.



      Người phụ nữ còn lại xinh đẹp, đẹp tuyệt vời, tóc vàng và mắt lóng lánh như ngọc bích. Hình như tôi có biết khuôn mặt xinh đẹp này, nó nằm đâu đó trong những cơn ác mộng của tôi, nhưng lúc này tôi chưa thể xác định được là tôi gặp nó ở đâu và như thế nào. Cả ba đều có những hàm răng tuyệt vời, sáng trắng những đôi môi đầy quyến rủ màu hồng ngọc. Họ có cái gì đó làm tôi thể bình tâm được, nữa thèm muốn và nữa là chết khiếp.



      Tôi cảm thấy trong tim mình nỗi khao khát cháy bỏng, thể cưỡng lại được là được họ hôn với những cặp môi đỏ rực kia. Có lẽ ghi lại những điều này là hay, bởi ngày nào đó có thể nó đập vào mắt Mina và làm ấy đau khổ, nhưng đó lại là . Họ thầm với nhau, rồi cả ba phá lên cười, những tiếng cười trong trẻo như tiếng bạc va vào nhau, nhưng cũng có cái gì đó rờn rợn trong những tiếng cười này. Những thanh này thể phát ra từ những đôi môi mềm dịu của con người. Nó mang điệu thô kệch, chói tai giống như những kẻ vụng về chơi đàn. Người con xinh đẹp lắc đầu cách đỏm dáng, và hai kia tranh cãi với ta.



      người , "Nào! Bạn làm trước , và chúng tôi tiếp tục. Bạn bắt đầu là đúng rồi."





      Người kia thêm vào, " ta trẻ và khỏe mạnh. Cả ba chúng ta hôn ấy."





      Tôi nằm yên giường, liếc nhìn dưới mi mắt cái niềm hạnh phúc sắp sửa diễn ra. Người con xinh đẹp bước lên và cuối sát xuống tôi đến nỗi tôi có thể cảm thấy ngực ta sát phía tôi. ta phát ra những thanh dịu dàng, âu yếm cùng với khát khao nồng cháy, kích động, nhưng kèm theo đó là cái gì đó kinh khiếp dưới ngọt ngào, cảm giác tấn công kinh khủng, giống như kẻ ngửi thấy mùi máu.




      Tôi dám nhướng mi lên, nhưng có thể nhìn thấy được rất qua khe mắt. quỳ xuống đầu gối, cúi sát vào tôi với vẻ thèm muốn tột độ. Đó là thèm muốn có cân nhắc, bao gồm xúc động và kinh tởm. ta uốn éo cổ và liếm môi như con thú. Tôi có thể thấy dưới ánh trăng hơi nước lóng lánh đôi môi đỏ rực của ta, và cái lưỡi hồng liếm hàng răng trắng sắc nhọn. Đầu ta càng lúc càng cúi thấp, đôi môi ta lướt xuống dưới môi và cằm tôi và tiến nhanh về phía cổ họng của tôi.



      Khi ta ngừng lại, tôi có thể nghe thấy tiếng lưỡi ta vờn quanh môi và răng, tôi có thể cảm thấy hơi thở nóng hổi của cổ mình. Rồi làn da nhạy cảm nơi cổ họng của tôi ngứa lên như cảm giác bị ai đó cù vào, càng lúc càng gần, gần hơn nữa. Tôi cảm thấy đôi môi mềm mại và run rẩy của ta ở chỗ nơi da thịt nhạy cảm nhất cổ họng tôi, hàm răng lởm chởm cứng rắn chạm vào và ngừng lại. Tôi nhắm chặt mắt trong cảm giác u mê lý trí, chờ đợi với nhịp tìm thình thịch trong lồng ngực.





      Nhưng trong thóang, cảm giác khác lướt ngang qua tôi nhanh như ánh sáng. Tôi cảm thấy hình như bá tước có mặt, giận dữ điên cuồng. Tôi mở mắt tự chủ được và thấy cánh tay ghê gớm của ông chộp lấy cái cổ họng mảnh khảnh của xinh đẹp, bẻ ngược nó về sau với sức mạnh kinh hồn, đôi mắt xanh chuyển sang sắc màu giận dữ, đôi hàm răng trăng nghiến ken két đầy cuồng nộ, đôi má cao đỏ rực lên điên cuồng. Nhưng mà, bá tước! Tôi bao giờ có thể tưởng tượng thấy giận dữ và phẫn nộ đến như vậy, dù là ở ma quỷ nữa.



      Mắt ông ta rực lên. Màu đỏ trong mắt ông ta kinh khủng, cứ như rằng những ngọn lửa địa ngục cháy sáng phía sau chúng. Mặt ông ta trắng bệch ra cách chết chóc, và những đường gân nổi lên như những sợi dây kẽm. Đôi lông mày dày gần như chạm đến mũi, nhìn giống như thanh kim loại trắng nóng nặng nề.



      Với cử động giận dữ, ông ta ném mạnh và bước đến những còn lại như thể sắp ăn thịt họ.Dáng điệu của ông ta giống với những dáng điệu hống hách mà tôi từng thấy ông ta làm với những con sói. Bằng giọng , dù như những lời thầm, nhưng chúng xé tung bầu khí trong phòng như những tiếng chuông, ông ta cất tiếng,





      "Ai cho phép bọn mày động đến nó, tất cả bọn mày? Ai cho phép bọn mày xuất trước nó dù ta cấm? Cút , cả lũ bọn mày! Con người này thuộc về ta! Nếu còn dám động vào nó, hãy coi chừng ta."



      xinh đẹp, phá lên cười cách đỏm dáng và vô lễ, quay lại và trả lời ông ta.





      "Ông bao giờ biết . Ông chẳng bao giờ biết cả!" Và những khác cũng hòa vào với những tiếng cười buồn bã, nặng nề, hề có sức sống, chúng vang dội khắp phòng làm tôi gần như lợm giọng khi nghe chúng. Nó giống như khao khát đầy kinh tởm của ma quỷ.





      Bá tước quay lại, sau khi quan sát khuôn mặt tôi cách kỹ lưỡng, ông ta nhàng thầm, "Phải, ta cũng có thể vậy. Chúng mày tự biết điều đó trong quá khứ . Phải thế ? Tốt, ta hứa với tụi bây là khi ta xong việc với nó tụi bây được hôn nó nếu tụi mày muốn. Còn bây giờ cút! Cút! Ta phải đánh thức nó, có số chuyện phải giải quyết đây."



      "Như vậy là bọn tôi chẳng được gì tối nay ư?" người trong bọn họ hỏi, với giọng cười trầm buồn, ta chỉ về cái túi mà ông ta vứt sàn nhà, chuyển động như thể có vật gì sống bên trong.



      Ông ta gật đầu để trả lời. trong số những người phụ nữ nhảy đến và mở nó ra. Nếu tai tôi đánh lừa tôi bên trong nó là tiếng khóc khẽ hổn hển của nữa đứa bé thò ra. Người con tiến vòng quanh cái túi, còn tôi kinh hãi đến tột độ. Nhưng khi tôi nhìn lại, họ biến mất với cái túi khủng khiếp kia.



      có cánh cửa nào ở gần họ, và họ thể khỏi mà tôi nhìn thấy. Họ chỉ đơn giản là biến vào ánh trăng và xuyên qua cửa sổ, và tôi còn có thể thấy bên ngòai hình bóng họ mập mờ, thấp thóang trong chốc lát cho đến khi họ hòan tòan biến mất.





      khủng khiếp chiến thắng tôi, và tôi nằm gục , bất tỉnh nhân .

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 4



      Khi tỉnh giấc, tôi thấy mình nằm giường của mình. Nếu như phải là tôi vừa trải qua giấc mơ chắc là bá tước mang tôi trở về phòng. Tôi cố trấn an rằng mình vừa nằm mơ, nhưng điều đó thể giải thích được những gì diễn ra bên tôi. ví dụ để chắc chắn về việc này là quần áo tôi được thay ra và gấp lại, nhưng tôi bao giờ gấp quần áo theo kiểu như thế. Đồng hồ của tôi được tháo ra, nhưng tôi luôn luôn đeo đồng hồ trong khi ngủ, và có rất nhiều những chi tiết đại loại như thế. Nhưng những gì xảy ra cho tôi khó tin đến nỗi, có thể giải thích là đầu óc tôi có vấn đề, là thần kinh tôi rối loạn. Tôi cần phải xem lại điều này. Chỉ có điều khiến tôi vui mừng.



      Đó là việc nếu bá tước mang tôi về phòng và thay quần áo cho tôi, hẳn là ông ta làm việc đó hết sức vội vã, và chẳng kịp dòm ngó gì vào túi tôi. Và hiển nhiên là ông ta chưa biết về những gì tôi viết trong nhật ký, nếu ông ta hẳn lấy hoặc hủy nó . Và bây giờ căn phòng của tôi, tôi nhìn nó với cảm giác như đây là nơi trú của mình. Dù nó vẩn tràn đầy những cảm giác đáng sợ, nhưng có gì đáng khiếp hãi hơn những người phụ nữ kinh khiếp kia, những kẻ thèm khát máu của tôi.





      Ngày 18 tháng 5:





      Khi tôi trở xuống căn phòng nọ vào ban ngày để tìm hiểu . Cửa căn phòng nằm ở đỉnh cầu thang được đóng kín. Nó được chắn ngang bằng thang gỗ để ngăn chặn những nỗ lực đẩy nó. Tôi thấy khóa cửa được gài, nhưng nó được buộc chặt từ bên trong. Như vậy đó phải là giấc mộng, đúng như tôi lo sợ, và cần phải hành động cơ sở của suy đóan này.





      Ngày 19 tháng 5:





      Tôi chắc chắn sắp phải vất vả đây. Tối hôm qua bá tước cầu tôi viết ba bức thư với giọng điệu đầy đe dọa.



      Bức đầu tiên rằng tôi sắp xong công việc và sắp trở về nhà, bức thứ hai rằng tôi lên đường vào buổi sáng viết thư, và bức thứ ba rằng tôi rời lâu đài và ở Bistriz. Tôi muốn cưỡng lại, nhưng thấy rằng trong tình hình nay, khi mà tôi hòan tòan nằm trong quyền lực của bá tước có gì điên khùng hơn là tranh cãi công khai với ông ta. Và từ chối làm kích động mối nghi ngờ trong lòng ông ta và khiến ông nỗi giận. Ông ta hẳn biết là tôi biết quá nhiều, và để tôi sống là khiến ông gặp nguy hiểm.



      Cơ hội duy nhất của tôi là kéo dài các cơ hội. Có thể kiện nào đó xảy ra và cho tôi cơ hội thóat hiểm. Tôi từng thấy giận dữ bùng lên trong mắt ông ta khi ông ném tung người phụ nữ xinh đẹp nọ. Ông ta giải thích với tôi là bưu điện ở đây hoạt động rất thất thường, và những bức thư của tôi nên viết từ bây giờ để khiến bạn bè đừng lo lắng. Ông ta còn bảo đảm với tôi cách đầy tin tưởng rằng những bức thư được giữ tại Bistriz trong khi tôi còn ở lại đây, và được gửi vào những lúc thích hợp. Tranh cãi chỉ khiến ông ta có thêm những mối nghi ngờ mới, tôi giả vờ là đồng ý với những ý kiến của ông ta, và hỏi ông ta rằng tôi nên đề ngày tháng như thế nào trong thư.





      Ông ta tính tóan trong phút, rồi trả lời, "Bức đầu nên đề ngày 12 tháng 6, Bức thứ hai ngày 19 tháng 6 và bức thứ ba ngày 29 tháng 6."





      Tôi biết rằng đó là quãng đời còn lại của tôi. Chúa hãy giúp tôi!





      Ngày 28 tháng 5:





      cơ hội để trốn thóat, hay ít ra để gửi đôi chút tin tức về nhà. đoàn dân du mục Szgany vừa đến và cắm trại trong khuôn viên lâu đài. Đó là dân gipsy. Tôi từng viết về họ. Mặc dù vẩn liên kết với với các chủng tốc gipsy bình khác ở khắp nơi thế giới, ở nơi này, họ rất đặc biệt. Họ có hàng ngàn người ở Hungary và Transylvania, và luôn luôn sống ngòai vòng pháp luật. Họ có những luật lệ riêng, những quy định riêng về quý phái, và gọi nhau bằng những tên riêng. Họ chẳng sợ cái gì cả, chẳng có tín ngưỡng dù vẩn mê tín, và họ chỉ chuyện với nhau bằng thứ tiếng digan riêng của mình.



      Tôi viết về nhà vài lá thư và nhờ họ chuyển. Tôi thử làm quen với họ bằng cách chuyện qua cửa sổ.



      Họ giở nón, cúi rạp người chào tôi và làm nhiều dấu hiệu khác, tuy nhiên tôi hiểu về những điều này chẳng khác gì tôi hiểu về ngôn ngữ của họ, nghĩa là gần như chẳng hiểu gì…





      Tôi viết xong những lá thư. Tôi viết cho Mina bằng những ký hiệu viết tắt và nhờ ông Hawkin chuyển giùm. Tôi giải thích cho Mina tình thế của tôi nay, nhưng nhắc đến những chuyện kinh dị mà tôi chỉ mới phỏng đóan. Nó làm nàng sốc và khiếp hãi đến chết nếu tôi hết với nàng. Như vậy, nếu những bức thư được chuyển , bá tước cũng chẳng thể biết những bí mật của tôi cùng những gì tôi khám phá được…





      Tôi gửi những lá thư. Tôi ném nó ra từ chấn song cửa sổ cùng với vài đồng vàng, và ra dấu là tôi muốn nhờ họ chuyển giùm. Người đàn ông nhặt được lá thư này đưa nó lên ngực, cúi chào rồi nhét nó vào chiếc mũ lưỡi trai. Tôi thể làm gì hơn. Tôi quay về thư viện và bắt đầu viết. Khi bá tước có mặt tôi vào đây để viết…





      Bá tước đến. Ông ta ngồi cạnh tôi, và với giọng hòa nhã nhất, ông ta lấy ra hai lá thư, "Những người Szgany vừa đưa cho tôi những thứ này, và dù tôi chẳng biết vì sao họ có, tất nhiên là tôi vẩn nhận. Đây!" – ông ta chắc là đọc chúng rồi – " bức từ ngài gửi cho ông bạn Peter Hawkins của chúng ta. Còn bức kia" – khi ông ta mở phong bì và nhìn thấy những ký hiệu lạ trong bức thư, mặt ông ta tối sầm lại, còn mắt ánh lên vẻ giận dữ man dại, - "bức thư kia là vật ghê tởm, nó là tổn thương tình bạn và tinh thần hiếu khách của chúng ta! Nó được ký tên. Tốt thôi! Nó chẳng gây nên vấn đề gì giữa chúng ta." Và ông ta bình thản đưa bức thư và phong bì vào lửa cho đến khi chúng hòan tòan được thiêu trụi.





      Và ông ta tiếp tục, "Còn về bức thư gửi cho ngài Hawkins, hẳn nhiên là tôi gửi nó, vì nó là của ngài. Thư từ của ngài là bất khả xâm phạm đối với tôi. Xin ngài thứ lỗi vì tôi vô tình bóc nó ra. Mong ngài dán nó lại lần nữa, có được ạ?" Ông ta đưa bức thư cho tôi, và với cái cúi chào nhã nhặn đưa cho tôi phong bì trống.





      Tôi chỉ có thể làm theo với im lặng. Khi ông ta rời khỏi phòng tôi nghe tiếng chìa khóa xoay . Vài phút sau tôi tiến lại và xoay thử. Cửa bị khóa.





      hoặc hai giờ sau, bá tước lặng lẽ vào phòng. xuất của ông ta đánh thức tôi, vì tôi ngủ ghế sofa. Ông ta rất nhã nhặn và vui vẻ, và do thấy tôi ngủ, ông , "Ồ, bạn tôi, ngài mệt ư? Hãy lên giường.



      Đấy là nơi tốt nhất để ngủ. Tôi thể chuyện với ngài tối nay, do còn nhiều chuyện để làm, nhưng mong ngài hãy ngủ ngon giấc."





      Tôi vào phòng và leo lên giường, và lạ lùng, ngủ ngon lành chẳng mộng mị gì. tuyệt vọng mang lại bình thản cùng với nó.





      Ngày 31 tháng 5:



      Sáng nay khi thức dậy, tôi định lục trong túi của mình tìm số giấy và phong bì cho vào túi, để khi có cơ hội lại viết, nhưng lần nữa tôi được dành cho ngạc nhiên và cú sốc.





      Tất cả những giấy tờ của tôi biến mất, tất cả những tài liệu của tôi, những giấy tờ vong lục liên quan đến xe lửa và du lịch, những tờ chi phiếu, tóm lại tất cả những gì cần thiết cho tôi khi tôi ra khỏi lâu đài bị mất sạch. Tôi ngồi suy nghĩ lát, rồi ý nghĩ chợt đến với tôi. Tôi vội kiểm tra lại valy quần áo trong tủ quần áo nơi tôi treo quần áo.





      Tất cả những quần áo cần thiết để ra ngòai, bao gồm áo bành tô và chăn nệm, được lấy sạch. kế hoạch đê hèn…





      Ngày 17 tháng 6:





      Sáng nay, khi tôi ngồi bên giường và cố trấn tĩnh lại đầu óc, tôi nghe thấy tiếng chân ngựa mỏm đá mà chẳng có tiếng roi, tiếng quất hay tiếng cãi cọ nào cả. Tôi vui mừng lao vội ra phía cửa sổ, thấy hai cỗ xe lớn, mỗi cỗ xe thắng tám con ngựa khỏe mạnh vào bãi rào. Điều khiển mỗi cổ xe là người Slovak. với chiếc nón rộng, thắt lưng cài khuya to bản, mặc những bộ đồ da cừu dơ bẩn, và đôi giày cao. Họ cũng cầm tay mình những cây gậy. Tôi chạy vội về phía cửa, định lao xuống đại sảnh và nhập bọn với họ. Tôi cứ nghĩ rằng cửa mở ra đón họ. Nhưng lần nữa tôi nhận cú sốc. Cánh cửa phòng tôi được khóa từ bên ngòai.





      Tôi liền chạy ngược về phía cửa sổ, la lớn về phía họ. Họ liếc nhìn tôi lạ lẫm và chỉ trỏ. Nhưng cái gã "hetman" của người Szgany tiến ra, thấy họ chỉ trỏ về phía tôi, bèn điều gì đó và cười phá lên.





      Do đó, những nỗ lực của tôi, những tiếng kêu gào thảm thương, những lời khẩn nài tuyệt vọng, chẳng có tác dụng gì. Họ cương quyết quay . Những cỗ xe ngựa chở nặng những cái hộp vuông, được buộc bằng những sợi dây thừng dày. ràng chúng rỗng bởi vì những người Slovak cầm chúng dễ dàng và qua những tiếng vang khi họ cẩu thả lôi chúng .



      Khi lấy hàng xuống hết và chất thành khối lớn góc lớn bãi rào, những người Slovak nhận tiền từ những người Szgany, nhổ nước bọt lên nó để cầu may mắn, chậm chạp quay đầu ngựa. Chỉ lúc sau, tôi nghe tiếng roi ngựa của họ chìm dần và xa khuất.



      Ngày 24 tháng 6:





      Tối qua bá tước từ giã tôi sớm, và tự khóa cửa nhốt mình trong căn phòng của ông ta. Liền đó, tôi bạo dạn chạy ra cầu thang lượn và nhìn ra cửa sổ trông ra hướng Nam. Tôi nghĩ dù sao cũng nên trông chừng bá tước về những gì sắp xảy ra. Những người Szgany tụ tập trong lâu đài và làm số công việc gì đó. Tôi đóan ra được, vì thỉnh thoảng tôi nghe những tiếng động cố che giấu của cuốc và thuổng. Dù nó là cái gì nữa, đó cũng tới tận cùng của kế họach đê hèn tàn nhẫn.





      Tôi đứng tần ngần ở cửa sổ khỏang nữa giờ chợt thấy cái gì đó thò ra ở cửa sổ của bá tước. Tôi nép người lại và quan sát chăm chú, thấy tòan bộ thân người thò ra. Lại cú sốc mới cho tôi khi tôi thấy ông ta mặc bộ quần áo mà tôi mặc khi tới đây, và quàng qua vai ông là cái túi kinh khiếp mà tôi thấy những người phụ nữ kia mang . Tôi còn nghi ngờ gì về mục đích của ông ta khi mặc quần áo của tôi! Đây là kế hoạch độc ác mới của bá tước. Ông ta để cho mọi người nghĩ là họ thấy tôi, tạo ra bằng chứng hiển nhiên là tôi ở trong thị trấn và dân làng chuyển thư cho chính tôi, và rồi bất kỳ những gì độc ác ông ta sắp làm được dân địa phương quy tội cho tôi.





      Điều làm tôi phát điên lên là mọi thứ cứ tiếp tục diễn ra trong khi tôi phải đứng câm nín tại chỗ, làm tù nhân , mà thậm chí còn được bảo vệ hay an ủi bằng bất bất cứ luật pháp nào, thậm chí cả luật pháp dành cho kẻ phạm tội.





      Tôi nghĩ rằng mình nên đợi đến khi bá tước quay về, và tôi kiên trì đứng bên cửa sổ lúc lâu. Chợt tôi bắt đầu nhận ra rằng trong những tia sáng mặt trăng xuất những đốm li ti. Chúng giống như những hạt bụi cực bé, và chúng gom dần lại thành đám mây lờ mờ. Tôi nhìn chúng với cảm giác dễ chịu, và cảm thấy cõi lòng mình thanh thản trở lại. Tôi trườn người ra phía lỗ châu mai, tạo cho


      mình tư thế thoải mái để tận hưởng trò chơi của khí này.





      Chợt tiếng sói tru trầm và thảm thiết vang lên phía xa trong thung lũng, vượt khỏi tầm nhìn của tôi, làm tôi bật dậy. Nó vang lên càng lúc càng lớn trong tai tôi, và đám mây bụi kia chuyển sang những hình dạng khác như thể chúng nhảy múa dưới ánh trăng. Tôi cảm thấy tôi phải đấu tranh dữ dội để chống lại bản năng của chính mình. Tâm hồn xáo trộn, và nữa tri giác của tôi lồng lộn đòi đáp lại lời kêu gọi của tiếng sói tru kia. Tôi bắt đầu bị thôi miên!





      Đám bụi kia nhảy múa càng lúc càng nhanh hơn. Ánh trăng rung lên như muốn đẩy tôi vào cái khối mờ ảo u ám đó. Càng lúc chúng càng tụ lại và định hình dần thành hình dạng lờ mờ của các bóng ma. Tôi chợt chòang tỉnh, phục hồi các giác quan của mình và gào lên tiếng lớn làm rung động cả vùng đất.





      Những bóng ma định hình dần từ những tia sáng trăng kia, chính là những phụ nữ ma quái mà tôi từng chịu đày đọa.





      Tôi chạy cuống cuồng về phòng mình. Tôi cảm thấy đó là nơi an tòan vào lúc này, nơi có những ánh trăng mà chỉ có ngọn đèn để phát ra ánh sáng.





      Vài giờ sau, tôi nghe những tiếng động từ phía phòng bá tước, giống như những tiếng than van rền rĩ bị chặn lại. Rồi tiếp sau đó là khỏang yên lặng sâu lắng, rờn rợn làm tôi ớn lạnh. Với nhịp tim đập thình thịch, tôi thử mở cửa, nhưng nó khóa chặt tù nhân của mình. thể làm gì được nữa, tôi chỉ đơn giản ngồi xuống và gào lên.



      Khi ngồi xuống tôi nghe thấy những tiếng động nào trong vùng đất, ngoại trừ tiếng rền rĩ than van của người phụ nữ. Tôi lao vội về phía cửa sổ, kéo màn lên, nhìn qua các chấn song.





      là có người phụ nữ, đầu tóc rối bù, hai tay giữ chặt tim trong tình trạng mệt lử vì cố chạy. Bà ta với lên góc của cửa chính. Khi nhìn thấy mặt tôi, bà ta ném người tới trước, gào lên với giọng chất đầy đe dọa, "Quát vật, trả lại con cho tao!"





      Bà ta quỵ người đầu gối, đưa tay lên, gào lại câu lần nữa với sắc như bóp nghẹt trái tim của tôi. Rồi bà ta xé tóc, đấm ngực, buông mình vào những hành vi của đau khổ tột cùng. Cuối cùng, bà ta lại phóng người tới. Tôi còn thấy bà ta, như có thể nghe thấy những cánh tay trần của bà đấm thình thịch vào cửa.



      Rồi từ phía cao, có thể là đỉnh tháp, vang lên những tiếng thầm khô khan, cộc cằn của bá tước. Có lẽ tiếng gọi của ông ta được trả lời bởi những tiếng tru dài và rộng của bầy sói. Vài phút sau, đám đông sói xuất , như lũ quỷ địa ngục được dìm lại và bung ra, lao ào ào vào lối lớn vào bờ rào.




      hề có tiếng kêu thét của người phụ nữ, chỉ còn những tiếng tru ngắn của lũ sói. lúc sau, chúng tản và liếm mép.



      Tôi thương hại người đàn bà. Tôi biết với những gì xảy ra cho con bà, bà thà chết còn hơn.




      Tôi làm gì? Tôi có thể làm gì? Làm sao tôi trốn thóat được những điều khủng khiếp của đêm đen, của những điều đen tối và kinh sợ này.





      Ngày 25 tháng 6:





      Nào ai biết được khi con người phải chịu những điều đau khổ từ đêm đen buổi sáng mang lại cho trái tim và mắt ta những cảm xúc ngọt ngào và thân mến như thế nào. Khi mặt trời lên cao vào buổi sáng, đập vào đỉnh của cái cổng chính lớn đối diện với tôi, đốm sáng từ nó chạm vào tôi như sứ giả mang lại những ánh sáng tốt lành. Những nỗi sợ hải của tôi tan thành những lớp vỏ hư ảo của những tia nắng ấm áp.





      Tôi phải hành động dưới khuyến khích của ánh sáng ban ngày rọi mình. Tối hôm qua trong những lá thư đề ngày tháng sẵn của tôi được gửi, bắt đầu cho những kế hoạch đẫm máu xóa sạch mọi dấu vết về tồn tại của tôi trái đất.





      Đừng nghĩ về nó nữa.Hành động thôi!





      Tôi luôn luôn bị quấy rầy bởi những đe dọa nguy hiểm và kinh sợ vào ban đêm. Tôi chưa hề gặp bá tước vào ban ngày. Phải chăng ông ta ngủ trong khi những người khác thức và thức trong khi những người khác ngủ? Nếu tôi có thể vào được phòng ông ta nhỉ! Nhưng thể được. Cửa luôn khóa chặt, vô phương.





      ra, vẩn còn cách, nếu như tôi dám làm. Cái nơi mà ra được liệu người khác cũng có thể làm được hay ? Tôi thấy trườn ra từ cửa sổ. Vậy sao bắt chước mà chui vào cửa sổ của ? Cách này liều , nhưng tôi còn phải liều hơn nữa. Tôi đánh cuộc với nó. Điều tệ nhất là cái chết, nhưng cái chết của con người giống như cái chết của con bê. May ra tôi còn sống lại vào kiếp sau. Chúa giúp cho kế hoạch của tôi! Tạm biệt, Mina, nếu như tôi thất bại. Tạm biệt, những người bạn trung thực và người cha thứ hai của tôi. Tạm biệt tất cả, và sau tất cả là Mina!



      Đêm khuya, cùng ngày. – Tôi cố hết sức, và Chúa giúp tôi trở về phòng mình an tòan. Tôi phải ghi lại chi tiết theo đúng thứ tự. Tôi lấy hết can đảm của mình tiến ra cửa sổ, và bắt đầu leo ra ngòai. Những tảng đá to lớn và lởm chởm, vôi vữa gần như trôi sạch dưới bào mòn của thời gian. Tôi tháo giày, và bắt đầu cuộc mạo hiểm của mình. Tôi liếc nhìn xuống lần, và biết chắc rằng cái nhìn bất chợt thoáng qua nữa khiến cái vực sâu ghê gớm này chiến thắng tôi, và tôi tránh nhìn nó. Tôi xác định được phương hướng và khỏang cách đến chỗ cửa sổ của bá tước khá tốt, và dồn hết mọi sức lực của mình, tận dụng mọi cơ hội có thể có.



      Tôi gần như quá kích động đến nỗi chẳng còn cảm thấy hoa mắt chóng mặt gì nữa, và hình như chỉ lúc sau là tôi đứng ngưỡng cửa sổ của phòng bá tước và cố với lấy khung cửa. Tuy nhiên, tôi cảm thấy vô cùng xúc động , khi tôi cúi xuống và trượt người vào trong cửa sổ. Sau đó tôi nhìn quanh phòng tìm bá tước, và bắt đầu cuộc khai phá với ngạc nhiên và vui mừng khôn tả. Căn phòng trống rỗng! Trong phòng là số vật dụng nghèo nàn, lạ lẫm và có vẻ chưa bao giờ được dùng đến.





      Đồ vật trong phòng ở cùng tình trạng như ở trong căn phòng phía Nam, nghĩa là phủ đầy bụi. Tôi tìm chìa khóa, nó cắm trong ổ khóa, và cũng chẳng thấy nó ở đâu cả. Vật duy nhất tôi tìm thấy là khối vàng khổng lồ chất ở góc, đủ các loại tiền vàng, Ý, , Áo, Hungarian, Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ, bao phủ bởi lớp bụi, hình như nằm ở đây lâu lắm rồi. có loại nào ít hơn ba trăm năm cả. Cũng có các loại tiền đồng, đồ trang sức và nữ trang, nhưng chúng cũ kỹ và phai màu cả.





      Tại góc phòng ở cái cửa lớn, và tôi thử tiếp. Cái mà tôi muốn tìm, là chìa khóa phòng hoặc chìa khóa cửa ngòai đều chưa tìm được, và tôi phải tiếp tục tìm kiếm, hoặc những cố gắng của tôi xem như bỏ . Cửa mở, và dẩn vào lối bằng đá qua cầu thang uốn khúc dần xuống.





      Tôi xuống, cẩn thận từng chút . Tôi cầu thang tăm tối, chỉ soi sáng lờ mờ. Cuối cầu thnag là lối hình ống tối tăm, tỏa ra thứ mùi chết chóc, bệnh hoạn, thứ mùi của những thế giới cổ xưa quay về. Khi tôi qua lối này, cái mùi càng nặng nề và hơn. Cuối cùng tôi đẩy cánh cửa nặng nề hé mở, và vào nhà thờ cổ hoang tàn, mà bây giờ được dùng làm bãi tha ma. Trần nhà bị vỡ, hai mảnh rơi xuống hầm mộ, nhưng nền nhà vừa mới được đào bới mới đây thôi. Giữa lòng đất là những cái hộp lớn bằng gỗ ràng vừa được mang đến bởi những người Slovak.





      có ai ở đây, và tôi cẩn thận dò xét từng inch , sao cho bỏ sót thứ gì. Tôi thậm chí còn cả gan lần xuống hầm mộ, dù ở đây ánh sáng chỉ lờ mờ run rẩy. Tôi vừa kiểm tra vừa run rẩy đến chết khiếp cả người. Ở hai cái mộ đầu tiên tôi chẳng tìm thấy gì đặc biệt, ngòai hai mảnh áo quan vỡ vụn và hàng đống bụi. Tuy nhiên ở cái thứ ba có lẽ tôi tìm thấy những thứ gì đó.



      Ở đây, trong cái hộp lớn, ở đây có đến mười lăm cái tất cả, nằm trong vũng đất mới đào, là bá tước Dracula nằm! có vẻ chết hoặc ngủ. Tôi thể khẳng định được, vì mắt vẩn mở trừng trừng và bất động, nhưng có cái vẻ lạnh giá của cái chết, đôi má ấm nóng dù xanh xao. Môi vẩn dỏ rực như thường lệ. Nhưng chẳng hề có chuyển động nào, mạch, hơi thở, nhịp đập của tim.




      Tôi cúi xuống , thử tìm dấu hiệu nào đó của sống, nhưng vô hiệu. thể nằm đây lâu được, do dấu đất cho thấy là nó mới được đào lên vài giờ trước. Phía mặt kia của cái hộp được đục thủng vài lỗ đây đó. Tôi nghĩ là giữ chìa khóa người, nhưng khi tôi vừa thử lục tìm, những con mắt chết ấy chợt trở nên căm tức, làm cho tôi gần như bất tỉnh. Tôi chạy vội ra khỏi nơi đó, rời khỏi phòng bá tước bằng cửa sổ, trườn trở lại những bờ tường của lâu đài. Trở về phòng mình, tôi buông mình xuống giường và suy nghĩ.



      Ngày 29 tháng 6:



      Hôm nay là ngày đề bức thư cuối cùng của tôi, và bá tước bắt đầu chứng minh xác thực của nó. lần nữa tôi thấy dùng kỹ năng của lòai thằn lằn để leo tường xuống phía dưới, cũng từ cái cửa sổ đó, với bộ quần áo của tôi. Tôi muốn có trong tay cây súng hay loại vũ khí gì đó để tiêu diệt , nhưng tôi sợ rằng vũ khí nào của lòai người có thể làm gì được . Tôi dám đợi trở về, vì sợ gặp những người phụ nữ gớm ghiếc kia. Do đó tôi trở về thư viện, và đọc sách đến khi ngủ thiếp .





      Tôi được đánh thức bởi bá tước, nhìn tôi với vẻ cương quyết mà con người có thể tạo ra được, và . "Tối mai, bạn thân mến, chúng ta phải chia tay rồi. Ngài trở về nước xinh đẹp của ngài, tôi còn số công việc phải giải quyết và có thể là chúng ta còn bao giờ gặp lại nhau. Lá thư của ngài được gửi . Ngài mai tôi có mặt ở đây, nhưng mọi thứ chuẩn bị sẳn sàng cho cuộc hành trình của ngài.



      Ngày mai những người Szgany đến đây, họ có số chuyện phải làm, và sau đó cũng số người Slovak đến. Khi họ , xe ngựa của tôi đưa ngài đến BorPo Pass, ở đó có chuyến xe lửa từ Bukovina Bistriz. Nhưng tôi luôn hy vọng là còn có dịp đón tiếp ngài tại lâu đài Dracula."





      Tôi nghi ngờ , và quyết định kiểm tra thành của . thành ! Điều này làm xúc phạm trái đất này nếu gắn nó cho loại quái vật như , và tôi hỏi với vẻ trống rỗng, "Vì sao tôi ngay tối nay?"




      "Bởi vì, thưa ngài, cỗ xe và ngựa của tôi có chuyện khác phải làm."





      " Tôi bộ, có vấn đề gì. Tôi muốn ngay tức khắc."





      ta mỉm cười, với nụ cười dịu dàng, mềm mại ma quái của , và tôi biết rằng luôn có cạm bẫy náu sau vẻ dịu dàng của . bảo, "Còn hành lý của ngài?"





      "Tôi cần. Nó được gửi đến cho tôi sau."





      Bá tước đứng lên, và với vẻ thành thực ngọt ngào đạt đến nỗi tôi dụi cả mắt mình"Câu của ngài, người , vào tim tôi, và tinh thần của truyền thống hiếu khách của chúng tôi luôn là ‘Chào mừng những người khách đến, đẩy mau những phút phân ly.’ Hãy với tôi, người bạn trẻ thân mến. Chưa đầy giờ nữa ngài sẳn sàng ra từ nhà tôi như ước nguyện của ngài, dù tôi rất buồn về ý muốn đột ngột của ngài. Chúng ta !" Với uy nghiêm bệ vệ, cầm lấy cây đèn, dẩn tôi xuống thang và ngang đại sảnh. Chợt ngừng lại. "Hark!"





      Vọng lại là những tiếng tru của những con sói. Có vẻ như những thanh này lên xuống trầm bỗng theo nhịp tay của , giống như dàn nhạc dưới gậy chỉ huy của nhạc trưởng. Sau thóang im lặng, bước đến cửa, với vẻ trịnh trọng, đẩy cái then cài nặng nề, tháo sợi xích, và bắt đầu mở cửa.





      Trước ngạc nhiên của tôi, cánh cửa được mở khóa. Đầy nghi ngờ, tôi liếc nhìn quanh, nhưng chưa hiểu được điều gì.





      Khi cánh cửa bắt đầu mở, những tiếng kêu của bầy sói càng trở nên lớn và hung dữ hơn. Quai hàm của chúng đỏ rực, răng nghiến trèo trẹo, và những cái chân đầy móng vuốt của chúng chồm tới, hướng về phía cánh cửa mở ra. Đến lúc này tôi biết rằng thể chống lại bá tước. Với những kẻ thừa hành dưới quyền như vậy, tôi thể làm gì được.





      Nhưng cánh cửa vẩn tiếp tục mở ra, và chỉ còn thân người bá tước đứng kẻ hỡ. Bất thình lình tôi chợt nhận ra tình thế kinh hòang của mình. Tôi được đem dâng hiến cho lũ sói, và đó xuất phát từ thúc giục của chính tôi. Lại thêm ý tưởng ác độc ma quái của bá tước, và tôi kêu gào lên với hy vọng cuối cùng, "Đóng cửa lại! Tôi đợi đến sáng mai." Và tôi lấy tay che mặt, để giấu những dòng nước mắt cay đắng của mình.




      Bá tước đóng mạnh cánh cửa lại. Tiếng cái then cài vang rền cả tiền sảnh khi nó được cài trở lại.





      thêm lời, chúng tôi quay trở về thư viện, và sau hoặc hai phút tôi trở về phòng mình. Phút cuối tôi thấy bá tước Dracula gửi cho tôi cái hôn từ tay , mắt đỏ rực lên ánh sáng của chiến thắng, và với nụ cười làm cho Judas dưới địa ngục cũng phải tự hào.





      Khi tôi trở về phòng và nằm xuống, tôi cảm thấy hình như có tiếng thầm ngòai cửa. Tôi rón rén bước đến và lắng nghe. Nếu tai tôi đánh lừa tôi, tôi nghe thấy tiếng bá tước.



      "Trở lại! Trở về chỗ của chúng mày! Thời điểm của tụi mày chưa đến. Hãy đợi ! Phải kiên nhẫn chứ! Tối nay nó là của tao. Tối mai là của mày!"





      Có những chuỗi cười , gờn gợn vang lên, và trong cơn giận dữ, tôi mở tung cửa lao ra. Tôi thấy ba người phụ nữ kinh khiếp kia liếm mép. Thấy tôi, chúng cùng phá lên cười cách kinh dị và chạy .





      Tôi trở về phòng mình, quỳ xuống đầu gối. Chẳng lẽ đến lúc kết cục ư? Ngày mai! Ngày mai! Thiên chúa, xin hãy cứu tôi, và bây giờ tôi chỉ còn ngài thôi!





      Ngày 30 tháng 6:





      Đây có thể là những dòng cuối cùng tôi viết vào nhật ký. Tôi ngủ cho đến lúc gần rạng đông, và khi chòang tỉnh, tôi lại quỳ đầu gối. Tôi muốn làm sao khi Thần Chết tới, thấy tôi sẳn sàng.





      Cuối cùng tôi cảm thấy khí có cái gì đó thay đổi, và biết rằng trời sáng trở lại. Tiếng gà gáy vui vẻ vang lên, và tôi biết mình an tòan. Hết sức vui vẻ, tôi mở cửa và chạy xuống tiền sảnh. Tôi thấy cửa khóa, và lúc này cơ hội trốn thóat trải rộng trước mặt tôi. Với những cánh tay run rẩy và háo hức, tôi tháo xích và đẩy mạnh cái then cài khổng lồ.





      Nhưng cánh cửa chẳng hề nhúc nhích. tuyệt vọng bao phủ tôi.Tôi đẩy và đẩy cánh cửa, lắc nó cho đến khi nào hai cánh cửa chịu trượt ra, bất chấp nặng nề kinh khiếp của nó. Tôi có thể thấy cái móc nơi then cài cửa. Nó được khóa lại sau khi tôi rời khỏi bá tước.



      ham muốn điên dại xui khiến tôi phải lấy được chìa khóa bởi bất kỳ giá nào, và tôi quyết định bò qua bức tường lần nữa, quay về chỗ phòng bá tước. có thể giết tôi, nhưng với ma quỷ, cái chết có lẽ lựa chọn tốt đẹp nhất. phút ngần ngừ tôi lao về phía cửa sổ phía Đông, leo tường xuống phòng bá tước giống như lần trước. Trong phòng có ai. Đó là điều tôi chờ đợi. Tôi thể tìm thấy chìa khóa ở đâu. Đống vàng vẫn như cũ. Tôi qua cánh cửa ở góc phòng và leo xuống cầu thang, qua cái lối tăm tối đến ngôi nhà thờ cổ. Tôi biết đó là nơi có thể tìm ra con quái vật này.





      Cái hộp vẩn ở chỗ cũ, gần bức tường, nhưng được đậy nắp. Chưa đóng lại, nhưng đinh cài sẳn, chỉ còn chờ quai búa.





      Tôi biết tôi phải tìm chìa khóa cơ thể bá tước, vì vậy tôi nâng cái nắp lên và ném nó về phía tường. Và những cái tôi thấy được làm tôi dựng tóc gáy vì kinh hãi. Bá tước nằm đó, nhưng xem ra trẻ lại phân nữa. Mái tóc và bộ râu bạc trắng của bây giờ lốm đốm muối tiêu. Đôi má đầy đặn hơn, và làn da trắng lại ửng màu hồng ngọc. Miệng đỏ hơn bao giờ hết, môi lấm tấm máu tươi, chảy ra từ khóe môi lan xuống cằm và cổ . Thậm chí đôi mắt sâu, rực lửa của bây giờ cũng phồng lên, khóe mắt nọng xuống. Có vẻ như tòan bộ cái sinh vật ghê tởm này chỉ được chứa bằng máu. nằm đó như con đĩa no nê, giải quyết cơn đói bằng phè phỡn.





      Tôi rùng mình khi tôi cúi xuống và chạm vào , và mọi giác quan của tôi như đứt tung với động chạm này, nhưng tôi vẩn phải tiếp tục tìm kiếm, hoặc tôi thất bại. Khi đêm đến cơ thể tôi là buổi tiệc lớn sau cuộc chiến với ba sinh vật kinh khiếp kia. Tôi lục tìm khắp cơ thể bá tước, nhưng thể tìm thấy chìa khóa. nụ cười chế nhạo ra khuôn mặt căng phồng kia làm tôi như phát điên lên. Điều này nghĩa là tôi được gửi về Luân Đôn, và có thể là hàng thế kỷ sau đến, giữa lúc nhúc hàng triệu sinh vật giúp thỏa mãn thèm khát máu tươi, và tiếp tục mãi mãi cái chu kỳ tạo ra những kẻ nữa quái vật sống bất lực lang thang.



      Ý nghĩ này làm tôi như điên như dại. ham muốn tột độ xâm chiếm tôi là quét sạch cái loại ma quỷ này ra khỏi mặt đất. có vũ khí trong tay, tôi tóm lấy cây cuốc mà những người làm dùng để đào đất, nâng cao nó lên, rồi đập mạnh chiều lưỡi vào cái khuôn mặt đáng ghét kia. Nhưng khi tôi quay đầu lại, ánh mắt của bá tước chiếu lên tôi, mắt ánh lên vẻ man dại của lòai rắn. Cái nhìn của làm tôi như tê liệt, cái cuốc rung lên trong tay tôi và chỉ chạm qua mặt , tạo vết trầy sâu trán. Cái cuốc rời khỏi tay tôi, rơi cắt ngang cái hộp. Khi tôi kéo nó ra lưỡi cuốc kéo luôn nắp hộp rơi xuống phủ lại lên hộp, che tôi khỏi cái tia nhìn kinh khủng đó. Cái nhìn cuối cùng tôi nhìn thấy khuôn mặt căng phồng, đầy máu và nhăn nhúm với vẻ gớm ghiếc đáng ra nên giữ chính nó ở tầng địa ngục thấp nhất.



      Tôi suy nghĩ xem mình nên làm gì tiếp theo, nhưng đầu óc tôi như bốc lửa, và tôi chờ đợi với tuyệt vọng hòan tòan. Trong lúc chờ đợi, tôi nghe thấy từ xa bài hát của dân gipsy với những tiếng chúc tụng càng lúc càng đến gần. Và cùng với bài hát của họ là tiếng bánh xe nặng nề quay và tiếng roi quất. Người Szgany và người Slovak mà bá tước đến. Nhìn lần cuối về phía cái hộp chứa cái thân người ma quái kia, tôi chạy ra khỏi chỗ đó và trở về phòng bá tước, quyết định chạy ra ào ra ngay khi cánh cửa vừa được mở. Với đôi tai căng thẳng, tôi nghe thấy tiếng chìa khóa quay cót két ở phía dưới, và cánh cửa lớn kéo sập xuống. Hẳn là còn lối nữa ở phía dưới và có ai đó còn có chìa khóa.





      Khi những tiếng chân nặng nề và chết chóc xa dần, để lại những tiếng động vang rền đường, tôi quay xuống trở lại khu hầm mộ, nơi mà tôi có thể tìm thấy con đường thóat mới, nhưng ngay lúc đó tôi nghe thấy tiếng gió mạnh thổi qua, và cánh cửa dẩn đến cầu thang cuốn đóng sầm lại khiến đám bụi rầm đỡ bay tung lên. Khi tôi chạy đến để đẩy nó ra, niềm hy vọng của tôi nhanh chóng tan biến . lần nữa tôi lại là tù nhân, và cái lưới kinh khủng bao quanh tôi mỗi lúc lại mỗi gần.





      Khi tôi viết những dòng này, ở đường bên dưới tôi nghe thấy nhiều tiếng chân nặng nề, những tiếng va đập mạnh mẽ. nghi ngờ gì nữa, những chiếc hộp được chở với đất bên trong. Rồi có tiếng búa đóng.



      Những chiếc hộp được đóng đanh lại. Bây giờ tôi có thể nghe thấy những tiếng chân nặng nề dọc theo đại sảnh, trong khi có những bước chân thảnh thơi sau họ.





      Cổng được đóng lại, dây xích căng lên. Có tiếng chìa khóa xoay trong ổ khóa. Tôi nghe thấy tiếng chìa khóa rút ra, những cánh cửa khác mở ra và đóng lại. Tôi nghe thấy tiếng khóa cửa và cài then.





      Tôi bây giờ chỉ còn đơn độc trong lâu đài với những người phụ nữ kinh hãi kia. Faugh! Mina cũng là phụ nữ vậy, nhưng giữa họ chẳng có điểm giống nhau nào. Bọn chúng là quỷ sứ từ trong hố chui lên!





      Tôi ở đây mình với chúng. Tôi thử leo qua lâu đài xa hơn những lần tôi từng thử trước đây. Tôi mang theo ít vàng, tôi cần chúng về sau. May ra tôi có thể tìm thấy con đường ra khỏi nơi kinh khiếp này.



      Nào, bây giờ lên đường về nhà! Hãy đến với chuyến xe lửa nhanh nhất và gần nhất! Tránh xa ra khỏi cái nơi đáng nguyền rủa, vùng đất đáng nguyền rủa này, nơi mà quỷ sứ cùng con cái của nó vẩn dạo chơi bằng những bước chân chấm đất!



      Và cuối cùng lòng thương của Chúa vẩn hơn những con quái vật này, còn vách núi sâu và thẳng đứng. Nhưng đó là nơi con người có thể ngủ như con người. Tạm biệt tất cả. Mina ơi!

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :