Bí Mật của Nicholas Flamel Bất Tử (Tập 3: Nữ phù thủy) - Michael Scott(Kỳ ảo)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      [​IMG]

      NỮ PHÙ THỦY

      (Phần 3 của Nicola Famle bất tử)

      Tác giả: Michael Scott

      Nguồn : e-thuvien.com

      Làm prc: Vanlydocnhan

      Lời dẫn

      Giờ tôi thấy mình mệt mỏi, quá sức mệt mỏi.

      Và tôi già rất nhanh. Các khớp xương cứng nhắc, thị lực còn tinh tường và tai phải căng ra mới nghe được. Hơn năm ngày qua tôi buộc phải sử dụng năng lượng của mình, và điều đó làm quá trình già nua của tôi tăng tốc đáng kể. Tính ra tôi già ít nhất cả thập kỷ - có lẽ còn hơn thế - chỉ mới tính từ thứ năm tuần trước. Nếu tôi muốn sống, tôi phải lấy lại kỳ được Cuốn sách của Abraham, và tôi thể - tình là dám - liều lĩnh sử dụng năng lượng của mình nữa.

      Tuy nhiên, Dee giữ cuốn Codex, và tôi biết mai mốt đây, buộc lòng tôi lại phải sử dụng luồng điện dần dần suy yếu của mình nữa rồi.

      Tôi phải làm như vậy thôi, nếu vợ chồng chúng tôi muốn tồn tại.

      Cứ mỗi lần sử dụng năng lượng là mỗi lần tôi tiến gần đến cái chết hơn ... và khi tôi chết , cả Perenelle cũng chết, còn ai đứng lên đấu tranh chống lại Dee và các Elder đen tối nữa hết. Khi chúng tôi chết rồi, thế giới phải gióng lên hồi chuông kết thúc.

      Nhưng chúng tôi chưa chết được đâu.

      Vả lại chúng tôi còn có cặp sinh đôi kia mà. Lần này là cặp sinh đôi , cặp song sinh đúng như huyền thoại với luồng điện tinh khiết vàng và bạc. Chừng nào cặp song sinh này còn sống được, tức là vẫn còn hy vọng.

      Chúng tôi vào London. Tôi sợ thành phố này hơn mọi thành phố khác, vì đó chính là trung tâm quyền lực của Dee. Lần gần đây nhất tôi và Perenelle ở trong thành phố này là tháng Chín năm 1666, tay Pháp sư gần như thiêu rụi thành phố ra đất để cố bắt chúng tôi cho bằng được. Từ ấy đến nay, chúng tôi chưa bao giờ trở lại đây. London thu hút các Elder từ khắp nơi địa cầu: họ quy tụ về thành phố này nhiều hơn bất cứ nơi nào khác trái đất. Ở đây, các Elder, Thế hệ Kế tiếp, và những người bất tử tha hồ di chuyển tự do khắp mọi nẻo đường mà bị ai để ý, và tôi biết ít nhất có đến hơn chục Vương quốc Bóng tối nằm rải rác khắp Quần đảo .

      Những đường năng lượng gặp nhau và cùng đổ về đây, vùng đất của người Celt cổ, nhiều hơn ở bất kỳ đất nước nào khác, và tôi cầu xin rằng với năng lượng được Đánh thức của cặp song sinh, chúng tôi có thể dùng những đường tuyến này để quay trở về San Francisco, quay về với Perenelle của tôi.

      Và nơi đây cũng còn có diện của Vua Gilgamesh, người bất tử già nhất thế giới. Kiến thức của ông hằng hà sa số và có thể sánh ngang với những bộ bách khoa toàn thư. Người ta cho rằng có lần ông từng là người canh giữ cuốn Codex, thậm chí ông còn biết cả Abraham thần thoại, người tạo nên cuốn sách ấy. Truyền thuyết kể rằng Gilgamesh biết tất cả các ma thuật cơ bản - mặc dù, kỳ lạ, ông bao giờ sở hữu năng lượng để sử dụng chúng. Nhà Vua hề có luồng điện. Tôi thường băn khoăn tự hỏi biết điều đó giống như cái gì đây nữa: hiểu quá nhiều thứ đến mức thể tin được, có quyền truy cập kho tàng khôn ngoan thông thái của những người cổ xưa, biết nhiều mật khẩu và thần chú có sức mạnh biến thế giới này thành thiên đường như trước đây... song lại thể sử dụng những thứ ấy.

      Tôi với Sophie và John rằng tôi cần Gilgamesh huấn luyện Pháp thuật Nước cho hai đứa và tìm được đường tuyến đưa chúng tôi về nhà. Nhưng hai đứa hề biết rằng quyết định này canh bạc liều mạng: nếu Nhà Vua từ chối, có nghĩa là chúng tôi bị mắc kẹt ngay giữa lãnh địa của Dee, cách gì trốn thoát được.

      điều nữa tôi cũng chưa cho hai đứa biết, đó là Gilgamesh hết sức, hết sức điên khùng... và lần gần đây nhất khi chúng tôi có dịp gặp nhau, lúc ấy ông ta nghĩ rằng tôi cố giết chết ông ta.

      Trích từ Nhật ký của Nicholas Flamel, Nhà Giả kim

      Viết vào hôm nay, thứ Hai, ngày 4 tháng Sáu,

      tại London, thành phồ của những kẻ thù địch với tôi.​

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Thứ Hai

      Ngày 4 , tháng Sáu

      Chương 1

      Nguồn : e-thuvien.com

      Làm prc: Vanlydocnhan

      "Có lẽ em trông thấy đúng bọn họ rồi".

      Người thanh niên mặc chiếc áo parka (1) màu xanh lục, đứng ngay bên dưới chiếc đồng hồ tròn khổng lồ trong nhà ga St.Pancras, đưa chiếc điện thoại cầm tay ra xa khỏi tai và xem xét tập tin .jpeg lòa nhòa ra màn hình chữ nhật. Tay Pháp sư người gởi tấm hình này hai tiếng đồng hồ trước đây: ghi ngày 04/06, 11h 59 phút 00 giây, màu sắc nhợt nhạt và mờ căm, bức ảnh lấm tấm nhiều hạt này trông giống như được lấy ra từ camera an ninh đặt ở tầm cao khỏi đầu, cho thấy ông già với mái tóc xám cắt ngắn, cùng với hai đứa tuổi thiếu niên, trèo lên chiếc xe lửa.

      Vừa nhón chân, tên thanh niên vừa dõi mắt khắp nhà ga để tìm kiếm bộ ba mà ta vừa thoáng thấy. Trong chốc lát, ta nghĩ chắc mình để lạc mất họ trong đám đông như cám nghiền này, nhưng thậm chí nếu ta có để mất, họ cũng thể xa được: trong những bà chị của ta ở dưới cầu thang: người khác ở ngoài đường phố, canh chừng lối ra vào.

      Bây giờ, ông già và hai đứa thiếu niên kia đâu được nhỉ?

      Cánh mũi , hẹp nở rộng ra khi tên thanh niên cố phân loại giữa biết bao nhiêu thứ mùi trong nhà ga. ta nhận ra và loại bỏ những mùi pha trộn của nhiều nòi giống người, vô số mùi nước hoa và chất khử mùi, dưới dạng chất keo hay sền sệt, mùi dầu mỡ béo ngậy của thức ăn chiên xào bay ra từ các tiệm ăn trong nhà ga, mùi hương đậm đặc của cà phê và mùi đặc trưng của dầu bôi trơn dùng cho động cơ và các toa xe lửa. ta nhắm mắt và ngửa đầu ra sau, hai cánh mũi nở rộng cách khác thường. Mấy mùi hương ta tìm kiếm phải cũ kỹ hơn, hoang dại hơn, phải khác thường...

      Ba!

      Mùi bạc hà: khuấy gợn lên trong thoáng chốc.

      Mùi cam: thoang thoảng hết sức mơ hồ

      Mùi vanilla: quyện vương thành dấu vết vô cùng mờ nhạt

      Giấu đằng sau cặp kính râm hình chữ nhật, đôi đồng tử màu đen ngả xanh lơ của ta giãn rộng ra. ta hít hít trong khí, lần bám theo những mùi hương mỏng manh như những sợi tơ giăng qua khắp nhà ga bao la này. Giờ ta bắt được rồi!

      Người đàn ông đứng tuổi nơi bức hình trong điện thoại sải bước xuống phòng đợi của nhà ga sờ sờ ngay đằng trước ta. Ông mặc quần jeans đen cùng với áo khoác da đầy vết trầy xước, tay trái xách chiếc va li . Và hệt như trong bức ảnh chụp lúc nãy, theo sau ông là hai đứa độ tuổi thiếu niên tóc vàng hoe, đủ giống nhau để được cho là em hay chị em gì đó. Đứa con trai cao hơn đứa con , và cả hai đều đeo ba lô.

      Tên thanh niên lấy điện thoại di động của ta chụp ngay tấm hình và gởi cho Tiến sĩ John Dee. Dù ta có gì ngoài khinh miệt dành cho tay Pháp sư người này, nhưng có lý do gì để ta khiến mình trở thành kẻ thù của ông ta cả. Dee là tay chân của người nhiều quyền chức hơn và chắc chắn là kẻ nguy hiểm nhất trong hết thảy các Elder đen tối.

      Kéo cái mũ parka lên đầu, tên thanh niên quay người khi bộ ba kia tiến sát đến gần bên ta, đồng thời ta bấm số gọi người chị chờ dưới cầu thang: “Dứt khoát là Flamel và cặp sinh đôi rồi”, ta lầm bầm trong điện thoại, bằng thứ tiếng cổ xưa mà sau này rốt cuộc trở thành ngôn ngữ Gael. “Bọn chúng hướng về phía chị đó. Chúng ta bắt trọn ổ khi bọn chúng lên đến đường Euston”.

      Khảy tay đóng nắp điện thoại, tên thanh niên trong chiếc áo parka có mũ trùm bắt đầu cất bước theo sau Nhà Giả kim và cặp sinh đôi người Mỹ. ta di chuyển dễ dàng qua đám đông đầu giờ buổi chiều, trông giống hệt như những cậu thiếu niên khác, tên tuổi và gây chú ý nào trong chiếc quần jeans nhếch nhác, đôi giày mềm mòn vẹt và áo khoác rộng rinh, đầu và mặt ta giấu trong cái mũ trùm, đôi mắt sao thấy được nằm sau cặp kính râm tối thui.

      Mặc dù hình dạng như vậy, nhưng tên thanh niên này bao giờ có mảy may gì là con người. ta và những bà chị của mình đến vùng đất này lần đầu tiên từ khi vùng đất còn dính vào lục địa châu Âu, và trải qua nhiều thế hệ được tôn kính như những vị thần. ta vô cùng phẫn nộ trước việc phải chạy như cờ lông công dưới sai bảo của Dee - cái thứ mà rốt cuộc chẳng có gì hơn là giống người. Nhưng tay Pháp sư người hứa với tên con trai đội mũ trùm chiến lợi phẩm khoái khẩu: Nicholas Flamel, Nhà Giả kim huyền thoại. Chỉ thị của Dee ràng: ta và mấy bà chị có Flamel, nhưng cặp song sinh được đụng tới. Đôi môi mỏng của tên con trai vặn vẹo. Mấy bà chị ta dễ dàng bắt lấy cặp song sinh, trong khi ta có vinh dự ra tay giết chết Flamel. Cái lưỡi đen trũi như than chì của ta phóng ra khỏi khóe miệng, liếm láp cặp môi ngay khi ý tưởng này vừa ập đến. ta và mấy bà chị đánh chén đến hết sạch Nhà Giả kim trong suốt cả mấy tuần liền. Và, tất nhiên, chúng phải để dành những miếng ngon nhất cho Mẹ.

      Nicholas Flamel bước chậm lại để Sophie và Josh bắt kịp ông. Gượng cười, ông chỉ tay vào bức tượng bằng đồng cao đến hơn chín mét bên dưới chiếc đồng hồ, khắc họa cặp nam nữ ôm nhau: “Nó được đặt tên là Nơi Gặp gỡ”, ông lớn, và rồi thêm bằng giọng thầm : “Chúng ta bị theo dõi”. Vẫn mỉm cười, ông nghiêng người vào Josh và lẩm bẩm “ được quay nhìn chung quanh nghe chưa, chỉ nghĩ đến thôi cũng được”.

      “Ai?” Sophie hỏi.

      “Cái gì?” Josh chắc nịch. Cậu cảm thấy buồn nôn và hoa mắt choáng váng; các giác quan vừa mới được Đánh thức của cậu bị các mùi hương và thanh của nhà ga áp đảo dữ dội. cơn nhức đầu nhoi nhói lên từng cơn bên dưới phần xương sọ cậu, còn ánh sáng lại quá gay gắt đến nỗi cậu ước gì mình có được cặp kính râm.

      “Ừ - ‘Cái gì?’ mới là câu hỏi đúng hơn”, Nicholas dứt khoát. Ông giơ ngón tay chỉ lên chiếc đồng hồ, ra vẻ như về nó. “Chú có cái gì ở đây”, ông thú nhận. “ cái gì đó cổ xưa lắm. Chú cảm thấy nó ngay khi vừa bước ra khỏi xe lửa”.

      “Cảm thấy nó?”. Josh hỏi, đầu óc quay cuồng, và càng lúc cậu lại càng thấy lộn xộn khuấy đảo lung tung trong người. Lâu rồi cậu bị cảm giác buồn nôn thế này kể từ lần say nắng ở Hoang mạc Mojave.

      cảm giác râm ran giống như bị ngứa. Luồng điện của chú phản ứng với luồng điện của ai đó - cái gì đó - ở ngay đây, Khi tụi cháu kiểm soát được luồng điện của mình hơn chút nữa, tụi cháu cũng có thể cảm thấy như vậy”.

      Ngửa đầu ra sau, vờ như thể chiêm ngưỡng công trình làm bằng những thanh sắt bắt chéo nhau khoảng trần kết hợp giữa kim loại và kính, Sophie quay người chầm chậm. Đám đông cuộn xoáy quanh bọn họ. Phần lớn có vẻ như người địa phương - những người sống ở ngoại ô vào làm việc trong thành phố - tuy vậy cũng có rất nhiều khách du lịch, nhiều người dừng lại để nhờ bạn bè chụp cho những tấm ảnh đứng trước bức tượng Nơi Gặp gỡ hoặc lấy chiếc đồng hồ khổng lồ làm ảnh nền. Dường như ai có bất cứ chú ý đặc biệt nào đến bé và những người cùng với bé cả.

      “Chúng ta làm gì?” Josh hỏi. Cậu chợt cảm thấy hoang mang sợ hãi. “Cháu có thể đẩy năng lượng của Sophie mạnh lên”, cậu lắp bắp, “giống y như cháu làm ở Paris ấy –”

      ”, Flamel vừa gắt lên, vừa chộp lấy cánh tay Josh bằng những ngón tay cứng như sắt. “Từ nay trở , cháu chỉ có thể dùng năng lượng của mình thuần túy như phương sách bắt buộc cuối cùng thôi. Ngay khi cháu kích hoạt năng lượng của mình, là cháu báo động cho từng Elder, Thế hệ Kế tiếp và người bất tử trong phạm vi bán kính mười sáu kilomét về diện của cháu. Mà ở đây, tại nước này, hầu như mọi người bất tử tụi cháu chạm trán đều là đồng minh của những Elder đen tối. Cũng vậy, trong vùng đất này, năng lượng ấy còn có thể đánh thức những thứ khác nữa, những sinh vật mà tốt nhất là nên để cho chúng ngủ yên”.

      “Nhưng chú chúng ta bị theo dõi mà”, Sophie cãi. “Điều đó có nghĩa là Dee biết chúng ta ở đây rồi còn gì”.

      Flamel đẩy cặp song sinh qua bên trái, rời khỏi bức tượng, hối thúc chúng tiến về phía cửa ra. “Chú hình dung trong mỗi phi trường, cảng biển và ga xe lửa xuyên khắp châu Âu đều có những con mắt quan sát theo dõi. Mặc dù hẳn Dee nghi ngờ chúng ta hướng về London; nhưng ngay khi bất cứ đứa nào trong hai đứa tụi cháu kích hoạt luồng điện của mình, lúc đó mới biết chắc chắn”.

      “Rồi sau đó làm gì ạ?”, Josh vừa hỏi, vừa quay người nhìn Flamel. Trong ánh sáng gay gắt đầu, những đường hằn mới trán Nhà Giả kim và quanh mắt ông sắc nét hẳn.

      Flamel nhún vai: “Ai biết được có khả năng làm tới chuyện gì? rất liều lĩnh, và những con người liều lĩnh thường làm những chuyện kinh khủng. Nhớ lại , ở tuốt nóc nhà thờ Notre Dame. sẵn sàng phá hủy tòa công trình cổ xưa này chỉ để chặn tụi cháu lại... sẵn sàng giết chết tụi cháu để ngăn cho tụi cháu rời Paris”.

      Josh lắc đầu, bối rối: “Nhưng đó mới chính là những gì cháu hiểu nổi - cháu cứ tưởng muốn tụi cháu sống chứ.”

      Flamel thở dài: “Dee là thầy đồng gọi hồn. Đó là thuật rất tởm lợm và kinh khiếp liên quan đến việc khiến cho luồng điện của xác chết hoạt động và làm cho thân xác đó sống trở lại”.

      cơn buốt lạnh lan khắp người Josh khi cậu nghĩ đến điều đó: “Chú bảo giết tụi cháu rồi làm cho tụi cháu sống trở lại sao?”

      “Đúng. Như hành động bắt buộc cuối cùng”. Flamel với tay nhè siết vai cậu con trai. “Tin chú , đó là tồn tại kinh khủng, là cái bóng mờ nhạt nhất của cuộc sống. Và hãy nhớ, Dee trông thấy những gì tụi cháu làm, vì thế bây giờ ý niệm mơ hồ nào đó về năng lượng của hai đứa. Nếu có bất cứ nghi ngờ nào trong đầu tụi cháu có phải là cặp song sinh được nhắc đến trong huyền thoại , những nghi ngờ ấy ắt tan biến hết rồi. phải có được hai đứa tụi cháu. cần tụi cháu”. Nhà Giả kim huých vào ngực Josh. Tiếng giấy kêu sột soạt. Bên dưới lớp áo thun của cậu, trong cái túi vải đeo quanh cổ, Josh mang hai trang sách cậu kịp xé ra khỏi cuốn Codex. “Và, hết thảy mọi thứ khác, phải có được những trang sách đó”.

      Cả nhóm theo mấy tấm bảng chỉ dẫn để đến lối ra bên phía đường Euston và cuốn theo dòng người ở ngoại ô vào thành phố làm việc cũng xuôi về cùng chiều: “Cháu tưởng chú có người nào đó đến gặp chúng ta chứ ạ”. Sophie vừa , vừa nhìn quanh.

      “Saint - Germain cậu ấy cố bắt liên lạc với người bạn cũ”, Flamel lầm bầm. “Có thể là cậu ấy liên lạc được”.

      Họ bước ra khỏi nhà ga lát gạch đỏ được trang trí công phu để lên đường Euston và chợt đứng sựng lại vì ngạc nhiên. Khi họ rời Paris chỉ mới cách đây hai tiếng rưỡi, khắp bầu trời gợn chút mây, nhiệt độ lên đến khoảng hai mươi mốt độ Celcius; nhưng ở London cảm giác như ít nhất phải lạnh hơn như thế đến mười độ, mà trời lại mưa dữ dội. Gió quật xuống đường từng cơn như những ngọn roi vun vút đủ lạnh để làm cặp sinh đôi run lập cập. Chúng quay người chúi đầu trở lại vào mái che của nhà ga.

      Và đó chính là lúc Sophie nhìn thấy ta.

      tên con trai mặc parka màu xanh lục, mũ kéo trùm đầu”, bé chợt , quay người sang Nicholas và tập trung hết sức vào đôi mắt nhàn nhạt của ông. bé biết rằng nếu nhìn chỗ khác, mình vô tình lướt phải người thanh niên vội vã theo sau. bé vẫn có thể nhìn thấy ta nơi khóe mắt. ta loanh quanh gần thân cột, nhìn chằm chằm vào chiếc điện thoại di động trong tay, nghịch vớ vẩn gì đó. Có cái gì ổn trong cách ta đứng. cái gì tự nhiên. Và bé nghĩ mình bắt được thoáng trong khí thứ mùi hôi thối cua thịt ươn. bé nhăn mũi. Nhắm mắt lại, bé tập trung vào mùi ấy. “Nghe như thứ gì thối rữa, giống như xác thú bị cán chết đường ấy.”

      Nụ cười gương mặt Nhà Giả kim căng ra. “Trùm cái mũ hả? Đúng rồi, đó là người theo dõi chúng ta”. Cặp sinh đôi bắt gặp chút run run rất trong tiếng của ông.

      “Chỉ có điều phải con trai, phải vậy chú?” Sophie hỏi.

      Nicholas lắc đầu: “Gần giống thôi cũng ”.

      Josh hít hơi sâu: “Vậy , chú có muốn cháu với chú là bây giờ có hai người nữa cũng mặc parka màu xanh lục có mũ trùm đầu, và cả hai đều hướng cùng chiều với chúng ta ?”

      “Ba tên lận hả?”, Flamel thào với vẻ đầy khiếp sợ. “Mình phải thôi”. Túm lấy cánh tay cặp sinh đôi, ông kéo chúng dấn vào cơn mưa tuyết, rẽ sang phải và lôi chúng xuống phố.

      Cơn mưa quá lạnh đến nỗi làm Josh thở được. Nước như những viên đạn cứng ngắc châm chích vào mặt cậu. Cuối cùng, Flamel kéo cả hai đứa vào con hẻm, thoát khỏi cơn mưa dội xuống như trút. Josh đứng lấy lại hơi thở. Cậu vuốt ngược tóc ra khỏi mắt và nhìn Nhà Giả kim. “Bọn chúng là ai vậy chú?”, cậu gặng hỏi.

      “Bọn Trùm Đầu”, Nhà Giả kim với vẻ bực bội. “Dee liều lĩnh hết sức, và nếu có thể ra lệnh được cho chúng quả là quyền lực hơn chú nghĩ. Chúng là Genii Cucullati”.

      “Tuyệt”, Josh . “Bây nhiêu đó đủ cho cháu mọi chuyện cháu cần biết”. Cậu nhìn chị . “Chị có từng nghe ...”, vừa mới mở lời, cậu nín bặt ngay khi trông thấy vẻ mặt bé. “Chị biết rồi sao?”

      Sophie run bắn người khi ký ức của Bà Phù thủy Endor chợt lung linh nơi bờ rìa tâm thức mình. bé cảm thấy có cái gì chua lét đằng sau cổ họng, và dạ dày xoắn vặn đầy kinh tởm. Bà Phù thủy Endor biết Genii Cucullati - và bà ấy ghét chúng ghê gớm. Sophie quay người sang cậu em trai và giải thích. “Bọn ăn thịt người”.

      (1): Áo ấm dài tới đùi hoặc đầu gối, có mũ trùm đầu, thường lót da lông thú bên trong.

      Chương 2

      Nguồn : e-thuvien.com

      Làm prc: Vanlydocnhan

      Đường phố trống trơn, cơn gió giật kèm với mưa tuyết lùa mọi người vào nhà ga hay các cửa hiệu chung quanh. Lưu thông đường Euston dừng lại hết, chỉ còn mấy cái cần gạt nước ở kính chắn gió xe hơi là đập vỗ điên cuồng. Những tiếng còi hụ inh ỏi, và thiết bị báo động trong chiếc xe hơi gần đó chợt gào rú lên.

      “Bám sát chú”, Nicholas ra lệnh, rồi quay người lao thẳng qua bên kia đường, len lỏi xuyên qua hàng xe cộ đứng cứng ngắc. Sophie theo sát đằng sau ông. Josh ngừng lại chút trước khhi bước khỏi lề đường, nhìn ngược lại phía nhà ga. Ba hình dáng kia tụ lại với nhau nơi lối vào, đầu và mặt chúng giấu trong mũ trùm của mấy chiếc áo khoác. Khi làn nước mưa nhuộm những chiếc parka của chúng thành màu xanh lá tối sẫm, Josh ắt hẳn có thể khẳng định rằng bọn chúng vừa khoác lên người những chiếc áo choàng tay. Cậu run lẩy bẩy, và lần này cơn lạnh cóng chỉ đến từ cơn mưa tê buốt xối xả ầm ào tuôn xuống như trút. Cậu quay người lao vọt sang bên kia đường.

      Chúi đầu xuống tránh nước mưa tạt, Nicholas dẫn hai đứa trẻ song sinh giữa làn xe cộ. “Nhanh lên. Nếu tạo được khoảng cách vừa đủ giữa ta với chúng mùi của xe cộ và nước mưa có thể gột sạch được mùi hương của chúng ta đó”.

      Sophie liếc nhìn ra đằng sau. Ba tên trùm mũ rời khỏi chỗ trú mưa nơi nhà ga và tiến đến gần khá nhanh. “ Bọn chúng ở sau mình kìa”, hổn hển, giọng hốt hoảng.

      “Mình làm cái gì bây giờ chú?”, Josh hỏi.

      biết nữa”, Flamel gọn ơ. Ông nhìn chăm chăm xuống con đường dài thẳng tắp. “Nhưng nếu ở lại đây, chúng ta chết mất. Hoặc ít nhất cũng là chú”. Hàm răng ông lóe sáng khi ông nhoẻn cười chút đùa cợt. “Dee vẫn để cả hai đứa tụi cháu sống, chú bảo đảm”. Flamel liếc nhìn quanh, rồi chợt thấy con hẻm phía bên trái và ra hiệu cho hai đứa sinh đôi theo ông. “Đường này. Chúng ta cố cắt đuôi chúng”.

      “Cháu ước gì có Scatty ở đây”, Josh lầm bầm, nhận ra tầm quan trọng trong nỗi mất mát của họ. “Thế nào chị ấy cũng trị được bọn chúng”.

      Trời tạnh ráo trong con hẻm hẹp có tường cao ngút hai bên. Những thùng rác nhựa màu xanh lơ, xanh lá, và nâu xếp thành hàng sát vào bên tường, còn những mảnh gỗ thừa thẹo còn lại của mấy tấm nâng hàng và những túi nhựa đen thui nhét rác căng cứng chất thành đống dựa vào bên bờ tường còn lại. Mùi hôi thối xông lên, và con mèo lông bù xù ngồi miệng túi rác cẩn thận lấy móng vuốt xé túi rác ra. Thậm chí con mèo còn thèm ngẩng lên nhìn khi Flamel và cặp song sinh chạy ngang qua. Tuy vậy, chỉ tích tắc sau, khi cả ba dáng người đội mũ trùm đầu bước vào con hẻm, con mèo ấy liền gò cái lưng cong vòng, lông dựng đứng, và biến mất dạng vào vùng tối.

      “Chú có biết con hẻm này dẫn đâu ạ?”, Josh hỏi khi họ phóng vụt qua dãy cửa ra vào bên tay trái, ràng đó là lối sau dẫn vào những cửa hiệu buôn bán con đường chính.

      biết gì hết trơn”, Flamel thú nhận. “Nhưng miễn là nó mang chúng ta xa khỏi Bọn Trùm Đầu, còn mọi chuyện đều quan trọng”.

      Sophie nhìn lui. “Cháu thấy chúng nữa”, bé loan báo. “Có lẽ chúng ta cắt đuôi được chúng rồi”. bé bám theo Nicholas vòng quanh góc phố sát đến nỗi chỉ chực đâm thẳng vào ông khi ông đột ngột dừng lại.

      Rồi đến lượt Josh vòng quanh góc phố ấy, suýt chút nữa mất dấu hai người kia. “Cứ thôi”, cậu vừa thở hổn hển, vừa chạy lắt léo vượt qua hai người và dẫn đầu. Nhưng rồi cậu chợt hiểu ra tại sao hai người kia dừng lại: con hẻm tận cùng bằng bức tường gạch đỏ quạch sừng sững, mút đầu bờ tường là mớ dây kẽm gai quấn lòng vòng.

      Nhà Giả kim xoay người lại và đặt ngón tay lên môi. “Đừng gì cả. Biết đâu có thể là bọn chúng xúm nhau băng qua con hẻm này mất rồi...”. cơn gió mạnh cuốn những giọt mưa lạnh lẽo rơi lộp độp xuống đất mang theo thứ mùi ôi thiu thum thủm khác thường: mùi hôi thối của thịt ươn. “Mà cũng có thể là ”, ông thêm khi cả ba tên Genii Cucullati nhún nhảy nhè vòng quanh góc phố ấy. Nicholas kéo hai đứa sinh đôi ra phía sau ông, nhưng ngay lập tức hai đứa bung ra chọn lấy hai vị trí bên cạnh ông. Theo bản năng, Sophie di chuyển sang bên phải và Josh bên trái. “Đứng vào sau lưng ấy chứ”, Flamel .

      ”, Josh .

      “Tụi cháu để chú mình đương đầu với ba tên này đâu”, Sophie thêm.

      Bọn Trùm Đầu chậm lại, rồi dàn ra chốt lấy con hẻm và dừng hẳn lại. Chúng đứng yên cách khác thường, mặt giấu trong mấy cái mũ trùm rộng rinh.

      “Chúng chờ đợi cái gì vậy cà?”, Josh lẩm bẩm, giọng cậu chỉ vừa vặn lớn hơn tiếng thầm chút. Có cái gì đó trong cách chúng đứng, cách chúng giữ thẳng người: cái gì đó gợi cho người ta nghĩ đến loài thú. Cậu từng xem bộ phim tài liệu trong chương trình truyền hình National Geographic, trong đó, chú cá sấu châu Mỹ nằm con sông chờ hươu nai băng qua. Hoàn toàn trong trạng thái lặng im phăng phắc - mãi cho đến khi có cơ hội nổ bùng ra thành hành động chớp nhoáng.

      Đột nhiên, thanh nghe như tiếng gỗ lách tách bật tiếng kêu răng rắc cực kỳ lớn vang khắp con hẻm yên ắng, theo sau là những thanh như thể tiếng quần áo bị xé toạc ra.

      “Chúng biến hình”, Sophie thở dồn dập.

      Bên dưới lớp áo khoác màu xanh lục, cơ bắp của chúng dợn sóng cuồn cuộn và co thắt từng cơn, uốn cong cột xương sống của những sinh vật ấy thành hình vòng cung, đẩy đầu chúng nhô hẳn tới phía trước. Những cánh tay vụt dài ra thấy , đẩy bàn tay thò khỏi ống tay áo vốn dài quá khổ, những bàn tay bây giờ mọc đầy lông lá và mút cuối là những móng vuốt đen đủi quăn chĩa lung tung.

      “Sói à?”, Josh hỏi giọng run run.

      “Giống gấu hơn là sói”, Nicholas vừa trả lời nhè , vừa nhìn quanh con hẻm khắp lượt, đôi mắt ông nheo lại. “Và nhiều chất sói hơn gấu”, ông thêm khi nghe thoảng trong khí mùi hương vanilla.

      “Và gì đe dọa được chúng ta”, Sophie tuyên bố, đồng thời vụt đứng thẳng người hơn. Giơ bàn tay phải lên cao, bé ấn ngón cái tay trái vào vòng tròn màu vàng ánh kim ăn sâu vào da thịt nơi cổ tay mình.

      ”, Nicholas vừa gắt lên, vừa đưa tay đẩy bàn tay xuống. “Chú với cháu rồi, cháu thể dùng năng lượng của mình trong thành phố này kia mà. Luồng điện của cháu quá đặc biệt ”.

      Sophie lắc đầu phẫn nộ: “Cháu biết mấy thứ này là gì mà”, chắc nịch. Rồi cơn rùng mình len vào giọng bé. “Cháu biết chúng làm gì nữa kìa. Chú thể mong đợi tụi cháu chỉ đứng yên đây trong khi mấy thứ đó ăn thịt chú được. Hãy để cháu xử lý bọn chúng - cháu có thể nướng bọn chúng thành lát khoai tây giòn rụm cho xem”. Cơn giận dữ của bé nhanh chóng biến thành nỗi phấn khích trước viễn cảnh đó, và mím môi cười. Trong thoáng chốc đôi mắt sáng màu xanh lơ của bé lấp lánh bạc còn khuôn mặt lại hóa nên cứng cỏi và góc cạnh, khiến bé trông già hơn rất nhiều so với tuổi mười lăm của mình.

      Nụ cười của Nhà Giả kim tàn nhẫn: “Cháu có thể làm điều đó. Và đến lúc ấy, chú ngờ rằng chúng ta chỉ kịp chạy xuống đường chừng hơn cây số rưỡi có thứ gì đó còn chết người hơn những sinh vật này bắt được chúng ta. Cháu ý thức nổi những gì dạo qua dạo lại những đường phố này đâu, Sophie. Chú xử lý chuyện này được mà”, ông cứ nằng nặc. “Chú đến nỗi hoàn toàn có khả năng tự vệ đâu”.

      “Bọn chúng sắp tấn công kìa”, Josh gấp gáp, diễn dịch lại ngôn ngữ thân thể của đám sinh vật, quan sát xem chúng di chuyển thành kiểu mẫu đột kích như thế nào. Đâu đó sâu tận trong tâm thức, cậu bắt gặp mình băn khoăn tự hỏi biết làm thế nào mà cậu lại biết được điều này. “Nếu bạn sắp sửa làm việc, bạn cần phải làm việc đó ngay bây giờ”.

      Bọn Genii Cucullati dàn quân ra, mỗi con đóng giữ vị trí trước Flamel và cặp song sinh. Các sinh vật này gập người tới trước, lưng chúng uốn cong vòng, mấy chiếc áo parka căng cứng bó qua những bộ ngực rộng, vai u phồng và những cánh tay đầy cơ bắp. Trong vùng tối của mấy cái mũ trùm, những cặp mắt đen ngả xanh lơ chiếu sáng rực phía hàm răng lởm chởm. Chúng chuyện với nhau bằng thứ thanh hệt như những tiếng ăng ẳng the thé và gầm gừ cẳn nhẳn.

      Nicholas vén ống tay áo khoác da lên, để lộ ra quanh cổ tay phải của ông chiếc vòng mắt xích bằng bạc và hai chiếc vòng tay tình bạn đơn giản làm bằng chỉ sợi nhiều màu cũ sờn. Vặn tháo trong hai chiếc vòng kết bằng sợi đơn giản ấy, ông lăn tròn nó giữa lòng bàn tay mình, đưa lên môi và thổi phù vào đó.

      Sophie và Josh chăm chú nhìn ông quăng chiếc vòng bằng chỉ cuộn lại như trái banh xuống đất ngay trước mặt Bọn Trùm Đầu. Hai đứa trông thấy những sợi dây đủ màu sắc ấy rơi vào vũng bùn ngay trước mặt sinh vật lớn nhất trong đám và dốc hết tâm trí đón chờ cú nổ. Thậm chí cả những sinh vật kinh khiếp kia cũng bò lùi khỏi vũng nước ấy, móng vuốt trượt vỉa hè.

      Ấy vậy mà chẳng có chuyện gì xảy ra cả.

      Con vật to lớn nhất kia phát ra thứ thanh có lẽ là tiếng cười.

      “Cháu tụi cháu phái ra tay kia mà”, Josh đầy thách thức, dù trước thất bại của Nhà Giả kim, cậu thấy mình cũng hơi bị run. Cậu từng trông thấy Flamel ném ra những ngọn giáo năng lượng thuần khiết, từng chăm chú nhìn ông tạo ra khu rừng từ lớp gỗ lót sàn - bây giờ cậu kỳ vọng được chiêm ngưỡng pha ngoạn mục. Josh liếc nhìn chị và biết rằng bé cũng nghĩ đúng như cậu. Cùng với thể trạng ngày càng già yếu của Flamel, năng lượng ông cũng mất dần. Josh gật đầu rất và thấy đầu Sophie cũng nghiêng nghiêng đáp trả, rồi bé cong gập mấy ngón tay mình lại. “Chú Nicholas, chú trông thấy tụi cháu làm gì với bọn đầu máng xối gargoyle rồi đó”, Josh tiếp, tin chắc về năng lượng của chị và của chính mình. “Cùng nhau, cháu và Sophie có thể chống cự bất kỳ ai ... và bất kỳ thứ gì”.

      “Ranh giới giữa lòng tự tin và tính kiêu căng ngạo mạn rất mỏng manh, Josh”, Flamel khẽ. “Và ranh giới giữa tính cao ngạo với ngu dại ngớ ngẩn thậm chí còn tinh vi hơn, Sophie ạ”, ông thêm mà hề nhìn vào bé. “Nếu tụi cháu sử dụng năng lượng của mình, tức là tụi cháu buộc tất cả chúng ta vào bản án tử hình”.

      Josh lắc đầu. Cậu rất phẫn nộ trước yếu đuối quá lộ liễu của Flamel. Bước tách khỏi người đàn ông luống tuổi, cậu gỡ ba lô của mình xuống và giật mạnh cho nó mở bung ra. Ló lên khỏi bên ba lô là cái ống làm bằng giấy bồi, thường dùng để đựng tranh poster và bản đò cuộn lại. Bóc toạc cái nắp nhựa màu trắng ra, cậu thò tay vào, túm lấy vật ở bên trong được gói bằng giấy bao ép bong bóng và kéo nó ra.

      “Chú Nicholas...”, Sophie cất tiếng.

      “Kiên nhẫn”, Flamel thầm “Kiên nhẫn nào...”

      Con vật to lớn nhất trong Bọn Trùm Đầu thả xuống cả bốn chân và bước tới, những cái vuốt có móng dài bẩn thỉu gõ lách cách vỉa hè. “Ông được tặng cho tôi”, con thú dữ bằng giọng cao éo the thé đến mức đáng kinh ngạc - gần như giọng trẻ con.

      “Dee là hào phóng”, Flamel điềm tĩnh . “Tuy tôi có hơi ngạc nhiên hiểu sao giống loài Genii Cucullati lại hạ cố làm tay sai cho nòi giống người vậy nhỉ”.

      Sinh vật ấy dấn thêm bước lách cách tiến đến gần hơn. “Dee đâu phải là con người thường tình. Tay Pháp sư Bất tử này rất nguy hiểm, mà ông ta lại được bao che bảo vệ bởi chủ nhân có rất nhiều quyền sinh sát trong tay hay còn hơn thế nữa”.

      “Có lẽ nên sợ tôi mới phải”, Flamel gợi ý cùng với nụ cười rất . “Tôi còn già hơn cả Dee, và tôi hề có chủ nhân nào bảo vệ - mà tôi cũng chưa từng cần đến người nào bảo vệ cả!”

      Sinh vật phá ra cười và rồi, hề có động tác báo trước, nhảy xổ thẳng vào cổ họng Flamel.

      thanh kiếm đá rít lên xuyên màn khí, lạng cái mũ trùm của chiếc áo parka nhát gọn lỏn, ngọt xớt cắt đứt lìa miếng vải màu xanh lá. Sinh vật ấy hét lên thất thanh và uốn éo toàn thân giữa trung, cuộn người tránh khỏi lưỡi kiếm vung trở lại, lưỡi kiếm chém thẳng ra đằng trước chiếc áo khoác, phạt ngang mấy hột nút và bứt banh luôn dây khóa kéo.

      Josh Newman bước thẳng tới phía trước Nicholas. Bằng cả hai tay, cậu cầm thanh kiếm đá vừa rút ra khỏi cái ống làm từ giấy bồi. “Tôi biết mấy người là ai, hoặc là cái gì”, cậu qua hàm răng khít rịt, tiếng rung rung do hormon adrenaline tiết ra cùng với nỗ lực giữ chắc món vũ khí. “Nhưng tôi cho rằng chắc mấy người đều biết đây là gì rồi chứ?”

      Con thú dữ quay người trở lại, đôi mắt màu đen ngả xanh lơ dán chặt vào lưỡi kiếm xám xịt như đất sét. Cái mũ trùm thường dùng để giấu mặt biến đâu mất, do bị cắt ra thành từng mảng rách tả tơi, những mảnh còn lại treo lủng lẳng quanh vai nó, để lộ nguyên phần đầu. có gì là của con người nơi những chỗ bằng phẳng và góc cạnh của bộ mặt ấy, thậm chí chút cũng . Josh lưu ý thấy vậy, nhưng khuôn mặt lại xinh đẹp cách lạ lùng. Cậu tưởng mình phải nhìn thấy con quỷ, nhưng cái đầu này đến ngạc nhiên, với cặp mắt lớn màu tối sẫm chìm sâu trong gợn chân mày hẹp, xương gò má nhô cao và nhọn. Chiếc mũi thẳng, cánh mũi loe ra. Phần miệng là đường xẻ nằm ngang bây giờ hơi mở hé để lộ hàm răng vàng vàng đen đen méo mó chẳng ra hình thù gì.

      Ánh mắt Josh đảo sang trái rồi sang phải nhìn vào hai sinh vật kia. Bọn chúng cũng tập trung hết sức vào thanh kiếm đá. “Đây là thanh Clarent”, cậu . “Tôi chiến đấu với Nidhogg ở Paris bằng chính vũ khí này đây”, cậu tiếp. “Và tôi từng trông thấy những gì nó làm cho giống loài của các người”. Cậu di chuyển thanh kiếm nhè và có cảm giác như nó kêu ù ù, chuôi kiếm bỗng nghe ấm trong đôi tay cậu.

      “Dee chưa hề với chúng tôi chuyện này”, sinh vật kia bằng giọng hệt như tiếng trẻ con. Qua vai Josh, nó nhìn đến Nhà Giả kim. “ vậy chứ?”

      ”, Flamel .

      “Nidhogg”, sinh vật này hầu như lập bập ra từng lời. “Và chuyện gì xảy ra cho Kẻ Nuốt chửng Tử thi huyền thoại ấy?”

      “Nidhogg chết rồi”, Flamel ngắn gọn. “Bị thanh Clarent tiêu diệt”. Ông bước ra phía trước và đặt bàn tay trái lên vai Josh. “Josh giết chết thứ đó”.

      “Bị giết chết dưới tay giống người ư?” nó đầy vẻ ngờ vực.

      “Dee lợi dụng , lừa dối phản bội . với các rằng chúng tôi có thanh kiếm này. còn chưa với các những điều gì khác nữa chứ: có nhắc đến số phận của bọn Disir ở Paris ? có kể qua cho các nghe về vị Thần Ngủ chưa nào?”

      Cả ba sinh vật trượt lùi trở lại cùng với thứ ngôn ngữ riêng của chúng, kêu ăng ẳng the thé và gầm gừ càu nhàu gì đó giữa chúng với nhau; rồi con to lớn nhất quay ra chăm chú nhìn Josh lần nữa. Cái lưỡi đen thui nhảy múa trong khí. “Những thứ này chỉ mang lại chút kết quả chẳng đáng là bao. Ta thấy đứng trước ta là đứa con trai thuộc giống người rất sợ hãi. Ta có thể nghe được những cơ bắp của cậu bé con căng ra khi cố gắng hết sức mình giữ cho thanh kiếm được vững chắc. Ta có thể cảm nếm nỗi sợ hãi lan tỏa trong khí”.

      “Vậy đó, nhưng dù có thể ngửi thấy được nỗi sợ hãi đó, cậu ấy vẫn tấn công kìa”, Flamel . “Điều đó có gợi ra được chút gì ?”

      Đôi vai của sinh vật đó chuyển động theo kiểu rùng mình rất kỳ quặc. “Gợi cho người ta thấy rằng cậu bé ấy hoặc là tên ngu ngốc dại dột hoặc là hùng”.

      “Và cùng với giống loài của luôn luôn bị tổn thương bởi cả hai loại người đó”, Flamel .

      “Đúng, nhưng thế giới này còn hùng nữa rồi. còn ai để tấn công chúng tôi. Loài người còn lòng tin dành cho giống loài của chúng tôi. Điều đó khiến chúng tôi trở thành vô hình và thể bị tổn thương được”.

      Josh và làu bàu vừa dựng mũi kiếm lên trời. “Đối với Clarent ”.

      Sinh vật đó nghiêng nghiêng đầu rồi gật gù. “Đối với Lưỡi kiếm Hèn nhát , đúng vậy. Nhưng chúng ta có ba người và chúng ta nhanh nhẹn, rất nhanh nhẹn”, nó thêm cùng với nụ cười rộng đến mang tai phơi bày ra hàm răng nhọn hoắt lởm chởm. “Ta nghĩ chúng ta có thể bắt được cậu, cậu bé trai ạ; tước lấy thanh kiếm khỏi tay cậu thậm chí còn trước cả khi cậu biết là...”

      Bản năng Josh sở hữu mà cậu hề biết mách bảo với cậu rằng sinh vật đó sắp sửa tấn công đúng ngay vào lúc nó vừa xong. Rồi tất cả chấm dứt. suy nghĩ gì cả, cậu thọc mạnh thanh kiếm ra theo cú đâm Joan Arc dạy cậu. Lưỡi kiếm kêu o o khi đầu mũi đâm thẳng vào cổ họng giương ra của con quái thú. Josh biết rằng tất cả những gì cậu cần phải làm là xóa tan nỗi sợ hãi bằng chính thanh kiếm này: chỉ cú duy nhất hầu như tiêu diệt được Nidhogg.

      Cười phá lên, sinh vật ấy nhảy lùi xa khỏi tầm kiếm đâm chĩa tới. “Quá chậm mất rồi, giống người ơi, chậm quá thôi. Mắt ta bắt chộp được mấy khớp đốt ngón tay của cậu căng ra và trắng bệch ngay trước khi cậu đâm đấy”.

      Và đúng giây phút đó Josh biết phe của cậu thua. Bọn Genii Cucullati quả là cực kỳ nhanh nhẹn.

      Nhưng ở phía vai trái mình, cậu nghe tiếng Flamel khúc khích cười.

      Josh trừng trừng nhìn thẳng vào sinh vật ấy. Cậu biết rằng điều cuối cùng cậu có thể làm là xoay người, nhưng cậu băn khoăn tự hỏi biết chuyện gì lại làm cho Nhà Giả kim vui vẻ như vậy chứ. Cậu nhìn sát vào Kẻ Trùm Đầu kia. Nhưng đâu có gì thay đổi... ngoại trừ việc là khi con quái vật ấy nhảy lùi khỏi tầm kiếm, dẫm chân vào vũng nước bẩn khi nãy.

      “Nỗi sợ hãi làm ông phát điên rồi hả, Nhà Giả kim?”, sinh vật ấy hỏi gằn.

      “Hẳn nhiên là biết Elder Iris chứ, con của Electra ấy?”, Flamel vừa hỏi như thể chuyện trò, vừa bước quành qua người Josh. Khuôn mặt hẹp của Nhà Giả kim bỗng đanh lại, hề biểu cảm, môi ông mỏng dính như đường kẻ, đôi mắt nhàn nhạt khép ti hí chỉ nhỉnh hơn hai đường rãnh chút.

      Đôi mắt màu đen ngả sang xanh lơ của sinh vật kia trợn trừng đầy vẻ khiếp đảm. Nó cúi nhìn xuống.

      Nước bẩn cuộn xoáy quanh bàn chân nó thình lình nở bung ra như khoảnh cầu vồng đầy màu sắc tràn cả ra ngoài những tao dây tả tơi của chiếc vòng tay đan kết bằng chỉ của Flamel. Tên Genii Cucullati cố nhảy lùi lại, nhưng hai chân trước của nó nhanh chóng dính chặt vào vũng nước. “Thả tôi ra, giống người kia”, nó thét lên thất thanh, cung giọng cao ré như trẻ con của nó chứa đầy nỗi khiếp đảm. Sinh vật ấy điên cuồng cố giật người thoát khỏi đó. Ấn sâu những móng vuốt xuống, nó cố vận dụng lực kéo, nhưng mút đầu cái cẳng chân sau của nó chạm phải rìa vũng nước và lần nữa nó lại gào rú tru tréo lên. Nó giật mạnh cái chân trở lại và cái móng quăn tớn bị bóc toạc ra, dính cứng vào rìa vũng nước kia. Con vật sủa ran và hai tên đồng hành cùng lao mình tới trước túm đỡ giữ nó lại, cố sức kéo nó ra khỏi thứ chất lỏng đầy màu sắc uốn éo xoáy vặn.

      “Nhiều thập kỷ trước đây”, Flamel tiếp, “tôi và Penerelle giải cứu Iris khỏi mấy người chị của bà ấy và để đáp lại, bà ấy tặng tôi những chiếc vòng này. Tôi chăm chú quan sát trong lúc bà ấy đan kết chúng từ luồng điện có màu sắc cầu vồng của bà. Bà bảo tôi rằng ngày nào đó chúng mang lại chút sắc màu cho cuộc sống của tôi”.

      Những luồng nước xoáy đủ màu xoắn vặn bắt đầu bò trườn lên cẳng chân tên Genii Cucullati. Những móng chân màu đen bỗng hóa thành màu xanh lá, rồi đỏ, rồi lớp lông màu tím rịm bẩn thỉu biến đổi thành màu tim tím phớt xanh mờ mờ lung linh.

      “Ông chết vì chuyện này”, sinh vật ấy gầm gừ cẳn nhẳn, thậm chí còn cất giọng eo éo với cung giọng cao hơn trước nữa, đôi mắt xanh lơ sáng quắc mở lớn vì khiếp sợ.

      ngày nào đó tôi chết”, Flamel đồng ý, “nhưng phải hôm nay, và càng phải chết bởi tay ”.

      “Ông cứ chờ đó cho tới khi tôi méc với Mẹ!”

      cứ việc”.

      tiếng nổ bốp vang lên, nghe như tiếng bong bóng vỡ, và đột nhiên những dải màu sắc cầu vồng vọt thẳng lên thân hình con quái thú, đẫm mình nó trong ánh sáng. Ngay chỗ hai tên kia nắm giữ nó, màu sắc loang ra đến tận mấy cái móng vuốt và thấm lên khắp lớp da chúng, biến những chiếc áo parka màu xanh lá thành những chiếc áo khoác đầy màu sắc đẹp mắt. Như thể vết dầu loang mặt nước, màu sắc kia biến chuyển thành nhiều kiểu mẫu hoa văn đầy mê hoặc, hình thành nên những sắc thái mới và những nền màu sáng rực trông kỳ quái. Cả ba sinh vật kia chỉ thốt lên được duy nhất tiếng hú kinh hãi, nhưng tiếng kêu của chúng cũng bị tắt lịm và chúng ngã nhào đống bên vệ đường. Khi chúng nằm bất động mặt đất, mớ màu sắc lộn xộn nhanh chóng tan chảy da thịt chúng, trả những chiếc áo khoác của chúng về với màu xanh lá buồn tẻ trước đây, và sau đó thân mình chúng bắt đầu biến đổi, xương nứt gãy, cơ bắp và gân cốt định hình trở lại. Lúc này màu sắc thấm ngược vào vũng nước, các sinh vật hồi phục lại vẻ bề ngoài của hình người.

      Mưa tạt xuống dọc theo chiều dài con hẻm, bề mặt vũng nước nhiều màu sắc ấy nhảy múa và vỡ tan theo những giọt nước mưa. Trong chỉ duy giây ấy, chiếc cầu vồng thu hoàn hảo xuất bên rồi thoắt nhạt nhòa tan biến mất, để lại trong vũng nước màu nâu như bùn giống hệt lúc ban đầu.

      Flamel cúi người giật phắt phần còn lại của chiếc vòng tay tình bạn nằm mặt đường. Những sợi chỉ được bện tết vào nhau giờ biến thành màu trắng nhạt, bị lọc hết mọi màu sắc. Ông kéo thẳng sợi dây ra và nhìn ngoái lại hai đứa sinh đôi. Flamel mỉm cười: “Chú đến nỗi bất lực như vẻ ngoài của chú nhỉ. Tụi cháu bao giờ được phép đánh giá thấp đối thủ của mình nhé”, ông dặn dò. “Nhưng chiến thắng này là của cháu, Josh ạ. Cháu cứu chúng ta. lần nữa. trở thành thói quen ra trò: Ojai, Paris, và giờ ở đây nữa”.

      “Cháu nghĩ ...”, Josh cất tiếng.

      “Em chẳng bao giờ nghĩ”, Sophie vừa chen ngang, vừa siết chặt cánh tay cậu.

      “Cháu hành động”, Flamel . “Vậy là đủ rồi. thôi, hãy ra khỏi đây trước khi người ta phát ra chúng”.

      “Bọn chúng chết chứ ạ?”, Sophie vừa hỏi, vừa rảo quanh đám sinh vật kia.

      Josh nhanh nhẹn gói thanh Clarent trong tấm giấy ép bong bóng và nhét nó trở lại vào ống giấy bồi. Rồi cậu đẩy cái ống giấy vào ba lô và nhấc túi lên vai. “ xảy ra chuyện gì vậy chú?”, cậu hỏi. “Cái thứ nước nhiều màu sắc ấy. Đó là cái gì vậy ạ?”

      “Món quà của Elder”, Flamel giải thích trong khi vội vã lao xuống con hẻm. “Iris được mệnh danh là nữ thần cầu vồng bởi vì luồng điện đủ màu sắc của bà. Bà ấy cũng có quyền thâm nhập vào những vùng sông nước thuộc Vương quốc Bóng tối dòng sông Styx”, ông kết thúc với vẻ đắc thắng.

      “Mà điều đó có ý nghĩa gì ạ?”, Josh hỏi.

      Nụ cười rộng hoác của Flamel sao mà độc địa. “Sinh vật sống thể chạm vào nước sông Styx được. Cú sốc làm quá tải toàn bộ phủ tạng và đánh chúng bất tỉnh”.

      “Trong bao lâu lận chú?”, Sophie vừa hỏi, vừa liếc trở lại những thứ trông như thể đống quần áo vải vóc nằm chình ình giữa con hẻm.

      “Theo truyền thuyết bảo - năm và ngày”.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 3

      Nguồn : e-thuvien.com

      Làm prc: Vanlydocnhan

      Phòng học rộng mênh mông sánh rực trong ánh mặt trời chiếu muộn. Nhữn tia sáng chiếu xiên chạy đường kẻ vàng óng những khung cửa gỗ bóng loáng và nảy bật ra khỏi sàn nhà được đánh sáp, làm lóa lên những chỗ sáng nhất nơi bộ áo giáp nguyên người được đặt dứng trong góc nhà và phân biệt những đốm màu sắc phát ra từ nơi trưng bày những hộp tiền xu từng ghi lại vết tích lịch sử loài người hơn hai thiên niên kỷ qua. Trọn cả bức tường phủ đầy những chiếc mặt nạ và nón bảo hiểm trải qua mọi thời kỳ đến từ khắp các châu lục, những hốc mắt trống rỗng nhìn xuống căn phòng. vài chiếc mặt nạ bao quanh bức sơn dầu của Santi di Tito, bị đánh cắp khỏi điện Palazzo Vecchio treo ở Florence chỉ là bức giả mạo nhưng ở mức độ rất hoàn hảo. Chiếm lĩnh ngay giữa phòng là cái bàn khổng lồ có nhiều vết sẹo trước đây từng có lần thuộc về gia đình Borgia. Mười tám chiếc ghế lưng cao cổ xưa được xếp quanh chiếc bàn bị thời gian làm cho đổi màu. Chỉ có hai cái ghế là có người ngồi, còn mặt bàn hầu như trống trơn ngoại trừ cái điện thoại màu đen lớn, trông như bị đặt sai chỗ, lạc long giữa căn phòng chứa đầy đồ cổ.

      Tiến sĩ John Dee ngồi bên cạnh bàn. Dee là người nhắn gọn gàng, nước da xanh xao và đôi mắt xám. mặc bộ vét ba mảnh thông thường đen tuyền như than chì, chỉ thoáng chút màu sác điểm nơi những mẫu hoa văn hình vương niệm tí xíu chiếc ca-vạt nơ xam xám là có màu vàng kim mà thôi. Thường hay kéo ngược mái tóc màu xám xin xỉn như sắt của mình ra sau lưng và cột chặt kiểu đuôi ngựa, nhưng hôm nay mái tóc ấy lại được thả phủ vai, quăn thành lọn rơi lòa xòa chạm vào chòm râu dê hình tam giác của . Đôi tay đeo găng màu xám sẫm tựa hờ hững mặt bàn gỗ.

      Niccolo Machiavelli ngồi đối diện với John Dee. khác biệt về vóc dáng thân hình giữa hai người đàn ông này đáng chú ý. Trong khi Dee thấp bé và xanh xao, Machiavelli lại cao ráo, nước da rám nắng đậm màu, nhấn mạnh nét tiêu biểu cả hai cùng có chung: đôi mắt màu xám lạnh lùng. Machiavelli giữ cho mái tóc trắng nhu tuyết của mình luôn ngắn sát và lúc nào cũng cạo râu sạch , sở thích của y có thiên hướng nghiêng về phong cách lịch thiệp tao nhã. Bộ vét màu đen cùng với chiếc áo sơ-mi lụa trắng ràng là được cắt may theo đơn đặt hàng riêng, và chiếc cà-vạt màu đỏ thẩm kia còn được dệt xen vào những sợi chỉ bằng vàng ròng. Bức chân dung của y treo khoảng tường ngay đằng sau lưng y, bây giờ trông y có vẻ hơi già hơn chút so với chính mình vào thời điểm bức hình được họa ra, phải đến hơn năm trăm năm trước. Niccolo Machiavelli sinh năm 1469; theo ngữ nghĩa y lớn hơn tay người năm mươi tám tuổi. ra y chết vào năm Dee sinh ra, 1527. Cả hai người đàn ông điều bất tử, và là hai trong số những nhân vật quyền lực nhất hành tinh này. Trải qua nhiều thế kỷ trong cuộc đời dài đằng đẵng của mình, hai người bất tử này đều biết rằng họ căm ghét lẫn nhau, mặc dù hoàn cảnh nay đòi hỏi cả hai phải trở thành những đồng minh hề dễ chịu.

      Hai người ngồi nơi phòng ăn trong căn nhà phố to lớn của Machiavelli gần Place du Canada ở Paris suốt ba mươi phút qua. Vào lúc đó, cả hai ai với ai lời nào. Mỗi người đều nhận được cùng lệnh triệu tập ra màn hình điện thoại cầm tay của mình: hình ảnh con sâu nuốt chính cái đuôi của nó – mật hiệu Ouroborus – trong những biểu tượng cổ xưa của các Elder Đen tối. Giữa tâm vòng tròn là con số ba mươi. Mấy năm trước bọn chúng thường nhận được những lệnh triệu tập như thế này qua đường fax hoặc thư tín, nhiều thập kỷ trước bằng đường điện tín và người đưa tin, còn sớm hơn nữa thậm chí là những mảnh rời làm bằng giấy hay giấy da, và cả hai được phép có hàng mấy tiếng đồng hồ hoặc cả mấy ngày để chuẩn bị cho buổi họp. Giờ lệnh triệu tập được gởi đến qua điện thoại và khả năng đáp ứng mệnh lệnh được tính bằng phút.

      Mặc dù bọn chúng hề mong đợi cuộc gọi này, nhưng ai nấy đều nhảy dựng khi chiếc điện loa đặt chính giữa bàn reo lên. Machiavelli với tay xoay tròn chiến điện thoại kiểm tra danh tính người gọi trước khi trả lời. dãy số dài nhằng bắt đầu bằng những con số 31415 – y nhận ra ngay đó là phần của dãy số pi – lướt cuộn khỏi màn hình. Khi y nhấn nút trả lời, tiếng tĩnh điện rít lên và nổ lốp bốp hồi rồi mới nhạt dần thành tiếng thầm khe khẽ như gió thoảng.

      “Chúng tôi rất thất vọng.” Tiếng trong điện thoại sử dụng dạng rất cổ xưa của tiếng La-tinh được dùng vào những thế kỷ cuối cùng trước thời Julius Caesar. “ thất vọng.” thể nào khẳng định đó là tiếng của người nam hay nữ, và có nhiều lúc thậm chí có thể hình dung như thể có hai người cùng .

      Machiavelli ngạc nhiên; y những tưởng nghe giọng rin rít từ chủ nhân Elder Đen tối của mình chứ - trước nay y chưa từng nghe tiếng nào thế này bao giờ. Nhưng Dee từng. Dù gương mặt Dee giữ nguyên nao núng, nhưng tay người Ý quan sát thấy cơ mặt nơi quai hàm của tay Pháp sư người bạnh ra và làm cho chúng bình thường trở lại đâu vào đấy nhanh đến nỗi hầu như thể nhận thấy được. Như vậy, đây chính là chủ nhân Elder Đen tối bí mật của Dee.

      “Chúng tôi được bảo đảm rằng tất cả đều sẵn sàng… chúng tôi được cam đoan rằng Flamel bị bắt và bị giết chết… chúng tôi được nghe quả quyết rằng Perenelle bị xử lý dứt điểm, còn cặp song sinh bị tóm lấy và giao vào tay chúng tôi…”

      Giọng kéo dài hào vào tiếng tĩnh điện.

      “Vậy mà Flamel vẫn tự do… Perenelle còn bị nhốt trong xà-lim nữa, cho dù bà ta vẫn bị giam hãm hòn đảo. Cặp song sinh trốn thoát mất rồi. Và chúng tôi vẫn chưa có được trọn vẹn cuốn Codex. Chúng tôi thất vọng,” giọng kỳ quái lặp lặp lại.

      Dee và Machiavelli nhìn nhau. Người nào làm cho các Elder Đen tối thất vọng đều có chiều hướng bị tan biến mất. chủ nhân Elder có quyền ban tặng tay chân bộ hạ thuộc loài người của mình đặc ân bất tử, nhưng đó là món quà có thể rút lại chỉ bằng cú chạm duy nhất. Tùy thuộc vào việc con người ấy bất tử trong thời gian bao lâu, mà tuổi già thảm khốc lao đến thân thể người đó đột ngột và mau chóng như thế nào, khoảng thời gian hàng bao nhiêu thế kỷ dốn đến làm da thịt và các cơ quan nội tạng già rồi bị phá hủy. Trong chừng vài tích tắc, người trông khỏe mạnh cường tráng có thể biến thành đống da dai nhách và xương cốt nát nhuyễn thành bột.

      “Các làm chúng tôi thất vọng,” những giọng thầm.

      ai trong hai người phá vỡ bầu khí im lặng kéo dài ngay sau đó, cải hai hoàn toàn ý thức rằng cuộc sống rất lâu dài của họ đến giờ này hệt như sợi chỉ mành treo chuông. Cả hai đều đầy quyền lực và quan trọng, nhưng chẳng ai là người thể thay thế được cả. Các Elder Đen tối có những tên tay sai khác cũng thuộc loài người và họ có thể cử mấy người đó truy lùng Flamel và cặp song sinh. Còn đầy dẫy những người khác kia mà.

      Tiếng tĩnh điện kêu sột soạt và nổ lốp bốp đường dây, và rồi giọng mới cất lên. “Tuy nhiên, tôi có ý kiến rằng chúng ta chưa đến nỗi thua trắng đâu.”

      Hàng thế kỷ luyện tập giữ cho gương mặt của Machiavelli hề biểu cảm. Đây chính là giọng y mong đợi, giọng chủ nhân Elder của y, nhân vật thống trị đất nước Ai Cập trong thời gian ngắn cách đây hơn ba ngàn năm trước.

      “Cho phép tôi trình bày, giờ chúng ta gần đến đích lắm rồi, trước nay chưa bao giờ gần đến thế. Chúng ta có lý do để hy vọng. Chúng ta xác nhận rằng bọn trẻ loài người kia đích thực là cặp song sinh được nhắc đến trong huyền thoại; thậm chí chúng ta từng chứng kiến số cuộc biểu dương năng lượng của chúng. Nhà Giả kim nguyền rủa và mụ vợ Nữ Phù thủy của ta bị giam hãm và hấp hối sắp chết rồi. Tất cả những gì chúng ta phải làm là chờ đợi, và thời gian, người bạn tuyệt vời nhất của chúng ta, xử lý bọn chúng giúp chúng ta. Scathach mất tích và Hekate bị tiêu diệt. Mà chúng ta lại giữ cuốn Codex.”

      “Nhưng chưa có đủ mà,” giọng nam-nữ thầm . “Chúng ta vẫn còn thiếu hai trang cuối.”

      “Đồng ý. Nhưng chúng ta lấy được nhiều như thế bao giờ đâu. Chắc chắn đả đủ để khởi quá trình kêu gọi các Elder trở lại lừ những Vương quốc Bóng tối xa xăm.”

      Machiavelli cau mày, tập trung cao độ. Nghe đâu chủ nhân Elder của Dee là người quyền lực nhất trong tất cả các Elder, vậy mà ở đây chủ nhân của mình lại dám tranh luận và bàn cãi với ông hay bà gì đó. Đường dây kêu lốp bốp, và giọng nam-nữ kia nghe thoáng vẽ hờn dỗi.

      “Nhưng cái chúng ta thiếu lại chính là Lời Hiệu triệu Cuối cùng. có nó, các chị em của chúng ta thể áp dụng biện pháp cuối cùng để từ Vương quốc Bóng tối vào thế giời này được.”

      Chủ nhân của Machiavelli điềm tĩnh trả lời. “Chúng ta vẫn quy tụ lực lượng của mình lại. số an hem chúng ta liều mình bỏ ra xa khỏi trần gian này; thậm chí họ mất hút ở tận bên kia các Vương quốc Bóng tối để vào những Thế giới Khác. Phải có ngày rộng tháng dài cho họ quay về. Bây giờ chúng ta cần phải kêu gọi họ trở lại, lôi kéo họ trở vào các Vương quốc Bóng tối tiếp giáp với cõi trần gian, để khi đến thời buổi thích hợp, họ chỉ cần áo dụng biện pháp duy nhất để bước vào thế giới và chúng ta có thể hành động như hệ thống nhất để giành lại hành tinh này.”

      Machiavelli nhìn Dee. Cái đầu của tay pháp sư người nghiêng qua bên, đôi mắt khép hờ trong lúc lắng nghe các Elder chuyện. Hầu như cảm nhận được ánh nhìn của Machiavelli nơi mình, Dee mở mắt và nhướng mày ngấm ngầm nêu câu hỏi. Tay người Ý khẽ lắc đầu; y nhận thức được câu chuyện diễn ra theo chiều hướng nào.

      “Đây là thời buỗi được Abraham tiên báo khi lần đầu tien ông ta tạo nên cuốn Codex,” chủ nhân của Machiavelli tiếp. “Ông ấy có Tầm nhìn, ông ấy có thể trông thấy những dòng cuộn xoáy của thời gian. Ông ấy báo trước rằng thời kỳ này phải đến – và gọi đó là Thời Biến đổi, khi mà trật tự quay trở lại thế giới này. Chúng ta phát ra cặp song sinh, chúng ta đều biết nơi có thể tìm thấy Flamel và hai trang cuối của cuốn Codex. khi chúng ta lấy được các trang sách ấy rồi, chúng ta có thể dùng năng lượng của cặp song sinh để cung cấp nhiên liệu cho Lời Hiệu triệu Cuối cùng.”

      Đường dây lại nổ lốp bốp đầy tĩnh điện, và ở thanh nền, Machiavelli ràng nghe thấy tiếng xì xào tán thành. Y nhận ra rằng có nhiều người khác nữa lắng nghe đường dây này, và y băn khoăn tự hỏi biết có bao nhiêu Elder Đen tối tụ tập về. Y cắn chặt bên trong má để tự ngăn cho mình mỉm cười trước hình ảnh của các Elder trong đủ loại lốt vỏ và diện mạo bề ngoài – người và thuộc loài người, thú vật và quái thú – chăm chú lắng nghe câu chuyện nơi những chiếc điện thoại. Machiavelli chọn đúng thời điểm khi có khoảng dừng giữa những giọng xì xào và y cách cẩn thân, cởi bỏ hết mọi cảm xúc ra khỏi giọng của mình, sao cho nó nghe có vẻ trung dung và chuyên nghiệp.

      “Vậy tôi có thể đề nghị các vị cho phép chúng tôi hoàn tất nhiệm vụ của mình được . Hãy để chúng tôi tìm Flamel cùng cặp song sinh.” Y biết bây giờ mình tham gia trò chơi nguy hiểm, nhưng ràng là có bất đồng ý kiến giữa hàng ngũ các Elder, và Machiavelli luôn là chuyên gia trong việc thao túng các tình thế như vậy. Y nghe đòi hỏi trong giọng của chủ nhân y. Các Elder cực kỳ muốn cặp song sinh và cuốn Codex: có những thứ ấy, các Elder Đen tối còn lại sao có thể quay về trần gian này. Và ngay lúc đó y nhận ra rằng cả hai người, y và Dee, vẫn còn là vật có ích đầy giá trị. “Ông Tiến sĩ và tôi vạch kế hoạch,” y , rồi để bầu khí rơi vào im lặng, chờ xem bọn họ có mắc mồi hay .

      , giống người kia,” giọng nam-nữ sôi ùng ục.

      Machiavelli nắm hai tay vào nhau, lời. Chân mày Dee nhướng nhướng lên và chí tay vào chiến điện thoại. , bật thành tiếng.

      !” giọng kia gầm lên, tiếng tĩnh điện rin rít và nổ lốp bốp.

      “Ngài phải là chủ nhân của tôi,” Machiavelli rất . “Ngài thể ra lệnh cho tôi.”

      thanh xì xì dài phát ra, giống như tiếng hơi nước thoát ra khỏi ấm. Machiavelli quay đầu nhè , cố nhấn định tiếng ồn. Rồi y gật đầu: đó là tiếng cười. Các Elder khác thấy buồn cười vì câu trả lời của y. Y đoán đúng; có bất đồng ý kiến trong hàng ngũ các Elder, và mặc dù có thể chủ nhân của Dee có đầy đủ quyền lực, nhưng điều đó có nghĩa là ông ta được hết mọi người thích. Đây là điểm yếu mà Machiavelli có thể khai thác để tạo lợi thế cho mình.

      Dee nhìn chằm chằm vào y, đôi mắt xám xịt mở lớn kinh hãi và thậm chí có lẽ còn thoáng chút ngưỡng mộ.

      Đường dây kêu lách tách, tiếng ồn làm nền bao quanh thay đổi và rồi chủ nhân của Machiavelli cất tiếng, ràng có thể nghe được vẻ thích thú trong giọng rổn rảng của ông. “Ngươi đề nghị điều gì nào? Và hãy cẩn thận đó, giống người kia,” ông ta thêm. “ cũng khiến ta thất vọng. Chúng ta từng nghe quả quyết rằng Flamel và cặp song sinh thể rời Paris kia đấy.”

      Tay người Ý chồm về phía chiếc điện thoại, nở nụ cười đắc thắng. “Thưa chủ nhân. Tôi được căn dặn rằng bao lâu Pháp sư người chưa đến tôi được làm gì cả. Thời giờ quý báu vuột mất. Flamel kịp có cơ hội liên lạc với đồng bọn, tìm chỗ nấp và trú tạm.” Machiavelli vừa vừa quan sát Dee cẩn thận. Y biết tay người liên lạc với chủ nhân Elder của mình, và đến lượt chủ nhân đó ra lệnh cho chủ nhân của Machiavelli buộc tay người Ý phải ở yên làm gì chờ cho tới khi Dee đến. “Tuy vậy,” y nhấn mạnh, làm cho vấn đề sáng ra, “việc trì hoãn này lại làm cho chúng ta có lợi thế. Đứa con trai được người trung thành với chúng ta Đánh thức. Chúng tôi ít khái niệm về năng lượng của hai đứa sinh đôi và bây giờ chúng tôi biết bọn chúng đâu.” Y có thể vừa vặn tránh được cảm gián tự mãn trong giọng của mình. Y nhìn Dee ngồi bên kia bàn và gật đầu nhanh. Tay Pháp sư người hiểu ý.

      “Bọn chúng ở London,” John Dee tiếp lời. “Và nước , hơn bất kỳ vùng đất nào trái đất này, là đất nước của chúng ta,” nhấn mạnh. “ như ở Paris, ở đó chúng ta có nhiều đồng minh: các Elder, Thế hệ Kế tiếp, những người bất tử và những bầy tôi thuộc giống người giúp đỡ chúng ta. Và ở còn có những người khác nữa, trung thành với ai ngoài chính bản thân họ, những người có các dịch vụ mà chúng ta có thể mua được. Có thể điều khiển tất cả những nguồn này để tìm kiếm Flamel và hai đứa sinh đôi.” xong, và chồm người tới trước, hết sức chú ý nhìn chăm bẳm vào chiếc điện thoại, chờ đợi câu trả lời.

      Đường dây kêu lách tách rồi tắt lịm. Rồi tín hiệu báo máy bận vang khắp phòng.

      Dee nhìn trừng trừng vào chiếc điện thoại với cảm giác trộn lẫn giữa bàng hoàng và giận dữ. “Chúng ta bị đứt kết nối hay họ tự gác máy ngang chuyện với chúng ta nữa vậy?”

      Machiavelli nhấn vào nút Loa, tiếng ồn im bặt. “Bây giờ ông biết tôi cảm thấy thế nào khi ông dập máy nửa chừng lúc chuyện với tôi,” y .

      “Vậy bây giờ chúng ta làm gì?”Dee hỏi gằn.

      “Chờ thôi. Tôi hình dung bọn họ bàn luận về tương lai của chúng ta đấy.”

      Dee khoanh tay trước vòng ngực hẹp. “Họ cần chúng ta mà,” , cố gắng làm cho giọng nghe có vẻ tự tin – và thất bại.

      Nụ cười của Machiavelli đầy cay đắng. “Họ sử dụng chúng ta. Nhưng họ hề cần chúng ta. Tôi biết được là chỉ riêng ở Paris có ít nhất đến hơn chục người bất tử có thể làm những công việc tôi làm.”

      “Đúng, đúng, ông có thể thay thế được,” Dee kèm theo cái nhún vai đầy tự mãn. “Nhưng tôi mất cả đời để truy đuổi Nicholas và Perenelle rồi kìa.”

      “Ý ông là ông mất cả đời mà sao bắt được họ ấy chứ,” Machiavelli , giọng y lưng chừng, và rồi kèm thêm nụ cười ranh mãnh, “Quá gần, song lúc nào cũng lại quá xa.”

      Nhưng mọi câu đối đáp Dee định dành cho y đều bị cắt đứt khi tiếng chuông điện thoại reo lên.

      “Đây là quyết định của chúng tôi.” Chính chủ nhân Elder của Dee , những giọng nam-nữ trộn lẫn vào nhau thành thứ thanh nghe hơi chối tai. “Pháp sư theo Nhà Giả kim và cặp song sinh vào nước . Chỉ thị dành cho ràng: tiêu diệt Flamel, bắt hai đứa sinh đôi và lấy lại cho kỳ được hai trang sách bị mất. Hãy sử dụng bất kể phương tiện gì cần thiết để đạt được mục tiêu này; chúng ta có những đồng minh ở là những người ừng hàm ơn chúng ta. Chúng tôi cầu những người đó trả nợ. Và Tiến sĩ… nếu lần này còn làm chúng tôi thất vọng, tạm thời chúng tôi lấy món quà bất tử và để cho thân xác loài người của già đến giới hạn nhất định… rồi ở thời điểm ngay trước khi chết, chúng tôi làm cho bất tử lần nữa.” Có thanh soàn soạt như thể tiếng cười thầm hoặc xuýt xoa gì đó.“Hãy tưởng tượng xem cảm giác thế nào: đầu óc thông minh lỗi lạc của bị giam hãm trong thân xác già cỗi yếu ớt, thể nhìn hoặc nghe , thể tản bộ hay di chuyển tới lui, vì những cơn đau liên miên dai dẳng do vô số những lần ốm đau vặt vãnh gây ra. giã cỗi mãi mãi song lại bất tử. Cứ việc làm cho chúng tôi thất vọng nữa , viễn cảnh này là số phận của . Chúng tôi giam giữ trong lớp vỏ thân xác già nua cho đến vĩnh viễn muôn đời.”

      Dee gật đầu, khó nhọc nuốt nước bọt xuống, rồi với vẻ tự tin tối đa mà có thể tập trung được, “tôi làm chủ nhân thất vọng.”

      “Còn , Niccolo…” chủ nhân của Machiavelli lên tiếng . “ chuyến đến Mỹ. Nữ Phù thủy tự do thoải mái ở Alactraz. Hãy làm bất kể những gì phải làm để bảo vệ hòn đảo.”

      “Nhưng tôi có mối liên hệ nào ở San Francisco cả,” Machiavelli nhanh nhảu phản đối, “ có đông minh nào. Châu Âu luôn là lãnh địa của tôi.”

      “Chúng tôi có tay chân thuộc hạ khắp nước Mỹ. Bây giờ thậm chí họ còn về hướng tây để chờ tới nữa kia. Chúng tôi bảo tên hướng dẫn và phụ trợ cho . Ở Alactraz, tìm thấy đạo quân đủ loại ngủ thiếp trong các xà-lim, những sinh vật mà nòi giống người nhận ra từ những cơn ác mộng tối tăm nhất và những chuyện hoang đường kinh tởm nhất của bọn chúng. Chúng tôi dự định sử dụng đạo quân này sớm thế, nhưng bây giờ các biến cố xoay chuyển quá nhanh, nhanh hơn nhiều so với dự tính. Chẳng bao lâu nữa đến Thời Litha, điểm hạ chí. Vào giữa mùa hạ, luồng điện của cặp song sinh đạt đến thời kỳ mạnh nhất trong khi những rào cản giữa thế giới này với vô số Vương quốc Bóng tối lại ở vào thời điểm yếu nhất. Chúng tôi dự định giành lại thế giới này khỏi tay con người đúng vào ngày ấy.”

      Ngay cả Machiavelli cũng tài nào giữ được cho gương mặt mình biểu lộ cảm xúc. Y nhìn Dee và thấy tay Pháp sư cũng trợn tròn mắt vì sốc. Cả hai người đàn ông đều làm việc cho các Elder Đen tối trong nhiều thế kỷ và luôn ý thức việc họ dự định quay trở lại thế giới mà họ từng có lần thống trị. Vậy mà, sửng sốt khi khám phá ra rằng sau bấy nhiêu năm chờ đợi và theo đuổi kế hoạch, mơ ước ấy lại sắp sửa xảy ra chỉ trong thời gian khoảng hơn ba tuần lễ nữa thôi.

      Tiến sĩ John Dee chồm đến gần chiếc điệc thoại hơn nữa. “Các chủ nhân – và tôi biết là tôi nhân danh cả Machiavelli khi thưa điều này – chúng tôi rất vui mừng vì Thời Biến đổi hầu như chúng tôi và chẳng bao lâu nhữa các ngài trở lại.” nuốt nước bọt cách khó khăn và thở nhanh. “Nhưng xin các ngài cho phép chúng tôi được lời cảnh báo rằng: thế giới các ngài trở lại còn là thế giới mà ngày trước các ngài rời bỏ. Nòi giống người có trong tay nền kỹ thuật công nghệ, hệ thống thông tin liên lạc, vũ khí… họ kháng cự lại,” thêm với vẻ do dự ngập ngừng.

      “Đích thị họ kháng cự, Tiến sĩ ạ,” chủ nhân của Machiavelli . “Vì thế chúng tôi cho con người thứ để chúng dồn sức tập trung vào, thứ làm cạn kiệt tài nguyên của chúng và tiêu hao hết chú ý của chúng. Niccolo,” giọng lại tiếp tục, “khi chiếm được Alactraz, vực dậy những con quái thú trong các xà-lim rồi thả chúng vào thành phố San Francisco. Khả năng tàn phá và nỗi kinh hoàng ấy thể diễn tả nổi. Và khi thành phố biến thành đống tàn tích đổ nát bốc khói mịt mù rồi, hãy cứ để các sinh vật ấy lang thang đến đâu tùy ý chúng. Chúng tàn phá tận bên kia châu Mỹ. Loài người luôn luôn sợ hãi bóng tối: chúng ta nhắc nhở ta vì sao lại thế. Những chố cất giữ các sinh vật tương tự như vậy được giấu kín trong hết mọi châu lục rồi; bọn chúng được thả ra vào cùng thời điểm. Thế giới này nhanh chóng phân rã thành điên loạn và trạng thái hỗn mang. Toàn bộ quân đội đều bị xóa sạch, để rồi còn ai đứng lên đấu tranh chống lại chúng ta khi chúng ta trở lại. Và hành động đầu tiên của chúng ta là gì nào? Này nhé, chúng ta tiêu diệt những con quái thú kia và nòi giống người hoan nghênh chúng ta như đấng giải cứu họ.”

      “Vậy ra những con quái thú ở trong các xà-lim của Alactraz sao?” Machiavelli hỏi, kinh sợ. “Làm thế nào tôi vực chúng dậy được?”

      được chỉ dẫn khi đến nước Mỹ. Nhưng trước hết, phải đánh bại được Perenelle Flamel trước .”

      “Làm sao chúng ta biết bà ta vẫn còn ở đó? Nếu bà ta trốn thoát khỏi xà-lim của mình được, chắc chắn bỏ trốn khỏi hòn đảo được chứ?” Tay người Ý nhận thức trái tim y đột nhiên đập thình thịch; ba trăm năm trước y thề báo thù Nữ Phù thủy. Bây giờ chằng phải y sắp sửa được cho cơ hội trả thù đó sao?

      “Bà ta vẫn còn ở hòn đảo. Chính bà ta thả Areop-Enap, còn gọi là Lão Nhện. Đó là kẻ thù nguy hiểm, nhưng đến nỗi thể bị đánh bại. Chúng tôi áp dụng các biện pháp để vô hiệu hóa mụ già ấy và chắc chắn rằng Perenelle ở lại đó cho tới khi đến nơi. Và Niccolo” – giọng của Elder trở nên cứng cỏi và đe dọa – “đừng lặp lại sai lầm của Dee.”

      Tay Pháp sư thẳng dựng người lên.

      “Đừng cố gắng bắt giữ hoặc bỏ tù Perenelle làm gì. được chuyện trò, được mặc cả hoặc cố tranh luận đàm phán với bà ta. Phải giết chết bà ta ngay khi vừa trông thấy. Hãy nhớ Nữ Phù thủy còn nguy hiểm hơn Nhà Giả kim gấp bội.”

      Chương 4

      Nguồn : e-thuvien.com

      Làm prc: Vanlydocnhan

      Bầu trời tinh mơ tren Alactraz nhuốn thứ màu kim loại lem luốn dơ bẩn. Những hạt mưa lạnh như nước đá kêu rin rít tạt từ bên này sang bên kia hòn đảo, mặt biển nổi sống dữ tợn, từng cơn sóng vỗ đập liên hồi vào ghềnh đá làm văng tung tóe những bọt muối mặn chát nảy bật lên cao, vụt biến tan vào trung.

      Perenelle Flamel chúi đầu trở lại vào căn chòi đổ nát trong Khu nhà ở của Cai tù. Bà xoa hai bàn tay lên lên xuống xuống chỗ cánh tay để trần, gạt sạch những giọt hơi ẩm chứa đầy muối. Bà vẫn mặc chiếc áo đầm mùa hè mỏng tay, bây giờ vấy bẩn lấm lem toàn bùn đất và gỉ sét, thế nhưng người phụ nữ cao ráo thanh lịch này hề thấy lạnh. Mặc dù sử dụng nguồn năng lượng dần cạn kiệt của mình là điều hoàn toàn miễn cưỡng, nhưng bà vẫn phải điều chỉnh luồng điện, làm cho nhiệt độ cơ thể dâng cao vừa đến mức dễ chịu. Bà biết nếu bà để mình bị nhiễm lạnh, bà thể suy nghĩ mọi chuyện minh bạch được, và bà có cảm giác là sắp sửa phải cần đến tất cả nguồn năng lượng của mình trong vài giờ sắp tới đây.

      Bốn ngày trước, Perenelle Flamel bị Tiến sĩ John Dee bắt cóc và giam vào Alactraz. Tên lính canh bà, con nhân sư, được chọn vì khả năng đặc biệt là có thể ngốn sạch luồng điện của người khác – luồng điện là những trường năng lượng bao quanh lấy mọi sinh vật sống. Tay Pháp sư người hy vọng con nhân sư này uống cạn luồng điện của Perenelle và ngăn cho bà trốn thoát, nhưng cũng như từng xảy ra quá thường xuyên trong quá khứ, lần này hawsnn lại đánh giá thấp khả năng và năng lượng của Perenelle. Với giúp đỡ của bóng ma cai quản hòn đảo, Nữ Phù thủy trốn thoát khỏi tay con nhân sư kia. Đúng ngay giây phút ấy, bà khám phá ra bí mật kinh khủng của hòn đảo này: Dee quy tụ những loài quái thú. Các xà-lim trong nhà tù đầy những sinh vật kinh khiếp đến từ khắp mọi nơi trái đất này, những sinh vật mà hầu hết mọi người đều tin rằng chỉ có thể hữu trong những ngóc ngách tối tăm nhất của những câu chuyện hoang đường và thần thoại. Nhưng khám phá gây ngạc nhiên nhất lại nằm trong những đường hầm giấu sâu hun hút dưới lòng hòn đảo này. Ở đó bị giam cầm dưới những biểu tượng ma thuật thậm chí còn già hơn các Elder nữa, bà tìm thấy sinh vật có tên là Areop-Enap, Lão Nhện. Cả hai hình thành nên khối liên minh miễn cưỡng và đánh bại Morrigan, Nữ thần Quạ, cùng với đạo quân chim chóc của mụ ta. Nhưng họ biết rằng có điều tệ hại hơn đến.

      “Thời tiết này bình thường,” Perenelle khe khẽ , có thể nghe được thoáng hưởng tiếng Pháp trong giọng của bà. Bà hít thở sâu và nhăn mặt. Đối với khứu giác được nâng cao của bà, làn gió thổi vào gần Vịnh San Francisco nghe như bị ô uế bởi mùi máu của thứ gì đó hôi thối và chết rũ lâu ngày, dấu hiệu chắc chắn rằng có chuyện bất thường.

      Areop-Enap ngồi cao ngất bức tường của tòa nhà bỏ . Bà nhện khổng lồ húp híp căng phồng mải miết bao lấy vỏ bọc của tòa nhà bằng thứ mạng màu tráng dinh dính. Hàng triệu con nhện, số con lớn bằng chiếc đĩa, số khác còn hơn hạt bụi, chạy lon ton qua bên kia tấm mạng đồ sộ vào vùng bóng tối u ám nhấp nhô dập dờn, dệt thêm những lớp tơ riêng của chúng vào tấm mạng ướt sũng. quay đầu lại, bà Elder xoay hai trong tám con mắt của bà tập trung vào người phụ nữ. Bà giở trong mấy cái chân to mập của mình đưa thẳng lên trung, lớp lông màu tím mút đầu ngả sang xám vẫy vẫy trong cơn gió. “Ừ, có cái gì đến… nhưng phải Elder, mà cũng phải con người,” bà ta ngọng ngịu.

      thứ gì đó từng ở đây rồi,” Perenelle dứt khoát.

      Areop-Enap quay người xuống nhìn Perenelle. Tám con mắt xíu đậu đỉnh đầu giống cái đầu người cách quái dị của bà. có mũi mà cũng chẳng có tai, và cái miệng là đường vạch nằm ngang chàng đầy những chiếc răng nanh cực độc dài nhằng. Hàm răng dữ tợn này khiến cho giọng của bà ngọng nghịu cách kỳ lạ. “ xảy ra chuyện gì?” bà hỏi bất thình lình, trong lúc đu thả mình rơi xuống đất sợi tơ nhện.

      Perenelle thận trọng từng bước qua bên kia khoảng sàn nhà lát đá, cố tránh những sợi tơ nhện thắt gút hễ cứ chạm đến đâu là dính chặt đến đó. Chúng có độ dai chắc như kẹo cao su. “Lúc nãy tôi xuống rìa nước,” bà . “Tôi muốn xem thử chúng ta cách đất liền bao xa.”

      “Sao?” Areop-Enap vừa hỏi, vừa bước tới gần người phụ nữ hơn, thân hình vượt cao hẳn bà.

      “Cách đây nhiều năm trước, tôi học được câu thần chú của pháp sư người Eskimo. Nó làm thay đổi tính bền của dòng nước chảy, biến dòng nước thành thứ giống như bùn dinh dính. hiệu quả, nó cho phép bà được nước. Những người Eskimo dùng câu thần chú này khi họ săn những con gấu Bắc cực bò ra những tảng băng nổi. Tôi muốn xem thử nó có tác dụng đối với làn nước muối ấm áp thế này .”

      “Rồi sao?” Areop-Enap hỏi.

      “Tôi có cơ hội thử.” Perenelle lắc đầu. Gom hết mái tóc dài đen nhánh của mình bằng cả hai bàn tay, bà hất tóc ra sau vai. Thường thường, bà thắt tóc thành bím dày, nhưng giờ đây bà để tóc xõa, và thậm chí bà còn bắt gặp nhiều sợi ánh bạc và xam xám hơn ngày hôm trước nữa. “Nhìn này.”

      Areop-Enap bước đến gần hơn. Mỗi cẳng chân của bà ta điều to mập hơn cả thân hình của người phụ nữ, và ở mút đầu chân có que nhọn hình móc câu, nhưng khi di chuyển lại hề gây ra tiếng động nào.

      Perenelle đưa ra nùi tóc. khúc dài khoảng tấc được cắt gọn băng. “Tôi cúi người mặt nước, tập hợp luồng điện của tôi lại để thử câu thần chú xem, có thứ gì đó vọt ra khỏi mặt nước chỉ vừa vặn như gớn sóng lăn tăn. Quai hàm của nó lạng thẳng qua mớ tóc của tôi.”

      Lão Nhện kêu xì xì nhè . “Bà có nhìn thấy nó ?”

      “Chỉ thoáng thôi, ngoài ra có gì hết. Tôi lo tập trung hết sức bươn mình bò trở lên bờ biển.”

      con rắn à?”

      Perenelle đổi sang thứ tiếng Pháp thời tuổi trẻ của bà. “. người đàn bà. Da màu xanh lá, với hàm răng… nhiều cái răng tí ti. Tôi bắt gặp lóe lên cái đuôi cá khi nó nhúng mình trở lại vào làn nước.” Perenelle lắc đầu và thả tóc xuống, để yên chúng vai mình, rồi ngước nhìn bà Elder. “Nó có phải là con nhân ngư nhỉ? Tôi chưa từng gặp người nào sống ngoài biển.”

      phải đâu,” Areop-Enap lẩm bẩm. “Dù có thể đó là trong số những Nữ thần biển lạc đường.”

      “Những nữ thần của biển khơi… nhưng thế họ ở xa nhà họ lắm.”

      “Đúng. Chúng thích những làn nước ấm hơn của vùng biển Địa Trung Hải, nhưng các đại dương thế giới này đều là nhà của chúng cả. Tôi chạm trán với chúng ở khắp nơi, thậm chí trong cả những tảng băng của vùng Antarctic. Có đến năm mươi Nữ thần biển, và chúng luôn du hành đây đó chung với nhau… điều khiến tôi nghĩ rằng hòn đảo này rất có thể hoàn toàn bị bao vây rồi. Chúng ta trốn thoát bằng đường biển được. Nhưng điều đó phải là mối quan tâm lớn nhất của chúng ta,” Areop-Enap lọng ngọng. “Nếu thần biển ở đây, có thể điều đó có nghĩa là cha của chúng, Nereus, cũng ở rất gần.”

      Mặc dù kiểm soát được hơi ấm của mình, cơn lạnh run vẫn chạy dọc ngược lên cột sống của Perenelle. “Ông Già Biển ư? Nhưng ông ta sống trong Vương quốc Bóng tối dưới lòng nước xa xôi nào đó kia mà và chỉ những việc liều lĩnh rất hiếm hoi mới đưa ông ta đến địa hạt này thôi. Ông đến thế giới của chúng ta kể từ năm 1912 lận kia. Cái gì có khả năng mang ông ta trở lại vậy cà?”

      Areop-Enap cười toe đầy ác ý để lộ cả hàm răng. “Tại sao à, bà đấy, Quý bà Perenelle ạ. Bà là phần thưởng. Bọn chúng muốn kiến thức và ký ức của bà. Bà và chồng bà nằm trong số hiếm hoi nhất của loài người: các người là những người bất tử mà hề bị chủ nhân Elder nào sai khiến. Và giờ bà bị giam giữ Alactraz, các Elder Đen tối làm hết sức mình để bảo đảm là bà thể rời khỏi đây mà còn sống sót.”

      Tĩnh điện màu xanh lơ và trắng nổ lốp bốp dọc theo chiều dài mái tóc Perenelle, chầm chậm dâng lên và tỏa ra phía sau bà kết thành vòng sáng lung linh đen tuyền. Đôi mắt bà chiếu sáng rực màu xanh lá lạnh lẽo, rồi luồng điện trắng như nước đá nở bung quanh người bà, lấp đầy bên trong ngôi nhà đổ nát luồng ánh sáng mạnh mẽ. làn sóng các con nhện sẫm màu vỗi vã chạy trốn vào những vùng bóng tối. “Bà biết có bao nhiêu Elder Đen tối và bạn bè họ hàng của họ ra sức cố giết chết tôi ?” Perenelle hỏi gằn.

      Areop-Enap nhún vai, chuyển động của tất cả mấy cái chân đáng sợ. “Nhiều hả?” bà ta gợi ý.

      “Và bà có biết bao nhiêu tên vẫn còn sống ?”

      ít?” Areop-Enap hỏi dò.

      Perenelle mỉm cười. “Rất ít.”

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 5

      Nguồn : e-thuvien.com

      Làm prc: Vanlydocnhan

      “Chờ cháu có điện thoại.”

      Sophie vừa cúi đầu vào ô cửa, thò tay vào trong túi lôi ra cái điện thoại di động. Pin điện thoại cạn sạch hồi ở Vương quốc Bóng tối của Hekate, nhưng Comte de Saint-Germain tìm cho bộ sạc còn chạy được. Lật nghiêng nghiêng màn hình, bé nhìn săm soi vào dãy số khác thường. “Cháu biết là ai đây,” bé vừa , vừa nhìn cậu em trai rồi nhìn sang Nicholas.

      Josh nhìn qua vai chị cậu. “Em nhận ra số này,” cậu thêm.

      “Bắt đầu bằng số mấy?” Nicholas vừa hỏi, vừa liếc sang, cố tập trung vào màn hình.

      , , ba, ba…”

      “Mã vùng của Pháp đó,” Flamel . “Trả lời ; đó chỉ có thể là Francis.”

      “Hoặc là Dee hay Machiavelli,” Josh ngay. “Có lẽ chúng ta nên…”

      Nhưng cậu chưa xong Sophie nhấn vào nút trả lời. “Xin chào?” với vẻ thận trọng.

      “Tôi đây!” Giọng Saint-Germain có trọng , và Sophie có thể khẳng định ông ta ở ngoài đường vì tất cả mọi thứ tiếng ồn trong thanh nền. “Cho tôi chuyện với ông già. Mà đừng với thầy là tôi gọi thế nhé!”

      Sophie nín nhịn dám cười toe toét và trao điện thoại cho Nhà Giả kim. “Chú đúng; Francis đó. Ông ấy muốn chuyện với chú.”

      Nicholas áp điện thoại lên tai và lấy bàn tay còn lại bịt tai bên kia, cố ngăn bớt tiếng ồn của xe cộ. “A-lô?”

      “Thầy ở đâu ạ?” Saint-Germain hỏi bằng tiếng La-tinh.

      Nicholas nhìn quanh, cố định hướng. “ đường Marylebone, vừa lên khỏi trạm xe điện ngầm Regent’s Park.”

      “Xin chờ máy chút; con có điện thoại bên đường dây kia.” Saint-Germain rời khỏi điện thoại và nghe tiếp thông tin được bằng thứ tiếng Pháp cổ liến thoắng. “OK,” lúc sau ông . “Thầy cứ thẳng xuống con đường rồi chờ bên ngoài Nhà thờ St. Marylebone. có người cho xe đón thầy.”

      “Làm sao tôi biết người tài xế ấy làm việc cho ?” Nicholas hỏi.

      “Ý tưởng hay. Thầy có lý do gì để tin rằng cuộc chuyện này bị giám sát ạ?”

      “Chắc chắn cả hai tay người Ý và người kia đều có các đầu mối cung cấp thông tin,” Nhà Giả kim cách cẩn thận.

      “Đúng vậy.”

      “Và có cả ủy ban được hoan nghênh chờ đợi chúng tôi. Tôi hình dung bọn này báo cáo trước cả khi chúng tiến hành theo dõi chúng tôi lận kìa.”

      “Chà.” Saint-Germain dừng lại chút và rồi cẩn thận , “con cho rằng thầy xử lý vấn đề cách kín đáo dè dặt kia mà.”

      “Rất kín đáo. Nhưng…”

      “Nhưng sao ạ?” Saint-Germain hỏi.

      “Mặc dù tôi sử dụng luồng điện của mình, nhưng số năng lượng nhất định vẫn bị giải phóng ra. Việc đó chắc chắn thu hút chú ý, đặc biệt là trong thành phố này.”

      Lại đoạn dừng nữa; rồi Saint-Germain , “OK, con vừa gởi cho tài xế tin nhắn. Cho phép con nhắc thầy nhớ lại bữa tiệc con tổ chức ở Versailles vào tháng Hai năm 1758. Đó là sinh nhật của con, và thầy tặng cho con cuốn sách bìa đóng bằng giấy da mịn lấy từ thư viện riêng của thầy để làm quà.”

      Đôi môi Nicholas nhếch lên thành nụ cười. “Tôi nhớ.”

      “Con vẫn còn giữ cuốn sách đó. tài xế với thầy tựa sách là gì,” ông ta tiếp, giọng cất cao lên khỏi tiếng khua lộp cộp như búa nện trong thanh nền.

      “Tiếng ồn gì ghê thế?” Flamel vừa hỏi, vừa đổi trở lại tiếng .

      “Mấy người công nhân đó ạ. Tụi con dựng lại cột nhà. Hình như đúng là nó nguy hiểm sắp làm đổ sập các hầm rượu bên dưới, và có lẽ kéo theo nó cả đến nửa con phố.”

      Nicholas hạ giọng. “ bạn cũ. Tôi thể với là tôi tiếc như thế nào vì những rắc rối tôi mang lại cho nhà . Tất nhiên tôi bù đắp phần thiệt hại cho .”

      Saint-Germian cười khúc khích. “Xin thầy đừng dằn vặt mình nữa. Con chẳng tốn kém gì cả. Con bán bản quyền về câu chuyện này cho tờ tạp chí. Phí thu được còn cao hơn tiền sửa sang lại ngôi nhà, và tin tức báo chí đưa ra vô giá; album mới của con tăng vọt trong các biểu đồ thống kê số lượt tải về… nếu ắt hẳn đó phải là điều ngược lại,” ông thêm rồi phá lên cười.

      “Câu chuyện nào vậy?” Nicholas vừa hỏi, vừa liếc qua hai đứa sinh đôi.

      “Sao, tất nhiên và vụ nổ khí gas làm hư hại nhà con ấy chứ gì nữa,” Saint-Germain nhàng. “Con phải đây. Con giữ liên lạc. Và ông bạn cũ ơi” – ông ấy dừng chút – “hãy cẩn thận. Nếu có cần bất cứ gì – con là bất cứ đấy nhé – thầy biết làm thế nào để liên lạc với con rồi đó.”

      Nicholas nhấn nút Tắt và trao lại điện thoại cho Sophie mà gì. “Cậu ấy …”

      “Tụi cháu nghe hết rồi.” Các giác quan được Đánh thức của cặp song sinh cho phép chúng nghe cả hai bên trong cuộc chuyện vừa rồi. “ vụ nổ khí gas hả chú?” Sophie hỏi.

      “Đúng rồi, chẳng lẽ ông ấy lại bảo thiệt hại gây ra do loài khủng long nguyên thủy nào đó, phải nào?” Josh chọc ghẹo. “Ai thèm tin ông ấy kia chứ?” Thọc tay vào túi, cậu vội vã bước theo Flamel, lúc này sải chân xuống phố. “ thôi, chị.”

      Sophie gật đầu. Thằng em bé có lý. Nhưng bé cũng bắt đầu hiểu ra các Elfer thu xếp thế nào để giữ tồn tại của họ trong vòng bí mật lâu như vậy. Đơn giản loài người muốn tin rằng có ma thuật thế giới này. hề có trong thời đại khoa học kỹ thuật này. Những quái thú và phát thuật luôn thuộc về thời quá khứ chưa được khai hóa hồi nguyên thủy cổ xưa mà thôi, vậy mà trong mấy ngày qua, ngày nào bé cũng được trông thấy bằng cớ chứng minh là có pháp thuật. Người ta vẫn thường thuật lại những điều thể xảy ra; họ nhìn thấy những vật kỳ lạ nhất, những sinh vật quái dị nhất… mà ai tin họ hết. Hết thảy họ thể nhất loạt sai lầm, dối, lẫn lộn hoặc là bị lạc lối được, phải vậy ? Nếu các Elder Đen tối và bè lũ tay sai của họ chiếm giữ những vị trí quyền lực, hẳn tất cả những gì bọn họ phải làm là vứt bỏ các bản báo cáo, phớt lờ chúng hoặc là – như vừa xảy ra ở Paris – chế nhạo chúng các phương tiện truyền thông đại chúng. Chẳng bao lâu thậm chí chính những người viết ra các bản tường thuật ấy, những người từng trông thấy thứ gì đó bất bình thường, bắt đầu thấy nghi ngờ những bằng chứng từ chính các giác quan của bản thân họ. Chỉ mới hôm qua đây, Nidhogg, sinh vật được cho là chỉ tồn tại trong truyện huyền thoại, điên cuồng nổi cơn thịnh nộ xuyên khắp các đường phố chật hẹp Paris, để lại đằng sau nó vết tích của tàn phá. Nó đập phá tan tành sang tận phía bên kia Champs-Elysées và xé toạc nguyên phần bến cảng nổi tiếng thành từng mảnh rồi mới lao mình xuống dòng sông. Chắc hẳn phải đến hàng chục người trông thấy nó; nhưng những câu chuyện kể của họ, những câu tuyên bố khẳng định của họ đâu mất rồi? Báo chí đều tường thuật biến cố này như vụ nổ khí gas trong những hầm rượu cổ xưa.

      Và rồi còn những tên gargoyle và grotesque Notre Dame sống dậy và trườn bò xuống công trình ấy nữa. Josh sử dụng luồng điện của nó để tăng cường cho luồng điện của bản thân bé, Sophie dùng pháp thuật Lửa và khí để biến những sinh vật ấy thành những thứ còn hơn những vụn đá… vậy mà báo chí tường thuật chuyện đó như thế nào?

      Những hiệu ứng của mưa acid.

      Khi hai đứa chạy xuyên qua vùng ngoại ô nước Pháp chuyến xe lửa Eurostar, chúng đọc thấy những tin tức trực tuyến máy tính xách tay của Josh. Mọi hang thông tấn cung cấp tin tức ra công chúng thế giới này đều có câu chuyện nào đó kể về các biến cố, nhưng tất cả các phiên bản họ kể ra đều dối trá.

      Mặc dù Nhà Giả kim có nhìn ngoái lại đằng sau, nhưng ông hề ngừng lại. “Chúng ta thể chậm trễ được,” ông cáu, và vẫn tiếp tục nhịp bước nhanh nhẹn.

      Sophie dừng lại ngay giữa đường và kéo cậu em trai đứng sựng lại với . Nicholas thêm được khoảng năm bảy bước rồi mới nhận thấy hai đứa sinh đôi còn ở đằng sau ông nữa. Ông dừng lại và quay người, vẫy chúng bước tới. Cả hai đứa đều làm như thấy ông, và khi ông sải bước quay trở lại về phía chúng, có vẻ gì tối tăm và khó chịu nơi bộ mặt ông. “Tôi giờ cho những chuyện vớ vẫn thế này.”

      “Chúng cháu cần cặp kín râm cho Josh, và cho cháu nữa,” Sophie , “và nước.”

      “Chúng ta mua sau.”

      “Chúng cháu cần chúng ngay bây giờ kia,” quả quyết.

      Nicholas mở miệng định vọt ra câu trả lời, nhưng Josh bước tới trước bước, đứng sát vào Nhà Giả kim. “Tụi cháu cần ngay bây giờ.” Có cái gì đó như vẻ ngạo mạn trong giọng cậu. Đứng khoảng sân ở đằng trước ngôi thánh đường ở Paris, cảm nhận được nguồn năng lượng thô chảy xuyên qua thân thể cậu, quan sát những tên gargoyle bằng đá được làm cho sống dậy bi vỡ tan thành bụi, ông nhận ra ngay sức mạnh của cậu và chị mạnh mẽ đến dường nào. Ngay lúc này có thể chúng cần đến Nhà Giả kim, nhưng ông cũng cần đến chúng kia mà.

      Nicholas nhìn vào đôi mắt xanh lơ sáng quắc của cậu con trai, và bất kể ông nhìn thấy gì trong đó đều khiến ông phải gật đầu và quay trở lại đến dãy cửa hàng. “Nước và mắt kính,” ông . “Mắt kính có cần phải có màu đặc biệt gì ?” ông hỏi với vẻ mỉa mai.

      “Màu đen ạ,” hai đứa sinh đôi đồng thanh trả lời.

      Sophie đứng với Josh bên ngoài cửa tiệm. bé mệt lả người, nhưng cố biết thậm chí Josh còn cảm thấy tệ hại hơn. Bây giờ mưa ngớt, đường phố bắt đầu đông đúc. Những người thuộc cả chục quốc tịch khác nhau bộ qua lại, tán gẫu với nhau bằng đủ mọi thứ ngôn ngữ.

      Thình lình Sophie nghiêng đầu qua bên, chân mày nhướng lên cau lại.

      “Có chuyện gì ổn à?” Josh hỏi ngay.

      “Đâu có gì ổn,” chầm chậm, “chỉ là…”

      “Cái gì vậy?”

      “Chị nghĩ chị có thể nhận ra số trong những lời người ta .”

      Cậu em trai quay người theo dõi ánh mắt . Hai người phụ nữ tán gẫu sôi nổi với nhau, họ mặc áo a-ba dài mềm rũ của các nước Trung Đông, đầu che kín và khuôn mặt họ giấu đằng sau những chiếc áo burka.

      “Họ là hai chị em… Họ sắp thăm bác sĩ ngay nơi khúc quanh nơi góc phố ở đường Harley…” Sophie với vẻ ngạc nhiên.

      Josh quay người và vén tóc cậu ra khỏi tai để nghe hơn. Tập trung cao độ, cậu tách ra được tiếng của hai người phụ nữ. “Sophie, em thể nhận ra từ nào trong số những từ họ ; em nghĩ họ tiếng Ả Rập mà.”

      Hai doanh nhân ăn mặc lịch ngang qua, hướng về phía ga tàu điện Regent’s Park. Cả hai người họ đều chuyện qua điện thoại di động.

      “Người bên trái chuyện với vợ ông ta ở Stockholm,” Sophie tiếp, giọng bây giờ chỉ nhỉnh hơn tiếng thều thào chút. “Ông ta xin lỗi vì bỏ lỡ mất bữa tiệc sinh nhật con trai mình. Còn người bên phải chuyện với văn phong chính, cũng ở Thụy Điển. Ông ấy muốn vài bảng tính được gởi qua đương e-mail.”

      Josh quay đầu lại lần nữa, bỏ qua dòng xe cộ và vô số tiếng ồn khác của thành phố. Bất chợt, cậu thấy rằng bằng cách tập trung vào hai doanh nhân kia, cậu có thể phân biệt riêng từng lời. Khả năng nghe của cậu sắc sảo đến nỗi cậu có thể nghe những tiếng xíu ở đầu bên kia của chiếc điện thoại di động. Nhưng ai trong hai người đó tiếng cả. “Làm sao chị có thể hiểu được?” cậu hỏi.

      “Chính là kiến thức của Bà Phù thủy Endor,” Nicholas . Ông vừa bước ra khỏi cửa tiệm đúng vào lúc nghe câu hỏi của Josh. Ông kéo cặp kính râm rẻ tiền giống hệt nhau từ trong cái túi giấy ra và trao cho hai đứa. “E rằng phải là hàng thiết kế riêng.”

      Sophie trượt cặp kính râm lên mặt. dễ chịu đến ngay tức , và bé có thể thấy qua vẻ mặt của cậu em trai, là cậu cũng cảm thấy y như vậy. “ nghe coi,” . “Chị nghĩ đó chỉ là quá nhiều thứ cổ xưa bà ấy để lại cho chị. Chị nhận thấy bất kỳ điều nào trong chúng là có ích cả.”

      Nicholas trao hai chai nước, và cặp song sinh cùng bước phía sau khi ông xuống con đường hướng về nhà thờ St. Marylebone. “Bà Phù thủy chuyển tất cả kiến thức của bà cho cháu khi bà bọc cháu trong tấm liệm khí. Chú thừa nhận là quá nhiều, cháu thể xử lý hết được. Nhưng chú biết bà ấy làm như vậy,” ông thêm nhanh, khi nhìn thấy vẻ cau có ra mặt Josh. “Hoàn toàn ngoài mong đợi của chú và hoàn toàn phù hợp với tính cách của bà ấy. Các thế hệ trước đây, các nữ thầy cúng học với Bà Phù thủy cả đời họ để được thưởng chỉ mảnh nhất kiến thức của bà mà thôi.”

      “Tại sao bà ấy lại cho cháu tất cả?” Sophie hỏi, cảm thấy bối rối.

      “Đó vẫn còn là điều bí ,” ông thú nhận. Len qua khoảng hở giữa làn xe cộ, Nhà Giả kim lùn hai đứa sinh đôi qua bên kia đường Marylebone. Họ đến gần đủ để nhìn thấy mặt chính tao nhã của ngôi nhà thờ ngay trước mắt. “Chú biết Joan giúp cháu sàng sẩy chọn lọc hết các kiến thức của Bà Phù thủy cho cháu.”

      Sophie gật đầu. Ở Paris, trong khi ngủ, Joan Arc dạy các kỹ thuật kiểm soát mớ lộn xộn thần bí và những thông tin mơ hồ khó hiểu chảy lan khắp cả trí não .

      “Chú tin rằng những gì bây giờ diễn ra là ký ức và kiến thức Bà Phù thủy Endor dần dần thấm vào ký ức riêng cháu. chỉ đơn giản biết những gì Bà Phù thủy biết, mà cháu cũng biết làm thế nào bà ấy biết được nữa kia. Thực ra mà , ký ức của bà ấy dần trở thành của cháu đó.”

      Sophie lắc đầu. “Cháu hiểu.”

      Cuối cùng họ cũng đến được nhà thờ. Nicholas leo lên hai bậc và nhìn lên nhìn xuống con đường, nhanh chóng đảo mắt qua những người khách bộ hành, vặn người nhìn ra phía Regent’s trước khi quay trở lại bên hai đứa song sinh. “Điều đó cũng giống như khác biệt giữa việc xem người ta chơi trò với việc chính mình tham gia vào trò chơi. Khi cháu gặp Saint-Germain,” ông thêm, “ngay lập tức cháu biết được những gì Bà Phù thủy biết về cậu ấy, đúng nào?”

      Sophie gật đầu. ý tưởng đến với bé như ánh sáng lóe lên trong đầu rằng Bà Phù thủy Endor thích mà cũng tin tưởng Comte de Saint-Germain.

      “Bây giờ hãy nghĩ đến Saint-Germain ,” Nhà Giả kim gợi ý.

      bé đưa mắt nhìn cậu em trai, cậu gật đầu, đôi mắt thể thấy được đằng sau cặp kính tối hù. Sophie lật giở cổ tay phải của mình. mặt dưới cánh tay bé là vòng tròn màu vàng ánh kim với chấm màu đỏ ngay chính giữa. Khi dạy Pháp thuật Lửa cho , Saint-Germain đốt vết xăm này vào da thịt nơi cổ tay hề gây đau đớn. Việc nghĩ đến Saint-Germain mang lại dòng cuồn cuộn những ký ức bất ngờ: những ký ức tư nhiên mãnh liệt sáng chói. Sophie nhắm mắt lại và trông chốc lát bé nhìn thấy mình thời kỳ khác, nơi chốn khác.

      London, năm 1740.

      đứng trong phòng khiêu vũ rộng lớn, mặc chiếc áo đầm dài nặng nề đến nỗi cảm thấy như nó ấn xuống đất. là khó chịu đến ngạc nhiên, nhức nhối và bực bội, siết chặt, co khít và dồn nén o ép khắp mọi chỗ. Bầu khí trong phòng khiêu vũ nồng nặc mùi sáp nến và quá nhiều mùi dầu thơm, hương thơm tràn ngập, mùi thức ăn nấu chín, và những thân thể hề tắm rửa. đám đông xoay quanh , nhưng khi tiến về phía trước, cách có ý thức họ đều tránh đường cho , làm thông thoáng lối tiến đến phía người đàn ông trẻ ăn mặc trang phục màu tối với đôi mắt màu xanh lơ rất đáng chú ý. Đó là Francis, Comte de Saint-Germain. ta tiếng Nga với nhà quý tộc đến từ triều đình của ngài hoàng đế vị thành niên, Ivan VI. thấy mình hiểu được những gì ta . Nhà quý tộc gợi ý rằng con út của Đại đế Peter, Elizabeth, có thể chẳng bao lâu nữa lên nắm quyền và chắc có những cơ hội làm ăn dành cho các kỹ năng của Saint-Germain ở St. Petersburg. Vị bá tước chầm chậm quay người nhìn . Cầm lấy tay trong tay mình, ta cúi người xuống và bằng tiếng Ý, “ là vinh dự, cuối cùng tôi cũng được diện kiến, thưa quý .”

      Đôi mắt Sophie hấp háy mở ra và người bé lảo đảo. Cánh tay Josh vụt phóng ra chụp lấy và giữ lại. “Chuyện gì vậy?” cậu gặng hỏi.

      “Chị ở đó…” Sophie thầm. bé lắc đầu nhanh. “Ở đây, London này. Hơn hai trăm năm mươi năm trước. Chị nhìn thấy mọi chuyện.” bé giơ tay siết cánh tay cậu. “Chị có thể cảm thấy quần áo chị mặc, mùi hương tràn ngập căn phòng. Khi Saint-Germain bằng tiếng Nga, chị hiểu được, và rồi, khi ông ấy chuyện với chị bằng tiếng Ý, chị cũng hiểu được nữa. Chị ở đó,” bé lặp lại cho tới khi cảm thấy sợ hãi bởi những ký ức mới của mình.

      “Ký ức của Bà Phù thủy Endor trở thành ký ức của cháu,” Nicholas . “Kiến thức của bà ấy trở thành kiến thức của cháu. Rốt cuộc lại, tất cả những gì bà ấy biết, cháu biết.”

      Sophie Newman rùng mình. Rồi đột nhiên nghĩ đến điều đáng phải lo lắng. “Nhưng chuyện gì xảy ra với cháu?” bé hỏi. “Bà Phù thủy có hàng ngàn năm ký ức và kinh nghiệm; cháu chỉ mới có mười lăm năm rưỡi, mà cháu nhớ được hết thảy chúng nữa. Ký ức của bà ấy có thể đẩy ký ức của cháu ra mất ?”

      Nicholas chớp mắt cách khó khăn. Rồi ông gật đầu từ từ. “Chú chưa nghĩ đến điều đó, nhưng đúng, cháu đúng, có thể lắm,” ông rất nhanh. “Chúng ta phải bảo đảm rằng chuyện đó được xảy ra.”

      “Tại sao ạ?” cặp song sinh cùng hỏi lần.

      Nicholas bước xuống mấy bậc thềm và đứng cạnh bên chúng. “Bởi vì con người chúng ta có gì hơn ngoài toàn bộ ký ức và kinh nghiệm của chúng ta. Nếu ký ức của Bà Phù thủy Endor đẩy ký ức của cháu ra, vậy tình mà , cháu trở thành chính Bà Phù thủy Endor mất rồi.”

      Josh kinh hãi. “Vậy chuyện gì xảy đến với Sophie?”

      “Nếu chuyện đó xảy ra, còn Sophie nữa. chỉ có Bà Phù thủy thôi.”

      “Vậy là bà ta cố tình làm thế,” Josh , cơn giận dữ dâng lên trong giọng cậu đủ để lôi kéo chú ý của nhóm khách du lịch chụp ảnh mặt đồng hồ nhà thờ. chị song sinh thúc vào cậu và cậu hạ giọng xuống thành tiếng thào khàn khàn. “Đó là lý do tại sao mụ ta tặng cho Sophie toàn bộ kiến thức của mình!” Nicholas chợt lắc đầu, nhưng Josh cứ nhấn mạnh. “ khi ký ức của mụ ta hoàn toàn chiếm trọn, mụ ta có thêm thân thể mới hơn, trẻ hơn, hơn hẳn cái thân xác đui mù của mụ ta. Chú thể chối cãi chuyện này được.”

      Nicholas im như thóc và quay người chỗ khác. “Chú phải… chú phải suy nghĩ thêm về chuyện này mới được,” ông . “Từ trước tới nay chú chưa bao giờ nghe đến bất cứ thứ gì giống chuyện này.”

      “Nhưng trước giờ chú chưa bao giờ nghe Bà Phù thủy cho toàn bộ kiến thức của mình cho người nào, phải vậy ?” Josh hỏi gằn.

      Sophie chộp lấy cánh tay Nhà Giả kim và bước tới đứng ngay trước mặt ông. “Chú Nicholas, tụi cháu phải làm gì?” be hỏi.

      “Chú biết nữa,” ông thú nhận cùng với tiếng thở dài mệt mỏi. Và đúng ngay lúc đó, trông ông già cỗi, với những đường lằn hằn sâu vầng trán và quanh khóe mắt, những vết nhăn chạy dọc theo hai bên mũi, những rãnh sâu nhấn giữa cặp lông mày.

      “Vậy ai mới là người biết?” bé cáu kỉnh, giọng có vẻ sợ hãi.

      “Perenelle,” ông , và rồi gật đầu mạnh mẽ. “Perenelle của chú biết phải làm gì. Chúng ta phải đưa cháu trở về với ấy. ấy chắc chắn có thể giúp được. Trong khi chờ đợi, cháu phải tập trung vào việc mình là Sophie. Cháu phải tập trung vào danh phận của chính mình.”

      “Làm thế nào bây giờ?”

      “Hãy nghĩ đến quá khứ của cháu, ba mẹ cháu, các trường nơi cháu học, những người cháu gặp gỡ, những bạn bè, những kẻ thù nghịch, nhưng nơi cháu từng tham quan.” Ông quay sang Josh. “Cháu phải giúp mới được. Hãy hỏi chị cháu những câu hỏi về chuyện quá khứ, về mọi thứ tụi cháu cùng làm với nhau, những nơi tụi cháu sống. Và Sophie,” ông vừa thêm, vừa quay người sang nhìn đứa con , “mỗi lần cháu bắt đầu trải nghiệm trong những ký ức của Bà Phù thủy Endor, hãy cố tình tập tủng vào chuyện khác, kỷ niệm của chính cháu. Cháu phải chiến đấu để ngăn cho ký ức của Bà Phù thủy áp đảo ký ức của cháu cho tới khi chúng ta tìm được cách kiểm soát chuyện này.”

      Bất chợt chiếc taxi London rà sát lề đường và cánh cửa số phía bên hành khách cuốn xuống. “Mời vào,” giọng như ra lệnh phát ra từ vùng bóng tối bên trong xe.

      ai nhúc nhích gì.

      “Chúng ta có suốt cả ngày đâu. Vào .” Có thoáng chất Nam Mỹ trong sắc phong phú của giọng ấy.

      “Chúng tôi đâu có gọi taxi,” Flamle , thất vọng liếc lên liếc xuống con đường. Saint-Germain gởi ai đó đến với họ, nhưng Nhà Giả kim bao giờ hình dung đó thứ bình thường như chiếc taxi ở London. Đây có phải là cái bẩy ? Có phải Dee săn lùng được họ ? Ông nhìn ngoái lại phía nhà thờ. Cửa ra vào mở. Bọn họ có thể chạy lao lên mấy bậc thang đâm thẳng vào giữa gian thánh của nhà thờ, nhưng khi vào được bên trong rồi, họ lại bị bắt giữ thôi.

      “Chiếc xe này đặc biệt được đặt riêng cho ông, thưa ông Flamel.” Dừng lại chút, giọng ấy bồi thêm, “Tác giả của trong những cuốn sách buồn chán nhất tôi từng đọc phải, cuốn Triết học Sơ lược.”

      “Buồn chán ư?” Nicholas giật mạnh cho cánh cửa mở bung ra và đẩy hai đứa sinh đôi vào bóng tối. “Nó được công nhận hàng thế kỷ là tác phẩm của thiên tài đấy!” Bước vào trong, ông đập mạnh cánh cửa. “Có lẽ Francis bảo vậy phải ?”

      “Ông nên thắt đai an toàn lại hơn,” tay tài xế ra lệnh. “Chúng tôi có đủ loại khách hàng kiểu này rồi, hề thân thiện và tất cả đều khó ưa.”

      Chương 6

      Nguồn : e-thuvien.com

      Làm prc: Vanlydocnhan

      Tầm vóc to lớn của người đàn ông chiếm hết trọn băng ghế trước. ta xoay người nhìn họ qua tấm kính ngăn tài xế với hành khách, và cặp song sinh nhận ra rằng phải lớp mỡ làm cho ta to bự như thế, nhưng chính là những cơ bắp. chiếc áo sơ-mi sọc đen trắng tay căng cứng bọc quanh bộ ngực đồ sộ, ta cao đến nỗi cái đầu cạo láng bóng của ta chạm lướt lên tận nóc buồng lái của chiếc xe. Nước da ta nâu sậm đen, hợp với màu mắt, và hàm răng trông có vẻ quá trắng đến độ mất tự nhiên. Có ba đường sẹo ngắn nằm ngang mỗi bên má ngay dưới mắt ta. “Các bạn sống buồn tẻ trong đất nước này và bạn phải cố chọc cho được ổ kiến lửa nó đó mới vui,” ta , giọng trầm trầm ồm ồm. “ đường xuống đây, tôi bắt gặp vài thứ còn lang thang trái đất này trong vòng nhiều thế hệ rồi.” ta cười toe. “Nhân tiện, xin giới thiệu tôi là Palamedes,” rồi ta lắc đầu. “Mà đừng bao giờ gọi tôi là Pally nhé.”

      “Palamdes à?” Flamle hỏi đầy vẻ kinh ngạc, chồm người ra đằng trước để nhìn tài xế cho hơn. “Palamedes? Hiệp sĩ Saracen* sao?”

      “Giống, giống vậy,” amh tài xế vừa , vừa quay chỗ khác, đưa ra tín hiệu nào, ta ghì chặt tay lái và chiếc xe kêu lên những tiếng ken két chói tai hòa trở lại vào dòng xe cộ. Những tiếng còi xe hơi om sòm và tiếng bánh xe kêu rít ré phía sau . ta giơ điện thoại di động của mình lên. “Francis cho tôi vừa đúng những chi tiết ít ỏi nhất. Thường thường tôi hay dính dáng vào những vụ bất đồng giữa những xung đột nội bộ của giống loài Elder – đó là cách an toàn hơn cả - nhưng khi ấy bảo với tôi rằng chuyện này liên quan đến cặp song sinh huyền thoại,” – đôi mắt ta chăm chú nhìn hai đứa trong kính chiếu hậu – “vậy là tôi biết mình còn chọn lựa nào khác.”

      Josh thò tay xuống siết bàn tay chị chặt. Cậu muốn làm bé phân tâm; cậu muốn nghĩ đến Palamedes. Cho dù cậu chưa bao giờ nghe về ta, nhưng cậu chắc chắn rắng kiến thức của Bà Phù thủy mách bảo Sophie về tài xế của bọn họ. Người đàn ông khổng lồ, thể hình tầm vóc như cầu thủ hậu vệ trong sân bóng đá hoặc là tay đô vật chuyện nghiệp, và ta tiếng với giọng rất lạ lùng. Thậm chí Josh nghĩ có thể ta là người Ai Cập. Bốn năm trước, cả gia đình Newman đến Ai Cập. Họ vòng khắp các địa điểm lịch sử cổ đại hết cả tháng trời, và trọng du dương của chành này rất giống với những người mà cậu nghe hồi đó. Josh chồm người tới trước để nhìn người đàn ông này gần hơn. Hai bàn tay với những ngón tay đồ sộ cầm chặt tay lái – và rồi cậu để ý thấy rằng hai cổ tay của ta dày lên, những khớp đốt ngón tay phình ra và cứng ngắc đầy những vết chai sần. Josh từng trông thấy những bàn tay giống như vậy nơi vài võ sư huấn luyện cho cậu; đó thường là dấu hiệu của những người học karate, kung fu hoặc quyền trong nhiều năm.

      “Xin chờ chút.” Palamedes đánh vòng chữ U theo luật lệ gì cả và quặt ngược trở về lối họ vừa qua. “Cứ ngồi lại và ở yên trong bóng tối,” ta cảnh báo. “Có quá nhiều xe taxi đường phố đến nỗi thực tế chúng khó có thể bị ai trông thấy được; thậm chí còn ai nhìn đến chúng. Và hơn nữa, chúng ngờ là ông quay trở lại lối này đâu.”

      Josh gật đầu. Đó là chiến lược thông minh. “Mà ‘chúng’ là ai vậy ạ?” cậu hỏi.

      Trước khi Palamedes trả lời, thình lình Nicholas vươn thẳng người, nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ.

      “Ông thấy chúng ?” Palamedes bằng giọng trầm trầm ồm ồm.

      “Tôi vừa nhìn thấy chúng,” Nhà Giả kim thào.

      “Cái gì vậy?” Sophie và Josh cùng lượt, hai đứa vừa ngồi thẳng lên, vừa nhìn theo ánh mắt của Nhà Giả kim.

      “Ba tên đàn ông ở phía đối diện con đường này,” ông ngắn gọn.

      bộ ba tên thanh niên đầu trọc, xỏ lỗ tai và xăm nhiều hình thù nghênh ngang xuống giữa đường. Mặc những chiếc quần jeans bạc màu, áo thun dơ bẩn và những đôi giày ống kiểu công nhân xây dựng, chúng trông có vẻ đe dọa, nhưng có vẻ gì đặc biệt của những người đến từ thế giới khác.

      “Nếu tụi cháu hé mắt nhìn,” Flamel giải thích, “tụi cháu có thể trông thấy luồng điện của chúng.”

      Hai đứa sinh đôi khép mắt lại chỉ còn hơi ti hí, và ngay tức hai đứa trông thấy những tua xoắn ánh sáng màu khói xám xịt xấu xí bay dập dờn khỏi thân hình bộ ba ấy. màu xám óng ánh ngả sang tím.

      “Bọn Cucubuth,” Palamedes giải thích.

      Nhà Giả kim gật đầu. “Rất hiếm. Bọn chúng là kết quả giữa mụ ma cà rồng với tên Torc Madra,” Flamel với hai đứa . “Bọn chúng thường có đuôi. Chúng là những tên lính đánh thuê, những tay chuyên săn lùng. Bọn hút máu.”

      “Và lầm lì như đất.” Palamedes dừng lại bên cạnh chiếc xe buýt, chiếc xe để lại bọn cucubuth nhìn thấy. “Bọn chúng lần theo mùi hương của các người cho đến tận nhà thờ; rồi mùi hương biết mất. Điều đó làm chúng bối rối. Nếu may mắn, cuối cùng đưa chúng đến việc cãi nhau rồi bắt đầu đánh nhau cho xem.”

      Chiếc xe rà chậm lại, rồi ngừng hẳn khi đèn giao thông đổi màu.

      “Đó, ngay nơi đèn giao thông kìa,” Nicholas thầm .

      “Vâng, tôi ngang qua chúng đường xuống đây,” Palamedes .

      Cặp song sinh đảo mắt khắp giao lộ nhưng thấy gì ngoài những thứ rất bình thường. “Ai vậy ạ?” Sophie hỏi.

      “Mấy nữ sinh,” Palamedes ồm ồm.

      Hai trẻ nước da xanh xao và tóc đỏ quạch chuyện trò trong lúc chờ đèn đổi màu. Họ khá giống nhau đủ để người ta nghĩ là hai chị em và có vẻ như mặc đồng phục học. Cả hai đều đeo những chiếc túi xách xem ra khá đắt tiền.

      “Thậm chí còn được nhìn vào chúng nữa kia,” Palamedes cảnh báo. “Bọn chúng giống như những con thú dữ; có thể cảm nhận được khi ai đó nhìn chúng chăm chú.”

      Sophie và Josh nhìn dán mắt xuống sàn xe, tập trung dữ dội để nghĩ đến hai trẻ. Nicholas cầm lên tờ báo mà ông tìm thấy ở hàng ghế sau và mở bung ra ngay trước mắt ông, tập trung vào mẩu tin nhàm chán nhất ông vừa tìm thấy được, tỷ giá tiền tệ quốc tế.

      “Chúng qua ngay trước xe,” Palamedes vừa lẩm bẩm, vừa nhìn trở lại vào buồng lái, giấu mặt . “Tôi chắc chắn chúng nhận ra tôi được, nhưng tôi muốn liều lĩnh.”

      Đèn đổi màu và Palamedes thoát thân, hòa vào dòng xe cộ đường phố.

      “Dearg Due,” Flamel , trước cả khi cặp song sinh đặt câu hỏi. Ông xoay người nhìn kỹ cửa sổ phía sau xe. Mái tóc đỏ của hai vẫn còn thấy thấp thoáng ngay cả khi chúng lẫn vào đám đông. “Loài ma cà rồng thống trị những lãnh địa mà sau biến cố Nhấn chìm của Danu Talis trở thành vùng đất Celt.”

      “Giống Scatty vậy hả chú?” Sophie hỏi.

      Nicholas lắc đầu. “ có chút gì giống Scatty cả. Hầu như chắc chắn bọn này thuộc giới ăn chay rồi.”

      “Bọn chúng cũng hướng về phía nhà thờ,” Palamedes , rồi tặc lưỡi. “Nếu bọn chúng chạm trán với bọn cucubuth, có thể đó cuộc gặp gỡ đầy thú vị. Bọn chúng ghét nhau ghê lắm.”

      “Ai thắng ạ?” Sophie hỏi.

      “Dearg Due, lúc nào cũng vậy,” Palamedes với nụ cười vui vẻ. “Tôi từng đánh nhau với chúng ở Ireland. Bọn chúng là những chiến binh ác liệt, thể giết chết được.”

      Họ tiếp tục xuống đường Marylebone rồi mới rẽ trái vào đường Hampstead. Xe cộ chậm như rùa bò, rồi cuối cùng tắc tị. Đâu đó phía trước họ những tiếng còi xe inh ỏi, và tiếng rền rĩ của chiếc xe cứu thương bắt đầu cất lên om sòm. “Có lẽ chúng ta phải ở đây lúc rồi.” Palamedes kéo thắng dự phòng và lần nữa xoay người trong chỗ mình để nhìn thẳng vào cặp song sinh và Flamel. “Vậy ra ông chính là Nicholas Flamel huyền thoại, Nhà Giả kim. Tôi từng nghe rất nhiều về ông qua bao nhiêu năm,” ta . “ có gì tốt cả. Ông có biết có những Vương quốc Bóng tối mà ở đó chính tên ông được dùng như lời nguyền rủa ?”

      Cặp song sinh giật mình vì dữ dội trong giọng của người đàn ông này. Hai đứa chắc có phải ta đùa hay nữa.

      Palamedes tập trung vào Nhà Giả kim. “Ông đến đâu là chết chóc và phá hủy theo liền ngay sau gót chân ông đến đó…”

      “Các Elder Đen tối ngừng cố công ngăn chặn tôi,” Flamel chậm rãi, vẻ lạnh lùng nổi trong giọng của ông.

      “… cùng với hỏa hoạn, đói kém, lũ lụt và động đất,” Palamedes cứ tiếp tục ồm ồm, quan tâm đến lời chen ngang vừa rồi.

      có ý gì?” Nicholas hỏi thẳng thừng, và trong thoáng chốc luồng bạc hà tỏa ra nơi băng ghế sau của chiếc taxi. Ông chồm người về phía trước, tựa cùi chõ lên đầu gối mình, hai bàn tay đan lại thành nút gút chặt.

      “Tôi muốn rằng có lẽ ông nên chọn những nơi í tai biết đến để sống nốt cuộc đời dài dằng dặc của mình hơn. Ở Alaska ấy, có thể là vậy, hoặc Mông Cổ, Siberia, vùng xa xôi hẻo lánh của nước Úc hoặc những khúc sông xa xôi của dòng Amazon. Những nơi có người ở. Như vậy có nạn nhân.”

      bầu khí im lặng lạnh lẽo bao trùm phía sau chiếc xe. Hai đứa sinh đôi nhìn nhau, và Josh nhướng mày buông mọt câu hỏi thầm, nhưng Sophie lắc đầu để ai nhận thấy. bé ấn ngón trỏ vào vành tai; Josh hiểu ngay thông điệp: im lặng, được gì hết.

      buộc tội tôi gây ra cái chết cho những người vô tội ư?” Flamel hỏi rất khẻ khàng.

      “Vâng, đúng là như vậy.”

      Khuôn mặt xanh xao của Flamel ửng đỏ. “Tôi chưa bao giờ…” ông mở lời.

      “Lẽ ra ông có thể biến mất khỏi thế giới này rồi,” Palamedes nhấn mạnh, giọng trầm rền làm chiếc xe taxi như rung rung. “Ông giả chết lần, hẳn ông có thể làm lại như vậy lần nữa, rồi sau đó ông cứ việc dựng nhà ở nơi nào đó xa xôi và ai lui tới. Thậm chí ông còn có thể lẻn vào trong những Vương quốc Bóng tối kia mà. Nhưng ông lại làm thế; ông cứ thích chọn ở lại thế giới này. Tại sao vậy chứ?” Palamedes hỏi.

      “Tôi có bổn phận phải bảo vệ cuốn Codex,” Nhà Giả kim cáu kỉnh, nỗi giận dữ đích thực vang trong giọng của ông, mùi bạc hà giờ mạnh lên nhiều, lan khắp trong khí.

      Những tiếng còi xe hơi lại bắt đầu kêu inh ỏi, Palamedes xoay người lại trong chỗ mình, nhả thắng và tiếp tục lái xe .

      “Bổn phận phải bảo vệ cuốn Codex,” ta vừa lặp lại, vừa nhìn trừng trừng phía trước. “ ai buộc ông phải trở thành Người canh giữ quyển sách ấy cả. Ông cứ nhận lấy vai trò đó cách vui vẻ và hề thắc mắc… cứ như tất cả những Người canh giữ khác trước ông vậy. Nhưng ông lại cư xử khác với các vị tiền bối của mình. Họ tìm chỗ lẫn trốn cùng với nó. Nhưng ông . Ông cứ nhất định chịu ra khỏi thế giới này. Và chính vì vậy, nhiều giống người phải chết: chỉ riêng ở Ireland đả đến cả triệu, rồi hơn trăm bốn mươi ngàn ở Tokyo.”

      bị Dee và các Elder Đen tôi giết chết!”

      “Dee truy đuổi ông.”

      “Và nếu tôi dâng nộp Cuốn sách của Abraham,” Flamel điềm tỉnh , “ các Elder Đen tối trở lại thế giới này và trái đất hẳn biết được ý nghĩa của cụm từ Cuộc Chiến Quyết liệt**. Việc mở toạc các Vương quốc Bóng tối ra chắc hẳn làm dấy lên những làn sóng bàng hoàng khắp trái đất, mang theo cùng nó là cuồng phong, động đất và sóng thần. Hàng triệu người chết. Pythagoras*** từng tính toán rằng có lẽ toàn bộ dân số của nửa thế giới bị tiêu diệt chỉ bởi biến cố ban đầu. Và rồi các Elder Đen tối hẳn đổ xô trở lại vào thế giới này. từng gặp vài người trong số họ, Palamedes; biết họ trông giống cái gì, biết họ có khả năng gì. Nếu họ trở lại hành tinh này, đó thực là thảm họa quy mô toàn cầu.”

      “Người ta biến cố đó báo hiệu Thời Hoàng kim mới,” tài xế trả lời ôn tồn.

      Josh chăm chú nhìn mặt Flamel để xem phản ứng của ông; Dee cũng đưa ra những lời khẳng định như vậy.

      “Đó là những gì họ , nhưng đúng. từng trông thấy những gì họ làm khi họ cố giành lấy Cuốn Sách khỏi tay tôi. Nhiều người phải chết. Dee và các Elder Đen tối quan tâm gì đến sinh mạng con người,” Flamel cãi lại.

      “Nhưng ông quan tâm chắc, thưa ông Nicholas Flamel?”

      “Tôi thích lối của .”

      Trong kính chiếu hậu, nụ cười của Palamedes dữ tợn. “Tôi quan tâm việc ông có thích hay . Bởi tôi hề thích ông, mà cũng thích những kẻ giống như ông, những kẻ cho rằng họ biết điều gì là tốt nhất cho thế giới này. Ai chỉ định ông làm người canh giữ loài người vậy chứ?”

      “Tôi phải là người đầu tiên; có những người khác trước tôi kia mà.”

      “Luôn có những người giống như ông, Nicholas Flamel. Những người nghĩ rằng họ biết đâu là điều tốt nhất, những người quyết định người ta nên thấy, nên đọc và nên lắng nghe cái gì, những người rút cục muốn định hình cho phần còn lại của thế giới này tư duy và hành động ra sao. Tôi mất trọn cả cuộc đời mình chiến đấu chống lại những kiểu người giống như ông rồi đấy.”

      Josh chồm người tới trước. “Ông ủng hộ các Elder Đen tối phải ?”

      Nhưng chính Flamel lại là người trả lời. Giọng ông tỏ ra khinh miệt. “Hiệp sĩ Saracen Palamedes đứng về phe nào hàng thế kỷ nay rồi. Về khía cạnh đó, ông ấy giống hệt Hekate.”

      “Cũng là nạn nhân khác của ông,” Palamedes bồi thêm vào. “Ông làm cho thế giới của bà ấy tan tành.”

      “Nếu ghét tôi đến thế,” Flamel lạnh tanh, “ làm gì ở đây vậy?”

      “Francis nhờ tôi giúp, và mặc cho cậu ta phạm phải nhiều lỗi lầm, hoặc có lẽ chính vì như vậy, tôi luôn xem cậu ấy là bạn.” tài xế chìm vào im lặng, và rồi đôi mắt nâu của ta lung linh trong tấm kính chiếu hậu để nhìn tận mặt Sophie và Josh. “Và, tất nhiên, bởi vì cặp sinh đôi cuối cùng này,” ta thêm.

      Sophie xen vào và thốt ra câu hỏi cũng mấp máy môi cậu em trai. “Ý ông là sao, cặp cuối cùng hả?”

      “Các người nghĩ mình là cặp đầu tiên sao?” Palamedes nổ bung ra tràng cười lớn. “Nhà Giả kim và vợ ông ấy lùng kiếm những cặp sinh đôi huyền thoại hàng bao nhiêu thế kỷ nay rồi. Họ mất cả năm trăm năm qua để tập hợp những cậu trẻ y như các bạn vậy.”

      Sophie và Josh nhìn nhau, bàng hoàng. Josh lảo đảo đổ người về phía trước. “Chuyện gì xảy ra với những người kia?” cậu hỏi dồn.

      Palamedes phớt lờ câu hỏi này, vì thế cậu con trai quay sang Nicholas. “Chuyện gì xảy ra với những người kia?” cậu lặp lại, giọng cậu vỡ ra khi cất cao gần như thành tiếng thét. Chỉ chưa đầy tích tắc, đôi mắt cậu thấp thoáng màu vàng ánh kim.

      Nhà Giả kim cúi nhìn xuống, rồi chậm rãi và thong thả gỡ những ngón tay của Josh túm chặt nơi cánh tay ông.

      tôi nghe xem nào!” Josh có thể nhìn thấy lời dối dâng lên đằng sau đôi mắt của người bất tử và cậu lắc đầu. “Chúng tôi xứng đáng được .” Cậu cáu kỉnh: “ chứ.”

      Flamel hít thở sâu. “Được rồi,” cuối cùng ông ta . “ từng có những người khác, đó là , nhưng họ phải cặp song sinh huyền thoại.” Rồi ông ngồi trở lại vào chỗ mình và khoanh tay trước ngực. Ông nhìn từ Josh sang Sophie, khuôn mặt ông như chiếc mặt nạ hề biểu cảm. “Còn hai đứa đúng.”

      “Thế chuyện gì xảy ra cho những cặp song sinh kia?” Josh hỏi gằn, giọng cậu rung rung, cảm giác kết hợp giữa giận dữ và sợ hãi.

      Nhà Giả kim quay mặt chỗ khác và nhìn trân trân ra cửa sổ.

      “Tôi nghe họ chết,” từ hàng ghế trước, Palamedes vọng ra sau. “Chết hoặc hóa ra điên loạn.”

      *Tín đồ Hồi giáo đánh nhau với Thập tự quân Cơ-đốc thời Trung cổ.

      **Tiếng là Armageddon, theo Kinh thánh, đây là cuộc chiến quyết liệt giữa thiện và ác, kết quả là tận thế và bắt đầu ngày phán xét cuối cùng.

      ***Nhà triết học và toán học của Hy Lạp cổ đại.

      Chương 7

      Nguồn : e-thuvien.com

      Làm prc: Vanlydocnhan

      tấm biển bong tróc kia ban đầu ghi hàng chữ PHỤ TÙNG XE HƠI, nhưng chữH thứ hai rơi đâu mất mà thấy ai thay chữ khác vào. Đằng sau bức tường bằng bê-tông phía đầu cắm những mảnh kính vỡ và dây kẻm gai quấn lòng vòng là những ngọn tháp làm bằng hàng trăm triếc xe hơi gỉ sét cái này nằm chồng chênh vênh cái kia. Bờ tường vây lấy bãi để xe phủ kín mít những tấm poster bị lột ra từng mảng đó in quảng cáo những buổi hòa nhạc qua lâu lắm rồi, những album “mới ra” cả năm nay và những nhóm trượt indy* đếm xuể. Những tờ quảng cáo được dán đè lên nhau tạo thành lớp dày cộp đủ thứ màu sắc, rồi lại được những hình vẽ tường phủ chồng lên lần nữa. Hầu như thể nào nhìn thấy được những tấm biển ghi NGUY HIỂM – CẤM VÀO và CẤM XÂM NHẬP.

      Palamedes rà xe sát vào lề đường cách cổng vào được mắc dây xích nặng trịch khoảng khu nhà và tắt máy.

      Ghì cả hai cánh tay vô-lăng, ta chồm người ra phía trước và cẩn thần xem xét khắp xung quanh.

      Flamel chìm vào giấc ngủ, và Sophie như lạc vào vùng tư duy của riêng mình sao đó mà thỉnh thoảng con ngươi trong mắt bé lại lấp loánh ánh bạc. Josh ra khỏi chỗ ngồi của mình và thu mình dưới sàn xe đằng sau tấm kính chắn. “Ông mang chúng tôi đâu thế này?” Josh vừa hỏi, vừa hất đầu về phía bãi xe.

      “Tạm thời.” Hàm răng Palamedes lóe sáng trong vùng tôi bên trong chiếc xe. “ Xem ra có vẻ giống lắm, nhưng có lẽ đây là nơi an toàn nhất London.”

      Josh nhìn quanh. Những căn nhà bằng gạch đỏ ở cả hai phía của con đường hẹp này đều ọp ẹp xiêu vẹo hết cách sửa chữa, còn nhìn chung toàn bộ khu vực tồi tàn và hư nát. Hầu hết các cửa ra vào và cửa sổ đều bị bịt kín bằng ván, thậm chí số còn bị vây bít lại bằng gạch. Ô cửa kính nào cũng vỡ toang. chiếc xe hơi bị cháy rụi nằm lù lù thành đống gỉ sét những khoảng bê-tông cạnh con đường, và cả khu phố hề có chuyển động nào hết. “Tôi ngạc nhiên tại sao khu vực này được quy hoạch lại hay là làm cái gì đó đại khái như vậy nhỉ.”

      “Rốt cuộc cũng làm thôi,” Palamedes với vẻ sầu thảm. “Nhưng người chủ đất nay sẳn sàng bỏ mặc vùng đất này chờ đến khi nào nó lên giá.”

      “Chuyện gì xảy ra nếu ông ta bán đứt nó nhỉ?” Josh hỏi.

      Palamedes cười toe. “Tôi bao giờ bán đứt nó đâu.” Ngón tay trỏ bên phải của ta di chuyển, chỉ thẳng ra đằng trước. “Trước kia từng có xưởng xe hơi ở đây, và công nhân đầy đường phố. Khi nhà máy đóng cửa vào những năm 1970, mấy căn nhà bắt đầu bị bỏ trống vì người ta chết hoặc di chuyển đến nơi khác để tìm việc làm. Thế là tôi bắt đầu mua lại toàn bộ vùng này.”

      “Ông sở hửu từ đầu đến tận đâu?” Josh hỏi, đầy ấn tượng.

      “Hết thảy khoảng hơn cây số rưỡi mỗi chiều. hai tăm căn nhà gì đó.”

      hai trăm căn nhà! Nhưng chắc hẳn ông phải chi cho khu đất này cả gia tài.”

      “Tôi sống trái đất này từ trước thời vua Arthur. Tôi làm ra và mất biết bao nhiêu gia tài. giàu có của tôi thay đổi thất thường… khó khăn nhất là làm sao che giấu được sở thuế vụ!”

      Josh chớp mắt ngạc nhiên; cậu bao giờ hình dung nổi người bất tử lại có vấn đề với chính phủ. Rồi cậu nhận ra rằng trong thời đại máy tính cùng những công nghệ giám sát khác, để che giấu được nhà cầm quyền cái gì đó hẳn càng ngày phải càng mất nhiều công sức hơn. “Có ai sống ở đây ?” cậu hỏi. “Tôi thấy ai hết…”

      “Cậu thấy đâu. Mấy người ta ấy” – ta sử dụng từ cách cẩn thận – “những người sống trong căn nhà của tôi chỉ ra ngoài vào ban đêm.”

      “Ma cà rồng,” Josh lầm bầm.

      phải ma cà rồng,” Palamedes nhanh. “Tôi giờ cho bọn hút máu ấy đâu.”

      “Vậy là cái gì?”

      “Ấu trùng và vượn cáo… những thứ chết và chết được.”

      “Mà chúng là cái gì mới được?” Josh hỏi. Cậu cho rằng ấu trùng ở đây chắc phải là loài côn trùng non và vượn cáo chắc phải là loài động vật linh trưởng đuôi dài mà câu trông thấy trong sở thú đâu.

      “Chúng là…” Palamedes ngập ngừng, rồi mỉm cười. “Chúng là những sinh vật siêu tự nhiên sống về đêm.”

      “Chúng có thân thiện ?”

      “Chúng rất trung thành.”

      “Vậy tại sao chúng ta phải chờ đợi?” Josh hỏi. ràng là Palamedes chưa hết với cậu những thứ khác nữa. “Ông tìm kiếm cái gì vậy?”

      thứ bình thường.”

      “Vậy bây giờ chúng ta làm gì?”

      “Chúng ta chờ. Chúng ta quan sát. Hãy kiên nhẫn chút mà.” ta liếc lui về phía Josh. “Cho đến lúc này có nhiều người trong giới bất tử biết rằng Nhà Giả kim phát ra cặp song sinh huyền thoại.”

      Josh ngạc nhiên trước thẳng thắn bộc trực mà người hiệp sĩ này dành cho cậu. “Có vẻ như ông chắc lắm về những điều xảy ra nảy giờ. Ông có nghĩ chúng tôi như thế ?” cậu hỏi nhanh. Cậu cần phải tìm ra xem Palamedes biết gì về cặp song sinh và, quan trọng hơn, là về Nhà Giả kim.

      Nhưng Palamedes quan tâm đến câu hỏi này. “ quan trọng các bạn có phải là cặp song sinh huyền thoại hay . Điều quan trọng là Flamel tin như thế. Quan trọng hơn nưa, Dee cũng tin như vậy. Chính vì thế, loạt những biến cố khác thường diễn ra: lần nữa Bastet lại ra ngoài, Morrigan trở lại trái đất, Disir mang Nidhogg vào Paris. Ba Vương quốc Bóng tối bị phá hủy. Những chuyện đó chưa từng xảy ra trong nhiều thiên niên kỷ nay.”

      “Ba lận sao? Tôi nghỉ chỉ có mình vương quốc của Hekate bị phá hủy thôi chứ.” Scathach đến những Vương quốc Bóng tối khác, nhưng Josh hề ý thức chính xác có bao nhiêu vương quốc tồn tại.

      Palamedes thở dài, ràng là ta chán ngán muốn giải thích. “Hầu hết các Vương quốc Bóng tối đều nối kết hoặc giao nhau qua cánh cổng duy nhất. Nếu có chuyện gì xảy ra cho Vương quốc Bóng tối cánh cổng đó đổ sập. Nhưng Yggdrasill, Cây Thế giới, lại trải dài suốt từ vương quốc của Hekate đến Asgard và xuống sâu vào tận Niflheim, Thế giới Tối tăm. Tất cả ba vương quốc này đều chớp nháy tan biến khi Dee phá hủy cái cây ấy, và tôi biết rằng những cánh cổng dẫn tới hơn nữa chục vương quốc khác điều bị đổ sập, thực sư phong tỏa lập thế giới đó và những cư dân sống trong đó. Dee vừa ghi thêm vài kẻ thù nữa vào bảng danh sách vốn rất dài – cả những con người lẫn phải con người – gồm những ai từng căm ghét và kinh sợ trước đây rồi.”

      “Vậy chuyện gì xảy đến với ông ta?” Josh hỏi. Mặc cho tất cả những gì cậu nghe về tay Pháp sư này, cậu vẫn thấy mình có chút cảm phục đối với ông ta… còn hơn cảm giác mà cậu có đối với Nhà Giả kim người Pháp lúc này.

      sao cả. Dee được những chủ nhân đầy quyền lực bảo vệ. chỉ việc hoàn toàn tập trung vào việc mang các Elder quay trở lại trái đất này bằng mọi phương tiện có thể.”

      Josh vẫn chưa hiểu được điều đó. “Nhưng tại sao mới được chứ?” cậu hỏi.

      “Bởi vì là kẻ thù nguy hiểm nhất: hoàn toàn tin tưởng rằng những gì làm là đúng.”

      chuyển động lóe lên nơi khóe mắt Josh và cậu quay người lại vừa lúc nhìn thấy con chó màu nâu xám rảo bước xuống giữa con đường, chạy đường kẻ trắng. Nó trông giống như con vật lai giữa loài sói xứ Ireland với loài Borzoi, giống chó chuyên săn sói ở Nga. Nó lao nhanh qua chiếc taxi, chạy thẳng đến những cánh cổng của bãi xe, rồi bước tới lui hít hít ngửi ngửi mặt đất.

      “Flamel đến làm khuấy động lên nhiều thứ cổ xưa,” Palamedes vừa tiếp, vừa chăm chú quan sát con chó. “Hôm nay tôi trông thấy những sinh vật mà tôi tưởng biến mất hoàn toàn khỏi trái đất này rồi, những con quái thú sản sinh ra những truyện thần thoại đen tối nhất của nòi giống người. Cậu cũng nên biết rằng Dee treo khoản tiền thưởng đầu các người. Các gián điệp của tôi bảo tôi rằng muốn cậu và chị của cậu phải còn sống. thú vị, muốn có được Flamel còn sống nữa; chấp nhận bằng cớ chứng minh Flamel chết. Đó là thay đổi rất lớn. Các Elder, Thế hệ Kế tiếp, những người bất tử và các tay sai loài người của họ tất cả đều cùng đổ về London. Chỉ nguyên việc giữ cho đám đông nhốn nháo ấy ngoạm vào cổ nhau công việc nặng nhọc rồi; tôi sao hình dung được Dee làm chuyện này như thế nào.” Đột nhiên Palamedes bật động cơ lên lại, rồi nhích lần lần chiếc xe lên phía trước. “Chúng ta có trở ngại gì,” ta thông báo.

      “Làm sao ông biết được?”

      Palamedes chỉ về hướng chú chó ngồi trước cánh cổng, đối diện với họ. ta nhấn các nút bảng đồng hồ và cánh cổng bắt đầu trượt mở ra.

      “Con chó,” Josh trả lời câu hỏi của chính mình. “Ngoại trừ nó phải là chú chó, phải vậy ?”

      Palamedes nhe răng cười. “Đó phải là chó.”

      * kiểu trượt .

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 8
      Nguồn : e-thuvien.com
      Làm prc: Vanlydocnhan
      Hết thảy nào là lông nào là tóc thân hình khổng lồ của Areop-Enap đều bất chợt dựng đứng lên hết, từng sợi đều rung rung. “Quý bà Perenelle ơi,” bà ta . “Tôi có thể đề nghị chuyện có vẻ như rất sốc.”
      Perenelle quay người về phía bà Elder. Đằng sau bà ta, vô số những con nhện sao đếm xuể chạy tán loạn từ bên này sang bên kia bức tường đồ sộ làm bằng những tấm mạng do chính những sinh vật ấy tạo ra. “Khó làm tôi sốc được lắm đó nghe.”
      “Bà có tin tôi ?” Areo-Enap hỏi.
      “Tin chứ,” Perenelle chút chần chừ. Bà từng có lần xem bà Lão Nhện này là kẻ thù triệt để, nhưng bây giờ bà biết lòng trung thành của bà ta đặt vào đâu – nơi con người. Và điều đó được chứng minh trong cuộc chiến đấu với Morrigan và lũ chim chóc của mụ ta. “Bà muốn làm gì nào?”
      “Cứ bình tĩnh và đừng hốt hoảng,” Areo-Enap kèm theo nụ cười nghe hết cả răng ra. “Việc này là vì lòng tốt của bà đấy nhé.” Bất ngờ, tấm mền bằng mạng nhện rơi ụp xuống Nữ Phù thủy, bao phủ bà từ đầu đến chân. làn sóng nhện chảy lan nền đất qua mình người phụ nữ, nhanh chóng bọc lấy bà trong làn vải, buộc chặt những sợi vải dinh dính sát vào thân hình ba như tấm áo choàng. “Hãy tin tôi ,” Areop-Enap lại vậy lần nữa.
      Perenelle vẫn đứng yên nhúc nhích, mặc dù mọi bản năng trong người bà đều muốn chiến đấu chống lại tấm mạng ấy, xé nó ra thành từng mảnh, muốn để cho luồng điện của bà tỏa ra và nướng chúng thành bụi cháy đen. Miệng bà mím chặt. Bà từng đánh nhau với những con quái thú và từng trông thấy những sinh vật đến từ những bờ rìa tăm tối nhất trong những truyện thần thoại của loài người, những bà vẫn thấy ý tưởng để cho con nhện bò vào miệng mình hoàn toàn là điều đáng kinh tởm.
      Cái đầu Lão Nhện xoay xoay, và cái chân dài giơ lên, những sợi lông mềm xòe ra kiểm tra khí. “Hãy chuẩn bị tinh thần,” Areop-Enap . “Chúng đến. Bao lâu tấm mạng vẫn chưa bị rách ra, bấy lâu bà vẫn được bảo vệ.”
      Lúc này Perenelle hoàn toàn được bọc trong cái kén dày làm bằng mạng nhện màu trắng bóng mượt. Trước đây bà từng mặc những mình lụa mịn màng nhất, nhưng thứ này khác hẳn. Giống hệt như được quấn chặt trong tấm chăn mềm mại, thoải mái thể tin được nhưng lại hơi co khít vào người. tấm mạng mỏng hơn bao quanh miệng và mắt bà, để bà có thể thở và nhìn thấy được, nhưng như thể nhìn qua bức màn sương mù. Bà cảm thấy cú lắc mạnh, rồi đột nhiên bà bị nhấc bổng lên trung và bị đút vào góc. là sóng những con nhện đen thui ngay lập tức bò lên mình bà, buộc chặt cứng cái kén ấy vào hai bên tường và thanh xà chống đỡ của ngôi nhà. Từ vị trí thuận lợi mới của mình, bà có thể nhìn xuống căn phóng đến tận nơi Areop-Enap ngồi chồm hổm ngay giữa sàn. Perenelle nhận ra rằng tấm thảm tối om bên dưới bà Elder là khối có đến hàng ngàn – thậm chí có thể lên đến hàng triệu – những con nhện. Sàn nhà gợn sóng lăn tăn và dao động bên dưới Areop-Enap, ngồi đối diện với hướng bắc, quay mặt về phía Đảo Thiên Thần, lúc này chìm trong màn sương buối sáng sớm tinh khôi. Xoay chuyển người trong chiến kén, Perenelle rướn mình cũng nhìn về phía đó. Từ chỗ trú của mình, bà có thể nhìn ra mặt trước. Có những đám mây báo bão tập trung nơi đường chân trời, dày đặc và nhuốm màu đen ngả sang xanh lơ; bà tưởng như trông thấy chúng xoắn và bắn tung tóe ra cùng với ánh chớp. Nhưng qua màn lụa bao phủ lấy mặt mình, bà lại thấy đám mây này xoắn vặn, xoay cuộn vào trong chính nó… và càng lúc càng lao tới gần hơn. Chỉ mới khoảng chục lần chớp mắt, nó bay đến đầu phía bắc của Alcatraz.
      Và rồi trời chợt đổ mưa.
      có mái che Khu nhà ở của Cai tù vô cùng đổ nát. Những giọt nước đen nặng hạt rơi ra khỏi đám mây và vỗ bẹp lên chiếc kén bằng mạng nhện của Perenelle… rồi dính luôn vào đó.
      Và Nữ Phù thủy bất ngờ nhận thấy rằng đây phải là những giọt mưa – chúng là những con ruồi.
      Những con ruồi xanh cùng với những con ruồi nhà khổng lồ, những con ruồi giấm lùn bè bè, những con ruồi trâu mình hẹp, những con ruồi như lính ra trận, nhưng con ruồi như tên cướp đổ mưa xuống hòn đảo, vụt đập và dính vào chiếc kén làm bằng mạng nhện của bà.
      Thậm chí cả khi Perenelle chưa kịp kêu lên vì ghê tởm, từng con nhện phóng qua bên kia tấm mạng và bắt đầu bọc lấy những con ruồi vùng vẫy trong bức màn lụa.
      Perenelle ngước nhìn lên. Đám mây khổng lồ ấy gần như ở ngay phía đầu. Nhưng bây giờ bà có thể thấy đó chẳng phải là đám mây gì cả. Cơn mưa côn trùng mới vừa rồi chỉ là chút khởi đầu của những gì sắp đến. Khối lúc nhúc khuấy đục cả bầu trời ấy chính là những con ruồi, hàng triệu con, những con ruồi to với thân và chân rất dài cùng những con muỗi mắt hút máu màu sâm sẫm, những con muỗi thường và những con ruồi giấm bụng đen mắt đỏ.
      Các loài côn trùng xòa xuống Alcatraz thành tấm phủ tối sầm kêu vo vo. Làn sống đầu tiên bị bắt bởi những mạng nhện bóng mượt màu trăng trắng, nhanh chóng hóa ra đen thui và trĩu nặng dưới trọng lượng của những con côn trùng lăn qua lộn lại. Perenelle chăm chú nhìn những tấm mạng quấn quanh bà nhanh chóng bị đứt toạc và xé rách khi càng lúc càng có nhiều con ruồi bị mắc bẫy và nhanh chóng ghì chặt lấy chúng theo thế trận cổ xưa lắm rồi. Những bức tường bọc trong lớp lụa nhấp nhô phập phồng với những con nhện ngọ nguậy và những con ruồi vùng vẫy trong tuyệt vọng, cho tới khi trông như thể toàn bộ các bề mặt của tòa nhà sống dậy, thở theo nhịp và đập rộn ràng.
      Những con ruồi xoay tít quanh Areop-Enap, và số thấy Perenelle được giữ trong tấm mạng nhện bảo vệ quấn quanh bà. Rất khẽ, bà có thể nghe được tiếng vo vo của chúng khi chúng cố thoát thân.
      Ngày càng nhiều làn sống ruồi cuốn giạt vào hòn đảo, và những con nhện – Perenelle hình dung nổi là có quá nhiều như vậy – trèo lên mình chúng. Những con ruồi đông đen sao kể xiết dán chặt mình vào Areop-Enap, hoàn toàn bao phủ lấy Lão Nhện, cho tới khi chúng giống như trái banh khổng lồ kêu vo vo rì rầm. Cái chân đồ sộ của Bà Elder phát mạnh vào khối nhấp nhô ấy, vãi đợt vỏ khô của xác côn trùng chết tung rắc khắp nơi, nhưng lại có nhiều con lao vào thế chỗ hơn. Bà Elder nhảy lên và rồi đâm sầm xuống nền đất, nghiến nát hàng ngàn con nữa bên dưới thân mình khổng lồ của bà.
      Và làn sống ghê tởm ấy vẫn cứ dâng lên dâng lên thêm mãi cho đến vô cùng vô tận.
      Rồi, bất thình lình, Perenelle để ý thấy những bức tường và sàn nhà còn chuyển động và gợn lăn tăn nữa. Tập trung cách khó khăn xuyên qua tấm màn như phủ sương ngay trước mắt mình, bà trông thấy thứ làm bà rất đỗi bàng hoàng: những con nhện sắp chết. Bà quan sát con nhện mình sọc đen trắng thụt lúc hai cái răng nanh màu xanh lơ óng ánh ngũ sắc vào con ruồi to lớn có thân và chân dài nhằng bị kẹt vào tấm mạng dinh dính của con nhện ấy. Con ruồi quẫy đập, cố chạy thoát trong tuyệt vọng, nhưng rồi, bất ngờ con nhện run bắn người và đông cứng lại. Cả hai sinh vật đều chết cùng lúc. Và việc đó cứ diễn diễn lại: ngay lúc con nhện cắn vào con ruồi, nó liền chết cứng. Phải khó khăn lắm mới có thể làm cho Nữ Phù thủy sợ hãi, nhưng giờ bỗng dưng bà bắt đầu cảm nhận những cơn nhức nhối đầu tiên của bất an.
      Phải có ai hoặc cái gì khiến cho những con ruồi kia đánh thuốc độc mấy con nhện.
      Và nếu duy chỉ con ruồi có thể giết chết con nhện, vậy khối khổng lồ ruồi kia làm gì Areop-Enap?
      Perenelle phải ra tay mới được. Khắp chung quanh bà, hàng triệu con nhện ngắc ngư gần chết, do bị trúng độc của những con ruồi. Areop-Enap biến mất dưới đống ghê tởm kia. Vẫn còn những đợt nhấp nhô phập phồng khi Lão Nhện vật lộn và quẫy đạp, nhưng khi Nữ Phù thủy quan sát kỹ hơn, bà nhận ra rằng những đợt chiến đấu yếu dần . Areop-Enap cổ xưa và rất nguyên sơ nhưng phải là hoàn toàn thể bị tổn thương được. có gì – Elder, Thế hệ Kế tiếp, người bất tử hoặc con người bình thường – hoàn toàn thể bị hủy hoại được. Thậm chí cả Areop-Enap cũng . Bản thân Perenelle từng có lần làm sụp đổ cả ngôi đền cổ xuống đầu của Bà Nhện và bà ta xem cuộc tấn công ấy chẳng ra gì – song liệu bà ta có sống sót nổi trước hàng tỷ con ruồi chứa đầy chất độc ?
      Nhưng Perenelle bị giữ chặt mất rồi. Areop-Enap nhét bà tít cao trong hốc tường, xa khỏi vùng nguy hiểm. Nếu bà định cắt đứt cái kén làm bằng mạng nhện, bà rơi ít nhất là sáu mét xuống mặt sàn bên dưới. Có lẽ cú va chạm đó giết chết bà đâu, nhưng có làm trật mắt cá chân hoặc gãy cẳng chân bà.
      Và bà phải làm thế nào để đánh bại được trận dịch ruồi?
      Nhìn xa xa phía ngoài hòn đảo. Bà trông thấy dòng mạch xoắn cuộn khác toàn những con côn trùng lao vào theo cơn gió. khi chúng đến được Alcatraz, tất cả kết thúc. Gió đưa vọng vào những tiếng vo ve kêu rền yếu ớt, như thanh của cái cưa máy nghe từ xa lắm.
      Gió.
      Gió mang côn trùng lên hòn đảo này… vậy Perenelle cũng có thể dùng gió để xua chúng chứ?
      Nhưng ngay khi ý tưởng đó xẹt ngang tâm trí mình cũng là lúc Perenelle nhận ra rằng bà nắm đủ toàn bộ hiểu biết về gió để kiểm soát yếu tố này cách chính xác. Có lẽ nếu bà có đủ thời gian để chuẩn bị và luồng điện của bà được nạp đầy, chắc hẳn bà cố dựng lên số loại gió – cơn bão nhiệt đới dữ dội, có thể, hoặc cơn lóc xoáy nho - ngay giữa lòng đảo và quét sạch hết loài ruồi, và cũng có thể là cả loài nhện nữa chừng. Bà cần phải làm thứ gì đó đơn giản thôi… và bà cần phải làm nhanh. Tất cả những con nhện đều chuyển động nữa. Hàng triệu con ruồi chết, nhưng hàng triệu con nữa vẫn còn, và chúng tụ lại mình Areop-Enap.
      Vậy nếu bà thể xua đuổi những con ruồi ra khỏi hòn đảo, bà có thể dẫn dụ cho chúng khỏi đây được ? ai đó kiểm soát loài côn trùng này – Elder đen tối hoặc người bất tử nào đó, chắc hẳn đầu tiên họ phải đầu độc chúng trước , rồi khích cho những con côn trùng dại dột bé xíu ấy lên hòn đảo. Ở đây có cái gì thu hút chúng. Nhận thức như vậy, đôi mắt Perenelle choàng mở. Vậy chắc hẳn phải có thứ gì đó thu hút chúng. Cái gì có thể thu hút hàng triệu con ruồi như thế?
      Ruồi thích cái gì vậy cà?
      Đằng sau tấm mạng mờ, Perenelle mỉm cười. Nhân sinh nhật năm tram tuổi của bà vào ngày 13 tháng Mười năm 1820, Scathach tặng bà mặt dây chuyền rất đẹp để làm quà, chỉ là mảnh ngọc bích chạm hình con bọ hung. Hơn ba ngàn năm trước đó, Bóng tối mang nó từ Nhật Bản về cho ông vua trẻ Tutankhamen, Ankhesenamen, nên muốn ta chiếm giữ nó, vì thế đột nhập vào cung điện hoàng gia vào đêm rất khuya ngay trước khi vị vua trẻ ấy được ướp xác rồi lấy lại món quà ấy. Khi Scathach tặng cho bà mặt ngọc bích, Perenelle đùa, “ tặng cho tôi con bọ phân đấy.”
      Scathach gật đầu nghiêm túc. “Phân có giá trị hơn bất cứ kim loại quý hiếm nào. Bà làm sao có thể nào trồng lương thực trong vàng được kia chứ.”
      Mà ruồi bị hấp dẫn bởi phân.
      Nhưng có đống phân nào hòn đảo này cả, mà để thu hút chú ý của bầy ruồi, có lẽ bà phải tạo ra thứ mùi hôi thối cách khác thường. Ngay lập tức Perenelle nghĩ đến những loài cây xinh đẹp thuộc họ cây chân bê. số trong chúng có mùi hôi thối rất đáng ghê tởm của phân. Có những loài hoa thân thảo giống như xương rồng hoang nhưng mùi rất hôi thối: ngắm rất đẹp, nhưng sặc mùi xác chết thối rữa lâu ngày. Và có những giống rau như bắp cải lại có mùi kinh khủng của chồn hôi, và bông hoa to lớn nhất thế giới, hoa rafflesia khổng lồ, hoa loa kèn xác chết thối, đều mang thứ mùi tồi tệ của thịt thối rữa. Nếu bà có thể tái các thứ mùi ấy, có lẽ bà có thể chiêu dụ được bọn ruồi cút khỏi đây.
      Perenelle biết rằng giữa lòng mọi ma thuật và phép phù thủy là khả năng tưởng tượng. Chính món quà này mang lại tập trung mãnh liệt đặc trưng cho những pháp sư quyền lực nhất; trước khi thử bất kỳ pháp thuật vĩ đại nào, họ đều phải nhìn thấy ràng kết quả cuối cùng. Vì thế trước khi tập trung vào việc tạo ra mùi hương này, bà cần phải nghĩ đến địa điểm lung linh nơi bờ rìa tâm thức của Perenelle. Những nơi mà bà từng sống, những nơi bà từng đến. Trong cuộc đời dài đằng đẳng của mình bà có dịp tham quan rất nhiều nơi thế giới. Nhưng những gì bà cần bây giờ là nơi nào đó gần gũi ở mức vừa phải, nơi bà biết , và nơi có dân cư đông đúc.
      Bãi rác ở San Francisco.
      Bà chỉ mới đến bãi rác nhân dịp gần đây. Vài tháng trước, bà giúp trong những nhân viên tại tiệm sách dời nhà đến căn hộ mới. Sau đó, họ lái xe xuống miên nam về phía công viên Monster và bãi rác đường Recycle. Luôn nhạy cảm với các thứ mùi, Perenelle bắt được ngay thứ mùi hăng hăng rất – mặc dù hoàn toàn khó chịu – thứ mùi của bãi rác khi họ rẽ vào đại lộ Tunnel. Khi họ tiến gần hơn, mùi hôi thối làm chảy cả nước mắt và gian tràn ngập thanh do tiếng kêu của vô số loài ruồi nhặng.
      Bây giờ Perenelle khơi gợi ký ức đó ra. Cố định bãi rác ấy ràng trong trí tưởng tượng của bà, bà mường tượng ra đống thối tha khổng lồ, những bông hoa có mùi xác chết nằm ngay giữa đống rác thải và rồi bà hình dung cơn gió mang thứ mùi thối tha kinh khủng ấy theo hướng bắc tiến về phía Alcatraz.
      Mùi hôi hám của những thứ thối rữa lâu ngày thoảng đến hòn đảo và làn sóng chạy xuyên qua khối ruồi tụ tập kia.
      Perenelle tập trung ý chí. Bà tưởng tượng bãi rác ngổn ngang, lác đác chỗ này chỗ kia là những bông hoa nở rộ: những đóa hoa calla và carrion nhú lên khỏi đống rác rưởi, hoa rafflesia khổng lồ điểm những đốm trắng và đỏ lớn rất nhanh giữa những đồ tạp nhạp vứt , và khí tràn ngập những mùi độc hại, trộn lẫn với thứ mùi hôi hám riêng của bãi rác. Rồi bà hình dung ra cơn gió đẩy tất cả những thứ mùi ấy bay về phương bắc.
      Mùi hôi thối tràn vào hòn đảo là thứ mùi khó chịu làm người ta chảy nước mắt. làn sóng dao động xuyên qua tấm thảm ruồi giày cộp. số cất mình lên kêu vo ve trong trung, bay lòng vòng định hướng nhưng rồi lại đậu xuống Areop-Enap.
      Perenelle mệt mỏi, và bà biết rằng nổ lực này làm bà già . Hít thở sâu, bà cố gắng thực nỗ lực cuối cùng. Bà phải kích động được lũ ruồi này trước khi bầy ruồi thứ hai đến nhập bọn với chúng. Bà tập trung hết sức vào mùi hôi thối kinh khủng ấy đến nỗi luồng điện màu trắng tinh như nước đá mùi của bà tỏa sáng lung linh và hơi thoang thoảng mùi thối rữa.
      Mùi hôi thối đáng kinh tởm ùa vào hòn đảo là hỗn hợp giữa mùi phân tươi trộn lẫn với thịt thối rữa lâu ngày cùng với mùi ôi thiu của sữa bị chua, tất cả làm người ta phát buồn nôn.
      Những con ruồi bay lên khỏi Alcatraz thành tấm mền đen cứng ngắc. Chúng kêu rền và phát ra tiếng o o như trạm phát điện và rồi, cùng nhau muôn con như , bắt đầu lên đường hướng về phía nam thẳng đến nguồn phát ra mùi hôi thối khó chịu ấy. Đám côn trùng vừa khởi hành đụng độ với đám ruồi khổng lồ thứ hai ngay khi bọn này vừa định đáp xuống hòn đảo và cả hai nhóm hòa lẫn vào nhau thành trái banh màu đen dày đặc vô cùng to lớn; rồi toàn bộ khối ruồi đó đổ về phương nam, bay theo mùi hương nồng đượm.
      Trong chốc lát, còn con ruồi sống nào hòn đảo.
      Areop-Enap lắc mình cho những xác ruồi li ti rơi ra rồi chầm chậm và khó nhọc trèo lên bức tường, rạch tấm mạng giữ Perenelle đúng chỗ và hạ bà nhàng xuống đất sợi tơ hình xoắn ốc hẹp. Perenelle để cho luồng điện của mình lóe sáng trong phần ngàn giây và chiếc kén làm bằng tơ nhện, giờ lấm tấm và lốm đốm đầy những con ruồi bị mắc bẫy, giòn tan thành bụi. Bà quay đầu trở lại, hất mái tóc ẩm khỏi trác và cổ rồi hít thở sâu. Hơi ấm ngột ngạt tỏa ra trong tấm mạng.
      “Bà có sao ?” bà vừa hỏi, vừa giơ tay đánh vào mấy cái chân to đùng của bà Elder.
      Areop-Enap lắc lư tới tới lui lui. Chỉ có trong mấy con mắt của bà ta mở ra thôi, và khi , những lời ngọng nghịu bình thường của bà ấy líu nhíu hầu như sao hiểu được. “Có độc hả?” bà ấy hỏi.
      Perenelle gật đầu. Bà nhìn quanh. Đống đổ nát giờ dày thêm bởi xác những con ruồi và nhện. Bất chợt bà nhận ra rằng mình đứng trong mớ xác chết li ti ngập sâu đến mắt cá chân. Khi hết thảy mọi chuyện này qua , bà phải đem đốt đôi giày của mình mới được, bà quyết định thế. “Những con ruồi là những thứ gây chết người. Mấy con nhện của bà bị chết sạch khi cắn vào mấy con ruồi kia. Bọn ruồi được sai đến đây để giết đạo quân của bà đó.”
      “Và chúng thành công,” Areop-Enap với vẻ buồn buồn. “Chết quá nhiều, quá là nhiều…”
      “Những con ruồi tấn công bà cũng chứa độc,” Perenelle tiếp. “Từng con , vết cắn của chúng thể nhận ra, nhưng Lão Nhện ạ, bà bị cắn cả triệu lần – thậm chí có lẽ đến cả tỷ.”
      Con mắt duy nhất mở của Areop-Enap nhấp nháy từ từ khép lại. “Quý bà Perenelle, tôi phải tự chữa lành cho mình. Điều đó có nghĩa là tôi phải ngủ.”
      Perenelle bước tới gần bên bà nhện khổng lồ và gạt những các xác khô của con ruồi chết ra khỏi lớp lông màu tim tím của bà ấy. Chúng vỡ tan thành bụi khi bà chạm đến. “Ngủ , Lão Nhện,” bà dịu dàng. “Tôi canh gác cho bà.”
      Areop-Enap bước loạng choạng vụng về vào góc phòng. Hai cái chân khổng lồ của bà ta quét phần sàn nhà cho sạch xác nhện và ruồi, và rồi bà ta cố quay ra cái mạng. Nhưng sợi tơ rất mỏng, bé xíu như cọng chỉ và hơi bạc màu. “Bà làm gì mấy con ruồi vậy?” Areop-Enap vừa hỏi, vừa ráng sức tạo ra nhiều mạng nhện hơn.
      “Đưa chúng về phương nam, đuổi theo mùi hương tàn khốc.” Perenelle mỉm cười. Bàn tay phải của bà lóe sáng, luồng điện của bà chiếu sáng rực và cái mạng nhện mỏng dính của Areop-Enap đột nhiên lớn ra và dày lên. Lão Nhện đặt mình vào góc phòng trong cái tổ của bà ta và bắt đầu quay tơ quấn quanh chính người mình.
      “Về đâu vậy?” Areop-Enap chợt hỏi. Con mắt mở ra duy nhất của bà ta gần như nhắm lại khít rịt, và Perenelle có thể nhìn thấy vô số những vết thương rỉ nước xuất thân mình sinh vậy ấy do những vết cắn chứa độc.
      “Bãi rác San Francisco.”
      mấy con đến được đó…” Areop-Enap triệu trạo, “vì có nhiều thứ làm chúng sao lãng. Bà cứu mạng tôi, Quý bà Perenelle.”
      bà cũng cứu mạng tôi mà, Lão Nhện.” Trái banh khổng lồ làm bằng mạng gần hoàn thành. Tơ bắt đầu hóa cứng như đá rồi, chỉ còn cái lỗ đỉnh thổi. “Bây giờ ngủ ,” Perenelle ra lệnh, “ngủ và mau khỏe nhé. Chúng ta cần đến sức mạnh và thông thái của bà trong những ngày sắp tới đấy.”
      Với nỗ lực lớn lao, Areop-Enap mở hết thảy những con mắt mình. “Rất tiếc vì phải để bà lại mình có gì bảo vệ.”
      Perenelle niêm phong bà nhện Elder vào cái kén khổng lồ bằng mạng, rồi quay người, bà sải bước qua bên kia căn phòng. Cơn gió thoảng rất quét sạch mặt sàn phía trước bà. “Tôi là Perenelle Flamel, Nữ Phù thủy,” bà lớn, chắc Areop-Enap có nghe thấy được . “Và tôi chẳng bao giờ ở trong tình trạng có gì bảo vệ cả.”
      Nhưng ngay khi những lời ấy, bà lại nghe ràng có chút hơi hướm nghi ngờ nhè len lỏi vào giọng của chính mình.
      Chương 9
      Nguồn : e-thuvien.com
      Làm prc: Vanlydocnhan
      bờ biển phía tây của hòn đảo Treasure ở Vịnh San Francisco, người đàn ông trông còn khá trẻ ngồi nắp ca-pô của chiếc xe Thunderbird 1960 màu đỏ tươi, mui di động. Thấp người và mảnh khảnh, ta mặc chiếc quần jeans màu xanh lơ gấu tả tơi xơ xác và bên đầu gối mòn trơ sợi vải. Hình cái đầu sói in áo thun của ta bị phai mơ hóa thành kiểu mẫu có đôi chút ma quái hơn cả khi còn mới, và đôi giày ống cao-bồi mòn vẹt đến lúc cần phải đóng lại gót và dán thêm đế. Nhìn bề ngoài ta trông có vẻ nhách nhác, tóc dài, râu ngắn và dày, hoàn toàn tương phản với chiếc xe bóng loáng mà ta ngồi lên, chiếc xe trông như thể vừa được lái ra từ phòng trưng bày vậy. Người thanh niên có hai mươi chín đô-la Mỹ và ít tiền lẻ trong ví mình; còn chiếc xe hơi mang giá trị ít nhất gấp ngàn lần số tiền kia.
      Bên cạnh ta, nắp ca-pô của chiếc xe hơi là cái tô cổ bằng gốm Anasazi, trang trí hoa văn hình học có góc cạnh tao nhã với hai màu đen và trắng. thứ chất lỏng đặc quánh đổ đầy trong tô, hỗn hợp giữa mật ong, dầu hạt lanh với nước, và phản chiếu trong thứ chất lỏng ấy là dáng người của Perenelle sải chân bước qua phía bên kia Alcatraz, tấm mền đen làm bằng xác chết của nhện và ruồi mở ra trước bà như làn dợn sóng.
      Vậy đây chính là Perenelle Flamel huyền thoại. thanh niên di chuyển ngón tay theo chiều kim đồng hồ thứ chất lỏng ấy và đôi mắt sáng màu xanh lơ của ta rực lên, hơi ngả chút màu đỏ thẫm, thoáng mùi ớt bột cay xé tràn ngập trong khí. Hình ảnh Perenelle được phóng lớn. ta chăm chú nhìn bà ngừng lại và cau mày, những đường nhăn hằn sâu trán, và bà nhìn quanh rất nhanh, gần như thể bà biết có người nào đó quan sát mình. ta vẫy tay, chất lỏng rung rung, hình ảnh tan ra. Khoanh tay trước bộ ngực lép kẹp, người đàn ông quay mặt về hướng đông, nơi Alcatraz bị che giấu trong bóng tối ảm đạm. Có vẻ như mọi thứ ta nghe về người phụ nữ này đều là : Perenelle là kết hợp tai hại nhất, giữa vẻ xinh đẹp lẫn chết người.
      Ngay bây giờ ta thua cuộc. ta có nên tấn công lần nữa , hay là nên chờ đợi? Đưa bàn tay lên mặt, ta hít thở sâu và luồng điện ta lóe sáng thành màu đỏ tím sẫm, tối hơn cả màu của chiếc Thunderbird chút, và bầu khí đượm muối biển giờ lại nhuốm mùi ớt bột cay xé. ta vẫn còn đủ năng lượng để làm… mà làm gì bây giờ mới được chứ? Việc kêu gọi bầy ruồi tương đối dễ dàng; pháp sư người Ấn Độ dạy ta thủ thuật này, và nó cứu ta hơn lần trong đời. Tẩm thuốc độc vào mấy con ruồi là gợi ý từ chủ nhân Elder của ta, và chủ nhân ta thậm chí còn cung cấp cả ao nước đánh thuốc độc ở hạt Solano, phía bắc thành phố. Kế hoạch là phá tan đạo quân của Areop-Enap và giết chết bà Elder này. Gần như thành công. Cả khối nhện ngã lăn quay ra, và Lão Nhện rất gần với vái chết. Nhưng ngay vào phút chót, thứ gì đó lôi cuốn bầy ruồi kết thành đám mây to lớn rập rờn ồ ạt rời khỏi Alcatraz. Trong chất dầu sóng sánh của cái tô bói cầu, người thanh niên nhìn thấy luồng điện của Perenelle lung linh màu trắng ánh bạc, và ta biết là bà chịu trách nhiệm về chuyện này. Khuôn mặt gầy gò nhăn nhó thành vẻ đanh ác và ta bồn chồn lo lắng cắn vào môi dưới. ta được bảo đảm rằng bà yếu bớt rồi, có khả năng biểu dương chút năng lượng nào nữa. ràng là thông tin đó chẳng đáng chút nào.
      Chất lỏng sóng sánh kia bắt đầu sôi sùng sục và vẩn đục, rồi kêu lên xì xì và bốc hơi hết sạng; câu thần chú bói cầu chỉ có quãng thời gian sống giới hạn thôi. Tụt xuống khỏi nắp ca-pô, người thanh niên hất đổ thứ dinh dính còn thừa xuống đất, rồi cẩn thận lấy chai nước rửa sạch cái tô và lấy tẩm vải bằng da sơn dương lau khô nó rồi mới cất vào trong thùng xe, đặt nó vào trong chiếc hộp kim loại chất đầy bọt biển. Cái tô là trong những vật quý giá nhất mà ta sở hữu, và ngay cả khi ta cực kỳ nghèo khổ, ta chưa bao giờ nghĩ đến việc mang bán nó cả. Ngồi trong nội thất bọc da màu đỏ của chiếc xe, ta mở bì thư bằng giấy làm từ cây chuối sợi và đọc kỹ tập tin gởi kèm thư điện tử được mã hóa. người đàn ông tóc trắng trông có vẻ nghiêm khắc ra rành rành tấm ảnh trắng đen. Tấm hình chụp lúc ông ta sải chân băng qua đường. Tháp Eiffel ra lờ mờ vượt lên những mái nhà nơi phần hình nền, và ngày tháng ghi bên dưới tấm ảnh cho biết hình được chụp vào ngày lễ Giáng sinh, sáu tháng trước. Nghĩ vẩn vơ, người thanh niên băn khoăn tự hỏi biết tại sao các Elder Đen tối lại theo dõi trong những tay sai tín cẩn nhất của họ. Đây là người đàn ông họ gởi đến làm việc với ta: người châu Âu bất tử Niccolo Machiavelli. Chỉ thị của các Elder hề mập mờ - hắc ta hổ trợ Machiavelli trong mọi việc. ta tự hỏi biết tay người Ý này có chút gì giống với John Dee hay nữa. ta gặp Dee trong thời gian ngắn và thấy thích ông ta tí nào; ông ta là trong số những người bất tử châu Âu cao ngạo cho rằng họ giỏi hơn bất cứ người nào khác, chỉ bởi vì lý do duy nhất là họ còn già hơn cả nước Mỹ. Nhưng đọc kỹ hồ sơ của Machiavelli, càng lúc ta càng thấy khoái người đàn ông này hơn. Tàn nhẫn thay, với bản chất xảo quyệt và mưu mô, ông ta lại được mô tả là người đàn ông nguy hiểm nhất châu Âu.

      ta giúp đỡ Machiavelli, tất nhiên rồi. ta có chọn lựa nào khác; chống lại các Elder Đen tối là đồng nghĩa với ước muốn được chết. Theo ý kiến cá nhân, ta tin rằng mình phải cần đến tay người Ý này. Quăng tập hồ sơ xuống sàn xe, ta vặn khóa khởi động, đạp mạnh chân ga và quay vòng tay lái, chiếc xe hơi lượn thành nửa vòng tròn, bụi và cát cuộn lên ngay sau đuôi nó.
      Billy the Kid bao giờ cần đến bất cứ người nào cả.
      Chương 10
      Nguồn : e-thuvien.com
      Làm prc: Vanlydocnhan
      Bãi phế liệu là cả mê cung.
      Những lối hai bên chồng chất những đồ kim loại gỉ sét, với khoảng gian chỉ vừa vặn đủ cho chiếc xe chạy xuyên qua, trải dài từ lối vào mở ra mọi hướng. rào chắn nhét cứng ngắc những chiếc vỏ xe, hàng trăm chiếc vỏ bấp bênh ngã dựa khoảng gian chật hẹp. bức tường kết toàn bằng những cánh cửa xe, bức tường khác làm toàn bằng những nắp ca-pô và thùng đựng hành lý sau xe. Những khối động cơ vấy bẩn dầu mỡ ướt lẹp nhẹp chất chồng thành ngọn tháp nằm kế bên ụ ống xả gom thành đống dưới đất, khiến chúng trông như tác phẩm điêu khắc theo trường phái trừu tượng.
      Palamedes đưa chiếc xe taxi London màu đen vào sâu hơn đến khu vực có nhiều ngõ hẹp gồm toàn những chiếc xe móp mép chất cao như núi. Bây giờ Sophie hoàn toàn tỉnh táo. bé ngồi trong chỗ của mình mặt hướng ra phía trước, nhìn qua cửa sổ, đôi mắt mở lớn. lối vào, bãi phế liệu giống Vương quốc Bóng tối của Hekate lạ thường. Mặc dù nó trông rất lộn xộn, nhưng theo bản năng, bé biết rằng có lẽ nó tuân theo thiết kế nào đó. Có thứ gì dập dờn bên phía tay phải và bé quay người trở lại nhìn thấy cái bóng khác vừa dời chỗ và lẩn mất. Họ bị theo dõi, song mặc cho những giác quan được nâng cao, vẫn tài nào nhìn thấy được hình dáng của những sinh vật kia, tuy nhiên bé có cảm tưởng rằng chúng di chuyển thẳng đứng giống người. “Đây và Vương quốc Bóng tối phải ạ?” bé hỏi lớn tiếng.
      Bên cạnh , Flamel cựa quậy thức dậy. “ có Vương quốc Bóng tối ngay giữa trung tâm London đâu,” ông lầm bầm. “Vương quốc Bóng tối nằm ở vùng ven của các thành phố ấy chứ.”
      Sophie gật đầu – tất nhiên chuyện đó biết rồi.
      Palamedes ngoặt chiếc xe theo vòng rẽ trái rất gắt hướng vào con hẻm thậm chí còn hẹp hơn con hẻm vừa rồi nữa. Những bức tường kim loại gồ ghề lởm chởm quá sát đến nỗi hầu như muốn cạ vào mấy cánh cửa xe. “Chúng ta còn ở trung tâm thành phố nữa đâu, Nhà Giả kim ạ,” ta bằng chất giọng bass rất trầm của mình. “Chúng ta ở trong vùng ngoại ô hơi bị nhiều thành tích bất hảo đấy. Và ông cũng sai mất rồi; tôi biết hai Elder có các Vương quốc Bóng tối tọa lạc ngay giữa lòng thành phố London, và có cả các lối vào dẫn đến ít nhất ba Vương quốc khác mà tôi biết được, kể cả Vương quốc nổi tiếng nhất, ở bể bơi đằng sau Traitor’s Gate kìa.”
      Josh rước cổ nhìn lên những bức tường như những ngọn tháp kim loại. “Trông giống như …” Cậu ngưng nữa. Đâu đó sâu tận trong tâm trí cậu, bản thiết kế vòng vèo này biến thành vị trí quân và ngay lập tức cậu nhận ra những gì cậu nhìn thấy. “Chính là lâu đài,” cậu thào. “ lâu đài làm bằng những tấm kim loại bị đè nghiến và những chiếc xe hơi bị đập dẹp ra.”
      Tràng cười lớn của Palamedes, đúng hơn là tiếng gầm vang, làm hai đứa sinh đôi giật cả mình. “A ha. Tôi thấy ấn tượng. mấy người còn sống ngày nay có thể nhận ra nó được đâu. Quy hoạch này dựa thiết kế do chính tay Sebastien Le Prestre de Vauban vẽ nên đó.”
      “Sao nghe có vẻ như tên loại rượu vang vậy,” Josh lẩm bẩm, vẫn còn như bị mê hoặc trước những gì cậu vừa khám phá ra.
      “Tôi có dịp được gặp ông ấy lần,” Flamel lơ đãng . “Ông ấy là kỹ sư quân đội người Pháp rất nổi tiếng.” Ông vặn vẹo người trong chỗ ngồi của mình để nhìn ra cửa sổ phía sau. “Đối với tôi chúng trông chỉ như là những chiếc xe hơi phế liệu thôi,” ông , hầu như là với chính mình.
      Sophie nhìn cậu em với vẻ tò mò – làm sao nó có thể biết được mớ bòng bong này thực ra là lâu đài? Nhưng rồi, nhìn lên những bức tường kết bằng những chiếc xe hơi, mẫu thiết kế bé thoáng thấy trước đây biến thành nơi chốn ràng và bé có thể thấy hình dạng của tòa lâu đài, tường có lỗ châu mai và những ngọn tháp, những khoảng trống hẹp nơi những người canh giữ bảo vệ có thể nã đạn vào bất cứ tên tấn công nào. hình thù chuyển động đằng sau trong những khoảng trống đó và biến mất.
      “Qua nhiều năm chúng tôi dựng những chiếc xe hơi lên thành những bức tường của tòa lâu đài,” Palamedes tiếp. “Những người xây dựng lên tòa lâu đài thời Trung cổ này hiểu biết rất nhiều về công tác phòng thủ, và Vauban kết hợp tất cả mọi kiến thức vào với nhau để tạo nên những hàng rào phòng thủ vững mạnh nhất thế giới. Sau đó, trong hết thảy mọi kiểu dáng, chúng tôi chọn được kiểu dáng tốt nhất. Có những chiến hào và những khoảng sân bên trong, những khu lộ thiên bên ngoài và bên trong, tường lũy bên ngoài, những tháp canh và tháp phòng ngự. Chỉ có lối vào là xuyên qua lối hẹp và độc nhất này, và nó được thiết kế để có thể được chống giữ được cách dễ dàng.” Bàn tay đồ sộ của ta chỉ thẳng ra phía những chiếc xe hơi hư hỏng trầm trọng. “Đằng sau, ở giữa và bên trong những bức tường đó đủ các loại bẫy vô cùng độc địa sẵn chờ.”
      Chiếc xe rung lên bần bật khi chạy lên tấm kim loại. Hai đứa sinh đôi nhoài người qua cửa sổ, nhìn ra và phát thấy bọn họ chạy thứ trông giống như cái cầu hẹp làm bằng những cái ống kim loại treo phía thứ chất lỏng sóng sánh đen thui sủi bọt.
      “Đường hào,” Josh .
      “Phiên bản đại của đường hào,” Hiệp sĩ Saracen tán thành. “Được đổ đầy dầu thay vì là nước. Nó sâu hơn vẻ ngoài của chính nó và có những que nhọn cắm dàn ra bên dưới. Nếu có bất kỳ thứ gì rơi xuống… hừm, xin ngay rằng chúng bao giờ trèo lên được. Và tất nhiên chúng tôi có thể đốt cháy nó chỉ bằng cú bật công tắc.”
      “Chúng tôi à?” Josh vừa hỏi nhanh, vừa liếc sang chị của cậu.
      “Chúng tôi chứ sao,” Hiệp sĩ xác nhận.
      “Vậy ở đây có nhiều người nữa cũng giống ông à?” Josh hỏi.
      “Tôi mình,” Palamedes đồng ý cùng với nụ cười rộng nở thoáng qua rất nhanh, hàm răng trắng bóc tương phản với khuôn mặt sậm màu của ta.
      ta tiếp tục lái xe, qua hết cây cầu, và lối khác uốn cong rồi kết thúc nơi bức tường kim loại vững chắc làm bằng những chiếc xe hơi bị đè nghiến và đập dẹp ra. Bức tường dày lên vì gỉ kim loại và có màu đỏ quạch như máu. Palamedes rà xe chầm chậm nhưng dừng hẳn. ta nhấn cái nút bảng điều khiển trong buồng lái của chiếc xe và toàn bộ bức tường rung lắc mạnh rồi khẽ khàng trượt sang bên, chừa khoảng trống vừa đủ cho chiếc xe trườn qua. Khi họ vào bên trong rồi, cánh cổng gỉ sét dày cộp kia nhàng trượt trở lại vào vị trí cũ.
      Đàng sau cánh cổng là vùng đất rộng bị quậy tung lên và đầy bùn lấm lem, điểm lắc rắc những cái ổ gà đọng đầy nước. Ngay giữa biển bùn là căn nhà chòi hình chữa nhật bằng kim loại dựng tạm những khối bê-tông. Căn nhà chòi hư nát và bẩn thỉu, mấy cánh cửa sổ của nó phủ đầy những mắt lưới làm bằng dây kim loại, và từng đám gỉ sét lốm đốm khắp bức tường kim loại khiến nó trông có vẻ như buồn bã – lá quốc kỳ lá cờ có hình con rồng đỏ nền xanh lá và trắng – vỗ đập phần phật vào những cây cột hơi cong cong. Cả hai lá cờ đều xơ xác và đến lúc cần phải được giặt giũ.
      Sophie phải cắn vào bên trong má mình để giữ cho khuôn mặt ngay ngắn. “Tôi tưởng phải là cái gì đó…”
      “… đẹp đẽ hơn?” Josh hoàn tất câu . chị cậu giơ bàn tay dựng đứng lên và cậu đập bàn tay mình vào đó.
      “Đẹp đẽ hơn,” bé tán thành. “Trông có đôi chút thất vọng nhỉ.”
      Josh để ý thấy bầy chó hoang khẳng khiu nấp trong vùng tối bên dưới căn chòi. Chúng có màu sắc và dòng giống hệt như con chó màu nâu xám khổng lồ mà cậu bất chợt trông thấy lúc nãy, nhưng những con này hơn, lông rối và có màu xám xịt. ánh sáng mà đỏ vụt lóe lên và cậu liếc xéo: mắt mấy con chó có màu đỏ chăng?
      Nicholas duỗi thẳng người. Ông ngáp và vừa vươn vai vừa nhìn quanh khắp lượt, rồi ông lẩm bẩm, “Tại sao tất cả đều phải được bảo đảm an toàn, Palamedes? sợ cái gì à?”
      “Ông biết đâu,” Palamedes đơn giản.
      tôi nghe xem nào.” Nicholas chà xát mặt mình và ngồi chồm ra phía trước, cùi chõ chống lên đầu gối. “Rốt cuộc chúng ta cùng phe mà.”
      , đâu,” Palamedes ngay. “Có thể chúng ta có cùng kẻ thù, nhưng chúng ta ở cùng phe. Mục đích của chúng ta khá là khác nhau.”
      “Khác như thế nào?” Flamel hỏi. “Các cũng chống lại các Elder Đen tối mà.”
      “Chỉ khi chúng tôi bị buộc phải làm vậy thôi. Ông tìm cách ngăn ngừa cho các Elder Đen tối quay trở lại thế giới này, trong khi tôi, và các an hem hiệp sĩ của tôi, vào các Vương quốc Bóng tối và mang về lại những con người bị giam giữ ở đó.”
      Josh nhìn từ Flamel rồi nhìn sang Palamedes, bối rối. “An hem hiệp sĩ là gì ạ?” cậu hỏi. “Ai vậy?”
      Flamel hít thở sâu. “Chú nghĩ Palamedes có ý đến các Hiệp sĩ Áo xanh,” ông .
      Palamedes gật đầu. “Đúng vậy đó.”
      “Tôi nghe đồn...” Nhà Giả kim thầm.
      “Những tin đồn đó đều có ,” Palamedes ngắn gọn. ta rà sát chiếc xe vào bên cạnh căn nhà chòi dài có mái kim loại và tắt máy. “Đừng bước vào mấy cái ổ gà kia,” ta cảnh báo trong lúc đẩy cánh cửa xe mở ra. “Các người muốn biết cái gì sống trong đó đâu.”
      Sophie bước ra đầu tiên, nhấp nháy mạnh đôi mắt đằng sau cặp kính râm trong ánh mặt trời buổi chiều muộn. Đôi mắt bé có cảm giác thô ráp và nhưng nhức, và có gì như thể miếng băng dán khô queo khó chịu nằm tận trong cổ họng. bé băn khoăn tự hỏi biết có phải mình mệt vì bị cảm lạnh . Mặc dù bé cố gắng hết sức nghĩ đến Palamedes, nhưng số trong các ký ức của Bà Phù thủy cứ thấm tràn qua vùng ký ức của , và nhận thấy là biết chút ít về ta. ta là người bất tử được ban tặng khả năng đặc biệt có thể di chuyển tự do xuyên qua các Vương quốc Bóng tối mà vẫn bị chúng gây ảnh hưởng gì. Ít người vào những thế giới nhân tạo do các Elder dựng nên mà lại có thể trở về được. Lịch sử loài người – cả cổ đại lẫn đại – đều đầy dẫy những người đơn giản tự nhiên biến mất. Trong số đó rất ít người biết làm sao lại quay về, hoặc được mang về, thường thấy rằng cả hàng trăm năm trôi qua trái đất mặc dù trong các Vương quốc Bóng tối chỉ mới qua vài đêm. Nhiều người quay về hóa điên khùng hoặc tin rằng Vương quốc Bóng tối mới là thế giới thực trong khi trái đất này là gì ngoài giấc mơ thôi. Họ sống cả cuộc đời lúc nào cũng trong tình trạng muốn quay về với những gì họ nghĩ là thế giới .
      “Chị lại nghĩ ngợi nữa rồi.” Josh thúc vào cùi chõ bé, làm cho bé phân tâm.
      Sophie mỉm cười. “Lúc nào chị cũng nghĩ ngợi.”
      “Ý em là chị nghĩ đến những thứ linh tinh mà chị nên. Những thứ linh tinh của Bà Phù thủy ấy.”
      “Làm sao em có thể khẳng định vậy được?”
      Nụ cười của Josh nghiêm nghị. “Trong chốc lát, chỉ chốc lát thôi, con ngươi trong mắt chị hóa thành bạc. Thấy ghê lắm.”
      Sophie quấn cánh tay quanh người mình và run cầm cập. bé nhìn khắp lượt những bức tường làm bằng xe hơi vây quanh căn nhà chòi gỉ sét lốm đốm. “Hơi thất vọng, phải ? Chị tưởng tất cả các Elder và người bất tử đều sống trong những cung điện hết chứ.”
      Josh quay vòng, nhưng khi cậu nhìn trở lại mặt cậu cười toe. “ ra, em nghĩ nó phần nào cũng tuyệt đấy chứ. Giống như tòa lâu đài bằng kim loại. Và cũng có vẻ như an toàn đến độ khó tin. Thậm chí cách gì tiến sát vào nơi này mà chạm trán những lính canh.”
      “Chị thoáng thấy cái gì đó di chuyển khi mình lái xe xuyên qua mê cung này,” Sophie .
      Josh gật đầu. “Hồi nãy, Palamedes bảo em rằng những căn nhà trong hết thảy khu phố bao quanh nơi này đều trống . ta sở hữu tất cả chúng đó. ta có thứ gì gọi là ấu trùng và vượn cáo sống trong đó.”
      “Những người canh giữ.”
      “Em nhìn thấy con chó khổng lồ…” Cậu hất đầu về phía bầy chó hoàn toàn năm yên dưới căn nhà chòi. “Nó giống mấy con chó kia, chỉ là to bự hơn, sạch hơn. Có vẻ như tuần tra đường phố vậy. Còn chị lại nhìn thấy những hàng rào phòng thủ,” cậu thêm với vẻ phấn khích. “Chỉ có duy nhất lối vào được canh gác nghiêm ngặt tạo cho mọi chỗ đều có dạng hình phễu dẫn vào lối hẹp. Vậy quan trọng là đạo quân trong tay chị to lớn đông đúc như thế nào, bất cứ khi nào vẫn chỉ có hai hoặc ba người lính có thể tấn công vào lúc thôi. Và người bên ngoài cũng dễ bị tấn công từ cao bởi những lỗ châu mai.”
      Sophie giơ tay ra và siết lấy cánh tay cậu em mình chặt. “Josh,” bé gắt lên, đôi mắt mở lớn đầy vẻ quan tâm. Trước nay bé chưa bao giờ nghe thấy cậu em mình chuyện kiểu thế này bao giờ. “Thôi . Làm thế nào mà em biết nhiều về những tư thế phòng thủ trong các tòa lâu đài như vậy chứ…?” Giọng bé kéo dài rồi tắt ngấm, ý tưởng đáng lo ngại thoáng lung linh nơ góc tâm trí .
      “Em biết nữa,” Josh thú nhận. “Em chỉ… phần nào… biết vậy thôi. Giống hệt như hồi mình ở Paris – em biết rằng Dee và Machiavelli phải ở khu đất cao mới có thể điều khiển được bọ gargoyle vậy. Và rồi, mới sớm hôm nay, khi ba sinh vật kia định tấn công…”
      “Bọn Genuii Cucullati,” Sophie vừa lơ đãng thầm, vừa quay người chăm chú nhìn Nicholas khó nhọc bước ra khỏi chiếc taxi. Khi bé trông tháy ông ta thò tay vào kéo ba-lô của Josh ra, để ý các khớp đốt ngón tay của ông hơi phình ra. Dì Agnes, ở Pacific Heights trong vùng San Francisco, bị chứng viêm khớp, và các khớp đốt ngón tay của dì cũng phình ra như vậy. Nhà Giả kim già nhanh quá.
      “Ừ, bọn chúng đó. Em biết chúng sắp sửa tấn công bởi em nhìn thấy ngôn ngữ cử chỉ của chúng. Em biết thoạt tiên tên ở giữa tấn công và nhào thẳng vào chúng ta, trong khi hai tên kia cố tấn công bên sườn. Em biết nếu em có thể ngăn ta lại, việc đó làm phân tâm mấy tên kia và chúng ta có cơ hội thoát thân.” Josh đột ngột dừng lại, chợt nhận ra những gì cậu . “Làm sao em biết như vậy kia chứ?” cậu thắc mắc thốt lên.
      “Mars,” Sophie thầm. bé gật đầu. “Chuyện đó phải từ Vị thần Chiến tranh mà ra thôi.” rùng mình; bé và cậu em trai dần thay đổi. Rồi lắc đầu nhè : cả hai đứa thay đổi rồi.
      “Mars. Em… em nhớ rồi,” Josh thào. “Khi ông ta Đánh thức em, ông ta cái gì ở khúc cuối, cái gì đó về chuyện tặng em món quà mà em thấy là rất hữu ích trong những ngày sắp tới. Và rồi ông ta để bàn tay mình lên đỉnh đầu em và em cảm thấy luồng hơi nóng lạ thường chảy xuyên khắp thân người mình.” Cậu nhìn chị sinh đôi. “Ông ta tặng cho em cái gì vậy chứ? Em có bất kỳ ký ức nào khác lạ cả, giống như những thứ Bà Phù thủy cho chị ấy.”
      “Chị nghĩ có lẽ em nên mừng vì em có những ký ức của ông ta mới phải,” Sophie nhanh. “Bà Phù thủy từng biết Mars và rất khinh thường ông ta. Chị hình dung rằng hầu hết những ký ức của ông ta đều rất kinh tởm. Josh, chị nghĩ ông ta tặng cho em kiến thức về điều binh khiển tướng của ông ta.”
      “Ông ta biến em thành chiến binh sao?” Dù ý tưởng nghe qua đáng sởn gai ốc, nhưng Josh thể giấu được vẻ vui thích trong giọng của cậu.
      “Thậm chí có lẽ tốt hơn thế,” Sophie , giọng bé dịu dàng mà xa vắng. “Chị nghĩ ông ta muốn biến em thành nhà chiến lược.”
      “Chuyện đó tốt ?” Cậu nghe có vẻ thất vọng.
      Sophie gật đầu nhanh. “Trận đánh mà thắng được là nhờ quân lính. Chiến tranh mà thắng được là do những nhà chiến lược.”
      “Ai vậy?” Josh hỏi, đầy kinh ngạc.
      “Mars chứ ai,” Sophie vừa , vừa lắc đầu xua những ký ức bất chợt ùa đến. “Em thấy sao? Mars là nhà chiến lược quân tối thượng; ông ta bao giờ để thua trận đánh nào. Đó là món quà đáng kinh ngạc.”
      “Nhưng tại sao ông ta lại đem nó cho em chứ?” Josh hỏi đúng câu hỏi mà Sophie suy nghĩ.
      bé chưa kịp trả lời, cánh cửa dẫn vào căn nhà chòi kim loại dài thình lình cót két mở ra và dáng người mặc bộ đồ bảo hộ lao động dơ bẩn của thợ máy hối hả bước xuống mấy bậc thềm. nhắn và mảnh khảnh, với dáng lom khom và khuôn mặt hình bầu dục dài nhằng, người đàn ông hấp háy như người bị cận thị nhìn vào chiếc xe taxi. Ông ta có râu mép lưa thưa, và dù đỉnh đầu hói, nhưng tóc vẫn phủ qua tai và ở phía sau đầu, tóc xõa dàn đến tận vai.
      “Palamedes hả?” ông ta cắn cảu, ràng là phát cáu. “Chuyện này có nghĩa là gì kia chứ?” Tiếng của ông ta giòn giã và chính xác, từng từ đều được phát ràng. Ông ta trông thấy cặp song sinh va bất thình lình ngưng bặt. Rút từ trong túi ra cặp kính to quá khổ có gọng đen, ông ta đẩy nó lên mặt mình. “Mấy người này là ai vậy?” Và rồi ông ta quay và chợt nhận ra Nicholas Flamel gần như đúng lúc Nhà Giả kim cũng nhìn ra ông ta.
      Cả hai người đàn ông phản ứng cùng lúc.
      “Flamel!” Người đàn ông nhắn kêu thét lên. Ông ta quay người lao trở lại về phía căn nhà chòi, bò toài và ngã nhào mấy bậc thềm kim loại.
      Nicholas vừa làu bàu thốt ra điều gì bằng thứ tiếng Pháp cổ xưa, vừa xé mở toạc cái ba-lô của Josh và giật mạnh thanh Clarent ra khỏi ống đựng bản đồ bằng giấy bồi. Giữ chặt thanh kiếm bằng cả hai tay, ông vung vẩy nó quanh đầu mình, lưỡi kiếm rít lên và kêu o o trong khí. “Chạy ,” ông hét to với hai đứa sinh đôi, “chạy cho toàn mạng! Đây là cái bẫy!”

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :