Bí Mật của Nicholas Flamel Bất Tử (Tập 2: Pháp sư) - Michael Scott (Kỳ ảo)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      [​IMG]

      Tựa sách: Pháp sư


      Bí mật của Nicholas Flamel bất tử


      Tác giả: Michael Scott


      Người dịch: Thanh Tuyền


      NHÀ XUẤT BẢN TRẺ


      Type: dainganha311 = anna311; pe_rua; mickey_house


      Làm ebook: qoop!!


      Ngày hoàn thành: 13/12/2010






      Tôi chết từ từ.


      Perenelle cũng vậy, cũng cận kề cái chết.


      Câu thần chú từng giữ cho chúng tôi sống sáu trăm năm qua biến dần , và bây giờ cứ mỗi ngày trôi qua là chúng tôi già cả năm trời. Tôi cần Codex, cuốn sách của Pháp sư Abraham, để tái tạo lại câu thần chú bất tử; có nó, chúng tôi chỉ còn sống chưa đầy tháng nữa thôi.


      Nhưng vẫn có thể làm được nhiều thứ trong tháng sắp tới.


      Dee và những chủ nhân đen tối của giữ Perenelle thân của tôi làm tù binh, cuối cùng chúng chiếm được cuốn sách, và chúng biết được rằng cả tôi và Perenelle đều thể sống lâu hơn


      Nhưng chúng thể nghỉ ngơi dễ dàng vậy được.


      Bọn chúng chưa có được trọn vẹn cuốn sách. Chúng tôi vẫn giữ hai trang cuối, và từ nay chúng phải biết rằng Sophie và Josh Newman là cặp sinh đôi được mô tả trong văn bản cổ: cặp sinh đôi có luồng điện bạc và vàng, chị và cậu em có luồng năng lượng để hoặc là giải cứu thế giới… hoặc là hủy diệt nó. Năng lượng của được Đánh thức và con bé bắt đầu được huấn luyện những phép thuật cơ bản rồi, tuy nhiên, đáng buồn, cậu con trai chưa có gì hết.


      Bây giờ chúng tôi ở Paris, thành phố nơi tôi sinh ra, thành phố nơi lần đầu tiên tôi khám phá ra cuốn Codex và từ đó bắt đầu cuộc nghiên cứu dai dẳng để diễn dịch nó ra. Cuộc hành trình đó rốt cuộc đưa tôi khám phá ra tồn tại của giống loài Elder rồi phát thần bí của hòn đá tạo ra vàng và cuối cùng là bí mật về bất tử. Tôi thành phố này. Nó chứa bao điền bí mật và nó là mái nhà cho nhiều người bất tử và Elder cổ xưa. Nơi đây, tôi phải tìm cách Đánh thức năng lượng của Josh và tiếp tục việc huấn luyện Sophie.


      Tôi phải làm cho kỳ được.


      Với ích lợi của hai đứa —và vì tồn tại của loài người.


      Trích từ nhật ký của Nicholas Flamel, Nhà Giả Kim


      Viết vào ngày hôm nay, thứ Bảy, ngày 2 tháng Sáu,


      tại Paris, thành phố tôiống thời tuổi trẻ




    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      THỨ BẢY, ngày hai tháng Sáu


      CHƯƠNG 1


      Mãi tới sau nữa đêm, khi buổi tiệc ban chiều kết thúc cuộc đấu giá từ thiện mới được bắt đầu. Bây giờ gần bốn giờ sáng và buổi đấu giá chỉ mới đến hồi kết. màn hình kỹ thuật số đặt phía sau người điều khiển nổi tiếng— diễn viên từng đóng vai James Bond màn ảnh suốt nhiều năm—cho thấy tổng số ở mức hơn triệu euro.


      “Lô số hai trăm mười: đôi mặt nạ Kabuki của Nhật Bản đầu thế kỷ mười chín.”


      Tiếng rì rầm sôi nổi lan khắp căn phòng chật ních người. Nhưng chiếc mặt nạ Kabuki này được khảm bằng các mảnh ngọc bích hình khối, là điểm nổi bật của cuộc bán đấu giá, và người ta mong đợi nó đem về hơn nửa triệu euro.


      Ở cuối căn phòng người đàn ông cao, gầy với mái tóc xoăn trắng như tuyết được cắt rất sát sẵn sàng trả giá gấp đôi con số đó.


      Niccolo Machiavelli đứng tách ra khỏi số còn lại của đám đông, cánh tay khoanh hờ trước ngực, cẩn thận làm nhăn bộ Savile Row—bộ lễ phục được cắt may băng lụa đen. Đôi mắt xám như màu đảo khắp những người trả giá khác, phân tích và đánh giá họ. Thực ông chỉ ta chỉ cần dè chừng năm người: hai nhà sưu tập cá nhân giống như ông ta, hoàng thân người châu Âu tuổi vị thành niên, diễn viên điện ảnh người Mỹ nổi danh thời và tay buôn đồ cổ người Canada. Những khán giả còn lại số mệt mỏi, số xài sạch túi, hoặc chỉ miễn cưỡng trả giá cho mấy chiếc mặt nạ trông có phần hơi buồn khổ.


      Machiavelli thích mọi kiểu mặt nạ. Ông sưu tầm chúng từ rất lâu, và ông muốn có đôi mặt nạ đặc biệt này để hoàn tất bộ sưu tập y phục nhà hát Nhật Bản của mình. Những chiếc mặt nạ này được đem bán gần đây nhất vào năm 1898 tại Vienna, rồi được hoàng tử Romanov trả giá cao nhất. Machiavelli kiên nhẫn chờ đợi thời cơ; những chiếc mặt nạ có thể quay lại thị trường lần nữa khi Hoàng tử và các hậu duệ của ông qua đời. Machiavelli biết mình vẫn còn quanh quẩn nơi đây để mua được chúng; đó là trong nhiều lợi thế khi làm người bất tử.


      “Chúng ta bắt đầu đấu giá ở mức trăm ngàn euro nhé?”


      Machiavelli nhìn lên, thu hút chú ý của người chủ tọa về mình và gật đầu.


      Người chủ tọa đợi ông ta chấp nhận giá và gật đầu đáp lại. “Tôi được ông Machiavelli trả trăm ngàn euro. Ông luôn luôn là trong những nhà ủng hộ và tài trợ hào phóng nhất của hội từ thiện này.”


      Những tiếng vỗ tay rời rạc chạy căn phòng, vài người quay lại nhìn ông ta và nâng cao chiếc cốc trong tay họ. Niccolo đón nhận chúng bằng nụ cười lịch thiệp.


      “Có phải tôi có trăm mười ?” người chủ tọa hỏi.


      nhà sưu tập cá nhân e dè đưa tay lên.


      hai mươi?” người chủ tọa nhìn ngược lại Machiavelli, ông vừa mới gật đầu.


      Trong ba phút tiếp theo, ra giá khá nhộn nhịp đẩy giá lên đến hai trăm năm mươi ngàn euro. Chỉ còn lại ba người trả giá đáng gờm: Machiavelli, chàng diễn viên người Mỹ và tay buôn đồ cổ người Canada.


      Đôi môi mỏng của Machiavelli vặn vẹo thành nụ cười hiếm hoi; kiên nhẫn của ông ta sắp được tưởng thưởng, và cuối cùng những chiếc mặt nạ thuộc về ông. Nhưng rồi nụ cười chợt nhạt khi ông cảm thấy chiếc điện thoại trong túi rung thầm. Trong thoáng ông ta định phớt lờ nó; ông dặn nhân viên của ông rất nghiêm ngặt đừng quấy rầy ông trừ phi đó hoàn toàn là trường hợp nguy kịch. Ông ta cũng biết rằng chúng sợ ông đến nỗi điện thoại cho ông nếu có việc khẩn cấp. Thò tay vào túi mình, ông kéo ra chiếc điện thoại di động siêu mỏng và liếc xuống.


      Hình thanh kiếm dao động nhè màn hình LCD rộng.


      Nụ cười của Machiavelli tan biến hẳn. Trong giây phút đó ông ta biết rằng mình thể mua được những chiếc mặt nạ Kabuki trong thế kỷ này. Xoay gót, ông ta sải ra khỏi căn phòng và áp điện thoại vào tai. Đằng sau mình, ông ta nghe được tiếng búa của người chủ tọa gõ vào bục “Bán. Hai trăm sáu mươi ngàn euro…”


      “Tôi đây,” Machiavelli , ông trở lại giọng Ý thời trai trẻ của ông ta.


      Đường dây kêu lốp bốp và tiếng mang giọng trả lời bằng cùng ngôn ngữ đó, tiếng địa phương còn được nghe ở châu Âu trong hơn bốn trăm năm nay. “Tôi cần ông giúp.”


      Người đàn ông ở đầu dây bên kia giới thiệu mình, mà ta củng chẳng cần làm vậy; Machiavelli biết chính là Tiến sĩ John Dee bất tử, pháp sư và thầy đồng gọi hồn, trong những người đàn ông quyền lực và nguy nhiểm nhất thế giới.


      Niccolo Machiavelli sải bước ra ngoài khách sạn để vào quảng trường lát đá cuội Place du Terre và ngừng lại hít thở trong bầu khí đêm lạnh lẽo. “Tôi có thể làm được gì cho ông?” Ông ta thận trọng hỏi. Ông ta ghét cay ghét đắng Dee và biết rằng đây cũng là cảm giác chung giữa hai người, nhưng cả hai phục vụ cho các Elder đen tối, và điều đó có nghĩa là họ buộc phải làm việc cùng nhau qua các thế kỷ. Machiavelli cũng có chút ghen tị vì Dee trẻ tuổi hơn—mà trông bề ngoài cũng trẻ hơn. Machiavelli sinh năm 1469 tại Florence, nên ông ta lớn hơn tay Pháp sư người này năm mươi tám tuổi. Lịch sử ghi nhận ông ta chết cùng năm Dee sinh ra, 1527.


      “Flamel trở lại Paris rồi.”


      Machiavelli dựng thẳng người. “Hồi nào?”


      “Mới đây. đến đó bằng cổng tuyến. Tôi biết tiếp theo là ở đâu. mang Scathach theo cùng…”


      Môi Machiavelli cong lên tạo thành vẻ dúm dó xấu xí. Lần cuối cùng ông chạm trán với Nữ thần Chiến binh, bà ta xô ông qua cửa. Cánh cửa đóng lại đúng lúc đó, và ông phải mất mấy tuần để gắp những mảnh vở ra khỏi ngực và vai.


      “Có hai đứa trẻ thuộc giống người cùng với . Chúng người Mỹ,” Dee , giọng vang và nhòe vào đường dây xuyên Đại Tây Dương. “Cặp sinh đôi,” thêm.


      lại thử?” Machiavelli cầu.


      “Cặp sinh đôi,” Dee thêm, “với luồng điện vàng và bạc. Ông biết điều đó có nghĩa là gì mà,” bốn chát.


      “Ừ,” Machiavelli lẩm bẩm. Điều đó có nghĩa là rắc rối. Rồi chút vẻ sung sướng uốn cong đôi môi mỏng của ông ta. Nó cũng có nghĩa là vận may.


      Tiếng tĩnh điện kêu lắc rắc rồi giọng Dee tiếp. “Năng lượng của đứa con được Hekate Đánh thức trước khi Nữ thần và Vương quốc Bóng tối của bà ta bị phá hủy.”


      có kinh nghiệm gì, con bé đó phải mối đe dọa,” Machiavelli thầm , ước lượng tình thế. Ông ta nghỉ lấy hơi và thêm, “có lẽ phải loại trừ trường hợp con bé là mối đe dọa cho chính bản thân nó và mấy tên đồng bọn cùng.”


      “Flamel mang con bé tới Ojai. Ở đó, Mụ phù thủy Endor dạy cho nó Phép thuật khí.”


      “Chắc ông cố ngăn chúng lại?” giọng Machiavelli pha lẫn chút thích thú.


      cố. Và thất bại,” Dee cay đắng thừa nhận. “Đứa con có chút kiến thức nhưng có kỹ năng.”


      “Ông muốn tôi làm gì?” Machiavelli thận trọng hỏi, dù trong đầu ông ta lóe ra ý tưởng khá hay.


      “Tìm Flamel và cặp sinh đôi,” Dee cầu. “Bắt chúng. Giết Scathach nếu ông có thể. Tôi vừa rời Ojai. Nhưng phải mất mười bốn hay mười lăm tiếng nữa mới tới được Paris>“Chuyện gì xảy ra với cái cổng tuyến?” Machiavelli ngạc nhiên thốt lên. Nếu có cổng tuyến kết nối Ojai với Paris, tại sao Dee …?


      “Bị mụ phù thủy Endor phá hủy rồi,” Dee nổi xung, “và suýt chút nữa mụ ta cũng giết được tôi. Tôi may mắn thoát được nhưng người đầy những vết chém và cào xước,” thêm, và rồi kết thúc cuộc gọi mà lời chào tạm biệt.


      Niccolo Machiavelli cẩn thận tắt điện thoại và nhịp nó nhè vào môi dưới. hiểu sao ông ta tự nhủ rằng Dee gặp may—nếu mụ phù thủy Endor muốn chết ngay cả tiến sĩ Dee huyền thoại cũng đừng hòng trốn thoát. Machiavelli quay người lại và bộ ngang qua quảng trường đến nơi tài xế của ông kiên nhẫn chờ trong xe. Nếu Flamel, Scathach và cặp sinh đôi người Mỹ đến Paris bằng cổng tuyến, chỉ có vài điểm trong thành phố này mà bọn chúng hẳn phải lộ mặt ra. Xem ra tương đối dễ dàng tìm và bắt chúng.


      Và nếu có thể bắt chúng đêm nay, ông ta có nhiều thời gian làm việc với chúng trước khi Dee đến.


      Machiavelli mỉm cười; ông ta chỉ cần vài tiếng đồng hồ, và trong thời gian đó chúng cho ông ta mọi thứ chúng biết. nữa thiên niên kỷ sống trái đất này dạy ông cách làm thế nào để khiến mình đầy sức thuyết phục.


      Josh Newman vươn người và bám lòng bàn tay phải lên bức tường đá lạnh lẽo đễ giữ thăng bằng.


      Chuyện gì vừa xảy ra?


      lúc cậu đứng trong cửa tiệm của Bà Phù thủy Endor tại Ojai, California. Chị cậu, Sophie, Scathach và người đàn ông mà bây giờ cậu mới biết là Nicholas Flamel ở trong tấm gương, tất cả đứng nhìn ra phía sau cậu. Và điều kế tiếp cậu biết là, Sophie bước ra khỏi tấm gương, nắm tay và kéo cậu xuyên qua nó. Cậu nhắm nghiền mắt, cảm thấy thứ gì đó lạnh buốt chạm vào da, làm những sợi tóc li ti phía sau gáy cậu dựng đứng. Khi mở mắt ra lại, cật thấy mình đứng trong cái gì giống như nhà kho bé xíu. Những chiếc bình đựng sơn, những cái thang xếp chồng lên nhau, những mảnh gốm vỡ và những tấm vải bị sơn bắn tung tóe cuộn lại thành bó chất đống quanh tấm gương lớn trông khá tầm thường đầy cáu bẩn được gắn cố định vào bức tường đá. Lẻ loi chiếc bóng đèn tròn công suất thấp ném thứ ánh sáng vàng vọt yếu ớt xuống căn phòng. “ xảy ra chuyện gì?” cậu bé hỏi, tiếng vỡ vụn. Cậu nuốt nước bọt cách khó khăn và thử lại. “Chuyện gì vậy? Chúng ta ở đâu đây?”


      “Chúng ta ở Paris,” Nicholas Flamel vừa với vẻ hài lòng, vừa lau chùi hai bàn tay đầy bụi bẩn vào chiếc quần jeans đen. “Thành phố nơi tôi sinh ra.”


      Paris?” Josh kêu thầm. Cậu định thể”, nhưng cậu bắt đầu hiểu rằng lời đó còn ý nghĩa gì nữa cả. “Làm thế nào?” cậu hỏi lớn. “Sophie?” Cậu nhìn người chị sinh đôi của mình, nhưng áp sát tai vào cánh cửa duy nhất của căn phòng và chăm chú lắng nghe. vẫy tay xua cậu . Cậu quay sang Scathach, nhưng người Nữ Chiến binh tóc đỏ chỉ lắc đầu, đưa cả hai tay lên che miệng. Trông như thể ta sắp nôn thốc nôn tháo ra. Cuối cùng Josh quay sang Nhà Giả Kim huyền thoại, Nicholas Flamel. “Làm thế nào chúng ta đến đây được ạ?” Cậu hỏi.


      “Hành trình này chằng chịt những đường kẻ năng lượng vô hình đôi khi được gọi là đường tuyến (ley lines) hoặc hàng đá (cursus),” Flamel giải thích. Ông ta bắt chéo hai ngón trỏ với nhau. “Ở đâu có hai hay nhiều hơn hai đường kẻ giao nhau ở đó xuất cổng tuyến. Những cái cổng đó bây giờ cực kỳ hiếm, nhưng vào thời cổ xưa giống loài Elder thường dùng chúng để từ bên này sang bên kia trái đất chỉ trong chớp mắt—như chúng ta vừa mới . Bà Phù thủy mở cổng tuyến ở Ojai và chúng ta tới nút đầu bên kia, tại Paris.” Ông ta nghe cứ như chẳng có chuyện gì to tát.


      “Cổng tuyến, tôi ghét chúng,” Scatty lầm bầm. Dưới ánh đèn ảm đạm, nước da nhợt nhạt lốm đốm tàn nhang của trong xanh lè. “Em có bị say sống ?” hỏi.


      Josh lắc đầu. “ bao giờ.”


      Sophie ngẩng đầu lên khỏi chỗ, tựa người vào cánh cửa. “Ba xạo! Nó còn say sóng trong hồ bơi nữa kìa.” bé cười toe, rồi lại áp bên mặt vào tấm gỗ mát lạnh.


      “Say sóng,” Scatty lầm bầm. “Đó chính xác là những gì mình cảm thấy. tồi tệ.”


      Sophie quay đầy lại nhìn Nhà Giả kim. “Chú có biết là chúng ta ở đâu tại Paris ?”


      nơi rất cũ kỹ, chú đoán vậy,” Flamel , đến bên đưng ngay cánh cửa. Ông nghiêng bên đầu áp vào tấm cửa và lắng nghe.


      Sophie bước lui lại. “Chưa chắc đâu,” bé ngập ngừng.


      “Sao lại chưa?” Josh hỏi. Cậu liếc quanh căn phòng xíu bừa bộn. ràng trông nó đúng là nằm trong tòa nhà cũ mèm.


      Sophie lắc đầu. “ biết nữa… chỉ là cảm thất nó cũ.” đưa lòng bàn tay chạm vào bức tường, rồi đột ngột rụt mạnh trở lại


      “Chị bị gì vậy?” Josh thào.


      Sophie áp đầu sát vào tường lần nữa. “Chị nghe được nhiều tiếng , những tiếng hát và có gì như tiếng nhạc từ đàn organ.”


      Josh nhún vai. “Em chẳng nghe được gì.” Cậu ngừng lại, chợt nhận ra khác biệt lớn lao giữa cậu với người chị sinh đôi. Phép thuật tiềm của Sophie được Hekate Đánh thức, và bây giờ quá sức nhạy cảm cả về thị giác và thính giác, khứu giác, xúc giác và vị giác.


      “Chị nghe được,” Sophie nhấc tay khỏi bức tường đá và thanh trong đầu nhạt dần.


      “Cháu nghe tiếng vọng bóng thôi,” Flamel giải thích. “Đó chỉ là những tiếng ồn do tòa nhà hút ngấm vào, được lưu lại và trở thành chính bản thân công trình kiến trúc đó.”


      “Đây là ngôi nhà thờ,” Sophie dứt khoát, rồi cau mày. “ ngôi nhà thờ mới … đại, cuối thế kỷ mười chín đầu thế kỷ hai mươi. Nhưng lại được xây dựng nền đất củ xưa hơn nó rất nhiều rất nhiều.”


      Flamel dừng ngay nơi cánh cửa gỗ và ngoái nhìn ra đằng sau mình. Dưới nguồn sáng tù mù đầu, nét mặt ông trở nên sắc nét, đầy góc cạnh, trông giống như cái đầu lâu dễ sợ, hai hốc mắt ông hoàn toàn chìm trong bóng tối. “Có nhiều nhà thờ ở Paris lắm,” ông , “tuy nhiên chỉ có cái, chú tin vậy, là phù hợp với mô tả đó.” Ông cầm vào nắm cửa.


      “Khoan ,” Josh nhanh. “Chú nghĩ là dạng báo động nào đó sao?”


      “Ồ, chắc đâu,” Nicholas tự tin . “Ai mà đặt báo động nơi nhà kho trong nhà thờ?” ông ta vừa hỏi, vừa giật mở tung cánh cửa.


      hồi chuông báo động đột ngột ré lên trong khí, thanh vang và dội lại tắt ngấm vào những phiến đá lát và bức tường. Đèn báo động bật đỏ lòm nhấp nháy lóe sáng từng hồi.


      Scatty thở ra và càu nhàu gì đó bằng ngôn ngữ Celt cổ. “Ông chẳng có lần bảo tôi phải chờ đợi trước khi cử động, nhìn ngó trước khi tiến bước và quan sát tất cả những gì xung quanh đó sao?” hỏi gặng.


      Nicholas lắc đầu và thở dài vì cái lỗi ngu ngốc của mình. “Chắc là tôi già lắm rồi,” ông cũng bằng ngôn ngữ đó. Nhưng còn thời gian đễ hối lỗi. “ thôi!” ông ta hét lớn át cả tiếng báo động inh ỏi, và bổ nhào xuống hành lang. Sophie và Josh theo sát đằng sau, trong khi Scatty cuối cùng, bước chầm chậm và cứ mỗi bước lại cằn nhằn.


      Cánh cửa mở vào hành lang hẹp bằng đá dẫn ra cánh cửa gỗ khác. chút ngập ngừng, Flamel xô vào cánh cửa thứ hai—và ngay tức khắc hồi báo động mới lại rú lên. Ông rẽ trái lao và khoảng gian trống trải rộng lớn đầy mùi hương trầm cũ kỹ, xi đánh sàn và sáp ong. Những dãy nến sáng màu vàng ánh kim tỏa khắp tường, sàn nhà và kết hợp với ánh đèn báo động, cho thấy hai cánh cửa đồ sộ có hang chữ LỐI RA ở bên . Flamel phóng về phía đó, tiếng bước chân ông nện vang.


      “Đừng chạm vào—” Josh thốt lên, nhưng Nicholas Flamel chộp lấy nắm cửa và kéo mạnh.


      Hồi chuông báo động thứ ba—lớn hơn nhiều so với mấy lần trước—chợt tắt ngấm, và bóng đèn đỏ chói phía cánh cửa bắt đầu chớp tắt liên tục.


      bảo chú đừng chạm vào,” Josh cằn nhằn.


      “Chú hiểu nổi—tại sao nó mở sẵn?” Flamel hỏi, hét toáng lên để mọi người có thể nghe được trong tiếng ầm ĩ kinh hồn. “Nhà thờ phải luôn mở cửa chứ?” Ông quay người nhìn quanh. “Mọi người đâu cả? Mấy giờ rồi?” ông hỏi, tựa như có ý vừa ập đến với ông.


      “Phải mất bao lâu để từ nơi này đến nơi kia bằng cổng tuyến?” bé hỏi.


      “Ngay lập tức.”


      “Và chú chắc chắn là chúng ta ở Paris, nước Pháp chứ?”


      “Chắc chắn.”


      Sophie nhìn đồng hồ và làm bài toán rất nhanh. “Paris trước Ojai chín tiếng hả?” hỏi.


      Flamel gật đầu chợt hiểu ra.


      “Bây giờ là bốn giờ sáng; hèn gì nhà thờ đóng cửa,” Sophie .


      “Cảnh sát lên đường tới đây,” Scatty rầu rĩ, giơ tay vớ lấy chiếc nhị khúc của mình. “Tôi ghét phải đánh nhau khi trong người khỏe,” lẩm bẩm.


      “Chúng ta làm gì bây giờ?” Josh hỏi gặng, nỗi sợ hãi dâng lên trong tiếng của cậu.


      “Cháu có thể thử dùng gió phá vỡ mấy cánh cửa này thành từng mảnh,” Sophie đề nghị cách e dè. chắc mình còn sức lực để gọi giiền như vậy lần nữa . dùng năng lượng pháp thuật mới của mình để quật ngã người bất tử ở Ojai, nhưng nỗ lực đó khiến mệt lử hoàn toàn.


      “Chú cấm đó,” Flamel hét lên, khuôn mặt ông chìm trong những vùng bóng tối đỏ thẩm và đen thui. Ông quay lại và chỉ, hướng ngón tay của ông băng ngang qua những hàng ghế dài có lưng tựa thẳng về phía cái bàn thờ trang trí công phu nổi bật họa tiết hình mảng bằng cẩm thạch trắng. Ánh nến phả vào bức tranh rất phức tạp được khảm bằng các mảnh ghép màu xanh da trời và vàng ánh kim lấp lánh trong nóc vòm phía bàn thờ. “Đây là di tích quốc gia, chú thể để cháu phá hủy nó được.”


      “Chúng ta ở đâu vậy?” hai chị em sinh đôi vừa đồng thanh thốt lên vừa nhìn quanh công trình. Bây giờ mắt chúng quen với bóng tối, chúng nhận ra rằng công trình này rất đồ sộ. Chúng có thể phân biệt từng cây cột cao vút làm thành vùng bóng tối đầu và nhìn thấy được bóng của những chiếc bàn thờ phụ nho , bóng những bức tượng đặt trong các góc yên tĩnh và vô số những hàng nến.


      “Đây là,” Flamel thông báo cách tự hào, “nhà thờ Sacre-Coeur.”


      Ngồi đằng sau chiếc limousine của mình, Niccolo Machiavelli gõ tọa độ vào chiếc máy tính xách tay và chăm chú nhìn vào màn hình nơi tấm bản đồ Paris độ phân giải cao nhấp nháy ra.à thành phố cổ lạ lùng. Vùng định cư đầu tiên dễ chừng có hồi hơn hai ngàn năm trước, dù vậy lúc ấy vẫn có người sống hòn đảo năm trong dòng sông Seine này hàng nhiều thế hệ trước nữa. Và cũng như nhiều thành phố cổ kính nhất trái đất, nó được xác định là nơi các nhóm đường tuyến gặp nhau.


      Machiavelli bấm vào phím, màn hình chuyển qua sơ đồ đường tuyến chằng chịt khắp bản đồ thành phố. Ông ta tìm kiếm đường kẻ kết nối với nước Mỹ. Cuối cùng ông ta cũng có cách giảm bớt con số có khả năng xuống còn sáu. Dùng móng tay được cắt giũa hoàn hảo, ông lần theo hai đường kẻ nối thẳng từ Bờ Tây của Mỹ đến Paris. đường kết thúc tại vương cung thánh đường Notre Dame, đường kia kết thúc tại nơi có hai hàng cột kiểu La Mã đại hơn nhưng cũng nổi tiếng kém, thánh đường Sacre-Coeur thuộc vùng Montmartre.


      Nhưng?


      Đột nhiên, đêm Paris chợt vỡ ra bởi những chuỗi còi báo động hú vang. Machiavelli liền bấm vào bộ điều khiển cửa điện tử và lớp kính râm cuộn xuống ngay. khí ban đêm mát lạnh cuộn xoáy vào xe. Xa xa, vượt lên khỏi những mái nhà phía đối diện của Place du Terre, là Sacre-Coeur. Kiến trúc có mái vòm oai nghiêm này luôn được thắp sáng vào ban đêm bằng toàn thứ ánh sáng trắng tinh khiết. Vậy mà, đêm nay, những ngọn đèn báo động đỏ lòm lại chớp tắt nhịp nhàng quanh kiến trúc này.


      Cái đó. Nụ cười của Machiavelli đáng sợ. Ông ta kích hoạt chương trình máy tính và chờ đợi trong khi chiếc ổ cứng


      Nhập mật khẩu.


      Những ngón tay ông ta gõ như lướt bàn phím: Discorsi sopra la prima deca di Tito Livio. ai phá được mật khẩu đó. Nó nằm trong số các cuốn sách được xem là nổi tiếng hơn những cuốn khác của ông.


      trang văn bản trông khá thông thường ra, được viết bằng tiếng Latin, Hy Lạp và kết hợp với nhau. Từng có lần các nhà ma thuật cất giữ những câu thần chú và bùa phép của họ trong cuốn sổ ghi chép bằng tay được gọi là cuốn sổ đen, nhưng Machiavelli luôn luôn dùng công nghệ mới nhất. Ông thích cất những câu thần chú vào ổ cứng của mình hơn. Bây giờ ông chỉ cần chút gì đó để khiến cho Flamel và đám bạn của y bận rộn trong lúc ông tập trung sức lực.


      Josh tập trung nghe ngóng. “Cháu nghe có tiếng còi cảnh sát.”


      “Có mười hai xe cảnh sát trực chỉ đường này,” Sophie , đầu nghiêng bên, hai mắt nhắm lại như chăm chú lắng nghe.


      “Mười hai? Làm sao chị vậy được?”


      Sophie nhìn cậu em sinh đôi của mình. “Chị có thể phân biệt từng vị trí khác nhau của tiếng còi.”


      “Chị có thể chúng tách bạch như vậy sao?” Cậu hỏi. Lại lần nữa, cậu tự bắt gặp mình ngạc nhiên với mức độ hết sức nhạy cảm của chị cậu.


      “Từng chiếc ,” .


      “Chúng ta được để cảnh sát bắt,” Flamel đanh thép xen vào. “Chúng ta có hộ chiếu mà củng chẳng có chứng cớ ngoại phạm. Phải ra khỏi đây ngay thôi!”


      “Bằng cách nào?” cặp sinh đôi cùng hỏi lượt.


      Flamel lắc đầu. “Phải có lối ra vào khác nữa…” ông cất tiếng, và rồi chợt im bặt, cánh mũi nở ra.


      Josh bứt rứt nhìn chằm chặp vào cả Sophie và Scatty vừa đột nhiên phản ứng với thứ gì đó mà cậu sao ngửi thấy được. “Cái gì… cái gì vậy chứ?” cậu hỏi dồn, và rồi thình lình cậu bắt được luồng hơi rất thoảng của cái gì như xạ hương pha lẫn với mùi khen khét. Đó là loại mùi làm cậu liên tưởng đến sở thú.


      “Rắc rối rồi,” Scathach điềm nhiên , cất nhị khúc và rút thanh kiếm ra. “Rắc rối lớn đây.”






      CHƯƠNG 3


      Cái gì? Josh vừa hỏi dồn, vừa nhìn quanh khắp lư̖. Bây giờ cái mùi đó nồng hơn, thiu thiu và gay gắt, và gần giống như là mùi…


      “Rắn,” Sophie vừa , vừa hít mạnh. “Đúng là con rắn.”


      Josh cảm thấy dạ dày cậu chao đảo. Rắn. Tại sao lại phải rắn? Cậu rất khiếp sợ rắn—dù cậu bao giờ thừa nhận điều này với ai, với chị cậu lại càng .


      Rắn…” cậu vừa mở miệng, nhưng giọng cậu the thé và tắc nghẽn. Cậu ho lên rồi cố thử lại. “Đâu?” cậu hỏi, liều lĩnh nhìn ngó quanh, tưởng tượng chúng ở khắp nơi, từ gầm mấy dãy ghế có tựa trườn ra, uốn quanh mấy cái cột, hay là thả mình rơi xuống từ mấy cái đèn gắn vào tường.


      Sophie lắc đầu và nhăn mặt. “Chị nghe gì hết…chị chỉ…ngửi thấy nó thôi.” Hai cánh mũi bé loe ra như thể rít hơi thở sâu. “, chỉ là có …”


      “Ồ em ngửi thấy mùi con rắn, đúng vậy đó… nhưng là con rắn bằng hai chân,” Scatty ngắt lời. “Em ngửi thấy mùi hương đặc trưng của Niccolo Machiavelli.”


      Flamel quỳ xuống sàn ngay trước hai cánh cửa chính đồ sộ và đưa vả hai bàn tay lướt lên ổ khóa. Những dải khói xanh lè quyện quanh các ngó“Machiavelli!” ông thốt lên. “Tôi thấy là Dee bao giờ bỏ lỡ chút thời giờ nào để liên hệ với đồng bọn.”


      “Chú có thể ai có cái mùi đó ?” Josh hỏi, vẫn còn ngạc nhiên với chút bối rối.


      “Mỗi người đều có mùi hương ma thuật riêng để phân biệt,” Scatty giải thích, đứng xoay lưng vào Nhà Giả kim, bảo vệ ông. “Các em có hai mùi kem vanilla và cam, Nicholas có mùi bạc hà…”


      “Và Dee có mùi trứng thối…” Sophie thêm vào.


      “Sulfur,” Josh .


      “Thứ đó trước đây người ta gọi là lưu huỳnh,” Scatty . “Rất thích hợp với Tiến sĩ Dee.” Đầu lắc qua lắc lại như hết sức tập trung vào những cái bóng đổ xuống đằng sau mấy bức trượng. “Ừ, Machiavelli có mùi rắn. Cũng hợp với luôn.”


      là ai?” Josh hỏi. Cậu cảm thấy rằng cậu nên biết cái tên đó, gần như cậu nghe trước đây rồi. “ người trong đám bạn của Dee hả?


      “Machiavelli là người bất tử liên minh với các Elder Đen tối,” Scatty giải thích, “và phải là bạn của Dee, dù chúng cùng phe. Machiavelli lớn tuổi hơn lão Pháp sư, nguy hiểm hơn vô cùng và dứt khoát là xảo quyệt hơn. Tôi mà gặp may tôi giết được rồi,” chua chát . “Hồi năm trăm năm trước từng ở giữa các thế lực chính trị châu Âu, là chủ nhân mình trong bóng tối giật dây điều khiển những tên bù nhìn. Lần cuối cùng tôi nghe về được chỉ định làm lãnh đạo DGSE, Direction Generale de la Securite Exterieure.”


      “Nghe như tên ngân hàng?” Josh hỏi.


      Đôi môi Scatty thoáng cong lên thành nụ cười để lộ mấy cái răng ma cà rồng dài ngoằng. “Có nghĩa là Ủy ban Chung về An ninh Đối ngoại. Đó là sở mật vụ của người Pháp.”


      “Sở mật vụ! Ồ, nghe kêu quá,” Josh chế nhạo.


      “Cái mùi ngày càng nồng hơn,” Sophie , các giác quan được Đánh thức của nhận biết mùi hương cách sâu sắc. Tập trung cao độ, bé để ít năng lượng của mình chảy thành luồng điện tỏa ra như cái bóng ma quái bao khắp người . Tiếng lách tách của những sợi bạc chói ngời nổ mái tóc vàng óng của , và đôi mắt biếnành những đồng xu bằng bạc phản chiếu ánh sáng.


      Gần như ý thức, Josh nhích ra xa khỏi chị cậu. Cậu từng nhìn thấy chị cậu như thế này trước đây, và làm cậu hoảng sợ.


      “Điều đó có nghĩa là ở rất gần đây. làm vài phép thuật gì đó,” Scatty . “Nicholas…?”


      “Tôi chỉ cần thêm chút nữa thôi.” Mấy đầu ngón tay của Flamel bừng sáng màu xanh ngọc lục bảo, bốc thành khói khi lần theo đường hoa văn chạy quanh ổ khóa. tiếng tách nghe như từ bên trong, nhưng khi Nhà Giả kim thử kéo nắm cửa, cái cửa vẫn nhúc nhích. “Chắc phải hơn phút.”


      “Quá trễ rồi,” Josh vừa thầm vừa đưa cánh tay lê chỉ. “Có cái gì đó ở đây nè.”


      Ở đầu đối diện phía bên kia của ngôi nhà thờ có hai dãy cột, những hàng nến tắt phụt. Giống như thể có cơn gió đến mức cảm nhận được quét lên lối giữa các hàng ghế, thổi tắt những vòng sáng như ánh đèn ngủ lập lòe và những ánh nến dày ken khi nó ngang qua, để lại những lọn khói xám trắng lơ lửng trong trung. Đột ngột, mùi sáp nến bỗng dậy lên, nồng nặc hơn nhiều, nhiều, gần như xóa sạch cái mùi rắn.


      “Sao em thấy gì hết…” Josh mở miệng.


      “Nó đây!” Sophie la lên.


      Sinh vật vụt lên khỏi những phiến đá lát lạnh lẽo kia chỉ là cái gì đó giống con người. Đứng cao hơn người đàn ông bình thường, dềnh dàng và kệch cỡm, đó là hình khối trắng sền sệt chỉ có lờ mờ cái đầu đặt lên hai bờ vai rộng. có nét mặt rệt. Hai cánh tay khổng lồ lẹp nhẹp tách khỏi thân hình và mọc ra những hình thù giống như bàn tay.


      “Golem!” Sophie la lên trong nỗi khiếp sợ. “ tên Golem bằng sáp!” vung tay lên và luồng điện của chiếu sáng rực. Luồng gió lạnh buốt như nước đá trào khỏi đầu ngón tay đập liên hồi vào sinh vật đó, nhưng làn da trắng như sáp đó đơn giản chỉ gợn lên và rủ xuống dưới cơn gió .


      “Bảo vệ Nicholas!” Scatty vừa ra lệnh, vừa lao mình về phía trước, nhưng thanh kiếm cùng bộ của rung lên, đâm phập vào hình dạng đó, nhưng ăn thua. Sáp mềm hút giữ thanh kiếm lại, phải dốc hết sức mới rút chúng ra được. tấn công lần nữa và lần này những mảnh sáp phun lên trong khí. tấn công , nhảy lùi lại để tránh cú đấm xiểng liểng nên buộc phải mất tập trung vào thanh kiếm. nắm đấm to đùng giáng xuống sàn ngay sát chân , những giọt sáp trắng bắn tung tóe khắp mọi phía.


      Josh chộp lấy trong những cái ghế xếp bằng gỗ chất đống bên ngoài cửa hàng tặng ở phía sau nhà thờ. Cầm hai cái chân ghế, cậu quật mạnh vào ngực tên kia… cái ghế dính chặt vào đó. Ngay khi hình dạng bằng sáp kia vừa xoay qua Josh, cái ghế liền bị giật phăng ra khỏi tay cậu. Cậu chộp ngay cái ghế khác, lap quành ra đằng sau và ném sầm xuống. Cái ghế vỡ vút ngang qua vai , để lại những vệt mảnh vụn nhô lên như những cái lông gai nhím kỳ quái.


      Sophie cứng người. liều mạng cố khơi lại ít bí mật của phép thuật khí mà Bà Phù thủy Endor dạy mới chỉ vài giờ trước. Bà Phù thủy nó mạnh nhất trong hết thảy các phép thuật—và Sophie thấy nó phát huy tác dụng đối với đội quân sống động gồm những con người và thú vật chết từ lâu lắm rồi mà Dee dựng dậy ở Ojai. Nhưng biết nó có làm được gì chống lại tên quỷ bằng sáp ở trước mặt kia . còn biết cách tạo nên những cơn lốc xoáy , nhưng thể liều lĩnh gọi nó lên trong khoảng gian bị giới hạn của ngôi nhà thờ với hai hàng cột như thế này được.


      “Nicholas!” Scatty kêu lên. Những thanh kiếm của kẹt trong sinh vật kia, nên Nữ Chiến binh dùng nhị khúc—hai khúc gỗ nối nhau bằng đoạn xích ngắn—để đập liên hồi vào tên Golem, để lại những vết lõm hằn sâu vào da , nhưng ngoài mấy cái vết đó ra hình như chẳng hề hấn gì. giáng cú đấm cực mạnh làm lút thanh gỗ bóng láng vào hẳn trong hông sinh vật kia. Sáp chảy quanh chiếc nhị khúc, bao nó lại. Khi xoắn người về phía Josh, thứ vũ khí đó bứt toạc ra khỏi tay Nữ Chiến binh, ném xoay tròn qua tuốt bên kia gian phòng.


      bàn tay chỉ có ngón cái còn những ngón ác bị tan chảy ra, như cái găng tay hở ngón khổng lồ, nắm lấy vai Josh và siết chặt. cơn đau lạ thường chạy xuống tận đầu gối cậu bé.


      “Josh!” Sophie kêu thất thanh, thanh vang vọng trong ngôi nhà thờ mênh mông.


      Josh cố gắng kéo vụt tay về, nhưng sáp quá trơn và những ngón tay cậu chìm vào trong cái chất dính nhớp nháp màu trắng ấy. Sáp ấm bắt đầu chảy qua khỏi bàn tay , rồi uốn cong phủ quanh hai vai cậu và lăn xuống ngực, bóp nghẹt hơi thở cậu.


      “Josh, tránh ra!”


      Sophie túm lấy cái ghế gỗ, đánh bạt nó vào trung. Cái ghế rít lên bay ngang qua đầu em , gió xốc tung tóc cậu, và giọng mạnh nó xuống—ngay cạnh đầu tiên— cánh tay sáp to tướng, chỗ đó hẳn phải là khuỷu tay. Cái ghế cắm vào nữa chừng, nhưng cú chuyển động đó làm xao lãng cái sinh vật ấy và buông Josh ra, để mặc cậu thâm tím nắm vùi trong lớp sáp nến. Từ chỗ cậu quỳ đất, Josh kinh hãi nhìn chăm chăm hai bàn tay sền sệt vươn tới cổ họng chị sinh đôi của cậu.


      Khiếp đảm, Sophie rú lên.


      Josh nhìn thấy mắt chị mình lung linh, màu xanh da trời được thay thế bằng màu bạc, và rồi luồng điện của chiếu sáng rực ngay lúc móng vuốt của tên Golem chạm gần đến da . Thình lình, hai bàn tay sáp của bắt đầu chảy lỏng ra và vãi tung tóe khắp nền nhà. Sophie xòe bàn tay mình, những ngón tay dang rộng, ấn sâu vào lòng ngực tên Golem, chỗ đó lún vào, kêu xèo xèo và xì bọt nước, biến thành đống sá


      Josh hụp mình đất, tiến gần đến Flamel, hai tay cậu giơ lên bảo vệ đôi mắt khỏi luồng sáng bạc chói lòa. Cậu thấy chị cậu bước gần tới cái sinh vật ấy, luồng điện của bây giờ sáng quắc làm nhức cả mắt, hai cánh tay dang rộng, hơi nóng cảm thấy được mà cũng nhìn thấy được nung tan chảy ra, biến sáp thành chất lỏng. Những thanh kiếm và nhị khúc côn của Scathach rơi loảng xoảng lách cách nền đá, rồi vài giây sau, phần còn sót lại của cái ghế gỗ rơi tiếp theo. Luồng điện của Sophie lung linh và bé loạng choạng, Josh liền đứng nhổm dậy bên cạnh đễ đỡ lấy chị mình. “Chị thấy chóng mặt,” cách khó nhọc trong lúc đổ sụp vào cánh tay cậu. chỉ vừa vặn đủ để biết mình còn tỉnh táo, và cảm thấy người lạnh buốt như nước đá, mùi hương vanilla ngọt ngào trong luồng điện của giờ nghe chua chua và đăng đắng.


      Scatty nhảy bổ xuống thu gom vũ khí của khỏi đóng sáp sền sệt mà bây giờ trông giống như ông người tuyết tan chảy nữa chừng. lau sạch lưỡi kiếm cách khó chịu trước khi đút chúng trở vào mấy cái vỏ đeo sau lưng . Gỡ những lọn nến trắng khỏi chiếc nhị khúc của mình, bỏ chúng vào cái bao đeo thắt lưng; rồi quay sang Sophie. “Em cứu chúng ta,” cách trang nghiêm. “Đó là món nợ mà tôi quên.”


      “Được rồi,” Flamel đột nhiên . Ông đứng dậy, và Sophie, Josh, cùng với Scathach nhìn những lọn khói màu xanh lục rỉ từ cái ổ khóa. Nhà Giả kim đẩy cánh cửa và nó lách cách mở ra, khí đêm mát lạnh ùa vào, xua tan cái mùi sáp giả tạo tan chảy.


      “Với chút giúp đỡ thế nào chúng ta cũng làm được, ông biết mà,” Scatty càu nhàu.


      Flamel cười toe và chùi ngón tay vào chiếc quần jeans của ông, để lại những vệt sáng màu xanh lục nền vải. “Tôi biết kiểm soát tình hình chặt chẽ rồi,” vừa ông vừa bước ra khỏi ngôi nhà thờ có hai hàng cột. Scathach và cặp sinh đôi bước theo.


      thanh của tiếng còi xe cảnh sát giờ nghe lớn hơn, nhưng khoảng diện tích ngay trước ngôi nhà thờ vẫn còn trống. Sacre-Coeur nằm ngọn đồi, trong những đỉnh cao nhất Paris, và từ nơi họ đứng, họ có được tầm nhìn toàn cảnh về thành phố. Khuôn mặt Nicholas Flamel sáng lên niềm vui. “Về đến nhà rồi!”


      “Có cái gì với bọn pháp sư châu Âu và Golem vậy?” Scatty vừa theo sau ông vừa hỏi. “Đầu tiên là Dee và bây giờ là Machiavelli. Bọn chúng có chút sáng tạo nào à?”


      Flamel ngạc nhiên. “Đó phải là Golem, Golem cần câu thần chú mình chúng để làm cho chúng có sinh khí.”


      Scatty gật đầu. Dĩ nhiên là biết điều đó rồi. “Vậyứ là cái gì?”


      “Đó là tulpa.”


      Đôi mắt màu lục nhạt của Scatty mở lớn đầy vẻ ngạc nhiên. “ tulpa! Vậy đó là năng lượng của Machiavelli sao?”


      “Hiển nhiên rồi.”


      “Tulpa là cái gì vậy, chú?” Josh hỏi Flamel, nhưng chính chị cậu mới là người trả lời, và lại lần nữa Josh nhớ đến hố sâu ngăn cách thăm thẳm mở ra giữa hai chị em ngay lúc năng lượng của chị cậu được Đánh thức.


      sinh vật được tạo ra và thổi sinh khí vào hoàn toàn bởi năng lượng của trí tưởng tượng,” Sophie giải thích cách tự nhiên.


      “Chính xác,” Nicholas Flamel vừa vừa hít sâu vào. “Machiavelli biết là phải có nến trong nhà thờ. Vì vậy cho nến sống dậy.”


      “Nhưng chắc chắn là biết cái thứ đó thể ngăn chúng ta chứ?” Scatty hỏi.


      Nicholas bộ ra khỏi mái vòm trung tâm được dựng lên ngay trước ngôi nhà thờ có hai hàng cột và ông đứng ngay rìa bậc thứ nhất của hai trăm hai mươi mốt bậc cấp dẫn xuống con đường xa tít tắp bên dưới. Ồ, dư biết nó ngăn được chúng ta,” ông nó cách nhẫn nại. “ chỉ muốn làm chậm chúng ta thôi, để giữ chúng ta ở đây cho tới khi đến.” Ông chỉ tay.


      Đằng xa bên dưới, những con đường hẹp của vùng Montmartre trở nên sống động bởi thanh và ánh sáng của đoàn xe cảnh sát Pháp. Hàng tá những hiến binh mặc đồng phục tụ tập dưới chân các bậc thang, còn thêm nhiều người nữa đến từ những con phố ngang chật hẹp. ngạc nhiên, ai trong số họ bắt đầu trèo lên.


      Flamel, Scatty và hai chị em sinh đôi để ý đến cảnh sát. Họ chăm chú nhìn người đàn ông cao gầy tóc trắng trong bộ lễ phục buổi chiều thanh lịch chầm chậm bước lên những bậc thang tiến về phía họ. ngừng lại khi thấy họ nhô lên khỏi ngôi nhà thời có hai hàng cột, dựa vào rào chắn thấp bằng kim loại và đưa bàn tay phải lên chào cách lười biếng.


      “Để cháu đoán xem,” Josh , “đó phải là Niccolo Machiavelli.”


      “Kẻ bất tử nguy hiểm nhất châu Âu,” Nhà Giả kim dứt khoát. “Tin chú : người đàn ông này làm cho Dee trông chẳng khác gì tay nghiệp dư.”






      CHƯƠNG 4


      Chào mừng trở lại Paris, Nhà Giả kim”


      Sophie và Josh nhảy nhổm. Machiavelli vẫn còn ở xa lắm thể nghe tiếng như vậy được. kỳ lạ, giọng dường như đến từ đâu đó ngay sau hai đứa, và cả hai quay lại nhìn, nhưng chỉ có hai bức tượng kim loại gỉ sét màu xanh vượt lên ba mái vòn đằng trước ngôi nhà thờ: phía bên phải chúng là người phụ nữ lưng ngựa, cánh tay cầm thanh kiếm giơ cao, và phía bên trái là người đàn ông cầm vương trượng.


      “Tôi chờ ông đây.” Giọng nghe như đến từ pho tượng người đàn ông.


      “Trò bịp bợm rẻ tiền,” Scatty vừa cách thô bạo vừa gỡ những dải sáp khỏi mủi giày bốt chiến đấu của , chỗ đặt ngón chân được bọc bằng thép. “ gì hơn là thuật tiếng bụng thôi.”


      Sophie cười bẽn lẽn. “Em tưởng bức tượng ,” bối rối thừa nhận.


      Josh cười chị cậu và rồi chợt suy ngẫm lại. “Em nghĩ em ngạc nhiên nếu nó có như vậy thiệt.”


      “Ông bạn Tiến sĩ Dee tốt lành gởi lời thăm ông.” Giọng Machiavelli tiếp tục lơ lửng trong khí quanh họ.


      “Vậy ông ta được cứu ở Ojai” Nicholas như chuyện trò, cao giọng. Đứng cao và thẳng người, ông ta bất giác đưa hai tay ra sau lưng và liếc xéo về phía Scatty. Rồi những ngón tay phải của ông bắt đầu nhảy múa lòng bàn tay và những ngón tay trái.


      Scatty kéo hai đứa sinh đôi cách xa khỏi Nicholas và chậm rãi lùi vào dưới bóng những mái vòm. Đứng giữa chúng, khoác hai cánh tay mình lên vai chúng—cả hai luồng điện bạc và vàng của chúng nổ giòn khi chạm vào—và kéo đầu hai đứa lại với nhau.


      “Machiavelli. Bậc thầy dối trá.” Tiếng thào của Scatty như tiếng thở nhất lọt vào tai chúng. “ được để cho nghe thấy chúng ta.”


      “Tôi thể gì hơn là rất vui được gặp ông, Ngài Machiavelli. Hay Quý ông Machiavelli trong thời đại này?” Nhà Giả kim khẻ khàng, dựa vào hàng chấn song bao lơn, nhìn xuống những bậc thang màu trắng đến nơi Machiavelli vẫn còn bé ở đằng xa.


      “Thế kỷ này, tôi là người Pháp” Machiavelli đáp, giọng có thể nghe rất .


      “Tôi Paris. Đây là thành phố quý của tôi ở châu Âu—sau Florence, tất nhiên.”


      Trong lúc Nicholas chuyện với Machiavelli, ông ta để tay sau lưng, ngoài tầm nhìn của người bất tử kia. Những ngón tay của ông cử động thành chuỗi những tiếng gõ và tiếng


      “Chú ấy làm bùa chú ạ?” Sophie vừa thở ra, vừa trố mắt nhìn hai bàn tay ông.


      , ông ấy chuyện với tôi,” Scatty .


      “Bằng cách nào?” Josh thầm. “Pháp thuật hả? Hay là ngoại cảm?”


      “ASL, ngôn ngữ dấu hiệu của Mỹ.”


      Hai đứa sinh đôi liếc nhau nhanh. “Ngôn ngữ Dấu hiệu của Mỹ?” Josh hỏi.


      “Chú ấy biết ngôn ngữ dấu hiệu à? Làm sao được chứ?”


      “Em quyên là chú ấy sống rất lâu rồi sao,” Scatty cùng nụ cười toe nhe ra mấy cái răng ma cà rồng. “Và chú ấy giúp tạo ra ngôn ngữ dấu hiệu của Pháp trong thế kỷ mười tám,” ta thản nhiên.


      “Chú ấy gì vậy?” Sophie sốt ruột hỏi. tìm đâu ra trong trí nhớ phù thủy được chút kiến thức cần thiết để diễn dịch những cử chỉ của người đàn ông lớn tuổi kia.


      Scatty cau mày, môi cử động khi đánh vần thành từng từ“Sophie… brouillard… sương mù,” dịch lại. Rồi lắc đầu. “Sophie, chú ấy nhờ em làm sương mù kìa. Điều đó chẳng có ý nghĩa gì cả.”


      “Với em có đó,” Sophie lúc hàng tá những hình ảnh sương mù, mây mù, và khói mù nhấp nháy trong đầu .


      Niccolo Machiavelli dừng lại mấy bậc thang và hít hơi thở sâu. “Người của tôi bao vây khắp khu vực này,” , di chuyển chậm chạp về phía Nhà Giả kim. bị hụt hơi chút và trái tim đập như búa nện; đúng là cần phải tập thể dục trở lại.


      Việc tạo ra tên tulpa bằng sáp làm kiệt sức. Trước giờ chưa bao giờ làm tên to lớn như vậy, và chưa bao giờ làm từ băng sau chiếc xe gầm rú xuyên qua những con phố chật hẹp và uốn khúc của vùng Montmartre. Đó phải là giải pháp tao nhã, nhưng tất cả những gì cần phải làm là giữ Flamel và đồng bọn của ông ta bị nhốt trong nhà thờ cho tới khi tới được đó, và thành công. Bây giờ ngôi nhà thờ bị bao vây, thêm nhiều hiến binh nữa đường đến và triệu tất cả các nhân viên mật vụ sẵn sàng tiếp ứng. Vì là người đứng đầu DGSE, quyền hành của hầu như giới hạn, và ban hành mệnh lệnh buộc báo chí được đưa tin. tự hào với bản thân mình vì hoàn toàn làm chủ mọi cảm xúc của mình, nhưng phải thừa nhận rằng ngay lúc này đây, cảm thấy rất hồi hộp: chẳng mấy chốc nữa bắt giam Nicholas Flamel, Scathach và bọn trẻ. là người chiến thắng trong khi Dee lại là kẻ chiến bại.


      Sau này cho phép ai đó trong cơ quan rò rỉ thông tin với báo chí rằng những tên trộm bị bắt khi đột nhập vào di tích quốc gia này. Gần đến rạng đông—vừa đúng lúc ra tin tức buổi sáng sớm— báo cáo thứ hai được hé mở, tiết lộ rằng những tên tù nhân liều mạng chế ngự được những người canh gác và trốn thoát đường dẫn đến trạm cảnh sát. ai còn trông thấy chúng nữa.


      “Bây giờ tôi bắt được ông rồi, Nicholas Flamel.”


      Flamel tiến đến đứng ngay tại rìa của những bậc thang và nhét tay vào túi sau của chiếc quần jeans đen bạc thếch của mình. “Tôi tưởng lần cuối cùng ông câu đó là đúng lúc ông xông vào ngôi mộ của tôi chứ.”


      Machiavelli choáng người dừng lại. “Sao ông biết chuyện đó?”


      Hơn ba trăm năm trước đây, giữa đêm khuya thanh vắng, Machiavelli đập vỡ toang ngôi mộ của Nicholas và Perenelle, tìm bằng chứng xác nhận Nhà Giả kim và vợ ông thực chết và cố phân định xem họ có được chôn cùng cuốn sách của Pháp sư Abraham . Tên người Ý này vô cùng ngạc nhiên khi tìm thấy cả hai cổ quan tài đều chất đầy toàn đá là đá.


      “Tôi và Perenelle ở đó ngay đằng sau ông, đ bóng tối, đủ gần để chạm vào ông khi ông nhấc nắp quan tài của chúng tôi ra. Tôi biết có ai đó đến… Tôi chỉ bao giờ tưởng tượng nổi người đó lại chính là ông. Thú rằng tôi thất vọng, Niccolo ạ,” ông thêm.


      Người đàn ông tóc trắng tiếp tục bước lên những bậc thang dẫn đến Sacre-Coeur. “Ông luôn nghĩ tôi tốt hơn con người thực của tôi, Nicholas.”


      “Tôi tin rằng luôn có điều tốt lành trong mỗi con người,” Flamel thầm, “ngay cả ông.”


      phải tôi, Nhà Giả kim ơi, còn nữa, từ lâu lắm rồi,” Machiavelli ngừng lại, chỉ vào cảnh sát và lực lượng đặc biệt Pháp có vũ trang trong bộ quần áo màu đen nặng nề tụ tập dưới chân bậc thang. “Nào bây giờ đến đây. Đầu hàng . Ông bị tổn hại gì đâu.”


      “Tôi thể bảo ông là có bao nhiêu người với tôi như vậy,” Nicholas buồn bã . “Và họ luôn tự dối gạt,” ông thêm.


      Giọng Machiavelli đanh lại. “Ông có thể điều đình với tôi hoặc Tiến sĩ Dee. Và ông biết tay Pháp sư người đó bao giờ có chút kiên nhẫn nà>“Vẫn có lựa chọn khác,” Flamel nhún vai. Đôi môi mỏng dính của ông cong lên thành nụ cười. “Tôi có thể thương lượng với ai trong các ông hết.” Ông ta xoay nửa người, nhưng khi ông ta nhìn ngược lại Machiavelli, cảm xúc mặt Nhà Giả kim làm tay người Ý bất tử kia phải đột ngột bước lùi lại. Trong tích tắc, vẻ gì đó cổ xưa và tỏa sáng xuyên qua đôi mắt nhạt màu của Flamel, lung linh màu xanh ngọc lục bảo lấp lánh. Bây giờ giọng Flamel rơi xuống thành lời thầm, Machiavelli vẫn nghe được rành mạch. “ là tốt hơn nếu tôi và ông bao giờ gặp lại nhau.”


      Machiavelli cười gằn, nhưng thanh như run rẩy. “Điều đó nghe giống lời đe dọa ghê nhỉ… và tin tôi , ông ở vào cái thế có thể ban ra những lời đe dọa đâu.”


      phải lời đe dọa,” Flamel , và từ bậc cùng ông bước lùi lại. “Mà là lời hứa.”


      Bầu khí đem Paris ẩm ướt mát lạnh bất ngờ đượm mùi hương vanilla thơm ngát, và Niccolo Machiavelli biết rằng rồi có điều gì đó rất đáng ngại.


      Đứng thẳng người, mắt nhắm, hai cánh tay thả dọc bên hông, lòng bàn tay hướng ra ngoài, Sophie Newman hít thở sâu, cố làm dịu lại trái tim nổi sấm ầm ầm của mình và cho phép đầu óc mình được lang thang. Khi Bà Phù thủy Endor quấn bé như cái xác ướp bằng dãi băng là bằng khí đông cứng lại, bà truyền đạt hàng ngàn năm kiến thức vào bé con có vấn đề về nhịp tim. Sophie hình dung có cảm giác đầu mình căng phồng lên khi bộ não đầy ắp ký ức của Bà Phù thủy. Từ đó, đầu óc bị cơn nhức đầu đập rộn lên, đáy cổ đặc quánh, chặt cứng và có cơn đau ỉ đằng sau đôi mắt. Hai ngày trước con bé tuổi teen người Mỹ rất bình thường, trong đầu toàn những thứ bình thường hằng ngày: bài tập về nhà và các nghiên cứu ở trường, những bài hát và những đoạn video mới nhất, những đứa con trai thích, những số điện thoại và địa chỉ trang web, những trang blog và những đường dẫn url.


      Bây giờ lại biết những thứ mà người bình thường nào nên biết qua.


      Sophie Newman sở hữu ký ức của Bà Phù thủy Endor; biết tất cả những gì Endor từng trông thấy, mọi thứ bà ta từng làm qua suốt từng ấy các thiên niên kỷ. Tất cả là mớ bòng bong: pha trộn giữa tư tưởng và ước muốn, những điều quan sát được, nỗi sợ hãi và khát khao, đống lộn xộn toàn những thị kiến kỳ quái, những hình ảnh đáng sợ và những thanh thể hiểu nổi. Nó như thể là những cuộn phim cả ngàn năm được trộn lại và biên tập lại với nhau. Và mớ ký ức lộn xộn vung vãi khắp nơi là những phạm vi ảnh hưởng đếm được khi Bà Phù thủy thực sử dụng năng lượng đặc biệt của bà, Phép thuật khí. Tất cả những gì Sophie phải làm là tìm ra thời gian Bà Phù thủy sử dụng sương mù.


      Nhưng làm sao tìm kiếm nó, khi nào và ở đâu?


      Kh để ý đến giọng Flamel xỉ vả Machiavelli, tẩy xóa cái mùi chua chua trong nỗi sợ hãi của cậu em và tiếng xủng xoảng từ những thanh kiếm của Scathach, Sophie tập trung mọi ý tưởng của vào sương mù và mây mù.


      San Francisco thường chìm đắm trong mây mù, và từng thấy cầu Cổng Vàng vươn lên khỏi lớp mây dày đặc. Và chỉ mới mùa thu vừa rồi, khi gia đình ở Nhà thờ thánh Paul tại Boston, họ bước ra phố Tremont và thấy rằng đợt sương mù ẩm ướt hoàn toàn nhận chìm công viên Common. Những ký ức khác chợt ào về: mây mù ở Glassgow; sương mù ẩm ướt có xoáy ở Vienna, sương khói hôi hám vàng khè ở London.


      Sophie cau mày; chưa từng ở Glasgow, Vienna hoặc London. Nhưng Bà Phù thủy … và đây chính là những ký ức của Bà Phù thủy Endor.


      Những hình ảnh, ý tưởng và ký ức—như những dải sương mù thấy trong đầu mình—đổi dời và xoăn vặn. Và rồi đột nhiên chúng ra mồn . Sophie nhớ ràng là đứng kế bên nhân dáng ăn vận y phục trang trọng của thế kỷ mười chín. có thể thấy ta trong con mắt tâm trí của mình, người đàn ông có mũi dài và vầng trán cao với mái tóc quăn màu xám. ta ngồi nơi cái bàn giấy cao, bó giấy màu kem trước mặt, và nhúng cây bút đơn sơ vào cái bình mực đầy ắp. Phải mất mộc lúc mới nhận ra rằng đây phải là trong số những ký ức của riêng , mà cũng phải là những cảnh từng xem tivi hay trong bộ phim nào đó. nhớ lại những gì Bà Phù thủy Endor làm và nhìn thấy. Khi quay lại để nhìn gần vào nhân dáng đó, ký ức của Bà Phủ thủy tràập trong : người đàn ông này là nhà văn người nổi tiếng và ông vừa mới bắt đầu viết cuốn sách mới. Nhà văn liếc nhìn lên và mỉm cười với ; rồi đôi môi ông ta cử động, nhưng thanh nào. Cúi người nhìn qua vai ông, thấy ông viết những lời Sương mù khắp nơi. Sương mù tràn lan mặt sông. Sương mù chìm xuống lòng sông bằng kiểu chữ thảo loăng quăng tao nhã. Bên ngoài cửa sổ phòng làm việc của ông, sương mù, dày và mờ đục, cuộn tròn như khói tấm kính dơ bẩn, xóa nền đất bằng lớp mềm thể xuyên thủng được.


      Và bên dưới má cổng của Sacre-Coeur tại Paris, khí giá lạnh và ẩm ướt, đầy mùi kem vanilla. dòng chảy màu trắng giọt từ từng ngón tay cua Sophie xòa ra. Những dòng lưa thưa uốn loanh quanh chảy xuống thành vũng đọng dưới chân . Đằng sau đôi mắt nhắm của mình, nhìn thấy nhà văn nhúng cây bút vào bình mực và tiếp tục công việc của ông. Sương mù trườn… sương mù nằm… sương mù rũ gục… sương vương trong mắt và cổ họng…


      Làn sương mù trắng dày đặc chảy những từ ngón của Sophie ra và trải khắp mặt đá, chuyển động như những cụm khói nặng nề, khi chảy trong những đoạn dây thừng xoắn vặn khi lại giống những sợi chỉ mảnh như tơ nhện. Ngoằn nghèo và chuyển hướng, làn sương chảy qua chân Flamel và đổ nhào xuống các bậc thang, nhân dần lên, trở nên dày đặc, tối sầm.


      Niccolo chăm chú nhìn vào dòng sương mù chảy xuống những bậc thang của Scare-Coeur như dòng sữa bẩn, thấy nó đặc quánh lại và lớn dần lên trong lúc cuốn lên cuộn xuống, và ngay lúc đó, biết rằng Flamel sắp qua mặt . Lúc tỏa xuống đến cao ngang ngực, ướt rượt và đượm mùi vanilla. hít sâu, nhận ra đó là mùi hương của phép thuật.


      “Xuất sắc,” , nhưng làn sương mù làm chẹt tiếng , làm nhòe cái giọng Pháp được trau chuốt cẩn thận của , để lộ ra tiếng Ý thô ráp hơn nằm bên dưới.


      “Hãy để chúng tôi yên,” giọng Flamel vang vượt khỏi đám sương mù.


      “Nghe như lời đe dọa khác nữa vậy, Nicholas à. Tin tôi khi tôi với ông rằng ông biết gì về những lực lượng hợp lực để chống lại ông. Những mánh lới tầm thường của ông cứu được ông đâu.” Machiavelli rút chiếc điện thoại di động ra và nhấn phím gọi nhanh. “Tấn công. Tấn công ngay!” vừa vừa nhảy lên các bậc thang, di chuyển nhàng đôi giày đế gia đắt tiền, trong khi ở phía xa bên dưới, đội cảnh sát tụ tập sẵn chuẩn bị tập kích lên các bậc thang, những bàn chân mang ủng dậm thình thịch nền đá.


      “Tôi sống rất lâu rồi.” Giọng Flamel xuất phát từ nơi mà Machiavelli mong đợi, dừng lại, quay trái quay phải, cố nhận ra hình thù nào đó trong sương mù.


      “Thế giới cứ tiến tới, Nicholas,” Machiavelli . “Ông . Hẳn ông có thể trốn tránh chúng tôi ở Mỹ, nhưng tại đây, ở châu Âuày, có quá nhiều Elder, quá nhiều người bất tử biết ông. Ông thể cứ nấp mãi được. Chúng tôi tìm được ông.”


      Machiavelli lao lên vài bậc thang cuối cùng mang trực diện với lối vào nhà thờ. Ở đây có sương mù. Đám sương mù tự nhiên này khởi đầu từ bậc cao nhất và chảy xuống, để ngôi nhà thờ nổi lên như hòn đảo trong vùng biển đầy mây giăng. Ngay cả trước khi chạy vào nhà thờ, Machiavelli biết tìm thấy bọn họ trong đó: Flamel, Scathach và hai đứa sinh đôi trốn thoát mất rồi.


      Cho đến lúc này.


      Nhưng Paris còn là thành phố của Nicholas Flamel. Thành phố này từng tôn vinh Flamel và vợ ông như những vị bảo trợ cho người bệnh tật, nghèo đói, thời thành phố có những con đường được mang tên hai ông bà qua lâu rồi. Paris bây giờ thuộc về Machiavelli và những Elder đen tối mà phục vụ. Nhìn ra khắp thành phố cổ, Niccolo Machiavelli thề rằng biến Paris thành cái bẫy—và có lẽ thậm chí là ngôi mộ—cho Nhà Giả kim huyền thoại.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 5


      Những hồn ma của Alcatraz đánh thức Perenelle Flamel.


      Người phụ nữ nằm im lìm chiếc giường như cái cũi hẹp dành cho trẻ con trong xà lim lạnh buốt nằm sâu bên dưới nhà tù bỏ hoang này và lắng nghe họ lào thào, rù rì trong những vùng tối quanh bà. Bà có thể hiểu được khoảng hơn chục ngôn ngữ, nhận ra được nhiều hơn, và ít còn lại bà hoàn toàn hiểu gì hết.


      Nằm nhắm mắt, Perenelle tập trung vào các loại ngôn ngữ, cố nắm bắt được những giọng độc đáo, tự hỏi xem mình có nhận ra chút gì . Và rồi bà chợt nảy ra ý tưởng: làm sao bà có thể nghe được những bóng ma?


      con nhân sư ngồi bên ngoài xà lim, đó là con vật có mình sư tử, có cánh đại bàng, có cái đầu của người đàn bà đẹp. trong những khả năng đặc biệt của nó là có thể hấp thu năng lượng pháp thuật của những sinh vật sống khác. Nó bòn rút hết năng lượng của Perenelle, khiến bà bất lực, và cầm giữ bà trong xà lim của nhà tù kinh khủng này.


      nụ cười mỉm uốn môi Perenelle cong lên khi bà nhận ra được điều đó: bà là con thứ bảy của người cũng là con thứ bảy trong gia đình; bà được sinh ra cùng với khả năng nghe được và nhìn thấy được những bóng ma. Bà như thế rất lâu trước khi học được cách uốn nắn và tập trung luồng điện của mình. Năng khiếu bẩm sinh của bà liên quan gì đến phép thuật, và vì vậy con nhân sư có quyền lực đó. Trải qua nhiều thế kỷ trong cuộc đời dài của bà, bà dùng kỹ năng phép thuật của mình để bảo vệ chính mình khỏi những bóng ma, để bao phủ và che chở luồng điện của bà bằng những màu sắc làm cho bà thành vô hình đối với ma quỷ. Nhưng vì con nhân sư hút hết những năng lượng của bà, mọi thứ che chở bị xóa sạch, để lộ bà trong vương quốc tâm linh đó.


      Và bây giờ họ đến>Perenelle Flamel thấy hồn ma thứ nhất—bà ngoại quý Mamom của mình—khi mới lên bảy tuổi. Bà biết rằng những bóng ma có gì đáng sợ; họ có thể quấy rầy, chắc chắn rồi, thường chọc phá và đôi khi hết sức thô lỗ, nhưng họ có được diện tự nhiên. Thậm chí vài ba lần bà học cách gọi những người bạn. Qua các thế kỷ có vài linh hồn trở lại với bà biết bao lần, họ đến với bà vì biết bà có thể nghe, có thể thấy hoặc giúp đỡ họ—và thường thường, Perenelle nghĩ, đơn giản chỉ vì họ đơn. Mamom xuất mỗi thập kỷ hay đâu khoảng đó chỉ để kiểm tra bà.


      Nhưng dù diện trong thế giới thực, nhưng hồn ma phải là có năng lượng gì.


      Mở mắt ra, Perenelle tập trung vào bức tường chắn ngay trước mắt bà, bức tường làm bằng những phiến đá được mài giũa. Bức tường dầm dề thứ nước màu xanh lục nhàn nhạt có mùi gỉ và muối, hai yếu tố rốt cuộc phá hủy nhà tù Alcatraz. Dee phạm sai lầm, bà biết là phạm sai lầm. Nếu Tiến sĩ Dee có nhược điểm, đó chính là kiêu ngạo. Hiển nhiên nghĩ là nếu nhốt bà sâu dưới lòng Alcatraz và bị con nhân sư canh giữ, bà đành bất lực. thể sai lầm hơn.


      Alcatraz là nơi của những bóng ma.


      Và Perenelle Flamel cho thấy ngay sức mạnh của bà.



      Nhắm mắt lại, thư giãn, Perenelle lắng nghe những hồn ma ở Alcatraz, và rồi từ từ nâng giọng mình chỉ vừa đủ để vượt lên khỏi lời thầm như tiếng thở, bà bắt đầu chuyện với họ, gọi họ và quy tụ họ lại với bà.



      CHƯƠNG 6


      Chị ổn,” Sophie rù rì như ngái ngủ, “thiệt đó.”


      “Trông chị chẳng ổn tí nào,” Josh khẽ qua hàn răng nghiến chặt. Lần thứ hai trong thời gian như thể nhiều ngày trôi qua, Josh ôm người chị cánh tay mình, cánh tay đặt dưới lưng chị, cánh tay kia lòn bên dưới bàn chân. Cậu cẩn thận bước xuống những bậc thang của Sacre-Coeur, lo sợ mình thả rơi người chị sinh đôi mất. “Chú Flamel bảo chúng ta rằng mỗi lần chị dùng phép thuật đánh cắp của chị ít năng lượng,” cậu thêm. “Trông chị kiệt quệ hẳn.”


      “Chị khỏe mà…” thào. “Đặt chị xuống.” Nhưng rồi hai mắt líu ríu khép lại lần nữa.


      Nhóm di chuyển thầm ngang qua làn sương đượm mùi vanilla, Scathach dẫn đầu và Flamel bọc hậu. Họ có thể nghe khắp quanh mình tiếng bước chân nặng nề của những đôi giàu bốt, tiếng leng keng của vũ khí, và những hiệu lệnh câm của cảnh sát và lực lượng đặc biệt Pháp trèo lên bậc thang. Vài người trong số đó tiến sát họ nguy hiểm, và hai lần Josh buộc phải cúi mình thấp xuống khi hình dạng trong bộ đồng phục phóng ngang.


      Scathach chợt lên lờ mờ khỏi đám sương dày, đặn tay ngắn, mũm mĩm lên môi. Những giọt nước li ti làm đông cứng mái tóc đỏ chói của , làn da trắng của trông cò xanh xao hơn thường ngày. dùng chiếc nhị khúc có chạm trổ trang trí của mình chỉ qua phía bên phải. Màn sương cuộn xoáy lại và thình lình hiến binh đứng sựng gần như ngay trước mặt họ, gần đến nỗi có thể chạm vào được, bộ đồng phục sẫm màu của ta lấp lánh những hạt nước. Đằng sau ta, Josh có thể nhận ra nhóm cảnh sát Pháp tụm lại quanh vật gì trông giống như cái vòng quay ngựa gỗ lỗi thời. Tất cả bọn họ đều nhìn chằm chằm lên phía , và Josh nghe cái từ brouillard rầm rì biết mấy lần. Cậu biết bọn họ về màn sương kỳ lạ tự dung giáng xuống khắp ngôi nhà thờ. Người hiến binh tay cầm khẩu súng lục được cấp phát nội bộ, nòng súng chĩa lên trời, nhưng ngón tay ta cong cò súng và lần nữa nhắc Josh nhớ ngay rằng nhóm này của cậu trong vòng nguy hiểm biết bao— chỉ từ những kẻ thù thuộc giống người và thuộc giống người của Flamel, mà còn từ những kẻ người như tất cả mọi người.


      Họ bước xuống có lẽ thêm vài chục bậc nữa… và đột nhiên màn sương dừng lại. Đúng lúc đó Josh ôm chị của cậu bước xuyên qua đám mây mù dày đặc; rồi , như thể cậu vừa bước xuyên qua bức màn, cậu đứng trước phòng trưng bày nghệ thuật xíu, quán café và cửa hàng bán đồ lưu niệm. Cậu quay lại nhìn ra sau và thấy rằng cậu đối mặt với bức tường mây mù đặc quẹo. Lực lượng cảnh sát trông còn hơn những hình dạng mơ hồ chìm trong làn sương trắng ngả vàng.


      Scathach và Flamel bước ra khỏi vùng u ám. Cho phép chị,” Scathach , ôm giữ Sophie và nhấc khỏi cánh tay Josh. Cậu cố cưỡng lại—Sophie là chị sinh đôi của cậu, trách nhiệm của cậu—nhưng cậu kiệt sức. Mặt sau bắp chân cậu bị chuột rút, và các cơ bắp cánh tay bỏng rát vì cố ẵm chị cậu xuống khoảng dăng dặc mà cậu cảm thấy những bậc thang sao đếm xuể.


      Josh nhìn vào đôi mắt xanh nhạt của Scathach. “Chị ấy rồi ổn chứ ạ?”


      Người chiến binh vùng Celt cổ xưa mở miệng định trả lời, nhưng Nicholas Flamel lắc đầu, ra dấu im lặng. Ông đặt bàn tay trái mình lên vai Josh, song cậu bé hất ra. Flamel để ý thấy cử chỉ đó, nhưng ông phớt lờ . “ bé cần ngủ. Mới vừa làm tan chảy tên tulpa chẳng bao lâu lại đến tạo sương mù, chừng ấy hoàn toàn vắt kiệt chút sức mạnh cuối cùng của cơ thể bé rồi,” Flamel .


      “Chính chú bảo chị ấy tạo ra sương mù,” Josh nhanh, như đổ lỗi.


      Nicholas dang hai tay. “Chú có thể làm gì khác hơn?”


      “Cháu…cháu biết,” Josh thừa nhận. “Hẳn chú có thể làm gì đó. Cháu từng thấy chú ném những ngọn giáo năng lượng xanh lè.”


      “Sương mù cho phép chúng ta trốn thoát mà làm hại ai.” Flamel .


      “Trừ Sophie,” Josh trả lời chua chát.


      Flamel nhìn cậu lúc lâu, rồi ông quay chỗ khác. “ thôi.” Ông gật đầu về phía con phố ngang có dốc đứng chực đâm bổ xuống, và họ hối hả vào đêm. Scathach mang Sophie chút cố gắng, Josh chật vật bám theo. Cậu luôn bên cạnh chị mình.


      đến đâu vậy?” Scathach hỏi.


      “Chúng ta cần phải ra khỏi những con phố,” Flamel thầm. “Có vẻ như mỗi người hiến binh trong thành phố này đều đổ về Sacre-Coeur. Tôi cũng thấy những lực lượng đặc biệt và cảnh sát mặc thường phục mà tôi đoán là thuộc sở mật vụ nào đó. khi họ nhận thấy là chúng ta ở trong nhà thờ, có thể họ dùng cảnh sát bao vây khu vực này và lùng sục từng con phố .”


      Scathach cười khẩy, thoáng thấy những chiếc răng cửa dài của hằn lên môi. “Và hãy đối diện với điều này: đích xác là chúng ta hề kín đáo gì đâu.”


      “Chúng ta cần phải tìm thấy nơi để—” Nicholas Flamel cất tiếng.


      viên cảnh sát phóng quành qua góc phố, trông chưa đầy mười chín tuổi—cao, gầy và lóng ngóng—với hai gò m đỏ tươi và hai đuôi râu mép mờ nhạt môi. tay đặt lên bao súng ngắn; tay kia nắm chặt cái mũ. ta thắng trượt cả chân ngay đằng trước họ và thốt lên những tiếng ú ớ kinh ngạc trong lúc lần mò tìm khẩu súng trong cái bao. “Hây! Arretez!” (dừng lại)


      Nicholas thọc mạnh về phía trước và Josh thực nhìn thấy làn mây mù màu xanh chảy từ bàn tay Nhà Giả kim trước khi những ngón tay ông lướt qua ngực tay hiến binh. Ánh sáng màu ngọc lục bảo sáng rực quanh mình viên cảnh sát, viền quanh đó bằng màu xanh lục lấp lánh, và người thanh niên gập người xuống đất.


      “Chú vừa làm gì vậy?” Josh hỏi bằng giọng thầm đầy kinh khiếp. Cậu nhìn viên cảnh sát nằm bất động, rồi chợt thấy ớn lạnh và kinh tởm. “Chú … chú … giết chết ta chứ?”


      ,” Flamel mệt mỏi . “Chỉ là bị quá tải đối với luồng điện của ta thôi. Hơi giống như điện giật. ta tỉnh lại ngay và chỉ bị nhức đầu.” Ông ấn mấy đầu ngón tay lên trước trán mình, xoa bóp ngay phía mắt trái. “Hi vọng nó tệ như cơn nhức đầu của chú,” ông thêm.


      “Ông biết mà,” Scathach dứt khoát, “màn trình diễn của ông hẳn thông báo cho Machiavelli vị trí của chúng ta.” Haiánh mũi nở ra, còn Josh hít sâu; khí quanh họ bốc mùi bạc hà: mùi hương đặc trưng cho năng lượng của Nicholas Flamel.


      “Tôi có thể làm gì khác nào?” Nicholas chống chế. “Hai tay bận bịu quá rồi.”


      Scathach phẫn nộ cong môi lên. “Chắc hẳn là tôi có thể xử lý . Nhớ lại , ai đem ông ra khỏi nhà tù Lubyanka khi cả hai tay tôi bị trói quặt ra sau lưng?”


      “Chị về cái gì vậy? Lubyanka ở đâu?” Josh hỏi, đầy bối rối.


      “Moscow.” Nicholas liếc xéo về phía Josh. “Đừng hỏi; đó là câu chuyện dài,” ông thầm.


      “Ông ấy sắp bị bắn như tên gián điệp,” Scathach cách vui sướng.


      câu chuyện rất dài,” Flamel lặp lại.


      Theo sau Scathach và Flamel len lỏi qua các con phố quanh co của vùng Montmartre, Josh nghĩ lại chỉ ngày trước John Dee mô tả thế nào về Nicholas Flamel cho cậu nghe.


      “Ông ta có rất nhiều lốt trong đời mình: bác sĩ điều trị và tên đầu bếp, người bán sách, người lính, giáo viên ngôn ngữ và hóa học, cả nhân viên vuật lẫn tên ăn cắp. Nhưng giờ đây ông ta, như ông ta luôn là, kẻ dối, tay lòe bịp, tên trộm.”


      tên gián điệp, Josh thêm vào. Cậu tự hỏi biết liệu Dee biết điều này chưa. Cậu nhìn kỹ người đàn ông có vẻ ngoài rất bình thường: mái tóc cắt sát và đôi mắt xanh nhạt, mặc quần jeans đen và chiếc áo thun bên trong chiếc áo khoác bằng da thuộc màu đen mòn vẹt, ông hẳn gây chút chú ý nào khi qua bất kỳ con đường nào tại bất kỳ thành phố nào khắp thế giới. Song có thứ ông ta hoàn toàn bình thường: sinh năm 1330, tuyên bố mình làm việc vì tốt đẹp của loài người, bằng cách giữ cuốn Codex cách xa khỏi tầm tay Dee và những tạo vật trong bóng tối đầy kinh hãi mà phục vụ, các Elder đen tối.


      Nhưng Flamel phục vụ cho ai? Josh tự hỏi. Chính xác Flamel bất tử là ai?






      CHƯƠNG 7


      Kiềm chế chặt tính khí mình lại, Niccolo Machiavelli sải bước xuống bậc thang Sacre-Coeur, sương mù uốn éo, cuộn xoáy lại đằng sau như cái áo choàng.


      khí bắt đầu trong trẻo, nhưng vẫn còn nhuốm mùi hương vanilla. Machiavelli quay ngoắt đầu ra sau và hít sâu, gom mùi hương này vào mũi. nhớ mùi hương này; nó đặc biệt như dấu vân tay. Mọi người hành tinh này đều sở hữu luồng điện—điện trường này bao quanh cơ thể người—và khi người ta tập trung vào điện trường này hoặc điều khiển nó, nó tương tác lại với hệ thống endorphin của ngườ sử dụng và tuyến thượng thận tiết ra mùi hương đặc trưng độc đáo của người đó: mùi hương dấu hiệu. Machiavelli hít lần cuối. gần như có thể nếm được vị vanilla trong khí, khô lạnh, trong trẻo và thuần khiết: mùi hương của dạng năng lượng thô chưa qua huấn luyện.


      Và ngay lúc đó, chút nghi ngờ Machiavelli biết rằng Dee đúng: đây là mùi hương của đứa trong cặp sinh đôi huyền thoại.


      “Tôi muốn toàn bộ vùng này phải được phong tỏa hết,” Machiavelli gắt lên với những cảnh sát cấp cao tụ họp lại thành hình vòng cung dưới chân bậc thang trong quảng trường Willette. “Dùng hàng rào cảnh sát bao vây mọi con đường, mọi ngõ ngách từ đường Custine đến đường Caulaincourt, từ đại lộ de Clichy đến đại lộ Rochechouart và đường de Clignancourt. Tôi muốn phải tìm ra những người này cho được.”


      “Ông bảo cấm cửa toàn bộ Montmartre đó ạ,” viên cảnh sát da rám nắng sạm màu tiếp sau im lặng. ta nhìn những người cộng để cầu mong hỗ trợ, nhưng ai trong số họ đón bắt ánh mắt . “Giờ là cao điểm của mùa du lịch,” ta vừa chống chế vừa quay lại Machiavelli.


      Machiavelli vòng quanh người đội trưởng, khuôn mặt dửng dưng như cái mặt nạ mà sưu tập. Đôi mắt xám lạnh của nhìn người đàn ông xoi mói, vừa vặn hơn lời thầm. “ biết tôi là ai ?” hỏi nhàng.


      Viên đôi trưởng, người cựu chiến binh được tặng thưởng huân chương của đội lính lê dương Pháp, cảm thấy có cái gì lạnh buốt và chua lét trong cổ họng mình khi ta nhìn vào đôi mắt như làm bằng đá của người đàn ông. Liếm đôi môi chợt khô se lại, , “Ông là quý ông Machiavelli, thủ lĩnh mới của Direction Generale de la Securite. Nhưng đây là phần việc của cảnh sát, thưa ngài, thuộc về an ninh đối ngoại. Ông có quyền—”


      “Tôi thấy đây là việc của DGSE,” Machiavelli mềm mỏng ngắt lời. “Tổng thống trao quyền trực tiếp cho tôi. Tôi đóng cửa toàn bộ thành phố này nếu cần. Tôi muốn phải tìm được những người này. Đêm nay, phải ngăn chặn thảm họa.” vẫy tay mơ hồ về hướng Sacre-Coeur, bây giờ vươn ra khỏi làn sương mù mỏng mảnh. “Ai biết bọn chúng lên những kế hoạch khủng bố gì khác? Tôi muốn có báo cáo diễn tiến hàng giờ, từng giờ ,” kết thúc, rồi chờ câu trả lời đáp lại, bước vào xe hơi của mình, nơi đó người tài xế trong bộ đồ màu sẫm chờ , hai tay khoanh trước bộ ngực đồ sộ. Người tài xế, nửa khuôn mặt sau cặp kính râm phản chiếu úp sát quanh mắt, mở cửa xe và đóng lại nhàng sau lưng Machiavelli. Sau khi chui vào bên trong chiếc xe, người tài xế với hai bàn tay đeo găng đen đặt hờ vòng tay lái bọc da, kiên nhẫn ngồi chờ chỉ thị. Tấm kính chắn cách biệt chia cắt khoang tài xế với lưng chiếc xe rì rì hạ xuống.


      “Flamel ở Paris. ta đâu?” Machiavelli hỏi mà lời mào đầu.


      Tay bộ hạ được gọi là Dagon phục vụ Machiavelli gần bốn trăn năm rồi. Đó là cái tên để người ta biết đến nó qua các thiên niên kỷ, và kể đến vẻ bề ngoài, nó chưa bao giờ có tí mảy may nào là con người. Xoay vào chỗ ngồi, nó mở cặp kính râm phản chiếu ra. Trong hệt như mắt cá, to đùng và lỏng quẹt đằng sau cái vảy trong suốt, đờ đẫn hồn: nó có mí mắt. Khi nó , hai hàng răng xíu mọc bừa bãi ra sau đôi môi mỏng dính. “Ai là đồng bọn của ?” Dagon hỏi, chuyển từ thứ tiếng Pháp tồi tệ sang loại tiếng Ý kinh khủng trước khi rơi trở lại thành thứ ngôn ngữ có nước sủi sùng sục thời tuổi trẻ xa xưa của nó.


      “Flamel và vợ ta luôn luôn là những người sống thui thủi,” Machiavelli . “Đó là lý do tại sao bọn chúng có thể sống sót lâu như vậy. Theo những thông tin tốt nhất trong hiểu biết của tôi, hai vợ chồng còn sống trong thành phố này từ hồi cuối thế kỷ mười tám.” rút cái máy tính xách tay màu đen thanh mảnh ra và đưa ngón trỏ qua thiết bị đọc dấu vân tay tích hợp. Chiếc máy kêu tách tiếng rồi màn hình nhấp nháy chạy.


      “Nếu bọn chúng đến đây qua cổng tuyến, chúng chuẩn bị gì cả,” Dagon giọng ướt mèm. “ tiền, hộ chiếu, quần áo nào khác ngoài mấy thứ đatrên người.”


      “Chính xác,” Machiavelli thầm. “Vậy chúng cần phải tự mình tìm tên đồng bọn.”


      “Giống người hay bất tử?” Dagon hỏi.


      Machiavelli cân nhắc lát. “Loài bất tử,” cuối cùng . “Tôi chắc là chúng quen biết nhiều giống người trong thành phố này.”


      “Vậy những người bất tử nào sống ở Paris?” Dagon hỏi.


      Những ngón tay của tên người Ý nhấn vào chuỗi phím phức tạp và màn hình cuộn lại để lộ ra mộ thư mục Temp. Có hàng tá các file .jpg, .bmp và .tmp trong thư mục này. Machiavelli tô sáng cái và nhấn enter. chiếc hộp xuất ngay giữa màn hình.


      Nhập mật khẩu.


      Những ngón tay mảnh mai của lách cách gõ mật khẩu bàn phím Del modo di trattare i sudditi della Val di Chiana ribellati, và dữ liệu nhấp nháy mở ra, dữ liệu này được mã hóa bằng quá trình mật hóa 256-bit AES ai phá được, hệ thống mật hóa kiểu này được hầu hết các chính phủ sử dụng đối với các file được xếp vào hàng tuyệt mật của họ. Trải qua dòng đời rất dài của mình, Niccolo Machiavelli cóp nhặt được tài sản kếch xù, nhưng chỉ xem duy nhất file này là vật quý bágiá trị nhất. Đó là hồ sơ hoàn hảo về tất cả những người bất tử vẫn còn sống trong thế kỷ hai mươi mốt, được biên soạn nhờ mạng lưới gián điệp xuyên khắp địa cầu của —hầu hết những người gián điệp này đều biết họ làm việc cho . kéo thanh cuộn ngang qua những cái tên. ai trong những chủ nhân Elder Đen tối của biết được sở hữu danh sách này, và chắc chắn rằng cũng biết cả những địa điểm và thuộc tính của hầu hết các Elder và Elder Đen tối lại trái đất hoặc trong những Vương quốc Bóng tối tiếp giáp với thế giới này.


      Kiến thức, Machiavelli biết , là sức mạnh.


      Dù có ba trang màn hình dành cho Nicholas và Perenelle Flamel, nhưng thông tin thô rất khó tìm. Có hàng trăm entry, mỗi cái là báo cáo việc người ta trông thấy hai vợ chồng Flamel kể từ sau cái chết theo giả thiết của họ vào năm 1418. Họ được nhìn thấy gần như tại mọi lục địa thế giới—ngoại trừ Úc. Trong vòng 150 năm qua, họ sống ở lục địa Bắc Mỹ, lần được trông thấy thứ nhất có xác nhận và chứng thực của thế kỷ này là ở Buffalo, New York, tháng Chín 1901. bỏ qua phần đánh dấu Những người bạn bất tử có quen biết. Chỗ đó để trống.


      có gì hết. Tôi có hồ sơ về giao thiệp của nhà Flamel với các người bất tử khác.”


      “Nhưng bây giờ y trở lại Paris,” Dagon , mỗi khi , tiếng súng sục lại phát ra môi . “Y tìm đến những người bạn cũ. Người ta thường cư xử khác khi về nhà,” thêm; “ cảnh giác bị xao lãng. Và quan trọng là Flamel sống xa thành phố này bao lâu, y vẫn coi đây là nhà mình.”


      Niccolo Machiavelli nhìn lên đầu màn hình máy tính. Song lần nữa được gợi nhắc sao mà biết về tên đầy tớ trung thành của ít thế. “Còn nhà ở đâu, Dagon?” hỏi.


      “Mất rồi, mất lâu rồi.” lớp màng mờ đục hấp háy giăng ngang qua khối cầu bự chảng trong đôi mắt nó.


      “Tại sao ở lại với tôi?” Machiavelli tự hỏi thành lời. “Tại sao tìm được những đứa khác cùng loại với ?”


      “Họ cũng biến mất hết rồi. Tôi là tên cuối cùng trong loài của tôi, và hơn nữa, ông phải là cái gì khác tôi lắm đâu.”


      “Nhưng phải là loài người,” Machiavelli mềm mỏng .


      “Còn ông?” Dagon hỏi, đôi mắt mở lớn, chớp.


      Machiavelli nhưng lát rồi cuối cùng mới gật đầu và quay trở lại với màn hình. “Vì vậy chúng ta tìm người nào đó mà nhà Flamel quen biết khi bọn họ còn sống ở đâyà chúng ta biết họ còn ở thành phố này kể từ thế kỷ mười tám, thế hãy giới hạn cuộc tìm kiếm của chúng ta vào những người bất tử quanh quẩn thời đó thôi.” Những ngón tay của vào phím, lọc kết quả. “Chỉ có bảy. Năm trung thành với chúng ta.”


      “Còn hai người khác?”


      “Catherine de Medici còn sống ở đường du Dragon.”


      “Bà ta phải người Pháp,” Dagon lầm bầm nhớp nháp.


      “Ừ, bà ta là mẹ của ba ông vua người Pháp,” Machiavelli cùng với nụ cười hiếm hoi. “Nhưng bà ta chỉ trung thành với chính mình…” Giọng kéo dài ra và chợt ngồi thẳng lên. “Nhưng chúng ta có gì ở đây này?”


      Dagon ở yên nhúc nhích.


      Niccolo Machiavelli xoay màn hình máy tính để tên người hầu có thể thấy hình của người đàn ông nhìn chằm chằm thẳng vào ống kính. Mái tóc đen quăn dày thả xuống hai vai, đóng khung khuôn mặt tròn. Đôi mắt màu xanh rất lạ lùng.


      “Tôi biết ông này,” Dagon .


      “Ồ,ng tôi biết. Tôi biết ta rất . Đây là người bất tử từng được gọi là Comte de Saint-Germain. ta là pháp sư, nhà đầu tư, nhà soạn nhạc… và nhà giả kim.” Machiavelli đóng chương trình và tắt máy tính. “Saint-Germain cũng là học trò của Nicholas Flamel. Và sống tại Paris,” kết thúc trong chiến thắng.


      Dagon mỉm cười, miệng há thành chữ O tròn vo đầy những cái răng như dao cạo. “Flamel có biết Saint-Germain ở đây ?”


      “Tôi . ai nắm được tầm hiểu biết của Nicholas Flamel.”


      Dagon kéo cặp mắt kính râm về lại đúng chỗ. “Còn tôi lại nghĩ rằng ông biết mọi thứ.”






      CHƯƠNG 8


      Chúng ta cần phải nghỉ ngơi,” cuối cùng Josh . “Cháu thể xa hơn được nữa.” Cậu dừng lại và dựa vào tòa nhà, cúi oằn người và thở khò khè. Mỗi hơi thở là nỗ lực, và cậu bắt đầu thấy những chấm đen nhảy múa trước mắt mình. Cậu sắp nôn ra bất cứ lúc nào. Bằng kinh nghiệm, cậu cảm thấy rằng cậu cần phải ngồi xuống và nạp ít chất lỏng vào cơ thể.


      “Cậu ấy đúng đó.” Scatty quay sang Flamel. Chúng tôi cần nghỉ ngơi, thậm chí chỉ chút.” vẫn ôm Sophie tay. Những tia sáng lé loi màu xám của ánh sáng chiếu lên những nóc nhà Paris về hướng đông, những người đầu tiên làm việc ca sớm bắt đầu xuất . Nhóm người lánh nạn cứ bám theo những con phố ngang tối om, và cho đến nay vẫn ai chú ý đến nhóm lạ này, nhưng điều đó nhanh chóng thay đổi vì đường phố thoạt tiên đầy những người dân Paris, rồi kế tiếp là du khách.


      Nicholas đứng như tạc vào cửa con phố hẹp. Ông ta liếc lên liếc xuống rồi mới quay mình ngó ra sau lưng. “Chúng ta phải tiếp,” ông phản đối. “Mỗi giây chúng ta trì hoãn mang Machiavelli đến gần chúng ta hơn.”


      “Chúng tôi thể,” Scatty . nhìn Flamel, và chỉ tích tắc, đôi mắt xanh lục nhạt của sáng lên. “Hai đứa cần phải nghỉ,” , rồi nhàng thêm, “và cả ông cũng vậy, Nicholas. Ông mệt lử ra rồi.”


      Nhà Giả kim nhìn lại và rồi ông gật đầu, hai vai ông xụi xuống. “ đúng, tất nhiên. Tôi làm theo lời .”


      “Chúng ta có thể vào được khách sạn ?” Josh gợi ý. Cậu mệt ghê gớm, hai mắt và cổ họng như có sạn, còn cái đầu đập bưng


      Scatty lắc đầu. “Người ta đòi hộ chiếu…” Sophie cựa quậy cánh tay , và Scathach nhàng thả bé xuống đất, lưng tựa vào tường.


      Tức Josh đến bên . “Chị tỉnh rồi,” cậu , giọng nhõm.


      “Chị thực ngủ,” Sophie trả lời, cảm thấy lưỡi dày cộp trong miệng. “Những gì xảy ra chị đều biết hết, nhưng cứ như thể chị nhìn nó từ bên ngoài. Giống như xem tivi ấy.” ấn hai tay vào thắt lưng và kéo mạnh trong khi quay tròn cổ. “Úi. Đau quá.”


      “Đau cái gì vậy?” Josh hỏi ngay.


      “Mọi thứ.” bé cố nằm duỗi thẳng, nhưng các cơ bắp đau điếng phản kháng lại và cơn nhức đầu khổ sở đập bình bịch phía sau mắt .


      “Mình có thể gọi ai ở đây đến giúp ?” Josh nhìn từ Nicholas sang Scathach. “Có người bất tử hay Elder nào ?”


      “Những người bất tử và Elder có ở khắp nơi,” Scatty . “Nhưng rất ít người là bạn như chúng ta đây,”ói thêm, với nụ cười chút đùa cợt.


      có người bất tử ở Paris,” Flamel tán thành cách chậm rãi, “nhưng phải tìm họ ở đâu, và ngay cả chú có làm được, chú cũng biết lòng trung thành của họ đặt vào đâu. Perenelle mới biết,” ông thêm, giọng thoáng buồn.


      “Bà ngoại chị có biết ?” Josh hỏi Scatty.


      Nữ Chiến binh liếc nhìn cậu. “Chắn chắn là biết.” quay sang nhìn Sophie. “Trong tất cả những ký ức mới của em đó, em có thể gợi lại mọi thứ về người bất tử hay Elder sống ở Paris ?”


      Sophie nhắm mắt và cố tập trung, nhưng cảnh vật và hình ảnh lóe sáng từng hồi—lửa tuôn từ bầu trời đỏ như máu, kim tự tháp mái bằng đồ sộ sắp bị chôn vùi bởi làn sống khổng lồ—hỗn loạn và khiếp đảm. lắc đầu, rồi ngừng lại. Ngay cả những cử động đơn giản nhất cũng làm đau điếng. “Em thể suy nghĩ được,” thở dài. “Cái đầu em đầy nhóc, giống như sắp vỡ tung ra.”


      “Bà Phù thủy có thể biết,” Flamel , “nhưng chúng ta có cách gì liên lạc với bà. Bà ấy


      “Những người hàng xóm, bạn bè sao?” Josh hỏi. Cậu quay trở lại chị .


      “Em biết là chị muốn nghĩ về điều này, nhưng chị phải làm. Nó rất quan trọng.”


      “Chị thể nghĩ ngợi gì được…” Sophie vừa cất tiếng vừa quay và lắc đầu.


      “Đừng nghĩ. Hãy trả lời,” Josh cáu kỉnh. Cậu hít thở nhanh và hạ giọng, chầm chậm. “Chị, ai là bạn thân nhất của Bà Phù thủy Endor ở Ojai?”


      Đôi mắt xanh da trời nhạt của Sophie nhắm lại và lắc lư như thể sắp ngất . Rồi mở mắt, lắc đầu. “Bà ấy có người bạn nào ở đó. Nhung mọi người đều biết bà. Bà có thể gọi cửa tiệm cạnh bà…” gợi ý. Rồi lắc đầu. “Ở đó quá trễ rồi.”


      Flamel gật. “Sophie đúng; tiệm đóng cửa vào giờ tối thế này.”


      “Nó đóng cửa, đúng,” Josh đồng ý, chút xúc động len vào giọng cậu, “nhưng khi chúng ta rời Ojai, nơi đó rất hỗn độn. Và đừng quên, cháu lái chiếc Hummer đâm vào vòi phun nước ở công viên Libbey; ph có ai đó chú ý. Cháu cá là cảnh sát và báo chí ở đó ngay bây giờ. Và báo chí phải trả lời vài câu hỏi nếu chúng ta hỏi đúng người. Ý cháu là, nếu cửa tiệm của Bà Phù thủy bị hư hại chắc chắn họ tìm kiếm câu chuyện.”


      “Có thể…” Flamel bắt đầu. “Chú chỉ cần biết tên của tờ báo.”


      “Ojai Valley News, 646-1476,” Sophie ngay. “Cháu nhớ rất …hay là Bà Phù thủy nhớ nhỉ,” thêm, rồi rùng mình. Có quá nhiều ký ức trong đầu , quá nhiều ý nghĩ và tư tưởng…và chỉ là những hình ảnh dễ sợ và kỳ quái của những người và những nơi hẳn bao giờ tồn tại, mà còn là những mối quan tâm thế tục bình thường: số điện thoại và công thức làm món ăn, tên và địa chỉ của những người chưa bao giờ nghe đến, những bức hình trong những chương trình tivi cũ, những tấm poster giới thiệu phim. Thậm chí còn biết từng bài hát của Elvis Presley.


      Nhưng tất cả những thứ này đều là ký ức của Bà Phù thủy. Và ngay bây giờ, phải đấu tranh để nhớ số điện thoại di động của chính mình. Chuyện gì xảy ra nếu ký ức của Bà Phù thủy lớn lên quá nhanh đến nỗi lấn át ký ức của riêng ? cố gắng tập trung vào khuôn mặt của bố mẹ, Richard và Sara. Hàng trăm khuôn mặt thoáng qua, hình ảnh của những người nối tiếng tạc vào đá, những cái đầu của pho tượng, màu sơn phết lên bên các mảnh vở đồ gốm. Sophie bắt đầu muốn điên lên. Tại sao thể nhớ ra khuôn mặt của bố mẹ? Nhắm mắt, tập trung hết sức vào lần cuối cùng gặp cha và mẹ. Hình như khoảng ba tuần trước, ngay trước lúc hai ông bà rời nhà khai quật tại Utah. Nhiều khuôn mặt lộn xộn đằng sau đôi mắt nhắm nghiền của Sophie: những hình ảnh những mảnh giấy da nén, những đoạn bản thảo hay những bức tranh sơn dầu rạn nứt, những khuôn mặt trong mấy bức ảnh màu nâu đỏ phai mờ, trong những tờ báo ố vàng…


      “Sophie?”


      Và kia rồi, trong vùng sắc màu lóe sáng, khuôn mặt của bố mẹ vụt ra trong đầu , và Sophie cảm thấy ký ức của Bà Phù thủy nhạt nhòa và ký ức của nổi bề mặt trở lại. Đột nhiên biết số điện thoại của mình.


      “Chị?”


      mở mắt và nhìn cậu em trai. Cậu ta đứng ngay trước mặt , mặt cậu để sát mặt chị, đôi mắt cậu đầy vẻ quan tâm.


      “Chị OK mà,” thầm . “Chị chỉ cố nhớ vài thứ.”


      “Nhớ gì vậy?”


      ráng cười. “Số điện thoại của chị.”


      “Số điện thoại của chị á? Sao vậy?” Cậu im bặt, và rồi thêm, Ít người nhớ số điện thoại của riêng họ. Lần cuối cùng chị tự điện thoại cho mình là lúc nào?”


      Hai bàn tay ủ quanh những ca sô--la nóng có vị vừa đắng vừa ngọt, Sophie và Josh ngồi đối diện nhau trong tiệm café mở suốt đêm gần trạm tàu điện ngầm Gare du Nord, nếu có họ quán hoàn toàn trống trải. Chỉ có nhân viên đằng sau quầy, người bán hàng đeo cái bảng tên lộn ngược ghi chữ ROUX.


      “Chị muốn tắm,” Sophie dứt khoát. “Chị cần phải gội đầu và đánh răng, và chị cần thay quần áo. Giống như mấy ngày rồi chị chưa tắm vậy.”


      “Em nghĩ là quá trời ngày. Trông chị kinh khủng,” Josh tán thành. Cậu đưa tay gỡ lọn tóc vàng dính vào cằm chị .


      “Chị cũng cảm thấy kinh khủng,” Sophie lào thào. “Mùa hè năm ngoái hồi mình còn ở Long Beach chị ăn trơn cây kem, rồi còn thêm cái bánh mì kẹp xúc xích với ớt, khoai tây chiên quắn và ly cối bia rễ cây, nhớ ?”


      Josh cười toe. “Chị còn xơi hết mấy cái cánh gà rán của em. Cả cây kem của em nữa!”


      Sophie mỉm cười nhớ lại, nhưng nụ cười của nhanh chóng nhạt . Dù nhiệt độ ngày hôm đó lên tới ba mươi mấy độ, vẫn cảm thấy rét run, những mồ hôi lạnh lẽo chảy xuống lưng như quả banh sắt ai đặt vào lõm thượng vị của . May là siết chặt đai an toàn trước lúc nôn thốc nôn tháo ra, nhưng kết quả vẫn là mớ hỗn độn ra trò, và cả nhà thể dùng chiếc xe hơi ấy ít nhất là tuần sau đó. “Đó là cảm giác của chị ngay bây giờ: lạnh, run rẩy, đau nhừ toàn thân.”


      “Nào, cố đừng nôn ra đây,” Josh rù rì. “Em nghĩ Roux, chàng phục vụ vui vẻ của mình, cảm kích đâu.”


      Roux làm việc ở quán cafe bốn năm rồi, và tính đến nay bị cướp hai lần và thường bị đe dọa nhưng chưa bao giờ bị thương. Quán café mở suốt đêm chứng kiến đủ loại người từng qua cánh cửa này mang những tính cách lạ lùng và thường là nguy hiểm, và Roux nhất định cho rằng bộ tứ bất bình thường này chắc chắn được liệt vào loại thứ nhất và bết đâu chẳng là cả hai. Hai đứa khoảng mười mấy tuổi dơ bẩn và bốc mùi, trông chúng kinh khủng và kiệt sức. Ông già—có lẽ là ông của bọn trẻ, Roux nghĩ— hình dạng cũng chẳng hơn gì mấy. Chỉ có mắt xanh tóc đỏ mặc áo đen, quần đen với đôi giày bốt chiến đấu cổ thấp—là trông lanh lợi sáng sủa và lanh lợi. ta tự hỏi biết ta có mối quan hệ gì với mấy người kia; hề thấy có vẻ ta có liên quan huyết thống gì với bọn họ, nhưng thằng con trai và đứa con lại rất giống nhau như sinh đôi vậy.


      Roux chần chừ khi ông già đưa thẻ tín dụng để thanh toán hai phần sô--la nóng. Người ta thường trả những th nhặt bằng tiền mặt, và ta tự hỏi có bao giờ thẻ tín dụng này bị ăn cắp . “Tôi hết đồng euro rồi,” ông già với nụ cười. “ có thể ghi lên máy thu ngân hai chục rồi cho tôi ít tiền mặt được ?” Roux thầm nghĩ ông ta thứ tiếng Pháp kỳ lạ, lỗi thời, gần như là bản nhạc du dương trang trọng.


      “Làm vậy là ngược lại với quy định của chúng tôi…” Roux cất tiếng, nhưng cái nhìn hướng về phía với mái tóc đỏ có đôi mắt khó chịu làm nghĩ lại. thử cười với , “Được rồi, tôi nghĩ tôi có thể làm được.” Nếu cái thẻ bị báo là mất cắp, cách gì quét được nó vào máy.


      “Tôi rất biết ơn.” Ông già mỉm cười. “Và xin cho chúng tôi mấy đồng keng được ạ?”


      Roux ghi vào máy tám euro cho hai phần sô--la nóng và quẹt thẻ Visa trừ hai mươi euro. ta ngạc nhiên vì đây là thẻ tín dụng của Mỹ; suýt chút nữa ta tin thiệt rằng giọng ông già là của người Pháp. Ngưng chút rồi cuối cùng cái thẻ cũng qua khe máy, ta trừ tiền hai phần thức uống rồi thối lại tờ mười đồng và hai euro tiền keng. Roux trở lại với cuốn giáo khoa toán cất dưới quầy. ta nhầm về nhóm người này. Đây phải là lần đầu mà cũng phải là lần cuối. Có lẽ họ là những khách tham quan vừa rời chuyến xe lửa sáng sớm; họ khác thường cả.


      Đúng, có thể phải tất cả họ. Vẫn giữ đầu cúi xuống, ta đưa mắt nhìn tóc đỏ. đứng quay lưng về phía , chuyện với ông già. Và từ từ thong thả quay lại nhìn . cười, cong môi lên tí xíu, và Roux chợt thấy cuốn giáo khoa thú vị.


      Flamel đứng ở quầy của tiệm cafe và nhìn Scathach. “Tôi muốn ở lại đây,” ông dịu dàng, chuyển từ tiếng Pháp sang tiếng Latin. Đôi mắt ông nhấp nháy về hướng cặp sinh đôi ngồi uống sô--la nóng. “Trông chừng hai đứa . Tôi gọi điện thoại.”


      Cái bóng gật đầu. “Cẩn thận. Nếu có gì xảy đến mà chúng ta phải chia nhau ra, hãy gặp lại nhau ở Montmartre. Machiavelli bao giờ nghĩ chúng ta trở lại đó hai lần. Chúng tôi chờ ở bên ngoài tiệm ăn—có thể là La Maison Rose—cứ vào năm phút đầu của mỗi giờ.”


      “Đồng ý. Nhưng nếu tôi trở lại trước buổi trưa,” ông tiếp tục rất nhàng, “tôi muốn đưa hai đứa rời khỏi đây.”


      “Tôi bỏ ông đâu,” Scathach đều đều.


      “Nếu tôi trở lại, đó là vì Machiavelli bắt được tôi rồi,” Nhà Giả kim cách nghiêm túc.“Scathach, ngay cả cũng thể cứu tôi khỏi đội quân của đâu.”


      “Tôi từng đương đầu với quân đội trước đây rồi.”


      Flamel đặt bàn tay mình lên vai Nữ Chiến binh. “Bây giờ hai đứa sinh đôi là tài sản của chúng ta. Chúng phải được bảo vệ bằng mọi giá. Cứ tiếp tục huấn luyện Sophie; tìm ai đó Đánh thức Josh và huấn luyện Josh. Và giải cứu Perenelle quý của tôi. Nếu tôi chết, bảo ấy linh hồn tôi tìm ấy,” ông thêm. Rồi, trước khi kịp gì khác, ông quay người và sải chân bước vào bầu khí giá lạnh của thời điểm trước giờ rạng đông.


      “Sớm trở lại…,” Scathach thầm, nhưng Flamel rồi. quyết định, nếu ông ta bị bắt, mặc kệ những gì ông dặn, xé thành phố này thành từng mảnh cho tới khi tìm thấy ông ấy. Hít hơi dài, nhìn ngoái ra sau lưng và thấy chàng bán hàng có cái đầu cạo trọc chằm chằm nhìn . bên cổ ta xăm hình mạng nhện, và dọc chiều dài tai của ta có ít nhất là tá những đồ trang sức . tự hỏi biết làm thế đau cỡ nào. luôn muốn xỏ lỗ tai, nhưng thịt lành quá nhanh và vừa xỏ xong cái lỗ bị bít lại.


      uống gì nhé?” Roux vừa hỏi vừa cười niềm nở, cảm nhận trái banh bằng kim loại trong lưỡi>“Nước,” Scatty .


      “Vâng. Perrier?”


      “Nước thường. đá,” dặn thêm, và quay ngoắt người đến với hai đứa sinh đôi nơi bàn. quay tròn chiếc ghế và dạng chân ngồi xuống, tì hai cánh tay chéo qua đầu ghế và tựa cằm lên cẳng tay.


      “Nicholas để cố liên lạc với bà ngoại tôi xem bà có biết ai ở đây . Tôi ông ấy làm gì nếu kiếm được.”


      “Tại sao?” Sophie hỏi.


      Scatty lắc đầu. “Chúng ta vừa thoát khỏi mấy con phố. Chúng ta may mắn thoát khỏi Sacre-Coeur trước khi cảnh sát tung hàng rào cảnh sát quanh đó. Chắc bây giờ họ tìm kiếm bắt đầu hướng ra bên ngoài, va nhóm tuần tra nhận được những mô tả về chúng ta. Việc chúng ta bị phát chỉ còn là vấn đề thời gian.”


      “Rồi chuyện gì xảy ra tiếp?” Josh tự hỏi thành tiếng.


      Nụ cười của Scathach kinh khủng. “Rồi họ thấy tại sao người ta gọi tôi là Nữ Chiến binh.”


      “Nhưng chuyện gì xảy ra nếu chúng ta bị bắt?” Josh dai dẳng. Cậu vẫn thấy cái ýưởng mình là người bị cảnh sát săn đuổi gần như thể hiểu được. Bị những sinh vật huyền thoại hay người bất tử săn đuổi hầu như còn dễ tưởng tượng hơn.


      “Chuyện gì xảy đến với chúng ta?”


      “Tụi em được giao cho Machiavelli. Các Elder đen tối xem cả hai đứa tụi em là phần thưởng.”


      “Cái gì…” Sophie quay ngoắt về phía Josh. “Họ làm gì tụi mình?”


      “Hai đứa muốn biết đâu,” Scathach cách chân , “nhưng tin tôi khi tôi rằng điều đó chẳng có gì vui vẻ cả.”


      “Còn chị sao?” Josh hỏi.


      “Tôi có bạn bè gì trong số các Elder Đen tối,” Scathach êm ru. “Tôi từng là kẻ thù của chúng hai ngàn rưỡi năm qua. Tôi tưởng tượng chúng có nhà tù Vương quốc Bóng tối dành sẵn cho tôi. thứ lạnh và ướt. Chúng biết tôi ghét những thứ đó mà.” mỉm cười, mấy cái đầu răng hằn lên môi . “Nhưng chúng chưa bao giờ giữ được chúng ta,” nhàng, “và chúng bắt được chúng ta dễ dàng đâu.” quay người liếc nhìn Sophie. “Em trông kinh khủng.”


      “Có người với em như vậy rồi,” Sophie , ủ cả hai bàn tay quanh ly sô--la bóc khói và đưa nó lên môi. hít sâu vào. Có thể ngửi được từng tinh tế trong hương ca-cao đậm đặc và cảm thấy dạ dày sôi ùng ục, nhắc nhở rằng lâu lắm rồi chưa ăn gì. Vị sô--la đắng nơi đầu lưỡi , mạnh muốn chảy nước mắt, và nhớ đọc đâu đó rằng sô--la châu Âu có hàm lượng ca-cao cao hơn sô--la Mỹ nơi từng lớn lên.


      Scatty tựa về phí trước và thả giọng mình. “Em cần phải giành thời gian cho bản thân để hồi sức sau tất cả những gì trải qua. từ bên này sang bên kia thế giới bằng cổng tuyến hại sức ghê lắm đó—cảm giác như mệt phờ sau mấy chuyến bay dài dồn lại, tôi nghe vậy.”


      “Em nghĩ chị chưa bị say như vậy bao giờ hở?” Josh khẽ. Có câu chuyện vui trong nhà kể rằng cậu có thể bị say xe ngay chuyến chơi bằng xe hởi chỉ từ trạm tới trạm kế tiếp thôi.


      Scatty lắc đầu. “, tôi bị. Tôi đâu có bay,” giải thích. “Em bao giờ đưa tôi lên trong những thứ đó được đâu. Chỉ có sinh vật đập cánh mới được cho là thuộc bầu trời. Dù vậy, có lần tôi cưỡi lên con ”


      con rồng?” Josh bối rối hỏi.


      “Con rồng Ying, con rồng Trung Quốc.” Sophie .


      Scathach quay nhìn đứa con . “Gọi sương mù thiêu đốt hết nhiều năng lượng luồng điện của em. Quan trọng là em đừng dùng sức mạnh đó nữa càng lâu càng tốt.”


      Bộ ba ngồi thẳng trở lại khi Roux từ sau quầy bước ra với ly nước cao. ta đặt nó lên cạnh bàn, cố cười niềm nở với Scatty rồi mới quay .


      “Em nghĩ ta thích chị đó,” Sophie và cười nhe răng chút.


      Scatty quay lại nhìn trừng trừng vào chàng bán hàng lần nữa, nhưng cặp sinh đôi thấy môi cong lên cười. “ ta xỏ lỗ tai,” , đủ lớ để ta nghe. “Tôi thích con trai xỏ lỗ tai.”


      Hai mỉm cười vì sau gáy Roux đỏ bừng lên. “Tại sao lại quan trọng là Sophie đừng dùng năng lượng của mình?” Josh hỏi, kéo cuộc chuyện quay về lời Scatty vừa khuyên. hồi báo động vang lên trong trí cậu.


      Scathach tựa cạnh bàn chồm người về phía trước, cả Sophie và Josh chuyển mình theo để nghe . “Mỗi lần người ta dùng hết năng lượng của luồng điện tự nhiên, sức mạnh đó bắt đầu lấy xương thịt người ta làm thành nhiên liệu cho nó.”


      “Rồi chuyện gì xảy ra?” Sophie hỏi.


      “Mấy đứa bao giờ nghe người tự bốc cháy chưa?”


      Vẻ mặt Sophie đớ ra, nhưng Josh lại gật. “Có. Người ta tự nhiên bùng lên thành ngọn lửa mà chẳng có lý do gì: đó là truyền thuyết đô thị.”


      Scatty lắc đầu. “ phải truyền thuyết. Nhiều trường hợp được ghi lại trong lịch sử,” đều giọng. “Thậm chí chính tôi chứng kiến đôi lần. Nó có thể xảy ra trong tích tắc, và ngọn lửa, thường khởi phát từ dạ dày và phổi, đốt cháy dữ dội đến nỗi sau đó chỉ còn lại chút tro tàn. Em bây giờ phải cẩn thận, Sophie: thực lòng, tôi muốn em hứa với tôi là dùng năng lượng của em trong ngày hôm nay, mặc cho có chuyện gì xảy ra nữa.”


      “Và chú Flamel biết điều này,” Josh nhanh thể giấu cơn giận trong giọng cậu.


      “Dĩ nhiên,” Scatty vẫn đều giọng.


      “Chú ấy nghĩ là chuyện này đáng cho tụi em biết sao?” Josh nổi cáu. Roux nhìn qua khi nghe Josh lgiọng, cậu hít hơi dài rồi tiếp tục thầm, giọng cậu khàn khàn. “Chú ấy còn chưa với tụi em cái gì khác nữa?” cậu gặng hỏi. “Cái gì tiếp theo món quà này đây?” Gần như cậu khạc ra chữ cuối cùng.


      “Mọi chuyện xảy ra nhanh quá, Josh à,” Scatty . “Chỉ là có thời gian để huấn luyện hoặc chỉ dẫn các em cho phù hợp thôi. Nhưng tôi muốn hai đứa nhớ rằng Nicholas có những mối quan tâm tốt nhất đến các em.”


      “Tụi em rất an toàn trước khi gặp chú ấy,” Josh .


      Da gò má Scatty căng lên và các cơ trong cổ và vai giật giật. Có cái gì u ám va thù địch ánh lên trong đôi mắt màu xanh của .


      Sophie đặt bàn tay lên cả hai cánh tay của Josh và Scatty. “Đủ rồi,” mệt mỏi , “chúng ta nên chiến đấu với nhau.”


      Josh định trả lời, nhưng ánh mắt cậu dừng lại nơi khuôn mặt kiệt quệ của chị làm cậu sợ, và cậu gật đầu. “OK. Từ bây giờ trở .” Cậu thêm.


      Scatty cũng gật. “Sophie đúng.” quay nhìn Josh. “ may là mọi chuyện đều đổ lên người Sophie cùng lúc. Tiếc là năng lượng của em chưa được đánh thức.”


      “Chị tiếc bằng em tiếc đâu,” cậu thể ngăn được nỗi cay đắng trong giọng mình. Bất chấp những gì cậu nhìn thấy, và thậm chí biết là nguy hiểm, cậu vẫn muốn có được những năng lượng mà người chị sinh đôi của cậu có. “Chưa phải quá trễ, phải chị?” cậu hỏi nhanh.


      Scatty gật đầu. “Em có thể được Đánh thức bất cứ lúc nào, nhưng tôi biết ai có quyền năng Đánh thức em. Cần phải do Elder làm, và chỉ số rất ít có kỹ năng đặc biệt đó.”


      “Như ai?” Cậu gặng hỏi, nhìn vào Scatty, nhưng chị của cậu lại trả lời, như mơ.


      “Ở Mỹ, Black Annis hay Persephone có thể làm được.”


      Josh và Scatty quay nhìn bé.


      Sophie chớp mắt ngạc nhiên. “Em biết những cái tên này, nhưng em lại biết họ là ai.” Đột nhiên, đôi mắt đầy nước mắt. “Em giữ tất cả những ký ức này… mà nó phải là của em.”


      Josh nắm tay chị và siết .


      “Tất cả l ký ức của Bà Phủ thủy Endor,” Scathach dịu dàng. “Và hãy mừng là em biết Black Annis và Persephone là ai. Đặc biệt là Black Annis,” dứt khoát. “Chị ngạc nhiên hiểu sao bà ngoại chị biết bà ta ở đâu, mà vẫn để bà ta sống.”


      “Bà ta ở Catskills,” Sophie bắt đầu, nhưng Scatty cấu vào lưng bàn tay bé. “Úi!”


      “Tôi chỉ muốn làm em rối trí,” Scathach giải thích. “Đừng có mà nghĩ đến Black Annis. Có vài cái tên mà em bao giờ nên lớn ra.”


      “Cái đó cũng giống như bảo đừng nghĩ đến loài voi,” Josh , “và rồi tất cả những gì chị có thể nghĩ đến chính là loài voi.”


      “Thôi để cũng giống như bảo đừng nghĩ đến loài voi,” Scathach khẽ. “Co hai tên cảnh sát trong cửa sổ nhìn chằm chằm vào tụi mình đó. Đừng nhìn,” vội thêm.


      Quá trễ. Josh quay lại nhìn, và những gì biểu lộ khuôn mặt cậu—choáng váng, kinh khiếp, tội lỗi hay lo sợ— khiến cả hai người đó phóng nhanh vào quán café, người rút khẩu súng lục tự động ra khỏi bao súng, người kia vộiã vào điện đài ngay lúc ta rút cái dùi cui ra.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 9


      Hai bàn tay thọc sâu vào túi áo khoác da, vẫn mặc chiếc quần jeans đen chẳng lấy gì làm sạch và đôi bốt cao-bồi trầy xước, Nicholas trông có vẻ gì lúng túng so với những công nhân hoặc những người vô gia cư làm ca sớm bắt đầu xuất đường phố Paris. Những hiến binh tụ tập thành các nhóm tại mấy góc phố chuyện gấp gáp với nhau hay nghe radio và đên cả cái liếc thoáng qua ông ta thôi họ cũng có.


      Đây phải lần thứ nhất ông bị săn đuổi đường phố, nhưng đây lại là lần đầu tiên ông có đồng minh hay bạn bè giúp đỡ. Ông và Perenelle trở lại thành phố quê hương hồi cuối cuộc chiến tranh bảy năm vào năm 1763. người bạn cũ cần giúp đỡ của họ, và Flamel bao giờ từ chối bạn bè. Tuy nhiên, may Dee phát ra chỗ ở của ông và truy đuổi họ khắp phố bằng đội quân ám sát vận trang phục đen, ai trong chúng là con người trọn vẹn.


      Hồi đó họ bị bắt. Việc trốn thoát bây giờ dễ dàng gì. Paris thay đổi hoàn toàn. Khi Nam tước Haussumann thiết kế lại Paris vào thế kỷ mười chín, ông ta phá hủy phần lớn các khu vực thuộc thời Trung cổ của thành phố, thành phố mà Flamel từng thuộc nằm lòng. Những nơi náu và các ngôi nhà gác mái khuất, tất cả biến mất hết. thời ông biết từng con phố và ngõ hẻm, từng ngóc ngách ngoằn nghèo và khoảng sân kín đáo của Paris; còn bây giờ ông chỉ như khách du lịch trung bình.


      Và đúng vào lúc này, chỉ có mình Machiavelli truy đuổi họ, mà toàn bộ lực lượng cảnh sát Pháp cũng canh chừng. Và Dee lại đường đến đây. Dee, như Flamel biết , có khả năng phán đoán mọi chuyện. Nicholas hít thở trong bầu khí mát lạnh trước giờ rạng đông của Paris và liếc nhìn chiếc đồng hồ số rẻ tiền ông đeo nơi cổ tay trái. Nó vẫn chỉ giờ Thái Bình Dương, tám giờ hai mươi tối, nghĩa là—ông làm bài toán nhanh trong đầu—bây giờ là năm giờ hai mươi sáng tại Paris. Ông thoáng nghĩ đến việc chỉnh đồng hồ theo giờ GMT, nhưng nhanh chóng quyết định ngược lại. hai tháng trước, khi ông thử chỉnh lại đồng hồ theo chế độ tiết kiệm pin vào ban ngày, nó nỗi khùng kêu bíp bíp và chớp nháy liên tục. Ông vật lộn với nó cả tiếng đồng hồ vẫn xong; trong khi Perenelle chỉ mất ba mươi giây đễ sửa được nó. Ông chỉ đeo nó vì nó có chức năng đếm ngược giờ. Mỗi tháng, khi ông và Perenelle pha chế liều thuốc bất tử, ông chỉnh đồng hồ bắt đầu đếm từ 720 giờ và để nó đếm ngược xuống đến số . Nhiều năm trôi qua, họ khám phá ra rằng thuốc được tính theo chu kỳ trăng và kéo dài đại khái khoảng ba mươi ngày. Sống trong tháng đó, họ già chầm chậm, hầu như nhận thấy, nhưng khi họ uống thuốc vào, tác dụng của quá trình làm già nhanh chóng được đảo ngược lại—tóc họ đen ra, những vết nhăn mờ rồi biến mất, những chỗ khớp đau nhức và cơ bắp cứng nhắc mềm dẻo lại, tầm nhìn và sức nghe trở nên sắc sảo.


      may, thể sao chép lại công thức nào; mỗi tháng có công thức riêng, mỗi công thức chỉ làm được lần. Cuốn sách của Pháp sư Abraược viết bằng ngôn ngữ có trước khi có loài người, và bằng kiểu chữ biến đổi liên tục và luôn chuyển động, vì vậy toàn bộ thư viện kiến thức được giữ bên trong tập sách thanh mảnh này. Nhưng cứ mỗi tháng, trang bảy của tấm bản thảo bọc đồng ấy, bí mật của Cuộc Sống Bất tử ra. Những con chữ lúc nhúc đưng yên chưa đầy giờ rồi lại biến đổi, xoắn vặn và chảy rỉ ra mất.


      lần và chỉ duy nhất lần đó Flamel thử dùng công thức hai lần, quả thực là nó làm tăng tốc quá trình già nua. Cũng may là Nicholas chỉ mới nhắp chút thứ thuốc màu, trông hoàn toàn bình thường đó Perenelle để ý thấy các đường chỉ xuất quanh mắt và trán ông, rồi từng sợi râu rụng xuống khỏi mặt ông. Bà liền hất chiếc cốc ra khỏi tay ông trước khi ông kịp uống thêm ngụm nữa. Tuy vậy, những đường này hằn mãi mặt ông, và bộ râu dày dặn ông từng rất tự hào nay bao giờ còn mọc lại như trước được nữa.


      Nicholas và Perenelle pha đợt thuốc gần đây nhất vào nửa đêm Chủ nhật vừa rồi, mới chưa đầy tuần trước. Ông nhấn vào cái nút bên tay trái chiếc đồng hồ và chọn chức năng đếm ngược: 116 giờ và 21 phút qua rồi. Nhấn thêm lần nữa ra thời gian còn lại: 603 giờ, 39 phút, tức khoảng 25 ngày. Lúc này ông nhìn, phút nữa trôi qua: 38 phút. Ông và Perenelle già và yếu , và dĩ nhiên, mỗi lần người trong họ sử dụng năng lượng tuổi già lại đến nhanh hơn. Nếu ông lấy lại được Cuốn sách trước ngày cuối tháng và làm ra đợt thuốc mới cả hai nhanh chóng già và chết .


      Và thế giới chết cùng theo h.


      Trừ phi…


      chiếc xe cảnh sát gầm rú chạy qua, hú còi inh ỏi. Theo sau nó là chiếc thứ hai rồi thứ ba. Như mọi người khác đường, Flamel quay lại nhìn con đường chúng vừa qua. Điều cuối cùng ông cần làm là phải tập trung chú ý bằng cách đứng tách khỏi đám đông.


      Ông phải lấy lại Cuốn sách. Phần còn lại của Cuốn sách, ông tự nhắc mình, bàn tay ông bất giác sờ vào ngực. bên dưới chiếc áo thun của mình, sợi dây da, ông đeo cái túi vuông vắn bằng cotton đơn giản mà Perenelle may cho ông nửa thiên niên kỷ trước, khi lần đầu tiên ông tìm thấy Cuốn sách. Bà may nó để đựng tập sách cổ; bây giờ những gì nó đựng chỉ còn là hai trang mà Josh xé được. Cuốn sách vẫn vô cùng nguy hiểm trong tay Dee, nhưng đây là hai trang cuối, chứa lời Hiệu triệu Cuối cùng, mà Dee rất cần để đưa các Elder Đen tối của trở lại thế giới.


      Và Flamel thể—cho phép điều đó xảy đến.


      Hai viên cảnh sát quay người ở góc phố và xuống con đường trung tâm. Họ nhìn chòng chọc cách khó chịu vào mấy người khách bộ hành và nhìn săm soi vào cửa sổ của mấy cửa tiệm, nhưng họ lại ngang qua Nicholas mà hề nhìn ông.


      Nicholas biết rằng mối ưu tiên hàng đầu bây giờ là tìm nơi náu cho hai đứa sinh đôi. Và điều đó có nghĩa là ông phải tìm người bất tử sống ở Paris. Mỗi thành phố thế giới đều có chỗ cho những người có quãng đời kéo dài nhiều thế kỷ hoặc thậm ch&i thiên niên kỷ, và Paris cũng ngoại lệ. Ông biết rằng những người bất tử thích những thành phố danh rộng lớn, nơi dễ dàng biến mất trong số những người dân liên tục biến đổi.


      Từ lâu, Nicholas và Perenelle đến nhận định rằng ngay tâm điểm mỗi chuyện hoang đường và chuyện huyền thoại là hạt giống của . Và mọi giống loài đều kể các câu chuyện về những người sống lâu cách khác thường, đó là: người bất tử.


      Trải qua nhiều thế kỷ, Flamel có dịp tiếp xúc với ba kiểu người bất tử hoàn toàn khác nhau. Có những người Cổ xưa—bây giờ có lẽ chưa đầy dúm người còn sống—họ đến từ quá khứ rất xa xôi của trái đất. số chứng kiến trọn vẹn lịch sử con người, và điều này làm cho họ ít nhiều có tính người hơn.


      số người khác, như Nicholas và Perenelle, tự mình khám phá ra cách trở thành bất tử. Nhiều thiên niên kỷ trôi qua, những bí mật của thuật giả kim được khám phá, mất , rồi lại khám phá biết bao nhiêu lần. trong những bí mật vĩ đại nhất của thuật giả kim là công thức bất tử. Và tất cả thuật giả kim—có thể ngay cả khoa học đại— nguồn gốc duy nhất: Cuốn sách Pháp sư Abraham.


      Rồi lại có những người được tặng món quà bất tử. Đây là những người, hoặc vô tình hoặc cố ý, lọt vào tầm chú ý của người này người khác trong số các Elder là những người còn sót lại trong thế giới này sau Biến mất của hòn đảo Danu Talis. Các Elder luôn tìm những người có khả năng ngoại cảm hoặc bất thường nào để đào tạo cho mục đích của họ. à để đáp lại công lao phục vụ, các Elder ban tặng cho những người theo họ quyền được kéo dài cuộc sống. Đó là món quà rất ít người có thể từ chối. Đó cũng là món quà đảm bảo lòng trung thành tuyệt đối và kiên định… bởi vì nó có thể bị lấy nhanh như khi được ban tặng. Nicholas biết rằng nếu ông gặp loại người bất tử này ở Paris—ngay cả khi ông từng quen biết họ trong quá khứ— khả năng vẫn có nguy hiểm đích thực đó là họ phục vụ cho các Elder Bóng tối.


      Ông ngang qua tiệm video mở cửa suốt đem quảng cáo là có Internet tốc độ cao, ông chú ý đến tấm biển đặt trong cửa sổ, được viết bằng mười thứ tiếng: ĐIỆN THOẠI NỘI ĐỊA VÀ QUỐC TẾ. GIÁ RẺ. Đẩy cửa bước vào, ông chợt hít phải mùi chua của những thân hình tắm, mùi dầu thơm phai, mùi thức ăn mỡ màng và mùi ozone của quá nhiều máy tính nêm chặt vào với nhau. Cửa tiệm bận rộn cách đáng ngạc nhiên: nhóm sinh viên có vẻ như thức suốt đêm tụ tập quanh mấy chiếc máy tính hiển thị logo của trò chơi World of Warcraft, hầu hết các máy tính khác có những cháng trai trẻ chiếm rồi, những gương mặt nghiêm trang dán mắt chăm chú vào màn hình. Khi bước lối đến quầy ở cuối tiệm, Nicholas có thể thấy hầu hết những người trẻ này sử dụng thư điện tử hoặc nhắn tin tức . Ông nhếch mép cười; chỉ mới vài ngày trước, Josh mất cả tiếng đồng hồ để giải thích cho ông khác nhau giữa hai phương thức giao tiếp này. Thậm chí Josh còn cho ông xem tài khoản thư điện tử riêng của cậu—mà ông ngờ rằng cậu chẳng bao giờ dùng đến—tuy vậy ông có thể thấy được công dụng cho các chương trình nhắn tin tức th


      người Trung Quốc đằng sau quầy mặt bộ quần áo tả tơi và te tua mà Nicholas nghĩ đến lúc thích hợp để cho vào sọt rác, nhưng ông lại đoán có lẽ nó cũng tốn kém lắm. trang điểm toàn những thứ giống như người Gô-tích và lúc Nicholas bước đến bên chiếc bàn làm việc bận sơn móng tay.


      “Ba euro cho mười lăm phút, năm cho ba mươi, bảy cho bốn mươi lăm, mười cho tiếng,” mạch bằng thứ tiếng Pháp quá tệ và hề nhìn lên.


      “Tôi muốn gọi điện thoại quốc tế.”


      “Tiền mặt hay thẻ tín dụng?” ta vẫn ngẩng đâu lên, và Nicholas để ý thấy sơn đen móng tay phải bằng nước bóng mà là bằng cái bút nỉ.


      “Thẻ tín dụng.” Ông muốn giữ lại số tiền mặt ít ỏi của mình vì ông còn phải mua thức ăn. Mặc dù hiếm khi ông ăn, còn Scathach chẳng bao giờ ăn, nhưng ông cần để lo cho hai đứa .


      “Lấy ô số . Bảng hướng dẫn tường.”


      Ông lách mình vào cái ô điện thoại có cửa kính ở mặt trước và ngoặc tay kéo cánh cửa đóng lại sau lưng. Tiếng ồn ào của đám sinh viên dịu hẳn, nhưng trong ô nồng nặc mùi thức ăn thiu. Ông vừa đọc nhanh bảng hướng dẫn vừa rút thẻ tín dụng ra khỏi bó đó là tấm thẻ tín dụng mà ông dùng để mua sô--la nóng cho cặp sinh đôi. Nó mang tên Nick Fleming, cái tên ông dùng trong mười năm nay, và ông nhanh chóng tự hỏi biết Dee hay Machiavelli có lấy nó làm nguồn để truy tìm ông . Ông biết đương nhiên bọn chúng làm như vậy, nhưng nụ cười thoáng qua làm uốn cong đôi môi mỏng của Flamel; chuyện gì xảy ra? Tất cả những gì nó lên được là ông ở Paris, mà bọn chúng tất thảy đều biết điều đó rồi. Theo chỉ dẫn tường, ông quay mã truy nhập quốc tế và rồi quay đến số Sophie lấy từ ký ức của Bà Phù thủy.


      Đường dây kêu răng rắc và lách tách vì tĩnh điện xuyên Đại Tây Dương, và rồi, cách xa hơn năm ngàn rưỡi dặm, điện thoại bắt đầu reo lên. Được trả lời ở giây thứ hai. “Ojai Valley News; tôi có thể giúp gì ạ?” Giọng người phụ nữ trẻ trong trẻo ngờ.


      Nicholas thận trọng dùng giọng Pháp đầy đặn. “Chào buổi sáng…ồ , chào buổi chiều. Tôi rất vui khi thấy vẫn còn ở văn phòng. Tôi là Quý ông Montmorency, gọi từ Pháp. Tôi là phóng viên của tờ Le Monde. Tôi vừa xem trực tuyến và được biết buổi chiều náo động ở đó.”


      “Ghê chưa—tin tức nhanh quá, thưa Ông…”


      “Montmorency.”


      “Montmorency. Vâng, chúng tôi buổi chiều như thế . Chú giúp gì ạ?”


      “Chúng tôi muốn đăng mẩu tin trong tờ báo chiều nay— biết bản báo cáo tại trường ?”


      “Thực ra, ngay bây giờ tất cả phóng viên của chúng tôi xuống phố hết rồi.”


      “Nếu được xin chuyển cho tôi chuyện giúp, làm ơn. Tôi có thể mô tả tại trường và lời bình luận.” Khi nghe tiếng trả lời ngay, ông nhanh, “Đương nhiên khen ngợi thích đáng dành cho tờ báo của .”


      “Để tôi xem tôi có thể chuyển ông đến trong những phóng viên của chúng tôi ở ngoài phố được , thưa ông Montmorency.”


      “Merci. Tôi rất biết ơn.”


      Đường dây kêu lách tách lần nữa, và tiếp theo là đoạn dừng dài. Nicholas đoán là tiếp tân chuyện với người phóng viên trước khi chuyển cuộc gọi. Có tiếng lách tách nữa, và , “ nối máy với…” Ông cám ơn trong điện thoại có tiếng trả lời.


      “Michael Carroll, Ojai Valley News. Tôi hiểu là ông gọi từ Paris, Pháp, phải ?” Có chút gì ngờ vực trong giọng của người đàn ông.


      “Đúng như vậy, thưa Quý ông Carroll.”


      “Tin tức nhanh quá,” người phóng viên , lập lại đúng như lời tiếp tân.


      Internet,” Flamel lơ đãng, và thêm, “có đoạn video YouTube.” Ông hoàn toàn chắc chắn rằng phải có những đoạn video quay trường ở Ojai trực tuyến. Ông quay nhìn chằm chằm vào quán cafe Internet. Từ nơi ông đứng ông có thể nhìn thấy khoảng sáu bảy cái màn hình; mỗi cái hiển thị trang Web bằng thứ ngôn ngữ khác nhau. “Tôi được giao viết đoạn cho trang văn hóa và nghệ thuật của báo chúng tôi. trong những biên tập viên của chúng tôi đến thăm thành phố xinh đẹp của các bạn thường xuyên và mua vài mảnh thủy tinh đẹp ngờ tại những cửa tiệm đồ cổ đường Ojai. Tôi chắc là ông biết nó: cửa tiệm chỉ bán gương soi và đồ thủy tinh,” Flamel thêm.


      “Tiệm đồ cổ Witcherly,” Michael Carroll ngay. “Tôi biết nó. Tôi e là nó bị phá hủy hoàn toàn trong vụ nổ.”


      Flamel cảm thấy nghẹt thở. Hekate chết bởi vì ông mang hai đứa trẻ sinh đôi và Vương quốc Bóng tối của bà; Bà Phù thủy Endor cũng cùng chia số phận của Hekate sao? Ông làm thông cổ họng và khó nhọc nuốt xuống. Và người chủ, bà Witcherly? Bà ta có…?”


      “Bà ấy khỏe,” chàng phóng viên , và Flamel cảm thấy làn sóng nhõm cuốn giạt người ông. “Tôi vừa ghi được lời phát biểu của bà. Bà ở trong trạng thái tinh thần rất tốt đối với người có cửa tiệm vừa bị nổ tung như vậy.” chàng cười lớn, rồi thêm, “Bà ấy rằng khi ông từng sống lâu như bà sống, có gì làm ông ngạc nhiên được nữa.”


      “Bà ấy vẫn còn ở đó ạ?” Flamel hỏi, cố kiềm chế háo hức trong giọng mình. “Liệu bà ấy có muốn phát biểu với tờ báo Pháp ạ? Xin báo với bà ấy tôi là Nicholas Montmorency. Chúng tôi từng chuyện lần trước đây; tôi chắc bà ấy nhớ tôi,” ông thêm.


      “Tôi hỏi…”


      Tiếng nhòe và Flamel nghe tiếng người phóng viên lớn tiếng gọi Dora Witcherly. Trong thanh nền, ông cũng nghe tiếng biết bao nhiêu cảnh sát, lửa cháy và còi xe cứu thương, những tiếng la yếu ớt hơn và tiếng khóc của những người gặp tai họa.


      Và tất cả là lỗi ông.


      Ông lắc đầu nhanh. , đó phải do lỗi của ông. Việc này do Dee làm. Dee biết đến khả năng ước đoán. thiêu rụi hầu hết Lonon vào lòng đất năm 1666, phá hủy hầu hết San Francisco năm 1906—và bây giờ làm trống rỗng những bãi tha ma quanh Ojai. còn nghi ngờ gì, đường phố bừa bãi đầy những xương và thân thể. Nicholas nghe tiếng tắc nghẽn của chàng phóng viên và rồi tiếng chiếc điện thoại di động được trao tay.


      “Quý ông Montmorency?” Dora cách lịch bằng thứ tiếng Pháp rất chuẩn.


      “Chào bà. Bà bình an vô chứ?”


      Giọng Dora rơi xuống thành tiếng thầm và chuyển sang dạng tiếng Pháp cổ xưa thể hiểu được đối với bất cứ người nghe trộm đại nào. “ dễ gì giết được tôi đâu,” bà nhanh. “Dee bỏ trốn rồi, bị chém, bị thâm tím mình mẩy, bị đánh nhừ tử và rất, rất đau khổ. Tất cả bên ông an toàn hết chứ? Scathach cũng vậy chứ?”


      “Scatty an toàn. Tuy nhiên, chúng tôi cuộc chạm trán với Niccolo Machiavelli.”


      “Vậy là vẫn còn quanh quẩn ở đó. Dee hẳn phải thông báo cho , Nicholas. Machiavelli nguy hiểm hơn ông tưởng đó. Thậm chí còn xảo quyệt hơn cả Dee. Bây giờ phải nhanh lên,” bà vội vã thêm. “Tay phóng viên có vẻ nghi ngờ. ta có thể nghĩ rằng tôi cung cấp cho ông câu chuyện hay hơn câu chuyện tôi cho ta. Ông muốn gì nào?


      “Tôi cần bà giúp, Dora. Tôi cần biết ai là người tôi có thể tin cậy được ở Paris. Cần phải đưa bọn trẻ ra khỏi những con phố. Chúng nó mệt lử rồi.”


      “Hưmm.” Đường dây kêu lốp bốp với tiếng giấy sột soạt. “Ngay lúc này tôi biết ai ở Paris. Nhưng tôi tìm ra,” bà chắc chắn. “Ở đó là mấy giờ rồi?”


      Ông liếc nhìn chiếc đồng hồ và tính toán nhanh. “Năm giờ ba mươi sáng.”


      “Hãy đến tháp Eiffel. Có mặt ở đó khoảng bảy giờ sáng và chờ trong vòng mười phút. Nếu tôi có thể tìm được ai đó đáng tin cậy, tôi bảo họ gặp ông ở đó. Nếu ông nhận ra có ai đến ông hãy trở lại vào lúc tám giờ, rồi chín giờ. Còn nếu có ai ở đó vào khoảng chín giờ, hãy biết rằng ông tin được ai ở Paris hết, và ông phải tự xoay sở lấy.”


      “Cám ơn, Bà Dora,” ông êm ả. “Tôi quên món nợ này.”


      có nợ nần gì giữa bạn bè với nhau,” bà . “Ồ, Nicholas, cố gắng giữ cháu tôi đừng có gặp phiền phức gì nh”


      “Tôi cố hết sức,” Flamel . “Nhưng bà biết ấy thích gì: dường như ấy thích kéo chuyện phiền phức vào mình. Nhưng ngay bây giờ, ấy trông chừng hai đứa sinh đôi trong tiệm café cách xa đây lắm. Ít nhất ấy cũng thể dính líu vào chuyện phiền toái nào ở đó được.”






      CHƯƠNG 10


      Scathach cao chân, đè lòng bàn chân lên mặt ngồi của cái ghế và đẩy mạnh. Cái ghế gỗ trượt chéo sàn nhà và lao vút vào hai viên cảnh sát ngay lúc họ vừa đẩy cánh cửa ra. Họ đổ sầm xuống đất, radio bay khỏi tay của người, dùi cui cũng văng khỏi tay người kia. Cái radio kêu quác quác trượt dài rồi dừng lại ngay chân Josh. Cậu chồm người đổ ly sô--la nóng của cậu lên nó. Nó chết ngắc nín bặt, xì ra những tia lửa kêu xèo xèo.


      Scathach nhảy lên. quay đầu lại, giơ tay chỉ vào Roux. “ kia. Ở yên chỗ đó. được điện thoại cho cảnh sát, được nghĩ đến chuyện đó.”


      Trái tim đập như búa nện, Josh túm lấy Sophie và kéo ra khỏi bàn, đưa đến cuối cửa tiệm, lấy thân mình che khuất khỏi tầm mắt của tay cảnh sát ở ngay cửa.


      trong hai người cảnh sát giơ súng lên. Chiếc nhị khúc của Scatty đánh vào báng súng bằng lực mạnh đủ để bẻ cong thanh kim loại và làm thứ vũ khí đó quay tròn vuột khỏi tay người đàn ông.


      Người cảnh sát thứ hai trườn mình, rút cái dùi cui dài màu đen ra. Vai phải của Scathach chìm xuống và chiếc nhị khúc đổi hướng , khúc gỗ cứng dài ba tấc đánh vào cái dùi cui ngay phần cán ngắn. Cái dùi cui vỡ tan từng mảnh. Scathach búng , chiếc nhị khúc trở lại và rơi vào bàn tay mở sẵn của .


      “Tôi thực có tâm trạng xấu,” bằng tiếng Pháp hoàn hảo. “Tin tôi tôi muốn rằng ra ông muốn đánh nhau với tôi đâu.”


      “Scatty…” Josh xuỵt báo động.


      phải bây giờ,” Nữ Chiến binh chuyển sang tiếng . “Em thấy tôi bận sao?”


      “Phải rồi, thôi nào, chị sắp sửa còn bận hơn,” Josh la lớn. “Bận hơn nhiều đó. Nhìn ra ngoài kìa.”


      đội cảnh sát ầm ĩ, mình mặc áo giáp đen, nón bảo hiểm có tấm chắn bảo vệ che kín mặt, trang bị dùi cui và súng trường tấn công, lao xuống phố, tiến thẳng đến tiệm café.


      “RAID,” người bán hàng trong tiệm thào kinh khiếp.>“Giống như SWAT vậy,” (Special Weapons And Tactics: những đơn vị tinh nhuệ mưu lược trong lực lượng cảnh sát Mỹ, được huấn luyện nghiêm ngặt và trang bị đủ loại vũ khí cùng với quân trang bảo hộ) Scathach bằng tiếng , “chỉ là khó trị hơn.” Giọng nghe có gì đó gần như mãn nguyện. Liếc xéo sang Roux, chuyển sang tiếng Pháp, “Có cửa sau ?”


      chàng bán hàng sửng sốt đến bất động, dán mắt vào đội quân tiến gần, và mãi đến khi Scathach rút chiếc nhị khúc ra và cái đầu tròn rít gió vút ngang qua mặt ta mới có phản ứng, cơn gió làm ta nhấp nháy.


      “Có cửa sau ?” hỏi gặng lần nữa, nhưng bằng tiếng .


      “Có, có, tất nhiên.”


      “Vậy đưa bạn tôi ra.”


      …,”Josh bắt đầu.


      “Để em làm cái gì đó,” Sophie , hơn chục câu thần chú về gió lập lòe trong ý thức của . “Em có thể giúp…”


      ,” Josh phản đối, và giơ tay chạm vào chị sinh đôi, đúng lúc đó mái tóc vàng kêu lắc rắc, lấp lánh bạc.


      “Ra!” Scatty hét, cứ như thể những nét bằng phẳng và góc cạnh khuôn mặt đều bất chợt biến đổi, xương gò má và cằm nhô lên, đôi mắt xanh biến thành mảnh thủy tinh phản chiếu. Trong chốc lát, có cái gì đó cổ xưa và nguyên sinh—và hoàn toàn xa lạ— gương mặt . “Tôi có thể chăm sóc mấy người này.” bắt đầu quay tròn chiếc nhị khúc, tạo thành cái khiên thể xuyên thủng giữa và hai người cảnh sát. viên sĩ quan lượm cái ghế lên ném vụt vào , nhưng chiếc nhị khúc kịp biến nó thành gỗ vụn.


      “Roux—đưa họ ra ngay!” Scatty gầm lên.


      “Đường này,” chàng nhân viên sợ hãi bằng tiếng Mỹ—giọng . ta chen qua cặp sinh đôi và đưa họ xuống hành lang hẹp lạnh lẽo dẫn vào khoảng sân bốc mùi hôi thối chồng chất thành từng đống những vỏ hộp cao ngất, những đồ đạc dùng trong quán ăn bị hư gãy và cái sườn của cây thông Noel bỏ phế lâu. Đằng sau họ vang lên thanh của gỗ bị vỡ ra.


      Roux chỉ vào cánh cổng màu đỏ và tiếp tục tiếng . Mặt ta trắng bệch như phấn. “Cái đó dẫn ra ngõ hẻm. Quẹo trái là đường de Dunkerque; rẽ phải đưa xuống trạm tàu điện ngầm Gare du Nord.” Sau lưng họ tiếng đập dữ dội, tiếp theo là tiếng kính vỡ. “Bạn của mấy em, ấy gặp phiền phức dữ dội rồi, ta rền rĩ tội nghiệp. “Và RAID phá tan hoang cửa tiệm. giải thích như thế nào với chủ đây?”


      Lại tiếng nổ khác ở trong kia. viên ngói trượt ra khỏi mái, rơi xuống sân bể vụn.


      , ngay .” ta xoay ổ khóa và giật mạnh cho cánh cửa mở ra.


      Sophie và Josh để ý ta. “Mình làm gì bây giờ?” Josh hỏi chị sinh đôi. “ hay ở lại?”


      Sophie lắc đầu. liếc nhìn Roux và hạ giọng thầm. “Mình đâu có nơi nào để —mình biết ai trong thành phố này trừ Scatty và Nicholas. Mình có tiền mà cũng có hộ chiếu.”


      “Chúng ta có thể đến tòa đại sứ Mỹ.” Josh quay sang Roux. “Có tòa đại sứ Mỹ ở Paris ?”


      “Có, đương nhiên, ở đại lộ Gabriel, bên cạnh khách sạn de Crillon.” thanh niên cạo trọc đầu co rúm người ngay lúc quả đấm khổng lồ làm rung chuyển toàn bộ tòa nhà, gian đầy những mảnh bụi. Kính ở cửa sổ cạnh họ nứt toạc từ xuống dưới và nhiều mảnh ngói rơi khỏi mái nhà, trút như mưa xuống sân.


      “Và chúng ta gì với tòa đại ” Sophie hỏi dồn. “Họ muốn biết tại sao chúng ta ở đây.”


      “Bị bắt cóc?” Josh đề nghị. Và rồi ý nghĩ chợt đến và cậu cảm thấy buồn nôn. “Và chúng ta gì với mẹ và bố? Làm sao chúng ta giải thích cho bố mẹ được?”


      Bát đĩa bằng sành kêu leng keng rồi vỡ tan, và theo sau là tiếng nổ giòn dữ dội.


      Sophie nghểnh đầu qua bên, vén tóc ra sau tai. “Đó là cửa sổ chính.” bước lùi bước về phía cánh cửa chính. “Chị phải giúp chị ấy.” búi mây mù cuộn khỏi ngón tay khi đưa nắm tay ra.


      !” Josh vồ lấy tay , tĩnh điện nổ lốp bốp giữa hai đứa. “Chị thể dùng năng lượng của chị,” cậu gấp rút thào. “Chị kiệt sức rồi; nhớ Scatty . Chị cháy thành ngọn lửa đó.”


      “Chị ấy là bạn chúng ta— thể bỏ mặc chị ấy được,” Sophie ngay. “Chị làm, bằng mọi cách.” Ở trường, cậu em trai của là người lủi thủi và bao giờ giỏi trong việc kết bạn hoặc chơi với bạn, trong khi lại có lòng trung thành mãnh liệt với bạn bgrave; mình, và bắt đầu nghĩ Scatty còn hơn người bạn. Dù rất quý em trai mình, luôn muốn có người chị .


      Josh nắm lấy hai vai Sophie và day mặt đối diện mình. Cậu cao hơn chị cái đầu và phải cúi xuống mới nhìn được đôi mắt xanh phản chiếu ánh mắt cậu. “Chị ấy phải là bạn chúng ta, Sophie,” giọng cậu trầm và nghiêm trọng. “Chị ấy bao giờ là bạn của chúng ta. Chị ấy là cái gì đó…hai ngàn rưỡi tuổi. Chị ấy công nhận với chúng ta rằng chị ấy là con ma cà rồng. Chị có thấy mặt chí ấy biến đổi như thế nào lúc ở trong đó : chị ấy phải là người. Và…và em chắc là chị ấy có đúng như tất cả những gì Flamel tô vẽ cho hay . Riêng ông ấy em biết là đúng!”


      “Ý em là sao?” Sophie hỏi gặng. “Em cố cái gì vậy?”


      Josh há miệng định trả lời, nhưng loạt những cú đấm rầm rầm làm rung chuyển khắp tòa nhà. Rên rỉ vì sợ hãi, Roux phóng vào ngõ hẻm. Cặp sinh đôi phớt lờ ta.


      “Ý em là sao?” Sophie hỏi lại.


      “Dee —”


      “Dee!”


      Em chuyện với ông ấy ở Ojai. Khi chị ở trong cửa tiệm với Bà Phù thủy Endor.”


      “Nhưng là kẻ thù của chúng ta mà!”


      “Chỉ vì Flamel vậy thôi,” Josh nhanh.


      “Sophie, Dee với em Flamel là tội phạm và Scathach cơ bản chỉ là tay côn đồ được thuê. Ông ấy ta bị nguyền rủa vì tội lỗi của ta nên phải mặc lốt bé tuổi teen cho đến hết đời.” Cậu lắc đầu nhanh và vội vã tiếp, giọng cậu thấp và dữ dội. “Chị, chúng ta hầu như biết gì về mấy người này… Flamel, Perenelle và Scathach. Điều duy nhất mình biết chắc là họ làm cho chị khác —khác cách đầy nguy hiểm. Họ đưa chúng ta hết nữa vòng trái đất, và nhìn xem bây giờ chúng ta ở đâu.” Cả khi cậu , tòa nhà lắc lư, và rồi khoảng chục viên ngói nữa lại trượt khỏi mái, rơi xuống sân tan tành, bắn lên những mảnh vỡ sắc nhọn như dao cạo bay quanh hai đứa trẻ. Josh kêu oái lên vì bị mảnh ngói đâm vào cánh tay đau nhói. “Chúng ta thể tin họ được, Soph. Chúng ta nên.”


      “Josh, em có khái niệm gì về năng lượng mà họ cho chị…” Sophie nắm cánh tay cậu em trai, và khí, bị ô nhiễm đầy những mùi hương hôi thối do thức ăn hư hỏng, lại đượm mùi vanilla, và rồi, lát sau, là mùi hương cam khi luồng điện của Josh thoắt lóe sáng màng ánh kim. “Ôi, Josh, ước gì chị có thể được với em. Chị biết mọi thứ Bà Phù thủy Endor biết…”


      “Và nó làm chị phát ốm lên!” Josh thét lên giận dữ. “Và đừng quên, nếu chị cứ dùng năng lượng của chị lần nữa, chị nổ tung đó, đúng theo nghĩa đen.”


      Những luồng điện của cặp sinh đôi lóe lên màu vàng và bạc. Sophie siết hai mắt mình nhắm lại ngay lúc dòng cảm tưởng, những ý nghĩ mơ hồ và những tư tưởng tùy tiện dội vào ý thức của . Đôi mắt xanh của nhấp nháy, hòa thành bạc ngay tức khắc, và chợt nhận ra rằng nếm trải ý nghĩ của cậu em mình. giật mạnh tay ra khỏi cậu và những ý nghĩ, cảm xúc tức nhạt .


      “Em ghen tị!” thầm đầy kinh ngạc. “Ghen tị với năng lượng của chị.”


      Hai má Josh ửng đỏ, và Sophie nhìn thấy trong mắt cậu cả trước khi cậu dối. “Em đâu có!”


      Đột nhiên, viên cảnh sát trang phục đen phóng qua cánh cửa xộc thẳng ra sân. đường nứt chạy dài xuống phía trước tấm chắn che mặt của ta, chiếc giày bốt mất tiêu. chút ngừng nghỉ, ta khập khiễng băng ngang qua hai đứa và chạy vào ngõ hẻm. Chúng có thể nghe thấy tiếng bem bép nhè của bàn chân trần và tiếng nện mạnh của chiếc giày đế da xa đầ


      Rồi Scathach như tản bộ ra sân. quay tròn chiếc nhị khúc như Charlie Chaplin vung vẫy cây gậy. cọng tóc xiên lệch hoặc dấu tích gì người , đôi mắt màu xanh sáng lên và lanh lợi. “Ồ, bây giờ tâm trạng tôi tốt hơn nhiều rồi,” thông báo.


      Cặp sinh đôi nhìn ngang qua hướng về hành lang. có gì và ai cử động trong vùng tối phía sau.


      “Nhưng có đến mười tên…” Sophie bắt đầu.


      Scathach nhún vai. “Mười hai, chính xác.”


      “Được trang bị vũ khí…”Josh . Cậu liếc xéo qua chị rồi liếc về lại Nữ Chiến binh. Cậu nuốt nước bọt cách khó nhọc. “Chị giết họ, phải ?”


      Đồ gỗ bị gãy và mọi thứ đổ sập trong cửa tiệm.


      , họ chỉ… ngủ.” Scathach mỉm cười.


      “Nhưng chị làm thế nào—” Josh bắt đầu.


      “Tôi là Nữ Chiến binh,” Scatty đơn giản.


      Sophie bắt gặp hình dáng lờ mờ di chuyển, há miệng hacute;t lên ngay lúc hình dáng đó ra khỏi hành lang và bàn tay với những ngón dài đặt lên vai Scathach. Nữ Chiến binh hề phản ứng.


      “Tôi thể để mình được tới mười phút.” Nicholas Flamel vừa vừa bước ra khỏi vùng tối. Ông hất đầu về cánh cổng mở. “Chúng ta nên hơn,” ông vừa thêm vừa đẩy họ về phía ngõ hẻm.


      “Chú bỏ lỡ trận đấu,” Josh bảo ông ta. “Có đến mười tên…”


      “Mười hai,” Scathach nhanh miệng chỉnh cậu.


      “Tôi biết rồi,” Nhà Giả kim với nụ cười chế giễu, “chỉ mười hai, họ gặp may.”






      CHƯƠNG 11


      trốn thoát!” Tiến sĩ John Dee gầm lên trong chiến điện thoại di động. “Ông bao vây chúng rồi mà. Làm sao ông để chúng trốn thoát được?”


      Ở phía bên kia Đại Tây Dương, Niccolo Machiavelli giữ bình tĩnh và kiềm chế, chỉ có hành động nghiến chặt quai hàm mới để lộ cơn giận của y. “Ông được thông báo cách xuất sắc ghê nhỉ.”


      “Tôi có nguồn của tôi,” Dee bốp chát, đôi môi mỏng dính của cuốn lại thành nụ cười đáng sợ. biết làm Machiavelli điên lên nếu biết rằng có tên gián điệp nằm ngay trong phe cánh của mình.


      “Ông cho chúng vào bẫy ở Ojai, tôi hiểu,” Machiavelli dịu dàng tiếp tục, “bao vây chúng bởi đội quân gồm những xác chết bị dựng dậy. Song chúng trốn thoát. Làm sao ông để chúng làm điều đó?”


      Dee thoải mái ngồi thụt vào ghế da mềm bên trong chiếc limousine phóng nhanh. Khuôn mặt chỉ được rọi sáng bằng màn hình của điện thoại, ánh sáng chiếu lên xương gò má của và kẻ đường viền quanh chòm râu nhọn hoắc trong thứ ánh sáng lạnh lẽo, đẩy đôi mắt chìm trong bóng tối. kể cho Machiavelli rằng dùng thuật gọi hồn để dựng dậy đội quân xác chết gồm cả người lẫn thú dữ. Liệu có phải đây là cách tinh tế của tay người Ý để báo cho biết rằng tên gián điệp nằm ngay trong bè lũ mình?


      “Ông ở đâu vậy?” Machiavelli hỏi.


      Dee liếc nhanh ra ngoài cửa sổ của chiếc limousine, cố đọc những bảng hiệu giao thông chớp lóe vụt qua. “Đâu đó đường 101, về phía Los Angeles. Chiếc phản lực của tôi đầy nhiên liệu và sẵn sàng , chúng tôi được phép cất cánh ngay khi tôi đến đó.’


      “Tôi dự kiến bắt được bọn chúng trước khi ông đáp xuống Paris,” Machiavelli . Đường dây nổ lốp bốp dữ dội, và ngừng chút trước khi thêm, “tôi tin là chúng cố liên lạc với Saint-Germain.”


      Dee ngồi thẳng dựng lên. “Comte de Saint-Germain? Ông ấy trở lại Paris rồi à? Tôi nghe ông ấy chết ở Ấn Độ khi tìm kiếm thành phố Ophir bị mất tích.”


      “Hiển nhiên là . Ông ta có căn hộ gần Champs-Elysees và hai ngôi nhà ở ngoại ô, theo như chúng tôi biết. Toàn bộ được giám sát kỹ. Nếu Flamel liên lạc với ông ấy, chúng tôi biết ngay.”


      “Lần này đừng để chúng thoát,” Dee gầm gừ. “Các chủ nhân của chúng ta hài lòng đâu.” bật tay đóng điện thoại trước khi Machiavelli kịp trả lời. Rồi cười nhanh, hàm răng sáng lóa. Tấm lưới khép lại chặt dần, chặt dần.


      “Người gì mà quá trẻ con,” Machiavelli lẩm bẩm bằng tiếng Ý. “Luôn phải là người lời cuối cùng.” Đứng trong đống đổ nát của tiệm café, cẩn thận đóng điện thoại và nhìn khắp cảnh hoang tàn. Cứ như thể cơn lốc xoáy vừa quét ngang tiệm café. Mọi thứ đồ đạc đều bị bễ gãy, cửa sổ vỡ tan, thậm chí còn c những mảnh ghim tuốt trần nhà. Các thứ bột cặn còn lại trong tách và nước sốt trộn lẫn với những hạt café đổ tung tóe, quyện với xác trà vung vãi và bột bánh nát vụn tất cả nằm đầy sàn. Machiavelli cúi nhặt cái nĩa bị cong vẹo thành hình chữ S hoàn hảo. Ném nó qua bên, nhón chân bước ngang qua những thứ bể vụn. Scathach tay hạ hết mười hai nhân viên RAID được huấn luyện kỹ lưỡng và trang bị đủ loại vũ khí. hi vọng hão huyền rằng có thể mụ ta mất bớt tí kỹ năng nghệ thuật quân trong nhiều năm kể từ khi chạm trán với mụ lần gần đây nhất, nhưng dường như hi vọng của tan thành mây khói. Bóng tối vẫn ra đòn chí tử như bao giờ. Việc tiến đến gần Flamel và bọn trẻ gặp khó khăn với Nữ Chiến binh như cảnh tượng vừa rồi. Trong cuộc đời đăng đẳng của mình, Niccolo đụng độ với ba ta ít nhất là năm bảy trận, và lần nào cũng vừa đủ để sống sót. Lần gần đây nhất họ gặp nhau tại đống đổ nát Stalingrad băng giá trong mùa đông năm 1942. Nếu bên kia được bà ta ủng hộ, lực lượng của có lẽ chiếm được thành phố này rồi. Và thề rằng giết chết bà: có thể bây giờ là lúc thực lời hứa đó chăng.


      Nhưng làm sao để giết người thể giết? Cái gì có thể chống cự được người chiến binh đào tạo nên tất cả những vị hùng vĩ đại nhất trong lịch sử, người chiến đấu trong mọi cuộc xung đột lớn và kiểu mẫu chiến đấu của người đó là trái tim của hầu hết mọi nghệ thuật quân ?


      Bước ra khỏi cửa tiệm tan tành, Machiavelli hít thở sâu, tấy sạch buồng phổi nhiễm đầy mùi đắng nghét, chua ccafe tung vãi và mùi sữa bị chua lòm lơ lửng trong khí. Dagon kéo mở cánh cửa xe khi đến gần, và tay người Ý nhìn thấy chính mình phản chiếu cặp kính tối thui của người tài xế. dừng lại chút trước khi bước vào xe và liếc lên lực lượng cảnh sát đóng chốt đường phố, đội quân chống bạo loạn được trang bị vũ khí tận răng tụ họp thành từng nhóm và những nhân viên mặc thường phục ém trong những chiếc xe dấu hiệu. Sở mật vụ của Pháp là lực lượng do chỉ huy, có thể ra lệnh cho cảnh sát, và có quyền lực các đội quân kín gồm hàng trăm người đàn ông và phụ nữ làm theo mệnh lệnh của hỏi lấy lời. Song biết rằng ai trong số họ có thể chống cự Nữ Chiến binh. đến quyết định và nhìn Dagon trước khi chui vào xe.


      “Tìm Disir.”


      Dagon cứng người lại, biểu lộ dấu hiệu cảm xúc hiếm hoi. “Điều đó có khôn ngoan ?” nó hỏi.


      “Cần thiết.”

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 12


      Bà Phù thủy bảo chúng ta nên đến tháp Eiffel lúc bảy giờ, và chờ đó khoảng mười phút.” Nicholas Flamel khi họ vội vã xuống con hẻm hẹp. “Nếu có ai ra mặt giờ này, chúng ta quay lại đó lúc tám giờ và cứ như vậy lúc chín giờ.”


      “Ai đến đó?” Sophie hỏi, nhảy lên cho kịp bước chân sải dài của Flamel. bé mệt lử, chút thời gian ngồi trong tiệm cafe chỉ nhấn mạnh thêm rằng mệt mỏi đến nhường nào. Chân có cảm giác như đeo chì và cơn xóc hông đau nhói bên cạnh sườn.


      Nhà Giả kim nhún vai. “Chú biết. Bất kì ai mà Bà Phù thủy liên lạc được.”


      “Nó cho thấy ai ở Paris muốn liều lĩnh giúp ông.” Scathach tâng. “Ông là kẻ thù nguy hiểm, Nicholas, và có lẽ làm bạn với ông thậm chí còn nguy hiểm hơn. chết chóc và tàn phá luôn theo gót chân ông.”


      Josh liếc xéo qua chị , biết lắng nghe. cố ý nhìn chỗ khác, nhưng cậu biết khó chịu với cuộc chuyện đó.


      “Nào, nếu ai lộ diện,” Flamel , “ chúng ta theo kế hoạch B.”


      Môi Scathach cong lên thành nụ cười chẳng chút hài hước.” Tôi còn biết chúng ta còn có cả kế hoạch B nữa kia. Thế kế hoạch B là gì?”


      “Tôi chưa tính xa đến như vậy.” Ông cười toe. Rồi nụ cười nhạt .” Tôi chỉ ước Perenelle ở đây; cấy biết phải làm gì.”


      “Chúng ta tách ra,” Josh chợt .


      Flamel đầu, ông liếc nhìn đằng sau. “Chú nghĩ vậy.”


      “Chúng ta phải làm vậy thôi,” Josh chắc chắn. “Nó khá hợp lý.” Nhưng trong lúc , cậu tự hỏi tại sao Nhà Giả Kim lại muốn họ tách ra.


      “Josh đúng đó.” Sophie . “Cảnh sát tìm kiếm bốn người chúng ta. Cháu chắc rằng cho đến bây giờ họ bản mô tả rằng: hai đứa thiếu niên, tóc đỏ và ông già. phải là nhóm thường thấy.”


      “Già!” Nicholas hơi bị xúc phạm, giọng Pháp của ông nghe hẳn. “Scathach lớn hơn chú hai ngàn năm đó.”


      “Vâng. Nhưng điều khác biệt là trông tôi như vậy,” Nữ chiến binh cười toe toét chọc ông. “Tách ra là ý hay.”


      Josh ngừng lại ngay đầu con hẻm hẹp và nhìn lên nhìn xuống. Tiếng còi cảnh sát rền rĩ và líu nhíu khắp xung quanh bon họ.


      Sophie đứng bậu em trai, dù có những đặc điểm tương đồng giữa hai đứa là hiển nhiên, nhưng cậu chợt để ý bây giờ có những vệt hằn trán chị của cậu, và đôi mắt xanh nhạt trở nên buồn bã, tròng mắt đen lốm đốm bạc. “Roux bảo quẹo trái là đường de Dunkerque, phải là ga điện ngầm.”


      “Chú chắc là việc tách ra này…” Flamel ngần ngừ.


      Josh quay xung quanh. “Chúng ta phải làm như vậy,” cậu kiêm quyết. “Sophie và cháu —” cậu bắt đầu, nhưng Nicholas lắc đầu, ngắt lời cậu.


      “OK. Chú đồng ý là chúng ta nên tách ra. Nhưng cảnh sát tìm kiếm hai đứa sinh đôi…”


      “Chúng cháu giống sinh đôi lắm đâu,” Sophie nhanh. “Josh cao hơn cháu.”


      “Cả hai đứa tóc vàng, mắt xanh, và đứa nào biết tiếng Pháp,” Scathach thêm. “Sophie, em với tôi. Hai cùng nhau thu hút nhiều chú ý. Josh và Nicholas có thể chung với nhau .”


      “Em rời Sophie đâu…,” Josh phản đối, chỉ mới chợt nghĩ đến việc tách khỏi chị cậu trong thành phố xa lạ này cậu thấy hoang


      “Chị an toàn bên Scathach mà,” Sophie với nụ cười. “Em đừng lo lắng quá. Và chị biết chú Nicholas chăm sóc em.”


      Josh có vẻ chắc lắm. “Cháu muốn ở với chị cháu hơn,” Josh kiên quyết.


      “Hãy để cho con với nhau; cách này tốt hơn,” Flamel . “An toàn hơn.”


      “An toàn hơn?” Josh cách hoài nghi. “ có thứ gì trong chuyện này là an toàn cả.”


      “Josh!” Sophie nạt, theo đúng giọng điệu mà mẹ chúng thỉnh thoảng dùng. “Đủ rồi.” quay về phía Nữ chiến binh. “Chị cần phải làm cái gì đó cho tóc chị. Nếu cảnh sát mô tả về tóc đỏ trong bộ đồ chiến đấu…”


      “Em đúng.” Bàn tay trái của Scathach làm cử chỉ uốn éo nhanh và bất ngờ có ngay con dao lưỡi ngắn trong tầm tay. quay sang Flamel. “Tôi cần ít vải.” đợi trả lời, xoay tròn ông và vén áo khoát da mòn vẹt lên, Bằng cử động chính xác khéo léo, cắt miếng v vuông khỏi lưng áo thun đen rộng thùng thình của Flamel. Rồi trả chiếc áo khoát lại đúng chỗ và quấn mảnh vải lại thành cái băng—đô, gút nó lại sau gáy, che phủ mái tóc đặc biệt của .


      “Đây là loại áo thun thích nhất của tôi,” Flamel cằn nhằn. “Loại cổ điển.” Ông vặn vẹo xoay chuyển hai vai cách khó chịu. “Và bây giờ đến cái lưng tôi bị lạnh.”


      “Đừng con nít như vậy chứ. Tôi mua cái mới cho ông,” Scathach . nắm tay Sophie. “Nào thôi. Hẹn gặp tại Tháp nhé.”


      có biết đường ?” Nicholas gọi với theo .


      Scathach cười lớn. “Tôi sống ở đây gần sáu mươi năm, nhớ ? Tôi ở đây hồi người ta xây cái Tháp này.”


      Flamel gật đầu. “Tốt, cố đừng gây chú ý.”


      “Tôi cố.”


      “Sophie…,” Josh bắt đầu.


      Chị biết rồi,” chị cậu trả lời, “” quay lại và ôm cậu em trai nhanh, luồng điện của chúng nổ lốp bốp. “Mọi chuyện tốt cả thôi,” dịu dàng, đọc được nỗi lo sợ trong mắt cậu.


      Josh cố gượng cười, và cậu gật đầu. “Sao chị biết được? Phép thuật hả?”


      “Chị chỉ biết vậy thôi.” đơn giản. Đôi mắt ánh bạc lấp loáng. “Tất cả biến cố này xảy ra vì lí do—hãy nhớ lời tiên tri này. Mọi chuyện rồi tốt đẹp.”


      “Em tin chị,” cậu , ngay cả khi cậu làm đúng như vậy. “Cẩn thận, và nhớ,” cậu thêm, “ sợ hãi.”


      Sophie ôm nhanh cậu em trai lần nữa. “ sợ hãi.” thầm vào tai cậu rồi xoay người .


      Nicholas và Josh chăm chú nhìn Scathach và Sophie gần khuất dưới con phố, về phía ga Metro; lúc đó họ mới quay theo hướng ngược lại. ngay trước khi quẹo vào góc phố, Josh liếc nhanh ra sau lưng và nhận thấy chị cậu cũng làm y như vậy. Cả hai đứa cùng đưa tay vẫy tạm biệt nhau. Josh chờ đến khi khuất hẳn mới hạ tay xuống. Bây giờ cậu thực mình, trong thành phố xa lạ, cách nhà cậu hàng ngàn dặm, với người đàn ông cậu tin, người đàn ông cậu bắt đầu thấy


      “Em tưởng chị chị biết đường,” Sophie .


      “Cũng khá lâu rồi từ khi tôi ở đây.” Nữ chiến binh thừa nhận, “đường phố thay đổi nhiều quá.”


      “Nhưng chị chị ở đây từ khi người ta xây dựng tháp Eiffel.” ngừng lại, bất ngờ khi nhận ra những gì mình vừa . “Chính xác là hồi nào?” hỏi.


      “Năm 1889. Tôi khỏi đây vài tháng sau đó.”


      Scathach ngừng lại bên nhà ga Metro, hỏi đường người bán báo và tạp chí. Người phụ nữ Trung Hoa dáng người nhắn biết rất ít tiếng Pháp nên Scathach nhanh chóng chuyển sang ngôn ngữ khác. Sophie chợt nhận thấy mình nhận ra nó—tiếng Quan Thoại. bán hàng mỉm cười bước ra khỏi quầy và chỉ xuống phố, nhanh đến nỗi Sophie bắt kịp chữ nào, mặc cho đó là kiến thức về ngôn ngữ của Bà Phù thủy. Nghe như thể hát. Scathach cám ơn ta, rồi cúi chào, và người phụ nữ cúi chào đáp lại.


      Sophie chộp cánh tay Nữ chiến binh, kéo . “Chị gây chú ý nhiều quá đó,” rù rì. “Người ta bắt đầu nhìn kìa.”


      “Họ nhìn cái gì” Scathach hỏi, bối rối cách thành thực.


      “Ồ, chỉ là cảnh da trắng lưu loát tiếng Hoa và còn cúi đầu chào,” Sophie với nụ cười toe. “Cái đó giống như màn trình diễn.”


      ngày kia mọi người tiếng Quan Thoại, và cúi đầu chào là cử chỉ đẹp,” Scathach , lần đường xuống phố, theo hướng người phụ nữ chỉ.


      Sophie bước đều bên cạnh. “Chị học tiếng Hoa ở đâu?” hỏi.


      “Ở Trung Quốc. ra, tôi tiếng Quan Thoại với người phụ nữ đó, nhưng tôi còn biết tiếng Ngô từ thời Tam quốc và tiếng Quảng Đông. Tôi mất nhiều thời gia ở Viễn Đông đến hàng mấy thế kỉ. Tôi mến nơi đó lắm.”


      Họ bước trong im lặng, rồi Sophie , “Vậy chị được mấy thứ tiếng?”


      Scathach cau mày, mắt hơi khép lại khi nhắc. “Sáu hay bảy…”


      Sophie gật đầu. “Sáu hay bảy; ấn tượng . Ba mẹ em muốn cho tụi em học tiếng Tây Ban Nha, và ba dạy tụi em học tiếng Hy Lạp và Latin. Nhưng thực ra em thích học tiếng Nhật. Em muốn đến thăm nước Nhật, thêm.


      “…sáu hay bảy trăm,” Scathach tiếp tục, rồi cười lớn khi bắt gặp vẻ mặt sửng sốt của Sophie. móc tay mình vào cánh tay của Sophie.” Nào, tôi nghĩ trong số đó là tử ngữ, vì vậy chắc nó được tính, nhưng nhớ lại , tôi loanh quanh từ rất lâu rồi mà.”


      “Bộ chị sống hai ngàn rưỡi năm tuổi rồi thiệt hả?” Sophie hỏi, liếc qua trông chưa quá mười bảy. Bất giác cười toe: bao giờ tưởng tượng rằng chính mình lại hỏi câu như thế. Đó chỉ là ví dụ khác cho thấy cuộc đời thay đổi như thế nào.


      “Hai ngàn năm trăm mười bảy năm làm người.” Scathach cười, nụ cười mím chặt môi để che giấu mấy cái răng ma cà rồng của mình. “ lần Hekate bỏ tôi trong Vương quốc Bóng tối địa ngục cực kì khinh tởm. Tôi mất hàng mấy thế kỉ để tìm đường thoát ra. Và khi tôi còn trẻ, tôi trải qua nhiều thời gian trong Vương quốc bóng tối ở Lyonesse, Hy-brasil và Tir na nOg, nơi thời gian chuyển động theo nhịp khác. Giờ vương quốc bóng tối giống giờ con người, vì vậy tôi chỉ đếm thời gian tôi sống trái đất thôi. Và em biết , em có thể tự tìm lấy cho chính mình. Em và Josh là độc nhất và đầy sức mạnh và thậm chí còn phát triển nhiều năng lượng hơn khi em làm chủ được pháp thuật các nguyên tố. Nếu tự em khám phá bí mật bất tử, người nào đó có thể tặng em như món quà. nào, qua đường.” nắm lấy tay và kéo Sophie băng qua con đường hẹp.


      Dù chỉ mới sáu giờ sáng, xe cộ bắt đầu đông. Những chiếc xe tải giao hàng cho các tiệm ăn, và khí lạnh lẽo buổi sáng bắt đầu đượm mùi thơm hấp dẫn của bánh mì nướng tươi với cà phê bột và cà phê phin. Sophie hít thở những mùi thơm phưng phức quen thuộc: bánh sừng trâu và cà phê nhắc nhớ mới chỉ hai ngày trước đây thôi phục vụ những món đó trong tiệm Tách Cà-phê. nhấp nháy xua nỗi xót xa của những giọt nước mắt chực trào ra. Quá nhiều chuyện xảy ra, quá nhiều thay đổi trong hai ngày qua. “Sống quá lâu như vậy thế nào nhỉ?” bé lớn tiếng tự nhủ.


      đơn,” Scathach cách thanh thản.


      “Bao lâu…chị còn sống bao lâu nữa?” bé thận trọng hỏi Nữ Chiến binh.


      Scathach nhún vai và mỉm cười. “Ai biết được? Nếu tôi cẩn thận, tập thể dục đều đặn, giữ chế độ ăn uống, tôi có thể sống hai ngàn năm nữa.” Rồi nụ cười nhạt . “Nhưng tôi phải bất khả xâm phạm, bất khả chiến bại càng . Tôi vẫn có thể bị giết chết.” Nhìn ánh mắt sững sờ khuôn mặt Sophie, siết tay bé. “Nhưng chuyện đó chưa xảy ra đâu. Em có biết bao nhiêu con người , bao nhiêu người bất tử, các Elder, bao nhiêu sinh vật được tạo ra và ma quỷ đủ loại cố giết tôi


      Đứa con lắc đầu.


      “Ừ, ra tôi cũng biết hết. Nhưng có đến hàng ngàn. Có thể hàng vạn. Và tôi vẫn ở đây; cái đó lên cho em điều gì?”


      “Rằng chị giỏi?”


      “Ha! Tôi còn giỏi hơn cả giỏi nữa. Tôi là người giỏi nhất. Tôi là Nữ Chiến Binh.” Scathach ngừng lại và nhìn vào cửa sổ tiệm sách, nhưng Sophie để thấy khi quay sang chuyện, đôi mắt màu xanh nhạt của đảo khắp nơi, kiểm soát hết chung quanh họ.


      Cưỡng lại cán dỗ muốn nhìn quanh, Sophie hạ giọng xuống thành lời thầm . “Mình bị theo dõi hả?” khá ngạc nhiên khi khám phá ra rằng có chút gì sợ hãi; biết, theo bản năng, rằng có gì có thể làm hại được khi với Scathach.


      , tôi nghĩ vậy. Chỉ là những thói quen cũ,” Scathach mỉm cười. “Những thói quen cũ như vầy giúp tôi sống hàng thế kỉ.” ngoảnh khỏi tiệm và Sophie móc cánh tay mình vào cánh tay Scathach.


      “Khi mới gặp chị, em nghe chú Nicholas gọi chị bằng những cái tên khác…” Sophie cau mày, cố nhớ lại lần đầu tiên ông ấy giới thiệu nhứ thế nào chỉ mới hai ngày trước đâ” Chú ấy gọi chị là Nữ chiến binh, Bóng tối, Kẻ trảm , Người kiến tạo vua.”


      “Đó chỉ là những cái tên,” Scathach lầm bầm, nghe có vẻ bối rối.


      “Nghe còn hơn những cái tên,” Sophie nhấn mạnh. “Chúng nghe như những danh hiệu… những danh hiệu chị từng nắm giữ?” Sophie kiên trì tìm hiểu.


      “Ừ, tôi có rất nhiều cái tên,” Scathach . “Những cái tên bạn tôi đặt cho tôi, những cái tên kẻ thù thường gọi tôi. Trước hết tôi là Nữ chiến binh, và rồi tôi trở thành Bóng tối, vì những kĩ năng che giấu mình. Tôi hoàn thành bộ y phục ngụy trang đầu tiên.”


      “Chị như ninja,” Sophie cười lớn. Lắng nghe Nữ chiến binh , những kí ức của bà phù thủy nhấp nháy trong đầu , và biết Scathach .


      “Tôi thử dạy các ninja, nhưng chưa bao giờ thấy họ giỏi tới mức đó, tin tôi . Tôi trở thành Kẻ trảm khi tôi giết Raktabija. Và tôi được gọi là Người kiến tạo vua khi tôi giúp đưa Arthur lên ngai vàng,” thêm, giọng đanh lại. lắc đầu nhanh. “Đó là sai lầm. Mà cũng phải là sai lầm đầu tiên.” cười lớn, giọng cười run rẩy và gượng ép“Tôi phạm nhiều sai lầm.”


      “Ba em ta có thể học hỏi từ những sai lầm của mình.”


      Scathach gằn ra tiếng cười. “ dành cho tôi.” thể giấu vẻ cay đắng trong giọng .


      “Nghe như thể chị có cuộc đời gian khổ,” Sophie êm ả .


      “Gian khổ,” Nữ chiến binh thừa nhận.


      từng có…” Sophie ngưng chút, cố tìm ra từ ngữ. “Chị bao giờ có người bạn trai chưa?”


      Scathach nhìn xoáy vào bé, rồi quay mặt nhìn chăm chăm vào cửa sổ cửa tiệm. Trong thoáng Sophie nghĩ chị nghiên cứu cách chưng bày giày dép, Nhưng rồi bé nhận ra rằng Nữ chiến binh nhìn vào hình phản chiếu chính họ tấm kính. bé tự hỏi biết trông thấy gì.


      ,” cuối cùng Scathach thừa nhận. “Chưa bao giờ có người gần gũi, người nào đặc biệt.” cười mím môi. “Các Elder sợ và né tránh tôi. Còn tôi lại cố giữ quá thân thiết với loài người. là rất khó khăn khi nhìn họ già và chết . Đó là lời nguyền của bất tử: quan sát thay đổi của thế giới, nhìn thấy thứ em quen biết tàn lụi . Hãy nhớ điều này, Sophie, nếu nhỡ có ai tặng em món quà bất tử.” từ cuối cùng nghe như lời báng bổ.


      “Có vẻ như quá đơn,” Sophie thận trọng . Trước đây, bé chưa từng nghĩ đến bất tử phải như thế nào—vẫn phải sống trong khi mọi thứ quen thuộc thay đổi và mọi người mình biết đều rời bỏ mình. Họ trong im lặng khoảng hơn chục bước trước khi Scathach quay lại .


      “Ừ, đơn,” thừa nhận, “rất đơn.”


      “Em biết cảm giác đơn,” Sophie tư lự . “Ba mẹ em hay vắng hoặc là cứ mang theo tụi em chuyển từ thành phố này sang thành phố khác, nên rất khó kết bạn. Còn giữ được bạn là hầu như thể.” Em cho đó là lí do em và Josh luôn rất thân nhau; tụi em có ai khác. Bạn thân của tụi em Elle, ở New York. Tụi em chuyện với nhau qua điện thoại mọi lúc; gởi thư điện tử và chat IM, nhưng em chưa gặp nó từ hồi giáng sinh. Nó gửi hình qua cho em qua điện thoại di động mỗi khi nó đổi màu tóc, nhờ vậy nên em mới biết nó như thế nào,” thêm với nụ cười. “Thế nhưng Josh thậm chí chả bao giờ chịu khó kết bạn.”


      “Bạn bè là quan trọng,” Scathach đồng tình, siết chặt cánh tay Sophie nhè . “Nhưng nếu bạn bè đến rồi , em lại luôn có gia đình.”


      “Gia đình chị như thế nào? Bà phù thủy Endor có đề cập đến mẹ và em trai chị.” Cả khi , những hình ảnh từ kí ức Bà phù thủy vẫn ra trong trí bé; phụ nữ già hơn có khuôn mặt nhọn, đôi mắt đỏ như máu và thanh niên nước da tái mé với bộ tóc đỏ chói.


      Nữ chiến binh nhún vai khó chịu. “Lâu nay chúng tôi chuyện nhiều với nhau. Cha mẹ tôi là những Elder, sinh ra và lớn lên hòn đảo Danu Talis. Khi bà ngoại Dora của tôi rời hòn đảo để đến dạy loài người đầu tiên, họ tha thứ cho bà. Như nhiều Elder, họ coi loài người chỉ giỏi hơn thú dữ chút. ‘Tò mò’, cha tôi gọi họ như vậy.” cảm giác ghê tởm thoáng qua gương mặt . “Thành kiến luôn cùng chúng tôi. Cha mẹ còn sốc hơn khi tôi thông báo rằng tôi làm việc với loài người, chiến đấu cho họ, bảo vệ họ khi có thể.”


      “Tại sao?” Sophie hỏi.


      Giọng Scathach trở nên êm dịu. “Điều đó với tôi là hiển nhiên, ngay cả vào lúc ấy, rằng loài người là tương lai và những ngày của giống loài Elder đến hồi kết thúc.” liếc xéo qua Sophie ngạc nhiên vài thấy dôi mắt Scathach sáng lên và lấp lánh, gần như thể có những giọt nước ở trong đó. “Ch mẹ tôi cảnh báo tôi rằng, nếu tôi bỏ nhà , tôi mang xấu hổ đến cho dòng họ và họ từ tôi.” Giọng Scathach kéo dài ra thành im lặng.


      “Nhưng chị vẫn bỏ ,” Sophie đoán.


      Nữ chiến binh gật đầu. “Tôi bỏ . Tôi chuyện với họ trong thiên niên kỉ… cho tới khi họ gặp rắc rối và cần tôi giúp,” thêm với nụ cười nham hiểm. “Bây giờ thỉnh thoảng chúng tôi có chuyện, nhưng tôi e họ vẫn xem tôi là nguyên nhân khiến họ ngượng với mọi người.”


      Sophie siết tay ấy. bé cảm thấy khó chịu với những gì Nữ chiến binh kể, nhưng cũng nhận ra rằng Scathach chia sẻ những điều vô cùng riêng tư, điều đó làm Sophie ngờ rằng người chiến binh cổ xưa này chưa bao giờ chia sẻ cho bất kì ai khác. “Em xin lỗi em cố ý làm chị buồn.”


      Scathach siết tay đáp lại. “Em làm tôi buồn. Mà là họ—hơn hai ngàn năm qua, vậy—tôi có thể nhớ như vừa xảy ra hôm qua. quá lâu rồi kể từ khi có ai đó chịu khó hỏi han về cuộc đời tôi. Và hãy tin tôi, phải tất cả đều tồi tệ cả. Tôi có vài chuyến kì diệu,” cách rạng rỡ. “Tôi kể em nghe về thời gian tôi là ca sĩ hát chính trong ban nhạc toàn nữ chưa? loại goth-punk của nhóm Spice Girls nhưng chúng tôi chỉ hát lại những bản nhạc Toris Amos. Chúng tôi rất mạnh Đức.” hạ giọng, “Vấn đề chúng tôi đều là ma cà rồng…”




      Nicholas và Josh rẽ lên đường de Dunkerque và khám phá ra rằng có cảnh sát khắp nơi. “Cứ ,” Nicholas vội vã khi Josh chậm lại. “Và hành động tự nhiên”.


      “Tự nhiên,” Josh lầm bầm. “Cháu biết điều đó có nghĩa gì nữa.”


      nhanh, nhưng đừng chạy,” Nicholas kiên nhẫn . “Cháu hoàn toàn vô tội, cậu học sinh đường đến lớp hay làm việc trong kỳ nghỉ hè. Nhìn vào cảnh sát, nhưng đừng chằm chằm. Và nếu họ nhìn lại cháu, đừng ngoảnh nhanh quá, cứ để mắt cháu lướt trôi qua người nào khác. Đó là những gì người công dân bình thường vẫn làm. Nếu chúng ta bị chặn lại, chú chuyện. Chúng ta ổn mà.” Ông nhìn vẻ ngờ vực khuôn mặt cậu bé và ông nở nụ cười. “Tin chú , chú làm vậy lâu lắm rồi. Bí quyết là cử động như thể ở đây cháu có mọi điều đúng thế giới này. Cảnh sát được huấn luyện để tìm kiếm những người trông có vẻ đáng ngờ và có những hành động đáng ngờ.”


      “Ch nghĩ là chúng ta rơi vào cả hai loại đó sao?” Josh hỏi.


      “Chúng ta thuộc về cái gì trông chúng ta giống như thế ấy—và điều đó làm chúng ta thành vô hình.”


      nhóm ba cảnh sát thậm chí nhìn theo hướng họ khi họ qua. Josh để ý thấy mỗi người mặc kiểu đồng phục khác nhau, và những người đó dường như tranh cãi.


      “Tốt,” Nicholas khi họ xa khỏi tầm nghe.


      “Cái gì tốt ạ?”


      Nicholas nghiêng đầu theo hướng họ vừa đến. “Cháu thấy những bộ đồng phục khác nhau chứ?”


      Cậu bé gật đầu.


      “Nước Pháp có hệ thống cảnh sát phức tạp; tại Paris thậm chí còn hơn vậy. Có Police Nationale; Gendarmerie Nationale và Prefecture de Police. Machiavelli ràng là lôi kéo tất cả những chốt chặn ra đây để tìm kiếm chúng ta, nhưng thất bại lớn luôn luôn gặp phải là do cho rằng người khác cũng lý luận lạnh lùng như . ràng nghĩ nếu đặt tất cả những nguồn cảnh sát này các đường phố, họ làm gì hết ngoài việc tìm kiếm chúng ta. Nhưng có rất nhiều ganh đua giữa các đơn vị khác nhau, và nghi ngờ là mọi người đều được muốn khen ngợi vì bắt được những tên tội phạm nguy hiểm.


      “Bây giờ chúng ta biến thành những thứ đó phải ?” Josh hỏi, thể che giấu nỗi cay đắng chợt đến trong giọng . “Hai ngày trước, Sophie và cháu là những người vui vẻ, bình thường và bây giờ nhìn chúng cháu xem: cháu chẳng biết gì về chị cháu, chúng cháu bị săn đuổi, bị tấn công bởi mấy con quỷ và bây giờ nằm trong danh sách cần truy nã nhất của cảnh sát. Chú làm chúng cháu biến thành tội phạm, ông Flamel ạ. Nhưng đây phải là lần đầu tiên chú là tên tội phạm, phải ?” cậu cáu kỉnh. Cậu nhét hai bàn tay vào sâu trong túi áo và nắm chặt lại thành những nắm đấm để cho chúng run lên. Cậu vừa sợ vừa giận, và nỗi sợ hãi làm cho cậu liều lĩnh. Cậu chưa bao giờ với người lớn như vậy từ trước tới nay.


      ,” Nicholas ôn tồn , đôi mắt xanh nhạt của ông bắt đầu lóe lên đầy nguy hiểm. “Chú từng bị gọi là tội phạm. Nhưng chỉ do những kẻ thù của chú thôi. Chú thấy dường như” ông thêm sau khi ngưng khá lâu, “cháu chuyện với Tiến sĩ Dee. Và chỉ nơi cháu có thể chạm trán đó là ở Ojai, vì chỉ có lúc đó cháu mới ở ngoài tầm mắt chú.”


      Josh hề nghĩ đến việc chối. “Cháu gặp Dee khi cả ba người bận rộn với Bà Phù thủy,” cậu bướng bỉnh thừa nhận. “Ông ta với cháu nhiều về”


      “Chú chắc chắn là làm vậy mà,” Flamel lẩm bẩm. Ông kiềm chế lại chờ nhóm sinh viên xe đạp và mô-bi-lét phóng qua; rồi ông băng qua đường. Josh vội vã theo sau.


      “Ông ấy chú bao giờ mọi thứ với bất cứ ai.”


      “Đúng,” Flamel đồng ý. “Nếu cháu với người ta mọi thứ, cháu lấy cơ hội học hỏi của họ.”


      “Ông ấy chú ăn trộm cuốn sách của Pháp sư Abraham hồi ở Louvre.”


      Nicholas bước thêm năm bảy bước nữa rồi mới gật đầu. “Nào, giả thiết điều này cũng là đúng,” ông , “dù nó thẳng tắp như ta muốn vẽ ra. Chắc chắn, hồi thế kỷ mười bảy, cuốn sách có thời gian ngắn rơi vào tay Hồng y Richelieu.”


      Josh lắc đầu. “Đó là ai?”


      “Cháu chưa bao giờ xem Ba Chàng Lính Ngự Lâm à?” Flamel hỏi đầy ngạc nhiên.


      “Chưa. Cả phim cũng chưa.”


      Flame“Chú có bản copy trong cửa tiệm …” ông mở lời, và rồi ngừng lại. Khi ông ra khỏi tiệm sách hôm thứ năm, nó thành đống giấy vụn rồi. “Richelieu xuất trong nhiều cuốn sách—và phim ảnh nữa. Đây là người và người ta gọi ông là Giáo chủ Rouge Đệ nhất—Hồng y Giáo chủ—được đặt tên như vậy vì chiếc áo choàng đỏ của hồng y,” ông giải thích. “Ông ta là Tể tướng của Vua Louis XIII, nhưng thực tế ông là người điều hành đất nước. Năm 1632, Dee tìm cách bắt chú và Perenelle trong vùng của thành phố cổ. Những tên bộ hạ của bao vây chú; có những con mà cà rồng trong lòng đất bên dưới chân chú, những con Quạ Hút máu truy đuổi chú khắp đường phố.” Nicholas nhún vai khó chịu với hồi ức này và ngước mắt nhìn quanh, gần như ông sợ phải nhìn thấy các sinh vật đó xuất lần nữa. “Chú bắt đầu nghĩ rằng thà chú phải phá hủy cuốn Codex còn hơn là nhìn thấy nó rơi vào tay Dee. Rồi Perenelle đề nghị chọn lựa cuối cùng: tụi chú có thể giấu cuốn sách trong đám đông. Đơn giản và sáng suốt.”


      “Chú làm gì?” Josh hỏi, bây giờ lại đâm ra tò mò.


      Hàm răng Flamel lóe lên khi ông cười. “Chú yết kiến Hồng y Richelieu và tặng ông ta cuốn sách.”


      “Chú cho ông ta cuốn sách? Ông ta có biết nó là gì


      “Đương nhiên là biết. Cuốn sách của Abraham nổi tiếng mà, Josh—hoặc có thể dùng từ khét tiếng chắc là đúng hơn. Lần sau cháu có online, tra nó xem.”


      “Ông Hồng y có biết chú là ai ?” cậu hỏi. Lắng nghe Flamel , dễ—quá dễ tin những gì ông . Và bất giác cậu nhớ Dee đáng tin như thế nào hồi ở Ojai.


      Flamel mỉm cười, nhớ lại. “Hồng y Richelieu tin chú là trong những hậu duệ của Nicholas Flamel. Vì thế khi bọn chú tặng ông ta cuốn sách của Abraham, ông ta cất nó và thư viện của mình.” Nicholas vừa cười vừa lắc đầu. “ nơi an toàn nhất khắp nước Pháp.”


      Josh cau mày. “Nhưng khi nhìn vào nó, chắc chắn ông ta phải thấy là những con chữ chuyển động chứ?”


      “Perenelle ếm bùa cuốn sách. Đó là dạng đặc biệt của thần chú—đơn giản, ràng cách đáng ngạc nhiên, mặc dù chưa bao giờ chú có thể nắm vững nó được—vì thế khi ông hồng y nhì vào cuốn sách, ông thấy những gì ông ta mong đợi: những trang tiếng Hy Lạp hoa mỹ và chữ viết Sy-ri.”


      “Dee có bắt được chú ?”


      “Suýt chút nữa. chú trốn xuống sông Secái xà lan. Đích thân Dee đứng cầu Pont Neuf với cả chục tên ngự lâm quân và nã rất nhiều phát đạn vào tụi chú. Tất cả đều trật lất hết; mặc cho danh tiếng của lính ngự lâm, họ là những tay súng kinh khủng,” ông thêm. “Và rồi, hai tuần sau, chú và Perenelle trở lại Paris, đột nhập vào thư viện và ăn cắp lại cuốn sách của chú. Vì thế chú cho rằng cháu có thể là Dee đúng,” ông kết luận. “Chú là tên ăn cắp.”


      Josh tiếp tục trong im lặng; cậu biết tin vào cái gì. Cậu muốn tin Flamel; làm việc trong tiệm sách bên người đàn ông này, cậu dần dần thích và kính trọng ông. Cậu muốn tin cậy ông… song cậu bao giờ có thể tha thứ cho ông vì ông đặt Sophie vào nguy hiểm.


      Flamel liếc lên liếc xuống dọc con đường; rồi đặt bàn tay lên vai Josh, ông lái cậu xuyên dòng xe cộ lạng lách để băng qua con đường de Dunkerque. “Đề phòng trường hợp chúng ta bị theo dõi,” ông nhàng, đôi môi ông gần như mấp máy khi họ lao xuyên qua dòng xe cộ sáng sớm.


      Khi họ băng qua đường xong, Josh rũ vai khỏi tay Flamel. “Những gì Dee mang rất nhiều ý nghĩa,” cậu tiếp tục.


      “Chú chắc vậy rồi,” Flamel trong tiếng cười lớn. “Tiến sĩ John Dee từng có nhiều lốt trong cuộc đời dài và lắm màu sắc, người Hung-ga-ri và nhà toán học, nhà giả kim vàên gián điệp. Nhưng để chú cháu nghe, Josh, thường là tên đểu và luôn luôn là kẻ dối. là bậc thầy dối và chỉ nữa , hành nghề và hoàn thiện ngón nghề của trong những thời kỳ nguy hiểm nhất. Thời Elizabeth, biết rằng lời dối giỏi nhất là lời dối bọc quanh cái lõi .” Ông dừng, đôi mắt hấp háy đám đông ào qua quanh họ. “ còn gì khác với cháu nữa?”


      Josh ngần ngừ chút trước khi trả lời. Cậu định tiết lộ tất cả những gì trong cuộc chuyện với Dee nhưng rồi cậu nhận ra rằng có thể là cậu quá nhiều mất rồi. “Dee rằng chú chỉ dùng những câu thần chú trong cuốn Codex cho lợi ích riêng của chú.”


      Nicholas gật đầu. “Đây là điểm đúng. Chú dùng thần chú bất tử để giữ Perenelle và chính chú sống, đó là . Và chú dùng công thức hòn đá tạo vàng để biến kim loại thường thành vàng và than đá thành kim cương. Để chú cho nghe, bán sách thu được đồng nào cả. Nhưng bọn chú chỉ làm ra đủ của cải mình cần—bọn chú tham lam.”


      Josh nhanh lên phía trước Flamel, rồi quay người lại đối diện với ông. “Chuyện này phải về tiền bạc,” cậu bốp chát. “Có quá nhiều thứ khác chú có thể làm cùng với những gì có trong cuốn sách đó. Dee nó có thể được dùng để biến thế giới này thành iên đường, có thể chữa lành mọi bệnh tật, sửa chữa được cả môi trường nữa.” Cậu thấy khó hiểu khi ai đó muốn làm điều này.


      Flamel ngừng lại trước mặt Josh. Đôi mắt ông gần như nằm ngang tầm mắt cậu . “Đúng, có những câu thần chú trong cuốn sách làm được tất cả những việc ấy và nhiều, nhiều nữa kìa,” ông nghiêm túc. “Chú xem lướt qua những câu thần chú trong cuốn sách có thể biến thế giới này thành đống than xỉ, những câu khác làm sa mạc nở hoa. Nhưng Josh, thậm chí nếu chú có thể làm những câu thần chú đó—mà ra là chú thể— những thành phần trong cuốn sách phải là nguyên liệu của chú mà chú có thể sử dụng.” Đôi mắt xanh nhạt của Flamel hướng vào mắt cậu và Josh bây giờ tin rằng Nhà Giả kim . “Chú và Perenelle chỉ là những Người Canh Giữ cuốn sách. Đơn giản là chú được giao phó việc cầm giữ nó cho đến khi có thể chuyển nó cho những chủ nhân xứng đáng. Họ biết cách sử dụng nó.”


      “Nhưng ai là chủ nhân xứng đáng? Họ ở đâu?”


      Nicholas Flamel đặt cả hai tay lên vai Josh và nhìn chăm chăm và đôi mắt màu xanh nhạt của cậu. “Phải, chú hi vọng,” ông rất nhàng, “rằng đó có thể là cháu và Sophie. vậy, chú đem mọi thứ ra đánh cược—cuộc sống của chú, cuộc sống của Perenelle, sống còn của àn thể nhân loại này—rằng đó chính là tụi cháu.”


      Đứng đường de Dunkerque, nhìn vào mắt Nhà Giả kim, đọc được trong mắt ông, Josh cảm thấy mọi người mờ nhạt hết cứ như là chỉ có họ đứng mình phố. Cậu nuốt nước bọt khó khăn. “Và chú tin như vậy hả?”


      “Bằng cả con tim mình,” Flamel cách giản dị. “Và mọi thứ chú làm, chú làm để bảo vệ cháu và Sophie đồng thời chuẩn bị cho cháu những gì sắp xảy đến. Cháu phải tin chú, Josh. Cháu phải tin. Chú biết cháu giận bởi vì những gì xảy ra với Sophie, nhưng chú bao giờ để bé bị nguy hiểm.”


      “Giờ này chị ấy chắc hẳn chết hoặc rơi vào hôn mê rồi,” Josh lẩm bẩm.


      Flame lắc đầu. “Nếu con bé là người thường, đúng, điều đó có thể xảy ra. Nhưng chú biết con bé phải là người thường. Cả cháu cũng phải,” ông thêm.


      “Bởi vì luồng điện của chúng cháu?” Josh hỏi, moi được bao nhiêu thông tin cứ moi.


      “Bởi vì các cháu là cặp song sinh huyền thoại.”


      “Và nếu chú sai? Chú có nghĩ rằng: chuyện gì xảy ra nếu chú sai ?”


      Elder Đen tối trở lại.”


      “Chuyện đó tồi tệ ghê lắm sao?” Josh ngạc nhiên thốt ra. Nicholas mở miệng định trả lời nhưng vội khép chặt môi vào nhau, cắn lại những gì ông suýt ra, nhưng trước đó Josh nhìn thấy tia lửa giận lóe lên rất nhanh dội ngang gương mặt ông. Cuối cùng, Nicholas gượng nụ cười. nhàng, ông xoay người Josh lại để cậu đối diện với con đường. “Cháu thấy gì?” ông hỏi.


      Josh lắc đầu và nhún vai. “ có gì cả… chỉ là đám người làm. Và cảnh sát tìm kiếm chúng ta,” cậu thêm.


      Nicholas chộp vai Josh và đẩy cậu xuống đường. “Đừng nghĩ họ là đám người,” Flamel gay gắt răn đe. “Đó là cách mà Dee và đồng loại của nhìn loài người: những thứ mà chúng gọi là giống người. Còn chú, chú thấy từng người riêng biệt, với những mối lo âu và bận tâm, với gia đình và những người quý, với bạn bè và đồng nghiệp. Chú thấy con người.”


      Josh lắc đầu. “Cháu hiểu.”


      “Dee và các Elder mà phục vụ nhìn vào những người này chỉ xem họ l những nô lệ.” Ông dừng chút, rồi nhanh chóng thêm, “Hoặc là thức ăn.”




      CHƯƠNG 13


      Nằm ngửa thẳng người, Perenelle Flamel nhìn chằm chằm vào trần nhà bằng đá hoen rỉ ngay đầu bà và tự hỏi biết có bao nhiêu tù nhân khác bị tống giam ở Alcatraz làm như vậy. Bao nhiêu người khác lần theo những đường kẻ hay những khe nứt đá, nhìn thấy những hình thù trong những đốm nước đen ngòm, tưởng tượng ra những bức tranh trong cái thứ ẩm ướt màu nâu này? Hầu như tất cả bọn họ, bà đoán.


      Và bao nhiêu người nghe được những tiếng ? Bà tự hỏi. Bà chắc rằng nhiều người tù tưởng tượng là họ nghe được thanh trong bóng tối—những lời thầm, những câu vội vàng—nhưng trừ phi là họ sở hữu món quà đặc biệt như của Perenelle, còn những gì họ nghe đều chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng của họ mà thôi.


      Perenelle nghe được tiếng của những hồn ma ở Alcatraz.


      Lắng nghe chăm chú, bà có thể phân biệt hàng trăm tiếng , thậm chí có thể đến hàng ngàn. Đàn ông và đàn bà—trẻ con nữa—ồn ào và la hét, rù rì và khóc lóc, réo gọi to tiếng vì mất những người thân , lập lập lại những cái tên của riêng họ, tuyến bố họ vô tội, nguyền rủa những cai tù. Bà cau mày, họ phải là những gì bà kiếm.


      Để cho những tiếng dội xuống mình, bà lần lượt phân loại ra những thanh cho đến khi chọn được tiếng lớn hơn tất cả những tiếng còn lại: mạnh mẽ và tự tin, nó cắt ngang những tiếng lảm nhảm, xí xô, và Perenelle bắt gặp mình tập trung vào nó, nhắm vào từng từ, phân định loại ngôn ngữ.


      “Đây là hòn đảo của tôi.”


      Đó là người đàn ông, tiếng Tây Ban Nha bằng giọng rất trịnh trọng, cổ xưa. Tập trung lên trần nhà, Perenelle gạt các tiếng khác ra ngoài. “Ông là ai?”


      Trong xà lim ẩm thấp lạnh lẽo, lời của bà phụt ra khỏi miệng như làn khói và vô số những hồn ma chìm vào im lặng.


      khoảng lặng kéo dài, như thể hồn ma ngạc nhiên vì có ai đó với mình; rồi ông ta cách tự hào, “tôi là người Châu Âu đầu tiên thuyền vào vịnh này, người đầu tiên nhìn thấy hòn đảo này.”


      hình dạng bắt đầu ra mái nhà ngay phía đầu bà, đường viền phác họa qua loa thành khuôn mặt xuất trong những khe nứt và mạng nhện, nấm mốc đen đủi và lớp rêu xanh thẫm làm cho nó định hình và nét.


      “Tôi gọi nơi này là la Isa de los Alcatraces.”


      “Hòn đảo Bồ nông,” Perenelle , những lời nhất thào như tiếng thở.


      Khu trần nhà đông đặc lại chút. Đó là người đàn ông điển trai với khuôn mặt dài, hẹp và đôi mắt màu sẫm. Những giọt nước kết lại và đôi mắt lấp loáng nước.


      “Ông là ai?” Perenelle hỏi lại.


      “Tôi là Juan Manuel de Ayala. Tôi khám phá ra Alcatraces.”


      Tiếng móng vuốt lích kích lách cách những khối đá bên ngoài xà lim, và mùi rắn và mùi thịt ôi xông thốc xuống hành lang. Perenelle giữ im lặng cho đến khi mùi hôi và tiếng chân lùi xa dần, và khi bà nhìn lại trần, khuôn mặt tiếp tục đầy chi tiết hơn, những khe nứt trong đá tạo thành những vết nhăn hằn sâu trán người đàn ông và xung quanh đôi mắt ông. Bà nhận ra gương mặt của người thủy thủ, những vết nhăn này là kết quả của việc thường xuyên nheo mắt nhìn về chân trời xa.


      “Tại sao ông ở đây?” bà lớn tiếng tự hỏi. “Ông chết ở đây à?”


      . phải ở đây.” Đôi môi mỏng cong lên cười. “Tôi quay lại bởi vì tôi quý nơi này từ khoảnh khắc đầu tiên nào đó khi tôi bắt gặp nó. Đó là năm 1775 Dương lịch, và tôi chiếc tàu San Carlos đẹp. Tôi vẫn còn nhớ tháng là tháng Tám, và ngày là ngày năm.


      Perenelle gật đầu. Trước đây bà tình cờ gặp những hồn ma như của Ayala. Những người đàn ông và đàn bà quá chịu ảnh hưởng hoặc quá mến nơi đến nỗi họ trở lại đó hoài trong những giấc mơ, và cuối cùng khi họ chết , linh hồn họ quay lại chính những nơi đó để trở thành hồn ma canh giữ.


      “Tôi trông nom hòn đảo này qua nhiều thế hệ. Tôi luôn luôn canh giữ nó.”


      Perenelle dán mắt vào khuôn mặt ấy. “Hẳn ông phải buồn lắm khi nhìn thấy hòn đảo xinh đẹp của ông biến thành nơi đau đớn và khổ nhọc thế này,” bà thăm dò.


      Có cái gì đó vặn vẹo trong miệng nhân dáng đó, và giọt nước rơi khỏi mắt xuống cằm Perenelle.


      “Những ngày đen tối, những ngày buồn bã, nhưng bây giờ qua rồi… đa tạ, qua rồi.” Đôi môi của hồn ma cử động và những lời lẽ thầm trong đầu Perenelle. “ còn người tù nào ở Alcatraz kể từ năm 1963, và hòn đảo này yên bình từ năm 1971.”


      “Nhưng bây giờ có tù nhân mới hòn đảo đáng của ông,” Perenelle đều đều. “ tù nhân bị canh giữ bởi tên cai ngục kinh khủng hơn bất cứ tên cai ngục nào mà hòn đảo này trông thấy trước giờ.”


      Khu trần nhà biến đối, đôi mắt ướt át nheo lại, nhấp nháy. “Ai? Bà à?”


      “Tôi bị nhốt ở đây chứ phải ý tôi muốn ở đây,” Perenelle . “Tôi là tù nhân cuối cùng của Alcatraz, và tôi bị canh giữ bởi cai ngục thuộc giống người, mà là con nhân sư.”


      !”


      “Ông tự xem !”


      Trát vữa nứt rạn ra và bụi nấm mốc rơi như mưa xuống mặt Perenelle. Khi bà mở mắt trở lại, khuôn mặt trần biến mất, để lại gì hơn là vệt bẩn theo sau nó.


      Perenelle tự cho phép mình mỉm cười.


      “Cái gì làm bà vui vậy, con người?” Tiếng xuỵt trơn tuột, và ngôn ngữ này có trước khi có loài người.


      Xốc mình ngồi lên, Perenelle tập trung vào giống loài đứng trong hành lang cách bà chưa đầy mét tám.


      Những thế hệ người cổ đại cố giữ được hình ảnh của loài này tường hang động và những chiếc bình, chạm khắc hình ảnh nó vào đó, giữ chân dung nó những cuộn giấy da nén. Và thậm chí ai trong họ từng đến gần kinh khiếp đích thực của con nhân sư.


      Mang thân hình của con sư tử cơ bắp khổng lồ, lông đầy vết sẹo cắt ngang cắt dọc là chứng tích của rất nhiều vết thương củ. đôi cánh đại bàng uốn cong ra vai và nằm sát lưng, những mảng lông vũ tả tơi và bẩn thỉu. cái đầu , vẻ thanh tú lại là của đẹp.


      Con nhân sư bước đến sát những song sắt xà lim, và cái lưỡi chẽ nhánh đen thui dao động trong khí trước mặt Perenelle. “Bà có lý do gì để cười hết, con người kia. Tôi được biết rằng chồng bà và Nữ Chiến binh bị bắt ở Paris rồi. Chẳng mấy chốc họ vào tù và lần này Tiến sĩ Dee chắc chắn rằng họ bao giờ trốn thoát được nữa. Tôi hiểu các Elder cuối cùng cho phép ông Tiến sĩ giết chết Nhà Giả kim huyền thoại cách dã man.”


      Perenelle cảm thấy có cái gì quặn thắt ngay nơi vùng lõm thượng vị. qua bai nhiêu thế hệ các Elder Đen tối quyết tâm bắt sống Nicholas và Perenelle. Nếu bà chịu tin lời con nhân sư và việc bọn chúng chuẩn bị giết Nicholas là mọi chuyện thay đổi hết. “Nicholas trốn thoát,” bà cách tự tin.


      phải lần này,” cái đuôi sư tử con nhân sư quất qua quất lại ra vẻ phấn khích, hất tung lên những chùm bụi mù. “Paris thuộc về tay người Ý, Machiavelli, và chẳng bao lâu nữa ông ta được Pháp sư người tham gia cùng. Nhà Giả kim thể trốn tránh cả hai người họ đâu.


      “Còn mấy đứa ?” Perenelle hỏi, đôi mắt nheo lại hiểm ác. Nếu có bất cứ việc gì xảy đến cho Nicholas hay hai đứa


      Những cái lông vũ của con nhân sư xù lên, bốc ra mùi chua chua. “Dee tin rằng mấy đứa giống người đó rất mạnh, có lẽ chúng đích thực là cặp song sinh huyền thoại. Ông ta cũng tin rằng có thể thuyết phục chúng nên phục vụ chúng tôi, hơn là theo lão già lang thang bán sách.” Con nhân sư rùng mình thở dài. “Nhưng nếu bọn chúng làm theo lời họ bảo, chúng chết bỏ mạng thôi.”


      “Còn tôi sao?”


      Cái miệng xinh đẹp của con nhân sư mở ngoác lồ lộ dã tâm với hàm răng nhọn hoắt, quẫy lung tung cái lưỡi dài đen ngòm trong khí. “Bà là của tôi, Nữ Phù thủy,” nó rít lên. “Các Elder tặng bà cho tôi như món quà vì phục vụ họ nhiều thiên niên kỷ nay. Khi chồng bà bị bắt và bị giết dã man rồi, tôi được phép ăn ký ức của bà. bữa tiệc hấp dẫn biết bao. Tôi định nhấm nháp cho tới miếng cuối cùng. Khi tôi ăn xong, bà còn nhớ gì nữa hết, thậm chí cả tên mình.” Con nhân sư bắt đầu cười ha hả, thanh rít lên, đầy vẻ nhạo báng, mạnh mẻ nảy bật lên khắp các bức tường đá trống trơn.


      Rồi tiếng cánh cửa xà lim đóng s


      thanh bất ngờ làm con nhân sư bàng hoàng im bặt. Cái đầu xíu của nó quay quanh, lưỡi nó đóng đưa, rà nếm khí.


      cánh cửa khác đóng sầm.


      Rồi lại cái khác.


      Và thêm các nữa.


      Con nhân sư quay vòng vòng, móng vuốt nó dộng xuống sàn tóe lửa. “Ai đó?” Tiếng thét chói tai của nó lan khắp mặt đá mốc meo.


      Đột nhiên, tất cả các xà lim trong hành lang bên rầm rập gấp rút mở ra đóng vào liên tục, thanh tiếng nổ rền rung chuyển tận trung tâm nhà tù, làm bụi từ trần rơi xuống như mưa.


      Gầm gừ, rít ré, con nhân sư nhảy chồm lên, tìm kiếm nguồn phát ra tiếng ồn đó.


      Với nụ cười băng giá, Perenelle ngoặt chân bà trở lại chiếc ghế dài, đặt lưng xuống và dựa đầu những ngón tay bị buộc. Hòn đảo Alcatraz này thuộc về Juan Manuel de Ayala, và có vẻ như ông ta thông báo diện của mình. Perenelle nghe tiếng những cánh xà lim vang rền, tiếng gỗ dộng thùm thụp, những bức tường lạch cạch và bà biết de Ayala trở thành gì: con tinh.


      hồn ma huyên náo.


      Bà cũng biết de Ayala làm gì. Con nhân sư hút kiệt năng lượng phép thuật của Perenelle; tất cả những gì con tinh đó phải làm là lôi kéo con vật rời khỏi xà lim lúc và năng lượng của có thể bắt đầu tái tạo. Nhấc bàn tay trái lên, người phụ nữ tập trung cao độ. tí xíu nước đá bé tẹo màu trắng nhảy nhót giữa các ngón tay bà, rồi xèo xèo biến mất.


      Chẳng mấy chốc nữa.


      Nhanh thôi.


      Nữ phù thủy nắm bàn tay lại thành nắm đấm. Khi năng lượng hồi phục, bà làm Alcatraz đổ sụp xuống cùng với con nhân sư.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :