39 Manh Mối - tập 4: Bước vào Cõi Tử - Jude Watson[Giả Tưởng]

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      39 Manh Mối - tập 4: Bước vào Cõi Tử - Jude Watson[Giả Tưởng]

      [​IMG]
      Tên : Bước vào Cõi tử
      Bộ Sách: 39 Manh Mối (tập 4)
      Nguyên tác: The 39 Clues #4: Beyond the Grave
      Tác giả: Jude Watson
      Thể loại: Best seller, Giả tưởng, Phiêu lưu, Trinh thám, Văn học phương Tây
      Dịch giả: Dương Thu
      Công ty phát hành: Phương Nam
      Nhà xuất bản: NXB Hội Nhà Văn
      Trọng lượng vận chuyển: 400 grams
      Kích thước: 14 x 20 cm
      Số trang: 192
      Ngày xuất bản: 10-2011
      Giá bìa: 74.000₫
      Nguồn: tve-4u.org
      Type+Làm ebook: thanhbt



      Giới Thiệu:
      The
      39 Clues - 39 Manh mối câu chuyện ly kỳ xung quanh việc khám phá và sở hữu sức mạnh tối thượng. Đó là câu chuyện về nhà Cahill, gia tộc quyền lực nhất thế giới với những cái tên lừng lẫy trong gia phả, từ nhà lập quốc Mỹ Benjamin Franklin đến nhạc sĩ thiên tài Mozart. Trong giả thiết pha trộn huyền thoại và những nghi vấn lịch sử, bộ sách đưa ra bí mật lớn nằm trong 39 manh mối rải rác khắp thế giới. Người nào sở hữu được tất cả 39 manh mối đó nắm được bí quyết sở hữu quyền lực tối thượng.
      NXB Scholastics tin tưởng giao nhiệm vụ soạn cốt truyện và viết tập đầu của The 39 Clues - 39 Manh mối cho Rick Riordan, nhà văn nổi tiếng khắp thế giới với tác phẩm Percy Jackson và các vị thần Olympia Các hùng đỉnh Olympus. Các tập sau do các nhà văn khác chấp bút.
      cùng The 39 Clues - 39 Manh mối là trò chơi trực tuyến cùng tên tại website chính thức www.39clues.com. Tại đây, người chơi sau khi đăng ký tài khoản, có thể tham gia trò chơi tìm kiếm 39 manh mối và nhận được rất nhiều giải thưởng có giá trị bằng tiền mặt và vật. trò chơi được áp dụng cho 9 quốc gia (chủ yếu là các nước có sử dụng tiếng ): Australia, Canada, Ấn Độ, Ai-len, Malaysia, New Zealand, Singapore, , Mỹ. số website địa phương cũng được thành lập dành cho các thị trường phát hành bản chuyển ngữ 39 clues, đó là Bulgaria, Phần Lan, Thụy Điển, Na Uy, Đan Mạch, Tây Ban Nha​
      THÔNG ĐIỆP TỪ CÕI CHẾT

      Bị chính những người họ hàng phảm bội,bị người chú họ bỏ rơi, và với dấu vết mong manh có được, Amy Caill 14 tuổi và cậu em trai, Dan, vội vã bay sang Ai Cập để săn lùng 39 Manh Mối - thứ giúp chúng sở hữu được thứ quyền lực vô biên. Nhưng khi tới nơi, Amy và Dan nhận được thứ hoàn toàn bất ngờ: thông điệp từ Gace - người bà quá cố của chúng. Phải chăng Gace lên kế hoạch để giúp hai đứa bé mồ côi... hay Amy và Dan lại rơi vào phản bội khác mà lần này còn khủng khiếp hơn trước?
      The 39 Clues - 39 Manh mối gồm các tập:​
      - Tập 1: Mê Cung Xương
      - Tập 2: Bí Mật của Mozart
      - Tập 3: Kẻ đánh cắp Thanh Gươm
      - Tập 4: Bước vào Cõi tử
      - Tập 5: Vòng tròn tuyệt mật
      - Tập 6: Trong vùng Nước Ngầm
      - Tập 7: The Viper's Nest
      - Tập 8: The Emperor's Code
      - Tập 9: Storm Warning
      - Tập 10: Into The Gauntlet
      - Tập 11: Vespers Rising

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 1


      NẾU AMY CAHILL phải lập danh sách liệt kê ra tất cả những điều khó chịu ở những thằng em trai mười tuổi numero uno[1] chính là thói lặn mất tăm.


      [1] “Thứ nhất”, tiếng Ý.


      Hay trước tiên có khi chính là diện của bọn chúng đời này.


      Và tiếp theo đó là lốc những tội danh khác của chúng...


      Amy đứng ngay giữa chợ Khan el-Khalili, thành phố Cairo, điên cuồng xoay dọc liếc ngang để tìm kiếm Dan, thằng em nó. Cảm giác lơ mơ sau chuyến bay dài cũng xâm lấn vào chức năng não bộ thông thường của con bé. Chỉ mới đây thôi, thằng nhóc còn ở bên cạnh chị nó. Rồi khi Amy quay trong đúng hai giây để mua chiếc bút chì có hình nữ hoàng Ai Cập Nefertiti, và khi quay lại, nó biến mất.


      khí đặc kịt cái nóng, tiếng nhạc và tiếng chào hàng í ới. Các biểu ngữ rực rỡ phấp phới phía đầu. Du khách tấp nập len lỏi qua lại các con đường, balô đeo trước ngực để phòng hờ nguy cơ bị móc túi và cứ vài phút lại dừng bước để chụp ảnh lần. người phụ nữ đội khăn trùm đầu luồn lách qua hàng ghế màu ngọc lam để đuổi theo hai thằng bé. người đàn ông giữ thăng bằng chiếc giỏ đựng đầy cam đầu chỉ bằng tay. Rồi nữ du khách đội mũ lưỡi trai mặc chiếc áo thun có dòng chữ TÔI MUỐN XÁC ƯỚP ngang qua Amy, với chiếc máy ảnh giơ lăm lăm trước mặt.


      Amy cảm thấy hơi nóng như từng đợt sóng phả vào da mình. Con bé chỉ mong sao nó bị ngất . Màu sắc túa ra khắp mọi nơi, những khuôn mặt nhòe , những tiếng động lạ lẫm cứ dộng vào tai nó. Chưa bao giờ Amy thích đám đông, và Cairo dường như lại chính là nơi sản sinh ra cái món đáng ghét đó.


      Con bé ngoảnh đầu lại, tay đặt lên chiếc túi đeo hông. Nàng au pair Nellie Gomez bận mặc cả mấy thứ gia vị dưới con hẻm. Amy chỉ nhìn thấy thấp thoáng mái tóc nửa vàng nửa đen điên khùng của nàng.


      Chỉ chưa đầy giờ trước, ba người bọn họ hãy còn ở trong taxi từ sân bay vào thủ đô Cairo. Rồi khi tay tài xế tình cờ chỉ ra ngoài cửa sổ và , “Chợ Khan[2] bắt đầu từ đây, chỗ lắm đấy,” Nellie bất ngờ la lên, “Dừng xe lại!” Trước khi kịp hiểu điều gì xảy ra, họ tấp vào chợ với đống hành lý và chiếc lồng mèo trong tay.Con Saladin phản đối dữ dội còn Nellie hứa hẹn, “Chỉ mười phút thôi, chị chỉ cần mười phút, rồi mình thẳng đến khách sạn nhé... Tuyệt! Bạch đậu khấu kìa!” Với Nellie, mọi thành phố mới chẳng qua chỉ là dịp khác để thưởng thức các món ăn quái đản mà thôi.


      [2] Tức Khan el-Khalili, trung tâm mua sắm nổi tiếng tại thủ đô Cairo, Ai Cập, đặc biệt thu hút khách du lịch đến tham quan.


      Cuối cùng, Amy cũng tìm thấy Dan giữa đám đông. Nó dán mắt vào ô cửa sổ của cửa hiệu đầy ắp các món đồ lưu niệm. Con bé có cảm giác thằng em nó bị chiếc gọt bút chì hình vua Tutankhamun[3] mê hoặc, nhưng chừng nó bị thu hút bởi chiếc đèn pin có hình xác ướp.


      [3] Tutankhamun còn được gọi tắt là Vua Tut (1343 TCN - 1325 TCN) là pharaoh của Ai Cập cổ đại. Theo ước tính, Tutankhamun trị vì từ năm 1334 đến 1325 TCN.


      Trong lúc Amy băng qua con hẻm, Dan lại thoắt thoắt giữa dòng người ngoằn ngoèo di chuyển ngược xuôi. Mặt trời nóng đến ngột ngạt. Con bé chỉ mong tới đây nó được ở nơi có máy điều hòa nhiệt độ.


      Bà khách mặc áo TÔI MUỐN XÁC ƯỚP sà lại gần chỗ Dan. Bà ta đẩy cặp kính râm màu trắng xuống sống mũi. Có hồi chuông cảnh báo khẽ vang lên trong đầu Amy. người đội nón rơm chặn mất tầm nhìn của nó, nên Amy tránh sang bên.


      Bà khách chợt quặp đốt đầu tiên của ngón tay đeo nhẫn như thể bị chuột rút. Mặt trời chói chang làm lóe lên thứ gì đó nhô ra khỏi móng tay của bà ta.


      “Dan!” Amy thét to. Tiếng thét bị tiếng nhạc và tiếng rao hàng - giá năm đô, chỉ có năm đô! - nhấn chìm nghỉm. Con bé phóng qua người đàn ông giữ thăng bằng đầu cả tá trái bóng màu phát quang đựng trong chiếc lưới.


      Mũi kim nằm dưới da nhô ra khỏi ngón tay bà ta tựa như móng vuốt. Dan chồm người sát hơn nữa vào cửa sổ...


      “Dan!” Amy thét gọi tên thằng em lớn. Nhưng từ ngữ chỉ vang lên trong đầu con bé. Tiếng thét phát ra bị nghẹn cứng như thanh người hấp hối vì bị siết cổ.


      Amy lao thẳng về phía trước. Ngay ở giây cuối cùng, con bé kịp vung tay lên. Mũi kim cắm phập vào cây bút chì Nefertiti và kẹt lại trong đó.


      Trong tích tắc ngắn ngủi, tất cả những gì Amy có thể làm là nhìn chằm chằm vào ánh sáng lóe lên mẩu kim loại kia. giọt chất lỏng chết người chầm chậm rỏ ra từ đầu kim và mất hút vào mặt đất bụi bặm.


      Amy nhìn thẳng vào mặt Irina Spasky. Cựu nhân viên tình báo KGB. Điệp viên. Người họ hàng của nó.


      Mắt trái của Irina giật giật. “Blin[4]!” Ả co bàn tay lại, nhưng cây kim vẫn còn kẹt vào chiếc bút chì.


      [4] từ chửi thề bằng tiếng Nga.


      Chủ cửa hiệu hối hả chạy ra. “Hỡi quý xinh đẹp, cái đó rất hợp với quý đấy. Này, tôi còn rất nhiều bút chì dành cho quý nữa đây!”


      Irina sửng cồ lên với người bán hàng. “Ta chẳng muốn ba cái thứ bút chì lòe loẹt của lão đâu, đúng là đồ bán hàng tào lao!”


      Amy và Dan chẳng đợi đến giây thứ hai. Dan băng qua đám đông tựa như trung vệ bóng chày, còn Amy chạy sát theo sau nó.


      Những đôi chân guồng hết tốc lực, cả hai chạy thục mạng đến mức phổi của chúng như bốc cháy, băng qua mê cung chằng chịt những con hẻm ngoằn ngoèo. Cuối cùng, tụi nó ngừng chạy, gập người về phía trước và cố thở lấy hơi. Lúc ngẩng đầu lên, Amy biết rằng chúng lạc. Lạc cách tệ hại, ngu ngốc, thể nào tha thứ được.


      “Nellie tìm chúng ta,” Amy . Con bé bật nắp chiếc di động. “ có sóng ở đây. phải tìm cách quay lại thôi.”


      “Và hy vọng hai đứa mình tông vào đồng chí Irina,” Dan . “Em có thể bỏ qua cái màn đoàn tụ gia đình đó.”


      Đến thời điểm này, cả hai bắt đầu quen với việc gặp gỡ các thành viên trong gia đình mà trong đầu họ chất đầy tư tưởng phá hoại. Chỉ cách đây vài tuần thôi, chị em nó lao đao trước cái chết của bà ngoại. Sau khi cha mẹ chúng mất, Grace trở thành người quan trọng nhất trong đời của hai đứa trẻ. Dù sống cùng với bà, nhưng cứ mỗi cuối tuần tụi nó vẫn thường đến trang viên của bà ở ngoại ô Boston, và Grace thường dắt chúng theo các chuyến du ngoạn trong năm học cũng như những mùa hè. Cái chết của bà do bệnh ung thư khiến cả hai thấy đau buồn vô hạn.


      Nhưng đó chỉ mới là cú sốc đầu tiên trong số rất nhiều cú sốc khác xảy đến sau đó.


      Grace mời tất cả bốn chi tộc của dòng họ Cahill đến dự buổi đọc chúc thư của bà. Xuất đoạn băng video, Grace cho bọn họ lựa chọn. Hoặc nhận triệu đôla và bước ra khỏi căn phòng cách vô , hoặc là tham gia vào cuộc truy lùng 39 manh mối để trở thành nhân vật quyền uy nhất thế gian. Mặc dù triệu đôla dường như đề nghị quá hấp dẫn, hai chị em nó lại chẳng có lấy chút phân vân để chối từ. Chúng biết Grace muốn tụi nó chấp nhận cuộc thử thách này. Với Grace, hề có cái gọi là phương án dễ dàng.


      Quyết định ấy dễ đấy. Nhưng thực nó mới trần ai. Những ngày tháng trước kia, Amy chỉ nghĩ chơi cho thắng, chỉ là làm sao để cho con bạn Courtney Catowski nện quả bóng chuyền vào đầu nó. Giờ biết cuộc tranh đua là thế nào. Những người họ hàng như Irina chẳng hề biết từ thủ đoạn nào để đạt được mục đích. Nếu buộc phải ra tay, ả sẵn sàng đánh thuốc độc, bắt cóc, thậm chí là giết chết chúng nó.


      Cả hai lại bước tiếp. Amy thấy dường như tụi nó vòng tròn. Như trong giấc mơ, ta cứ chạy và chạy mãi nhưng chẳng đến được đâu. Hôm trước, con bé hãy còn ở Seoul, Hàn Quốc. Trước đó nữa, là Tokyo và Venice. Là Vienna và Salzburg của Áo. Là Paris. Là Philadelphia. Thậm chí còn hạ cánh xuống sân bay tư nhân đất Nga.


      Chưa bao giờ Amy lại có nhiều


      Chưa bao giờ nó hình dung ra mình sợ hãi đến vậy.


      Cũng chưa bao giờ nó hình dung ra mình quả cảm như thế này.


      Mới vài hôm trước khi còn ở Seoul, sém chút nữa hai chị em chúng bị chôn sống. Bị bỏ rơi cho đến chết bởi chính những con người mà tụi nó tin tưởng. Hai đứa Natalie và Ian Kabra... con bé nghĩ về thằng đó nữa. nhớ lại cách thằng nhóc ôm nó trong tay và rằng hai đứa làm thành liên minh tuyệt vời. Liên minh ấy chỉ tồn tại trong vài giờ đồng hồ, đến khi thằng nhóc tìm thấy cơ hội để bỏ nó lại cho đến chết.


      . . Nghĩ. Về. Ian. Nữa.


      Rồi chúng cũng phát ra rằng thành viên duy nhất trong gia đình mà tụi nó gần-như-là-tin-tưởng, ông chú Alistair Oh, cũng lừa chúng. Alistair giả vờ là chết, trong khi ràng lão vẫn còn sống.


      Điều khiến hai đứa trẻ hối hả vượt phận quốc tế để đến Cairo chỉ là manh mối, hơn. Nhưng chúng cũng quen với việc bám lấy các manh mối và tự xoay xở với những gì mình có. Lần này, đó là hình kim tự tháp và từ. Từ “Sakhet”. Nữ thần đầu sư tử của người Ai Cập. Trước khi rời khỏi Hàn Quốc, Amy tậu vài quyển sách để tìm hiểu về bà ấy, nhưng con bé vẫn chưa biết vì sao chúng lại bị trời xui đất khiến mò đến nơi này... hay chính xác chúng phải tìm kiếm cái gì.


      Amy cảm thấy mồ hôi như tuôn ra thành sông dưới chiếc áo thun. Nhiệt độ bên ngoài lên đến hơn 30oC. Tóc nó bết chặt vào sau gáy. Con bé lại nghĩ về Ian, kẻ luôn luôn có bộ dạng rất ư là bảnh bao cho dù trong bất kỳ tình huống nào.


      . . Nghĩ. Về. Ian. Nữa.


      bản hợp quay cuồng, chát chúa, lạ lẫm của tiếng còi xe, tiếng la hét í ới, tiếng chuông điện thoại, và có ai đó hét lên to, “ nhanh lên, đồ lề mề!”


      Chà. Giọng đó xa lạ lắm. Chính là tiếng của Dan


      “Điệp viên nước Nga ở bên kia đường và tìm kiếm mục tiêu đó.” Nó rít lên.


      Irina vẫn chưa trông thấy chúng. Ả ta mải mê truy tìm dấu vết của chúng. Irina lảng vảng ở phía bên kia đường, mắt ngó lom lom vào các ô cửa sổ của mấy cửa hiệu.


      Amy lôi Dan vào quán cà phê. Nhiều người đàn ông ngồi uống trà, rầm rì chuyện hoặc đọc báo. Du khách ngồi đọc cẩm nang du lịch bên cạnh những ly nước ép. Khi Amy cố chen qua họ, chiếc balô kềnh càng của con bé quệt vào quý ông vạm vỡ nhâm nhi cốc trà bạc hà. Trà đổ hết vào bộ áo vest trắng tinh của ông.


      Tất cả mọi con mắt đều đổ dồn về phía Amy. Tiếng lạch tạch của ván cờ thỏ cáo dang dở cũng khựng lại. Con bé cảm giác mặt mình đỏ bừng lên. Amy rất ghét trở thành tâm điểm của chú ý, và nhất là khi vừa làm việc gì đó vụng về.


      “X-x-in lỗi!” Amy lắp bắp. Cứ hễ căng thẳng là Amy lại mắc tật cà lăm như vậy, và con bé ghét cay ghét đắng điều này. Amy cố thu dọn chỗ ly nước vừa đổ.


      sao đâu, bé , đừng bận tâm.” Ông khách cười hiền hòa với Amy và vẫy tay gọi người phục vụ. “Chỉ là trà thôi mà.”


      các bức tường, mấy tấm gương cổ nặng nề phản chiếu tất cả những gì xảy ra. Amy nhìn thấy khuôn mặt đỏ bừng và đôi tay run lẩy bẩy của chính mình, cả những cặp mắt của những kẻ quan sát... và cánh cửa tiệm mở toang. Ngay cả bộ đồ du lịch và cặp kính mát viền nhựa trắng cũng sao che giấu được cái dáng như đánh trận của Irina khi tiến vào quán, như thể ả dò xét từng người xem có sai phạm gì .


      Và đúng boong ba giây sau đó, cái nhìn của ả chiếu tướng hai chị em nó.





      CHƯƠNG 2


      NGƯỜI ĐÀN ÔNG TO BÉO ĐỨNG DẬY trong chốc lát che chắn cho cả hai đứa. Dan chộp ngay lấy cơ hội đó. Nó lẻn ra đằng sau tấm màn dày, lôi Amy theo.


      Cả hai nhận thấy tụi nó đứng trong hành lang dẫn tới cánh cửa ở chái nhà. Chúng bèn lủi ngay ra ngoài.


      Giờ hai đứa ở trong con hẻm thậm chí còn bé hơn, khúc khuỷu uốn lượn phía sau các cửa hiệu. Chúng biết rằng Irina chẳng mấy chốc xuất . Chị em nó lách khỏi chiếc xe bò chất các giỏ hành thành đống cao ngất và khiến cho người yên ngủ dưới ánh mặt trời bị đánh thức dậy. Khi nhìn thấy cửa hậu của cửa hiệu, chúng lao nhanh qua đó và lọt ngay vào nhà kho. nơi tối om và đầy bụi bặm, Dan bắt đầu thấy khó thở.


      “Dùng ống hít ,” Amy nhắc nó.


      “Nó... nằm... trong túi xách tay... của Nellie,” Dan khò khè bật ra từng từ . Nó ghét cái cảm giác này. Như thể có ai đó xoắn hai lá phổi của nó lại. Và điều đó lại hay xảy ra đúng vào những thời điểm tồi tệ nhất.


      “Đúng lúc quá nhỉ. nào.”


      Amy vội vã dắt Dan ra khỏi nhà kho bụi bặm, vào trong cửa hiệu. Nơi đây sáng sủa, thông thoáng, với những bộ áo của vũ công múa bụng sặc sỡ được treo lên trần nhà.


      “Xin chào quý khách! Hai cậu tìm mấy bộ đồ vía đúng ? Tôi để giá hời cho!”


      phải màu tôi thích! Nhưng dù sao cũng cám ơn ông!” Dan vừa chạy vừa trả lời ông ta.


      Xuống con đường ngoằn ngoèo nữa, rồi lại con đường khác. Cuối cùng, Amy ra hiệu dừng lại.


      “Ta cắt đuôi mụ ta rồi.”


      “Tạm thời lúc này thôi.” Dan chộp lấy khuỷu tay chị nó. “Amy, nhìn kìa.”


      Cách đó chỉ vài thước, cả hai thấy biển hiệu: S A K H E T


      bức tượng đứng trơ trọi bên trong cửa kính trang trí bằng tấm rèm đỏ nhìn rất cải lương. Được làm từ đá xanh với chiếc đầu sư tử, bức tượng đứng thẳng đầy kiêu hãnh.


      Dan và Amy đưa mắt nhìn nhau. lời, cả hai xông ngay vào bên trong cửa hiệu.


      Chúng bước thẳng mạch đến bên tượng thần Sakhet. ràng nó rất cũ kỹ. Bề mặt tượng mòn lẳn và tai sư tử bị mẻ.


      Ông chủ cửa hiệu gầy nhẳng, mặc quần tây đen áo trắng, bộ dạng xởi lởi, ào đến chỗ chúng. “Quý khách thích món hàng đó phải ? Bức tượng này rất đẹp. Hàng xịn, phải đồ nhái đâu. Trước kia là của chính Napoleon[1] đấy,” ông ta liến thoắng. “Cả hai có con mắt tinh tường.”


      [1] Napoléon Bonaparte, 1789-1821, tướng của Cách mạng Pháp, về sau trở thành nhà cai trị nước Pháp. Ông được biết đến như trong những nhà lãnh đạo quân vĩ đại nhất thế giới, chinh phục rất nhiều vùng đất ở châu Âu.


      “Napoleon? Chẳng phải đó là tên món bánh của Ý sao?” Dan thắc mắc. “Loại có nhân mềm và dinh dính ấy?”


      Amy trợn tròn mắt. “Em mới là cái đồ mềm - mà mềm não đó. Napoleon là hoàng đế nước Pháp. Nhớ ra chưa, ông chính là người chinh phục cả thế giới đó? Ta thấy ảnh của ông trong căn cứ chi tộc Lucian khi còn ở Paris đấy! Ông ấy cũng là người dòng họ Cahill. trong những tổ tiên của chúng ta.”


      Chi tộc Lucian của dòng họ Cahill sở hữu bản năng chiến lược phi thường. Tất nhiên quyền lực của họ sau này rúm ró trở thành những trò vặt bẩn thỉu của hai em Ian và Natalie Kabra, và cả ả người Nga điên khùng Irina Spasky.


      “Nếu ông ấy chọn bức tượng Sakhet này có thể nó cũng quan trọng nhỉ?” Dan .


      dễ dàng thế đâu,” Amy trả lời.


      “Tại sao chứ, trong khi mọi thứ khác đều quá phức tạp?” Dan lý .


      Ông chủ cửa hiệu cao giọng, cố lôi cả hai trở lại cuộc mặc cả. “Tôi thấy hai cậu thích nó. Đúng như thế, Napoleon có rất nhiều kho báu. số được mang về Pháp, số khác còn nằm lại đây.” Ông chạm tay vào bức tượng và vuốt ve nó. “Cha mẹ của hai cậu có cùng ? Tôi để lại cho cậu với giá tốt nhất. Tôi là chủ cửa hiệu cao cấp ở Cairo này.”


      đâu, cám ơn ông.” Dan trả lời. Khi còn ở Mỹ, nó nhà sưu tầm. Nó thừa biết cách mặc cả tốt nhất đó là giả vờ rằng mình chẳng thèm quan tâm. “Thôi nào, Amy. Mình hãy tìm tiếp . Nhưng tại sao Napoleon lại có mấy thứ này ở Ai Cập chứ?”


      “Napoleon xâm lược Ai Cập năm 1798,” Amy giải thích.


      “Chà, trẻ này rành lịch sử đây. Tôi cảm thấy tự hào biết bao nếu bức tượng này nằm trong đôi tay tuyệt vời của ấy. Gửi .” Ông ta trao bức tượng cho Amy.


      Cảm giác lạ khi chạm tay vào món gì đó quá cổ xưa. thứ mà chính Napoleon từng chạm tay vào. Rất đỗi thường xuyên, Amy cảm thấy run lên vì vui sướng trước ý nghĩ về mối liên hệ máu mủ của mình như sợi dây gắn với hàng loạt những cá nhân kiệt xuất. Napoleon chẳng hạn!


      “Giá chỉ hai ngàn thôi,” ông tiếp.


      Amy nhảy dựng lên. “Hai ngàn đô ư?”


      “Với đây chỉ ngàn rưỡi thôi. Có người ở bảo tàng Cairo để mắt đến bức tượng và ông ấy quay lại đây vào lúc bốn giờ.”


      “Tôi chả tin đâu, Abdul.”


      Amy ngoảnh lại. Nó thấy người cao dỏng, tóc vàng xem hàng ở góc bên kia cửa hiệu. Nó nhận ra khi chàng này tiến đến gần. ta chừng ngoài hai mươi. Mặc áo thun, quần soóc kaki, mang xăng đan. Đôi mắt màu xanh lá sống động nổi bật làn da rám nắng.


      “Trừ phi cái tay đó tìm món trang sức rẻ tiền để trang trí cho móc chìa khóa của ,” ta bằng giọng .


      ta lấy bức tượng Sakhet khỏi tay Amy. “Tôi đoán niên đại của nó... có lẽ là từ năm 2007, phải ?”


      “Cậu Theo ạ, là cậu lầm rồi,” ông chủ cửa hiệu cười miễn cưỡng. “Đây là đồ , tôi cam đoan với cậu.”


      “Dẹp vụ bảo đảm sang bên, tôi cho rằng ông cố dụ dỗ hai cậu trẻ tuổi này vào chuyến tàu cổ vật dỏm tốc hành,” chàng có tên Theo tiếp.


      “Ông ấy là Napoleon từng sở hữu nó,” Dan .


      “Có lẽ đúng đấy,” Theo đáp. “Joe Napoleon dưới phố là chủ nhà hàng Ý rất hoành tráng.”


      “Em với chị Napoleon là người Ý mà,” Dan với Amy, giọng kẻ cả.


      ra ông ấy sinh ở đảo Corsica[2],” Theo giải thích. “Hai nhóc muốn xem hết cửa hiệu này ?”


      [2] Hoàng đế Napoleon dù là vua nước Pháp nhưng lại là người gốc Ý. Ông sinh tại đảo Corsica, nằm giữa Pháp và Ý.


      cần đâu,” Abdul vội vã . “Tôi thấy mình có cái mà hai cậu muốn. Có lẽ mọi người tìm thấy nó ở quầy bên cạnh. Còn bây giờ đến giờ tôi dùng trà, do đó...”


      Theo bước nhanh qua ông ta, kéo tấm màn dày sang bên. chiếc bàn dài, có nhiều người thợ hì hụi làm việc. Amy nhón chân lên để nhìn ông chủ ra sức ngăn con bé lại. Đám thợ dùng bàn chải sắt và giấy nhám để kỳ cọ loạt các bức tượng giống như tượng thần Sakhet. Họ chà nhám và chải bằng bàn chải để chúng trông như cũ.


      Abdul nhún vai. “Thôi mà, cũng là vì kế sinh nhai thôi.”


      “Chả hại gì ai cả,” Theo thêm.


      Vừa lúc đó, Dan chộp ngay lấy cánh tay Amy. Irina quan sát chúng qua ô cửa sổ, mắt sa sầm lại.


      Theo để ý thấy cảnh giác của tụi nó. “Là ai đó? Mẹ của hai nhóc ư?


      “Chỉ là người theo đoàn. Bà ấy cực kỳ kỳ cục,” Amy trả lời.


      “Lúc nào bà ta cũng bám theo tụi em,” Dan tiếp lời. “Có đường nào khác để ra khỏi đây ạ?”


      “Có điều mà hai em nên biết về tôi đây,” Theo . “Tôi luôn biết đường thoát.”


      Tiếng chuông đồng ngoài cửa reo lên cũng là lúc cả ba lao qua tấm màn che tìm đường tẩu thoát.


      Lần này dễ dàng hơn. Hai chị em nó chỉ phải theo Theo. chàng di chuyển nhanh nhẹn và thuần thục qua mê cung hẻm bé xíu. Cuối cùng, cả ba dừng lại nghỉ chân ở cổng vòm dẫn vào khu chợ.


      “Tôi nghĩ cả hai giờ an toàn,” Theo . “Tôi kêu chiếc taxi chở hai em về khách sạn nhé?”


      “Chúng em lạc mất chị au pair rồi,” Dan . “Chúng em phải tìm chị ấy. Cơ mà ta ở đâu thế này?”


      “Hãy quay lại nơi xuất phát nào. Hai đứa em rời khỏi chị au pair ở đâu?”


      Amy cau mày. “Ở cạnh nơi bán gia vị phải nhỉ?”


      “Okê, như thế cũng phần nào dễ hình dung hơn. Tụi em còn nhớ gì khác ?”


      Dan nhắm mắt. “ tấm biển màu vàng có viết chữ Ả Rập màu nâu sẫm. Ba hàng giỏ gia vị, các loại quả hạch nằm trong đám xô màu xanh lá. Chủ cửa hiệu có râu quai nón và nốt ruồi bên má trái. Cửa hiệu ở kế bên bán trái cây, chủ là tay gầy tong teo đội nón đỏ, miệng cứ la toáng lên, “Lựu đây, lựu đây!”


      Theo nhướng mày ngạc nhiên nhìn Amy. “Lúc nào thằng bé cũng như thế này sao?”


      “Vâng, 24 24 giờ ạ.”


      Cả hai tiếp tục cùng Theo qua chợ, nhưng vẫn cảnh giác Irina.


      là người ở đây à?” Amy hỏi lúc họ len lỏi qua đám đông.


      “Sang học đại học, nhưng quay về và ở luôn từ đó cho đến nay.”


      “Hẳn là thông thạo hết mọi đường sá quanh đây nhỉ?” Amy thăm dò.


      “Lúc trước, tôi là hướng dẫn viên du lịch,” Theo đáp. mỉm cười với Amy, và bất giác con bé nhận ra chàng này rất chi là ưa nhìn.


      Nellie với cơn giận bốc khói nghi ngút chờ bên ngoài quầy bán gia vị chỗ hai đứa bỏ . Chiếc túi lưới lèn đầy các gói gia vị treo tòn ten cổ tay nàng. Túi vải của Dan nằm ở dưới chân Nellie, và túi của nàng cộng thêm túi nylon khổng lồ mượn của lão Alistair chất lên cùng. Con Saladin meo meo bức bối ở trong lồng. Nellie sừng sộ lao đến chỗ tụi nó.


      “Hai đứa đâu thế hả? Chị nghĩ hai đứa bị bắt cóc mất rồi chớ!” Bất chợt, Nellie trông thấy Theo. nàng “phanh” miệng ngay tắp lự, đưa mắt ngắm chàng hồi lâu, từ mái tóc vàng óng đầu cho đến các ngón chân ăn nắng. “Ơ..., x-xin chào Indiana Jones[3],” nàng thốt lên, nghe như thể tiếng con Saladin mỗi khi phát ra miếng phi lê cá hồng trong bát thức ăn của nó.


      Từ lúc bị hai đứa bỏ lại, Nellie chỉ còn biết lao vào công cuộc mua và sắm. Choàng ra bên chiếc áo thun đen nàng mặc là tấm vải mỏng thơm mùi oải hương quấn quanh người, làm thành chiếc áo tunic[4]. Phấn kohl[5] màu đen viền quanh mắt, với nhiều sợi cườm quấn quanh cánh tay , từ cổ tay lên đến khuỷu tay. Mi mắt nàng cũng được trét màu vàng. Nellie trông như vừa thoát khỏi động hip hop.


      “Ôi, xin chào Mary Poppins[6],” chàng đáp bằng cái cười toe toét.


      [3] Nhân vật chính, là tiến sĩ khảo cổ học, trong series phim phiêu lưu hành động ăn khách của Mỹ.


      [4] loại áo dài thắt ngang lưng có ống tay, trùm đến tận đầu gối và đôi khi kèm theo dây lưng như trang phục của người Hy Lạpa Mã cổ.


      [5] Loại phấn kẻ mắt của người Ả Rập.


      [6] Nhân vật chính trong bộ sách “Mary Poppins của tác giả Mary Travers, có phép thuật và là vú nuôi.


      “Trúng phoóc đó. Tôi trăm phần trăm hợp với cái tên ấy,” Nellie đáp, chìa tay ra cho Theo. “Tôi là Nellie Gomez.”


      “Tôi là Theo Cotter.”


      Dan tròn mắt ngạc nhiên khi thấy tay Nellie nằm lại trong tay Theo lâu hơn cái bắt tay thông thường. Có phải Nellie tình thẹn thùng nhỉ? Nó cho là nàng biết chữ thẹn viết ra sao.


      Theo giúp chúng em khỏi phải mua món cổ vật vô giá trị vừa mới được chế tác từ hôm qua,” Amy .


      Theo nhún vai. “Rủi thay, hai đứa em lọt vào trong những cái bẫy tệ hại nhất dành cho du khách quanh đây. Tôi có thể dẫn mọi người đến những nơi đáng tin hơn nếu thích,” chàng đáp, mắt vẫn dán vào Nellie.


      “Vậy quá tuyệt,” Nellie thốt lên, cứ như là Theo vừa đề nghị dẫn nàng xem các bí mật của vũ trụ bằng.


      “Em nghĩ ta nên về khách sạn,” Amy . Theo có vẻ vô hại đấy, nhưng vì sao chúng nên tin tưởng ta chứ? Hơn nữa, cả ba người bọn họ cũng có thời gian để mà phung phí. Trước khi rời Seoul, họ tìm thấy thẻ khách thường xuyên trong phòng ngủ của Alistair. Dan nhét chiếc thẻ vào túi quần và họ dùng nó để đặt phòng ở khách sạn có tên là Excelsior. Amy rất muốn nhận phòng để con bé có thời gian tính toán đường nước bước tiếp theo. Tất cả mọi chuyện diễn ra quá nhanh.


      Theo xách giúp Nellie mấy chiếc túi. “Em ấn tượng về Napoleon phải ?” chàng với Amy. “Em có biết khi sang xâ Ai Cập, ông ta cũng mang theo những học giả, những nhà khảo cổ học và cả nghệ sĩ để nghiên cứu về đất nước này ?”


      Ái chà, như thế chẳng phải rất là Lucian hay sao, Dan thầm nghĩ.


      “Ngôi nhà nơi trước đây các học giả sống nay là viện bảo tàng. Tôi có quen người giám tuyển[7] ở đó.”


      [7] Curator, tiếng , là người quản lý và đứng ra tổ chức các triển lãm, thường thiên về nghệ thuật.


      Ái chà, Dan nghĩ. Chị nó chỉ cần nghe được chữ bảo tàng là bắt đầu thèm dãi. Làm thế chẳng khác nào dư dứ trước mặt con bé chiếc bánh sôcôla hạnh nhân với suất đúp kem vậy.


      “Nó ở gần đây ạ?” Amy háo hức hỏi. Có lẽ nó nên nghĩ lại. Nếu như ngôi nhà ấy vẫn còn, biết đâu chúng tìm thấy thứ gì đó có thể dẫn đến manh mối.


      “Ở Cairo này chẳng có nơi nào là quá xa cả,” Theo đáp. “Đó là tòa nhà Sennari. Ở ngay đường Haret Monge.”


      “Phải rồi. Chúng em biết mà,” Dan .


      “Thế nhé, tôi đón chiếc taxi.”


      Theo quay người và dẫn cả ba đến con phố trung tâm đông đúc. Nếu con phố rộng rinh này có các làn đường Dan cũng sao nhìn thấy chúng được. Xe cộ cứ chen lúc nhúc vào các khoảng bé xíu, cắt ngang đầu các xe tải chở hàng, hoặc tăng tốc vọt nhanh khi có đèn đỏ, bám sát theo đuôi xe buýt, tất cả làm thành bản giao hưởng của tiếng còi xe và tiếng la hét. Amy, Dan và Nellie đưa mắt nhìn nhau. Họ tưởng tượng được làm thế nào để tìm chiếc taxi ngay giữa cái đám bát nháo này.


      Theo điềm tĩnh bước ra ngoài đường, giơ tay lên, và thế là chiếc taxi tấp ngay vào lề.


      “Hai đứa thấy chưa?” Nellie ngạc nhiên. “ chàng này đích thị là Indiana Jones.”





      CHƯƠNG 3


      KHI HỌ ĐẶT CHÂN ĐẾN TÒA NHÀ SENNARI, Theo quẳng nắm tiền giấy cho tay tài xế và vài từ bằng tiếng Ả Rập. “Baksheesh,” người tài xế với chúng.


      “Gesundheit[1],” Dan .


      [1] “Chúc ông sức khỏe”, tiếng Đức.


      Theo cười toe toét. “ phải, Baksheesh nghĩa là tiền boa. Giờ ông ta chờ chúng ta.”


      Theo lên phía trước sánh bước cùng Nellie, còn Dan quay sang Amy.


      phải em hào hứng với cái vụ lại tiếp tục lê chân vào bảo tàng, nhưng mà mình kiếm gì vậy?”


      “Chị cũng biết,” Amy thừa nhận.


      liên hệ với Napoleon dường như hơi bị... ừm... phiêu đấy nhỉ!”


      “Chị hiểu. Nó ràng cho lắm. Nhưng chúng ta cũng chẳng có gì nhiều để xem xét hồi ở Philadelphia, Paris, Vienna, Salzburg, Venice, Tokyo và cả ở Seoul nữa. Thế mà chúng ta vẫn cố xoay xở tìm ra các manh mối đấy thôi. Hai đứa mình đều biết Napoleon là Lucian. Chúng ta cho rằng ở Ai Cập manh mối. Do vậy nếu ông ấy tìm ra nó, hay tìm thấy cái gì đó, hẳn là ông ấy để lại đây gợi ý nào đó cho những người nhà Lucian khác.” color="black">

      rất hay ho nếu cuỗm cái gì đó ngay trước mũi đồng chí Irina đấy,” Dan khẳng định.


      Theo nằng nặc đòi mua vé cho cả nhóm. Họ qua cánh cửa dẫn vào khoảnh sân. Những cây chà là và những bụi cây nở hoa đỏ dù tạo ra đủ bóng râm vẫn cho ta cảm giác mát mẻ. Ngay ở chính giữa sân là đài phun nước.


      “Tòa nhà Sennari được xây năm 1794,” Theo thuyết minh cho mọi người. “Đây là điển hình cho kiến trúc xây dựng Hồi giáo bản địa, được xây xung quanh khoảnh sân ở trung tâm, gọi là sahn. Tôi tin rằng nơi đây có trong những cửa sổ mashrabeya đẹp vào bậc nhất Cairo.”


      “Đó chính là các tấm gỗ điêu khắc cửa sổ,” Amy chỉ tay giải thích.


      “Chính các học giả của Napoleon khai sinh ra ngành Ai Cập học ở phương Tây,” Theo tiếp tục. “Khi các công trình của họ được công bố, nó tạo ra cơn sốt khắp châu Âu về tất cả những thứ của người Ai Cập.”


      là thú vị,” Nellie .


      “Em cũng hồi hộp đây nè,” Dan chen vào. Nellie giẫm ngay lên chân nó.


      “Ngày trước họ tổ chức triển lãm cố định bộ sưu tập của Napoleon, nhưng đến năm 1926 họ dọn ,” Theo tiếp. “Tòa nhà được cải tạo vào những năm 1990. nay ở đây người ta vẫn còn lưu giữ nhiều vật dệt và gốm sứ.”


      Dan nắm vạt áo Amy khiến con bé thể bám theo Theo và Nellie trong khi họ dời . Nếu nó dừng Amy lại, chị nó dành ra hàng giờ liền trong cái thư viện cũ kỹ, đầy bụi bặm cốt chỉ để nhồi vào đầu những thông tin hoàn toàn vô bổ.


      “Này, chúng ta còn việc phải làm đó,” nó với Amy. “Chúng ta nên bắt đầu từ đâu nào?”


      “Chị đoán là chỉ cần rảo vòng quan sát những gì có vẻ vẫn là nguyên bản của tòa nhà


      “Okê, chưa hoàn toàn là kế hoạch, nhưng dẫu sao vẫn là kế hoạch.”


      Hai đứa khám phá toàn bộ tòa nhà, nhưng rất khó biết được đâu là chỗ vẫn còn nguyên vẹn và đâu là nơi được trùng tu hay tái thiết. Cuối cùng, tụi nó tìm thấy cầu thang bằng đá cũ kỹ dẫn ngược trở lại khoảnh sân.


      “Tất cả bọn chi Lucian đều là những gã Napoleon loắt choắt,” Dan làu bàu. “Hãy nhìn Ian và Natalie xem. Chỉ là hai đứa nhóc giàu có láu cá. Còn đồng chí Irina? Lại ả khôn lỏi có con mắt bị giật giật. Napoleon ư? Hẳn cũng lại là tay khôn lỏi có trong tay đạo quân.”


      “Xin cảm ơn giáo sư bài giảng khai nhãn về chiến tranh Napoleon,” Amy mỉa mai. “Hãy nhìn các hình điêu khắc ở kia xem! Theo đúng đấy. Những tấm bình phong tuyệt vời. Và hãy nhìn các viên gạch lát lộng lẫy ở đây nữa này,” Amy vừa vừa lướt bàn tay dọc theo bức tường.


      “Nghe hệt như Ian Kabra. Chị có nhớ hồi thằng đó thích khung cửa sổ nhà ông Alistair ?” Mặt Amy lập tức sa sầm lại. Chậc, thằng nhóc nhắc đến cái tên ấy. Mỗi lần nó bật ra cái tên này, Amy lại có bộ mặt bí xị kiểu hu hu, con chuột hamster nhà tui chết rồi. ngạc nhiên là con bé mười bốn tuổi chỉ hơi bất bình thường đôi chút lại mê tít gã dị hợm thứ thiệt. Dan nghĩ - à, nó hy vọng đúng hơn - là chị mình phải ngon lành hơn thế chứ.


      Bộ mặt thảm não của Amy bỗng chuyển sang vẻ ngạc nhiên. Con bé chỉ vào viên gạch. “Nhìn xem nó quen này?”


      Dan ngồi xổm xuống. “Đây là gia huy của chi Lucian!” Gia huy được vào bên trong họa tiết, nhưng nó vẫn nhận ra được. “Chỉ có duy nhất viên này thôi.”


      “Chắc hẳn phải có manh mối nào ở đây!” Amy vẻ phấn khích. “Có lẽ bên dưới nó có gì đó.” Con bé thử ấn vào hình gia huy, rồi ấn vào bốn góc.


      “Nó nằm đây hơn hai trăm năm rồi,” Dan . “Chắc là nó cần đôi chút giúp đỡ.” Thằng bé rút trong túi ra con dao bấm. Rồi nó nhét lưỡi dao vào mép vữa viên gạch. “Nếu em có thể...”


      “Dan! Mình ở trong bảo tàng đấy!”


      “Tàng tàng chớ.”


      “Lỡ người ta thấy sao!”


      tốt nhất là chị canh chừng ,” Dan làu bàu ấn con dao vào sâu hơn bên trong. Nó có cảm giác viên gạch lỏng dần ra. Thằng nhóc cũng nghe tiếng bước chân của Amy lẹt quẹt rời . Chị nó biết tuân theo luật lệ. Đôi khi như thế được việc ra phết.


      Nó ấn con dao vào sâu hơn nữa và cạy viên gạch ra ngoài. Cuối cùng nó nhét được ngón tay ra đằng sau kẽ hở. Dan cẩn trọng kéo nó ra. Viên gạch rơi ra ngoài, thẳng vào tay nó. Phía sau bức tường giờ đây là cái lỗ hẹp. Dan cho tay vào bên trong, mong sao ngón tay của nó vớ phải con côn trùng Ai Cập đáng sợ nào đó ngoe nguẩy thay vì manh mối.


      Nhưng ngón tay nó lại chạm vào vật gì đó trơn láng có hình tròn. Nó rút ra chiếc ống bằng da.


      “Mày nghĩ mày làm cái gì thế hả?”


      tiếng rống vang lên làm Dan suýt nữa đánh rơi chiếc ống. Khi người đàn ông Ai Cập mặc vest xám từ dưới cầu thang bước lên quát to với nó, Dan giấu chiếc ống ra sau lưng. Dáng của gã phục phịch, nên có lẽ cũng chẳng lấy gì làm hào hứng khi trèo đến chỗ Dan. Nhưng xem chừng gã ta là nhân viên trong bảo tàng. Và gã cầm trong tay món bộ đàm gì đó có thể gọi cánh bảo vệ đần độn ùa đến trong tích tắc.


      Bà chị canh chừng mới tuyệt làm sao, bà chị ạ.


      Thằng bé nghe tiếng chân Amy hối hả sau lưng nó các bậc thang. “Ơ, c-c-ca...” nó nghe tiếng chị mình lắp bắp. Cũng như mọi lần, não của Amy bị đóng băng mỗi khi trông thấy bóng dáng người thi hành công vụ.


      Nhưng Dan bắt đầu quen với việc gặp gỡ với đám người lớn cáu kỉnh. Bắt đầu là từ áo dạy mầm non của nó, Woolsey, và tiếp tục với các gia sư, rồi giáo viên mỹ thuật (hãy quý tấm áp phích vẽ tay kia!), rồi hiệu trưởng, sở phòng cháy chữa cháy Boston. Gã này cũng dễ như bỡn thôi mà.


      Thế rồi Dan sực nhớ nó quốc gia khác. Nơi đó có nhà tù. Có khi nào họ quẳng đứa nhóc 11 tuổi vào tù ở Ai Cập nhỉ?


      Gã ta nheo mắt. “Mày giấu vật gì đằng sau lưng đó?”


      “Dạ thưa chú, cái này rơi từ bức tường ra ạ.” Dan giơ viên gạch lên bằng tay. Sau lưng, trong tay nó vẫn cầm chiếc ống.


      “Những viên gạch này là nguyên gốc của tòa nhà này đấy! Chúng rất dễ vỡ!”


      “Đó chính là điều cháu muốn ,” Dan đáp lại vẻ rất hợp lý. Nó an tâm khi cảm thấy Amy chộp được chiếc ống. “Viên gạch này rơi xuống.” Dan vẫn giơ nó lên. “Chú muốn lấy nó ?”


      “Chàng trai à, cậu dám...”


      Dan tung viên gạch lên trung.


      Nó có đủ thời gian để khâm phục kiên quyết đến kinh ngạc của tay bảo vệ khi gã lao về phía trước để tóm lấy viên gạch, với vẻ mặt đầy hoảng hốt. Rồi nó trèo lên các bậc thang, bám sau Amy.


      “Chị thấy gã ta ?” Dan thở hổn hển. “Tay này chơi cánh phải cho đội Red Sox được đó!”


      “Ước gì,” Amy ra hơi, “em đừng có... ném ba cái... đồ ăn trộm như thế!”


      Hai đứa nghe tiếng bước chân nện thình thịch phía sau khi những tay bảo vệ khác gia nhập cuộc rượt đuổi. Cả hai vội vã rẽ sang phải và phi nhanh xuống hành lang hẹp. Dan lẻn căn phòng , ném bình phong ra phía sau lưng và trèo ra ngoài lan can.


      cao lắm đâu chị,” Dan bảo Amy. “Với lại, chị cũng nên thạo ngón nghề này .”


      “Chị chẳng muốn thạo món này tẹo nào,” Amy nghiến răng, thò chân ra ngoài lan can. “Chị muốn mình giỏi cái khoản nghiên cứu trong thư viện kia.” Con bé đưa nốt chân còn lại qua. “Rồi trượt băng.” Amy hạ người xuống thấp, vẫn còn bám vào lan can, mắt nhắm nghiền. “Làm bánh sôcôla nữa...”


      “Thả tay ra nào!” Dan hét to, và Amy thả ra. Tiếp theo là Dan.


      Nó cảm nhận được nền đá trong sân rung lên lan đến tận xương mắt cá. Dan nghĩ nó lại đau... đến như thế. Amy ngã nhào và lăn lông lốc đất. Con bé nhìn nó đầy vẻ sợ sệt. Dan gật đầu ra hiệu cho Amy biết nó vẫn ổn.


      Có ai đó la hét bằng tiếng Ả Rập phía đầu chúng. Dan cần tới phiên dịch. Chắc chắn là gã này lấy gì làm vui vẻ rồi.


      “Hai đứa em làm gì dưới đó thế?” Nellie lao ra từ căn phòng dẫn xuống khoảnh sân. “Và bọn em có thấy nhà vệ sinh nữ ở đâu ?”


      thốt lên lời, hai đứa trẻ lao về phía Nellie, vòng tay ôm lấy người và lôi nàng ra cửa chính.


      Những gã bảo vệ ra đến sân và bắt đầu rượt theo chúng.


      “Ôi trời ạ, đừng với chị là lại như thế nữa chứ. Đừng làm thế nữa!” Nellie rên rỉ.


      “La rầy gì đó để sau . Giờ hãy chạy mau!”


      “Xin lỗi các vị! Chúng tôi đất nước xinh đẹp của các vị lắm!” Nellie la lên.


      Cả ba băng qua cửa chính trong khi tiếng la hét vang khắp khoảnh sân phía sau lưng chúng. Chiếc taxi vẫn chờ, thế là họ nhảy ngay vào trong xe.


      đâu?” tài xế hỏi trong khi khởi động x


      “Cứ chạy , nào!” Nellie la to.


      , , ” tài xế hét lên giọng đầy vui sướng, ấn ga và làm cho cả ba bắn vọt lên như sắp sửa xuyên qua nóc xe. “Tôi người Mỹ quá mất!”





      CHƯƠNG 4


      NGAY LÚC CHIẾC TAXI hòa vào dòng xe cộ cuồn cuộn phố chính và tụi nó đoan chắc còn ai đuổi theo chúng, Nellie cho tài xế biết tên khách sạn. Rồi lại ngả người ghế và thở dài nuối tiếc.


      “Hai đứa tụi em thiếu nợ chị, nợ to đấy. Chị vừa bỏ lại bạn tâm giao dài cổ chờ chị từ nhà vệ sinh nữ quay lại.”


      “Chị yên tâm,” Dan . “Chị luôn có món đậu khúc.”


      “Đậu khấu,” Nellie chỉnh lại.


      đền bù cho chị mà,” Amy . “Nhưng chúng em cũng tìm thấy thứ.”


      Amy lấy chiếc ống ra. Nó vặn các khớp nối cũ kỹ mòn lẳn và mở phần nắp ra. Chúi ngược chiếc ống xuống, con bé lắc . Cả ba ngạc nhiên khi trông thấy mảnh giấy da cuộn tròn từ trong ống rơi vào lòng bàn tay Amy.


      Đó là mảnh giấy khô queo, các góc giòn rụm. Nó mỏng manh đến nỗi Amy thậm chí còn dám phả hơi thở của mình lên đó.


      “Em nghĩ đây là lá thư cổ xưa,” con bé . “Hay ít nhất cũng là phần của lá thư.” Amy chầm chậm mở nó ra.


      Dan làu bàu. “Đừng là tiếng Pháp nữa đấy!”






      “Chị có dịch được ?” Amy hỏi Nellie.


      “Nhân danh vinh quanh lừng lẫy của hậu duệ Luke và Hoàng đế, manh mối đường về đến cung điện củ...” Nellie dừng lại, hạ cặp kính râm xuống để nhìn hơn. “‘...du la Paris’?” Của Paris à? phải. Trừ trường hợp L là chữ viết tắt của tên ai đó.


      “Vậy L là ai nhỉ?” Dan tự hỏi.


      “Chà chà, có hằng hà sa số những ông vua nước Pháp có tên Louis,” Nellie . “ ông bị xử trảm, nhưng ông ấy có cung điện tên là Versailles[1].”


      [1] Tức vua Louis XVI (1754 - 1793).


      “Gì gì, manh mối được người của chi Lucian chuyển đến tòa lâu đài nào đó,” Amy . “Nhưng em cũng thắc mắc B.D là người nào.” Con bé thở dài. “Ban nãy em cứ hy vọng đây là thông điệp từ Napoleon kia đấy.”


      “Như thế có nghĩa là manh mối của chúng ta ở Paris sao?” Dan tự hỏi.


      Amy cẩn thận đặt mảnh giấy vào túi đeo hông. “Nếu chúng ta tiếp tục tìm kiếm, chẳng sớm muộn hiểu ra thôi.”


      Quá chuyên tâm vào lá thư đến nỗi cả ba hề biết từ khi nào chiếc taxi tách khỏi con phố chính và rẽ vào khu vực yên tĩnh hơn. Những cây cọ xếp hàng dài chạy dọc theo hai bên đại lộ. Hoa giấy rộ nở những sắc tím sắc hồng. “Ái chà chà,” Nellie thốt lên, nàng hạ bên cửa sổ xuống và thò đầu ra ngoài để hít thở khí. “Chị ngửi có mùi người giàu ở đây.”


      Chiếc taxi rẽ vào lối dành cho xe chạy vào nhà, dài ngoằn ngoèo. Khách sạn ra trước mắt trong kinh ngạc của Amy và Nellie, còn Dan mừng rỡ reo to, “Tuyệt cú mèo!”


      Đó là tòa biệt thự màu trắng trông nguy nga. Những bãi cỏ xanh um trải dài đến tận mặt tiền. cặp vợ chồng trong bộ áo choàng bông chầm chậm qua sân nằm ở bên hông tòa nhà để đến hồ bơi màu xanh ngọc bích. Cậu bé gác hồ chạy theo mời cả hai vào lều thay đồ. Đám bồi bàn thoăn thoắt qua những chiếc ghế, tay giữ thăng bằng các khay đựng thức uống. Phía bên kia dòng sông Nile, nổi bật giữa khoảng màu vàng là hình dáng của ba kim tự tháp Giza hùng vĩ, trông tựa như giấc mơ.


      Nellie huýt sáo. “Đây đích xác là lối sống mà chị sẵn sàng thích nghi.”


      “Làm sao ta trả tiền nổi chứ?” Amy e ngại.


      “Chúng ta vẫn còn có tiền của bọn Kabra,” Nellie . “Mà giờ nó hoàn toàn thuộc về tay chúng ta. Tiền chúng ta kiếm ra mà.”


      “Đúng thế,” Amy đáp, tâm trí nó hồi tưởng lại trò lừa đảo của Ian. Ngay từ đầu, ông McIntyre, luật sư riêng của Grace, nhắc chúng chớ có tin ai. Lẽ ra con bé bao giờ được quên điều đó. Ấy thế mà nó nhìn vào đôi mắt đen sẫm của Ian, mê mệt những lời thằng nhóc ra. Ngu ngốc, rất ngu ngốc Amy à. Con bé gặp khó khăn gì với bài học ở trường. Nhưng mỗi khi đụng đến cảm xúc trong đời , Amy chỉ được điểm 1.


      “Dù sao chúng ta cũng nhanh chóng tiêu hết tiền ở chốn như thế này thôi,” Nellie . “Có lẽ nên tìm thử khách sạn khác .”


      Nhưng chiếc taxi dừng lại. viên gác cổng ăn mặc lòe loẹt lao đến mở cửa xe. Có thêm người khác đến lấy hành lý. Trước khi kịp ngăn họ lại cả ba được mời ra khỏi xe và tay tài xế quay trở lại lối dành cho ôtô.


      Người gác cổng treo đám balô cũ sờn, giỏ xách tả tơi của cả ba lên xe đẩy cứ như thể chúng là những hành lý sang trọng. Cũng chẳng ai thèm liếc nhìn những chiếc áo thun và quần jeans nhàu nát của bọn họ lấy cái.


      đến khách sạn Excelsior,” người gác cổng đầu tiên lên tiếng. “Xin hãy theo tôi.”


      Cả ba theo, vừa Nellie vừa làm gọn tóc tai lại, Amy cho áo vào quần, còn Dan cố chộp lấy chiếc balô để xe đẩy.


      Lại có thêm những nụ cười tươi từ nhân viên quầy tiếp tân. quý ông lịch lãm, vóc dáng gọn gàng vẫy tay chào cả ba. “Chào mừng quý khách đến khách sạn Excelsior. Xin phép cho tôi biết quý danh của các vị?”


      “Ơ...,” Nellie lúng búng.


      “Oh...,” Dan .


      “Thưa, Oh sao?”


      “Oh,” Dan khẳng định.


      “Rất tiếc, chúng tôi thấy tên quý vị trong danh sách đặt phòng,” người đàn ông kiểm tra máy tính. “Tôi có thể giới thiệu với quý vị nhiều khách sạn khác... Xin thứ lỗi,” ta trong lúc chuông điện thoại reo. Sau khi nghe điện thoại lúc, dáng người của càng lúc càng nghiêm trang. Rồi ta quay sang nhìn cả bọn, nhún vai, đoạn khẽ vào ống nghe: “Ồ, tất nhiên rồi thưa ngài. Tôi thu xếp ngay đây ạ.” Gác ống nghe, quay trở lại màn hình máy tính. “Họ Oh. Chắc chắn rồi. Ông Oh đặt phòng. Chúng tôi dành sẵn phòng cao cấp Aswan, như mọi khi, cho quý vị.”


      “Phòng cao cấp sao?” Amy thốt lên.


      “Tất nhiên với giá giảm chỉ dành cho người trong gia đình như mọi khi, thưa ,” ta thêm. Rồi sau đó đẩy tờ đăng ký cho Nellie. “Xin quý vui lòng ký tên vào.”


      Amy liếc nhìn giá phòng. Ngạc nhiên làm sao, giá chẳng cao hơn khách sạn rẻ tiền ở Paris là bao. Nellie ký vào và người tiếp tân trao cho họ ba thẻ chìa khóa.


      dướn người lên để rung chuông báo.


      “Nhân viên dẫn quý vị lên lầu.”


      “Giảm giá cho người trong gia đình là sao?” Amy kêu lên vì ngạc nhiên.


      “Chúng ta là người nhà mà,” Dan phân tích. “ lý thuyết là như vậy.”


      ra cái dòng họ Cahill điên khùng của mấy đứa thực có mặt ở khắp quả địa cầu này,” Nellie vừa vừa chiêm ngưỡng mấy chậu hoa khổng lồ với những cành nở đầy hoa. “Vậy lý thuyết, hai đứa có gia đình ở khắp mọi nơi. Cứ nghĩ đến tất cả các khách sạn năm sao mà chúng ta có thể lẻn vào, chỉ cần có tấm thẻ khách thường xuyên thôi...”


      “Suỵt,” Amy ra hiệu cho Nellie ngưng khi tất cả bước vào thang máy. Người nhân viên quét thẻ vào cái khe, rồi ấn số mười ba.


      Cửa thang máy mở, ta dắt họ vào tiếp hành lang. Chỉ có cánh cửa duy nhất.


      “Còn những căn phòng khác ở đâu?” Nellie thắc mắc.


      “Phòng cao cấp nằm trọn tầng, thưa ,” người nhân viên trả lời. “Tôi cho là mọi người thích nó lắm.” ta lại quét thẻ qua cái khe. “Cả quý vị cũng phải quét thẻ nữa. Vì chỉ có quý vị được ra vào tầng này mà thôi.”


      ta mở cửa ra, và cả ba cùng há hốc miệng vì kinh ngạc. Những cánh cửa kính kéo dài từ sàn nhà lên đến trần cho thấy toàn bộ quang cảnh của dòng sông Nile và quần thể kim tự tháp Giza ở phía xa. Họ đứng trong phòng khách có đầy đủ ghế bành, hai chiếc sofa, khu vực để dùng bữa và bàn giấy. Khi người nhân viên mở cửa phòng ngủ Dan gần như nhảy múa ngay sau lưng ta.


      “Chúng ta có những ba phòng tắm!” thằng nhóc phấn khích reo lên.


      Nellie thò tay vào túi xách lấy tiền boa và nhân viên tươi cười trở lui, nhàng khép cửa phòng lại. Ngay khi ta vừa khỏi, Amy thả người xuống chiếc ghế bành, Nellie hất văng đôi giày , còn Dan lao thẳng lên chiếc sofa. Cả ba đồng thanh reo lên điệp khúc “Bá chấyyyyy!”


      Nellie thả con Saladin ra khỏi lồng. “Chào mừng Sally đến với cuộc sống thượng lưu,” hôn vào đỉnh đầu bóng mượt của nó. Saladin lượn lờ xung quanh phòng, mũi khịt khịt đánh hơi, nhảy tót lên chiếc bàn giấy, duỗi thẳng người ra phía sau ghế sofa, nhảy lên chiếc gối to nhất và mềm mại nhất, cuộn tròn lại, nheo mắt với mọi người như muốn , Tôi cũng quen với cuộc sống này thôi.


      Dan nhảy khỏi sofa và sục sạo khắp căn phòng, điểm danh từng món đồ với hai bà chị Amy và Nellie. “Bàn này có đủ đồ văn phòng phẩm nha! Còn đây là quyển sổ hướng dẫn! Kìa, đằng kia có cái dù trong tủ quần áo!” Nó thơ thẩn trở vào phòng ngủ, lặn vào trong tủ quần áo, rồi bước ra trong cái áo choàng vải bông dài quá khổ, vạt áo kéo lê phía sau lưng. Dan mở chiếc ngăn kéo nằm ở cạnh giường. “ quyển kinh thánh!” Nó đóng tủ lại và lục lọi bên dưới mấy cái gối.


      Nellie và Amy theo Dan vào phòng ngủ.


      “Em tìm cái gì vậy nhóc?” Amy hỏi. “Tiên răng[2] chăng?”


      [2] Tooth fairy là huyền thoại về bà tiên răng cho trẻ con tiền hoặc quà để đổi lại những chiếc răng sữa khi chúng thay răng. Trẻ thường bỏ răng sữa rụng dưới gối vào ban đêm, và tin rằng bà tiên răng đến lấy răng rồi để lại tiền hoặc quà trong lúc chúng ngủ.


      “Sôcôla. Trong mấy khách sạn sang trọng bọn họ để lại sôcôla dưới gối sao?”


      Nellie bật cười khúc khích. “ phải ở dưới. Mà là ở gối, sau khi người ta chỉnh trang lại drap giường trước khi chúng ta ngủ.


      Nó biến vào nhà tắm. “Mấy chị phải xem hết chỗ dầu gội này!” Dan lại thò đầu ra ngoài. “Em biết bọn con khoáiiii dầu gội lắm.” Nó nháy mắt với hai bà chị. Amy ném chiếc gối vào thằng nhóc.


      Dan né được chiếc gối và nhảy trở lại phòng khách. “Ê, lùi ra nha. Em vừa tìm thấy quầy bar mini này!” nó reo lên vui sướng.


      Nellie vươn vai. “Chà, chị vào bồn tắm, pha vào đó chừng dăm lít nước tắm tạo bọt, và chỉ khi nào thức ăn được mang lên mới chui ra đấy.”


      “Thức ăn nào?”


      “Thức ăn mà hai đứa sắp sửa gọi phục vụ mang lên,” Nellie đáp. “Đừng để Dan lục lọi gì quầy bar mini nhé, kẻo chúng ta nếm mùi cháy túi trong tích tắc.” Nellie vào tủ lấy áo choàng và nhét headphone vào tai. “Cứ gọi món thoải mái hai đứa, chị cũng đói lả rồi đó,” Nellie hét to quá mức, có gì lạ khi nhạc từ chiếc iPod đập xình xịch vào tai nàng. Nellie uốn éo những ngón tay mô phỏng cơn sóng rồi đóng cửa phòng tắm lại. Amy nghe thấy tiếng vòi nước xả hết cỡ.


      Con bé trở vào phòng khách. Dan nhai nhóp nhép thanh kẹo trong khi ngồi đối diện với cánh cửa duy nhất còn đóng. Nó lục lọi xong hết tất cả những cái tủ.


      “Nè Dan, chị Nellie được lục lọi quầy bar. Thứ đó rất đă...” Chợt Amy thấy Dan đứng yên như trời trồng, nhìn từ đầu bên này sang đầu bên kia căn phòng. Thậm chí miệng nó cũng còn nhóp nhép nữa.


      “Cái gì vậy, ngốc? Đó chỉ là cánh cửa. C-Ử-A.”


      “Có phải nhân viên tầng này chỉ có duy nhất phòng mình thôi sao?” Dan . “Okê, chỗ này rộng thênh rộng thang đấy, nhưng cũng thể chiếm hết gian của tầng được. Chúng ta ở mạn phía Đông khách sạn. Mạn này có đến bảy cửa sổ, nhưng phòng chúng ta chỉ mới có bốn mà thôi.”


      Amy màng thắc mắc tại sao Dan lại phát ra điều này. Đứa em điên khùng của nó có chiếc máy vi tính được cài trong não.


      Thế nên khi thằng nhóc tiến về chỗ cánh cửa, bộ dạng lố bịch trong chiếc áo choàng dài quá cỡ, Amy cũng phản ứng gì. Dan quỳ gối trước cánh cửa. đó có miếng đồng trang trí với lỗ khóa kiểu cổ.


      “Chị nhìn lỗ khóa xem. thấy quen sao?” Dan hỏi Amy.


      .” Amy cúi xuống xem xét kỹ. Phải mất lúc lâu, rồi nó lên tiếng. “Đây chính là biểu tượng của chi Ekaterina. Hình thù quái gở giống con rồng có cánh.”


      “Tại sao lại có lỗ khóa ở đây, khi mà cả nơi này sử dụng thẻ từ? Chắc chắn là có chìa khóa hay ho nào đó tra vừa vào chỗ này,” Dan . Nó đảo mắt ngó quanh. “Ở đâu nhỉ?”


      “Em nghĩ chìa khóa ở đây sao? Ở ngay trong căn phòng này á?”


      Chợt Dan bật dậy. “Này Amy, chị có nhớ tất cả những thứ chán òm mà chị đọc cho em nghe lúc máy bay ? Lượng mưa hàng năm của Cairo là bao nhiêu?”


      “2,5 centimet,” Amy trả lời. “Và hầu hết xảy ra khoảng từ tháng mười hai đến tháng ba.”


      “Vậy tại sao,” Dan chỉ về phía cái tủ, “lại có chiếc dù đặt trong tủ?” Nó chạy lại lấy chiếc dù ra.


      “Em nghĩ cán dù cũng phải có thứ gì đó thiết kế của người Ai Cập,” nó cho Amy xem chiếc dù. “Nhưng chị nhìn xem...” Thằng nhóc vặn cán dù và vật đó rời ra trong tay nó. Amy nhìn những đường chạm khắc chiếc cán. Chúng giống hệt với tấm bảng đồng cửa. Và ở cuối cán được đúc hệt như chiếc chìa khóa.


      Dan trườn ra khỏi cái áo choàng. Nó cầm chiếc cán dù và tra vào lỗ khóa. Vật đó trượt vào cách dễ dàng. Dan nhìn Amy. Con bé gật đầu.


      Nó xoay nắm cửa, và cánh cửa mở toang ra.


      Chầm chậm, cả hai bước vào bên trong.


      Những tủ kính bằng thủy tinh plexi xếp thành hàng nối tiếp nhau dọc theo phòng trưng bày vừa dài vừa rộng. dãy mái vòm nối tiếp các phòng trưng bày, cái nọ nối tiếp cái kia. Cả hai nhìn thấy những loại máy móc và các bản thiết kế vô cùng tinh xảo. Những bản vẽ đóng khung, các bức ảnh, tấm bản đồ, những bức chân dung của nhà thiết kế, những dòng chữ được khắc vào tường. Khi chúng bước qua bậu cửa đèn trần đồng loạt bật sáng. Các món đồ trong tủ kính bắt đầu chuyển động xoay tròn. Những bức ảnh nổi ba chiều thình lình ra và cũng bắt đầu xoay.


      Trong tủ kính, có bài báo được đóng bìa cẩn thận cũng xoay.


      “Chính là món burrito nấu bằng lò vi sóng của ông Alistair!” Dan reo lên. “Hẳn đây là căn cứ của chi Ekaterina!”


      Chợt có tiếng kịch khẽ nhưng dứt khoát của cánh cửa đóng lại phía sau lưng chúng. Amy vội lao đến. “Cửa khóa rồi,” con bé . “Nhưng mà ít ra chúng ta cũng có chìa khóa.”


      Dan nhìn xuống hai bàn tay trống trơn của mình. “Vậy ư?”

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 5


      “CHỊ CẦN GÌ HẾT,” Dan bảo. “Em biết rồi, là lỗi của em. Nhưng mà chỗ này hấp dẫn quá, thành ra em cũng quên béng luôn cái chìa khóa.”


      “Ta thoát ra khỏi nơi này bằng cách nào?”


      “Ta tìm ra. Thôi nào, khám phá chỗ này trước .”


      “Chị biết về nơi này,” Amy . “Nhỡ đâu nơi đây có cài bẫy sao?”


      “Mình cũng dính bẫy rồi mà,” Dan lý .


      Amy hạ giọng khẽ. “Sao ở đây chẳng thấy ai hết? Các khu căn cứ khác có đầy người mà.”


      “Là ta may mắn đó. Cố lên. Đừng nhát cáy thế chứ.” Dan nhảy bật về phía trước. Nó thể cưỡng lại nổi trước hằng hà vô số những thứ kỳ diệu siêu phàm ngay trước mắt mình. Các bức ảnh nổi lung linh, đèn LED nhấp nháy. Ở góc phòng, chiếc máy bắt đầu phát tiếng kêu canh cách và nhả ra băng điện báo, hệt như trong bộ phim xưa. Bản thiết kế của các phát minh được chiếu lên bức tường. Dan nhảy bổ vào phòng trưng bày, ngoảnh lại kêu to, “Ôi trời, Thomas Edison cũng là Cahill! Ngon lành chưa? Bóng đèn điện đó[1]!”


      [1] Thomas Edison là người phát minh ra bóng đèn điện dây tóc.


      Amy chầm chậm bước qua giữa những đồ vật được trưng bày. Trong lúc Dan vòng quanh thiết kế tàu thủy chạy hơi nước của Robert Fulton con bé chăm chú ngắm bức họa đồ hệ thống bắn của tàu ngầm.


      Dan thốt lên tiếng kêu đầy kinh ngạc. “Máy cán bông! Eli Whitney cũng là Ekat. Quả là thiên tài!”


      Ở phía trước, Amy trông thấy tấm màn đen. Nó dường như hút hết năng lượng trong phòng.


      “Amy ơi! Nhà ta phát minh ra xe đạp nữa đó!”


      Amy chầm chậm bước đến gần tấm màn. Khi tới gần hơn, nó nhận ra đó phải là tấm màn mà là bức tường của bóng tối, bằng cách nào đó nó được tạo ra bởi chiếc máy rọi luồng sáng - hay là có ánh sáng? Làm sao như thế được nhỉ? - vào góc


      “Máy khâu. Elias Howe, ông tuyệt lắm!”


      Amy do dự bước qua bóng tối ấy. Trước mặt nó là màn hình trắng. Ngay khi Amy đến, chiếc máy tự động kích hoạt.


      Phải gần phút sau Amy mới hiểu ra. Thoạt đầu, đó chỉ là những bản thiết kế ra màn hình. Rồi đến các con số. Con bé nghe Dan reo lên cái gì đó về động cơ đốt trong.


      “Tuyệt cú mèo, bà Marie Curie! Phóng xạ!”


      Màn chiếu bắt đầu chạy những tấm ảnh đen trắng. Amy thảng thốt đưa cả hai tay lên bịt miệng.


      Dan đứng ngay bên ngoài bóng tối. “Các phát minh này xuất chúng. Chúng ta thay đổi cả lịch sử!”


      phải chúng ta,” Amy thầm.


      Lại bắt đầu dải hình ảnh khác.


      phải là chúng ta đâu Dan!” thình lình nó hét lên.


      Dan bước qua tấm màn bóng tối. “Cái gì đây?” nó hỏi, xem xét bức phác thảo và rồi liếc nhìn tấm ảnh đen trắng. Có thêm nhiều tấm ảnh khác lần lượt được chiếu lên. Amy lôi Dan trở lại phòng trưng bày sáng.


      “Này!” Dan phản đối. “Chị làm gì vậy? Em muốn xem mà!”


      được,” Amy cương quyết. “Em được xem. Em muốn xem chính dòng họ chúng ta chế tạo ra hệ thống phun hơi độc để giết chết hàng triệu người đâu.”


      Mặt Dan tái mét.


      “Hay cách chính chúng ta tách được nguyên tử để chế tạo quả bom có thể hủy diệt c thành phố!”


      Sức nóng làm mặt Dan chuyển sang sắc đỏ. Ngoại trừ vết sẹo nằm dưới mắt là vẫn còn trắng. Mỗi khi cảm thấy buồn Dan lại có vẻ mặt như vậy. Amy nên ngưng lại. Nhưng con bé thể. thể nào ngưng được.


      “Là chiến tranh hóa học đó, Dan? Có tuyệt nào?” Amy biết tại sao nó lại tức giận với đứa em mình như vậy. “Giết người có tuyệt quá hay ?”


      Amy lùi lại, hai tay run lẩy bẩy. Lần đầu tiên từ khi Dan còn , Amy cố tình khiến cho thằng em khóc. Điều này lạ, vì chính Amy mới là người muốn được khóc. Nó muốn giậm chân mạnh. Muốn hét to. Nhưng đôi mắt nó vẫn cứ ráo hoảnh.


      “Nếu như chúng ta cũng là Ekat sao?” Amy thầm. “Nếu như tất cả những thứ độc ác kia cũng là phần tính cách của hai đứa chúng ta? Được cài sẵn trong DNA sao?”


      Nhìn thấy nỗi sợ hãi mặt chị nó, Dan bỗng nhiên cũng thấy sợ.


      “Chi tộc nào cũng đều có người xấu,” Dan . “Nhưng vẫn còn có rất nhiều Ekat là người tốt. Ý của em là, chúng ta ra sao nếu như có Edison? Là bóng đêm mịt mù. Vả lại, hai chúng ta vẫn chưa biết mình thuộc về chi tộc nào kia mà. Ta chỉ biết mình là người thuộc dòng họ Cahill. Nếu em mà phải lựa chọn lấy chi nhưng chỉ nhìn vào những kẻ xấu chính em cũng chẳng muốn thuộc về chi tộc nào hết.”


      Amy ngồi sụp xuống sàn, đầu tựa vào tường. “Mình làm gì ở nơi này?” con bé hỏi. “Càng biết nhiều bao nhiêu chị lại càng thắc mắc bấy nhiêu. Vì sao Grace lại muốn chị em mình biết chuyện mình có mối liên hệ với quá nhiều độc ác như thế?”


      “Đó chính là điều em vừa lảm nhảm lúc nãy đó thôi,” Dan . “Nếu chúng ta phải chịu trách nhiệm vì điều này” - nó ngoảnh đầu về chỗ tấm màn đen - “cũng giống như rằng em phát minh ra máy xén bông vậy đó.”


      Amy nở nụ cười yếu ớt. “Em có lý Grace... lúc nào bà cũng che chở hai chị em mình. Bà thương chúng ta, Danny ạ. Hay ít ra... đó là điều chị nghĩ.”


      Dan kinh ngạc đến nỗi buồn phàn nàn chị nó dám gọi nó là “Danny”. Cái tên ấy còn được dùng từ khi nó lên sáu. “Chị nghĩ như thế sao? Ý của chị là gì?”


      “Kể từ lúc bắt đầu, ta vẫn luôn thắc mắc vì lẽ gì mà Grace lại giúp đỡ tụi mình,” Amy trả lời. “Bà để lại cho hai đứa chúng ta thông điệp bí mật nào. Bà chẳng để lại cho chúng ta bất cứ thứ gì. Mà quẳng chúng ta vào chung với tất cả những thành viên Cahill còn lại.”


      “Như thể với bà chúng ta chẳng có gì đặc biệt cả,” Dan . Nó chờ Amy như mọi khi bảo vệ Grace. Điều đó khiến Dan khó chịu, nhưng nó cũng cần Amy làm thế.


      Thế nhưng trái lại, Amy gật đầu đồng tình với nó. “Vậy chúng ta có hiểu về bà hay ?” Amy đặt câu hỏi. “Em cứ nghĩ mà xem. Cả việc hết sức hệ trọng như vậy trong đời bà, vậy mà chúng ta chẳng hề biết gì về nó. Phần lớn cuộc đời bà đóng vai trò thành viên trong dòng họ Cahill. Làm sao chúng ta có thể hiểu về bà, hiểu, nếu như ta chẳng biết điều này? Amy nén giọng. “Điều đó chỉ khiến chị cảm thấy ...”


      “Ngu ngốc, phải thế ?” Dan hỏi. “Nè, em dùm chị rồi đó.”


      Amy thậm chí cũng thấy bực bội. “Ông McIntyre bảo ta được tin ai. Lỡ đâu điều này cũng bao gồm cả... Grace sao?”


      Amy nhắm mắt lại. Con bé ghét phải ra những điều này. Ghét phải nghĩ về chúng. Nhưng giờ đây nó thể ra. Amy vẫn hay tin tưởng vào những kẻ hề xứng đáng với niềm tin con bé dành cho họ, và như thế mới ngu ngốc làm sao? Ian xem nó như đứa quá non nớt, vậy mà nó hợp tác với thằng đó. Nếu Amy muốn giành chiến thắng trong cuộc tranh tài này con bé phải khôn ngoan hơn.


      “Em còn nhớ những chuyến điền dã mà bà dắt tụi mình theo - đến cábảo tàng và thư viện trường đại học nữa? Bà hướng dẫn chị nghiên cứu phải tiến hành như thế nào. Để về sau nếu phải vào nơi như thế, chị còn bị sợ sệt. Bà làm gì với em khi chúng ta đến bể cá vậy Dan?”


      “Bắt em lặp lại lên từng con mà em thấy,” Dan đáp. “Cộng thêm tên tiếng Latin của chúng. Em chỉ nghĩ đó là trò chơi mà thôi.”


      “Khi đó chính là bà rèn luyện trí nhớ hình ảnh cho em,” Amy . “Vào tất cả mọi lúc, bà vẫn chuẩn bị cho hai đứa chúng ta.” Nó chỉ tay vào phòng trưng bày. “Cho cái này đây! Và tại sao bà lại muốn chúng ta biết về nó chứ? Chính chúng ta cũng dối, lừa lọc, trộm cắp mới đến được đây. Về cơ bản chúng ta biến thành những tên tội phạm.”


      “Em biết chứ,” Dan đáp. “Chẳng phải như thế ngon lành hay sao?”


      Giọng Dan quả quyết lắm, nó cũng nhìn thẳng vào mắt Amy. Nó biết thằng em cố gắng đánh lạc hướng mình. Nó sợ hãi điều con bé sắp ra. Nhưng Amy buộc lòng phải .


      “Khi mọi chuyện kết thúc, chúng ta làm gì khác?” Amy hỏi nó. “Vì sao Grace lại bắt chúng ta tiếp xúc với những thứ này?” Giọng Amy thấp xuống thành tiếng thầm. “Có phải bà cũng là kẻ ác hay ?”


      “Đừng có như thế!” Dan thét lớn. Nó chán ngấy chị Amy mới này. Nó muốn lay chị nó mạnh để chị Amy cũ của nó trở lại.


      còn nhớ gì về cha mẹ. Grace là tất cả những gì còn lại trong nó mỗi khi gợi nhớ về những ký ức yên bình. Amy được quyền tước mất bình yên ấy. “Chị câm miệng lại !” Dan giận dữ.


      Chưa bao giờ nó bắt chị nó câm miệng. Dan chỉ gọi Amy là kẻ ngốc này ngốc nọ, là đồ dỏm, đồ khó ưa, nhưng chưa bao giờ thằng bé bắt chị nó câm miệng cả. Hai đứa được với nhau bằng những từ ngữ như thế. Đó là luật mà cha mẹ chúng đặt ra, và thậm chí nếu như nó thể nhớ rằng họ từng quy định như thế Amy vẫn còn nhớ.


      Nhưng bây giờ nó chỉ muốn chị nó câm miệng. Nếu được bịt chặt hai tai mà vẫn giống như đứa con nít làm rồi. Nó đọc được mặt Amy rằng chị nó biết mình quá xa.


      Nhưng chị nó tức hóa thành viên công tố quận. “Tại sao bà lại giúp đỡ chúng ta? Tại sao như vậy? Em hãy nghĩ thử . Cũng may là chúng ta có Nellie cùng. Liệu Grace có muốn chúng ta đơn độc vòng quanh thế giới ? Có đặt chúng ta vào mối nguy hiểm chết người ? Nếu thương tụi mình, chẳng lẽ bà muốn bảo vệ chúng ta hay sao? Và còn những chi tộc khác trong gia đình nữa chứ? Chắc hẳn bà phải biết chúng ta thuộc về chi nào. Tất cả mọi người khác đều biết họ thuộc chi tộc nào. Irina biết. Nhà Holt Kinh Khủng cũng biết họ thuộc về chi Tomas. Thậm chí Natalie và...” Amy ngưng lại. Và cái gã được gọi tên. “... nó cũng là những Lucian. Chúng ta chỉ là... chính chúng ta mà thôi.”


      “Thôi ,” Dan kêu lên. Giọng nó run rẩy. Với nó, việc nghi ngờ Grace chẳng để lại thông điệp nào cũng sao cả. Nó cũng giận bà về chuyện đó chứ. Nhưng nếu như chính Amy Grace cũng là loài quái vật nuôi dưỡng chúng cho chuyện này... điều đó khiến nó sợ hãi.


      thể như vậy được. Có gì đó bên trong Dan vỡ tan thành từng mảnh nếu điều ấy là . Đôi lúc Dan thấy mình như bị bỏ rơi ngay cả khi Grace còn sống. Amy giống Grace hơn, thích lịch sử và các viện bảo tàng. Nhưng giờ đây như thể chị nó ra từng ý nghĩ u ám thằng nhóc chất chứa trong đầu kể từ sau đám tang của Grace. Amy được làm như vậy. Amy phải bảo vệbà ngoại chứ. Nếu như chị nó còn tin vào Grace chúng còn gì nữa... để mà tin?


      Nó quay ngoắt , mắt đỏ ngầu. Nó bước .


      Amy vẫn còn ngồi sàn. Nó chạm tay vào sợi dây chuyền ngọc bích, món đồ trước kia thuộc về Grace, chưa khi nào con bé tháo vật ấy ra khỏi người. Amy cảm thấy khó chịu. cái gì đó hoàn toàn trống rỗng mà trước kia chưa từng hữu. Đó là thiếu vắng của điều trước kia nó vẫn hằng nương tựa vào - tình cảm của Grace.


      mất, Amy tự nhủ. Bà còn ở với mình nữa.


      Úp mặt vào lòng bàn tay, Amy nghe tiếng bước chân của Dan vọng lại lúc nó bước trở xuống phòng triển lãm, cố tạo khoảng cách mỗi lúc xa hơn giữa chúng. Tiếng bước chân bỗng ngưng bặt. im lặng kéo dài khiến Amy ngẩng đầu lên. Dan tới phòng trưng bày thứ ba. Nó đứng trước tủ kính trưng bày, bất động hoàn toàn. Hai vai căng thẳng cách khác thường của Dan ngay lập tức làm Amy cảnh giác.


      “Gì vậy?” con bé hỏi to. Nó trả lời.


      Amy đứng lên và đến chỗ thằng bé đứng. Nó đứng trước ba tủ trưng bày xếp thành hàng ngang. Trong mỗi chiếc tủ là bức tượng nữ thần Sakhet đầu sư tử giống hệt nhau. Chúng chỉ cao chừng hai mươi centimet và có lẽ được làm hoàn toàn từ vàng khối. Chỉ có cặp mắt của chúng là khác nhau. bức tượng có cặp mắt long lanh màu xanh lá, bức tượng mắt màu đỏ, và bức tượng còn lại mắt màu xanh thẫm. Từng chiếc xoay tròn bồng bềnh trong bể ánh sáng trắng.


      “Đây chắc chắn là thứ chúng ta tìm,” Amy thầm. Con bé quên mất cuộc tranh luận vừa rồi. Ba bức tượng trông đẹp cách lạnh lùng như báu vật. “Chi Ekat tìm ra chúng.”


      Dan xem xét màn hình máy tính gắn vào tủ trưng bày. Nó đặt ngón lên vào màn hình cảm ứng.


      hình chiếu xuất . Đó là sơ đồ bức tượng Sakhet. Nó chuyển động xoay tròn để ra mặt cắt. màn hình có dòng chữ như sau:


      TƯỢNG SAKHET ĐẦU TIÊN ĐƯỢC PHÁT TRONG CHUYẾN THÁM HIỂM CỦA NAPOLEON Ở KIM TỰ THÁP HOÀNG HẬU TẠI GIZA. ĐƯỢC TIN LÀ DO CHÍNH KATHERINE ĐỂ LẠI. GỬI SANG LOUVRE VÀ ĐƯỢC ĐOẠT LẠI. BẢN VẼ ĐƯỢC BÊN TRONG.


      bản vẽ xuất màn hình.






      Cả hai tiến sang tủ kế tiếp, nơi có bức tượng Sakhet mắt màu xanh lá. Dan chạm vào màn hình.


      TƯỢNG SAKHET THỨ HAI DO EKAT HOWARD CARTER[2] PHÁT , NĂM 1916, TRONG LĂNG HATSHEPSUT[3], THEBES. KIỂM TRA BAN ĐẦU ĐẠT ĐƯỢC KẾT QUẢ. BỨC TƯỢNG NAY ĐƯỢC KIỂM TRA BẰNG CÔNG NGHỆ PHÁ HỦY TIÊN TIẾN BAO GỒM CHỤP X QUANG KỸ THUẬT SỐ VÀ CHỤP CẮT LỚP 3 CHIỀU. KẾT QUẢ: BỨC TƯỢNG HOÀN TOÀN NGUYÊN KHỐI, CÓ KHOANG CHỨA BÍ MẬT.


      [2] Howard Carter (1879-1939): Nhà thám hiểm, nhà khảo cổ, nhà Ai Cập học lỗi lạc người , người phát ra lăng mộ vua Tutankhamun.


      [3] Hatshepsut, con pharaoh Thutmosis I, vợ và em pharaoh Thutmosis II, trị vì Ai Cập trong khoảng 1479-1458 TCN, thuộc Vương triều thứ 18. Được đánh giá là trong những nữ vương quyền lực nhất trong lịch sử thế giới cổ đại, trị vì trong 21 năm. Bà để lại loạt những công trình và tác phẩm điêu khắc ấn tượng, trong đó có kiệt tác kiến trúc lăng mộ Djeser-Djeseru.


      Rồi cả hai chuyển qua bức tượng Sakhet còn lại. Dan lại chạm vào màn hình.


      DO BAE OH MUA, NĂM 1965


      KHOANG BÍ MẬT DO ALISTAIR OH KHÁM PHÁ.






      Amy quay trở lại bức tượng Sakhet thứ hai được Howard Carter tìm ra. Con bé biết Carter là nhà khảo cổ lừng danh. Về sau, năm 1922, ông tiếp tục phát ra lăng vua Tutankhamen.


      “Chỗ này viết rằng họ bỏ ra nhiều năm để nghiên cứu các tấm bản đồ,” Dan . “Cả hai giống nhau, nhưng vẫn có các điểm khác biệt. Chưa ai biết chúng có ý nghĩa gì. Họ cho rằng đó là bản đồ của lăng mộ. Nhưng các tấm bản đồ khớp với bất kỳ nào được khám phá.”


      “Bức tượng này có khoang bên trong, điều ấy lạ sao?” Amy thắc mắc. “Có lẽ Howard Carter tìm nhầm. Có lẽ ngoài kia vẫn còn tượng Sakhet khác.”


      Quá mải mê quan sát các bức tượng, chúng hề nghe thấy tiếp gậy khua lách cách. “Chính xác là như thế, trẻ ạ,” Bae Oh lên tiếng. “Đó là điều ta tin. Và ta tin rằng thằng cháu ta có nó trong tay.”





      CHƯƠNG 6


      LÃO TA TỪ ĐÂU CHUI RA NHỈ? Dan tự hỏi. Nó thấy cánh cửa nào. Cứ như lão ta từ trời rơi xuống. Đáng sợ .


      “Vì duyên may ta được biết hai đứa đặt phòng khách sạn bằng họ của ta. Ta cứ nghĩ đó là thằng cháu ta kia đấy. Rất tiếc ta lại gặp nó. Nhưng ta mong gặp được nó.” Bae mỉm cười, song trông lão cứ như chìa hàm răng ra cho nha sĩ khám. “Nhưng chẳng phải vì thế mà ta thấy vui khi được gặp hai đứa.”


      Dan tin được lấy nửa chữ lão ta . Nó nghĩ về cánh cửa ra bị khóa. Nếu chạy, chúng phải chạy đâu? Thằng bé thấy Amy cũng nhìn ra sau chỗ lão Bae đứng. Chị nó cũng tìm lối thoát.


      Nụ cười quái gở của Bae càng nới rộng, cứ như lão ta ngửi thấy nỗi sợ hãi của chúng. “Hai đứa có thích căn cứ Ekaterina nào?” Lão vung vẩy cây gậy nạm ngọc. “Thú là ta rất đỗi tự hào về nó. Chính tay ta thiết kế nơi này.”


      “Chỗ này nhiều đồ lắm nhỉ?” Dan .


      Nụ cười của Bae biến mất. “Ngay cả những người khác thuộc chi Ekat cũng là những kẻ tài. Bọn họ hiểu được thiên tài của ta chẳng liên quan gì đến vinh quang cá nhân của ta cả - ta thiết kế ra nơi này dành cho tất cả mọi Ekat. Tuy nhiên, ta có sai hay khi rằng cũng chính ta tiên liệu mua cả cái khách sạn này? Chính ta làã nhìn trước tất cả? Cairo trước đây từng có căn cứ của nhà Ekat, nhưng nó khác xa với nơi này. Chỉ là ngôi nhà tồi tàn do Howard Carter lập cho chúng ta từ năm 1915 khi ông ấy tìm bức tượng Sakhet thứ hai. Trong suốt Thế chiến thứ hai, chi Ekat buộc phải giải tán các món cổ vật khắp nơi, và ta nhận thấy là khôn ngoan hơn nếu xây dựng hẳn căn cứ khác vững chãi hơn. ai hiểu được cần thiết ấy. Ta phải tốn nhiều năm trời mới thực được. Và khi công nghệ phát triển, ta nâng cấp cho nó. Nơi đây cũng tuyệt vời như viện bảo tàng, hai đứa có nghĩ như thế nào? Còn hơn như thế nữa. Đây quả là nơi vinh danh xứng đáng cho vô vàn các thiên tài là hậu duệ của Katherine.”


      “Bao gồm cả cháu ông,” Amy .


      “Bah.” Chiếc miệng mỏng của Bae cong lên vẻ khinh bỉ.


      “Cháu cứ nghĩ tên của ông là Bae chứ phải Bah,” Dan bảo. “Cháu tệ !”


      Bae ném cho Dan cái nhìn hắc ám của lão. Thằng nhóc thấy toàn thân ớn lạnh. Cảm giác giống như nhìn cận cảnh cặp mắt cá mập. Ngay trước giây phút nó há ngoác hai hàm răng xé ta ra làm hai mảnh.


      “Ta nghe mày là thằng nhóc khôn ngoan,” Bae bảo Dan. “Chắc chắn mày tiến xa.” Lão chuyển cái nhìn sang Amy. “Nhưng còn với ta, từ lâu Alistair nỗi thất vọng ê chề. cái đầu xuất chúng trong thằng ngu xuẩn.”


      “V-vậy tại sao ông muốn gặp lại ông ấy?” Amy thắc mắc. Có thể nó bị dồn vào chân tường, có thể bị đe dọa, nhưng Amy để lão già độc ác này bắt nạt chúng.


      “Ta là chú nó. Ta hứa với người quá cố mến thương của ta trông nom nó. Khi Alistair còn trẻ, nó đầy triển vọng. Chính nó tìm ra cách mở bức tượng Sakhet thứ ba. Thế rồi nó bỏ để trở thành tay phát minh, và nó phát minh ra cái gì nào? thứ giấy các-tông đông lạnh vô vị thể nào tiêu hóa được, thứ đồ ăn dỏm đó!”


      “Cháu nghe rằng ông ấy kiếm được vài triệu đô từ miếng các-tông đó,” Dan bảo.


      Bae dồn trọng tâm cơ thể vào cây g“Mày phải hiểu điều này. Tiền bạc phải là biểu của thành công. Đối với người thuộc chi Ekat. Đây chính là lý do vì sao bọn ta ưu tú hơn tất cả các chi tộc còn lại. Bọn ta xem trọng thứ gì ư? phải là quyền lực như bọn Lucian, phải cơ bắp như bọn Tomas, cũng phải trí tuệ như bọn Janus. Hoàn toàn . Mà là thứ khác to tát hơn. Là kỹ năng. Là cảm hứng. Và biến những thứ đó trở thành hữu ích.” Lão khua cây gậy. “Tụi mày thấy các Ekat chúng ta tạo ra những gì rồi đó!”


      “Bọn cháu vừa thấy số ví dụ khủng khiếp được kỹ năng của chi Ekat tạo ra,” Amy chỉ trở lại tấm màn bóng tối.


      “Ta nghĩ mày phải thông minh hơn thế chứ, quý trẻ tuổi. Nhận xét đó phù hợp với mày tí nào.”


      “Tại sao?” Amy hỏi. “Chẳng lẽ cháu phải cảm thấy ấn tượng với các trại tập trung và bom nguyên tử hay sao?”


      Bae dằn mạnh cây gậy xuống đất. “Đó là phản ứng ủy mị! Chi Ekat độc ác. Nhưng cũng lương thiện. Họ phát minh. Họ thử thách. Họ dẫn đầu. Có người mất mạng ư? Chỉ là những mối bận tâm nhặt. Điều quan trọng ở đây chính là khám phá. phát minh. Mày có hiểu ?”


      “Phải, chúng cháu hiểu rồi,” Dan chen vào. “Thưa tổng đài 1080[1] - ông đúng là kẻ đáng ghê sợ.”


      [1] Tiếng lóng Mỹ, nguyên văn là “four-one-one”.


      Bae Oh tiến lại gần chúng, và chúng lùi về phía sau bước. “Hai đứa bọn mày cũng là người của dòng họ Cahill. Bọn mày đều biết rằng cái khiến ta phi thường cũng đôi khi khiến ta trở nên nguy hiểm. Tổ tiên của chúng ta chính là minh chứng cho điều này. Bọn mày phải học từ sai lầm cũng như từ các chiến tích của họ. Chẳng phải thế sao?”


      Amy muốn nghe những gì lão . Nhưng rốt cuộc lão ta cũng có lý đấy chứ.


      Lão già lại tiến thêm bước, chìa tay ra với vẻ ân cần. Cả hai tiếp tục lùi lại. đời nào Dan muốn đến gần lão già độc ác này.


      “Đến đây nào,” lão tiếp tục bằng giọng mà có lẽ chỉ lão mới cho là ấm áp. Nhưng trái lại, nó vô cùng đáng sợ. “Chúng ta đều là người nhà. Chúng ta nên là đồng minh của nhau. Hai đứa đến xa được nhường này trong hành trình tìm kiếm ba mươi chín manh mối, thế nhưng ai cũng cần giúp đỡ cả. Vậy cuộc trao đổi thông tin đơn giản sao nào? Ta cho hai đứa biết những gì ta biết về truyền thuyết tượng thần Sakhet. Còn hai đứa cho ta biết những thứ liên quan đến thằng cháu của ta. Ta biết nó rất mến hai đứa.”


      “Mời ông trước,” Dan lên tiếng.


      Bae nghiêng đầu sang bên. “Rất sẵn lòng. Ta cho hai đứa thấy tín nhiệm, và hai đứa cũng làm như thế, ta đoan chắc như vậy.” Lão lấy gậy trỏ vào bức tượng Sakhet đầu tiên. “Đây là bức tượng mà chi Ekat biết nhất. Tổ tiên vinh quang Katherine của chi Ekat, nữ hoàng của khéo tay, rời châu Âu đến Ai Cập. Hai đứa có thể hình dung người phụ nữ có lòng quả cảm đến nhường nào để mình đơn độc du hành vào đầu thế kỷ 16 hay ? Bọn ta biết bà đến Cairo và mua ba bức tượng Sakhet . bức tượng có mắt bằng đá ruby, bằng đá lapis, tượng thứ ba bằng ngọc lục bảo. Rồi bà giả trang thành nam giới và rời khỏi Cairo. Bọn ta biết được bà gặp gỡ gia đình của những kẻ cướp mộ và thuê bọn họ mang bà theo chuyến hành trình ngược dòng sông Nile. Bà cất giấu từng bức tượng Sakhet, và mỗi bức tượng đều chứa bí mật.”


      Bae nhìn bức tượng chăm chú. “Bức tượng đẹp , phải ? Chẳng phải ngẫu nhiên mà Katherine lại chọn nữ thần. Bà tin rằng mình chưa từng được nhận công bằng vì bà là phụ nữ. Và vậy.” Lão thở dài. “Chúng ta vẫn biết làm thế nào các chi tộc còn lại tìm ra manh mối của Katherine, nhưng chúng ta biết bọn chúng vẫn tìm kiếm suốt nhiều thế kỷ. Cái tên Lucian thấp bé tởm lợm khó ưa Napoleon ấy ra lệnh cho lũ học giả của để mắt đến từng bức tượng Sakhet. Nhiều người cho rằng ta quyết định xâm chiếm quốc gia này chỉ để chiếm đoạt nó. Nhưng Napoleon chưa hề nổi danh bởi trí tuệ mà có.” Bae khịt khịt mũi khinh bỉ. “ Lucian khác dẫn theo cùng đoàn thám hiểm mới chính là kẻ làm nên chuyện. Đó chính là Bernadino Drovetti[2]. mới là kẻ phát ra bức tượng Sakhet. Nó nằm trong bộ sưu tập cá nhân của Napoleon. Các Ekat nhiều lần cố gắng cướp lại nó. Cuối cùng, Drovetti cho rằng có thể giữ cho nó được an toàn khi chuyển nó về bộ sưu tập dành tặng bảo tàng Louvr


      [2] Tên đầy đủ là Bernardino Michele Maria Drovetti (1776-1852) - nhà ngoại giao, luật sư, nhà hải dương học, được Napoleon bầu làm cố vấn cho quân đội viễn chinh Pháp xâm lược Ai Cập.


      Amy sợ hãi dám nhìn vào Dan. Bernardino Drovetti - có phải ông ấy là nhân vật “B.D” viết nên lá thư chúng tìm thấy ở Tòa nhà Sennari hay ?


      Manh mối đường về đến cung điện của L ở Paris...


      “May mắn làm sao, Ekat của chúng ta cũng là nhà khảo cổ làm việc tại bảo tàng Lourve. Ông ta tuyên bố đó là bức tượng giả và cuỗm được nó ra khỏi bảo tàng. Ông cho tuồn nó về đến tay bọn ta để tiến hành nghiên cứu. Ha! Ngay trước mũi Drovetti! Thế là chúng ta tìm thấy mảnh ghép đầu tiên trả lời cho trò ghép hình.”


      Nhưng có lẽ vẫn còn bức tượng Sakhet khác, Amy nghĩ. bức tượng mà ai biết đến. Drovetti gửi nó đến lâu đài.


      Bae bước vài bước lại gần bức tượng Sakhet thứ hai. Amy và Dan buộc phải bước lùi theo, nếu chúng đứng quá gần lão già. “Cuộc tìm kiếm các bức tượng Sakhet vẫn tiếp diễn. Tin tức lan truyền, thế là rất nhiều thành viên dòng họ Cahill ùa đến Ai Cập với hy vọng tìm thấy. Trong số đó có nhà thám hiểm vĩ đại Richard Francis Burton[3], Winston Churchill[4], Flinders Petrie[5], Mark Twain[6]... chẳng ai trong số bọn họ là Ekat. Bọn ta thích thầm thực công việc hơn.”


      [3] Richard Francis Burton (1821-1890), nhà thám hiểm, nhà Đông phương, nhà ngôn ngữ, điệp viên, nhà ngoại giao lừng danh bởi các cuộc thám hiểm và du hành ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ, bên cạnh kiến thức uyên bác khác thường khi thông thạo gần 30 ngôn ngữ cũng như các nền văn hóa thế giới. Ông còn là chiến binh quả cảm, đại tá phục vụ trong đạo quân của công ty Đông Ấn tại Ấn Độ.


      [4] Winston Churchill (1874-1965), chính trị gia người , thủ tướng trong Thế chiến thứ hai, đồng thời là nhà báo, họa sĩ, chính trị gia xuất chúng, trong những lãnh đạo quan trọng nhất của nước và thế giới, đoạt giải Nobel Văn.


      [5] Flinders Petrie (1853-1942), nhà Ai Cập học người , tiên phong phương pháp hệ thống trong khảo cổ, chủ tịch ngành Khảo cổ học đầu tiên ở nước .


      [6] Mark Twain, tên Samuel Langhorne Clemens (1835-1910), nhà văn, nhà báo, nhà diễn thuyết nổi tiếng của Mỹ, tác giả các cuốn sách: “Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer”, “Hoàng tử và kẻ ăn mày”, “Cuộc sống dòng Mississipi”...


      “Có cả Mark Twain ư?” Dan tò mò.


      Janus,” Bae lại khịt khịt mũi. “Hậu duệ của Jane rặt lũ ba hoa. Mãi cho đến khi Howard Carter bắt tay vào thực bọn ta mới thấy được bức tượng thứ hai. Hết ngôi mộ này sang ngôi mộ khác, hết cuộc khai quật này đến cuộc khai quật khác. Ông chạy đua với Flinders Petrie.”


      nhà khảo cổ lừng danh khác,” Amy lên tiếng. “Ông ấy là Lucian ư?” nó đoán.


      Bae gật đầu. “Lẽ dĩ nhiên, Ekat là chi giành chiến thắng. Carter tìm thấy bức tượng. Là nó đây, với đôi mắt làm bằng ngọc lục bảo. Chỉ có vấn đề. Bức tượng này hoàn toàn đặc. Bọn ta tìm được cách mở nó ra. Nó giống hệt với các tượng Sakhet khác, nhưng lại có khe bí mật nào cả. Bọn ta chắc chắn về điều này. Vậy câu trả lời là gì? Phải chăng vẫn còn bức tượng Sakhet khác? Chắc chắn là thế. Đích thân ta, khi hãy còn là gã trai trẻ, ta chỉ biết tìm và tìm nó. Ta lui đến từng cửa hiệu ở Cairo. Tìm bằng hết từng catalog bán đấu giá vật, đến gặp từng kẻ buôn hàng chợ đen . Và ngày nọ, ta tìm thấy bức tượng thứ ba.” Bae nhìn bức tượng bằng vẻ sùng kính. “Bức tượng mắt xanh thực báu vật.”


      Bae tựa người vào cây gậy, bất thình lình trông lão già nua và thảm bại. “Bọn ta vẫn thể giải được mật mã ấy. Thất bại ngay tại điểm quan trọng như thế. Bọn ta vẽ mô hình máy tính, viết ra các phần mềm cốt để giải đáp bí này. Có đến hàng trăm ngôi mộ ngoài kia vẫn chưa được khám phá ra. Bất kỳ ngôi mộ nào trong số chúng cũng đều có thể chứa bức tượng. Có thể bọn ta hiểu sai về gợi ý của Katherine. Hay biết đâu bà bức tượng Sakhet thứ tư để đề phòng. Chẳng thể gì chắc chắn được.


      Lão bước loạng choạng về phía hai đứa, đôi mắt khẩn khoản. “Ta là kẻ đứng đầu chi Ekat,” lão giọng khàn đục. Chừng như lão hết hơi. “Alistair là đứa kế tục vị trí của ta. Nếu như nó có bức tượng Sakhet, bọn chúng chào đón và tôn vinh nó. Ta có thể thoái lui trong mãn nguyện. Nhưng giữa bọn ta có khác biệt. Nó quá kiêu hãnh nên muốn ta giúp đỡ. Nhưng ta phải giúp nó. Vì chính nó và cũng vì những thành viên chi tộc Ekat. Hai đứa có hiểu được ?” Khuôn mặt Bae dịu lại. Lão bước đến gần chúng hơn. “Ta làm điều này cũng vì nó. Hãy cho ta biết có thể tìm thấy thằng cháu ta ở đâu?”


      Dan nhìn Amy. Có phải con bé tin điều này ? Mắt Amy dịu . Dan kéo mạnh khuỷu tay chị nó, buộc Amy bước lui lại. Thình lình, nó nhận thấy rằng mình ở trong tầm với chiếc gậy của Bae.


      “Rất tiếc phải với ông điều này,” Dan . “Nhưng ông Alistair chết rồi.”


      Bae nhìn Dan giận dữ. Dan chằm chằm nhìn lại lão, chớp mắt.


      lấy làm tiếc,” cuối cùng Bae lên tiếng, “là bọn mày dối.”


      yếu ớt chợt biến mất. Bae chuyển động nhanh cách đáng kinh ngạc. Lão vung chiếc gậy lên và khua nó vào góc xa của trần nhà. Từ trong những viên ngọc nạm vào đầu gậy bắn ra tia laser. Hai đứa nghe thấy tiếng rì rì nho .


      tủ kính kích thước bằng căn phòng từ trần sập xuống. Hai đứa nhận ra Bae lừa để lùa chúng vào chỗ quá muộn. Tụi nó bị nhốt bên trong bốn bức tường làm bằng nhựa siêu cường và hoàn toàn cánh cửa nào.


      “Bọn mày vẫn ở đó cho đến khi chịu ra ,” Bae bảo. “ cuộc trưng bày hai đứa trẻ ngu ngốc dành cho các hậu duệ của Katherine thưởng thức.”





      CHƯƠNG 7


      IRINA SPASKY GIẬN BẢN THÂN VÔ CÙNG. Nếu được ả tự ném mình vào gulag[1] cho rồi. Ả xứng đáng phải chịu cảnh thời tiết lạnh căm, với chiếc chăn mỏng, vỏn vẹn củ cải thối để đoạn tháng qua ngày. Sao mà ả lại để cho hai cái đứa nghiệp dư, hai đứa con nít, qua mặt ược chứ?


      Và nếu ả buộc phải nuốt thêm cái falafel[2] khác, ả nôn ngay. cái đất nước điên khùng này sao tìm thấy được củ khoai tây luộc cho ra hồn.


      [1] Nhà tù dành cho tù nhân chính trị của Liên Xô cũ.


      [2] Falafel là loại bánh truyền thống của các dân tộc Ả Rập, Do Thái, có hình tròn, làm từ bột đậu xanh và/hoặc đậu fava, bên ngoài rắc vừng, được chiên vàng.


      quá đủ với đồ ăn ngoại quốc rồi. Quá đủ với cái màn hóa trang làm du khách. Ả xé phăng chiếc áo thun TÔI MUỐN XÁC ƯỚP ra với vẻ kinh tởm. Bên trong, ả mặc chiếc áo thun đen trơn hiệu Gap. bí mật nho của riêng ả - ả thích sản phẩm nhãn Gap của Mỹ. Áo có đủ mọi màu sắc! Ả ngồi ghế trong căn phòng khách sạn rẻ tiền và ngó xuống dòng xe cộ đông như mắc cửi bên dưới. Ả ấn ngón tay vào mắt, con mắt vừa bắt đầu giật giật. Ả phải suy tính.


      Ả suýt nữa tóm được hai đứa kia, những hai lần, và lại để tuột mất chúng! Ả mất tập trung hay sao?


      Irina muốn trở về mảnh đất quê nhà. Ả từng làm điệp vụ ở Cairo trước đây hồi còn ở KGB. Ả làm việc hiệu quả ở đây. Người dân quá thân thiện. Nếu hỏi đường ai đó, họ cùng và dẫn đến tận nơi. Và trời lại quá nóng. Chẳng bao lâu nữa tuyết phủ lên các bậc thềm ở Moscow, vậy mà ở đây nhiệt độ ngoài 300C. Ả vặn quạt trần lên hết cỡ.


      Irina vẫn còn hai đứa mất nết khác trong tay - Ian và Natalie Kabra. Cả ba buộc phải hợp tác với nhau, và hai đứa biết-tuốt đó cứ ngừng lấn lướt ả. Giờ chúng ở Kyrgyzstan, thèm trả lời điện thoại. Cuối cùng, ả cũng đành phải gọi cho cha mẹ chúng. Và chưa bao giờ ả thích chuyện với nhà Kabra. Bọn họ có quan hệ từ trước với nhau, và thậm chí ả còn chẳng tin tưởng vợ chồng nhà đó bằng lũ nhóc của họ nữa kìa.


      Hai đứa nó. Thiên tài, nhưng ngu ngốc.


      Hệt như cha mẹ chúng.


      Cha mẹ chúng... Irina lắc đầu, cố gắng xua tan ký ức.


      Ả chẳng bao giờ nghĩ đến những gì ả thể thay đổi được. Những thứ xảy ra trong quá khứ. Ngoại trừ lúc này, ngay tại Cairo, ả lại thấy mình nghĩ về Grace Cahill.


      Rất nhiều năm trước những kẻ thuộc chi tộc Lucian cho tiến hành cuộc họp cấp cao để bàn bạc về trường hợp Grace Cahill. Họ biết Grace tìm thấy nhiều manh mối. Dường như bà ta có thiên phú cho việc này. Thậm chí các Lucian cũng phải thừa nhận điều đó. Buộc phải ngăn bà ta lại.


      Chính Irina là người đề xuất ý tưởng liên minh. Dĩ nhiên đó chỉ là cái mẹo. Nhưng đó cũng là cách để tiếp cận Grace, để biết thêm điều gì đó. Irina tiến cử mình làm trung gian. Làm miếng phô mai trong bẫy chuột.


      Ả gặp Grace. mình, mặt đối mặt. Cuộc trao đổi diễn ra rất ngắn. ràng Grace chẳng tin Irina lấy giây.


      cố biến ta thành kẻ ngốc, nhưng, Irina ạ, chính mới là kẻ ngốc, Grace như thế. đề xuất liên minh nhưng về thực chất cũng chỉ là mưu mẹo mà thôi. Có lời nguyền của những Lucian, đó là họ luôn nghĩ mình có thể làm được mọi thứ mình.


      Irina bỏ trong cơn giận điên người. Chưa từng ai dám gọi ả là đồ ngốc. Chưa ai.


      Lại tiếp tục có các thảo luận về trường hợp Grace Cahill. Các kế hoạch được đem ra bàn bạc rồi bị bác bỏ. Rồi đề nghị thương thảo đến với mọi người. Những liên minh yếu ớt đồng ý cốt để nhổ cái gai chung. Mọi chuyện đều ổn. Ngoại trừ... kế hoạch được thống nhất, và mọi thứ đều thất bại. Thất bại thê thảm. Con và con rể Grace mất mạng trong đám cháy


      bao giờ quên được ngày tang lễ diễn ra. Irina biết mình nên có mặt ở đó, nhưng ả thể đến. phải tới để hả hê, như là Grace nghĩ. Khuôn mặt Grace quá trắng và bất động. Cái chết của đứa con , của chàng rể quý, bi kịch của hai đứa cháu ngoại mồ côi - trông Grace như già nhiều tuổi. Bà đứng như bà lão và đôi mắt chất chứa nỗi buồn vô hạn. Hai bàn tay bà run rẩy thả những bông hồng xuống hai cỗ quan tài khi người ta hạ chúng xuống lòng đất.


      Irina muốn , Tôi cũng từng biết nỗi đau này.


      Nhưng ả .


      Ả muốn , Tôi từng lang thang những con đường ở Moscow như bóng ma. Hồn tôi tan nát, tim tôi tan nát. Ả muốn ,Chúng nghĩ nỗi buồn quá ồn ào, Grace ạ. Chúng nghĩ bà khóc, than. Nhưng tôi biết, nỗi buồn cũng lặng lẽ như tuyết rơi.


      Tôi cũng mất đứa con.


      bất cứ điều gì. Ký ức là của riêng ả. Ả phong kín chúng lại. Thứ duy nhất còn lại chính là con mắt luôn giật giật mỗi khi ả xúc động.


      Ngày hôm đó ả trách Grace vì buộc ả nhớ lại các ký ức của mình. Ả tỏ ra lỗ mãng, lạnh lùng. Ả từng với Grace, “Số phận chẳng chừa ai. Những chuyện đó tất phải xảy đến.”


      Những chuyện đó tất phải xảy đến, ả điều ấy với người mẹ vừa mất con. Ả nghe được chính những lời mình vừa ra vọng lại và bị sốc trước lạnh lùng của chúng. Ả muốn rút chúng lại. Ả muốn bày tỏ cảm thông, để trở thành người cũng có máu chảy trong huyết quản.


      Nhưng ả làm thế. Thay vào đó, Irina cảm nhận được khinh miệt của Grace tràn ngập ả, như từng đợt sóng nọ nối tiếp đợt sóng kia từ eo biển Bering lạnh giá. Rồi, trong phút chốc, thái độ khinh miệt ấy hóa thành hồ nghi.


      Irina dám nhìn vào mắt Grace.


      Thế nên, quá lời khi rằng ả ngạc nhiên vì được mời đến dự đám tang của Grace. Chỉ khi ả biết các thành viên khác của dòng họ Cahill cũng được mời, ả mới quyết định có mặt. Tất cả mọi người trong căn phòng. Tất cả những hiềm thù xưa cũ. Và Grace trở thành kẻ điều khiển con rối.


      Có phải Grace giăng cái bẫy mà chính ả cũng thấy được? Ai là mồi? Ai là kẻ bị săn?


      Kế hoạch của bà là gì, hở Grace? Lúc nào mà bà chẳng có kế hoạch kia chứ.


      Hai đứa cháu ngoại đó - tại sao Grace lại cho cả chúng tham gia? Chúng ràng thể đánh bại toàn bộ những người thuộc dòng họ Cahill còn lại trong cuộc truy tìm manh mối này. Chúng thua xa tất cả về kiến thức lẫn rèn luyện. Quá trễ để có thể bắt kịp. Đến nay, chúng rất may mắn. Và chỉ có thế. Hai đứa trẻ có ai giúp đỡ, chạy đua nỗi sợ hãi và mất mát...


      Sợ hãi.


      Mất mát.


      Những điều ta biết. Những điều ta từng chứng kiến.


      Ả lại thấy mắt mình giật giật. Ả tự vả vào mặt mình, cố ghìm lại cơn xúc động.


      Quá khứ là quá khứ.


      Ngoại trừ ở Ai Cập này nơi ả diện, và bất cứ nơi nào khác ả nhìn đến, chính bầu khí dường như thầm với Irina rằng quá khứ vẫn sống động vô cùng...







      CHƯƠNG 8


      ĐIỀU GÌ ĐẾN ĐẾN. Sau nhiều năm căm ghét bảo tàng, rốt cuộc thằng bé biến thành món đồ triển lãm. Dan ấn lòng bàn tay vào tường. “Cứu với,” nó


      “Em nghĩ xem lão nhốt chúng ta ở đây bao lâu?” Amy hỏi.


      “Tới khi chúng ta chịu phun ra,” Dan trả lời.


      “Làm sao phun được chứ? Mình có biết gì đâu.”


      “Em biết là em đói,” Dan . “Nếu lão Oh ấy cho em cái pizza, em nghĩ ra điều gì đó.”


      “Nellie rồi thắc mắc xem hai đứa chúng ta ở đâu,” Amy .


      “Chị ấy tìm ra được đâu.”


      “Nellie báo tiếp tân. Có lẽ bọn họ gọi cảnh sát...”


      “Chị hiểu vấn đề sao? Lão ta là chủ cái khách sạn này. Họ chẳng làm bất cứ điều gì đâu.”


      “Lão thể nhốt chúng ta ở đây được,” Giọng Amy run run, và con bé bắt đầu thấy khó thở. Nó từng đặt chân đến những nơi còn tồi tệ hơn thế này. Dẫu vậy, cái khối bằng nhựa plexi này vẫn khiến con bé thấy hốt hoảng. Như thể bản thân nó chỉ là món trưng bày nào đó chứ phải con người. Amy cố hít thở. “Trong cái thứ này có bao nhiêu khí vậy?”


      “Em biết,” Dan đáp. “Có lẽ là... có lẽ chúng ta nên chuyện.”


      Giờ Amy lo sợ cho thằng bé. Vấn đề nghiêm trọng của Dan là bị hết hơi. Amy đứng thẳng vai lên. Con bé để lộ ra điều đó. Amy từng hoảng sợ trước mặt Dan, nhưng nó làm thế nữa. bao giờ.


      “Chị chắc chắn đủ.” Nhưng đủ trong bao lâu?


      Ý nghĩ đó vừa lóe lên và Amy vội gạt phăng nó . sợ hãi có giảm đôi chút. Nó có thể làm điều đó. Con bé hiểu vào lúc này cái mẹo để dũng cảm là nghĩ đến điều tồi tệ nhất có thể xảy ra. kỳ cục - khi ta đóng vai dũng cảm, gần như ta có thể cảm thấymình dũng cảm.



      ***


      “Mấy nhóc ơi?” Nellie từ trong phòng ngủ gọi ra. “Tốt nhất là nên có thức ăn xếp hàng chờ chị đấy nhé!”


      có tiếng trả lời. “Các bạn trẻ ơi?” Nellie buộc dây chiếc áo choàng tắm dày cộm của khách sạn. “Các bé lùn[1] ơi?” Hai đứa rất ghét bị Nellie gọi bằng tên đó. Nhưng cũng chẳng có tiếng la ó phản đối nào cất lên.


      [1] Munchkin, nhân vật trong bộ phim “Phù thủy xứ Oz”, là những chú lùn mặc đồ màu xanh.


      Nellie mở cửa. Căn phòng trống trơn. Chiếc áo choàng nằm sàn cạnh cây dù gãy. Hai đứa lại xổ lồng biến mất tăm.


      Ây da. Ai trách được chúng đây? Tụi nhóc ở trong khách sạn năm sao, và chúng muốn khám phá. Nellie quăng người lên chiếc sofa và trao cho mình cái thú thưởng lãm đầy xa hoa thực đơn phục vụ tại phòng.


      Hai mươi phút sau, nàng cày xới được kha khá bảng phân loại các món ăn quyến rũ có tên là meze. Nhưng thậm chí với những miếng sabanikhiyat cuối cùng trôi tuột vào dạ dày, Nellie vẫn nhận ra bụng mình chứa đầy lo âu hơn là rau bina.


      xảy ra chuyện rồi. mất quá nhiều thời gian để Nellie nhận ra điều này. Chuông báo động trong lẽ ra khua vang từ trước đó rất lâu rồi mới phải. Nellie trở nên cẩu thả. Nên đổ lỗi cho cơn đói hay cho mệt mỏi do lệch múi giờ đây, nhưng thể bào chữa như thế được. Mi phải giải thích nọ kia nếu vẫn chưa chịu động não ngay bây giờ, Nellie ạ.


      Nellie được dạy là tỏ ra hoảng hốt, vì thế hoảng hốt. nàng bật dậy và dò xét căn phòng. Thoạt tiên, nhận ra chiếc áo choàng nằm sàn cạnh cánh cửa. Trước đó cho đấy chỉ là thói quen bừa bãi của Dan, nhưng khi xem xét kỹ càng hơn, Nellie nhận thấy cách nó nằm sàn giống như ai đó cởi phăng nó ra vì rất vội vã. Trong khi đứng đối diện cánh cửa...


      Nellie nhảy bật về phía trước. nàngỹ lưỡng từng centimet của cánh cửa. Rồi nhìn sang chiếc dù gãy nằm sàn. Và mọi thứ đột nhiên trở nên ràng.


      ***


      Nellie trông thấy hai đứa nhóc trước khi chúng phát ra . Tim nàng thắt lại. Chỉ cần nhìn thấy hai đứa thôi cũng đủ khiến Nellie cảm nhận được luồng thanh thản ùa đến. Nhưng làm thế nào để mang chúng ra khỏi đó? Nellie hít hơi sâu và tự trấn an mình. phải giữ cho tụi nó bình tĩnh.


      Amy nghe thấy tiếng đôi dép khua sàn và vội quay phắt lại. Nhưng nỗi sợ hãi trong mắt nó chuyển thành cảm giác nhõm. “Chị Nellie!” có thể nghe rất tiếng của con bé. Hẳn là khối hộp này cách .


      Nellie cắn miếng pita[2]. “Nơi này là cái gì thế hả?” thắc mắc.


      [2] Bánh mì dẹp vùng Trung Đông.


      “Chị Nellie? Ừm, chị có nhận thấy gì ?” Dan hỏi. “Rằng, chúng em bị nhốt trong khối hộp?”


      cố hành động như chẳng có gì xảy ra, nhưng Nellie vẫn có thể nghe thấy hơi thở nó gấp gáp. mang sẵn ống thở trong túi áo phòng khi nó cần. Nhưng mà tốt hơn biết bao nếu như nó cần dùng tới.


      Nellie lại cắn thêm mẩu bánh. Thậm chí trong khi nhai, Nellie vẫn tinh ý đánh giá tình hình qua cái liếc mắt đầy bình tĩnh. Con Saladin xuất , dụi đầu vào mắt cá nàng. “Hai cậu này là cơn ác mộng tồi tệ nhất của au pair. Đây có thể là cách để tôi kiểm soát hai cậu. Nó, xem nào, là phương pháp đó.”


      “CHỊ NELLIE!” hai đứa đồng thanh la lên.


      “Lão ta có thể quay lại bất cứ lúc nào!” Dan .


      “Ai chứ?”


      “Bae Oh! Lão ta là người nhốt chúng em vào đây.”


      “Lão già mà hai đứa kể với chị đó ư? Lão ta làm gì, vật tay với hai đứa hả?”


      “CHỊ NELLIE!”


      Nellie bước xung quanh khối hộp, rồi dùng ngón tay gõ gõ vào đó. “Có gợi ý gì ?”


      “Chị nhìn lên góc trái đằng xa kia,” Amy . “Mạch điện nằm ở đó.”


      “Lão ta chỉ tia laze vào đó,” Dan thêm.


      Nellie vỗ mạnh vào túi áo choàng của . “Ui cha, hình như chị mang theo đèn laze với bài thuyết trình PowerPoint rồi.”


      “Thôi mà Nellie!”


      nàng bước thẳng đến góc tường ngẩng đầu nhìn lên . “Chị thấy rồi.” lấy chiếc bánh pita, cúi xuống và cho con Saladin. “Nó thích bánh hummus[3],” . “Có ai biết điều này chưa?”


      [3] Bánh Hummus là loại bánh truyền thống ở các nước Trung Đông, dùng như món khai vị.


      nó là giống mèo Mau Ai Cập mà,” Dan trả lời. “Biết đâu đây là sản vật quê hương của nó.”


      “Đây đâu phải lúc cho mèo ăn chứ!” Amy la lên.


      Saladin liếm mép và lại bắt đầu cọ vào chân Nellie đòi ăn thêm.


      Nellie bẻ ra miếng hummus nữa. lại ngẩng đầu nhìn lên góc phòng. Nellie nhắm kỹ rồi ném miếng bánh lên trần nhà. Thiện xạ chính là trong những kỹ năng của nàng, bên cạnh tuyệt chiêu làm sandwich phô mai nướng ngon nhất quả đất. Saladin ngó theo theo ánh nhìn của . “Nào, mèo con. Đến lấy thức ăn nào!” Nellie thúc giục.


      Saladin nhảy phốc lên tủ kính trưng bày, thu mình lại chuẩn bị phóng lên. Nó lao vút lên trần nhà, đáp xuống khung kim loại giữ hệ thống ánh sáng trong căn phòng. Chú mèo thong thả bước đến cuối thanh sắt, nhảy phốc qua để tới chỗ tụ điện, và bắt đầu lm láp bộ phận kích hoạt điện.


      Khối hộp hơi lung lay, và dần dần nâng lên.


      “Hãy ra khỏi đó mau!” Nellie lớn. “Khi nó ăn xong miếng hummus, hai đứa bị nấu chín đó! Tia laze kích hoạt trở lại.”


      Amy đẩy Dan ra khoảng gian trống và tự mình lăn theo sau. Con bé nhấc chân ra khỏi vừa kịp lúc Saladin uể oải nhảy trở lại sàn nhà và khối hộp đóng sầm xuống chỗ cũ.


      “Lưỡi mèo bá cháy,” Nellie giọng đầy vẻ hài lòng.


      Amy đứng dậy và phủi bụi ở hai cổ tay. “Làm cách nào chị tìm ra chúng em?”


      “Cũng mất lúc,” Nellie trả lời. “Rồi chị trông thấy cái áo choàng của ông này sàn. Đó là gợi ý chính cho chị tìm hai đứa.”


      “Chờ ,” Dan hậm hực. “Ông á?”


      “Coi nào, thông thường chị nghĩ rằng việc mở cánh cửa ấy bằng dù là quái gở. Nhưng mà chị theo hai đứa suốt, thế nên mới nghĩ, à tại sao lại nhỉ?”


      “Lão Bae có thể trở lại bất cứ lúc nào,” Dan . “Em nghĩ có lẽ chúng ta nên ra khỏi nơi này và tìm cho mình khách sạn khác.”


      “Bae Oh là chủ khách sạn này, chị nhớ ?” Amy . “Làm sao chúng ta có thể ra khỏi đây mà bị phát chứ?”


      “Hãy áp dụng sinh học thường thức,” Dan , liếc nhìn chiếc áo choàng Nellie mặc. “Động vật tự bảo vệ mình bằng màu sắc.”


      ***


      Bae Oh lịch thiệp gật đầu chào người mặc áo đen. “Ông cần phải có mặt ở đây,” lão . “Tình hình vẫn được kiểm soát.”


      “Ông xác định được cháu mình ở đâu chưa?”


      “Tôi xác định được những đứa thân tín của nó,” Bae . Chỉ cần đêm ở trong căn cứ Ekat, lão moi được thông tin mà lão cần. Lũ cháu ngoại của Grace Cahill chỉ là những đứa nghiệp dư. Chúng phải ói thông tin ra thôi.


      “Vẫn còn quá nhiều yếu tố nằm ngoài kiểm soát của chúng ta,” người áo đen lên tiếng. Nhưng Bae chú ý nữa. Lão nghe thấy tiếng ngao ngao của con mèo. Khách được phép mang thú nuôi vào khách sạn Excelsior.


      Dưới che chắn của cặp kính mát, lão có thể giả vờ lắng nghe người đàn ông áo đen trong khi vẫn quan sát những gì diễn ra đằng sau vai của ông ta. gia đình du khách mặc áo choàng trắng về phía hồ bơi. Họ đội nón mua ở cửa hiệu quà tặng, điều tốt đấy. Lợi nhuận thu được từ cửa hiệu đủ trả cho chuyến nghỉ mát của lão đến đảo Maui[4] năm ngoái. Họ mang theo những chiếc balô to bằng vải bố. Du khách lúc nào cũng chất nhiều đồ.


      [4] Đảo lớn thứ hai trong quần đảo Hawaii, có thiên nhiên hùng vĩ và là thiên đường du lịch.


      Toán khách du lịch này kéo lê inh ỏi chiếc xe phục vụ phòng. Ngoaooooooo! Đó là tiếng mèo kỳ quặc nhất mà lão từng nghe thấy. Trừ phi bọn họ xách theo cả giỏ chuột hamster cho nó.


      Thành viên con nhất cúi xuống và vào cái balô.


      Lần đầu tiên, Bae nhận ra thứ thằng nhóc đó mang. Giày cổ cao màu đen.


      Lũ cháu Cahill. Làm thế nào bọn chúng trốn ra được?


      Ngay cả khi tức giận, Bae vẫn muốn làm mọi thứ rối lên. Lão trông thấy bảo vệ khách sạn có mặt ở góc phòng. Cũng ăn mặc hệt như nhân viên phục vụ với quần trắng áo trắng, bạn chẳng bao giờ đoán ra được nhiệm vụ của những con người này. Trừ phi bạn để ý đến các cơ bắp cuồn cuộn đằng sau những chiếc sơ mi và loa thoại gắn vào tai họ.


      Tất cả những gì lão phải làm là nhấc ngón tay lên. Nghiêng đầu về hướng chúng đến. Bae muốn người áo đen biết những đứa cháu Cahill cố tẩu thoát khỏi khách sạn của mình.


      Cánh bảo vệ nhanh chóng đuổi theo, nhưng vẫn rất kín tiếng. Mọi thứ đáng lẽ diễn ra hoàn toàn như ý nếu trẻ đưa mắt quan sát xung quanh. nàng trông thấy ba tay bảo vệ trước khi bọn chúng kịp trở tay. Nhanh như cắt, cả ba rẽ ngang và bắt đầu bỏ chạy.


      có tiếng động ồn ào. ai la ó hay hò hét. Người áo đen vẫn tiếp tục . Bae quan sát cả bọn chạy về đằng sau khách sạn. Chúng chỉ dừng bước trong chốc lát để tìm lại chiếc balô to kềnh ở sau bụi cây.


      Cố thăng bằng hành lý và con mèo giận dữ bị nhốt trong chiếc giỏ xách, họ tiếp tục chạy. Cánh bảo vệ chỉ còn cách những kẻ đào tẩu chừng vài thước khi bọn họ rẽ vào khúc ngoặt.


      Bae cố gắng kiềm cú ngáp. Lão chẳng cần phải chứng kiến hồi cuối của cuộc đuổi bắt cỏn con này. Lão có trong tay những bảo vệ giỏi nhất Cairo. Bọn kia rồi bị tóm và xử lý cách cẩn thận sao cho du khách hề hay biết. Bọn chúng được mang đến văn phòng của lão, được giữ lại ở đó. có gì phải vội. Cứ để cho chúng nó vã tí mồ hôi chơi.


      “Tôi bảo đảm với ông, là mọi thứ vẫn trong vòng kiểm soát,” Bae với người đàn ông áo đen.


      ***


      Lao băng băng qua các hòn đá khấp khểnh ở lối xe chạy, Amy, Dan và Nellie phi nhanh đến chỗ rẽ. Nellie cố giữ con Saladin và túi hành lý bằng vải bạt. Chiếc balô của Amy nảy tưng tưng lưng con bé, còn giày của Dan bị sút dây. Khi nó thử quay đầu nhìn về phía sau cánh bảo vệ cũng trờ đến.


      “Chúng ta thoát nổi đâu,” Dan trong tiếng thở hồng hộc.


      Bất thình lình, chiếc xe từ bãi đỗ vọt tới. Nó dừng ngay trước mặt cả bọn, ngáng đường chạy của chúng.


      người phụ nữ nhắn tóc bạc phơ mặc tunic và quần thêu trắng nhoài người ra khỏi cửa kính. “ nhờ xe nào?”


      Cả bọn chần chừ.


      “Ôi khó tin quá hả. Điều quan trọng trước nhất, có lẽ là ta nên tự giới thiệu về mình. Ta là Hilary Vale, và ta có bức thư dành cho hai cháu. Thư của bà Grace. Ôi những chiếc áo choàng đẹp.”


      Tiếng bước chân nện thình thịch phía sau họ. “Đứng lại ngay!” gã bảo vệ hét to.


      Hilary nhoài người ra sau và mở cửa xe. “Ta nghĩ đây là lúc để chần chừ đâu các bé con. Nhảy vào xe nào.”

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 9

      HILARY VALE luồn lách qua mạng giao thông của thành phố Cairo với chân đạp số và tay bấm còi. Bà tăng tốc, phanh, đảo tay lái để tận dụng mọi khoảng tí xíu có thể nhét chiếc xe vào được.

      “Tránh đường nào, đồ đầu đất!” bà thò đầu ra cửa sổ hét lên giọng phấn khởi với bất kỳ ai dám cả gan cắt ngang đầu xe.

      Mắt Dan sáng rỡ. “Bà ấy là ngon lành,” nó thầm với Amy.

      Cuối cùng, bà chạy khỏi đường lớn, vọt sang con phố đáng , và rẽ vào con đường lái xe vào nhà chạy uốn quanh khu vườn đầy ắp cây cọ cùng các loại cây hoa cảnh. Bà đỗ xịch xe trước ngôi nhà màu trắng tao nhã.

      Mọi người bước ra khỏi xe, cảm thấy còn hơi buồn nôn sau chuyến xe vũ bão và cú thoát thân trong tích tắc. Sau tiếng ồn và cái nóng gay gắt của phố xá, ngôi nhà mới mát mẻ và yên ắng làm sao. Bà Hilary bước thẳng vào phòng khách , được trang trí bằng những tấm thảm và những chiếc sofa có hoa văn sặc sỡ. cây dương cầm nằm ở góc phòng. Những chiếc đèn bằng sứ mờ đặt các mặt bàn, những chiếc chậu được xếp thành đống đầy ắp những đóa hoa nở rộ.

      Hilary mở cửa chớp. Khi ánh sáng mặt trời soi vào, Amy mới nhận ra các tấm đệm sofa sờn, và chiếc bàn được đặt vào cốt để che chỗ thủng tấm thảm. Tồi tàn nhưng thoải mái, quả là nơi để ngả lưng và đọc sách hàng giờ liền. Cái bẽn lẽn của con bé cũng vơi ngay khi có mặt tại căn phòng này.

      “Bây giờ hãy cởi... ừm, áo choàng ra , và cứ tự nhiên nhé các cháu,” Hilary . “Ta đoán có vẻ các cháu quên chưa thanh toán chúng cho khách sạn. Có phải vì thế mà các cháu bị mấy tên bị thịt kinh khủng ấy đuổi theo ? Ôi các cục cưng đáng .”

      “Đúng thế,” Dan trả lời. “Chúng cháu đâu biết ở đây bọn họ nghiêm khắc với nạn ăn cắp áo choàng đến vậy.”

      Bà chạm ngón tay vào cằm Amy và khẽ xoay mặt nó về hướng ánh sáng. “Cháu rất giống Grace,” bà . “Đáng vô cùng!”

      “Này. Xem thử cái này xem,” Dan kêu lên.

      Amy thấy Dan ngắm nhìn bức ảnh nằm trong cái khung mạ bạc đặt cây dương cầm. Con bé bước đến gần. Đó là bức ảnh trắng đen hình hai thiếu nữ đứng trước tượng Nhân sư.

      Con bé nhận ra Grace ngay lập tức. Tóc bà xõa xuống hai vai, đen óng và hơi xoăn. Bà mặc chiếc váy trắng và mang giày gót thấp. Cánh tay mảnh dẻ, rám nắng của bà vịn vào tóc vàng xinh xắn đứng bên cạnh.

      “Grace là người bạn thân nhất của ta,” Hillary Vale . Bà nhàng cầm tấm ảnh lên. “Chúng ta gặp nhau tại ký túc xá ở Mỹ. Ta được gia đình gửi sang Mỹ khi Thế chiến thứ hai bắt đầu - cha và mẹ của ta sống tại Cairo này. Grace là gia đình thứ hai của ta trong nhiều năm liền, khi mà việc liên lạc với gia đình còn rất khó khăn vì chiến tranh. Bà ấy bao bọc ta, dù ta ít tuổi hơn và phát giọng Mỹ của ta nghe rất mắc cười. Sau chiến tranh, ta mời bà ấy sang đây trong dịp nghỉ lễ. Bà ấy rất Ai Cập.” buồn bã trong mắt Hilary thình lình tan biến khi bà vỗ vỗ hai tay vào nhau. “ đến giờ tiffin rồi! Các cháu hãy tự nhiên, thoải mái nhé, ta quay trở lại.”

      “Tiffin là gì?” Dan thầm. “ con mèo chăng

      bữa ăn ,” Nellie đáp. “Thường là rất ngon lành.” đặt con Saladin vào lồng và ngả người ra chiếc -văng thêu hoa. “Grace bao giờ nhắc đến bà ấy chưa nhỉ?”

      “Em cũng nhớ nữa,” Amy trả lời. “Em biết là Grace đến Ai Cập, nhưng bà chẳng gì nhiều về nơi này.” Chà, có lẽ nó biết, cũng có lẽ . Mọi thứ đều quá mơ hồ.

      Cairo là thành phố lý thú.

      Bà đến đó chưa vậy, bà Grace?

      Tất nhiên là rồi cháu . Nhiều lần. Ôi, lạnh quá, hãy nhìn cơn mưa lạnh lẽo kia. Chúng ta làm thêm ít bánh sôcôla ăn cho vui nha, cháu nghĩ sao nào?

      Đánh lạc hướng và ngụy tạo. Giờ Amy nhận ra Grace vẫn thường đổi đề tài ra sao mỗi khi ai đó hỏi về các chuyến du hành của mình. ngờ vực len lỏi trong Amy, lần nữa hất nó ra khỏi cân bằng.

      Có thêm nhiều bức ảnh khác các kệ sách nối từ nền lên đến trần nhà. Amy cầm lên bức hình đóng khung bạc. Ai đó viết bằng bút mực trắng lên . Chúng ta, Luxor, 1952. Grace mặc quần dài trông rất bụi bặm và chiếc áo thun nhạt màu, tay áo được xắn lên. Bà nheo mắt nhìn mặt trời. Hilary Vale mặc chiếc váy hoa và đội nón rộng vành. Hình như cả hai đứng trước ngôi đền nào đó. Grace đùa với tư thế của người Ai Cập, khuỷu tay cong còn bàn tay hướng ra phía ngoài.

      Vừa lúc đó Hilary bước vào phòng tay bưng chiếc khay lớn và đặt nó xuống cái bàn tròn nhẵn bóng cạnh cửa sổ. Nellie nhanh tay giúp bà dọn những đĩa bánh bột và trái cây cắt sẵn xuống giữa bàn.

      “Ta thấy các con xem mấy bức ảnh ngày xưa,” Hilary . “Khó mà tin ngày trước ta trẻ trung đến thế, phải nào? Hằng năm, Grace đều đến đây và ở cùng với ta. Trong rất nhiều năm.”

      “Hằng năm sao?” Amy thắc mắc.

      “Có lẽ bà ấy chỉ lỡ chừng dăm ba lần mà thôi. Và dĩ nhiên càng về cuối đời việc lại của bà càng trở nên khó khăn hơn. Bà ấy cho ta biết về căn bệnh ung thư - Grace rất chân thành. Nhưng khi nghe điều đó ta vẫn rất sốc. Ta chưa bao giờ nghĩ có thứ gì có thể đánh bại được Grace.”

      Hilary chỉ tay vào mấy cái ghế, và thế là tất cả ngồi xuống. Amy lướt bàn tay mình dọc theo hai tay vịn bằng gỗ láng bóng. Có lẽ Grace từng ngồi chiếc ghế này. Con bé ước sao có thể cảm thấy gần gũi với Grace hơn, dù chỉ bằng suy nghĩ ấy. Nhưng nó thể.

      Hilary rót thứ chất lỏng giống như sữa từ chiếc bình rất đẹp bằng bạc. “Đây gọi là sahlab,” bà giải thích. “Người ta dùng nó trong các quán cà phê khắp Ai Cập. Hy vọng các cháu thích nó.”

      Tỏ ra lịch , Amy nhấp ngụm. Ngọt và béo, giống với bất cứ thứ gì mà nó từng nếm trước đây, nhưng Amy sao nuốt trôi. Cổ họng con bé nghẹn lại vì những giọt nước mắt lăm le chực tràn ra ngay nếu nó nhắc đến tên Grace.

      “Món này là tuyệt vời,” Nellie nhồm nhoàm cái bánh ngọt và cho con Saladin ăn. “Vậy bà rằng Grace liên lạc với bà trước khi qua đời. Bà ấy gì với bà ạ?”

      Amy gửi tới Nellie cái nhìn hàm ơn. Nellie trông thấy bẽn lẽn của nó và hành động thay cho Amy. Lúc nào cũng có thể trông cậy vào Nellie. Dan bận bịu bẻ chiếc bánh chanh nên chẳng có giờ để ý tới chuyện đó.

      Hilary mỉm cười, đứng dậy. “Đúng thế, hãy ngắn gọn nhé, như người Mỹ các cháu vẫn ưa như thế. Grace gửi cho ta lá thư và nhờ ta gửi cho bà vài thứ.” Bà đến bên chiếc tủ và mở nó, lấy ra nhiều món đồ đoạn quay lại ghế ngồi, đặt chúng lên đùi. Amy có cảm giác nó phải ngay lập tức cầm lấy và chạy đâu đó để đọc chúng mình, nhưng nó buộc phải ép mình uống thêm ngụm sahlab nữa và giữ cho mình bất động.

      Hilary đặt lên bàn quyển sách. “Trước hết, đây là quyển cẩm nang du lịch mà Grace sử dụng trong nhiều năm. Bà muốn các cháu giữ nó.” Bà đẩy quyển sách qua chỗ Amy.

      Quyển sách dày, bìa cong queo và ố vàng, trang sách được giở giở lại rất nhiều lần.

      “Tất nhiên là nó lỗi thời rồi,” Hilary kèm theo nụ cười. “Nhưng mọi thứ ở đây cũng thay đổi gì nhiều.”

      Amy giở quyển sách ra. Nó nhìn thấy các chú thích ở lề sách viết bằng nét chữ nhiều nét móc của Grace.

      Thưởng thức bữa ăn tại đây, chuyến năm 1972

      Chà, cái này xem chừng có ích lắm.

      “Đây là tấm thiệp Giáng sinh cuối cùng của Grace,” Hilary tiếp. “Bên trong có thông điệp bà ấy gửi cho hai cháu.”

      Bà trao tấm thiệp cho Amy. Dan dịch chiếc ghế đến gần hơn để xem.

      Tấm thiệp từ Bảo tàng Mỹ thuật Boston. Grace nhiều lần dắt chúng đến đây. Tấm thiệp vẽ lại bức tranh quen thuộc, “Ba nhà thông thái mang quà đến bên máng cỏ”.[1]

      [1] Ba nhà Thông thái mang quà đến chúc phúc cho Chúa Hài Đồng trong đêm Giáng sinh. Chúa Hài Đồng sinh ra trong máng cỏ, theo Kinh Thánh.

      Hilary thương mến,

      Chị chúc em và gia đình mùa Giáng sinh tràn đầy hạnh phúc. Chị tin rằng hai đứa cháu của chị sớm đến Cairo. đến lúc chị phải nhờ em thực giúp chị lời hứa mà trước kia em từng hứa.

      Em hãy gửi bức thư này đến Dan và Amy dấu của chị -

      Kho báu của bà,

      Ai Cập đầy ắiều tuyệt diệu.

      Chào mừng hai con - Bà mong các con thấy hạnh phúc khi ở đó.

      Ai Cập là đất nước vẫn thắm[2] vào trong những giấc mơ của bà. Giá như bà được bằng nửa grandmother[3] của các con mà lẽ ra bà nên thế, bà ước được tự mình mang các con đến nơi đó. Bà ước sao mình có thể theo chân hai con khi cả hai bước theo những bước chân của bà. Chớ quên nghệ thuật nhé! Hai con có thể luôn kết thúc với những điều cơ bản.

      [2] Trong nguyên tác, Grace cố tình viết sai chính tả chữ resonates ( vang) thành resonates (thấm nhựa). Chúng tôi dịch thoát để giữ tinh thần của văn bản.

      [3] Chữ grandmother (bà) chúng tôi giữ nguyên dịch ra.

      Thương mến, Grace.

      Tái bút: Bà Fenwich gửi lời chúc tốt đẹp đến cho S.

      Dan và Amy nhìn xuống phía dưới tấm thiệp. Chính tay của Grace cầm bút viết ra những dòng chữ, cả dấu móc kia. Bà dùng chiếc bút máy như cách bà vẫn thường làm với những bức thư quan trọng. Ở cuối chữ “g” trong “grandmother” có chấm đen. Dù chúng biết khi viết lá thư này bà mắc bệnh, song nét chữ vẫn rất mạnh mẽ và rắn rỏi. Grace biết chúng đọc lá thư này sau khi mình qua đời.

      Thậm chí chữ thắm viết sai cũng khiến Amy cảm thấy xốn xang, giống như bà ngoại chúng vẫn còn ở căn phòng kế bên, ngồi viết thiệp Giáng sinh và gọi nó, “Hãy mang cho bà ly eggnog[4] nào hai cháu cưng? Bà chẳng tìm đâu ra lời chúc Giáng sinh cả!”

      [4] Cocktail làm từ trứng, sữa, rượu và kem tươi, phổ biến trong ngày Giáng sinh tại Bắc Mỹ.

      Grace để lại cho chúng lá thư. Sau nhiều tuần nghĩ ngợi, rốt cuộc xuất lá thư. Nhưng mà lá thư là gì? Nó rất riêng tư - lúc nào bà cũng gọi chúng là kho báu - nhưng đồng thời như thế cũng rất bâng quơ. Giọng của Grace rất hồ hởi, như thôi thúc chúng tham quan cả Ai Cập. Như thể chẳng còn điều gì khác phải làm ngoài duy nhất chuyện là tham quan.

      Amy nhìn Dan. Con bé biết phản ứng của thằng em cũng hệt như của mình - đau lòng và bối rối. Thông điệp cuối đời kiểu gì thế biết?

      Dan cầm lấy chiếc phong bì. “Dấu bưu điện ở Nantucket[5]” nó . “Gửi từ năm ngoái.”

      [5] Đảo Nantucket, nằm ở 30 dặm phía Nam mũi Cod, thuộc bang Massachusetts, Mỹ. Theo tiếng thổ dân từ này có nghĩa là vùng đất ở rất xa.

      Amy và Dan đưa mắt nhìn nhau. Trong cái nhìn ấy cả hai rời bỏ căn phòng của Hilary, rời bỏ thành phố nóng nực, lạ lùng này và trở về nơi rất đỗi thân quen. Grace có ngôi nhà ở thị trấn Sconset nằm đảo Nantucket, cách xa bờ biển Massachusetts. Chúng nhớ bầu trời xanh, những đám mây bông, bầu khí mằn mặn vị muối. Grace vừa nướng bắp vỉ nướng vừa làm món bơ chanh. Bà la to, “Con cuối cùng là con trăn kìm!” và mùi hương biển mát lạnh.

      “Chị có nhớ lão bà Fenwick ?” Dan hỏi.

      Amy mỉm cười. Betsy Fenwick là hàng xóm của chúng. Amy còn nhớ nó hay Dan gán cho bà biệt danh ấy. Bà đến từ “ trong những gia đình lâu đời nhất vùng Beacon Hill” ở Boston, đó là điều mà bà ấy cố gắng nhét cho bằng được vào mỗi cuộc đối thoại. Bà chê trách Grace, vì bà ngoại chúng để mặc cho hoa hồng mọc um tùm, và vận những chiếc quần cũ, đầu đội mũ Yankee trong khi làm vườn.

      Lão bà Fenwich cũng thích mèo, nhưng lại dành hẳn lòng căm ghét đặc biệt cho Saladin, con vật vì lẽ nào đó chọn khu vườn nhà Fenwick làm nhà vệ sinh riêng của nó. Grace , bà cũng hiểu vì sao có chuyện phiền nhiễu ấy - rốt cuộc , chẳng phải việc ấy giúp Betsy Fenwich tiết kiệm được tiền mua phân bón cây hay sao? Nhưng cứ như thể mọi thứ đều là trò đùa, bà Fenwich chấp nhận chuyện này. Bà cấm Saladin bén mảng vào khu vườn và cầu Grace phải cột quả chuông vào cổ chú mèo. Saladin ghét quả chuông ấy. Nó xem thứ đó hạ đẳng chẳng xứng tầm với nó. Ta là con mèo chứ có phải là chiếc chuông cửa đâu? Dường như nó muốn

      Nụ cười của Amy nhạt dần . Những ký ức về Nantucket khiến nó thậm chí còn thấy rối rắm hơn. Tất cả quãng thời gian họ có với nhau! Chẳng làm gì ngoài duy nhất việc là tận hưởng mùa hè. Tất cả những buổi trưa dài, những buổi tối nhìn mặt trời tan vào đại dương... chừng ấy cơ hội để Grace quay sang với chúng, Nhân đây, hai con cũng có quyền thừa kế của dòng họ. Và cả gánh nặng. Ta cần phải giúp hai con.

      “Hai con có thể luôn kết thúc với những điều cơ bản.” Nellie đọc lá thư. “Nó có nghĩa là gì?”

      “Mỗi khi Grace dắt theo chúng em, bà chẳng bao giờ cho chúng em xem trước cẩm nang,” Dan giải thích. “Hai đứa trước hết phải quan sát, rồi mới đọc xem người khác gì về nó.”

      Hilary nhấc chiếc hộp ra khỏi đùi mình và , “Và giờ đến lượt lời hứa của ta. Chiếc hộp này nằm trong két sắt ở Cairo suốt năm mươi năm nay. Grace đưa ta chiếc chìa khóa. Ngày hôm qua luật sư của bà ấy vừa mang đến đây. ông McIntyre nào đó?”

      “Ông McIntyre ở Cairo sao?” Amy hỏi lại.

      con người đáng mến, dù có hơi cứng nhắc. Ta và ông ấy cùng ra ngân hàng để mở két. Bên trong chỉ có duy nhất chiếc hộp này. Ông các cháu sớm đến Cairo và ta mở nó ra ngay trước mặt mọi người. Các cháu thấy niêm phong vẫn còn, phải nào? Ta cần cho các cháu thấy rằng nó vẫn còn nguyên vẹn. Nào. Bắt đầu nhé.”

      Hilary xé niêm phong. Nắp hộp phát ra tiếng cót két khi bà mở nó. Bên trong có vật được bọc trong vải lanh. “Cho phép ta mở nó nhé?”

      Dan và Amy gật đầu đồng ý. nhàng, Hilary cầm món đồ lên và mở lớp vải ra.

      cặp mắt bằng ngọc lục bảo, cổ xưa và ranh mãnh, chằm chằm nhìn vào mọi người. Đó chính là bức tượng Sakhet bằng vàng.



      CHƯƠNG 10



      HILARY NGẠC NHIÊN CỰC ĐỘ. “Thánh thần ơi! Nếu bức tượng này là nó đáng giá cả gia tài đấy. Grace ơi, bà là ranh mãnh.”

      Mình thể hình dung nổi chuyện này, Amy thầm nghĩ.

      Khác biệt duy nhất nằm ở chỗ bức tượng được đặt tấm đế bằng vàng rất đẹp. Amy nhìn chăm chú vị nữ thần. Bà ta bị thời gian bào mòn , nhưng vẫn rất đỗi nữ tính và mạnh mẽ.

      “Bà ấy tuyệt lắm,” Nellie .

      “Nếu đây là bức tượng giả nó quả rất giống ,” Hillary . Bà có vẻ ngập ngừng.

      “Nó là gì thế, thưa bà?” Amy thắc mắc.

      “Chà. Trong lần đầu tiên Grace đến Cairo - chuyến mà hai ta cùng với nhau vào năm 1949 - bà ấy có nhờ ta giúp việc. Bạn bè giúp đỡ nhau, bà như thế. Rằng liệu ta có biết thợ đúc giỏi giang nào hay , người có thể làm ra bức tượng giả giống y như . Và, thực tế ta có biết người như thế. Grace có quen cha của ta - ông ấy là thương buôn đồ cổ - có trong tay những tạo tác làm lại từ những món đồ quý giá nhất của ông trong chiến tranh. Để đề phòng tình huống quân Đức lấy cắp chúng , các cháu biết đấy. Ta cho bà tên của người thợ ấy, và chẳng nghe thêm điều gì nữa. Vậy vật này... ừm, có thể đây là bức tượng giả hết sức tinh xảo. Dạo sau có ai đó thêm vào cái chân đế bằng vàng sến súa này, ràng là thế.”

      “Đúng vậy,” Amy mặt đỏ bừng vì ngượng. Chao ôi - con bé nghĩ chiếc chân đế ấy rất đẹp. ràng Amy còn phải học rất nhiều về các bức tượng có giá trị đặt trong bảo tàng.

      Amy đưa mắt trao đổi với Dan. Grace làm bức tượng giả. Có lẽ chính Grace lấy cắp bức tượng Sakhet - bức tượng do Howard Carter tìm ra - và thay thế bằng bản sao? Bae kể với chúng rằng các bức tượng được mang cất giấu trong chiến tranh và phải mất nhiều năm sau mới tìm thấy chúng cũng như xây dựng xong căn cứ Ekat mới. Trong lúc hỗn loạn ấy, có thể Grace chạm tay vào bức tượng chăng? Có phải đây là bức tượng mà Howard Carter tìm ra? Chẳng có gì ngạc nhiên khi với chy kỹ thuật phân tích đại họ vẫn sao tìm ra được khoang bí mật!

      Amy nhìn lại bức thư Grace gửi chúng.

      Ai Cập đầy ắp những điều tuyệt diệu...

      Amy nhớ có lần nó đọc được rằng khi Howard Carter tìm thấy lăng vua Tutankhamen, ông cũng chính là người đầu tiên bước vào trong, và khi người ta hỏi xem ông thấy gì, Carter trả lời “Những điều tuyệt diệu.” Phải chăng Grace trích lời của Carter để nhắc cho chúng biết bức tượng Sakhet chính là của Carter?

      Chỉ có duy nhất cách để tìm ra. Nếu bên trong bức tượng Sakhet này có khoang bí mật nó chính là bức tượng . Amy cảm thấy lạnh sống lưng và run rẩy. Katherine Cahill có thể cầm đúng bức tượng này trong tay. Có thể bằng chính tay mình bà đặt vào bên trong nó manh mối.

      “Nếu các cháu muốn mang kiểm nghiệm, có lẽ là ta biết chuyên gia ở ngay trong căn nhà này,” Hillary .

      “Là tôi đây,” Theo Cotter lên tiếng và bước vào phòng.

      Amy, Dan và Nellie cùng nhìn lên với vẻ ăn năn khuôn mặt. Cả ba biết rằng chúng bỏ mặc chàng trong lúc khó khăn lúc ở tòa nhà Sennari. “Bà quen chàng này sao?” Nellie buột miệng.

      Hilary mỉm cười. “Đôi chút.”

      Theo cúi thấp người để hôn Hilary. “Cháu chào bà ngoại.” chàng quay sang Amy, Dan và Nellie. “Úi chà, những thủ phạm đây rồi. Cho phép tôi tặng cả ba mách nước nhé. Các giám tuyển bảo tàng có thể bị chạm nọc khi người ta ném những đồ vật trong bảo tàng. Tôi phải mất chút thời gian giải thích đấy.”

      Và ngay khi đó Theo trông thấy bức tượng Sakhet. chàng khe khẽ huýt sáo tràng dài. “Cái gì thế này? Vậy ra các cậuđã tìm thấy tay buôn thứ thiệt sau khi chúng ta chia tay rồi.”

      đâu Theo,” Hilary giải thích. “Các bạn trẻ tìm đến bức tượng này theo cách khác.” Bà quay sang với cả ba. “Giờ ta cũng phải thừa nhận điều. Theo về nhà và kể cho ta nghe về cuộc gặp gỡ ở Khan. Nó với taên các cháu.”

      “Nhưng còn khách sạn của chúng cháu? Làm cách nào bà biết được chúng cháu ở đâu ạ?” Amy hỏi lại.

      Theo giơ lên cuống vé máy bay đó có những dòng chữ được viết nguệch ngoạc. đó là số điện thoại viết bằng nét chữ của Nellie. Bọn họ gọi số này để đặt phòng khách sạn trước khi lên máy bay. “Cứ gọi tôi đây là Sherlock Holmes[1]. Nhưng đừng bắt tôi phải đội cái mũ ấy đấy nhé.” Theo cầm bức tượng và lướt các ngón tay quanh nó. Giọng của chàng khe khẽ. “Thần Sakhet. Nữ thần quyền lực nhất trong tất cả các vị thần. Nữ thần của trừng phạt và báo thù linh thiêng. Truyền thuyết kể lại rằng thần Ra[2] từng phái Sakhet tiêu diệt kẻ thù cho mình và Sakhet suýt chút nữa tiêu diệt toàn thể loài người.”

      “Oaaa, nữ thần Rambo[3],” Dan thốt lên.

      [1] Thám tử Sherlock Holmes, nhân vật thám tử hư cấu của nhà văn -Arthur Conan Dolye lừng danh và có sức ảnh hưởng cả thế giới. Đặc điểm nhận dạng của ông là cây gậy, chiếc tẩu và cái mũ đặc trưng.

      [2] Thần Mặt trời của người Ai Cập.

      [3] Nhân vật hư cấu trong loạt phim hành động, chiến tranh, được xem là biểu tượng của sức mạnh cơ bắp.

      Nellie có vẻ rất ấn tượng. “ xem ra rất am tường những vấn đề đó.”

      “Theo là nhà Ai Cập học,” Hillary giải thích. “Nó từng là giám tuyển ở Bảo tàng quốc.”

      “Tôi nhớ là hướng dẫn viên du lịch mà,” Nellie thắc mắc.

      “Chỉ là trong các kỳ nghỉ thôi, lúc tôi còn học đại học ở Cambridge ấy,” Theo đáp. “Nếu mọi người muốn đem bán bức tượng Sakhet, tôi đây có thể đưa ra vài mách nước, và...”

      đâu!” Dan và Amy đồng thanh kêu

      “Ý em là, món này có giá trị tình cảm với hai đứa chúng em,” Amy vội vàng . Nó liếc sang Dan. Như thường lệ, cả hai có thể trò chuyện được với nhau mà phải thốt lên lời. Chúng hiểu mình cần có trợ giúp. Chúng phải tin tưởng bạn thân nhất của Grace. Grace dẫn dắt chúng đến nơi này cũng có lý của bà.

      “Cháu nghĩ Grace để lại cho bọn cháu lá thư bên trong bức tượng,” Amy . “Chúng cháu truy tìm ... bảo vật gia truyền, và nghĩ có thể đây chính là vật đó.”

      “Nhưng chẳng phải đây chính là bảo vật hay sao?” Hilary thắc mắc. “Nếu Theo cho rằng nó là đồ , nó phải rất có giá trị.”

      ra là vô giá ạ,” Theo lên tiếng. “Nhưng tất nhiên luôn có những người muốn ra giá cho những món hàng vô giá. Thông thường là vì họ có cả thúng tiền.”

      Amy và Dan lại phân vân.

      “Các em muốn các em tìm cái thậm chí còn giá trị hơn nữa, phải thế ?”

      “Ừm,” Nellie chen vào, “trong trường hợp các cổ vật gia truyền, giá trị lại nằm trong đôi mắt của kẻ chiêm ngưỡng nó, đúng nào? Nhà em truyền từ đời này sang đời khác cái chậu gớm ghiếc có hình dáng như quả dứa từ xửa từ xưa rồi.”

      Dan cầm bức tượng Sakhet lên. Amy quan sát em mình. Có gì đó lóe lên trong mắt nó. nhà Ai Cập học lừng lẫy như Howard Carter cũng thể tìm ra được bí của tượng Sakhet, nhưng Amy vẫn dám đặt cược vào thiên tài điên-điên-tuổi-mười- ở thằng em mình.

      “Chị còn nhớ lão bà Fenwick xây hẳn hàng rào chỉ để ngăn con mèo của chúng ta nào?” nó . “Chỉ mỗi cái là ngăn nổi?”

      “Saladin biết cách mở chốt cửa,” Amy đáp. “Nó nhảy lên hàng rào, dùng móng vuốt kéo cột rào ra, và rồi...”

      “Cùng lúc đó lại dụi mũi vào chốt cửa. Vì lý do trời ơi nào đó, cái cửa bật mở ra được.”

      “Bà Fenwick chẳng bao giờ hiểu ra được nó vào bằng cách nào.”

      “Đó là cách vừa đẩy vừa kéo, vừa dụi mũi cùng lúc. Trông có vẻ như là hai lực đối nghịch nhau, nhưng ra...” Dan ấn ngón tay vào mũi của bức tượng và kéo chiếc cổ ra ngoài.

      được!” Theo hốt hoảng la lên. “ được...”

      Theo tiến lên phía trước bước, như thể muốn ngăn Dan lại, nhưng tất cả mọi người đều ngạc nhiên khi bất thình lình đầu bức tượng xoay 90 độ. khe hở xuất . Dan nhìn vào trong. “Em nghĩ bên trong có lẽ có cái gì đó.”

      “Để . Làm ơn nào.” Theo lao nhanh đến chiếc bàn giấy ở góc phòng. chàng lấy cái túi và lôi ra cái nhíp dài.

      “Để nhé?”

      Lưỡng lự, Dan trao bức tượng cho Theo. chàng đặt nó lên bàn, rồi cẩn thận trượt cái nhíp vào bên trong. Những ngón tay chuyển động khéo léo. Chầm chậm, tỉ mẩn, lôi cuộn giấy ra khỏi ruột bức tượng.

      “Là giấy papyrus[4]! Niên đại của nó là bao nhiêu?” Hilary giọng run lên vì phấn khích.

      [4] Papyrus là vật liệu dày giống giấy được sản xuất từ ruột cây papyrus - loại cói túi mọc các cùng đất ẩm từng rất phong phú ở châu thổ sông Nile. Papyrus được ghi nhận là được sử dụng lần đầu tiên ở Ai Cập cổ đại, và còn được dùng rộng khắp các vùng Địa Trung Hải.

      Theo cau mày khi đặt mẩu giấy papyrus lên bàn. “Đây phải là giấy papyrus cổ. Có lẽ chỉ từ thế kỷ 16 thôi chăng? phải chuyên môn của cháu. Nó có hình vẽ gì đó ở mặt sau và chữ viết ở mặt trước này.”

      “Ta phải xem chỗ chữ viết. Mình mở ra như thế nào đây?” Amy hỏi Theo.

      “Cẩn thận nhé.” Theo giữ các mép giấy và giở nó ra. “ điên rồ,” chàng lầm bầm. “Thứ này đáng ra phải thẳng vào viện bảo tàng chứ.” Nhưng chính chàng xuống để đọc miếng giấy papyrus với cùng niềm háo hức như bất kỳ ai.





      “K.C.,” Dan thào với Amy trong hơi thở. “Katherine Cahill!”

      kỳ diệu làm sao. Chính Katherine để lại thông điệp này. Như thế có nghĩa rằng chính Grace là người duy nhất biết về nó, và giờ đây... hai chị em chúng là những người duy nhất biết về nó. Amy nắm lấy cánh tay Dan.

      “Hai đấng phò trợ ngươi, là của đe dọa,” Dan đọc.

      “Sakhet đôi khi còn được gọi là Nữ thần của Sợ hãi,” Theo giải thích.

      “Ta hãy xem sơ đồ nào.” Dan cẩn thận xoay ngược tờ giấy mỏng mảnh.





      Đó là hình vẽ hệt như những hình chúng trông thấy ở căn cứ Ekat.

      có biết nó là cái gì ?” Amy hỏi Theo.

      chàng quan sát kỹ. “Tôi cho rằng đó là bản đồ của lăng mộ, nhưng cần có đôi chút nghiên cứu mới tìm ra được. Có hàng trăm lăng mộ nằm ở khắp đất nước Ai Cập, và đến giờ người ta vẫn khám phá thêm nhiều lăng mộ nữa.”

      “Chờ .” Dan xé hai mảnh giấy ra khỏi cuốn sổ bàn. Rất nhanh, nó phác họa ra hai bức vẽ còn lại mà hai chị em trông thấy ở căn cứ Ekat, chính xác đến từng chi tiết. Nó đặt hai mảnh giấy ở cạnh tờ papyrus và đối chiếu tỉ mỉ.

      ả ba đều giống nhau,” Theo . “Với vài khác biệt , nhưng mà...”

      “Điều đáng chính là những khác biệt,” Dan ngắt lời.

      Nó lấy ra tờ giấy trắng khác. Cúi xuống tờ giấy, Dan vẽ chăm chú, lâu lâu lại ngẩng lên đối chiếu với các bức vẽ trước đó. “Ta phải nhìn kỹ cả ba bức vẽ này, sau đó lược bỏ hết tất cả ngoại trừ điểm chung giữa chúng.” Nó chìa bức vẽ của mình cho Theo xem. “Giờ nhận ra chưa?”





      Theo nhìn vào sơ đồ lúc lâu. Rồi tới kệ sách và lấy ra quyển sách mang tên Thung lũng của các Nữ hoàng.

      giở đến trang. “Đây rồi. Tôi cho là nó. Đây là bản đồ lăng mộ Nữ hoàng Nefertari.” ngẩng đầu nhìn hai đứa. “Nhưng mà, tại sao lại như vậy chứ?”










      CHƯƠNG 11

      “EM NGHĨ ĐÓ LÀ NEFERTITI CHỨ NHỈ,” Amy cố lảng câu chuyện.

      Theo lắc đầu. “Đó là nữ hoàng khác. Nữ hoàng Nefertari, vương phi quý của Ramses Đệ Nhị. Ông trị vì Ai Cập trong sáu mươi sáu năm suốt Vương triều thứ mười chín, Tân Vương quốc, từ năm 1279 đến 1213 trước Công nguyên.”

      Dan thở dài. Ở mỗi nơi chúng đặt chân đến, dường như lúc nào Dan cũng phải nghe thuyết giảng.

      “Mộ Nefertari đến tận năm 1904 mới được nhà khảo cổ học Ernesto Schiaparelli[1] phát ra. Nó bị đóng cửa thời gian dài - chừng ba mươi năm - vì các bức tranh tường rất dễ bị hư hỏng. Lăng mộ được làm từ đá vôi và những lần trùng tu đều bị nước, bị hơi ẩm và muối làm hư hại. Rồi nó trải qua đợt bảo tồn quy mô lớn vào đầu thập niên 90. nay, nơi này được xem là lăng mộ đẹp nhất toàn Ai Cập.”

      [1] Nhà khảo cổ nổi tiếng người Ý (1856-1928-) nổi tiếng vì phát ra lăng nữ hoàng Nefertari.

      “Nhưng ta vẫn hiểu,” Hilary lên tiếng. “Chúng ta được phép lấy bất cứ thứ gì ra khỏi lăng mộ. Vậy làm thế nào các cháu có bản đồ của nó được?”

      “Điều này rất khó giải thích ạ,” Amy trả lời. “Có lẽ ở đó có bức thư dành cho bọn cháu.”

      “Ta hiểu rồi,” Hilary , mặc dù ràng bà chẳng hiểu gì sất. “Kiểu như trò chơi sao?”

      “Chính xác,” Amy trả lời. “ kiểu săn lùng kho báu.”

      gia đình lập dị, bà nhỉ?” Dan chêm vào.

      “Mọi người có thể gặp phải vấn đề,” Theo . “Các bức phù điêu bên trong lăng yếu đến độ người ta giới hạn du khách vào tham quan. Rất khó vào trong đó và quan sát. Tôi có thể xoáy cho mình vé vào cổng...”

      “Vậy sao các cháu để Theo làm hướng dẫn viên đến Luxor[2]?” Hilary gợi ý. “Bác sĩ cấm ta được phép du lịch - ông ấy đúng là kiểu người ưa làm quá mọi thứ lên, trong khi ta chỉ mới bảy mươi chín tuổi thôi chứ mấy - nhưng Theo hướng dẫn viên giỏi đó. Nó dắt du khách đến Luxor rất nhiều lần rồi. Nó biết từng tấc đất trong khu thung lũng. Hãy để nó giúp, các cháu thân của ta. Vì Grace. Ta thể làm gì cho Grace khi bà ấy còn trong cơn bệnh hiểm nghèo. Hãy để ta giúp lần này. Ta gọi điện đặt vé máy bay ngay tức khắc.”

      [2] Thành phố lớn thuộc vùng Thượng Ai Cập, được xem là bảo tàng ngoài trời lớn nhất thế giới bởi rất nhiều quần thể kiến trúc cổ đại, trong đó có “Thung lũng các vị vua” và “Thung lũngữ hoàng”. Lăng Nefertari cũng nằm trong số này.

      Dan gật đầu. “Dạ được ạ,” Amy đồng tình.

      Hilary nhìn bức tượng Sakhet. “Ta có gợi ý, các cháu thân . Nay tìm thấy bức thư, có thể các cháu cũng muốn mang trả bức tượng trở về ngân hàng. Nữ thần quý báu nhường ấy nên bị nhét vào chỗ hành lý các cháu mang theo. Ta rất sẵn lòng giúp các cháu làm việc đó.”

      Amy với lấy bức tượng Sakhet. Con bé gói nó trở vào miếng vải lanh mềm mại, rồi mở khóa chiếc túi đeo hông ra. Bức tượng Sakhet vừa khít trong lòng túi. “Dù sao cũng xin cảm ơn bà, nhưng cháu mang nó theo.” Có lẽ Hilary đúng, nhưng Amy thể bỏ lại, dù chỉ ngày, bức tượng mà Grace muốn hai đứa giữ.

      Có quá ít những thứ mà Grace để lại. Sợi dây chuyền ngọc bích, và giờ đây là bức tượng. Bà cố gắng kết nối với chúng và gửi đến cho chúng điều gì đó. Nó vẫn hiểu Grace dẫn chúng đến đâu và vì sao lại như thế, nhưng con bé muốn bỏ bức tượng lại.

      ***

      Khi mặt trời còn chưa lên hẳn, Hilary vào cửa phòng. Họ chén bữa sáng tốc hành, còn Hilary “bồi dưỡng” cho chúng thêm chuyến dựng tóc gáy khác đến sân bay. Bà đề nghị trông nom con Saladin trong lúc bọn chúng .

      “Các cháu bé, chớ có lo lắng,” bà tỏ ra ân cần nhưng con Saladin khịt mũi đề phòng. “Ta mèo. Bọn ta rồi hòa thuận với nhau thôi.”

      Sân bay nóng nực và đông nghịt. Mọi người đứng xếp hàng chờ lấy thẻ lên máy bay. Chuyến bay đến Luxor còn hơn giờ nữa mới khởi hành. Nếu bay đúng giờ, họ có mặt ở Luxor vào giữa trưa.

      Amy cảm giác như đám đông chèn ép mình, làm cho nó thấy khó thở. Có quá nhiều người xô đẩy để tiến gần hơn đến quầy bán vé và mấy cánh cổng. Amy lấy quyển cẩm nang của Grace ra đọc. Đêm qua, con bé đọc lướt qua trước khi ngủ. Hẳn là Grace sử dụng quyển sách này trong rất nhiều chuyến đến Ai Cập. Amy có thể chỉ ra những màu mực khác nhau mà Grace sử dụng. Bà ghi ngày của các chuyến vào bên trong bìa sách, từ những năm 1960 đến 1990. Hầu hết các mục đều là những quán cà phê mà bà ưa thích, hay tên của những bác tài bà cùng. Nhiều người trong số đó bị gạch bỏ. Amy thắc mắc vì sao Grace lại mua thêm quyển khác. Dù sao cũng chẳng có thông điệp nào ở lề sách viết đại loại như, Đây là nơi các con tìm thấy manh mối của Katherine!

      màu mực trông có vẻ mới hơn. Con bé nhìn kỹ mặt trong bìa quyển sách, nhưng nó viết ra ngày tháng như những chỗ khác. Amy giở quyển sách để tìm các ghi chú có cùng màu xanh nhạt ấy, đến khi chữ viết nhòe . Amy ngủ quên luôn gối cùng với quyển sách kế bên mình.

      Theo dẫn họ đến cổng. Cả bọn đứng nép sang bên, quan sát người ta lấy hành lý từ chuyến bay đến từ Rome.

      Thình lình, họ nghe thấy rung chuyển.

      “Yo, bạn của tôi. Thông thường, tôi đây có cả đoàn hộ tống máy bay. Những fan hâm mộ, bọn họ có xu hướng mếnngôi sao Wizard. Họ lan rộng tình cảm ấy, và có thể là tình cảm ấy cũng có khi hơi quá chút, biết tôi ?”

      Dan rên rỉ. “Ôi trời đất ơi.”

      Amy lôi thằng nhóc ra sau cái cột và cuống cuồng ra hiệu cho Nellie. Theo tò mò theo sát cả bọn.

      Từ phía sau cột, họ len lén quan sát. Jonah Wizard đứng với bố nó và phụ nữ cao dỏng mặc đồng phục, thuộc phi hành đoàn.

      “Hãy kiểm tra đám đông đằng kia[3],” Jonah Wizard ra lệnh.

      [3] Nhân vật cố tình trại hoặc sử dụng tiếng lóng trong văn hóa hip hop.

      “Đó là những hành khách chuẩn bị bay chuyến tiếp theo.”

      Bọn họ có thể nghe thấy tiếng xủxoẻng của mấy sợi xích bằng vàng của Jonah khi gã nhóc quay về phía người tiếp viên. “Tuyệt. Chúng ta vẫn có mặt trước. Nhưng ngay khi toy ra khỏi nơi này, chắc chắn đám hỗn ơi là loạn cho mà coy. Trắc văn trắn lun[4].”

      [4] Nguyên văn: “Fo’ shizzle” trại của từ for sure (chắc chắn).

      “Hỗn ơi là... trắc... Xin lỗi, ý ngài là...?”

      “Tôi gọi báo cho cấp của về việc thiếu vắng kiểm soát đám đông ở đây,” Ông Wizard lên tiếng. “Và tôi cũng sử dụng BlackBerry được!”

      “Mọi người quen quý ông trẻ kia sao?” Theo hỏi .

      “Em bao giờ quăng cái chữ quý ông bừa bãi đâu,” Dan . “Chữ ấy nện vào chừng cốt cách cũng dính luôn vào đấy.”

      biết ư?” Amy lấy làm lạ. “Ở Mỹ, ta là siêu sao đó.”

      Thấy Theo nghệt mặt ra, Nellie thêm, “ biết , bài “Mặc Quần Zô Đê’? Bài ‘Để Thời Gian Trở Lại Đê’? Hay là ‘Em Làm Tui Sợ Vãiii’?”

      “Quý vị dùng tiếng đó sao?” Theo thắc mắc.

      “Bọn em dùng tiếng đường phố,” Dan trả lời. “Ngặt nỗi đó là đường Rodeo ở Beverly Hills.”

      Theo giơ hai tay lên vẻ bất lực. “Cứu với, tôi cần phiên dịch!”

      ta là thằng cha cực kỳ dỏm đời,” Dan xẵng. “ chỉ cần biết bấy nhiêu thôi.”

      Amy quyết định chừa lại ra thực tế rằng Jonah cũng chính là thành viên trong dòng họ Cahill và là họ của chúng. Thoạt tiên, con bé hoàn toàn bị choáng khi biết rằng ngôi sao hip-hop lừng danh kia có họ hàng với mình. Là thành viên của chi tộc Janus dòng họ Cahill, Jonah cũng chấp nhận cuộc thử thách truy tìm 39 manh mối. Dĩ nhiên với ta, bỏ triệu đôla cũng chẳng hề hấn gì. Có khi Jonah cũng tiêu chừng đó tiền năm chỉ riêng cho khoản tiền boa.

      Jonah nhanh vào phòng chờ, ngoắc cặp kính đen lên mắt. Nó giơ tay ra để sẵn sàng gạt phăng các cầu. Nhưng chẳng có cầu nào cả.

      “Cho phu khuân vác đến mang hành lý toy. Chiếc limo toy có mặt ngoài lề đường.”

      “Xin thứ lỗi, nhưng ngài phải đến quầy nhận hành lý.”

      Jonah lấy làm ngạc nhiên. “Toy nhận hành lý, má ơi. Hành lý đến với toy.”

      “Tên của tôi là Senadi. Xin ngài lượng thứ, nếu như có việc gì nữa ...”

      “Má biết tôi là ai sao?”

      Đứng sau lưng Jonah, người tiếp viên xoe tròn mắt nhìn những tiếp viên khác ở quầy. “ .”

      Jonah kinh ngạc. Gã nhóc gỡ cặp kính ra. “Bố ơi!” nó ré lên.

      “Giờ hãy yên tâm Jonah,” cha Jonah trấn an. “Hiển nhiên là ở cái xứ Ai Cập khỉ ho cò gáy này, người ta biết con trai thương hiệu toàn cầu.”

      “Ý bố là... chẳng ai biết con là ai?”

      “Nào, Jonie, cứ bình tĩnh. Ta biết chắc là...”

      “Bọn họ biết con là quả bom ư?”

      phụ nữ luống tuổi xoay sang Jonah ngay lập tức. “Ai đó vừa quả bom sao?”

      Senadi nhanh vào bộ đàm. “An ninhAn ninh, chúng ta có trường hợp nguy hiểm.”

      “Ôi mèng đéc ơi,” Dan . “Hình như vừa sai cái gì đó, phải ?”

      “Chúng ta nên lên máy bay,” Amy . “Chị có cảm giác Jonah sắp sửa mắc kẹt vào cuộc tra hỏi ít lâu đấy.”

      “An ninh sao, mèng ơi!” Jonah dang rộng hai tay ra. “ đến lúc rồi! Nếu như mọi người có thể vây quanh đường tôi ra chiếc limo...”

      “Tôi xin lỗi, thưa ngài,” viên an ninh lên tiếng. ta nắm lấy khuỷu tay Jonah. “Ngài phải cùng chúng tôi”.

      “Chaaa!”

      Amy và Dan cười khúc khích chứng kiến cảnh nhân viên an ninh hộ tống Jonah và cha của nó ra ngoài.

      “Em chưa từng thấy cái gì hài hước đến thế kể từ cái bận tay phát thanh viên dự báo thời tiết giữa chừng bị xì hơi,” Dan lấy làm khoái chí. “Hy vọng bọn họ giữ thằng cha đó lại ít nhất là năm.”

      “Xin lỗi cậu?” chàng trai Ai Cập lịch đứng cạnh bên với Dan. “Có người gửi cho cậu thứ này.” ta đưa cho Dan bức thư.

      “Là ai vậy?”

      được trả ba mươi đô. Giờ chào cậu!” chàng chạy biến trước khi bọn họ có thể hỏi han gì thêm.

      Dan mở bức thư ra. Đó là bản vẽ thứ công cụ gì đó dài dài.

      “Đây là cái gì?” Dan thắc mắc. “ cái cuốc á?”

      “Đây phải là cái cuốc làm vườ liếc nhìn và lên tiếng. “Đó là công cụ cổ xưa của người Ai Cập dùng trong quá trình ướp xác. Người ta dùng nó để lấy não ra khỏi cơ thể người được ướp. Cho thẳng vào lỗ mũi, đẩy tí cho đến khi não người hóa lỏng và chảy ra ngoài qua đường mũi.”

      “Tuyệt!” Dan thốt lên.

      “Tôi cũng thấy vậy. Tuy nhiên họ lại bảo quản não người giống như các bộ phận khác. Phổi, dạ dày và ruột riếc nọ kia đều được khoét sạch và đặt vào từng chiếc bình đậy kín.”

      “Úi chà chà,” Dan thích thú. “Ấn tượng . Ngon lành cành đào, hỡi những chàng cổ đại.”

      người bạn của cậu gửi cho thứ này sao?” Theo hỏi. “Có vẻ hơi bị hài hước đấy nhỉ.”

      “Phải,” Amy . “ điên rồ.”

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 12


      LÚC HỌ LÒNG VÒNG các con phố ở Luxor, Dan bắt đầu cảm thấy Ai Cập giống như cái lò nướng còn mình là con gà tây. Nó mừng rỡ khi chiếc taxi chạy vào con đường dẫn xuống bến cảng vì như thế nó có thể ngắm dòng nước màu xanh lá của sông Nile. Nó chẳng thấy mát mẻ hơn tẹo nào, nhưng dù sao cũng còn hơn là nhìn thấy toàn cát là cát.


      “Chúng ta ở đâu vậy ?” Amy hỏi Theo lúc mọi người lấy hành lý.


      Theo trả tiền cho tài xế. hất hàm về hướng chiếc thuyền buồm trắng, đậu dòng nước. “Kia.”


      “Ái chà chà,” Dan thích thú. “ chiếc thuyền sao? Bá chấy.”


      “Đúng thế,” Amy . “Và nó dừng lại.” Từ trước đến giờ Amy chưa từng thích thú với tàu bè. Và việc ấy còn tồi tệ hơn khi nó suýt nữa bị chết đuối lúc bị quẳng khỏi con tàu xuống dòng kênh ở Venice.


      “Những chiếc thuyền này được gọi là dahabiyya,” Theo giải thích. “Mọi người có thấy những thuyền buồm hơn sông ? Chúng gọi là felucca. chuyến nào đến Ai Cập được xem là trọn vẹn nếu chuyến du ngoạn felucca này. người bạn của tôi rằng chúng ta có thể ở lại vài đêm thuyền của trong lúc ấy còn ở Cairo.”


      “Này, có lẽ là sau khi chúng ta đến tham quan lăng Nữ hoàng Neferfarty xong, ta tắm sông nhé,” Dan đề nghị.


      “Là Nefertari, và cho dù chú em muốn làm gì cũng đừng bao giờ bơi dòng sông Nile đấy nhé,” Theo dặn dò. “Có đủ các loài ký sinh trùng - các loài sâu bọ - có thể khiến chú em cảm thấy rất là, sao nhỉ, khó chịu. Ấu trùng của chúng xâm nhập vào da chú em. Và dĩ nhiên đôi khi còn có cả cá sấu nữa.”


      “Okê, vậy là thuyết phục được em rồi đó,” Dan đáp.


      nào mọi người, mang hành lý lên thuyền thôi.”


      Buồng lái ngăn nắp, rộng rãi và bóng loáng. Có đủ gian cho hai người nằm ngủ ở đầu mũi thuyền, và khu vực để ngồi tạo thành chiếc giường khác. Kệ sách xếp dọc theo buồng lái. Theo , ngủ boong. “Để trông chừng cá sấu,” chàng nháy mắt.


      “Còn bây giờ,” tiếp, “tôi phải hỏi han về cách vào lăng mộ. Có thể cần vài lời thuyết phục nữa. Khi trời nóng lên các em có thể muốn nghỉ ngơi đôi chút, nhưng mọi người vẫn còn thời gian để khám phá thung lũng. Mọi người muốn bắt đầu từ đâu nào?”


      Amy giở quyển sách hướng dẫn của Grace. máy bay, nó để ý rằng Grace viền quanh địa điểm bằng nét mực màu xanh nhạt. “Bà được bỏ qua đền Hatshepsut.”


      “Tuyệt vời. Cả hai di tích đều nằm cùng mạn Thebes của con sông.” Theo nhìn Nellie. “ em nghĩ sao về việc đến tham quan văn phòng của nhà khảo cổ thứ thiệt?”


      sao? Em rất thích.”


      Dan tròn xoe mắt nhìn Amy. Hai đứa chưa bao giờ biết rằng nàng au pair nhanh nhảu của mình lại có thể sành sỏi cái khoản...làm con đến thế. máy bay nó bị say gió khi trông thấy hai người này cùng nhau chén bịch đậu phộng. Nó ước ao sao cho Nellie quay lại tôn thờ chiếc iPod của nàng.


      “Hãy thả bộ xuống dọc theo con sông rồi tôi bắt taxi cho hai em,” Theo với Dan và Amy. “Nellie và tôi gặp các em ở đền Hatshepsut trong đúng boong giờ nữa. Khi đó, chúng ta vào trong lăng mộ.”


      ***


      “Chị tin được rằng Theo như thế này vẫn còn chưa phải là nóng,” Amy . “Còn có thể nóng hơn đến mức nào nữa chứ?”


      Amy sắp sửa càu nhàu thêm nữa trước mặt nó cảnh tượng kinh ngạc dần ra trong bầu khí lượn sóng của sa mạc. Đền Hatshepsut nằm ở dưới chân những vách đá sừng sững. Nó được xây thành ba tầng, với các hàng cột dựng thẳng dọc theo mặt trước. dãy dốc và bậc thang dẫn khách vào tham quan bên trong đền.


      “Chẳng phải là vô cùng lộng lẫy hay sao?” con bé thốt lên.


      “Chỗ nào?” Dan hỏi lại. “Cát? Hay là... cát?”


      “Chúng ta ở đây, mặt đất mà con người từng bước hàng ngàn năm về trước. Chị đọc được trong quyển sách...”


      Dan giơ hai ngón lên. “Cảnh giác có thuyết giáo.”


      “... rằng ngôi đền này được kiến trúc sư của nữ hoàng, ngài Senenmut, thiết kế vào Vương triều thứ 18. Về sau, nó bị hoàng đế Ramses phá hủy...”


      “Em đoán là gã ta phải fan hâm mộ


      “... và thậm chí nơi đây có thời gian từng là tu viện Ai Cập. Người ta vẫn khai quật các thành phần của kiến trúc này. Chị nghĩ chúng ta nên ngay đến chỗ phù điêu mô tả chuyến hành trình của nữ hoàng đến Vùng đất của Punt[1]. Hãy nhìn xem bà Grace viết gì ở đây.”


      [1] “Vùng đất của Punt”, còn gọi là Pwenet, là đối tác giao thương nổi tiếng của người Ai Cập thời bấy giờ, chuyên sản xuất và xuất khẩu vàng, hương liệu, gỗ, ngà voi và cả nô lệ. Tuy nhiên, cho đến nay đây vẫn là vùng đất hoàn toàn bí .


      Đừng bỏ lỡ chúng! Thậm chí từ Tân Vương quốc, nữ hoàng phải mua sắm Giáng sinh.


      “Punt ở đâu?” Dan thắc mắc. “Nó ở cạnh Pass và Hike có phải ?”


      ai biết . Họ nghĩ nó ở Somali ngày nay. Hatshepsut thực cuộc thám hiểm tới đó.”


      Hai đứa đến dốc lớn thoai thoải, ở giữa có những bậc thang nông. Cái nóng bật ra từ tảng đá nhạt màu và hắt vào người chúng. Những màu vàng, màu be của cát và vách đá khiến mọi vật trở thành thứ ánh sáng lung linh giần giật trong khí. Amy mừng vì Theo nằng nặc ép chúng phải mang theo kính mát và mũ lưỡi trai. Ánh sáng chói lóa khiến thể nhìn thấy gì được bằng mắt thường. Càng xuống sâu phía dưới, Amy càng thấy khiếp sợ. Tất cả khiến nó nôn nao, cái nóng gay gắt, bầu trời màu xanh dương, vách đá, hùng vĩ của các bức tượng và cột kiến trúc.


      “Bà ta đây rồi,” Amy chỉ vào bức tượng Hatshepsut.


      “Í chà, bà này có râu,” Dan . “Nữ hoàng là gã trai kìa!”


      “Bà ta gọi mình là vua,” Amy giải thích. “Thế nên đôi khi bà ta còn trang điểm thêm cho mình bộ râu.”


      “Sao cũng được,” Dan . “Em nghĩ bà ấy cần cạo râu.”


      “Nhanh nào, chị nghĩ rằng các bức phù điêu nằm ở tầng thứ hai.” Sau khi tham khảo quyển cẩm nangAmy dừng lại trong chốc lát. Dan cố rướn người nhìn ra sau vai chị nó.


      “Chị nghĩ chúng ta rẽ phải,” Amy .


      , trái chứ,”


      “Phải. Rồi trái, rồi lại sang phải...”


      “Và rẽ tiếp, rồi đá phát rồi nhảy cái tùm. Đây là chỉ dẫn hay là màn biểu diễn cổ vũ vậy?” Dan cố chộp lấy quyển sách. “Cho em xem với.”


      “Thôi, chị hiểu ra rồi.”


      “Nhưng em vẫn chưa xem mà!”


      Amy giằng lại quyển sách khỏi tay Dan. “Chị muốn em làm mất nó.”


      “Được, em làm mất cho coi,” Dan cay cú làu bàu.


      Amy tiến nhanh về phía trước. Nó muốn quyển sách rời khỏi tay mình. Những lời nhắn của Grace vẫn còn trong đó, và ngay cả khi con bé thể tự mình hiểu được chúng, Amy cũng muốn để Dan làm đổ soda lên các trang giấy hay để quên quyển sách ở quán cà phê nào đó.


      Dan cau mày lủi thủi theo sau chị nó. Amy vẫn nhìn lên các bức tường khổng lồ và dò lại trong quyển sách, nóng lòng muốn tìm đúng nơi muốn đến. Bất thình lình, Amy đứng lại chỉ tay lên cao. “Kia rồi! Đó là nơi có trong tấm hình của Grace.” Con bé đứng vào chỗ Grace đứng và tạo dáng theo y hệt.


      “Em chả hiểu gì sất,” Dan . “Mấy trăm ngàn năm gì đó trước kia, nữ hoàng đến Punt. Em chẳng thấy điều này có ăn nhập gì với chúng ta hết. Chị, nhìn xem kìa.”


      Nó chỉ vào bức tượng với thân hình thấp, mập tròn. Amy tham khảo quyển sách. “Đó là Nữ hoàng vùng đất Punt. Bà ta trao món quà là những cây myrrh[2] cho nữ hoàng Hatshepsut.”


      [2] Myrrh hay còn gọi là cây nhựa thơm“Em chả thèm quan tâm, bà ta vẫn nên từ bỏ món bánh falafel hơn.”


      “Tại sao Grace dẫn ta đến đây?” Amy hỏi to. “Bà cố gắng với chúng ta điều gì chăng? Nản quá mất!”


      “Nhưng chí ít bà cũng cố gắng,” Dan đáp. “Cuối cùng bà cũng để lại cho chúng ta cái gì đó để mà tiếp. Bà để lại manh mối là con Saladin để ta biết cách mở bức tượng. Chỉ có hai chúng ta mới biết được điều này thôi.”


      “Có lẽ là em có lý.” Amy nhìn về phía thung lũng, rồi đến hàng dài khách du lịch nối tiếp lên bờ dốc. Nó nhận ra hai bóng người tụt lại phía sau. “Nhìn kìa!” Amy la lên. “Đó là Jonah và cha .”


      “Ôi trời,” Dan rên rỉ. “Thế mà em cứ hy vọng rằng cha con nhà nó chí ít cũng bị nhốt vĩnh viễn chớ.”


      Thình lình, luồng ánh sáng rọi vào khiến chúng cảm thấy như nổi bật lên trước mắt mọi người. Dan và Amy nhìn xuống bên dưới dốc thấy hai cái bóng xíu của Jonah và cha nó đột ngột dừng lại. Jonah ngồi xuống, ngay bên phải con dốc, như thể nó cảm thấy quá mệt và nóng nên bước nổi nữa. Cha nó khom người xuống bên nó, hẳn là thúc giục gã nhóc đứng dậy.


      “Theo và Nellie đâu rồi?” Dan thắc mắc. “Lẽ ra hai người đó đến đây rồi chứ?”


      Amy rùng mình cảm nhận được cơn lo sợ. “Mình tìm hai chị ấy .”


      Cả hai trèo lên tầng kế tiếp. Khi đến đỉnh dốc, tụi nó trông thấy Theo và Nellie đứng cạnh chiếc cột.


      “Bọn chị tìm hai em đó!” Nellie , mặc dầu Amy cảm thấy dường như nàng và Theo đứng ở đó từ lâu, tay trong tay.


      “Tôi có tin tốt và tin xấu,” Theo . “Tin xấu - lăng mộ Nefertari đóng cửa.”


      “Xong phim!” Dan kêu lên.


      “Tin tốt là Theo tuyệt vời,” Nellie nhìn Theo bằng cặp mắt lấp lánh cảm phục. “Lem phải xem ấy hành động ra sao. ấy đến gặp người có chức vụ cao nhất, nhà khảo cổ thứ dữ gì đó, và bắt đầu với ông ta về việc ấy viết quyển sách này, và nhà khảo cổ đó bị ấn tượng ngay tức khắc trước giỏi giang của Theo đến nỗi cho ấy thẻ thông hành và rằng chúng ta có thể vào bên trong lăng mộ! Thiên tài trăm phần trăm!”


      em quá rồi. Chẳng đáng gì đâu.” Theo bảo.


      “Đừng khiêm tốn vậy chứ,” Nellie .


      chẳng có tí gì tài năng của tôi cả. Chỉ là vì em quá duyên dáng mà thôi.”


      “Ờ, xin chào? Có phải hội mèo khen mèo dài đuôi đây ?” Dan chen vào. “Lăng mộ ư?”


      “Phải,” Theo đáp. “Chúng ta nên ngay, trước khi ông ta đổi ý.”


      “Có lối phụ ?” Any hỏi. “Em, ừm, đại loại em muốn xem được vài thứ mà du khách thấy được.”


      luôn biết đường thoát, còn nhớ nào?” Theo bảo. “Nhưng chớ quên điều này - nếu về những ngôi mộ, chỉ có duy nhất lối mà thôi.”


      ***


      “Xem nào, chúng ta buộc phải tuân theo số luật lệ,” Theo giải thích. “Ngôi mộ này ở trong tình trạng rất yếu, do đó tuyệt đối mang theo máy ảnh, đèn flash, đèn pin. Khi tôi mở cửa, ánh sáng ùa vào. Mọi người nhìn thấy được đường , nhưng sáng sủa lắm đâu. Các bức bích họa phải được bảo quản bằng mọi giá. Hãy cẩn thận khi bước xuống thang, và được chạm vào bất cứ thứ gì ở tường. Và khi tôi ra hiệu là đến giờ ra, chúng ta ra. Ta có mười phút. Mọi người đồng ý chứ?”


      Mọi người đều gật đầu. Theo mở cánh cửa bằng sắt nặng trịch. chàng biến mất đằng sau cổng xuống lăng mộ và cả bọn theo xuống những nấc thang chật hẹp. khí càng ở sâu càng mát mẻ hơn, và có mùi bụi. Amy nghe tiếng Dan ho. Con bé hy vọng khí ngột ngạt làm ảnh hưởng đến chứng hen suyễn của nó.


      Theo khẽ. “Lăng mộ được tìm thấy trống rỗng. Trước đó rất lâu, bọn cướp lấy tất cả rồi. Nhưng nó vẫn còn kho báu đáng giá hơn.”


      Họ bước vào căn phòng đầu tiên. Amy hít hơi vào buồng phổi. Màu sắc ùa túa ra với nó, vô cùng lung linh, sống động. Những sắc đỏ, vàng, xanh lá, xanh dương.


      “Đó, chính là Nefertari. Tên của bà nghĩa là Điều đẹp đẽ nhất.”


      Bức vẽ hình người mặc chiếc áo choàng màu trắng trong suốt, có cổ rộng màu vàng và đôi bông tai hình đóa hoa nở rộ.


      “Bà ấy xinh đẹp,” Nellie . “Mình thực muốn chỗ nữ trang của bà.”


      “Nhìn lên xem,” Theo thầm .


      Trần đầu họ được vẽ bằng màu xanh dương sẫm. Các vì sao màu vàng được vẽ bằng những nét cọ nhanh, hàng nọ nối tiếp hàng kia. Điều này khiến Amy cảm thấy chóng mặt.


      “Ngôi mộ được thiết kế ra nhằm làm nơi cho Nefertari giã biệt cuộc sống khi xuống thế giới bên kia,” Theo giải thích. dẫn đường cho mọi người bước xuống những bậc thang hẹp khác. “Rất nhiều vị thần đón chào nữ hoàng và dẫn dắt bà suốt cuộc hành trình. Căn phòng cuối cùng chính là phòng chứa mộ.”


      Họ qua những bức phù điêu tuyệt đẹp và sống động tường. “Đó là thần Osiris,” Theo chỉ tay. “Thần phủ, chồng nữ thần Isis. Khi ta vào bất kỳ ngôi mộ nào, tức là ta vào thế giới của Osiris.”


      Họ vào trong phòng an táng. “Nơi đây, Isis dẫn Nefertari tới phủ,” Theo giải thích. “Hãy xem cách bà ấy cầm tay nữ hoàng mới nhàng làm sao. Và Isis đặt chìa khóa hình chữ thập, biểu tượng của cuộc sống vĩnh cửu, vào miệng nữ hoàng.”


      Amy quên hết về manh mối. khó mà tập trung khi có quá nhiều màu sắc và những điều bí vây quanh. Amy đứng giữa thế giới cổ đại, và tất cả những gì nó muốn làm là xoay tròn và xoay tròn xung quanh để thu gom càng nhiều hình ảnh vào tâm trí càng tốt.


      “Mười phút của chúng ta hết,” Theo thông báo.


      “Nhưng thể thế được! Chúng ta vừa mới đến đây thôi mà!” Amy phản đối.


      “Thời gian ở đây ngưng đọng, có phải nào? Nhưng ta vẫn phải thôi. Em tìm thấy cái mình muốn hay chưa?”


      “Chưa, nhưng ở đây đáng kinh ngạc,” Amy tiếc nuối. Làm thế nào nó có thể chọn riêng ra con chữ tượng hình hay là bức điêu khắc chứ? Mọi thứ đều cổ xưa, tồn tại hàng ngàn năm trước khi Katherine Cahill được sinh ra. Katherine ắt hẳn trông thấy lăng mộ này, hẳn bà bước vào chốn này và bị choáng ngợp trước vẻ đẹp của nó, như chính tụi nó bây giờ. Làm thế nào bà ấy có thể lưu lại thứ gì ở đây khi biết chắc chắn có ai đó tìm thấy? Bà ấy thể để lại được món gì ở đây cả; người hướng dẫn của bà cũng chính là bọn cướp lăng mộ, do đó bà biết chắc chắn những đồ vật được an toàn.


      Amy ngoái nhìn lăng mộ lần cuối trong lúc tất cả leo trở lại lên về với khí và ánh sáng mặt trời. Bà để lại thứ gì, hả bà Katherine? Amy tự hỏi.


      ***


      Trong lúc trở về thuyền, họ trông thấy tờ giấy trắng phất phơ cột buồm. “Cái gì thế nhỉ?” Amy hỏi giọng cảnh giác.


      “Có lẽ là thực đơn của cửa hàng mua mang ,” Dan trả lời. “Xác ướp có ăn pizza nhỉ?”


      Cả bọn nhảy lên thuyền và tiến lại gần hơn. Nellie hoảng hốt. Tờ giấy được đính vào cột buồm bằng con dao trông đáng sợ. Lưỡi dao lóe sáng dưới ánh mặt trời.


      Họ bước đến gần hơn để đọc tờ giấy.


      Cái chết ập đến kẻ phá bĩnh


      giấc yên nghỉ ngàn thu


      trong chớp mắt


      “C này ghê rợn quá,” Nellie rùng mình.


      Theo rút con dao ra và vò nát tờ giấy. “Chắc hẳn dân địa phương cố hù dọa chúng ta để mua vui đây mà.”


      Amy nghĩ như thế. Nó thắc mắc “Nhưng thế có nghĩa là gì?”


      “Đó là lời nguyền của pharaoh,” Theo giải thích. “ thứ mê tín ngớ ngẩn, chấm hết. Bất cứ ai xâm hại ngôi mộ hứng chịu cái chết kinh hoàng và bất đắc kỳ tử. Là mấy thứ như trong phim kinh dị ấy. Toàn chuyện trẻ con.”


      Trẻ con? Dan nhìn Amy. Là Jonah, thằng bé ngầm với chị nó.


      Nellie chạy bày biện bữa trưa mà họ mua mang trở về thuyền. “Chúng ta có thể đừng nhắc đến các lời nguyền xác ướp trước khi ăn, có được ? Chúng khó tiêu đấy.”


      Dan và Amy ngồi vào ghế ở ngoài tầm mà Theo và Nellie có thể nghe thấy, hai chị tán gẫu với nhau trong lúc ăn. “Vậy là Jonah biết chúng ta ở đây,” Dan .


      Amy múc ít baba ghanoush[3] dùng chung với bánh mì Ấn gọi là aish merahrah.


      [3] Món cà tím Trung Đông.


      “Phải rồi. Chắc là thằng đó. Có vẻ đúng cái kiểu của .”


      “Thằng cha đó thà theo mình chứ tự nghĩ ra gì được đâu,” Dan . “Nhưng đây là cái gì vậy?”


      Amy liếc xuống chiếc đĩa. “ thứ cà tím gì đó, chị nghĩ vậy.”


      phải, cái chúng ta mù tịt kia. Chúng ta mù tăm mù tịt 39 manh mối rồi! Phải có lý do vì sao Katherine Cahill dẫn ta đến ngôi mộ đó chứ.” Dan thuộc bài thơ ngớ ngẩn của Katherine. Giờ nó chầm chậm nhẩm lại bài thơ trong đ


      Dan ngồi dậy. “Này, chị nhớ - Từng bước dưới bầu trời sao cổ đại vào tâm trí. Ta nghĩ Katherine về bầu trời. Nhưng nếu như bà ấy muốn ...”


      “Những ngôi sao trần ngôi mộ!” Amy reo lên.


      “Từng bước,” Dan tiếp. “Chúng ta nhìn vào mọi thứ tường, nhưng vẫn chưa xem các bậc thang có đúng ? Ta phải quay trở lại ngôi mộ thôi!”







      CHƯƠNG 13


      IRINA ĐỨNG VỊN VÀO LAN CAN. Ả thể liều lĩnh bước chệnh choạng những nấc thang rất dốc này. Ả trông thấy bọn nhóc Cahill rời khỏi ngôi mộ, và hiểu rằng nơi ấy hẳn phải có gì đó. khối chất nổ vừa đủ để làm bể ổ khóa, và thế là ả vào được bên trong. Điều hay ho là ả bị ai phát . Người Ai Cập có thể xúc động lắm khi có kẻ đụng chạm đến những địa điểm thiêng liêng của họ.


      Irina vào phòng chờ . Những hình nhân Ai Cập kia - tất cả hệt như nhau - vây xung quanh ả, số có đầu chim, số khác có vương miện, số khác cầm gậy uốn cong như rắn. Ả ló đầu sang căn phòng bên cạnh. Cũng giống hệt như thế.


      Nhưng những màu sắc...


      Ả cố hết sức để tập trung trở lại công việc. Lại bước thêm những nấc thang. Ả bước xuống cách thận trọng, mừng vì mang đôi giày Nike. Bọn người Mỹ ấy biết cách làm giày thể thao. Ả phục bọn họ ở điểm này. Irina tiếp tục hướng suy nghĩ của mình vào đôi giày vì ả bắt đầu cảm thấy hơi chóng mặt. Đó là mẹo mà ả thường sử dụng mỗi khi cảm thấy mệt mỏi hay tức tối, bất cứ khi nào cảm xúc đe dọa chế ngự khi ả làm nhiệm vụ. Hãy tập trung vào những thứ nhặt.


      Nhưng tại sao ả lại cảm thấy bị choáng ngợp thế này?


      Phía trái, con chó rừng đen đúa đưa cho bà nữ hoàng Ai Cập thứ gì đó. Hẳn đây là Nefertari. Irina chẳng biết tí gì về nghệ thuật Ai Cập, nhưng ả cũng ít nhiều biết rằng: Nữ hoàng xinh đẹp được chào đón vào phủ. Bà ta bỏ lại cuộc sống phía sau. Bỏ lại nắng, dòng sông, cung điện, chồng, con. Tất cả bị tước khỏi tay bà.


      Ả bước vào phòng mộ. Đây là nơi đặt thi hài của nữ hoàng, giữa những chiếc cột trang trí.


      Các bức tượng phẳng ấy, giống hệt nhau, như những nhân vật trong hoạt hình, với mái tóc màu đen và đôi mắt u. Trước kia chưa bao giờ ả nhận thấy điều đó...


      Chúng mới đẹp làm sao!


      Những bức tranh... ả mường tượng cảnh những người họa sĩ có mặt ở đó, nhúng cọ vào những chậu màu màu vàng, xanh lá, xanh dương. Họ vẽ nên câu chuyện về cái chết của nữ hoàng. Họ vẽ nên từng cuộc sống. Từng cái chết. Từng niềm vui, từng nỗi mất mát.


      Chếnh choáng, Irina chầm chậm xoay người, thưởng thức tất cả mọi thứ.


      Ả cảm thấy thứ gì đó là lạ khuôn mặt, thứ gì đó lạ đến nỗi thoạt tiên ả nhận ra. Irina cảm thấy nó giống như luồng gió, man mát trong bầu khí xưa cũ. giọt nước mắt.


      Điều gì xảy ra thế này?


      Grace ơi, bà làm gì với tôi vậy?


      Vì ả cảm nhận được, ả bất chợt cảm thấy Grace, diện của bà, ở ngay tại nơi này. Vẻ hoạt bát, tinh , sốt sắng... sựtừ tâm của Grace.


      tử tế với tôi, ả thế với Grace. Khi bà cho tôi là con ngốc, trong giọng của bà hề có cay nghiệt. Mà trong mắt bà có từ tâm.


      Tôi thể tha thứ cho ai? Bà... hay là chính tôi?


      Irina nhìn chằm chằm lên nhìn bức tường trước mặt. Tái sinh, ả vỡ lẽ. Căn phòng này có dấu vết nào về cái chết. Nó là tái sinh.


      Liệu điều ấy có thể xảy ra? Sau cuộc đời qua, qua hết chọn lựa này đến chọn lựa khác và khác nữa, dẫn ta đến nơi chật hẹp và tăm tối... liệu người có thể... đổi thay ?







      CHƯƠNG 14


      HÃY TỰ RĂN MÌNH, Dan ngẫm. được nghĩ đến những xác ướp bị hút não khi đứng trong ngôi mộ cổ.


      Bóng tối ập đến quanh chúng. Cả hai vừa mới thò tay đẩy cửa vào ngôi mộ, lập tức nó mở toang ra. Chắc hẳn Theo quên khóa nó lại. Khi diện vui tươi của chàng ít nhiều ngôi mộ dường như trở nên tăm tối hơn. Ghê sợ hơn.


      “E-em nghĩ mình nên xuống đây sao?” Amy thào.


      “Đó là lý do ta ở đây,” Dan dứt khoát. Nhưng nó nhúc nhích.


      “Điều này nực cười,” Amy , ưỡn thẳng hai vai. “ nào.”


      Con bé khép cánh cửa, nhưng vẫn để mở he hé. Dan theo sát phía sau trong lúc chị nó bước xuống các nấc thang. Khi vào đến phòng chờ, cả hai cùng nhìn lên trần. Các vì sao trông giống như cánh đồng hoa vàng nền xanh lấp lánh.


      Rồi chúng nhìn trở lại các bậc thang. “Nhìn những tấm ván đứng giữa hai bậc cầu thang chỗ kia xem,” Amy trỏ. “Hòn đá nằm đằng sau nấc thang. Hẳn Katherine để lại manh mối ở đó chứ phải nấc thang đâu. Bà ấy hiểu bước chân người hàng trăm năm sau đó bào mòn bất cứ thông điệp bí mật nào.”


      Tụi nó xem xét từng tấm ván đứng, nhưng chẳng có gì khác hơn ngoài những hòn đá cổ xưa mòn l


      “Cầu thang kế tiếp,” Amy ra lệnh. “Ta phải nhanh lên.”


      Hai đứa thận trọng bước xuống thang, vào sâu hơn trong hầm mộ.


      “Chờ !” Amy thầm. Nó biết vì sao mình lại thầm, nhưng lớn tiếng ở nơi như thế này phải tí nào.


      Amy khom người xuống, căng mắt quan sát trong ánh sáng yếu ớt. Nó quên ngay căng thẳng khi máu khám phá chảy ran khắp cơ thể. “Dan, lại đây nào! Đây là chữ tượng hình. Nó được khắc vào đá.”






      “Và đây nữa,” Dan .






      Cả hai tiếp tục xuống, lần lượt tìm thêm được những chữ tượng hình khác nữa.






      Thình lình, chúng nghe tiếng rít lanh lảnh, tiếng kim loại chạm vào nhau.


      tiếng keng to phát ra và cánh cửa hầm mộ bằng sắt khép lại hoàn toàn. Ánh sáng ngay lập tức tắt ngóm.


      “Amy ơi?” Dan khe khẽ gọi.


      “Chị đây.” Amy chỉ biết được Dan cách mình vài tấc dựa vào tiếng nó phát ra. Trong hầm mộ tối đến nỗi Amy cũng thấy được tay mình. Nó cố gắng để hoảng hốt.


      Bóng tối ập đến xung quanh hai đứa như thực thể sống.


      Dan thấy khó thở. Amy chộp lấy tay nó. Như mọi khi Dan vùng tay ra và đại loại như là “Èo,” nhưng khi đó những ngón tay của chị nó mới ấm áp làm sao, thậm chí ngay cả khiđẫm mồ hôi.


      “Ai đó đóng cửa,” Amy thào.


      “Cảm ơn mách nước, thưa giáo Trớt Quớt,” Dan thầm đáp lại.


      Thình lình, nó nghe thấy tiếng động. Có phải đó là tiếng bước chân nhỉ? Lệch xệch như thể bàn chân kéo lê nền đất bụi bặm. Như thể những tấm vải liệm được lê theo phía sau...


      “Em có nghe thấy ?” Amy lại thào.


      ,” Dan dối.


      CÁI CHẾT ẬP ĐẾN KẺ PHÁ BĨNH GIẤC YÊN NGHỈ NGÀN THU TRONG CHỚP MẮT.


      Dan biết mình hít bụi vào phổi. Nó cảm thấy hai lá phổi hoạt động cách khó khăn. Dan còn nghe được tiếng khò khè của chính nó vang vọng trong hai tai.


      “Dan ơi.” Amy xốc vai nó lên. “Vẫn còn nhiều khí kia mà. Em có mang theo ống hít ?”


      Giọng bình tĩnh của Amy trấn tĩnh nó. Dan biết làm thế nào chị nó lại bình tĩnh đến thế, nhưng như vậy giúp ích cho thằng bé. Dan biết chị nó hoảng hốt đến thế nào trong cái bận suýt nữa hai đứa bị chôn sống. giáo Amy ngày càng dũng cảm hơn. Nó thò tay vào túi quần soóc lấy chiếc ống hít ra.


      Khá hơn rồi.


      Tiếng động lại vang lên, đáng sợ trong chính đe dọa nhàng của nó. Dan thậm chí còn muốn là nó chẳng nghe thấy gì. Nó hình dung trong đầu cảnh xác ướp, hai hốc đen sì thay vì cặp mắt, vải lanh bị kéo lê . Não của cái xác bị hút ra hết, và nó chỉ còn là xác chết... tiến đến...


      Chầm chậm thôi, nó bảo với nhịp tim của mình. Nếu đây là trò chơi điện tử, mày thấy nó rất tuyệt.


      Lại tiếng lạo xạo nữa, lần này còn gần hơn trước.


      đây phải là trò chơi!


      Bất kể đó là gì - là người hay là cái gì chăng nữa - thứ đó săn tìm tụi nó.


      “Chúng ta phải nấp thôi,” Amy thào. “Đến phòng chôn cất.”


      , , muốn quay trở lại phòng chôn cất. Chỉ ý nghĩ ấy thôi làm máu nó đông cứng lại. Nhưng nó cũng theo Amy vào cái nơi mà xác ướp được đặt xuống từ hàng ngàn năm về trước.


      ***


      Thậm chí trong bóng đêm dày đặc, Irina vẫn hoàn toàn định hướng được. Ả nghe thấy Dan và Amy nhích từng chút về phía mình. Ả nhìn tinh như mèo. Irina có thể tìm được đường ra trong hang động dài nhiều cây số dưới lòng đất nếu cần. thực tế, ả từng trải qua chuyện đó, nhờ vào cái công việc nhen bẩn thỉu ở Marrakech hồi những năm 90.


      Bố trí học của hầm mộ khiến cho mọi tiếng động được khuyếch đại. Tất cả thẳng đến tai ả.


      Đây là cơ may của Irina. Cuối cùng bọn chúng cũng thuộc về tay ả. Câu hỏi ở đây là, chính xác ả phải làm gì. Hai đứa trẻ cần phải bị ghìm chân lại, buộc phải chặn đứng chúng. Phải bị làm cho khiếp vía đến độ tụi nhóc chỉ còn cách quay trở lại thành phố Đậu[1] thân thuộc của chúng.


      [1] Beantown - tên gọi dân dã của thành phố Boston, vì trong quá khứ món đậu rang tẩm mật đường là món ăn thích ở nơi đây.


      Thế , các móng tay tẩm độc của ả - luôn luôn là chọn lựa. Hay ít chất nổ tốt hơn nhỉ? cần phải quá mạnh tay, chỉ cần đủ để cho cú sụp hầm nho ở đây. Nếu ả có thể vượt qua hai đứa chúng nó - và ả làm được điều đó - ả đặt chất nổ ngay ở lối vào, và đoàng phát. Bọn chúng bị kẹt lại trong phòng chôn cất này ít lâu, ả hình dung trong đầu như thế. Đủ lâu để hiểu ra rằng 39 manh mối là trò chơi dành cho người lớn, phải của trẻ con.


      Irina khẽ khàng di chuyển về phía trước. Amy chần chừ bước thêm bước vào phòng. Lũ trẻ nắm tay nhau. Xì. Bọn nhóc nhát cáy thò lò mũi xanh đáng này!


      Ngôi mộ nhập vào ả. Irina từng đeo đuổi những ý nghĩa điên rồ. Blin! Như bà ả từng kể lại, có lần ả suýt nữa cho nổ tung mái nhà mình. Những ý nghĩ điên rồ, rằng ả sai đường lạc lối, rằng vẫn còn cách khác.


      Chỉ có cách mà thôi, và cách đó hay ho gì cho tất cả những kẻ khác.


      Bọn chúng lại gần hơn nữa. Ả ngửi thấy mùi sợ hãi của chúng. Ả mỉm cười khi tiến đến gần thêm. Chỉ hay hai milimet nữa... Chân ả chạm vào cái gì đó.


      “Em nghe thấy gì ?” giọng Amy lạc hẳn .


      Irina gần đến nỗi ả có thể chìa tay và chạm vào con bé. Ả chỉ việc duỗi ngón tay ra... và cào.


      Mắt Irina giật giật. Ả cúi xuống và chạm vào thứ mà gót giày Nike của ả vừa đụng phải. Ngón tay ả sờ thấy quyển sách . Ả cho nó vào túi.


      “Có ai đó ở đây với chúng ta,” Dan thầm.


      Phải, là ta đây, đồng chí ạ. Irina có thể nhận ra chỗ da sáng sau cổ Dan. Quá trơ trọi. Quá gần.


      Nhưng chờ . Tốt hơn là bọn chúng vẫn còn tỉnh táo sau khi vụ nổ xảy ra. Nếu chúng ngất xỉu rồi hù dọa đâu còn tác dụng gì nữa chứ? Nỗi khiếp sợ được thưởng thức trọn vẹn nhất khi kẻ kia còn tỉnh táo.


      Lưỡng lự, Irina qua cả hai đứa chúng nó như bóng ma. Lên cầu thang phía tiến về phía cánh cửa. Gian phòng bên giờ nằm về phía tráả. Túi bên phải của ả là khối thuốc nổ.


      Irina dừng lại để cài hẹn giờ. Ả cầm khối thuốc nổ tay, sẵn sàng đặt xuống.


      Ả nhớ lại các bức tranh tường. Nữ hoàng. nữ thần dắt tay bà. Những sắc màu xanh, vàng, xanh dương. Hầm mộ này tồn tại suốt ba ngàn năm qua. Nó nên an nghỉ trong yên bình.


      Gì cơ? Làm thế nào mà cái ý nghĩ đó lại len lỏi vào đầu của ả được nhỉ?


      Ả là thành viên dòng họ Cahill. Lucian. Siêu việt về trí tuệ và gian xảo. Ả nên làm bất kỳ điều gì để đạt được thứ mà mình muốn...


      Ngoại trừ việc phá hủy những thứ mà nhiều thiên niên kỉ qua cát, nước và trộm cướp phá hủy được.


      Irina tắt bộ hẹn giờ.


      Đó cũng là lúc ả nghe thấy tiếng bước chân. Ở đây còn có kẻ nào khác nữa.


      Irina chưa hề sợ thứ gì trong đời. Ngoại trừ... có lẽ là những tên hề.


      Ả bước về phía tiếng động phát ra.







      CHƯƠNG 15


      CÁNH CỬA MỞ TOANG. Ánh sáng tràn vào.


      “Dan? Amy? Các nhóc tì có đó ?”


      “Nellie!” Amy reo lên. “Chúng em ở đây


      Nellie chạy nhanh xuống dãy thang thứ hai vào trong phòng mộ. nàng lao thẳng vào tụi nó và ôm chúng chặt.


      “Hai đứa ngừng làm những việc như thế này lại, được hả?” Nellie cao giọng. “Chị giữ được bình tĩnh lâu đâu! Tụi em có thể bị kẹt lại ở đây mãi mãi đó!”


      Bất chợt, Theo cũng lao xuống chỗ ba người. “Amy? Dan? Nellie!” Theo đỡ hai khuỷu tay Nellie. “Em sao chứ?”


      sao,” Nellie đáp.


      “Amy và em cũng sao, cám ơn ,” Dan lên tiếng.


      “Tôi tìm mọi người khắp nơi!” Theo cuống cuồng với Nellie. “Các em chắc chắn sao chứ?”


      “Ổn trăm phần trăm,” Dan trả lời. “Chúng em chỉ bị nhốt trong ngôi mộ thôi. có vấn đề gì hết.”


      “Ý là gì, Theo?” Nellie hỏi lại. “Em thức giấc thấy Amy và Dan mất. Em biết cả hai quay trở lại đây. Cơ bản là em chỉ chọn ra điều làm cho em thấy sợ nhất, và hai đứa nó làm theo cách ấy.”


      Theo lau mồ hôi trán. “Tôi có tin nhắn vào điện thoại báo rằng hai em gặp rắc rối. Tôi tìm khắp nơi suốt từ nãy đến giờ.”


      “Lúc bước vào hầm mộ chị có trông thấy ai ?” Amy hỏi Nellie.


      Nellie lắc đầu. “Chị chạy xuống thang ngay khi nghe các em gọi.”


      “Bọn em nghe như có người ở đó,” Dan . “Có tiếng sột soạt gì đó.”


      Theo cố gắng nhịn cười. “ xác ướp phải ?” color="black">

      “Bọn em đâu có tưởng tượng ra điều đó chứ,” Dan đáp giọng bực dọc. “ ai đó có thể lẻn vào trong những gian phòng, rồi lẻn ra sau khi Nellie xuống phòng mộ.”


      “Ôi ! Quyển sách của Grace!” Amy thảng thốt. “Chắc chắn chị làm rơi nó rồi.”


      Bọn họ tìm kiếm khắp ngôi mộ vẫn thấy.


      “Em có chắc giữ nó chứ?” Theo hỏi.


      “Dĩ nhiên là chị em chắc rồi,” Dan trả lời. “Chị ấy chẳng bao giờ để nó rời khỏi mình. thấy chưa nào?” Nó nhìn quanh lăng mộ. “ ai đó ở đây.”


      “Và kẻ đó lấy quyển sách của Grace,” Amy .


      ***


      Amy và Dan đều lặng thinh ngồi trong buồng lái sau bữa tối. Theo gợi ý, tất cả bọn họ đến Luxor ăn tráng miệng - biết nhà hàng “siêu sao”, ngồi nóc nhà có thể nhìn được bao quát con sông và cả đền Luxor. Nhưng chúng thể nghĩ đến món tráng miệng ngon lành hay những góc nhìn du lịch đẹp đẽ.


      buồn bã lởn vởn đầu Amy tựa như đám mây. Dan hiểu quá chị nó cảm thấy như thế nào. Quyển sách mất. Cũng giống như cảm giác của nó khi làm mất tấm ảnh chụp cha và mẹ trong đường hầm tàu điện ngầm ở Paris. Cũng giống như nó mất phần của họ. Giờ chúng lại mất phần của Grace. phần rất quan trọng.


      Tụi nó cứ lần lượt mất từng mẩu cuộc sống trước kia. Rơi rụng, và biến mất. Cho đến khi ta cảm thấy như thế giới trọng lực, và chẳng mấy chốc ta chẳng còn gì để bấu víu. Đêm nay, chuyển động của con thuyền khiến Dan cảm thấy gần như bị chóng mặt.


      đến lúc phải hành động, suy nghĩ nữa. Cứ nghĩ ngợi mãi về thứ này thứ khác chẳng mang ta đến được đâu cả, mặc kệ chị nó suy tư về chuyện gì. color="black">

      Dan đẩy mẩu giấy về phía Amy. “Đây.” Nó viết lại những chữ tượng hình chúng tìm thấy bậc thang trong lăng mộ Nefertari.


      Amy chẳng buồn thắc mắc xem liệu thằng bé có chắc chắn nhớ đúng hay . Nó bật dậy và đến mấy chiếc kệ chật cứng sách. Amy lôi ra quyển nặng trịch. “Chị thấy quyển này. Nó là quyển tự điển chữ tượng hình.”


      Cả hai lật qua hết quyển sách. Phải mất lúc lâu chúng mới tìm thấy lời giải cho từng con chữ tượng hình. Dan ghi chép lại.






      “Sông, vách đá, hòn đảo, cự thạch,” Dan chỉ vào từng chữ . “Những chữ đó dễ. Nhưng ta vẫn chưa tìm thấy nghĩa của chữ cuối cùng này.”






      “Này nhé, chúng ta có mặt tại Luxor,” Amy . “Có con sông. Có vách đá. Đảo sông. Cự thạch nữa. Nhưng Katherine thể liệt kê mọi thứ cách ngẫu nhiên được.”


      “Nếu Katherine vẽ chúng ra,” Dan phân tích. “Ta biết chắc được điều này. Vào thế kỷ 16 bà ấy biết giải nghĩa chữ tượng hình. Phải vài thế kỷ sau đó người ta mới dịch được chữ tượng hình, khi tìm ra tảng đá Rosetta[1].”


      [1] Cuối thế kỷ XVIII, khi Napoleon chuẩn bị xâm lược Ai Cập và mở rộng bờ cõi về phía Đông châu Phi, ông tập hợp học giả ở nhiều ngành khác nhau để tạo nên Học viện nghiên cứu Ai Cập và theo đội quân của Napoleon. Vào mùa hè năm 1799, người lính Pháp đóng tại thị trấn Rosetta tìm thấy tấm bia màu đen, có kích thước 118cm chiều cao, 77cm chiều rộng và dày 33cm có khắc các văn bản cổ bằng 3 thứ tiếng: Hy Lạp, chữ tượng hình và tiếng Ai Cập cổ. Các học giả đặt tên cho tấm bia này là Rosetta Stone. Đây được xem là vật để thế giới văn minh có thể hiểu được ngôn ngữ tượng hình cổ xưa và được coi như là biểu tượng trong ngành khảo cổ học và dịch thuật nay.


      “Tuy nhiên chúng cũng khá là đơn giản đấy,” Amy . “Chúng chỉ là chữ tượng hình - viết ra sao hiểu như vậy. Chắc là chính Katherine tự hình dung ra. Chúng ta cũng có thể hiểu, thậm chí cần đến từ điển. Trừ chữ cuối cùng.”


      “Mọi thứ ăn khớp với nhau,” Dan bảo. “Có lẽ có bức tượng Sakhet thứ tư. Chị còn nhớ tờ giấy mà chúng ta tìm thấy từ cái lão Drovetti ? Lão ta viết rằng manh mối được chuyển lên tàu về cung điện của L.”


      “Có thể là vua Louis XIV,” Amy lập luận. “Versailles nằm ngay bên ngoài Paris.”


      “Có lẽ chúng ta nên có mặt ở đây tí nào,” Dan . “ Lucian nào đó chuyển manh mối quan trọng nhất về Paris bằng tàu. Cảm giác như đấy có thể là ngõ cụt.”


      Ánh nhìn của Amy vu vơ hướng về ô cửa sổ mạn thuyền. “Dan này, em có thấy ánh sáng thị trấn khá là... xa xăm ?”


      Dan đứng dậy. “Neo bị lỏng! Chúng ta trôi ra giữa sông mất!”


      “Tuyệt lắm, những người em!” Cái đầu của Jonah Wizard đột ngột xuất ở bậc thang đầu tiên dẫn lên boong. “Dẫn dắt tốt lắm. Paris là thành phố của ta! Ở Paris, bọn họ mến ta!”


      Amy và Dan chạy về phía cầu thang. Jonah bước lùi lại và để cả hai leo lên boong. Tất cả ở giữa sông. Ánh sáng của Luxor dường như quá xa xăm.


      Ông Wizard ở ngay bánh lái. Jonah thả mình đánh phịch vào chiếc ghế, cười phá lên và trỏ vào tụi nó. “Cả hai nên ngó lại mặt mình !” nó với giọng rất khoái trá. “Loạn trí rồi kìa. Mà biết gì đây? Giá như cả hai đứa tụi mày đồng ý làm bồ tèo với ta hồi ta đề nghị. Yo, bố à, hãy đặt hai vé hạng nhất quay trở lại Paris nào. Ta Phòng Gương Versailles. Có quá nhiều moi[2] để ngắm nhìn!”


      [2] “Ta”, tiếng Phá


      “Bố bắt được sóng ở đây,” Ông Wizard cố sử dụng chiếc BlackBerry nhưng ăn thua.


      “Hai đứa chúng mày biết gì ?” Jonah thu cả hai chân lên tay vịn ghế xếp, chân mang giày đung đưa tới lui. “Hai đứa bay trông thảm lắm. Có lẽ tụi mày cần kỳ nghỉ mát. Xem nào, tại hòn đảo nhiệt đới xinh tươi nhé?”


      Wizard quay đầu thuyền. Ông ta bắc tấm ván cầu bên mạn thuyền.


      “Ồ, thôi nào,” Dan . “Hai người lại đùa dai nữa rồi. Cả hai sắp sửa bắt tụi này bước lên tấm ván hay sao?”


      Jonah cười như nắc nẻ. “Chánh xác, tao thích thế. Tao luôn muốn mình thành tên hải tặc mà!”


      “Tao cho rằng tụi mày nên ngay,” Ông Wizard . “Chúng tao còn phải đón chuyến bay.”


      Tấm ván rơi đánh huỵch xuống bờ cát hòn đảo . Nơi đây có người ở. Tất cả những gì Amy và Dan thấy chỉ là cây và bụi rậm. Dẫu sao Amy vẫn thấy mừng vì bức tượng Sakhet còn nguyên trong túi đeo hông.


      “Rồi tụi này tính sổ với bố con mày!” Dan với Jonah.


      “Ừa, sao cũng được.”


      “Và mấy lời cảnh báo ngu ngốc đó đừng hòng làm tụi này sợ lấy tí tẹo nào.”


      “Cảnh báo nào?” Jonah hỏi lại. “Ngon cứ việc bước , Peter Pan[3]. Nhưng em trước , Tinker Bell[4] ạ,” gã nhóc với Amy.


      [3] Jonah giễu Dan với tên gọi Peter Pan - nhân vật nổi tiếng trong các tác phẩm văn học và phim ảnh, là cậu bé có thể bay và từ chối chịu lớn lên.


      [4] Jonah mỉa mai gọi Amy là Tinker Bell - nhân vật hoạt hình, nàng tiên đáng trong bộ phim cùng tên.


      Dan theo Amy bước xuống tấm ván.


      Ông Wizard thu tấm ván lại sau khi tụi nó đặt chân xuống hòn đảo. Con thuyền bắt đầu rẽ nước lướt .


      “Ở lại vui vẻ nháaaaa!” Jonah gọi to. “Tao cá rằng sớm hay muộn cũng có người đến thôi... Nhưng lưu ý điều.”


      Giọng của nó lướt mặt nước. “Coi chừng lũ cá sấu!”

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :