39 Manh Mối - tập 3: Kẻ đánh cắp Thanh Gươm - Peter Lerangis[Giả Tưởng]

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      39 Manh Mối - tập 3: Kẻ đánh cắp Thanh Gươm - Peter Lerangis[Giả Tưởng]
      [​IMG]


      Tên : Kẻ đánh cắp Thanh gươm
      Bộ Sách: 39 Manh Mối (tập 3)
      Nguyên tác: The 39 Clues Book 3: The Sword Thief
      Tác giả: Peter Lerangis
      Thể loại: Best seller, Giả tưởng, Phiêu lưu, Trinh thám, Văn học phương Tây
      Dịch giả: Dương Thu
      Công ty phát hành: Phương Nam
      Nhà xuất bản: NXB Hội Nhà Văn
      Trọng lượng vận chuyển: 400 grams
      Kích thước: 14 x 20 cm
      Số trang: 300
      Ngày xuất bản: 20-07-2011
      Giá bìa: 67.000₫
      Nguồn: tve-4u.org
      Type+Làm ebook: thanhbt



      Giới Thiệu:
      The
      39 Clues - 39 Manh mối câu chuyện ly kỳ xung quanh việc khám phá và sở hữu sức mạnh tối thượng. Đó là câu chuyện về nhà Cahill, gia tộc quyền lực nhất thế giới với những cái tên lừng lẫy trong gia phả, từ nhà lập quốc Mỹ Benjamin Franklin đến nhạc sĩ thiên tài Mozart. Trong giả thiết pha trộn huyền thoại và những nghi vấn lịch sử, bộ sách đưa ra bí mật lớn nằm trong 39 manh mối rải rác khắp thế giới. Người nào sở hữu được tất cả 39 manh mối đó nắm được bí quyết sở hữu quyền lực tối thượng.
      Bộ sách The 39 Clues - 39 Manh mối được xuất bản bởi Nhà xuất bản Scholastics (Mỹ) - NXB tạo nên tượng Harry Potter toàn cầu.
      LIÊN MINH CHẾT CHÓC
      Chỉ có qui luật duy nhất để tìm kiếm 39 manh mối thế giới: TIN BẤT CỨ AI. Sau Vienna là Nhật Bản, cuộc săn đuổi lúc này trở nên khốc liệt buộc Amy Cahill và Dan phải giả vờ liên kết với người chú mấy đáng tin - Alistair.
      Amy và Dan còn lựa chọn nào khác, đây là cơ hội duy nhất giúp chúng tìm ra manh mối thứ ba. Amy và Dan đối phó như thế nào khi đúng như qui luật dòng họ Cahill: tin người trong họ hàng chẳng khác gì tự sát.
      nay, hãng phim của đạo diễn Steven Spielberg giành được bản quyền chuyển thể The 39 Clues - 39 Manh mối thành phim. Tập đầu tiên (có thể do chính Spielberg đạo diễn) ra mắt vào năm 2014.
      The 39 Clues - 39 Manh mối gồm các tập:​
      - Tập 1: Mê Cung Xương
      - Tập 2: Bí Mật của Mozart
      - Tập 3: Kẻ đánh cắp Thanh Gươm
      - Tập 4: Bước vào Cõi tử
      - Tập 5: Vòng tròn tuyệt mật
      - Tập 6: Trong vùng Nước Ngầm
      - Tập 7: The Viper's Nest
      - Tập 8: The Emperor's Code
      - Tập 9: Storm Warning
      - Tập 10: Into The Gauntlet
      - Tập 11: Vespers Rising

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 1


      BỌN CHÚNG GẶP RẮC RỐI LỚN


      Amy Cahill dõi mắt theo chiếc túi vải len màu đen tả tơi được công kênh băng tải hành lý. Các góc túi đều phồng căng. Tấm biển ở phía băng chuyền có dòng chữ CÁM ƠN QUÝ KHÁCH ĐẾN VENICE: CHÚNG TÔI TIẾN HÀNH KIỂM TRA NGẪU NHIÊN HÀNH LÝ QUA KIỂM SOÁT được viết bằng năm thứ tiếng.


      “Ồ, tuyệt nhỉ,” Amy . “Ngẫu nhiên đến đâu mới là ‘ngẫu nhiên’?”


      “Em chị rồi, chiến binh ninja phải luôn giữ gươm trong hành lý xách tay,” Cậu em Dan, nhân vật trong tình trạng “thiếu não thường kỳ” từ lâu lắm rồi, thầm với Amy.


      “Xin lỗi nhé, ngài Jackie Chan. Nhưng hành lý xách tay luôn luôn bị soi tia X đấy,” Amy thầm đáp lại lời nó. “Vẫn có những luật lệ bổ sung đặc biệt được đem áp dụng cho những thanh gươm võ sĩ đạo nằm trong ba lô. Ngay cả khi chúng thuộc quyền sở hữu của những đứa trẻ 11 tuổi vừa còi cọc vừa mắc chứng hoang tưởng, luôn nghĩ mình là ninja.


      “Dùng mấy cây đó để ‘thái món bê phô mai parmesan’ có gì sai nào?” Dan bảo. “Làm thế quá ổn. Người Ý sành ăn mà.”


      “Ông em có hiểu ‘nằm khám từ 5 đến 20 năm, no parole[1] là gì ?”


      [1] “Miễn thêm”, tiếng Ý - .


      Dan nhún vai. Nó nâng chiếc lồng mắt lưới lên, bên trong chứa con mèo Mau Ai Cập hết sức cáu kỉnh quan sát cu cậu với ánh mắt hồ nghi. “Bái bai Saladin,” Dan hát hướng vào trong chiếc lồng. “Hãy nhớ, khi chúng ta tới được Tokyo rồi... có sushi cá hồng mỗi đêm cho mày!”


      “Meo?” Con Saladin rên rỉ trong lồng lúc Dan nhàng đặt nó lên băng chuyền.


      “Mmmmm, hmmm, ử ử... á á aaaaaa!” Đằng sau chúng cất lên tiếng rít như có kẻ bị bóp cổ. Dù mọi người xung quanh đều quay sang và chứng kiến cảnh tượng ấy với thái độ cảnh giác, song Amy và Dan thừa biết đó là ai khác ngoài nàng au pair, Nellie Gomez, múa may theo giai điệu phát ra từ chiếc iPod mang theo. trong vô số thứ hay ho về Nellie Gomez, đó là nàng chẳng buồn quan tâm rằng giọng hát của mình nghe như tiếng con chồn meerkat[2] hồi hấp hối.


      [2] Meerkat: Là loài động vật có vú , là thành viên của họ cầy Mangut. Meerkat sống trong tất cả các khu vực của sa mạc kalahari ở Botswana và Nam Phi.


      Amy nhìn theo chiếc lồng đến khi nó mất hút trong khoang chứa hàng. Nếu nhân viên sân bay kiểm tra chiếc túi chắc chắn có báo động. Những tay cảnh sát Ý hò hét. Amy, Dan và Nellie phải bỏ chạy.


      Cả ba chẳng lạ lẫm gì chuyện này. Dạo gần đây cả bọn phải chạy rất nhiều. Đó là từ lúc hai chị em chấp nhận cuộc thử thách trong di chúc mà Grace để lại. Vì chuyện này, Dan và Amy phải đến trang viên ở Massachusetts của bà - và ngay sau đấy cả trang viên chìm trong biển lửa. Rồi , cả hai suýt nữa mất mạng trong vụ sập tòa nhà ở Philadelphia, bị những thầy tu ở Áo tấn công, bị những chiếc thuyền truy đuổi kênh đào ở Venice. Cả hai trở thành đích ngắm cho những trò lừa bẩn thỉu từ mọi chi tộc của gia đình Cahill.


      Chốc chốc - có khi cứ khoảng ba giây - Amy lại tự hỏi vì cái lí do quái quỷ gì mà cả hai phải làm chuyện này. Nó và Dan có thể chọn cách bỏ túi mỗi đứa triệu đô la ngon lành, như rất nhiều thành viên khác của gia đình Cahill chọn. Thế nhưng Grace lại cho chúng cơ hội khác: cuộc đua tài tìm kiếm 39 manh mối dẫn đến bí mật được chôn vùi suốt nhiều thế kỷ qua, nguồn sức mạnh vô song nhất mà thế gian từng biết đến.


      Ngay trước kiện đó, Amy và Dan vẫn có cuộc sống khá ư nhàm tẻ, tầm thường. Sau khi cha mẹ hai đứa qua đời bảy năm về trước, bà trẻ Beatrice gắt gỏng mang chúng về nuôi - và thứ hay ho duy nhất mà bà từng làm được đến giờ là thuê Nellie về làm việc. Nhưng giờ đây cả hai biết mình thuộc về cái gì đó to tát hơn rất nhiều, đại gia đình của những vị tổ tông như Ben Franklin và Wolfgang Amadeus Mozart. Như thể tất cả những bậc thiên tài thế gian đều là người nhà Cahill. Điều này cũng tuyệt lắm chứ.


      “Chị Amy, có bao giờ chị muốn, kiểu như, vào trong băng chuyền để coi trong đó có gì ? Kiểu như, ‘Nè, đừng quan tâm tới tôi, tôi chỉ lang thang với mớ hành lý thôi’?”


      Dan cắt ngang dòng suy nghĩ của nó.


      “Thôi !” Amy giằng lấy tay cậu nhóc và cả hai thẳng đến cổng khởi hành. Nellie bám sát phía sau, tay xoay nút điều khiển chiếc iPod và tay kia chỉnh sửa cái khuyên hình rắn mũi mình.


      Amy nhìn chiếc đồng hồ ở sân bay. 2 giờ 13 phút. Chuyến bay theo lịch xuất phát lúc 2 giờ 37 phút. Chuyến bay quốc tế. Hành khách phải có mặt ở sân bay hai giờ trước khi máy bay cất cánh, chứ phải 24 phút. “Chúng ta trễ mất!” Amy lo lắng.


      Giờ cả ba chạy nhanh đến cổng số 4, lách qua những hành khách khác. “Chắc bọn họ tìm được Rufus và Remus, nhỉ?” Dan với theo Amy.


      “Rufus và Remus là ai?” Amy hỏi.


      “Hai thanh gươm đó!” Dan đáp tên chúng theo tên hai người sáng lập ra nước Ý.”


      “Đó là Romulus và Remus,” Amy xì tiếng. “Bọn họ sáng lập ra thành Rome. Và đừng bao giờ cái từ đó ra nhe ông!”


      “Rome á?”


      phải - gờ-ư-ơ-mờ-ươm.” Amy hạ giọng thấp khi cả bọn đến được phía sau hàng kiểm soát an ninh dài thượt. “Có muốn cả đám bị vào tờ-u-tu-huyền hả?”


      “Ặc ặc.”


      “Ố - ố - ố - ồ...” Nellie lại rên rỉ sai bét nhịp theo bản punk nào đó thể hình dung ra.


      Hàng kiểm soát dường như kéo dài đến tận 32 giờ đồng hồ. Khoản tệ nhất với Amy, lúc nào cũng vậy, là phải cởi chiếc dây chuyền ngọc bích ra trước khi qua máy quét. Con bé thích phải rời xa nó dù chỉ phút. Khi xong xuôi, đồng hồ điểm 2 giờ 31 phút. Cả ba lao nhanh xuống hành lang dài hướng về phía cổng.


      “Đề nghị tất cả hành khách còn lại chuyến bay của hãng Hàng Nhật Bản, số hiệu 807 tới Tokyo, đến cổng số 4,” giọng đặc sệt phát ra từ hệ thống loa phóng thanh. “Vui lòng chuẩn bị sẵn vé tay, và... xin chàooooooo tạm biệt!”


      Cả ba dừng lại ở cuối hàng, ngay sau đứa nhóc khụt khịt. Nó quay lại và tương cái hắt hơi thẳng vào Nellie. “Úi. Cẩn thận chút nào?” nàng la lên và chùi cánh tay vào ống tay.


      “Có ai thấy vé máy bay của em đâu ?” Dan hỏi trong lúc lục tung túi của nó.


      “Xài của chị đây nèee,” Nellie lè nhè. “Đầy gỉ mũi.”


      “Thử kiếm trong cuốn sách xem,” Amy vừa vừa chỉ vào quyển sách bìa cứng thò ra khỏi túi quần sau của Dan.


      Nó rút ra quyển Những phim hài kinh điển mọi thời đại có trang gấp lại làm dấu. Nó thó được quyển này ở ghế sau chiếc taxi đường đến sân bay. Vé máy bay đánh dấu trang số 93. “Đó là thế giới điên, điên, điên, điên khùng[3],” Dan .


      [3] Tên bộ phim hài kinh điển của Mỹ năm 1963 của đạo diễn Stanley Kramer.


      “Quan sát thông minh nhất trong ngày của em đó,” Amy chọc nó.


      “Đó là tên bộ phim,” Dan trả lời. “Em đọc. Cốt truyện quá hay...”


      “Xin mời bước lên - xin chào quý khách!” tiếp viên tóc vàng hoạt bát với chiếc tai nghe của hãng Hàng Nhật Bản cứ đong đưa mỗi khi cúi đầu chào khách. đeo thẻ tên với dòng chữ I. RINALDI.


      Nellie đưa vé cho tiếp viên và vào đường hầm uốn lượn dẫn tới khoang máy bay. “Hai đứa, quá khó đâu,” nàng gọi với ra bên ngoài nơi chị em nó đứng.


      Dan chìa vé máy bay cho tiếp viên. “Đó là bộ phim rất hài. Với đủ các diễn viên hài ngày xưa, tìm kho báu...”


      “Xin lỗi chị, thằng bé có vấn đề,” Amy với tiếp viên, tay chìa vé máy bay và thúc cậu nhóc tiến về phía đường hầm.


      Thế nhưng Rinaldi bỗng thẳng ra trước hai đứa và chặn đường chúng lại. “Un momento[4]?” , miệng cố nặn nụ cười thân thiện kiểu hàng trong khi tai lắng nghe trao đổi từ bộ đàm. “Sì ... ah, sì sì sì sì... buono[5],” vào ống nghe máy bộ đàm.


      [4] “Chờ chút”, tiếng Ý.


      [5] “Vâng, à... vâng, tốt”, tiếng Ý.


      Đoạn, nhún vai với Dan và Amy, tiếp viên , “Hai em vui lòng theo tôi?”


      Khi cả hai theo về góc, Amy cố sức trấn tĩnh để mình run. Hai thanh gươm. Người ta tìm ra hai thanh gươm rồi.


      Dan giương cặp mắt ngây thơ vô số tội nhìn chị nó. Đôi khi chỉ cần nhìn vào Dan là Amy biết đích xác cậu nhóc nghĩ gì trong đầu.


      Có lẽ chúng ta nên chạy, mắt nó .


      Ừ, nhưng chạy đâu? Amy trả lời trong yên lặng.


      Em dùng chiêu điều khiển ý nghĩ của ninja để biến mình thành vô hình, nó nghĩ.


      Muốn làm vậy cũng cần PHẢI CÓ cái đầu, Amy trừng mắt nhìn thằng em.


      Nellie thò đầu ra khỏi cửa đường hầm. “Có chuyện gì vậy?” nàng thắc mắc.


      “Là thủ tục thôi,” Rinaldi vọng ra, rồi xoay người về phía Dan và Amy. “Cấp của tôi đây chỉ là kiểm soát ngẫu nhiên. Hai em vui lòng chờ chỗ bức tường này nhé?”


      vội vã chạy , tay cầm cặp vé máy bay, và biến mất sau góc nhà.


      Từ phía trong đường hầm, tiếp viên khác gọi Nellie, “Xin vui lòng về chỗ. Xin quý khách đừng lo, máy bay cất cánh nếu vẫn chưa đủ hành khách.”


      “Mình ghét sân bay.” Nellie nháy mắt và quay trở lại đường ra máy bay. “Gặp hai đứa sau nha. Chị chừa lại bịch đậu phộng.”


      Khi Nellie rồi, Amy rít lên với nhóc Dan, “Biết ngay mà - bọn họ kiểm tra túi của em. Họ quản thúc hai đứa mình, rồi liên lạc với bà Beatrice, và đây là lần cuối cùng chúng ta còn gặp Nellie...”


      “Chị bớt u ám có được ?” Dan cự lại. “Chúng ta là ai đócho thanh gươ... - là cái mà ai cũng biết là gì đó - vào túi. Chúng ta chưa thấy nó lần nào hết. Chúng ta là con nít. Người ta tin con nít. Hơn nữa, có khi bọn họ vẫn chưa kiểm tra hành lý của chúng ta. Biết đâu chỉ là kiểm tra hộ chiếu thêm lần nữa để vẫn có thể cho ai đó xấu ơi là xấu được phép lên máy bay...”


      Amy huých khuỷu tay vào sườn nó.


      “Thông báo hành khách lên máy bay chuyến 807 Tokyo, cổng số 4, lần cuối cùng!” Giọng lại vang lên.


      tiếp viên khác đặt dải ruy băng ngăn cách phía trước đường hầm dẫn vào máy bay.


      Giờ Amy thấy căng thẳng. Máy bay thể trì hoãn chuyến bay mãi được. “Chúng ta phải gặp chị tiếp viên đó - chị Rinaldi,” Nó giục. “ nào!”


      Amy chụp tay Dan và cả hai chạy hộc tốc đến góc nhà lúc nãy.


      Vút! Hai đứa chạm trán cặp khác cũng chạy nhanh về phía cổng. Amy nhảy né sang bên, trong phút chốc làn gió tạt vào người con bé. Nó va phải Dan làm thằng nhóc suýt nữa té hẳn xuống sàn nhà. “Cái quái...?” Dan kêu lên.


      Hai kẻ lạ mặt quấn trong hai chiếc áo măng tô dài chấm đất, cổ áo cao che lấp khuôn mặt. trong hai đứa mang giày tây đen loại đắt tiền, đứa còn lại mang giày thể thao nạm đá quý. Khi cả hai lao qua Dan và Amy, tay chúng huơ hai tấm vé trong trung, đứa kêu to, “Tránh ra nào!”


      Amy nhận ra giọng đó. Nó chụp lấy Dan và quay ngoắt lại. Hai kẻ lạ mặt nắm dải phân cách, kéo nó sang bên. “Chờ !” Amy la lên.


      nhân viên hàng cũng thét lên, chạy nhanh đến ngăn chúng lại. Hai kẻ lạ mặt dừng lại cách lịch và chìa vé cho người nhân viên. Sau khi nhanh chóng soát vé, ông ta gật đầu và chặn dải phân cách trở lại. “Chúc Amy và Dan thượng lộ bình an,” Ông .


      Hai hành khách bước vào cổng đường hầm và ngay tức khắc ngoảnh mặt lại. Chúng bẻ cổ áo xuống và cười toe toé


      Amy há hốc miệng khi thấy đó phải ai khác mà chính là bọn họ hàng của mình, hai đối thủ trong cuộc tìm kiếm 39 manh mối, cặp đôi mà bẩn thỉu của chúng chỉ đứng sau giàu sang và láu cá.


      “Sayonara[6], lũ ngốc!” Ian và Natalie Kabra đồng thanh hát.


      [6] “Tạm biệt”, tiếng Nhật.









      CHƯƠNG 2


      “CHẶN CHÚNG LẠI!” DAN, Amy lao thẳng về phía đường hầm và hét to hết mức có thể.


      Ngay lập tức, nhân viên của chuyến bay chặn chúng lại. “Xin cho xem vé, per favore[1]?” Ông cầu, khuôn mặt vừa ngạc nhiên vừa bực tức.


      [1] “Vui lòng”, tiếng Ý.


      Amy vô vọng đứng nhìn Ian và Natalie mất hút trong đường hầm dài nhằng.


      Cả hai nghe thấy tiếng khoang máy bay đóng lại, tiếng ập vô tri vô giác phát ra.


      “Bọn chúng... bọn chúng là bọn Kabra!” Dan phân trần. “Bọn Kabra độc ác. Famoso, evillo, Kabritos[2]! Bọn chúng bắt cóc au pair của hai đứa con làm con tin!”


      [2] Tiếng Ý của Dan, tạm dịch: “Nổi tiếng, độc ác, bọn Kabra chúng nó.”


      Khi đám đông tò mò tập trung đông hơn, người nhân viên lặp lại, “ có vé sao?”


      Ông ta nhìn thẳng vào Amy. Dan nhìn sang chị, cặp mắt nó như thét lên trong câm lặng, Chị là đứa lớn hơn - làm gì đó chớ!


      Những ý nghĩ cứ công kích liên tục vào não của Amy tựa như show diễn đèn laser bị đứt quãng. Làm sao bọn Kabra lại có mặt ở đây? Nó và Dan bỏ mặc hai đứa nằm bất tỉnh trong căn phòng ỉ cháy ở tận Venice cơ mà. Ai giúp chúng? Làm sao bọn chúng bình phục nhanh như vậy? Làm sao bọn chúng cuỗm được vé máy bay của chúng ta?


      Mọi người đổ dồn ánh nhìn về phía Amy. Cả sân bay. Nó ghét người khác nhìn chằm chặp vào mình. Nó còn ghét hơn nữa khi chuyện bẽ mặt này là do bọn nhà Kabra gây ra. Lúc nào hai đứa kia cũng trước chị em nó bước, luôn gần hơn với đầu mối dẫn đến bí mật của gia đình Cahill. Dù cho Dan và Amy có cố gắng đến đâu chăng nữa, bọn Kabra vẫn luôn thông minh hơn, nhanh nhẹn hơn, ngon lành hơn - và độc ác hơn. Hai em nhà Kabra đóng giả làm Dan và Amy. Chúng sắp sửa phục kích au pair có lấy manh giáp phòng thân. Làm sao Amy có thể bằng hết những điều này ra? Nó mở miệng, cố gắng, nhưng thành. Có quá nhiều cặp mắt. Con bé cảm tưởng như có ai đó cột béng hết dây thanh quản của mình lại. tiếng nào phát ra được.


      “Thôi được, cám ơn Amy,” Dan . “À, chú nhìn - chú sĩ quan - hai đứa nó đó? Hai đứa nhà Kabra đó? ràng là trai đúng ? Hai đứa nó giả dạng tụi con, chú hiểu ? Comprendo[3]? Vé ghi Cahill nhưng chúng phải là Cahill - tức là về lý thuyết đúng, nhưng bọn chúng thuộc về chi khác trong gia đình, là Janus, à ... là Lucian, và hai đứa con cũng biết mình là ai, tức là chi nào, nhưng tất cả đều là bà con với nhau - gì gì, tất cả đều liên quan vào thứ, à tức là kiểu đấu với nhau để thực di chúc của bà ngoại tụi con để lại, có thể vậy cũng được, nhưng chuyện dài lắm và PHẢI NGĂN TỤI NÓ LẠI! PRONTO[4]!”


      [3] Ch hiểu , tiếng Ý.


      [4] “Mau lên”, tiếng Ý.


      “Rất tiếc,” Viên sĩ quan đáp, “Nếu cả hai có vé...”


      Amy nắm lấy tay Dan. Cứ thế này cũng chẳng tới đâu. Trước tiên cả hai phải tìm bằng được Rinaldi - hay cấp cho lệnh triệu tập này. Nhân vật đó phải có quyền hơn tất cả mọi người ở đây. Biết đâu vẫn còn cơ may nào đó. Có thể cả hai ngăn được máy bay cất cánh.


      Thế là hai đứa lại chạy về góc nhà và lượn tiếp vòng. Chúng lao nhanh đến chỗ cả hai chạm trán với bọn Kabra, và ngay lập tức có mặt ở hành lang trung tâm. Từ đằng xa có thể quan sát được dãy cửa hàng. Phía bên phải là phòng thiết bị và cánh cửa kính có hàng chữ PHẬN MIỄN VÀO.


      Bên trái chúng là tốp người hiếu kỳ vây quanh cửa ra vào phòng vệ sinh nữ. Ở đó có đội nhân viên y tế xuất và khiêng ra phụ nữ nằm băng ca. Cảnh sát từ mọi phía chạy đến hỗ trợ.


      Hỗn loạn. Hỗn loạn toàn tập. Amy thấy căng thẳng khi chứng kiến hàng đống người lúc nó băng qua, chỉ mong tìm thấy khuôn mặt quen thuộc nào đó.


      Kia rồi.


      Hình ảnh mái tóc vàng xõa ngang vai thoáng qua làm Amy quay sang bên phải. “Dan, nhìn kìa!”


      “Ồ, giờ chị có thể được rồi đó hả,” Dan mỉa mai. “Cái gì nào?”


      băng xuyên qua đám đông là phụ nữ dáng cao cao trong bộ đồng phục Hàng Nhật Bản ngoại cỡ.


      Dáng người quen thuộc đến nổi mở toang khóa cho giọng to hết cỡ của Amy. “IRINA!” bé thét lên.


      thể nào lẫn được, Irina Spasky - cái bộ dạng cứng còng từ hồi ở quân đội, cử động của hai vai nhô lên nhọn hoắt như dao mỗi khi ả bước . Irina là thành viên khác của gia đình Cahill cũng đường tìm kiếm 39 manh mối. Cũng như hai đứa Ian và Natalie, ả rất độc ác. Song như Ian và Natalie, ả từng được KGB huấn luyện làm gián điệp.


      Irina quay lại. Ả lộ ra bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy nghe được tiếng kêu của Amy, ngoại trừ việc sải chân nhanh hơn.


      Rồi ả biến mất hút vào đám đông như thể chưa từng diện ở đó.


      “Ngăn bà ta lại!” Dan phóng nhanh về phía trước, suýt nữa tông vào người đàn ông ngồi xe lăn với dáng vẻ khá ư ủ rũ.


      “Polizia[5]!” Ông ta thét lớn, giơ chiếc gậy lên như thể muốn tặng cho Dan nhát vào đầu.


      [5] “Cảnh sát!”, tiếng Ý.


      Dan khom người xuống. Amy kéo nó , vẫn cố tìm cho ra Irina. Hai đứa trẻ lao mình về phía trước, huých khuỷu tay để lách qua đám đông hành khách.


      Khi đến khu vực có ít người hơn ở gần cuối ga hành khách, chúng chẳng thấy Irina đâu. “Ả biến mất rồi,” Dan .


      “Chị... chị tin,” Amy tức tối, thở hổn hển lấy hơi. “Ả bắt tay với em Ian và Natalie. Bọn họ cùng bắt tay phá hoại chúng ta.”


      “Chị chắc chắn là ả hả?” Dan hỏi. “Ý em là, làm sao mà Irina xoay xở được bộ đồng phục kia chớ?”


      Trước khi nó kịp hỏi xong, giọng Ý phát ra từ loa khuyếch đại cầm tay, và đám đông nhanh chóng dạt ra. chiếc xe cứu thương cỡ len lỏi vào sân bay, còi cứu thương rú inh ỏ


      Những tiếng rì rầm lan nhanh trong đám đông có mặt ở đó, phần lớn bằng các ngôn ngữ Amy hiểu. Nhưng nó để ý thấy có cặp mang kính râm, lỉnh cà lỉnh kỉnh máy ảnh, mặc áo thun Hawaii xấu tệ và những nụ cười nhạt toẹt. “Nhìn kìa Dan - họ là người Mỹ,” Con bé . “Hãy nghe xem...”


      Hai đứa lân la lại gần cho đến khi có thể nghe được loáng thoáng cuộc trò chuyện. Cả hai về người phụ nữ cáng.


      Dan ngớ người. “ ta bị ướp muối trong phòng vệ sinh nữ sao?”


      “Bị tấn công[6],” Amy sửa lại. “Chắc đó là người giám sát chuyến bay Dan à! Irina hạ gục và cướp bộ đồng phục của chị ấy.”


      [6] Dan nghe nhầm từ “assaulted” (bị tấn công) thành từ “salted” (bị ướp muối).


      “Ái chà,” Dan đáp, bộ dạng gần như ngưỡng mộ.


      Amy nhìn về phía cửa sổ, chỗ nó trông thấy chiếc phản lực chầm chậm rời khỏi cổng số 4 và di chuyển ra đường băng.


      Máy bay chuẩn bị khởi hành. Tách khỏi cầu dẫn, lăn bánh ra phi đạo.


      Amy thấy hoảng hốt. “Đừng có nhìn nữa, bọn họ mất rồi!”


      “Cửa đâu? Chúng ta vẫn chạy theo kịp mà!”


      “Đúng. Em làm , Dan. Trong lúc chị cố thuyết phục họ cho chỗ chuyến kế tiếp - vé chỉ cho người, người ta xúc chỗ còn lại của em ra khỏi động cơ máy bay đấy.” Amy lại chạy tiếp, trở ra chỗ bàn đặt vé. “Hoặc là em có thể với chị


      Bên ngoài, cửa sổ của chuyến 807 nhìn từ xa chỉ còn là những cái lỗ màu bạc thẫm. Amy biết chắc đằng sau trong số những ô cửa đó là Nellie, trong tình thế mà chẳng ai nên rơi vào.


      nàng đơn độc cùng bọn Kabra.




      Dan theo Amy qua chỗ kiểm soát an ninh đông đúc trở lại quầy tiếp tân. Hàng người đứng chờ vé gấp đôi ít nhất tới ba lần, và cả hai phải chọn chỗ sau cùng.


      Hai đứa lẳng lặng nhìn nhau. Amy biết đích xác Dan nghĩ đúng cái ý nghĩ trong đầu mình. Dan thở dài, cặp mắt buồn bã của nó di chuyển chầm chậm đến băng chuyền hành lý. “Con Saladin cũng ở máy bay mất rồi,” Dan . “Và cả mấy thanh gươm của chúng ta nữa.”


      Amy cố giữ để mình quỵ xuống và òa lên khóc. Ngay chính giữa ga hành khách. Mọi thứ hỏng bét. chuỗi bảy năm trời xúi quẩy, kể từ lúc cha mẹ bỏ mạng trong đám cháy. Tại sao nó và Dan phải thực điều này mình chứ? Bọn Kabra có tiền. Cha mẹ chúng thanh toán tất cả mọi chi phí. Chưa hết, chúng còn hợp tác với Irina. Bọn Holt là cả đại gia đình. Jonah Wizard luôn có cha tính toán hết đường nước bước. Chỉ có Amy và Dan chống lại... những gia đình đó. Những liên minh. Các thế hệ. Cả hai có lấy nổi cơ hội.


      Giá mà Grace cho chúng biết sớm hơn, lúc cha và mẹ còn sống. Giá mà bây giờ cha mẹ vẫn còn sống! Nghĩ đến hai người khiến Amy cảm thấy mọi chuyện còn tồi tệ hơn. Nó vẫn mơ về họ hằng đêm. Nó thường thấy khuôn mặt họ những lúc rảnh rỗi - mỉm cười, tự tin và đôn hậu biết bao. Nó có thể cảm nhận được họ đồng ý hay , thấy cả niềm hãnh diện mỗi khi nó làm đúng điều gì đó. Họ vẫn diện trong tâm trí nó và bỗng nhiên -Boong! Biến mất. Nó lại cảm thấy mất mát dâng tràn.


      “Amy?” Dan với giọng dò hỏi. Và cha mẹ đây rồi - thêm lần nữa - trong cặp mắt của Ngốc đại ca. phải khuôn mặt của hai người, đúng vậy, mà chính là hai người nhìn vào nó, như thể họ mượn hình hài của Dan trong thoáng chốc. Đó là điều mà người có đầu óc tỉnh táo nào nhận thấy được.


      Khi đó, nó biết chắc chắn đâu là quy định đúng đắn.


      “Có chuyến bay khởi hành lúc 5 giờ 10 phút,” Amy lên tiếng, mắt nhìn lên màn hình thông báo giờ khởi hành. “Nellie ngàn cân treo sợi tóc. Chúng ta phải theo ngay.”


      “Này, tuyệt - khỏi trốn chạy, khỏi đầu hàng!” Dan kêu lên. “Rồi. Mà chị nghĩ tụi mình trả tiền vé bằng cách nào đây?”


      WAW! WAW! WAW! WAW!


      Hồi còi báo động làm rung chuyển cả ga hành khách, cắt ngang cuộc trao đổi. tràng thông báo, trước tiên bằng tiếng Ý, rồi tiếng Pháp, tiếng Đức vang rền, trong lúc từng toán người bắt đầu lao về phía cổng - cho đến khi:


      “Quý khách vui lòng di chuyển ngay đến cửa thoát hiểm gần nhất, ga hành khách buộc phải sơ tán vì lý do an toàn...”


      tiếng thét xé toang bầu khí và rồi người ta ùn ùn chạy, xô đẩy ngã chồng lên nhau. Amy lao về phía cửa, lôi theo thằng em, lắng nghe những tiếng la hét đứt quãng cất lên xung quanh, thi thoảng có giọng tiếng :


      “Đánh bom...”


      “Bọn khủng bố...”


      “Điện thoại nặc danh...”


      Mọi người nhào về phía cửa tìm cách thoát thân. Trời về chiều, nhưng những con đường ngoằn ngoèo dẫn vào ga đều có rải rác những ánh đèn chớp tắt của phương tiện giao thông lao đến. Hành khách túa ra lề đường, quát vào điện thoại di động, bay thẳng lên xe buýt hay những chiếc taxi. Dan và Amy phải xô đẩy qua hàng đống người để đến được bãi đậu xe, toán người cuối cùng vừa mới trèo vào chiếc buýt.


      Cửa đóng sầm lại trước mắt chúng và chiếc xe lao ngay vào con đường chật cứng, ồn ào nhốn nháo. Dan chạy theo, đập tay vào cửa sổ. “Dừng lại! Pasta[7]!”


      “Pa là gì?” Amy hỏi giọng bối rối.


      “Em chỉ có nhúm từ vựng thôi mà!” Dan hét. “Linguini[8]! Mangia[9]! Buon giorno[10]! Gucci[11]!”


      [7] Tên loại mì ống nổi tiếng của Ý.


      [8] “Mì ống sợi dài”, tiếng Ý.


      [9] Tiếng Ý của Dan, mangiare nghĩa là ăn.


      [10] “Chào buổi sáng”, tiếng Ý.


      [11] Tiếng Ý của Dan, Gucci là tên hiệu thời trang nổi tiếng.


      chiếc limo đen thắng két chỉ cách Amy có vài phân, suýt nữa tông vào nó.


      “Gucci. Em biết thành công mà,” Dan hí hửng.


      Cửa kính phản quang bên phía tài xế hạ xuống, người đàn ông mang kính râm với bộ râu mép rậm rì ra hiệu cho chúng vào trong xe.


      Amy mở cửa sau và trèo vào trong, kéo theo cậu em.


      “Nè!” hành khách khác cũng trong cơn hoảng loạn thét lên, rút trong túi ra cọc tiền giấy và vẫy vẫy tiền với tài xế qua cửa sổ xe. “Soldi, soldi[12]!”


      Dan đóng sầm cửa lại. Thêm ba người khác nhào đến cạnh chiếc xe, đập tay và la hét. Bác tài xoay về phía bọn họ và cho quay kính lên, suýt nữa cắt béng cánh tay của người đàn ông cầm tiền.


      “Chú ơi, cám ơn chú nha,” Dan với bác tài. “Hay là gracias[13] hoặc là gì cũng được.”


      [12] “Ti


      [13] “Cám ơn”, tiếng Tây Ban Nha.


      “Chún ta đến sân bay kòn lại?” Ông ta hỏi lại bằng giọng phương ngữ nặng trịch phải giọng Ý.


      “Có cả sân bay khác sao?” Dan hỏi ngay.


      “Máy bay ,” Ông ta trả lời.


      “Nhưng mà...” Amy lắp bắp. “Tụi con đâu có ti...”


      Dan chọc vào sườn Amy.


      “Chị phải cho ông ấy biết ,” Amy rít khẽ.


      Dan chọc thêm cái nữa.


      Amy trừng mắt. “Có thôi ...?”


      Đến khi đó nó mới phát ra còn người đàn ông nữa ngồi đằng sau xe. người châu Á với nụ cười điềm tĩnh, trong bộ vest lụa, găng tay trắng và chiếc mũ quả dưa.


      “Xin chào, hai người họ hàng ưa lảng tránh của ta,” Alistair khẽ .








      CHƯƠNG 3


      CHA CỦA ALISTAIR VẪN LUÔN , ở mỗi thành viên gia đình Oh đều có phần nào đó dành riêng cho ngạc nhiên.


      phải Alistair nhớ chính xác những gì cha , khi Alistair vẫn còn là đứa trẻ thân phụ lão qua đời. Nhưng ràng đặc điểm của gia đình Oh chính là pha vào chân lý chút hóm hỉnh


      Trời ạ, yên ắng đầy thù nghịch của hai đứa trẻ nhà Cahill khiến Alistair bức bối. Ban đầu lão còn nghĩ hẳn chúng nó thích thú trước ngạc nhiên có hai này...


      Kéttttt... kéttttt...


      Trong khi Serge quành vô lăng hết sang trái rồi sang phải, ném chiếc xe vào những khoảng trống mà phải kẻ bình thường nào cũng dám len vào, bọn trẻ cứ lắc lư hết bên này sang bên kia. Cả hai dường như ghê tởm khi phải chạm vào Alistair hay thậm chí là nhìn vào lão, tựa như thể lão là cái thứ gì đó kinh khiếp lắm, món măng tây luộc chẳng hạn. Như thể Alistair chẳng có tẹo công sức nào khi lôi chúng ra khỏi cái đám hỗn loạn và mang cả hai trở lại con đường chọn. Lão cố nở nụ cười trấn an. Lão cảm thông với chúng. Hai đứa trẻ trông bé, sợ sệt và độc.


      Lão hiểu cảm giác này. Hiểu hơn cả chúng.


      “Đón thử xem?” Serge hét to át cả tiếng còi rúc vang rền. “Toi kũng kó kon - kon mười bốn, kon trai mười mọt! Phải! Đún thế. Chúng xống ở Moscow[1]!”


      [1] Nhân vật này tiếng giọng Nga. Moscow là thủ đô nước Nga.


      Alistair đưa mắt nhìn Dan, trông nó khá ốm yếu. Thằng bé cố gắng nắm tay nắm cửa có đến chục lần chỉ trong vỏn vẹn hai phút vừa rồi. May mắn là Alistair kiểm tra bảo đảm toàn bộ khóa an toàn đều được kích hoạt. “Con đừng lo lắng,” Lão với Dan. “Làm vậy chỉ khiến sau này con bị bệnh khớp cổ tay thôi. Hơn nữa, làm thế khiến cho ta thấy lo lắng về an toàn của con đấy.”


      “Vậy ra chính ông chủ mưu tất cả chuyện này, hử?” Dan hỏi. “Với bọn Kabra và Irina. Và cả vụ đánh bom dọa nạt. Chính ông làm việc cho bọn họ.”


      Mặt Alistair nhăn nhó. Lão biết rất khó để giành được tin tưởng của chúng. Dự kiến có cả những lời vu khống vô căn cứ. Lão biết căm ghét, và như vậy cũng là dễ hiểu. Bỏ rơi cả hai trong căn nhà bốc cháy trong ngày đọc di chúc là cần thiết đáng tiếc - nhưng lại là sai lầm về mặt chiến lược lẫn về tính chất cá nhân. sai lầm mà lão rất lấy làm ân hận. “Tin ta cháu trai, ta thậm chí còn có mảy may ý định...”


      “Tin ông ư?” Dan hỏi lại, quay hẳn ra đằng sau mặt đối mặt với Alistair. “Xem thử coi. Chính ông là người bỏ rơi chị em tụi này ngay lúc trang viên của bà Grace sụp xuống xung quanh cả hai. Chính ông là người đặt thiết bị theo dõi vào con Saladin...”


      “Thiết bị theo dõi à? Cái này phải ?” Alistair cho tay vào túi áo và lấy ra thiết bị điện tử có kích thước bằng cục pin đồng hồ. “Ta lại cho rằng chính hai đứa cài nó vào ta đó chứ. Lúc ở bảo tàng Salzburg, khi ta ngủ.”


      “Ông x-ứng đáng như vậy, chú Alistair ạ,” Amy , giọng bực bội, “Sau khi giấu nó trong cổ con Saladin ngay t-t-từ đầu.”


      “Cũng phải, con à,” Alistair đáp lại Amy bằng nụ cười ấm áp, với hy vọng làm cho bé bình tĩnh trở lại. “Có ai đó theo dõi hai con. phải là ta. Hãy nhớ, nhiều kẻ khác trong dòng họ cũng theo dấu các đầu mối. Ta ở phe hai con. Ta, như con biết rồi đó, tin tưởng vào hợp tác.”


      “Chà, nghe khôi hài làm sao,” Dan quạt lại. “ mà kể lể Comedy Central[2] ấy!”


      [2] Kênh truyền hình cáp nổi tiếng về những chương trình hài kịch, xuất dưới nhiều phiên bản bản địa thế giới.


      Bình tĩnh hơn bao giờ hết, Alistair khoanh bàn tay đeo găng đùi. “Hãy nghĩ xem hôm nay chính xác ai cứu hai đứa,” Lão . “Và chỉ trong thời gian ngắn, ai là người những tìm được hai đứa mà còn đưa ra cách để trốn thoát nữa. Hãy xem đó là phần thưởng bổ sung, ta còn sắp mang hai đứa đến nơi muốn đến. Bằng máy bay riêng. Tất cả chuyện này, và ta chỉ muốn hai đứa đáp lại bằng thứ duy nhất - địa điểm hai đứa muốn đến. Trong mọi tình huống, đó cũng là điều tất yếu.”


      “Ông có hẳn m-máy bay riêng s


      Alistair mỉm cười khiêm tốn. “, phải của ta. Nhưng ta có các mối quan hệ làm ăn của mình, vài đặc quyền ta có thể có được vào những lúc khẩn cấp. Vẫn còn đôi chút lợi thế về tiền bạc của nhà phát minh món burrito có thể chế biến bằng lò vi sóng đó chứ.”


      “Chún ta bỏ chún mái bai!” Serge . “Pò, gzà, phô mai...”


      Ông bạn già Serge đáng . Kinh nghiệm dạy cho cả hai biết thế nào là giá trị về phương châm hoạt động của công ty Oh: Con đường đến trái tim của người chính là qua các món ăn chế biến được bằng lò vi sóng[3].


      Amy . “Okay[4], khi chúng ta lên chiếc máy bay này - nếu chúng cháu đồng ý - cái gì bảo đảm hai đứa cháu có...”


      [3] Alistair nhại lại câu châm ngôn, con đường vào trái tim của người đàn ông là qua dạ dày.


      [4] Được rồi, thôi được.


      “Chị Amy!” Dan bật lên. “ đời nào. Chị cả à nếu làm, chính chúng ta tự làm lấy.”


      Amy trừng mắt. “Vậy em nghĩ chúng ta bơi đến Nhật chắc? Hãy bỏ hai đứa con xuống cửa hàng, chú Alistair ạ. Con cần mua chân vịt. Loại lớn? Có khả năng đuổi cá mập?”


      Dan rên rỉ. “Chị tới chữ N rồi đó, Amy! Chị cho ông ấy rồi còn đâu!”


      “Lựa chọn của chúng mình là gì hả Dan?” Amy hỏi nó. “Bọn họ có Nellie, con Saladin và tha...”


      Amy ngưng bặt, và Alistair liếc nhìn con bé với dáng vẻ đầy khích lệ. Sinh linh đáng thương có tiến bộ đáng kể với chứng mắc cỡ của mình. “Th gì hả con...?” Lão hỏi.


      “T-h-ành lý,” Nó đáp.


      Alistair gật đầu. Nhật Bản. Tuyệt. Vậy đây chính là nơi đầu mối tiếp theo được cất giữ. bước ngoặt gặt hái được nhiều thành quả. Lão nhoài người lên chỗ gã tài xế, “Chúng ta qua Nhật được Serge?”


      Gã nhún vai. “Chà, chiến dày đó. Chún ta phải dừn giữa chừn để châm nhiêng liệu. Ở Moscow. Tui gọi. Khi dừn lại, gặp kon của tui - Kolya và Tinatchka!”


      “Serge, làm ơn ,” Alistair . “Đây đâu phải chuyến xã giao.”


      Serge phì ra tràng cười lấy hơi từ bụng. “Kolya và Tinatchkia kông phải kộng sảng đâu!”


      ***


      Dan trừng mắt nhìn chị nó. Thanh gươm, con bé suýt bật ra từ đó. Bọn họ có Nellie, con Saladin và thanh gươm của chúng ta. Ít nhất Amy cũng kịp ngăn mình lại. Cho cái lão lươn lẹo này biết đích đến là chuyện. Cho biết luôn đầu mối lại là chuyện khác đấy. số cái cần phải giữ bí mật. Thậm chí Ngố tẩu tẩu cũng biết điều đó.


      Nó nhận thấy cái nhìn ngay lúc này trong mắt của Amy. Còn hơn cả phẫn nộ nó vẫn thường bộc lộ, hơn cả những phiên bản trường kỳ của Đồ ngốc hay , chưa tới lúc ăn. Cái nhìn đó rằng, Nếu làm hỏng việc chết tươi dưới tay ta.


      Đó chính xác là điều mà Dan cảm thấy.


      Alistair lại cho tay vào túi và lấy ra hai thiết bị điện tử kích thước , giơ ra cho Dan và Amy với vẻ tươi tắn đầy giả tạo, như tay quản gia loạn trí giả vờ mình là ông già Noel. “Đây là thiết bị định vị tối tân. Ta vẫn chưa hình dung được cách mã hóa tín hiệu sang chuẩn 1028, nhưng phần mã hóa mặc định thấp hơn là ổn. Vấn đề là, khi có mặt ở Nhật, chúng ta được lạc dấu nhau.”


      Serge giơ tấm thẻ căn cước cho tay bảo vệ ở cng. Chiếc limo vào con đường hẹp dẫn đến sân bay bé xíu. Nó chạy qua nhiều chiếc máy bay cánh quạt cỡ và cuối cùng dừng lại ở khu bảo dưỡng trải dài, mở cửa.


      Serge nhanh chóng ra khỏi xe và mở cửa. cơn phấn chấn, gã làm điệu bộ trịnh trọng hướng về khu bảo dưỡng. “Hãy chào cục cưng Ludmila của ta nào.”


      “Thêm đứa nhóc nữa ư?” Dan hỏi gã. “Ông có bao nhiêu đứa vậy?” Nó nhìn qua trái rồi qua phải. Nơi này vắng tanh ngoại trừ vài chiếc phản lực và dăm ba phi công bặm trợn tóc tai bờm xờm, chẳng ai trông giống như có tên là Ludmila cả.


      “Ừ... chị cũng chẳng thấy nàng nào cả,” Amy .


      Nhưng Dan bị luồng sáng bạc làm phân tâm. chiếc phản lực bóng loáng đến lố bịch xuất ngay trong tầm nhìn. Nó có cửa sổ phản quang, nhìn nghiêng trông như con dao, và buồng lái mở như ra hiệu rằng Hãy có mặt trong chuyến ngon lành nhất của đời mình.


      “Đó,” Serge , trong lúc chiếc phản lực dừng lại ngay trước mặt họ, “Đó là Ludmila.”








      CHƯƠNG 4


      CÁI TỪ ĐẶC BIỆT HẠNG THƯỜNG ghi vé máy bay làm Natalie liên tưởng đến hình ảnh những chiếc ghế da, xà ích mặc đồng phục và những chú ngựa tốt mã.


      Chứ đâu phải những chiếc ghế vừa cứng vừa , cộng với con heo.


      phải là quá quắt khi mô tả vẻ ngoài của nàng trông trẻ. kinh khủng. Xem những chỗ xăm mình và xỏ khuyên kìa. Những thứ mà ngày nào đó khiến nàng cảm thấy xấu hổ trước nghề nghiệp của mình - đó là nếu như nàng kiếm nổi công việc thực . Lại còn thái độ khiếm nhã của nàng khi trông thấy Natalie và trai nó xuất . Nó chẳng hy vọng có lời chào nồng ấm lẫn những cái ôm thân thiện, tuy nhiên tràng những ngôn ngữ hàng tôm hàng cá kể cũng hơi... khó chịu. Đó mới chỉ là giảm thôi đấy.


      Nhưng tất cả những mô tả kia lại là những gì có thể đoán trước được nơi Nellie. Và Natalie lẫn thằng Ian của nó có thể chấp nhận được thô lỗ chứ. Đôi chút hy sinh là cần thiết để có được thông tin mà chúng cần.


      , phần tệ hại nhất chính là luộm thuộm. Giấy gói kẹo, vụn khoai tây cứ văng tung tóe ra hai chiếc ghế bên cạnh, ba lô quẳng thẳng xuống sàn máy bay thay vì nẹp chặt vào ghế đằng trước. Cái thói quen xấu là tọng thẳng vào miệng nắm bánh snack rồi vừa nhai nhồm nhoàm vừa . Dễ sợ . Thói quen luộm thuộm tạo ra tâm hồn luộm thuộm, theo châm ngôn cổ của nhà Kabra. Hay có lẽ nó được trích từ quyểnNhững danh ngôn quen thuộc của Bartlett[1]. Natalie cũng chắc.


      [1] Bộ sách tham khảo về danh ngôn được cho là đồ sộ và lâu đời nhất nước Mỹ, xuất bản lần đầu năm 1855, tác giả tuyển tập là Jon Barlett.


      Nó liếc ngang nàng trông trẻ đáng ghê tởm thao thao trong khi miệng nhồm nhoàm thức ăn.


      “Mìm mỏng thoi, hay đứ. chả có tói đao đao!” Nellie vừa vừa phẹt nhiều miếng đậu phộng và bánh cớm ra khỏi mép.


      Thằng Ian của Natalie phẩy vụn bánh rice krispie[2] khỏi mái tóc đen óng của nó. “Làm ơn nhai cho kỹ, nuốt rồi hẵng , được ?”


      [2] loại bánh thường dùng cho bữa sáng. Người ta thường trộn với sữa khi dùng chex, Rice Krispie.


      Nellie nuốt đánh ực tiếng. “Xin lỗi, chị đây cóc thèm nghe hai đứa gì, tụi mày đừng mong thoát khỏi cám cảnh này nha.”


      “Vậy à?” Ian ngoảnh nhìn phía sau, ngước lên và nhìn xuống dưới chiếc phi cơ đông kín người. “Để coi thử xem có ai cảm thông với số phận của bà chị hay ? ư? Natalie sao nào - mình có thoát em?”


      “Có thể chọn cách dễ dàng, bà chị biết mà, bằng cách trả lời câu hỏi đơn giản...” Natalie thúc giục. Chúng hỏi Nellie cả chục bận rồi, vau mỗi lần hỏi, câu trả lời chỉ bỗ bã hơn thôi. Nhưng rồi trước sau gì ả cũng phải hiểu ra. Nếu ả biết cái gì tốt cho mình. Nhược bằng , nhà Kabra cũng có phương cách khác. “Vậy đó. lần chót - vì sao các người đến Nhật?”


      Nellie giằng quyển tạp chí ra khỏi chiếc túi đính ở băng ghế trước, quẳng bộ tai nghe và vài mẩu khăn giấy sử dụng về phía Ian, thằng này vội né cùng với tiếng kêu oái giấu nổi kinh tởm. “Vì chị mày thích Sudoku.” Nellie đáp. “Người ta có những ô Sudoku hay ho nhất chuyến bay đến Nhật Bản, phải ? Bộ hai đứa chả biết cóc khô gì hết hay sao?”


      “Quý khách muốn dùng thêm trà, cà phê hay bánh snack để chúng tôi có thể phục vụ chuyến bay tốt nhất cho quý khách ạ?” tiếp viên hàng xuất , chầm chậm băng qua lối chính giữa.


      diet Coca-Cola đường và trật tự nghiêm ngặt, được ạ?” Nellie trả lời. “Bởi vì hai cậu này được phép có mặt ở đây và bọn chúng sách nhiễu tôi, thưa .”


      Ian nổ ra tràng cười sảng khoái. “Há há! Ồ, chị họ Nell, lúc nào chị cũng làm em cười vỡ bụng với những trò đùa của mình và cả những chuyện khác nữa... đúng , hả, Amy?”


      “Phải rồi, Daniel,” Natalie hùa theo. “Hệt như lúc còn ở nhà. Ở... Homedale.”


      “Nghe thuyết phục đó,” Nellie bảo. “Có cảnh sát máy bay vậy ta? Nếu tôi đây cũng muốn thực cuộc bắt giữ của thường dân. Chúng ta có được làm vậy ở Ý hay ở bất kỳ nơi nào khác ?”


      Mỉm cười cách khó xử, tiếp viên đặt lon diet Coca-Cola đường vào khay của Nellie. Khi đứng thẳng người lên, Natalie quay về phía người phụ nữ lúng túng đó và dùng ngón tay xoay vòng tai nó diễn tả điệu bộ cuckoo nhàng.


      Ngoài cửa sổ, chớp nhá lên. Máy bay thình lình chao đảo. “E hèm, có vẻ như chúng ta gặp phải chút rung lắc...” viên phi công thông báo qua hệ thống loa phát thanh.


      tiếp viên đẩy xe trở lại đầu lối , lớn tiếng thông báo. “Xin quý khách vui lòng trở lại vị trí của mình.


      Ian than. “Mình... mình thấy ổn lắm...”


      Khi nó cúi xuống, mặt tái xanh, đến lượt Nellie tỏ ra cảnh giác.


      Natalie mỉm cười. Nó và thằng Ian tính toán hết. Những dấu hiệu nhất định dành cho những kiện ngẫu nhiên nhất định. Nhà Kabra là bậc thầy hoạch định kia mà. Hành động của Ian chỉ có duy nhất ý nghĩa, và Natalie biết ngay mình phải làm gì.


      Tuy nhiên, nó vẫn khỏi cảm thông cho . Bên dưới vẻ ngoài đầy chất ngông nghênh của nàng vẫn còn chút gì đó của tinh thần, của gan dạ. Trong tình huống khác, thời điểm khác, biết đâu nàng có thể là người làm công giỏi giang cho nhà Kabra.


      “Ông con có phát bệnh đó chứ?” Nellie hỏi. “Bởi chị mày đây ghét cái cảnh ói mửa lắm.” nàng trờ người ra phía trước để luồn qua đống bề bộn sàn máy bay và tìm chiếc túi chống ói.


      Kia rồi.


      Trong lúc Nellie xoay chỗ khác, Natalie cho tay vào túi và rút ra lọ chất lỏng sẫm màu. Với cử động khéo léo, nó nghiêng chiếc lọ vào lon soda của Nellie. Chỉ cần hai giọt là xong việc.


      Máy bay lại chồm lên, khiến Natalie hơi do dự và toàn bộ chỗ chất lỏng trong lọ trút thẳng vào trong lon Coca-cola.


      Úi chà.


      ***


      Tiếng bíp bíp của điện thoại đánh thức Dan sau giấc ngủ sâu.


      Thứ đầu tiên nó nhìn thấy là tay của Amy, trắng bợt, nắm chặt tay vịn. “Chị hiểu sao em có thể ngủ suốt ngay giữa lúc như vầy...” Nó rít qua kẽ răng.


      Chiếc phi cơ lại nghiêng sang trái, khiến Amy thét lên tiếng. “Tuyệt!” Dan thốt lên. “Làm lại chú Serge!”


      Serge cười lớn. “Thch hả?”


      !” Amy cự lại.


      Alistair dán tai vào điện thoại. “Đây là ai nhỉ?” Lão , ra dấu cho tất cả yên lặng. “Irina sao?”


      Amy rên rỉ.


      “Phải, bọn chúng trốn thoát,” Alistair lớn. “Bọn chúng ở cùng tôi, khá an toàn và có vẻ... cái gì? Nhật sao?” Alistair cười hềnh hệch. “Người ơi, nghĩ là... tin là hai đứa Dan và Amy để bọn Kabra đoạt lấy vé hay sao - tin là chúng nó cố tình cho con bé trông trẻ lên máy bay để đánh lạc hướng hay sao... Ồ, cưng à. Ồ, như vậy giàu có... , , Irina à... Cái gì? Cưng muốn hợp tác nữa hay sao? Chắc cưng nghe nhầm rồi. Phải, CHẮC CHẮN BỌN CAHILL ĐẾN NHẬT. ĐIỀU ĐÓ HOÀN TOÀN CHÍNH XÁC. Tạm biệt cưng nhé.”


      “Ừm... tất cả nãy giờ là cái gì vậy?” Dan hỏi.


      Alistair mỉm cười. “Ta khá về Irina. Ngay lúc này, ta tin chính hai đứa lừa bọn Kabra, chứ phải bị bọn Kabra lừa. Và tin ta , sau những gì ta vừa xong, Nhật Bản là nơi cuối cùng ta nghĩ đến...”


      “Khoan . Ông nghĩ ông thuyết phục được Irina sao?” Dan hỏi. “Cháu có ý gì, nhưng câu này nghe hơi bị dỏm đó.”


      “Có thể ta thất bại đây đó trong đời mình, nhưng ta học về con người rất nhanh,” Alistair trả lời nó. “Ta biết đích xác những gì áp dụng được với Irina Spasky.”


      Amy xoay đầu nhìn Alistair, sắc mặt nó dần tái . Lão là kẻ thông minh trong nhiều lĩnh vực, nhưng lại hơi lạc hậu. Và lão bỏ sót điều hết sức hiển nhiên.


      “Xin đừng... quá đắc thắng...” Nó .


      ***


      Giọng của viên phi công, bằng tiếng Nga, cầu bãi trống để hạ cánh và nhanh chóng nhận được tín hiệu hồi Nghiêng sang phải, chiếc phản lực hạ thấp dần xuống sân bay nằm ở ngoại ô Moscow. Giữa khung cảnh khô khan, nứt nẻ, đường băng hạ cánh trông như dải màu xám ma quái.


      Ngón tay của vị hành khách độc ghì chặt vào thành ghế trong khi những bánh xe phản lực nện thẳng xuống nền đất. Các cú hạ cánh lúc nào cũng khó khăn hơn ả ta hình dung.


      Khi chiếc máy bay giảm tốc độ, tấp vào đường bê tông, vị khách nhìn thấy chiếc Cessna[3] màu bạc bóng lưỡng được tiếp nhiên liệu. cỗ máy ấn tượng.


      [3] trong những loại máy bay thể thao 4 chỗ thông dụng nhất thế giới.


      “Dừng lại ở đây,” Irina ra lệnh.


      Giờ nhìn thấy ông già chống gậy bước . Như mọi khi, lão vẫn ăn mặc hết sức chỉn chu, phải lối. Chiếc mũ quả dưa và cặp kính râm tạo cảm giác trang nhã hết mực. Irina ưa người theo phong cách cổ điển, chứ phải kẻ nô lệ của thời trang. Bộ cánh hôm nay của lão trông có hơi chật, nhưng vào những lúc căng thẳng như thế này, ai mà chẳng tăng cân chút ít chứ?


      thoáng sau, hai con quỷ xuất , bó mình trong hai bộ mũ và áo khoác. Chúng được bao bọc như mọi khi - trước là bởi Grace Cahill, sau là bởi tay họ hàng. Vì sao lão ta lại bán linh hồn mình cho hai đứa ranh con này, Irina sao hiểu được. ngày nào đó lão ngộ ra thôi.


      Bọn chúng phản bội ông, Alistair ạ, ả nghĩ, trừ phi ông phản bội chúng trước.


      Irina mỉm cười. Nghĩ về yếu đuối của con người lúc nào cũng khiến ả thấy hưng phấn, nhất là sau chuyến hành trình dài. Nhớ hồi còn làm cho KGB, phản bội mang biết bao màu sắc khác nhau - tống tiền, dối, nghe lén, báo lá cải.


      Đội nhóm - há há! Nhóm chẳng làm được tích gì trong cuộc tìm kiếm 39 manh mối. Với bí mật được tiết lộ về quyền năng vô song này, ghen tị là thể tránh khỏi và liên minh nào có thể tồn tại được.


      Irina tự mình tìm đầu mối. cần đến những đứa nhóc giàu có biếng nhác, bọn độc tài gốc Mễ trời dưới đất, hay những đứa trẻ mồ côi khờ khạo. Với chúng - bọn nghiệp dư tài tử ấy, đây là trò chơi còn quá bí . Với Irina . Chiến lợi phẩm, ả quá biết, chỉ xứng đáng vào tay kẻ chịu nhiều mất mát nhất. Xứng đáng với con sói độc luôn tìm kiếm công bằng. Và phục thù.


      Bên kia đường băng, cả ba trèo vào chiếc phi cơ. Irina ngả người về phía trước, liếc nhìn điện thoại di động vẫn còn hiển thị tọa độ GPS[4] và người nhận cuộc gọi cuối cùng: OH ALISTAIR.


      “Ồ, ông Alistair, quả là như vậy,” Ả thầm. “Ông khiến cho cuộc tranh tài này trở nên quá dễ dàng với tôi rồi...”


      “Shto[5]?” Viên phi công của ả thắc mắc.


      [4] Viết tắt của The Global Positioning System - Hệ thống định vị toàn cầu.


      [5] Cái gì, tiếng Nga.


      “Alexander, hãy bám theo chúng.”


      kéo số và động cơ máy bay hoạt động trở lại. Phía trước, chiếc Cessna cũng vào vị trí cất cánh.


      Giờ biết liệu lão Alistair có về đích đến sau cùng hay .


      Ả cười mãn nguyện. Chưa ai từng qua mặt được Irina Spasky này.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 5


      THẰNG EM CỦA AMY chẳng bao giờ cảm thấy thoải mái được với nơi chốn mới cho đến khi nó phải làm hành động kì quặc nào đó. Ở Tokyo, điều đó xảy ra vào buổi sáng đầu tiên khi tất cả đến nơi và trọ tại khách sạn Cám Ơn Quý Khách.


      “Dan, được cứ thế mà lấy nha - như vậy là ăn cắp,” Amy cản nó lại khi thấy cu cậu loay hoay nhét cái gạt tà của khách sạn vào túi sau.


      “Người ta biết là nó bị mất đâu!” Dan cãi lại. “Em cần cho nó vào bộ sưu tập.”


      Dan sưu tầm đủ mọi thứ. Miễn là thứ đó vừa vặn trong nhà và bị dính vào sàn nhà, nó đưa vật đó vào bộ sưu tập.


      “Chị con đúng đó,” Alistair điềm đạm khuyên, chống tay chiếc gậy khi chuẩn bị bước ra ngoài cửa chính. Lão sực nức mùi phấn và nước cạo râu. Từ sân bay về đến đây, lão mua cho Dan và Amy vài bộ quần áo mới, còn bắt chúng phải tắm táp sạch rồi làm giấc dài.


      Amy chưa hề chợp mắt dù chỉ phần ngàn giây. Vì lẽ, con bé thấy căng thẳng. Lẽ khác, Dan cứ khịt khịt trong giấc ngủ. Thằng bé tình rất nhớ con Saladin.


      Nhưng bấy nhiêu cũng chữa hết cơn ám ảnh sưu tập của Dan. Amy chìa bàn tay ra. Chần chừ, rốt cuộc cu cậu cũng đành bỏ chiếc gạt tàn lên tay chị nó. “Okay, nhưng mà chị cho em giữ cái hộp diêm khách sạn Cám Ơn Quý Khách được ?” Nó mặc cả.


      Amy đặt chiếc gạt tàn lại bàn ở sảnh khách sạn, Dan nem nép bám theo sau nó. Hai đứa vẫn thể phát được tên của khách sạn. Vì thế, chúng đặt tên khách sạn theo câu duy nhất mà tất cả nhân viên đều sử dụng. Nhặt lấy hộp diêm ở bàn tiếp tân, Amy mỉm cười với viên thư ký. “Cám ơn quý khách!” Ông ta lên tiếng.


      Khi quay trở ra cửa, Dan nhìn Alistair lúc lão nhìn về hướng khác. “Hãy tẩu thoát nào,” Dan thào. “Chúng ta phải tìm cho ra đồng bọn. Nellie và con Saladin.”


      “Em có điên ?” Amy thầm đáp lại với nó. “Alistair trả chi phí cho chúng ta ở tại khách sạn này. Ông ta lại biết tiếng Nhật và sắp sửa dẫn chúng ta dạo phố.”


      “Chị thích ông ta rồi!” Dan kinh hoàng thốt lên. “Ông ta làm chị đổi ý mất rồi!”


      Amy quay ngoắt về phía nó. “Chị ưa cũng tin ông ta. Nhưng nếu có ông ta chúng mì kẹt ở đây Dan à. Vì vậy ta phảigiả vờ, chí ít là tới lúc Nellie tìm ra hai đứa mình.”


      “Hay chúng mình tìm thấy chị ấy!” Dan lẩm bẩm khi nó và Amy tới chỗ Alistair ở cổng. Cả ba cùng trong tiết trời hanh khô nắng . Phía trái, ngay trước trung tâm mua sắm cao tầng hào nhoáng, những người vận trang phục các hùng trong truyện manga chào đón khách mua hàng. Mùi hương thoang thoảng của loài hoa nào đó từ phía công viên bên kia con phố chật kín ô tô và xe máy lan tỏa trong khí. Tokyo làm Amy nhớ tới New York, có cảnh người ta la hét với nhau.


      Mắt Dan hướng lên , chăm chú nhìn công trình bằng thép vươn thẳng lên bầu trời phía công viên. “Tuyệt, có ai đó đem tháp Eiffel qua đây và sơn nó thành màu đỏ với trắng kìa!”


      Alistair mỉm cười. “Tháp Tokyo cao hơn bà con của nó ở Paris, nhưng cũng hơn, nhờ vào các cải tiến trong việc thi công bằng thép, ta có thể bổ sung thêm là những cải tiến do chính kỹ sư người nhà Ekat thực . Chị họ tăm tiếng của ta. Và con có thấy cái tòa tháp cao với những cạnh uốn cong kia ? Nó biểu trưng cho loại hoa Nhật Bản vốn đầy ắp trong công viên Shiba. Là con đẻ của kiến trúc sư nhà Janus...”


      “Gượm , công viên có hoa làm bằng thép sao?” Dan thắc mắc.


      “Chị biết có người có óc làm bằng thiếc đấy.” Amy châm chọc, rồi quay sang Alistair. “Sao ông lại biết nhiều về chi tộc của mình thế ạ?”


      ngày nào đó ta cho con thấy bộ sưu tập của ta,” Alistair đáp. “Nhưng bây giờ hãy làm nhiệm vụ trước . Từ đây đến thư viện Metropolitan tốn mười phút taxi.”


      “Thư viện ư. Úi chà. thể chờ được sao,” Dan kêu lên, mó máy hộp diêm của nó cách hờ hững. “Nè, em biết rồi. Hai người . Em tìm ít sushi cá hồng rồi đón xe đến sân bay. Gặp sau nha.”


      “Điều gì làm cho con tin là Saladin có ở sân bay vậy?” Alistair hỏi nó, tiếp tục sải bước xuống phố.


      “Con hình dung chỉ hai tình huống xảy ra,” Dan . “ - bọn Kabra tẩ Nellie và dẫn chị ấy quanh đây tìm kiếm hai đứa tụi con. Hay là hai - Nellie cố gắng khuất phục bọn chúng bằng những thế võ ninja hảo hạng mà chính chị ấy cũng biết được Dan này dạy cho bằng thần giao cách cảm. ra con vẫn cá là tình huống thứ nhất xảy ra. Cách nào chăng nữa con Saladin vẫn ...” Mặt Dan sa sầm. “Con thể - thể nghĩ về nó, nằm bất động băng chuyền hành lý, độc mình, chiếc băng chuyền cứ quay vòng quanh, vòng quanh...”


      “Ta biết con thương con vật của mình,” Alistair an ủi. “Nhưng con cũng phải nghĩ đến an toàn của con trước nhất. Bọn Kabra chờ cả hai đến Nhật Bản. Thậm chí có thể bọn chúng còn chờ sẵn tụi con đến sân bay để tìm kiếm con mèo và bảo mẫu thân thương...”


      “Au pair mới đúng,” Dan chỉnh lại.


      “Con thể thẳng vào cái bẫy được,” Alistair tiếp.


      biết được Nellie và con Saladin ở đâu cũng khiến Amy lo đến phát ốm. Nó cố liên lạc với Nellie bằng điện thoại từ lúc đến đây. Con bé cũng thích phải Dan đừng tìm cả hai. Nhưng lời khuyên của Alistair có lý. “Quá bọn Ian và Natalie rồi,” Amy và theo chân Alistair vào nơi chờ taxi, “Bọn chúng tìm chúng ta.”


      “Nhưng mà...” Dan vẫn phản đối.


      “Chúng ta phải tiến về phía trước,” Amy . “Nellie an toàn mà.”


      Dan thở dài thất vọng. “Cả con Saladin nữa chứ. Ý em là, con mèo với mọi...”


      Cả ba thả bộ đến quảng trường, Dan tiếp tục đốt hết que diêm này đến que diêm khác, rồi thổi tắt. “Em dừng việc đó lại được chưa?” Amy hỏi.


      “Tại sao chớ?” Dan , lại quẹt thêm que khác. “Vui mà. Nó làm đầu óc em khỏi nghĩ tới thể là chúng ta bỏ rơi hai người mà chúng ta hết lòng quý, thêm nữa là ta ở xứ sở của ninja, quái vật Mothra[1] và các món võ rất ngon lành, vậy mà chúng ta lại bỏ phí ngày trong thư viện.”


      [1] Mothra, quái vật giả tưởng dưới dạng sâu bướm, xuất phổ biến từ những năm 60 tại các tiểu thuyết Nhật Bản sau đó lan ra các nước thế giới và vào phim ảnh.


      Khi đến gần chiếc taxi chờ khách, Alistair gì đó với tay tài xế bằng tràng tiếng Nhật nhanh nhẩu, nghe trôi chảy rồi ra hiệu cho Dan và Amy lên xe.


      Xe tăng tốc vượt qua hàng đống xe cộ, băng qua hàng dãy các tòa nhà bằng thép đại và thi thoảng là ngôi chùa cổ kính có kiến trúc lộng lẫy nằm lọt thỏm giữa những khu vườn. “Sao chúng ta vào ở trong mấy túp lều kia nhỉ?” Dan hỏi.


      “Đó là những ngôi đền cổ,” Alistair đáp. “Hai đứa còn thấy nhiều hơn nữa khi gần đến nơi. Lãnh chúa quân - vị shogun[2] - ra lệnh toàn bộ đền đài phải được di dời đến đây. Vào thời bấy giờ, khu vực Roppongi hãy còn là tiền đồn hoang vu của kinh đô nước Nhật, khi đó có tên là Edo. phần của khu vực này trước kia là vùng đất săn bắn cho các shogun.”


      [2] Shogun: tướng quân (Nhật Bản).


      “Quá hay,” Amy reo lên. Con bé luôn thích thú khi được biết về nguồn gốc của những thành phố.


      Dan gật gù, nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ với bộ mặt cù lần. “Em nghĩ mình vừa trông thấy minh tinh.”


      Điện thoại của Alistair vang lên. “Alô...? Phải... ah, giỏi lắm, Serge. Bà ta cái gì? À, hiểu mà - ha! Tốt lắm. Và cám ơn ông bạn rất nhiều. Da. Do svidanya[3]!”


      [3] “Xin chào và hẹn gặp lại”, tiếng Nga.


      Lão cất điện thoại và quay sang hai đứa nhóc. “Serge đến Siberia an toàn với hai đứa con của ông ấy. Irina hoàn toàn tin vào trò ngụy trang của ta. Ả nghĩ họ chính là ba chúng ta. Đến khi nhận ra mình bị lừa ả bắt đầu chửi rủa bằng những từ ngữ mà đến Serge nhà mình cũng phải xấu hổ.”


      “Đúng vậy!” Dan reo hò, đập tay mừng chiến thắng với chị mình và ông chú họ.


      “Ta phải cám ơn con, Amy ạ.” Alistair , vẻ hồ hởi. “Ta ngu ngốc mới nhận ra Irina có thể theo dấu chúng ta bằng GPS di động.”


      “Con cũng nghĩ đến điều đó, ngay tức ,” Dan ra chiều khiêm tốn. “Chỉ là con mắc cỡ thôi.”


      Amy tròn xoe mắt. “Vậy chị thành Nữ hoàng nước rồi.”


      tình là nhìn chị cũng chán ngắt và nhăn nheo đó chớ,” Dan chọc chị nó.


      Và nó né ngay trước khi Amy kịp nện cho nó nhát.


      Chẳng bao lâu chiếc taxi dừng lại trước tòa nhà khổng lồ, đại, mang hình dáng chiếc hộp ở rìa công viên um tùm.


      “Arisugawanomiya!” Tài xế xe thông báo.


      Dan hoảng hồn. “Em làm chuyện gì sai ư?”


      “Đó là tên công viên, và tòa nhà này là trụ sở chính thư viện Metropolitan Tokyo,” Alistair giải thích với nó khi thanh toán tiền cho tài xế và ra khỏi xe. “Chúng ta chỉ có chút ít thời gian trước khi Irina bắt kịp. Vì bỏ thiết bị GPS, chúng ta cũng cần ở gần nhau. Và hãy để điện thoại sang chế độ ‘rung’ lúc ở trong thư viện.”


      “Vậy làm sao mà em vui được chứ?” Dan lại làu nhàu.


      Ngay khi cả ba bước vào tòa nhà, quản thư mảnh mai xuất bên cạnh Alistair, cúi chào mọi người và trao đổi bằng thứ tiếng Nhật nhanh như tên bắn. mỉm cười với Dan và Amy, rồi ra hiệu mời cả ba theo.


      “Ông quen ấy ư?” Dan thào lúc họ bước lên cầu thang lớn bằng cẩm thạch. “Từ những ngày mà ông còn săn bắn kiểu shogun phải ?”


      , ta chỉ lịch mà thôi,” Alistair trả lời nó, tật khập khiễng của lão khó có thể nhận ra khi lão bước . “Đó là tôn kính dành cho tuổi tác của ta. Mặc dù có lẽ Nakamura đây cũng còn nh những lần ta xuất truyền hình mười năm về trước. Món burrito teriyaki ngon khủng hoảng của hãng khi đó quả là tượng.”


      Họ vào gian phòng riêng tư ấm cúng, đầy những kệ sách. bức tường có các cửa sổ nhìn ra phía đường. Ngay chính giữa là dãy máy tính. “Xin quý khách cứ tự nhiên hỏi tôi nếu có vấn đề gì cần tìm hiểu,” Nakamura tiếng với giọng hơi nặng, cúi đầu chào Alistair rồi ra ngoài đóng cửa lại.


      “Ta với ấy chúng ta đến đây để tìm hiểu trang web tương tác mới về dây chuyền nhồi bánh burrito,” Alistair , hai tay tì cây gậy và cúi người về phía Dan và Amy. “Nhưng câu hỏi ta dành cho hai đứa là: vì sao chúng ta có mặt ở nơi này?”


      Mắt Amy phóng sang Dan. Alistair hỏi câu này trước đây, và mỗi lần như thế chúng đều lảng . Lão thừa biết hai đứa giấu mình điều gì đó.


      Vấn đề nằm ở hai thanh gươm. Alistair hoàn toàn biết về diện của chúng. Lão cũng chưa từng nhìn thấy bí mật được khắc vào lưỡi gươm. Lão càng biết đầu mối thứ hai là Wolfram.


      Thậm chí ông ấy còn rối hơn chúng ta nữa, Amy nhủ. Iron Solute và Wolfram chẳng phải là hai manh mối có ăn nhập gì với nhau. Cái đầu tiên là thành phần của mực in, thứ hai lại là hóa chất cháy được trong bóng đèn điện nóng sáng. Làm sao hai thứ đó có thể liên hệ được với nhau? Amy và Dan cũng cần biết thêm rất nhiều. Nhưng có thứ khá ràng. Theo cách nào đó các thanh gươm chính là chìa khóa dẫn đến đầu mối tiếp theo. Có lẽ Alistair có thể giúp chúng tìm ra nó, Dan nghĩ. Nhưng rủi ro cũng rất cao. Biết đâu Alistair chỉ cần có chút thông tin là lỉnh , như lão từng làm lúc trước. Chớ có tin ai - câu đó trở thành châm ngôn hành động của Dan và Amy. Mỗi khi quên, chúng phải hối tiếc.


      Và chúng cực kỳ cần hạn chế những hối tiếc.


      “Đó là... mật mã,” Dan cố gắng ngẫu hứng bịa ra lời dối vô hại. “Trong nhạc. Nhạc của Mozart. Đoạn mã ghi là, ừm, ‘Hãy đến Nhật.’ Trong nốt Rê? Tụi con chỉ biết tới chừng đó.”


      Alistair nhún vai, ngồi xuống bên chiếc laptop. “ có quá nhiều để bắt đầu, nhưng điều này cũng khiến chúng ta chùn bước, phải . Mỗi người chúng ta tìm kiếm thử lúc rồi đối chiếu, nhé?”


      Amy và Dan bảo đảm mình ngồi đối diện với lão, để màn hình chúng sử dụng bị Alistair nhìn thấy. Amy gõ vào thanh tìm kiếm.


      nhật bản gươm wolfram


      87.722 kết quả


      ngày lao động mệt mỏi đây,” Amy lẩm nhẩm.


      Dan gõ.


      hình ảnh chiến binh ninja


      1.694.117 kết quả


      Nó cười. Rốt cuộc cũng đến nỗi quá tệ.


      Xăm mình và vẽ lên cơ thể chỉ có là thuộc về nô lệ và tù nhân của người Nhực Bản cổ đại. số hình vẽ chính là bản xao lịch sử của cát nghệ nhân xăm của chúng ta tất cả đều tốt nghiệp chong chường ở lịch sử.


      Dan kéo thanh trượt xuống. Các hình vẽ ràng hơn bản dịch tiếng . số hoa văn tuyệt vời, phủ hết toàn bộ tấm lưng của người. Có hàng tá thứ - hình rồng, cảnh trí trong lịch sử, vùng nông thôn, những hình cuộn trang trí tinh xảo...


      Nó dừng lại. Có gì đó trong tấm hình trông quen lắm.


      Kéo thanh trượt lên lại phía , nó tìm thấy và click chuột vào đó. Chầm chậm, phiên bản phóng to của bức hình mở rộng khắp màn hình.


      “Dan, em nghĩ em làm cái quái gì vậy?” Amy nhìn qua vai nó và thắc mắc.


      “Thấy cái này ngon lành chứ, phải thế sao?” Dan hỏi lại.


      Amy chỉ vào màn hình laptop nó sử dụng, đó hiển thị bản đồ nước Nhật. “Chúng ta phải định vị được đầu mối của mình!”


      “Ừ, vậy em xin lỗi nha, hỡi nhà thám hiểm Dora[4] vĩ đại, hãy nhìn kỹ - thấy các ký tự đó chứ? Có phải chúng hệt như các ký tự thanh gươm hay !”


      [4] Dora là nhân vật chính trong series phim hoạt hình nổi tiếng thế giới, tuổi tham gia các chuyến phiêu lưu cùng với tấm bản đồ để giúp đỡ mọi người.


      Ái chà.


      Tay Dan ngay tức khắc bụm miệng lại. Nó có ý chữ G-ươm.


      Mắt Amy trợn trừng lên. Dan, đồ ngu si đần độn! Đôi mắt ấy trong im lặng.


      Dan và Amy đều nhìn sang Alistair, lúc này vẫn chăm chú viết lại thứ gì đó lão nhìn thấy màn hình. Chầm chậm, lão ngẩng đầu lên. Mặt tái xanh, như thể bị bệnh.


      “Chú Alistair ơi...?” Dan hỏi. “Chú có làm sao ?”


      Trong chừng vài giây Alistair trả lời nó. Lão tháo kính ra và dùng khăn mùi soa để lau. “Ổn. Nhìn màn hình quá lâu... khi lớn tuổi mọi thứ đều khó khăn hơn. Tha lỗi cho ta. Hai đứa, ừm, tìm thấy gì chưa?”


      “Rồi,” Dan .


      “Chưa,” Amy vội đáp.


      “Rồi và chưa,” Dan chỉnh lại câu trả lời. “Còn ông?”


      Alistair gật đầu vẻ lơ đãng. “Nào. Lại đây xem.”


      Hai đứa lao nhanh đến để nhìn vào màn hình của Alistair. Lão thu trang webmail để ra trang web đó có bức hình chiến binh Nhật Bản với dáng vẻ vô cùng đáng sợ, tay cầm đầu người bị cắt lìa.


      “Eo ôi...” Amy lẩm bẩm.


      “Nè chị, chỉ là tấm hình chừng mấy pixel thôi mà.” Dan , “Nhưng mà... úi c


      “Phải, đây là Chuột hói đầu[5],” Alistair ôn tồn , giọng vẫn xa xăm và lơ đãng. “Còn được biết đến với cái tên Toyotomi Hideyoshi.”


      [5] Biệt hiệu của Toyotomi Hideyoshi.


      “Hide-ai-đây ạ?” Dan hỏi lại.


      “Ông ta... ông ta là chiến binh vĩ đại nhất trong lịch sử Nhật Bản,” Alistair tiếp tục kể, “Nhưng hầu hết các di tích để lại đều thể ông là người dị tướng. Sống vào những năm 1500. Ban đầu là nông dân và sau đó trở thành kẻ có quyền uy sao tưởng tượng nổi, chinh phạt rất nhiều bộ tộc và vùng lãnh thổ, là người lần đầu tiên thống nhất toàn bộ nước Nhật thành thế lực duy nhất.” Alistair ngưng lại, hạ giọng. “Và ông ấy cũng là trong những tổ tiên Cahill của các con...”


      “Con nghĩ con nhìn ra tương đồng với Amy rồi,” Dan chọc chị nó.


      “Thực tế, đó là người nhà Tomas. Dòng dõi của Thomas Cahill. Thomas đến vùng Viễn Đông vào thế kỷ 16 - có người để buôn bán, kẻ khác lại để che giấu nỗi ô nhục sau khi lạc mất dấu em bướng bỉnh. Dù gì nữa, ông ấy cũng định cư tại đây và gia đình của ông trở thành chi Tomas, nổi tiếng bởi thô lỗ lẫn cung cách chiến binh.”


      Dan nhìn kỹ hơn. “Nhà Holt - bọn họ chính là người nhà Tomas. Trông họ như những khúc cây và bộ não của loài khủng long. Còn gã này trông cứ như con chồn ấy nhỉ.”


      “Hideyoshi là người họ Tomas cũng có lý.” Amy . “Sức mạnh. Hãy nhìn cái bộ dạng kinh tởm mà ông ấy cầm cái đầu kia.”


      “Tiến hóa khó lường. Nó ưu ái nhà Tomas.” Nét u ám mặt Alistair giãn ra chút ít, dần làm thành nụ cười nửa miệng. “Dĩ nhiên, ta cũng có đôi chút thành kiến với tư cách người nhà Ekat. Dù gì ta cũng rất tin cuộc tìm kiếm nên bắt đầu từ Hideyoshi. Nhân vật này có rất nhiều bí mật. Có người còn cho rằng các bí mật làm hại ông ta.”


      “Bí mật là tên lót của chúng ta, ông à,


      Alistair hướng cái nhìn vào Dan, rồi đến Amy. Màu sắc rốt cuộc cũng từ từ trở lại khuôn mặt lão. “Ta định giữ thông tin này cho riêng mình. Sau những gì xảy ra ở Salzburg ta cũng chắc có thể tin tưởng hai đứa được nữa hay . Thực ra hôm nay ta định tìm kiếm toàn bộ những thứ liên quan đến Hideyoshi mà cho hai đứa biết.”


      “Á à, té ra hai chúng ta cũng giống nhau sao,” Dan buột miệng.


      “Ba,” Amy chỉnh lại. Với cái liếc nhanh đầy ngụ ý về phía Dan, nó thêm: “Chúng con cũng nghĩ mình có thể tin ông nữa, chú Alistair ạ.”


      Alistair gật đầu. “Ta hết sức cố gắng để giành được niềm tin của cả hai thêm lần nữa. Niềm tin là thứ gì đó rất mong manh - khó tạo ra, mà lại dễ phá vỡ. Cũng thể nào đổi chác được. Chỉ khi nó được cho may ra mới có thể được nhận về.” Lão nhìn từ Amy sang Dan. “Để phá vỡ hồ nghi, ai đó phải thực trước thôi. Ta rất vui là người thực bước này. Cả hai xứng đáng với điều đó.”


      Bằng vẻ trang nghiêm, lão quay trở lại màn hình. “Hideyoshi là kẻ hơi tâm thần luôn ưa thích cất giấu mọi thứ,” Alistair tiếp tục, tay kéo thanh trượt của trang web xuống đoạn viết về tiểu sử. “Chẳng hạn như ở cuộc săn gươm năm 1588, ông ta bắt tất cả nông dân và tá điền phải nộp hết gươm của họ cho mình. Ông ta muốn dùng gươm để nấu chảy và đúc tượng Phật lớn. Nhưng đó là lời dối.”


      “Vậy thực là...?” Amy hỏi.


      Alistair nhún vai. “Đó vẫn là trong những bí lớn lao về ông. Ông ta thậm chí còn áp dụng nhiều biện pháp để ngăn nông dân và tá điền trở thành tầng lớp võ sĩ. Dường như ông ta sợ điều này xảy ra.”


      “Nhưng chính ông ta xuất thân từ tầng lớp dân nghèo mà,” Amy thắc mắc.


      “Amy-san à, chị phải tư duy như võ sĩ chứ,” Dan . “Ông ấy sợ vì ông ấy xuất thân từ tầng lớp dân nghèo. Ông ấy nghĩ ai đó cũng làm y như vậy - và phết vào cái mông ninja của ông ấy o.”


      Alistair gật gù. “Có lẽ ông ta nghi ngờ có thêm con cháu Tomas - hay tệ hơn, con cháu Ekaterina - cũng sống trong các tỉnh lị thời bấy giờ. Hai nhánh Ekat và Tomas đối đầu nhau từ những ngày trước. Phải chăng ông ta muốn giấu các thanh gươm cho nhà Ekat sở hữu để ngăn cho họ chống lại mình? Chúng ta vẫn chưa . Chỉ đến khi chúng ta phát ra ông ta giấu các thanh gươm đó ở đâu mới biết được. Cái nơi đâu này dẫn đến chỗ tại làm sao.” Thêm cái nhún vai, Alistair quay về phía hai đứa nhóc. “Rồi đó, ta kể hết cho hai con những gì ta biết.”


      Dan liếc sang chị mình. Bóng được đá sang phần sân của hai đứa.


      Ông ấy cho chúng ta biết bí mật của mình, mắt Amy với nó. Chúng ta mắc nợ ông ấy.


      Ông ấy cũng nhìn vào webmail của mình, Dan đáp lại bằng ý nghĩ. Ông ấy cho chúng ta xem CÁI ĐÓ.


      Cái đó khác nha, Amy cãi lại. Chúng ta cần ông ấy.


      Ngoài tiền bạc và tiếng Nhật ra ông ta còn giúp ích gì nữa nào?


      Ngoài răng dưới dép em có gì hay nào?


      Dan trừng mắt nhìn Amy. Chị lớn, vậy CHỊ là người .


      Amy quay sang Alistair. “Tụi con nghĩ là... tụi con tìm thấy vài thanh gươm,” Nó . “Ở Venice.”


      “Gươm của Hideyoshi - mà ở Ý sao?” Alistair kinh ngạc đến lặng người.


      Buông tiếng thở dài, Dan lẩm bẩm. “Chúng ở trong nhà tay người Ý, tên là Fidelio Racco.”


      “Racco...” Alistair . “ Janus. Nhưng đầu mối lại chỉ đến căn cứ Tomas. Ngạc nhiên nhỉ. Ngay tại Nhật, người ta vẫn đồn đãi về những chỗ cất gi bí mật của Hideyoshi, nhưng chúng đều được canh gác cẩn mật bởi hậu duệ của Hideyoshi - nhiều kẻ trong số đó là yakuza[6].”


      [6] Băng đảng xã hội đen Nhật Bản, nổi tiếng với cách xăm mình.


      Dan nở nụ cười. Giờ ông ấy tới ninja. “Ái chà - bá cháy!” Dan thốt lên. “Em đấu với yakuza ở cấp Bốn trong trò... ưm, Ninja Garden, em nghĩ như vậy? Bọn này là những tên cướp điên khùng! Bọn chúng cắt tay của chúng ta ra và đem nhắm bữa trưa.”


      “Phải gặp bọn họ sớm thôi,” Amy .


      “Tụi con cố mang hai thanh gươm đến đây,” Dan tiếp. “Chúng nằm trong hành lý. thanh có số dấu hiệu. Tụi con biết chúng quan trọng - có lẽ chúng cung cấp được thông tin về đầu mối kế tiếp.”


      Mắt Alistair mở to. “Có cách nào để lấy lại hai thanh gươm đó ?”


      “Có lẽ chúng ta cũng cần lấy lại đâu.” Dan hất hàm về phía màn hình. “Các dấu hiệu đó có trong hoa văn của hình xăm này.”


      Dan chưa thấy Alistair di chuyển nhanh như thế lần nào. Lão chồm qua vai Dan và trỏ vào bức hình. “Con chắc những thứ này được in thanh gươm chứ?”


      “Chắc,” Dan . “À, hẳn. Còn các dấu hiệu khác nữa. Ở đây có.”


      Amy lắc đầu. “Làm sao em chắc chắn vậy? Em có biết tí tiếng Nhật nào đâu.”


      “Ừm, đúng đó,” Dan bực dọc. “Và em cũng đọc trôi được lấy nốt nhạc. Nhưng mà xem nào, ai là người nhớ toàn bộ bản nhạc của Mozart và tìm ra đầu mối vừa rồi nhỉ? Chờ , khoan, khoan, để em nhớ thử coi. À. Nhớ rồi - là em!”


      “Da con có chắc rằng các dấu hiệu còn thiếu ?” Alistair hỏi. “Bởi vì thông điệp, tự nó thường khá là vô thưởng vô phạt - câu thần chú về may mắn, danh dự, chiến thắng và đại loại như vậy.”


      “Hoàn toàn chắc. Ở đầu mỗi hàng, có ký tự rất kỳ quặc. Như của thứ ngôn ngữ nào đó. Bác biết đó, chắc là tiếng Phạng.”


      “Tiếng Phạn, đúng là đồ não bị xăm,” Amy sửa lưng Dan, trong lúc vẫn ngồi trước laptop. “Em chẳng nhớ được thứ gì cho ra hồn cả.”


      Rồi nó quay sang Alistair, lúc này lão mạnh bàn phím của mình. “Bác biết gì về mấy gã yakuza đó vậy, hở chú Alistair?”


      Nó nghĩ mình vừa nhác thấy Alistair rùng mình. “Bọn chúng rất bẩn tính và nguy hiểm,” Lão khẽ . “Tin ta , chúng ta nên dây với chúng đâu.”


      “Ông có chỗ quen biết nào với chúng ?” Dan hỏi.


      “Chúng biết và xem thường ta,” Alistair đáp. “Ta là người Ekat. Thành viên nhà Tomas và Ekat có cừu hận suốt nhiều thế kỷ nay. từ lâu bọn yakuza bị nghi ngờ cất tấm bản đồ dẫn đến hầm mộ bí nằm dưới mặt đất. Và nếu ta buộc phải hiểu thông điệp vừa nãy, tức là chúng ta có thể vừa tìm thấy bản sao của tấm bản đồ đó.”


      Ông ấn nút IN. Từ máy in của thư viện, tấm bản đồ tiến dần ra khay giấy. hình ảnh từ xa xưa thể mạng lưới chằng chịt các đường hầm.


      “Tuyệt!” Dan reo lên.


      “Ông biết hết tất cả những thứ này ư?” Amy ngạc nhiên.


      Alistair lắc đầu. lần nữa, mặt lão tái nhợt và nặng trĩu. “ từ lâu ta tìm kiếm số tài liệu... của nhà Ekat bị đánh cắp nhưng liên quan đến nó. đồng nghiệp của ta tìm được ngôi mộ bí mật. Ta nhận tin của ông ấy mail khi còn ở Salzburg, với số tài liệu đính kèm - trong đó có tấm bản đồ này.


      Ông cho chúng xem tờ giấy vừa in, phía có dòng tiêu đề GIÁ TRỊ CHƯA XÁC ĐỊNH.


      “Khoan - tài liệu Ekat? Đồng nghiệp? Ông còn giấu gì chưa cho hai đứa con biết nữa? Làm sao ông có thể...?”


      Amy bỗng nghẹn lại. Con trỏ màn hình của Dan di chuyển từ chính giữa màn hình sang góc trái.


      “Dan?” Amy hỏi. “Dừng lại ngay, được ?”


      “Dừng cái gì?” Dan hỏi.


      “Ai cũng biết thư viện làm em chán, nhưng em thể nghiêm túc việc gì được hay sao?” Amy trả lời nó. “ làm trò khỉ gì phải ? Em có gì trong túi quần và nó gửi tín hiệu tới màn hình máy tính kìa. Nếu , tại sao mũi tên màn hình lại di chuyển?”


      Giờ mũi tên đến nút BACK[7], lật nhanh qua các trang mà Dan xem - hình xăm, thông tin về Hideyoshi và cuộc săn gươm, trang facebook của ba đứa con học lớp 6...


      “Ê!” Dan la lên.


      “Đó là keylogger[8].” Alistair nhanh chóng giật lấy chiếc laptop. “ có ai đó đột nhập từ xa vào máy tính và xem hết tất cả những gì Dan vừa xem hôm nay.”


      [7] QUAY LẠI.


      [8] Keylogger là chương trình theo dõi thao tác bàn phím, nó có thể ghi lại mọi thao tác thực bàn phím vào tập tin nhật ký (log) để cho người cài đặt nó sử dụng. Thậm chí, keylogger còn có thể ghi lại hình ảnh hiển thị màn hình (screen) bằng cách chụp (screen-shot) hoặc quay phim (screen-capture) thậm chí còn ghi nhận cách con trỏ chuột máy tính di chuyển. Vì chức năng mang tính vi phạm vào riêng tư của người khác nên các trình klogger được xếp vào nhóm các phần mềm gián điệp.


      Bằng động tác dứt khoát, lão rút dây điện đằng sau máy, màn hình tắt ngóm. Tiếng bíp liên tục phát ra, và bảng LCD chuyển sang các chữ cái tiếng Nhật màu đỏ trông gần giống với chữ KHẨN CẤP.


      “Sao bọn chúng làm được chứ?” Amy ngạc nhiên.


      Dan chộp lấy chiếc laptop, kiểm tra card PC. “Đường truyền dây 802.11g,” Nó với Amy. “Vậy bọn chúng khá gần đây. Em , có lẽ là chừng mười thước - hay chỉ năm thước nếu chúng có bộ khuếch sóng gì đó?”


      Alistair hướng về phía cửa sổ. “Có nghĩa là bọn chúng hoặc ở trong tòa nhà này hoặc ở đâu đó trong số những chiếc xe hơi ngoài kia.”


      trong số hàng trăm chiếc xe hơi, có thể là vậy - nếu tính đến những chiếc đậu ở lề đậu xe, ở bãi đậu xe trong công viên sát bên cạnh, và cả những chiếc nối đuôi nhau đường.


      Tạch-tạch-tạch-tạch!


      Tiếng gõ vào cánh cửa khiến cho tất cả giật bắn mình. “Mọi thứ trong này vẫn ổn chứ?”. giọng rụt rè, nhút nhát vọng vào.


      Nghe như là Nakamura, nhưng lại có điều gì đó ổn trong giọng của ...


      Alistair đến mở cửa. “Có thể ấy biết làm thế nào để dò ra dấu vết.”


      “Ôi !” Amy thốt lên.


      Nakamura,” Alistair , kéo mạnh tay nắm cửa, “Thư viện của bị đột nhập...”


      Cửa mở - và Alistair nhìn chằm chằm vào bộ ngực đồ sộ trong chiếc áo thun cỡ XXXL


      đùa đâu, Sherwood đấy,” Eisenhower Holt sấn vào, với nụ cười rộng đến nỗi gần chạm vào mép hàng ria quân đội chỉn chu của gã. “Nào, tất cả vào đội hình... và diễu binh nào!”






      CHƯƠNG 6


      Brrr....


      Điện thoại Amy rung rung.


      Nó liếc quanh chiếc xe tải. Ở ghế bên cạnh vô lăng, Eisenhower Holt tranh cãi với vợ gã, Mary-Todd, là người cầm lái. Dãy kế tiếp, hai đứa sinh đôi 11 tuổi Reagan và Madison Holt thi xem ai có thể hất gỉ mũi vào tóc thằng Hamilton. Con chó ngao Arnold sủa váng lên đầy vẻ tham lam, ngoạm lấy những mảnh “vũ khí” bay vèo qua bằng bộ hàm khủng khiếp của nó.


      “Ngưng lại , nó giết tao mất!” Ham la lên.


      “Vấn đề là chỗ đó,” Madison vỗ tay.


      “Sherwood[1] là khu rừng, cưng à,” Mary-Tood nằng nặc với chồng. “Tay thám tử là Sherlock[2].”


      [1] Khu rừng tương truyền là nơi sinh sống của Vua lục lâm Robin Hood.


      [2] Tức Sherlock Holmes.


      dò lại!” Eisenhower tuyên bố. “Để nhắc cho mình nhớ, Mary-Todd nhé, ở học viện West Point, chỉ số IQ của gần đạt 100 hoàn hảo. À, 89 - nhưng mà đó là còn chẳng thèm luyện tập gì!”


      “1 được xem là bình thường thôi, cục cưng,” Mary-Todd đáp.


      “Bình thường là kẻ thù của sáng tạo,” Eisenhower gào lên. “ người nhà Holt bao giờ bình thường - như quá trong cuộc vây bắt hết sức thiên tài bọn nhà Cahill!”


      Brrrrr....


      Amy cho tay vào túi quần bên trái và lôi chiếc điện thoại ra, bảo đảm để ai trông thấy được. Phía bên phải, nó bị trói vào Alistair, lúc này lão giận sôi cả tiết. Còn Alistair lại bị trói tiếp vào Dan - cậu chàng, trái lại, như bị mất trí, ngồi đọc ngon lành hàng tá những sách hướng dẫn du lịch mà bọn Holt bỏ lại sàn xe.


      Amy nhanh chóng liếc thấy màn hình cuộc gọi đến.


      GOMEZ, NELLIE


      Nó cố gắng la lên, nhìn chằm chằm vào Alistair và Dan, giơ màn hình điện thoại cho cả hai thấy.


      Nellie vẫn còn sống!


      “ ĐƯỢCCCCC LẮMMM, TUYỆTTTT!” Dan reo lên.


      “Thằng nhóc Cahill đồng ý với kìa!” Eisenhower cười nham nhở, quay người lại phía đằng sau xe tải. “Nhóc con thông minh. Mày được đây đó với tụi tao... trong vai tù binh! Há há!”


      Cả nhà Holt cười ồ lên, trừ con Arnold, dường như vẫn còn bối rối biết chỗ đồ ăn bay tự dưng biến đâu mất.


      “Dở ở chỗ tụi mày có đủ thông minh để phát ra tụi tao theo từng đường nước bước,” Eisenhower tiếp, “Bằng chính công nghệ hack có bản quyền của nhà Holt. Đầu tiên tụi tao đột nhập vào thiết bị dò tìm con mèo của tụi mày - đến khi phát con mèo hóa ra lại là ông chú của tụi mày!”


      Madison và Reagan nhìn bố chúng với vẻ hoang


      “Rồi bọn tao theo đuôi đến sân bay, là nơi tao ra lệnh cho cả nhà thực trò kông nghệ xuất sắc nhứt,” Eisenhower tiếp tục , “Đột nhập vào hệ thống bán vé sân bay!”


      “Nhưng rồi tao nhắc với ông xã tất cả những gì ổng cần là dí theo chiếc limo,” Mary - Todd lên tiếng


      Madison xen vào: “Còn khi chúng tao có mặt ở sân bay thứ hai kia ấy hả? Và thấy bọn mày vào chiếc phản lực? Chúng tao chỉ cần hỏi cái gã phi công siêu “hot”, gã Fabio đó? Rằng bọn mày đâu?” Nó lại nhe răng cười toe toét. “Và gã kể.”


      “Gâu” con Arnold phụ họa.


      “Gio đó,” Eisenhower , “Bọn tao có thể trưng dụng chuyến bay tới Nhật, bọn tao vượt mặt chúng mày tới được sân bay trước rồi chờ tới khi tụi mày có mặt, theo sát từng động tĩnh của tụi mày cho đến lúc đạt được thành công cuối cùng - keylog vào từng chiếc laptop và lấy hết thông tin của tụi mày! Và giờ tao có cả ba trong tay, có thể thực được mục tiêu của cuộc đời. chỉ là tìm bằng hết ba mươi chín đầu mối trước tiên. Mà còn đặt tên tuổi nhà Holt vào đúng nơi của nó - ở từng gia huy của nhà Tomas... gia huy. Lịch sử còn nhắc đến tên nhà Holt như những kẻ ngu si. còn là những con chiên ghẻ, là vết nhơ dưới đũng quần của dòng họ, là dòng ghi chú hôi hám của truyền thuyết nhà Tomas. Và bọn mày giúp bọn tao hoàn thành sứ mệnh lịch sử bằng cách dẫn bọn tao đến chính cái thứ bọn mày tìm thấy - đầu mối kế tiếp, nằm ở những con đường hầm của thành phố Tokyo!”


      “Tự ông hình dung ra tất cả những thứ này sao?” Amy hỏi gã, trong lòng khó kiềm được cảm giác thư thái khi biết nàng au pair vẫn bình an.


      “Chừng năm mươi ba phần trăm,” Eisenhower thú .


      “Hơn bốn mươi bảy phần trăm thôi,” Mary - Todd .


      biết ngay là đúng mà,” Eisenhower .


      “Ủa, cha! Con mới làm hết mấy món kỹ thuật đó chứ bộ,” Reagan than vãn.


      “Cha cái gì?” Eisenhower lên giọng.


      “Thưa cha,” Reagan đáp.


      “Lập luận của ngươi cũng ngớ ngẩn như chính cuộc chuyện của lũ các người vậy,” Alistair lên tiếng, giọng giấu được cơn giận dữ. “Các người đừng hòng kiếm được tí ti gì từ cái trò hack hiếc vào hệ thống. Chẳng qua lũ các người lấy cắp bản đồ của ta, cái đồ ba hoa.”


      “Chú Alistair?” Amy lên tiếng. Chưa khi nào nó thấy Alistair như lúc này.


      “Có đứa nào vừa meo meo ở phía sau vậy?” Eisenhower thắc mắc. “Ta vừa nghe như thể có tên Ekat lên tiếng?”


      “Gâu?“ Arnold gầm gừ, nước dãi chảy ròng ròng.


      Alistair cười cách man dại. “Điều gì khiến cả bọn đê tiện chúng mày nghĩ có thể đọc được cái bản đồ ấy nào? Nó được viết bằng tiếng Nhật đó.”


      “Ha! Đừng hòng có thứ gì qua mặt được người nhà Holt!” Eisenhower gầm lên. “Tao nghe lén bọn mày qua cánh cửa thư viện, về hầm mộ cổ xưa dưới lòng đất. Do đó bọn tao bắt đầu tại... quận hầm mộ dưới lòng đất. Tiếp tục tiến lên!”


      Chiếc xe tải lảo đảo nghiêng sang trái.


      Dan ngẩng đầu lên khỏi tấm bản đồ hệ thống tàu điện ngầm Tokyo. Mặt sáng rỡ, hệt như mỗi khi nó vừa giải được đoạn mã hay phát ra mánh mới của trò World of Warcraft. “Hầm mộ á? Tôi nghĩ tốt hơn cả là ta tìm hệ thống tàu điện ngầm ấy.”


      Chiếc xe tải lại nghiêng sang phải.


      “Con muốn tè cơ,” Madison kêu to.


      Chiếc xe tải thắng két vào vệ đường. “Ai đó đưa ra quyết định coi nào?” Mary - Todd hỏi ý kiến.


      Trong lúc nhà Holt tiếp tục nhao nhao tranh luận như thường lệ Alistair thầm với Dan. “Hệ thống tàu điện ngầm ư, con trai? Vì sao?”


      “Trước tiên, cháu nhớ bản đồ của ông,” Dan bắt đầu hơi có phần phấn khích.


      “Suỵt!” Amy nhắc nhở.


      “Các đường hầm bí mật và tàu điện ngầm,” Dan tiếp tục oang oang. “Cả hai đều khớp với nhau - gần như từng chi tiết! Cháu hình dung có lẽ là hệ thống tàu điện ngầm được xây thẳng lên các đường hầm trước đó!”


      Cả nhà Holt im bặt ngay tức .


      “Dan...” Amy cảnh báo nó. “Em cho họ biết mất rồi còn đâu!”


      Dan ngẩng lên, hốt hoảng. “Em với chú Alistair thôi mà.”


      “Nhưng tụi taoooooo nghe thấy cả rồi,” Reagan hát váng lên, thè cả lưỡi ra chế nhạo nó. “Còn nữa, nếu mày ra mày cũng thành cục thịt viên thôi.”


      “Gâu,” Arnold xen vào, nhe ra những chiếc răng lớp nhớp nước dãi.


      Mặt Dan trắng bệch ra. Nó đưa cái liếc nhìn đầy ăn năn về phía Amy và Alistair, hai người giờ đây mặt mũi cũng sa sầm cả lại. “Ừm, à vấn đề là...? Nó khớp nhau đâu. Vậy là em sai rồi. Tại vì, ừm xem nào, có khác biệt lớn đấy. Ở giữa tấm bản đồ cổ, có đoạn giao với căn phòng lớn. Còn trong tấm bản đồ xe điện ngầm đường ray song song nhau. Đó... thấy chưa? Sai chỗ là cái chắc...”


      “Chỗ hai tấm bản đồ lệch nhau chính là nơi bí mật được cất giữ!” Eisenhower reo lên.


      “Lúc nào cũng giỏi giang!” Mary - Todd nịnh chồng.


      Amy rên rỉ vì thất vọng. Dan càng ngu Eisenhower Holt càng khôn ra.


      “Tuyệt,” Hamilton tiếp tục với cái cười chế nhạo.


      Bất thình lình, Eisenhower lại lườm bọn họ bằng cặp mắt khép hờ. “Nè, phải tụi mày lừa tụi tao chớ? Tụi tao ngu như tụi mày nhìn thấy đâu. Hay là... sao cũng được.”


      “À...” Dan cứ nhìn Amy rồi sang Alistair trong tuyệt vọng. “Ở hai bên đều có trạm dừng cho tàu điện ngầm. Có lẽ cái ở đầu phía Bắc, Yotsuya, gần hơn.”


      “Chúng ta đến cái ở đầu phía Nam,” Eisenhower ra lệnh.


      Thế là chiếc xe tải lại chao đảo lao .


      “Giờ con thực phải tè đó,” Madison lại than vãn.


      ***


      Họ yên lặng chờ cho đến khi tàu rời ga Nagatacho. Lúc này ke ga chỉ còn có bọn họ. Lịch tàu chạy, cái mà Alistair lấy từ chỗ người phục vụ, cho thấy chuyến tàu tiếp theo đến lúc 5 giờ 40. Lão xem đồng hồ.


      Rồi lão nhìn xuống đường tàu - những đường ray tối, hẹp dẫn vào đường hầm mịt mùng ở cả hai đầu.


      “Bây giờ là 5 giờ 17,” Lão , giọng hơi run. “Chúng ta có chính xác 23 phút.”


      Eisenhower đứng lại ở mép ke ga. “Tất cả, hãy tập hợp!” Gã hét lên.


      “Con muốn trước!” Madison n


      “Chính nó bắt chúng ta phải chờ lúc nó vào toilet,” Reagan phàn nàn. “Con được ? Nha cha?”


      “Gần tới sinh nhật mẹ rồi,” Hamilton .


      “Gâu,” Arnold tiếp lời, sục khắp mép ke ga để đuổi theo con chuột cống đen sì lao qua mấy thanh ray.


      “Mỗi người nhà Holt tự hành động!” Eisenhower thét, rút trong túi ra cặp găng làm vườn, đeo vào tay rồi khom người thấp xuống. “Và nhớ là được chạm vào ray thứ tư.”


      “Thứ ba, cục cưng à,” Mary - Todd chỉnh lại.


      Khi Madison và Reagan theo Alistair nắm lấy tay của cả Amy và Dan, chầm chậm bước giật lùi. Lão cố tìm cách tẩu thoát. Nhưng Mary - Todd và Hamilton chặn đường, khoanh tay trước ngực. “À há!” Hamilton lắc đầu.


      “Có cố găng đấy, ông chú,” Dan thào.


      Lúc đó là 5 giờ 19 phút. Còn 21 phút nữa.


      Buông tiếng thở dài, Dan trèo lên đường ray, theo sau Amy, Alistair và đám Holt còn lại. dòng nước đen kịt như mực chảy bên dưới đường ray. mẩu giấy gói kẹo cao su nổi lềnh bềnh. Phía trước, con đường hầm lao vào bóng tối thăm thẳm. Dan thấy buồn nôn. Cả nó lẫn Amy đều may mắn lắm mỗi khi ở trong lòng đất. Những hình ảnh bắt đầu lềnh bềnh trôi trong đầu nó. Chạy... chạy... chạy trốn Jonah Wizard trong cái bảo tàng dưới lòng đất ở Venice... chạy khỏi bọn Kabra trong hầm mộ Paris... khỏi chiếc tàu... chạy trốn khỏi ký ức... Nó vẫn còn hình dung được cánh tay của Amy vươn ra để lôi nó khỏi chiếc tàu điện lao tới lúc ở Paris, chiếc ba lô biến mất hút dưới hàng tấn thép rầm rập phóng đến, tiếng thét phát ra như xé toang cổ họng của nó. Với bất kỳ ai khác, tấm hình phai màu mà nó giữ trong ba lô - cặp vợ chồng mỉm cười hạnh phúc - có lẽ nhạt nhòa và chẳng có gì thú vị. Thế nhưng với riêng Dan, kỷ vật ấy quan trọng như chính cuộc sống vậy. Nó nhìn ngắm tấm ảnh đó hàng ngày, nhớ từng pixel chi tiết đó. Đó là kỉ niệm duy nhất còn lại, tấm ảnh duy nhất còn lại của cha và mẹ,ó tài nào nhớ được. Và giờ tấm ảnh cũng còn nữa, cách nơi đây cả châu lục xa xôi.


      “Huầy - hai - ba - bốn...” Eisenhower gào to.


      Amy đẩy Dan về phía trước, lắc cho ký ức bật ra khỏi đầu nó. Thình-thịch-thình-thịch-huỵch, bước chân của nó khua vang. “Hở?” Dan ré lên.


      “Đừng có thắc mắc,” Amy . Thậm chí trong cảnh tối tù mù này, nó cũng có thể nhận thấy mặt của Amy trắng bệch ra.


      Cả bọn tiếp tục lê bước về phía trước, vẫn đường ray giữa để tránh ray điện thứ ba, cho đến khi ánh đèn của ga tắt lịm. “Báo cáo nào!” Eisenhower ra lệnh.


      Tay Dan run rẩy khi nó rọi chiếc đèn pin bỏ túi vào tấm bản đồ tàu điện. Phía trước họ, thể nhìn thấy được ánh sáng của ga kế tiếp. Cả bọn băng qua trung điểm giữa hai ga rồi. “Theo đây,” Dan , “Chúng ta lẽ ra phải đến đó rồi. Chỗ giao nhau phải nằm về phía bên trái.”


      “Bình tĩnh nào!” Eisenhower lên tiếng. “Đứng vào hàng để kiếm cách mau!”


      Amy giơ tay sang trái, chạm vào bề mặt đường hầm bẩn thỉu. “Chỉ là bức tường, hơn!”


      “Cứ tiếp tục tìm kiếm,” Eisenhower ra lệnh.


      Dan điên cuồng đẩy và đấm, nhưng bức tường vẫn suy chuyển. Xi măng dày cộp. Nó xem giờ, chiếc đồng hồ bắt đầu mất dần tính năng phát sáng trong bóng tối.


      5 giờ 30 phút.


      “Ý tưởng này ngu si,” Giọng của nó vang vọng trong đường hầm. “Nhìn xem, chúng ta chỉ có mười phút. Ta rời khỏi nhà ga cách đây mười phút. Vẫn còn đủ thời gian để quay trở lại trước khi...”


      “Nhiệm vụ bị hủy!” Eisenhower rống lên. “Sang trái! Và... hai-ba-bốn


      Dan bắt đầu chạy, xém chút nữa vấp vào chị mình.


      “Oái!” Amy la lên. “Dan!”


      “Xin lỗi!” Dan trả lời. “Gặp lại chị ở chỗ ke ga”.


      “Dan, chân chị bị kẹt rồi!”


      Dan quay phắt lại và rọi đèn pin vào dáng Amy cúi xuống. Con bé nhăn mặt, chân trái kẹt vào bên dưới đường ray.


      “Để ta cứu nó!” Hamilton la lên.


      , để em!” Reagan rít lên lanh lảnh. “Chẳng bao giờ em được giải cứu đầu tiên hết!”


      “Giải tán!” Eisenhower lại gào lên.


      “Gâu,” Arnold sủa.


      Dan len qua đám người, ráng đến chạm vào chị nó lúc này thét hết sức bình sinh, “Các người chỉ làm mọi thứ tồi tệ hơn thôi!”


      Tóc Dan bắt đầu khẽ dựng xoáy phía sau gáy. làn gió tuy yếu nhưng đều đặn lướt qua đường hầm từ phía Nam. Dan có thể thấy mặt Amy ngước nhìn nó, mắt mở to. “Dan? Giờ tàu chạy chính xác cỡ nào?”


      “Em biết!” Dan đáp.


      “Khi đoàn tàu chạy vào đường hầm, em có thấy khí được đẩy ?”


      Reng-g-g-g-g-g-g-g-g!


      Dan quay đầu về nơi thanh phát ra. Hai đèn pha từ đằng xa, tựa như cặp mắt của loài bò sát xuyên qua bóng tối, hướng về phía chúng - và càng lúc cà


      “Nhà Holt - chạy mau!” Eisenhower ra lệnh.


      Như khối thống nhất, nhà Holt quay đầu lại và chạy thục mạng đến ga kế tiếp.


      “Đừng bỏ chúng tôi!” Amy thét lên.


      Dan vẫn tiếp tục kéo. Chân Amy bị mắc lại ở đó. Kẹt cứng.


      “OÁIII!”


      “Em... ... làm được,” Dan rít qua kẽ răng. Nó quỳ xuống dòng nước chảy giọt giữa hai ray, giờ chúng cũng rung lên theo chuyển động của con tàu.


      “Chạy , Dan!”


      “Chờ ... em biết rồi...” Chiếc dây giày. Dan thò tay vào dây giày của Amy và giật mạnh.


      Chúng bị thắt nút lại. Ướt nhẹp và kẹt chặt. Chân của Amy dường như bị dính keo vào chiếc giày. Giá như nó có thể tháo ra, sử dụng chỗ nước bên dưới để làm trơn...


      Tiếng rít ken két của phanh lan khắp đường hầm. Gió tốc xoáy quanh Dan như cơn cuồng phong, ném bụi đất và mảnh vụn vào mắt nó. Mắt nó lóa lên trắng xóa. Cơ thể bảo nó phải chạy . Ngay bây giờ.


      “CỨ CHẠY !”


      “Thôi nào Amy, em bỏ chị được đâu...”


      Con bé cứu mạng nó. Nó cũng có thể cứu chị mình. Nó phải làm điều này.


      Kéo !


      Gió mạnh dữ dội. thanh đập vào tai nó như vật cứng. Nó lại kéo, lắc, giật, đập mạnh.


      Còn Amy cản nó lại, đẩy nó ra - cốt để cứu mạng nó. Hơi thở lạnh ngắt của Amy phà vào cổ nó, đám gân nổi lên chằng chịt nơi cổ họng con bé.


      Nó nhận ra Amy thét to, nhưng nó thể nghe thấy gì cả.


      HO-O-ON-KKKKKKKKKKKKK!


      Toàn thân Dan đông cứng lại khi nó ngoảnh đầu nhìn về phía ánh đèn lao thẳng tới.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 7


      “ÁAAAAAAAAAAAA!”


      Amy cảm thấy gì nữa hết. Gió. Tiếng rít chói lói của phanh tàu bằng kim loại, tiếng còi át hết tất cả mọi thanh.


      Hẳn nó nhắm nghiền mắt, bởi nó chẳng còn thấy được gì nữa.


      Amy ngã xuống.


      Cảm giác như cả cơ thể lềnh bềnh. Nó bay.


      Rồi vai con bé đập vào lớp xi măng, cứng và lạnh ngắt.


      Khi mở mắt ra, tất cả tuyệt nhiên yên ắng và tối đen.


      “Chắc l-l-à... mình chết rồi chăng?” Nó lắng nghe chính giọng của mình, cao và mỏng đến kỳ lạ.


      Trong lúc lâu, nó nghe thấy gì nữa. Và rồi:


      “Chào người chết. Em là Dan đây.


      Tiếng quẹt que diêm vang lên đánh xoẹt, và ánh sáng lờ mờ viền quanh hai khuôn mặt.


      Amy nhỏm dậy. Mắt cá bên trái của nó nhức nhối, và chiếc giày cũng còn. “Chú Alistair? Dan?”


      Tóc Dan dựng đứng, mặt nó bám đầy bụi đen kịt, còn đôi mắt tròn xoe và mở thao láo như hai quả bóng mềm. “Chính là ông ấy, là ông chú Alistair đó. Ông cứu mạng chúng ta. Lao ra. Từ phía bức tường. Bằng cách nào mà...?” Dan lảo đảo chồm về phía Amy, cả thân người nó gập xuống khi trố mắt nhìn vào chân con bé. “Nó vẫn còn nguyên này. Ông ta cắt nó ra khi...”


      đến đó, đầu gối của Dan quỵ hẳn và nó té xuống nền đất.


      “Dan!” Amy thét lên. Khi vươn người nắm lấy tay thằng em, mắt cá con bé nhói đau khủng khiếp.


      “Ổn mà,” Dan an ủi, ngồi bật dậy. “Em sao đâu. Đừng gọi 911. Tóc em có bạc trắng ? Giống trong phim, lúc mà người ta thấy sợ ơi là sợ ấy?”


      “Cả hai đứa đều an toàn,” Alistair trong lúc di chuyển que diêm dò xung quanh các góc tường của căn phòng lớn. “Dan, tóc của con vẫn còn màu đen - và con đúng về nơi trú bí mật. Nó ở gần nơi con đoán ra. Có bức khắc cỡ tường, biểu tượng cổ xưa giống như hộp điện. Khi ta ấn vào, cửa mở ra. Ta chỉ việc kéo cả hai vào theo.”


      Amy tiến về phía trước bằng cái chân lành lặn, giơ chân đau lên, và choàng tay ôm chầm lấy Alistair. “Con cảm ơn,” Nó .


      Nó cảm nhận được Alistair lúng túng. Thoáng chút sợ hãi, nó thấy như mình vừa có hành động cực kỳ sai lầm. Có thể lão phải loại người thích được ôm. Rồi, lạ thay, Alistair cũng ôm chầm lấy nó. “Ta... cũng nợ con lần,” Lão nhàng .


      “Hoặc hai đấy,” Dan xen vào.


      Alistair gật đầu. “Ta cho rằng trí nh mình tốt trong các tình huống chết người như thế này.”


      “Giờ ông bù lại được rồi,” Amy vùi đầu vào vai áo jacket lụa vẫn còn sực nức mùi nước hoa cạo râu của Alistair.


      Alistair nhàng đẩy nó ra, nhìn xuống chân nó vẻ đầy quan tâm. “Chân của con sao rồi?”


      “Giống như là nó bị kẹt dưới đường ray rồi bị lôi ra khỏi chiếc giày,” Amy , khẽ nhăn mặt. “Con có thể nhúc nhắc được, nhưng chắc con bị trật mắt cá rồi.”


      “Cá là chị thể nhảy điệu tap-dance[1] được.” Dan chọc, dẫu giọng nó vẫn còn hơi mệt mỏi.


      [1] Nhảy thiết hài, điệu nhảy đường phố thịnh hành ở Mỹ, dùng gót chân nện xuống đất để tạo thanh và nhịp điệu.


      Amy mỉm cười với thằng em, chưa bao giờ hình dung được mình có thể lần thích thú cái thói hài hước ngớ ngẩn của nó. Amy cảm nhận được luồng hơi ấm áp tỏa ra từ phía thằng bé.


      “Ồ, , em thấy cái nhìn này rồi - dẹp cái vụ ôm iếc !” Dan , lùi ngay lại.


      Nó uể oải giương chiếc đèn pin bé tí quét chầm chậm quanh căn phòng, đến khi ánh sáng chạm tới chồng vật cổ nằm ngổn ngang sàn, phủ lớp bụi dày đen kịt - quần áo, những món kim loại xỉn màu, chiếc hộp kim loại, quả cầu và vật hình trụ nặng trịch. Khi cả ba lại gần hơn, Alistair bắt đầu nhận xét, “Ừm, có lẽ bọn yakuza kiểm soát hệ thống đường ngầm dưới mặt đất, nhưng dường như nhiều thế kỷ nay bọn chúng có mặt ở nơi này.”


      “Này,” Dan to. “Jar Jar Binks[2] gì khi ta gặp thành viên tổ chức mafia Nhật Bản nào?”>


      [2] nhân vật trong tác phẩm Star Wars (Chiến tranh giữa các vì sao) của George Lucas.


      Amy cằn nhằn. “Em hồi phục hơi bị nhanh đó.”


      “Ta cũng thích đùa mà. Hãy khoan...” Alistair dừng lại, rồi mỉm cười. “Mà gì nhỉ? Yakuza chăng?”


      Cái cười toe toét của Dan tắt ngấm. “Làm sao ông biết chứ? Con chỉ vừa chế ra thôi mà.”


      “Chơi chữ là dấu hiệu của trí tuệ được che giấu kỹ,” Alistair đáp, xỏ tay vào đôi găng màu trắng. Lão cúi xuống chồng vật và thận trọng nhặt lên mẩu vải giòn cong queo. “Khó mà được món này bao nhiêu tuổi bên dưới chừng đó bụi bặm kim loại.”


      “Này, xem thử xem!” Dan . Nó mở cuộn giấy nhặt được đằng sau cái tủ kéo.


      “Cẩn thận nào!” Amy bảo nó.


      Cuộn giấy giờ được mở ra, quanh mép hơi đen nhưng vẫn còn đọc được - ba dòng tiếng Nhật viết theo lối kiểu cách. “ đó viết gì vậy ông?” Dan thắc mắc.


      Alistair nhìn kỹ. “Đó là bài thơ haiku, ta cho là thế. Khoan, để ta xem kỹ lại nhịp thơ... ‘Để tìm nơi ở mới /Kho báu của Hideyoshi/ Hãy dùng hình học.’”


      “Kho báu?” Amy tò mò. “Có bao gồm các thanh gươm trong đó nhỉ?”


      “Chúng ta giàu to rồi!” Dan hét lên. “Hô hô - em biết mà! Được thôi, hình học. Em xử món này. Chờ , chờ em phút...”


      “Nó có thể là bất cứ cái gì...” Amy , đưa mắt nhìn quanh căn phòng.


      “Chúng ta ở trong căn phòng lớn,” Dan . “Vậy thể tích của hình hộp, đúng nhỉ?”


      “Sao cơ?” Alistair hỏi nó.


      hình hộp có ba chiều, giống căn phòng này,” Dan giải thích.


      “Làm sao cái đó giải bài toán này được chớ?” Amy hỏi Dan. “Chẳng khác nào tìm cạnh huyền trong đống rơm.”


      “Đó là chuyện đùa đấy à?” Dan hỏi lại. “Tại vì nếu đúng vậy, chị cũng phải cho em dấu hiệu nhận biết chứ. Như là, gõ vào đầu hai cái để em biết khi nào em phải cười hà hà.”


      tay nó buông thõng cuộn giấy xuống. Tiếng tách phát ra vang vào các bức tường rồi im bặt.


      yên ắng đầy chết chóc.


      Amy căng thẳng nhìn xung quanh. “Lẽ ra giờ này phải có thêm chuyến tàu khác nữa chứ...”


      Dan cho tay vào túi. “Em kiểm tra được. Có lẽ em bỏ lịch tàu chạy lại đường ray rồi.”


      “Ý chị là, về lý thuyết - chẳng lẽ chiếc tàu khác chạy qua sao?” Amy . “Nếu phải hướng này, hướng còn lại? Tàu chạy khá là đều mà, phải ? Sao lại yên ắng như vậy?”


      Alistair đứng thẳng lưng lên. “ phải. Hẳn là bọn họ đóng công tắc điện. Có nghĩa là...”


      Tiếng động đều đều giờ len qua các bức tường. Nó phát ra từ hướng Bắc, ở đoạn ray đối diện nơi họ xuất phát.


      “Ai đó?” Dan hỏi. “Cảnh sát chăng?”


      Mặt Alistair đột nhiên trông già nua và hằn lên những nếp nhăn. “ đâu,”Llão trả lời Dan bằng giọng run rẩy. “Là bọn Yakuza


      “Ta làm gì đây?” Dan sợ hãi.


      “Bọn chúng thể tìm ra chúng ta, phải ?” Amy hỏi. “Vậy ta cứ ở đây?”


      Alistair nắm tay Dan và Amy, đẩy cả hai ra cửa. “Bọn chúng băng qua ray, thấy chiếc giày bị đánh rơi, rồi lịch tàu chạy ta bỏ lại, cả những dấu vết để lại hộp tường. Phải ngay thôi.”


      “Hình lập phương!” Amy bật ra và quay trở lại chồng vật. “Nhìn xem! Hình cầu! Hình trụ! Hình hờ... hình gì gì đó! Tất cả đều là hình học, phải Dan? Chúng nằm ngay đây!”


      Dan chộp ngay lấy quả cầu, nhét vào ba lô. “Hãy lấy hết theo!”


      “Nhanh nào!” Alistair ra lệnh, tay cầm khối lập phương , tay kia cầm khối tam giác đều. Amy chụp khối hình trụ và hướng ra phía cửa.


      Chỉ lúc sau, cả ba trở lại đường ray. Alistair đóng cánh cửa dày cộp lại. Chỗ trước đó là bức tường đá liền mạch dơ dáy, nay đường viền lờ mờ của cánh cửa mới mở ra lúc nãy.


      Con tàu suýt nữa tông vào họ giờ dừng lại ở phía xa, các toa đằng sau nó vẫn chưa đến được ga kế tiếp.


      Amy rút chiếc giày khi nãy còn kẹt dưới ray và xỏ vào chân mình. Nó loạng choạng, mắt cá đau nhói. Nhưng cái ý nghĩ phải dừng lại khiến con bé chết điếng người. Nghiến răng, Amy chạy nhanh. Cả bọn lao xuống đường ray, quay trở về hướng lúc đầu họ xuống đây. Nhà ga chẳng mấy chốc ra trong tầm mắt, thế nhưng đường ray giờ rải rác ánh đèn pin, những tia sáng di chuyển xung quanh như những con đom đóm.


      Cả ba đứng lại, tiếng thở dốc của họ vang vọng trong đường hầm.


      “Cảnh sát,” Alistair thầm. “ được để họ phát . Họ bắt chúng ta mất


      Ánh sáng đến gần hơn, giọng càng hơn. Ở đầu còn lại, nghe như là bọn yakuza chuyển hướng - sang phía bên kia đường ray.


      “Còn bọn yakuza nữa?” Dan hỏi Alistair.


      “Chúng khử chúng ta,” Lão đáp.


      “Vậy là ngu ngốc,” Dan và lao thẳng về phía cảnh sát.


      được!” Amy chộp lấy tay nó.


      “Chị đề xuất xem chúng ta phải đâu nào?” Dan tức tối.


      Amy ngước lên . Nấc cuối cùng của cầu thang treo ngay đầu ba người.


      “Ta phải giữ các món đồ,” Alistair ra hiệu. Lão nhanh chóng cởi bỏ chiếc jacket lụa, trải ra và cho những món đồ lên , đoạn cuộn các mép lại. Dan lấy trong ba lô của mình ra sợi dây và làm thành nút thắt để xách .


      Amy trèo lên thang, nhăn mặt chống lại cơn đau. Dan kẹp đầu của sợi dây giữa hàm răng, chộp lấy thang và đu người lên.


      Bên dưới, Alistair trố mắt nhìn ngớ ngẩn vào bóng đêm, tay nắm chiếc thang và tay kia cầm chặt lấy cây gậy. “Nhanh lên!” Dan rít lên qua kẽ răng.


      “Cứ !” Alistair ra lệnh.


      Các bước chân nện huỳnh huỵch lên đường ray. gã đàn ông từ trong bóng tối ra, khuôn mặt đen đúa làm nổi bật hàm răng và cặp mắt lóe lên trong ánh đèn - cho đến khi Dan nhìn thấy ánh sáng lóe lên từ con dao găm lăm le trong bàn tay phải của .


      Giờ chuyển. Khi lão còn ở nấc thứ hai tiếng thét khàn đục cất lên. “KIAAAAAAAAAA!”


      Dan nhìn xuống và trông thấy lưỡi dao của gã yakuza chém vút qua khí - bập vào ngay chân Alistair.








      CHƯƠNG 8




      “AAAAAAAAAAAAH!” Tiếng hét đau đớn cất lên.


      Dan nghe thấy tiếng huỳnh huỵch của những tấm thân té đổ chạm đất ngay dưới chiếc thang.


      Alistair quỳ gối, chìa lưng về phía Amy. “Leo lên nào.”


      Amy trèo lên lưng Alistair. Lão quàng hai tay qua phía dưới đầu gối của nó, nhăn mặt, khập khiễng băng qua đường theo Dan. Bóng họ đổ dài dưới ánh mặt trời buổi hoàng hôn, khiến cả hai trông như con quái vật với hình thù méo mó.


      TIN TIN!!


      chiếc xe thình lình quẹo sang bên, tay tài xế quát ầm lên với họ.


      “Các món đồ...” Alistair qua kẽ răng nghiến chặt. “Hãy tạm bỏ chúng xuống ở ngõ hẻm kia. Chúng ta quay lại lấy chúng sau!”


      Dan nhác thấy khoảng hẹp, tối nằm giữa hai tòa nhà, nó liền ném gói áo jacket cột chặt của Alistair vào đó.


      Cả ba chạy nhanh qua góc đường, thẳng lên ngọn đồi nằm giữa những tòa nhà bằng gạch lúp xúp. Mùi đậu nành và mùi tôm chiên sực nức tỏa ra từ các cửa sổ tầng trệt nghi ngút hơi nước. Alistair phóng thẳng lên đỉnh đồi, lao vào cánh cổng mở phía sau sân chơi thiếu nhi rộng lớn và trống trải. “Chúng ta đâu đây?” Dan la lên.


      “Ta có bạn bè!” Alistair trả lời. “Tất cả những gì ta cần lúc này là kiếm chiếc taxi...”


      Như có phép màu, chiếc taxi từ dưới đường lao thẳng đến chỗ bọn họ. Alistair buông tay khỏi người Amy và cuống cuồng vẫy, hét tràng tiếng Nhật.


      Nhưng khi chiếc taxi trờ đến chỗ lão, nó lại tăng tốc, động cơ lên.


      “Coi chừng!” Dan thét lên.


      Alistair nhảy né sang bên. Amy bay thẳng vào mé sau taxi lúc chiếc xe nhảy chồm lên vỉa hè, chỉ cách họ mươi centimet. Chiếc xe gầm rú tại điểm dừng và bánh xe quay tít.


      Cùng lúc, bốn cánh cửa mở toang ra.


      “Yakuza!” Alistair thét lên thất thanh.


      Giờ ngay Amy cũng chạy hộc tốc. Trong lúc Dan chạy theo chị, nó nghe thấy tiếng huýt lanh lảnh. “AMY, NẰM XUỐNG!”


      đĩa kim loại bằng bạc cạnh lởm chởm bay vèo trong trung. Nó trờ qua đầu Dan lúc thằng bé nhảy đến ôm ngang hông Amy và kéo xuống.


      Amy thét lên trong lúc cả hai loạng choạng đổ xuống mặt đất.


      “Đó là cái gì vậy?” Amy hổn hển hỏi.





      ạn lao nhanh đến bên cái hố. Như tay chơi golf chuyên nghiệp, lão thu chiếc gậy lại rồi giáng thẳng vào những ngón tay. mạnh.


      “AAAAAAAAAAAAH!” Tiếng hét đau đớn cất lên.


      Dan nghe thấy tiếng huỳnh huỵch của những tấm thân té đổ chạm đất ngay dưới chiếc thang.


      Alistair quỳ gối, chìa lưng về phía Amy. “Leo lên nào.”


      Amy trèo lên lưng Alistair. Lão quàng hai tay qua phía dưới đầu gối của nó, nhăn mặt, khập khiễng băng qua đường theo Dan. Bóng họ đổ dài dưới ánh mặt trời buổi hoàng hôn, khiến cả hai trông như con quái vật với hình thù méo mó.


      TIN TIN!!


      chiếc xe thình lình quẹo sang bên, tay tài xế quát ầm lên với họ.


      “Các món đồ...” Alistair qua kẽ răng nghiến chặt. “Hãy tạm bỏ chúng xuống ở ngõ hẻm kia. Chúng ta quay lại lấy chúng sau!”


      Dan nhác thấy khoảng hẹp, tối nằm giữa hai tòa nhà, nó liền ném gói áo jacket cột chặt của Alistair vào đó.


      Cả ba chạy nhanh qua góc đường, thẳng lên ngọn đồi nằm giữa những tòa nhà bằng gạch lúp xúp. Mùi đậu nành và mùi tôm chiên sực nức tỏa ra từ các cửa sổ tầng trệt nghi ngút hơi nước. Alistair phóng thẳng lên đỉnh đồi, lao vào cánh cổng mở phía sau sân chơi thiếu nhi rộng lớn và trống trải. “Chúng ta đâu đây?” Dan la lên.


      “Ta có bạn bè!” Alistair trả lời. “Tất cả những gì ta cần lúc này là kiếm chiếc taxi...”


      Như có phép màu, chiếc taxi từ dưới đường lao thẳng đến chỗ bọn họ. Alistair buông tay khỏi người Amy và cuống cuồng vẫy, hét tràng tiếng Nhật.


      Nhưng khi chiếc taxi trờ đến chỗ lão, nó lại tăng tốc, động cơ lên.


      “Coi chừng!” Dan thét lên.


      Alistair nhảy né sang bên. Amy bay thẳng vào mé sau taxi lúc chiếc xe nhảy chồm lên vỉa hè, chỉ cách họ mươi centimet. Chiếc xe gầm rú tại điểm dừng và bánh xe quay tít.


      Cùng lúc, bốn cánh cửa mở toang ra.


      “Yakuza!” Alistair thét lên thất thanh.


      Giờ ngay Amy cũng chạy hộc tốc. Trong lúc Dan chạy theo chị, nó nghe thấy tiếng huýt lanh lảnh. “AMY, NẰM XUỐNG!”


      đĩa kim loại bằng bạc cạnh lởm chởm bay vèo trong trung. Nó trờ qua đầu Dan lúc thằng bé nhảy đến ôm ngang hông Amy và kéo xuống.


      Amy thét lên trong lúc cả hai loạng choạng đổ xuống mặt đất.


      “Đó là cái gì vậy?” Amy hổn hển hỏi.


      chiếc phi tiêu,” Dan la lên. “ vũ khí ném hình ngôi sao của ninja!”


      đằng này!” Alistair gọi to. Dan thấy bàn tay ông già túm lấy hông nó và đẩy nó bật dậy. Chỉ trong tích tắc, cả ba lao vào đường hầm bằng thép lớn, nằm trong sân chơi thiếu nhi.


      Bặt! Bặt! Bặt! Bặt-bặt-bặt-bặt-bặt!


      Dan run bắn lên mỗi khi tiếng phi tiêu cắm phập vào phía ngoài đường hầm, chỉ cách đầu bọn họ vài ba centimet.


      Cả ba lao ra khỏi đầu kia của đường hầm để vào khu phức hợp các thiết bị leo trèo bằng gỗ dày. Alistair vẫn chạy, đầu cúi thấp, chiếc gậy được kẹp vào nách. Phi tiêu vẫn phóng tới quanh đầu bọn họ rào rào như mưa


      Những mệnh lệnh bằng tiếng Nhật đầy giận dữ oang oang phía sau lưng họ. Cửa xe đóng sầm lại. Bánh xe nghiến ken két. Dan, Amy và Alistair chạy bừa ra khỏi sân chơi, băng qua bãi cỏ, vào khoảnh sân sau nhà, vượt qua hàng rào thấp. “Oáiii!” Amy la lên, chân nó lại kẹt vào chỗ nối của hàng rào.


      “Cố lên!” Alistair bảo nó.


      Dan nhận thấy phi tiêu ngừng bám theo họ. Bọn yakuza sử dụng chúng trong khu dân cư phải?


      Nhưng bọn chúng lại xuất ở đầu kia con phố, nơi có dãy cửa hàng ở cả hai bên đường. Phía bên phải, Dan có thể nghe tiếng động cơ trờ tới. “Rẽ trái!”


      Con đường dốc thẳng xuống khu chợ to và thoáng. Ở trong đó, người bán bày biện, lau dọn các quầy hàng. Dan nhận ra là nó, Amy và Alistair có thể an toàn nếu trà trộn vào nơi này. Nếu đuổi theo, bọn yakuza cũng chuốc lấy rắc rối.


      BRỪMMMMMM!


      Dan dừng lại giữa chừng. chiếc Porsche rẽ vào con đường ngay phía trước họ. Ngáng đường cho cả ba xuống chợ. Bo theo góc đường, chiếc Porsche nhá đèn xi nhan. Dan rúm người lại, chói mắt trong lúc.


      Túm lấy Amy, nó nhảy bật khỏi con đường. “Nhảy - nhảy !”


      Hai đứa lao lên vỉa hè, lăn qua thùng thư bằng sắt ngay lúc những thanh lạ phát ra. Boong! Boong-boong!


      Những phát đạn tiếp tục bay vèo vèo đồi từ chỗ chiếc Porsche xuống nơi chiếc taxi của bọn yakuza ập đến phía họ.


      Xoẻng!


      bên đèn xi nhan của chiếc taxi vỡ toác.


      Boong-boong!


      đầu đạn làm nứt kính chắn gió chiếc taxi. Giờ chiếc xe trượt về bên trái, xoay mòng mòng. Bánh xe chồm lên lề đường - và bề ngang của nó lao thẳng về phía Dan, Amy và Alistair đứng.


      Amy thét lên. Hay có khi chính là Dan thét. Nó biết nữa. Nó chỉ còn biết là mình lao vút trong trung. Đầu nó va vào bức tường bên hông tòa nhà trong lúc khoanh thép màu vàng, to và có răng cưa, bay vèo qua người nó.


      Với cú nghiến kinh hoàng, chiếc taxi đâm thẳng vào cửa sổ dát kính của tiệm bán hoa đóng cửa.


      Nó dừng lại bên cạnh bãi chậu hoa vỡ và những mảnh kính, chỏng chơ bốn bánh lên trời. Hai gã đàn ông lảo đảo rời khỏi đống đổ nát, loạng choạng mất lúc mới hoàn hồn trở lại. Dan, Amy cùng Alistair rúc vào bóng râm, nhưng những gã đàn ông chạy trở lên ngọn đồi, ngoảnh nhìn lại với vẻ kinh hãi.


      “Chuyện gì vừa xảy ra vậy?” Amy lên tiếng.


      “Chúng ta lọt vào giữa cuộc chiến ninja,” Dan hào hứng trả lời chị nó. “Lần đầu tiên trong đời thực của em. Và em ghétttt nó.”


      chuỗi tiếng động inh tai rộ lên từ phía dưới, người từ khu chợ bắt đầu trèo lên ngọn đồi rồi nhập vào đám đông túa ra từ tứ phía trố mắt quan sát việc.


      Dan chầm chậm đứng lên. Chiếc Porsche phần nào bị hòm thư che khuất, nhưng Dan vẫn thấy được bốn bánh xe và cửa sổ dát kính màu của nó. “Nếu như bọn họ đến giúp chúng ta ...”


      “Cẩn thận,” Alistair cảnh giác.


      Thình lình, Dan nghe tiếng cửa mở tung ra. Người nó đông cứng lại.


      “Meo?”


      tiếng kêu xíu vang lên. Tim của nó đập ththịch trong lúc con vật êm như nhung ngoạm vào mắt cá chân nó. Và nó cúi nhìn, con mèo Mau Ai Cập giống hệt Saladin, nhưng lông rậm rạp hơn đôi chút.


      “Ồ...” Amy lên tiếng, với nụ cười bâng khuâng.


      “Trông giống như con vật mà ai-cũng-biết-là-ai đấy quá nhỉ,” Dan .


      Con mèo Mau chạy đến bên Amy, con bé chìa cả hai tay ra ôm nó vào lòng.


      “Giống mèo này ở đây rất phổ biến,” Alistair vẻ lơ đãng, mắt của lão vẫn dính chặt vào chiếc Porsche. “Có ai... còn sống bên trong đó nhỉ?”


      Đáp lại câu hỏi đó, bóng người lảo đảo bước ra từ đằng sau hòm thư. Cổ họng Dan nghẹn lại.


      “Lần sau, hai nhóc nhớ giữ vé cho kỹ nhé,” Nellie Gomez với chúng.








      CHƯƠNG 9


      DAN HÁ HỐC MIỆNG, bỏ mặc chị Amy của nó miệng cũng hết há ra lại ngậm vào nom y chang con cá nóc đốm xấu xí.


      “Meo?” con Saladin lên tiếng.


      “Tu-y-ệệệệ-tttttttt vờiiiiiiii!” Dan chẳng buồn quan tâm xem có ai để ý tiếng hét của nó . Cu cậu đỡ lấy con Saladin và vòng tay ôm chầm lấy Nellie.


      Amy nom như vừa thấy ma. Nhưng với Dan, Nellie vẫn còn sống, vẫn khỏe mạnh. nàng vẫn còn... gai góc và ngầu chán. Tích tắc sau đó, Amy cũng đến bên cạnh Nellie. Dĩ nhiên là trong tình trạng mít ướt. Vì vậy nó khiến Nellie cũng sụt sùi theo. Và thế là xém chút nữa làm hỏng tất cả mọi chuyện. Thậm chí Alistair cũng rơm rớm nước mắt.


      Saladin trèo lên tay Amy, con bé mỉm cười mà lòng vẫn chưa chịu tin đó là làm sao mà chị...?”


      “Tìm ra hai đứa chứ gì?” Nellie cười lớn. “Có đầy các bản tin - tàu điện ngầm đóng cửa hoạt động, tìm thấy người đường ray... Chị chỉ việc, boong! Amy và Dan, lũ ngốc!”


      “Vậy còn chiếc xe ngon lành này ở đâu ra?” Dan hỏi thêm.


      “Còn hai phát súng đó bắn ra từ đâu?” Amy hỏi tiếp.


      “Chiếc giỏ của em nữa?” Dan bồi thêm câu hỏi nữa.


      “Làm sao mà em thoát khỏi bọn Kabra vậy?” Tới lượt Alistair lên tiếng hỏi.


      “Oa, oa, oa,” Nellie cười phá lên. “Tôi cần viện binh thôi!”


      Từ phía sau Nellie, hai bóng người bước ra khỏi xe. “ ả chẳng có thoát khỏi bọn ta đâu,” Ian Kabra lên tiếng.


      “Còn khya nhá,” Natalie bằng giọng mũi nghèn nghẹt.


      Dan thấy máu dồn hết xuống chân mình. Amy giữ tay nó lại.


      “Chúng ta vừa thoát khỏi cuộc tấn công của ninja xong,” Dan nhắc nhở Amy. “Hãy nhớ, bọn chúng chỉ có hai còn ta có bốn.”


      “Meo,” Saladin lên tiếng.


      “Xin lỗi mày, có năm!” Dan thầm .


      “Hắc-xiii!” Natalie hắt hơi. “Mình ghét lũ mèo.”


      “TẤN CÔNG NÀO!” Dan hét lên.


      Ian bình thản nhăn răng cười với cu cậu - và quên giơ ra khẩu súng bóng loáng


      “Dan - cúi xuống!” Amy thét.


      em hỏi về hai phát súng ư?” Ian hỏi nó. “Câu trả lời nằm ở đây. Các người thoát khỏi bọn yakuza là nhờ tài sử dụng món vũ khí này của ta. Và ta quyết phải thuê chiếc xe cực kỳ lanh lẹ, chính xác, chứ phải chiếc Chevy Cobalt mà ả trông trẻ cầu.”


      “Trong trường hợp các ngừi hỉu, đồ ngốc, bọn taaa cứu mạng các ngừi đó nha,” Natalie chen vào. “Hắc xìiii!”


      “Nhưng... vì sao?” Dan hỏi. “Mấy người ghét tụi này mà.”


      “Phảy.” Natalie lấy hơi vẻ mệt nhọc.


      “Thôi Nat? uống thuốc dị ứng của mày , được chứ, để khỏi phun vào người tao trong xe?” Mỉm cười với Dan và Amy, Nellie cầm lấy tay nắm cửa vào ghế tài xế. “Tất cả, vào xe nào.”


      “Nhưng mà...” Amy vẫn lưỡng lự liếc về phía hai đứa nhà Kabra.


      “Chúng ta phải ngay trước khi bọn yakuza quay trở lại,” Nellie với Amy. “Chị giải thích hết. Ồ, và chúng ta nhét hai cái giỏ của tụi em ở đằng sau cốp xe ấy.”


      Phải rồi! Dan nghĩ. Như vậy nghĩa là chúng vẫn còn giữ được mấy thanh gươm. Dan trèo vào hàng ghế da mềm mại phía sau cùng Amy và Ian, trong khi những người còn lại vào ghế phía trước. “Oa, cái này là hàng khủng đây,” Dan lên tiếng. “Chúng ta giữ chiếc xe này được chứ?”


      “Ta vẫn còn để lại... chiếc áo mặc ngoài gần ga tàu điện ngầm,” Alistair thận trọng. “Ta có thể dẫn đến chỗ đó, Nellie ạ.”


      “Thắt dây an toàn vào!” Nellie ra lệnh. khởi động máy, chạy ra khỏi lề đường và lao thẳng qua đèn vàng. Alistair chỉ tay cho Nellie rẽ phải còn bắt đầu : “Okay, cập nhật tình hình chút nha. Khi chị thấy hai chị Poindexter và Morticia[1] máy bay á? Chị sợ phát khiếp lên được. nghĩ, ấy, hai đứa nhóc của tui có chuyện gì rồi? Chị nhủ thầm, xem nào, bọn này , ừm, xực hai đứa tụi em mất rồi. Sau đó hai em nhà nó kể cho chị nghe điều gì xảy ra. Khoác la khoác lác. Hai đứa trẻ chỉ mười và mười bốn tuổi, nhưng chuyện cứ như vừa trốn khỏi trò chơi Truy tìm đầu mối nào đó. ‘Làm giả vé, hô hô!’ ... Dù sao , bọn chúng cũng cố đe dọa chị, blah blah, dĩ nhiên là chị cự lại và hình dung trong đầu, ‘Ha ha, tiếp theo bọn nó bỏ chất độc vào đồ uống của mình cho coi’ - Nhưng mà chị lại nghĩ, ‘, đâu, tất nhiên bọn nó đâu có tởm cỡ đó được.’ Rồi chị phát hóa ra con bé làm , chỉ cách chị có 5 centimet... Ừ, vậy đấy? Thế là chị phát điên lên... Hai đứa biết , chị hành động như thể mình uống ly nước đó, rồi úm ba la, chị phun hết vào mặt bọn chúng. Ừ, rồi chị bảo, ‘Này này, cái này vui thiệt đó’ nhưng bọn chúng thực cuống cà kê rồi đổ vật hết vào nhau khi với tới túi hành lý... Bọn nó kêu, ‘Éc, mặt mình bị schmutz[2] rồiii!’ Còn chị bảo, ‘Mấy nhóc à, trưởng thành hơn chút coi!’ Vậy là chị giật lấy hành lý của chúng và ngồi lên chốc. Thế đấy. ý tưởng tồi.”


      [1] Nhân vật Mosticia Addam - nữ chúa với hình dáng có những nét của ma cà rồng, trong series phim truyền hình The Addam Family. Sidney Pointdexter là con ma kém thông minh trong series phim hoạt hình Danny Phantom. Nellie muốn ám chỉ hai chị em nhà Kabra là ma quỷ.


      [2] Bẩn (tiếng Đức).


      “Chất độc vẫn còn rất đậm đặc,” Ian lên tiếng. “Lượng mà Natalie sử dụng có thể làm tổn thương, thậm chí có thể làm bọn ta bị mù.”


      Amy vội dịch ra xa khỏi nó cách ghê tởm, gần như ép chặt Dan vào thành xe. “Vậy mà hai người suýt nữa cho Nellie uống thứ đó ư?” Amy tức tối.


      “Bọn này chỉ định tạm thời vô hiệu hóa ả thôi,” Ian . “Chỉ giọt thôi. Nhưng Natalie bị trượt tay vì cú xóc . Chưa kịp cảnh báo ả khuyên mũi của các người ả ta ra tay với bọn này trước. May thay, ả cũng cho bọn này lấy thuốc giải trong hành lý.”


      “Cái đó gọi là tử tế,” Amy .


      “Chị bắt bọn chúng phải chấp nhận đưa chị hết số tiền mặt,” Nellie giải thích tiế


      “Cái đó gọi là hành vi mua chuộc đấy,” Natalie càu nhàu.


      Nellie thình lình quành xe sang phải, còn Dan hình dung như nó sắp sửa mang vết hằn của Amy đến suốt đời. Nó liếc nhìn thấy tay Amy tình cờ quệt vào tay Ian. Con bé la lên tiếng và rụt phắt tay lại.


      “Meo!” Con Saladin kêu lên, cong lưng lại rồi phun phì phì vào Ian.


      “Ê, hừm,” Ian kêu lên, tránh xa khỏi con mèo, “Lý do bọn này vẫn có mặt tại đây là vì bọn này đề nghị liên minh tạm thời. Như ả au pair heo giống của các người giải thích, bọn này cũng có cái các người cần.”


      “Hai vé máy bay đó hở?” Dan . “Muộn rồi cưng. Mà thà bọn ta có đồng minh với xô nhớt ốc sên còn hơn với đứa nhà Kabra - nếu chúng ta vẫn còn có thể phân biệt được hai thứ đó.”


      “Tốt thôi,” Ian . “Bọn này dùng món đồ cổ của mình để tự tìm đầu mối...”


      Alistair ngoảnh đầu về phía Ian. “Món đồ cổ ư?”


      tâm hồn mới khoáng đạt, tươi mới làm sao,” Ian nở nụ cười quỷ quyệt. “Như ông quá rành, ông Oh ạ, nhà Lucian vẫn luôn tìm kiếm các manh mối trong nhiều năm nay. Và nhà Ekat cũng vậy. Vì thế ngầm hiểu ông cũng... ơ, nhưng mà mày thuộc về chi nào hả Daniel?”


      “Cahill,” Dan cáu kỉnh đáp. Nó ghét ở chỗ chị em nó là những kẻ duy nhất biết mình thuộc chi nào. “Và ông đúng là điên mới nghĩ tụi này hợp tác với ông.”


      “Dan, bọn họ cứu mạng chúng ta,” Amy .


      “Và bọn chúng cũng cố giết chúng ta đấy thôi!” Dan phản đối. “Trong hang động ở Salzbug này, trong kênh đào ở Venice này...”


      “Đó - giờ mày thấy mọi thứ chuyển biến chưa nào?” Natalie với vẻ tươi tỉnh.


      “Món... của bọn tao thuộc về võ sĩ Nhật,” Ian . “Nó rất cần thiết để tìm ra đầu mối kế tiếp. Trời ạ, cả Natalie và tao có đứa nào hiểu tiếng Nhật đâu. Đó là phần ông, ông Oh ạ, hãy bổ sung vào.” Nó chồm lên ghế phía trước. “Ông cho bọn này cái mà ông biết. Bọn này cho ông cái bọn này có. Chúng ta hợp tác nha.”


      “Chỉ riêng với đầu mối này thôi,” Natalie nhanh nhảu bổ sung. “Sau đó, bọn này thả các người . Chúng ta còn phải nghĩ đến thanh danh của mình nữa chứ.”


      “Dừng lại ở đây,” Alistair với Nellie.


      Kétttttttt! Chiếc Porsche phanh kít dừng lại ở góc đường vắng tanh.


      “Làm sao ta biết là chúng ta có thể tin hai đứa?” Alistair gặng hỏi.


      “Còn chúng t-ôi biết chắc là th-thể,” Amy .


      Ian cười toe toét, thò tay vào túi quần. Nó lôi ra cái túi bằng len có in gia huy nhà Kabra và đặt vào tay trái Amy. “Đây là của em, Amy Cahill ạ. Giờ... làm sao bọn ta biết có thể tin tưởng các người đây?”






      đồng xu.


      đồng xu ngu ngốc bằng vàng có khắc biểu tượng - đó là thứ để bọn Kabra mua niềm tin của người khác. Alistair đọc tiếng Nhật ở mặt sau và cho rằng có thể nó thuộc về Hideyoshi - chỉ là có thể. Dan chấp nhận nổi. Hợp tác với bọn Kabra cũng oải như phải hôn chị mình. À, có khi chưa chắc tệ như vậy.


      “Đồng xu đẹp quá mất,” Amy thầm trong lúc cả bọn rẽ qua góc đường tiến về ngõ hẻm nơi Dan ném bọc đồ vào đó. Alistair ngay phía trước trao đổi với Ian và Natalie về những gì xảy ra trong đường tàu điện ngầm.


      “Nó chỉ là token[3] cho mấy chiếc máy đánh bạc ở Laser Sport Time thôi mà!” Dan xì hơi.


      “Alistair lại nghĩ như vậy,” Amy lẩm bẩm. “Ông ấy là nhà sưu tập tiền.”


      “Là cởi quần áo ngay chỗ đông người đó hả[4]?” Dan hỏi.


      [3] Tiền xu để chơi game.


      [4] Amy “numimatist” (nhà sưu tập tiền cổ) nhưng Dan nghe nhầm thành “nude in public” (khỏa thân nơi công cộng).


      “Là người sưu tập các đồng tiền cổ! Hơn nữa, chị cảm thấy Ian .”


      “Đó là tại chị chạm vào tay và bị mềm lòng đấy.”


      “Suỵt!” Amy , trong lúc Ian liếc về phía hai chị em nó.


      Lúc họ đến con hẻm đối diện chỗ dừng xe điện ngầm bầu trời cuối buổi chiều nhuộm màu tím sẫm. Chiếc áo khoác lụa vẫn nằm yên trong góc trông như cái túi cũ bị vứt . Mặc dù trời gần tối, Dan vẫn có thể đọc được cái nhìn quen thuộc mặt Amy.


      Xin lỗi vì làm chị mắc cỡ trước mặt bạn trai, nó nghĩ trong đầu.


      Alistair quỳ gối nhặt khối hình lập phương lên. “Nhanh tay nào,” Lão .


      Buông tiếng thở dài miễn cưỡng, Dan cố gỡ cái nắp gỉ sét của chiếc ống hình trụ. Cạnh nó, Alistair giơ khối hình lập phương lên với vẻ kinh tởm. “Chẳng có gì trong này ngoài lũ thằn lằn.”


      Khi lão mở tới hình khối khác có chiếc ô tô dài, màu đen dừng lại bên kia đường. gã đàn ông vận đồng phục đen bước khỏi ghế tài xế và chạy vòng ra mở cửa sau.


      Dan bò khỏi bóng tối phía trước để quan sát. người đàn ông châu Á lớn tuổi gầy gò bước ra. Mái tóc bạc trắng của ông ta xõa đến ngang vai. Ông mặc bộ vest sẫm màu sang trọng với chiếc khăn mùi soa bằng lụa ở túi áo. Bước dọc theo vỉa hè, ông mở chiếc di động nắp trượt, quỳ gối ở đoạn đường dẫn xuống tàu điện ngầm và nhìn chằm chằm vào bên trong.


      Dan đập vào vai Amy.


      Nó nghe thấy Alistair bật ra tiếng thở hổn hển và lầm bầm gì đó nghe như từ “bye.”


      “Tạm biệt ư?” Dan thắc mắc, Alistair bất thình lình kéo nó trở lại bóng râm.


      Người đàn ông kia quay vào trong xe, và chiếc xe nhanh chóng khỏi tầm mắt.


      “Là ai vậy?” Dan hỏi. “Vua của bọn yakuza chăng?”


      “Chúng ta...” Giọng của Alistair chừng như nghẹn lại. “Chúng ta phải nhanh lên. Hãy mở hết các món đồ ra. Ngay bây giờ.”


      Buông tiếng càu nhàu, Dan cuối cùng cũng mở ra được nắp chiếc hộp hình trụ, đổ ra mớ nào là ốc vít, bù loong, đinh tán.


      “Thú vị ghê...” Ian đổ các món đồ trong chiếc hộp hình chữ nhật ra. “Ta mấy cái búa.”


      Alistair thở dài thất vọng. “Căn phòng mà chúng ta tìm ra có lẽ từng được dùng làm nơi chứa vật liệu xây dựng tàu điện ngầm, bị phong kín lại lúc người ta xây dựng nhiều năm trước rồi bị bỏ quên.”


      “Nhưng công nhân xây tàu điện ngầm gì mà để lại những bài haiku bí chứ?” Amy thắc mắc, cố gắng xoay nắp của khối tam giác.


      “Có lẽ ra chúng cũng chỉ là những bài hát thôi.” Dan với nụ cười mệt mỏi. “Tại vì, chị biết rồi đó, mấy gã đó làm việc ray suốt cả ngày...”


      “Này, nhìn xem!” Amy di chuyển tới luồng ánh sáng của đèn đường, rút từ trong chiếc hộp hình ống ra cuộn giấy da cổ. Khi tất cả mọi người vây xung quanh, Dan rọi ánh sáng đèn pin vào chỗ chữ viết ở chính giữa. Nó được viết bằng thứ thư pháp tao nhã màu tối sẫm, bao quanh là khung cảnh vẽ dở với tảng đá trồi lên và những ngọn đồi phai màu.


      Alistair bắt đầu dịch: “Ở nơi chinh phạt cuối cùng, nằm giữa ba sừng chính là của cải của nhân dân. Và bằng ba nguyên tố kết hợp lại có được lối vào, thứ tối cao hiển lộ.”


      ràng cứ như wasabi,” Dan nhận xét vẻ châm bi


      “Những ký tự nằm ngay bên dưới,” Amy . “Trông như... tiếng .”


      Dan chộp chiếc đèn pin, lôi ra khỏi ba lô và rọi vào các ký tự thô, nét viết đậm nằm ngay phía dưới cùng của tấm giấy.






      “Toota?” Ian ngạc nhiên. “Có lẽ đó là phiên của từ tiếng Pháp toute chăng?”


      “Giỏi lắm Ian, giỏi lắm,” Dan chế nhạo. “Tiếng Pháp nha, cuộn giấy của Nhật Bản.”


      “‘Cuộc chinh phạt cuối cùng’...” Alistair lẩm nhẩm. “Phải rồi! Chìa khóa đây rồi. Ta biết đầu mối nằm ở đâu!”


      “Ở đâu?” Amy và Dan đồng thanh hỏi.


      Lần đầu tiên trong ngày nụ cười nở ra khuôn mặt Alistair. “Nơi Hideyoshi thực chiến dịch tổng tấn công cuối cùng và gánh chịu thất bại ê chề nhất trong đời mình!”


      “Chính xác,” Ian , giọng ngập ngừng. “Dĩ nhiên rồi. Và... nơi đó là...?”


      “Chúng ta về nhà,” Alistair bảo, mắt lão sáng rực. “Về Hàn Quốc.”






      CHƯƠNG 10


      BAE.


      Cái tên, trước kia từng quan trọng đối với cuộc đời Alistair biết bao, giờ đây nó lại nhận chìm lão trong cơn căm phẫn.


      Ông chú Bae của lão ở đó gần. Ngay phía bên kia đường


      Giờ phải lúc, Alistair tự răn mình. Lão phải chờ. Phải lên kế hoạch.


      Lão xoay ghế ra sau để kiểm tra những vị khách đồng hành trong chuyến bay. em nhà Kabra dán mắt vào tập kịch The O.C cũ rích màn hình gắn ghế cá nhân của máy bay, còn chị em nhà Cahill giải ô chữ tạp chí hàng .


      Lão lặng lẽ mở tờ giấy in ở thư viện. Suốt cuộc đời mình, Alistair dành cả gia tài để thuê thám tử tư tìm kiếm tung tích của người đàn ông tước tất cả khỏi tay lão. Giờ đây tung tích của người đó được phát . ta được coi là chết vì tuổi già sức yếu - con người đáng kính gầy dựng cơ đồ những bản hợp đồng giết người và lưu giữ tất cả trong hầm mộ cá nhân. ràng ta giữ lại mọi thứ.


      Alistair trải rộng tờ giấy ra chiếc bàn ăn máy bay. Các ngón tay run run, lão đọc lại lần nữa thứ mà lão dễ đọc đến hàng trăm lần.






      Alistair buộc mình phải đọc, vật lộn chống chọi với căm giận và kinh tởm.


      Năm ngàn đô.


      Mạng sống của cha lão chỉ đáng giá năm ngàn đô.


      Chi tiết những gì xảy ra ở New York được cài đặt thẳng vào não Alistair. Lão vẫn còn giữ lại những mẩu tin cắt ra úa vàng, cũ kỹ về vụ án mạng: New York, ngày 12 tháng 5, nhà công nghiệp Hàn Quốc Gordon Oh bị sát hại ở góc Đại lộ Madison và đường số 45 khi ngồi trong xe hơi đến nhà hát.


      Tất cả báo chí đều viết như sau: có cuộc đột nhập diễn ra ở Brooks Brothers, chuông báo động, tên cướp hoảng sợ chạy ra đại lộ với khẩu súng và cố điều khiển chiếc xe dừng đèn đỏ - chiếc limo của cha lão. Ông Oh cố vô hiệu hóa tên cướp, dũng kháng cự nhưng bị thiệt mạng. Tên giết người bỏ trốn và ai tìm thấy h


      Cha lão đúng nơi, đúng lúc. tai nạn thiếu may mắn.


      Đó là báo cáo chính thức.


      Khi còn bé, Alistair chưa bao giờ tin vào trò gian lận. Nhưng thi thoảng tai nạn được sắp đặt trước, và sát thủ vẫn được người ta thuê. Lúc nào lão cũng khiếp sợ ông chú Bae Oh, em song sinh với cha mình. Bae lớn lên là người em lười nhác, kẻ trốn việc tham lam, luôn đùn đẩy công việc cho người đứng đầu chi tộc Ekaterina, luôn đứng trong cái bóng của Gordon hăm hở và được mọi người kính . Lúc trưởng thành, Bae chỉ còn biết đến gian lận, bất nhẫn hệt như tên Kabra trong các thương vụ làm ăn của .


      Bae khao khát vinh quang và của cải - và cả 39 manh mối nữa. Bất kỳ ai ngáng đường đều phải ra . Kể cả ruột .


      Chuyện Gordon có người vợ ở cách nửa vòng trái đất với nỗi sầu khổ lớn đến độ bà cần phải được đưa vào bệnh viện cũng chẳng thành vấn đề. Hay đứa trẻ bốn tuổi kể từ giờ phút đó tan nát con tim cũng phải là chuyện gì ghê gớm cả.


      đứa trẻ bị bỏ rơi, khóc lóc và độc, được nuôi nấng bởi gã có con tim chai đá, rồi đứa bé ấy bị xua đuổi và mỉa mai suốt cuộc đời mình.


      Chú của Alistair, Bae Oh - sếp của tên giết người.


      Alistair nhìn lũ trẻ nhà Cahill. Chúng nhao nhao tìm câu trả lời cho ô chữ, cuộc cãi cọ chuyển thành câu chuyện đùa, thằng nhóc lại nặn ra từ vô nghĩa... tràng những từ vô nghĩa, tràng cười ròn rã. Ngay cả bây giờ chúng cũng y hệt như mười năm về trước, khi đứa vừa chào đời và đứa chỉ mới ba tuổi đầu. Đó là khi Alistair hứa với Hope và Arthur. lời hứa gần như thể nào thực được.


      Dĩ nhiên chúng nhớ. Nhưng lão nhớ. Và giờ hai vợ chồng ấy còn, cũng vì cái lý do mà lão mất cha và mẹ. Vì các đầu mối.


      Alistair thở dài. Ít ra chúng còn có nhau.


      Tất cả những gì Alistair có thể hy vọng là trả thù.


      Tay lão run rẩy khi gấp tờ giấy và nhét nó trở lại túi. chuyến bay này, lão biết rằng mình ngủ được.

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 11


      NGƯỜI TA ĐỒN RẰNG ALISTAIR OH BỊ PHÁ SẢN. Chuyện làm ăn của lão thành công. Nhưng khi Amy trông thấy dinh thự của lão, nằm ở ngôi làng khu ngoại ô Seoul, Hàn Quốc, nó bắt đầu nghĩ đến công thức cho bột làm món nhồi thịt ngậy phô mai.


      “Úi chà! Cung điện của ai đây?” Nellie bật kêu khi chiếc limo dừng lại sau chuyến ngắn từ sân bay đến nơi này.


      tòa nhà màu trắng cổ kính đứng sừng sững nổi bật giữa thảm cỏ tươi tốt, thoai thoải trải ra xung quanh. Lối phía trước nhà được trang hoàng bằng những bông cúc màu cam và vàng dẫn vào khu rừng trồng đào và thù du, tán lá xào xạc trong cơn gió . Ngay ở nơi đây, giữa cái khung cảnh này, cũng đủ khiến ta muốn mỉm cười hạnh phúc.


      “Vậy căn nhà chính nằm ở đâu?” Natalie thắc mắc khi tất cả leo ra khỏi xe.


      “Voilà[1]” Alistair ra hiệu cách uể oải về phía tòa dinh thự. Cả ngày dài dường như lão hao tổn sức lực cho con bé Amy, nên giờ đây hơi bị đuối sức.


      [1] “Đằng kia”, tiếng Pháp.


      “Ý ông là đằng sau tòa biệt thự kia ư?” Natalie gặng


      Ian thúc khuỷu tay vào sườn nó cái.


      “Nhà ta ở là trong những tiền đồ hiếm hoi còn sót lại kể từ trước khi ta là tài phiệt burrito,” Alistair bước lên đường chạy xe vào nhà. Hai bên lão là hai đứa nhà Kabra và người tài xế xách hành lý của Dan và Amy. “Cũng như ông Chung đây, tài xế của ta. Và Harold, người quản gia. Bộ ba bọn ta ít ỏi nhưng ấm cúng. Mọi thứ trước đây hoành tráng hơn đôi chút.”


      “À, cái gì dễ có dễ mất thôi - nhưng phải Ian này thực biết cảm giác đó nó ra sao,” Ian bảo. “Căn nhà ra cũng có, ừm, những khung cửa sổ đáng đó.”


      “Cám ơn, chúng được nhập từ Nam Mỹ,” Alistair đáp.


      Dan nghiêng người về phía Amy trong lúc cả hai phía sau mọi người. “Khung cửa sổ?” Nó làu bàu. “Cái thứ con trai mười bốn tuổi gì mà về khung cửa sổ chứ?”


      Amy nhún vai. “Em kiểm tra cái túi chưa? “ Con bé hỏi khẽ.


      “Rồi,” Dan đáp. “Rufus và Remus vẫn còn nguyên ở đó.”


      Amy cởi giày và chân bãi cỏ mềm mại vừa mới cắt. làn gió mát lạnh cù vào mũi và con bé cười phá lên, dang hai cánh tay mình trong khi xoay tròn giữa bãi cỏ cái mắt cá chân còn lành lặn.


      “Ôi tuyệt, mình ở Hàn Quốc còn chị mình biến thành Julie Andrews[2],” Dan .


      [2] Nữ diễn viên kiêm ca sĩ người .


      Ối.


      Amy buông tay ngay lập tức. Mọi người nhìn chăm chăm vào bé. Nó thấy như mình trong lớp ballet. Đần đần, lạc quẻ và xấu xí. Nó nhìn xuống nhành cỏ ba lá, như thể nếu nhìn vào đó chăm chú nó tan biến theo vào bên trong.


      “Thứ mà chị mày làm,” Ian vừa vừa tiến về phía căn nhà, “Được gọi là tự sướng. Có lẽ mày cũng nên học chị mày đó, Daniel. Rất thoải mái.”


      “Thoải mái?” Dan hỏi. “Amy sao?”


      Amy thè lưỡi về phía thằng em. Ian mỉm cười với con bé, điều đó khiến cho dạ dày Amy lộn lạo, nhưng nó cũng gắng cười đáp lại. Chỉ cốt để chọc tức Dan.


      Amy chỉ cách sau Ian vài bước chân trong lúc họ lên tới đỉnh đồi, đến khi bé có thể nhìn thấy phía sau tòa nhà của Alistair. Nó mở rộng thành nơi tắm nắng trông ra hồ bơi và thảm cỏ khổng lồ. Bên thảm cỏ, có dòng suối uốn lượn qua hòn non bộ với cái ao đầy ắp cá vàng. Phía bên kia là hàng cây dường như kéo dài đến vô tận.


      “Món Burrito Tempura hấp dẫn chế biến bằng lò vi sóng tậu cho ta cơ ngơi này,” Alistair , ra hiệu về phía cảnh trí nơi đây. “Chủ yếu là thịt bò.”


      “Tĩnh lặng .” Natalie gật đầu. “ đáng ngạc nhiên ông có thể làm được chừng này thứ với gian ít ỏi.”


      Alistair nhíu mày. “ giống tí gì với gia sản Kabra phải, ta nghe thế.”


      “Tụi này ghét lớn lên ở đó,” Ian đáp. “Năm nào trong hai đứa cũng bị lạc trong những khu đất um tùm, và bọn họ phải mang chó xù đến để tìm tụi này đấy.”


      “Cái gì?” Dan hỏi.


      Natalie thở dài vẻ rầu rĩ. “Có người còn đó là tuổi thơ bất hạnh, nhưng tụi này cũng chẳng biết tuổi thơ nào tử tế hơn.”


      Nellie từ tòa nhà ra. Sau lưng nàng là quản gia mặc đồng phục và sáu chai nước giải khát, ông đặt chúng bàn cạnh sáu chiếc ghế gỗ. “Cám ơn aarold,” Alistair với vị quản gia lúc ông cúi chào và quay trở vào bên trong. “Nếu Toyotomi Hideyoshi thành công đất này giờ đây cũng thuộc về Nhật Bản. Ông có ý định chinh phục toàn bộ Đông Á, và trước đó ông chưa từng thất bại. Có người còn ông có ý định xây dựng cung điện nguy nga nhất của mình tại Hàn Quốc này đây, để sinh ra người thừa kế xứng đáng mà sau này cai quản hết toàn bộ vương quốc của mình. Ông cũng cho xây dựng rất nhiều hầm mộ cực lớn và những nơi náu. Hideyoshi là trong những kẻ sưu tập tai tiếng nhất trong lịch sử...”


      “Mình biết là mình ưa tay này mà!” Dan .


      “Theo truyền thuyết của gia đình, ông là người sưu tập những món đồ có giá trị nhất,” Alistair tiếp. “ trong những đầu mối dẫn đến bí mật của gia đình Cahill, mà nhiều thế kỷ sau này chúng ta vẫn còn tìm kiếm.” Lão thở dài. “ Ekat nào tìm được. ai nghi ngờ nó ở Hàn Quốc. Nhưng tấm giấy da cổ dẫn chúng ta đến đó, nếu chúng ta biết cách để đọc nó.”


      “Ông ới tiếng, con nhào vô ngay,” Dan hăng hái. “Chúng ta bắt đầu thế nào đây?”


      “Rủi thay,” Alistair kèm theo cái ngáp. “Ta còn sức để hoạt động sau chuyến bay mệt mỏi lại chợp được mắt. Mấy đứa vui lòng cho lão già này giấc ngắn trong nửa giờ nhé? Từ đây tới lúc đó, Harold giúp mọi người no bụng. Hãy ở cạnh nhau và chớ có la cà xung quanh đấy.”


      “Dĩ nhiên rồi,” Amy đáp.


      Alistair vẫy tay chào cả bọn rồi bước vào nhà.


      “Đồ ăn, thức uống, tạp chí, TV, TiVo, Internet, thiết bị cầm tay?” Harold hỏi tất cả mọi người.


      “Có trò Warcraft ạ?” Dan nhanh nhẩu hỏi.


      Harold mỉm cười. “Cửa thứ hai bên tay phải.”


      Lúc Dan chạy tót vào trong Natalie gieo mình vào chiếc ghế đệm cùng cuốn tạp chí People tiếng Hàn còn Nellie lại bận rộn với chiếc iPod.


      Ian nhìn ra ngoài sâ đó là gì vậy?” Nó hỏi.


      “C-c-cái gì là cái gì?” Amy thắc mắc.


      Nó chỉ tay đến chỗ hàng rào cây ken đặc có khoảng trống hẹp. “Có phải kia là mê cung cây ? Nào, hãy đến đó xem sao.”


      “Đ-ây đâu.”


      “Sao ?” Ian hỏi con bé. “Chúng ta biết làm gì khác nữa chứ?”


      Ian có nét mặt tức cười, Amy tự nhủ. nụ cười tò mò, như là con bé vừa từ chối chịu món kem mứt hay thèm nhận tiền trúng số vậy. Như thể từ trước đến giờ chưa ai có thể ” với nó.


      “Alistair n-n- là chúng ta được la cà,” Amy giải thích cho Ian, con bé thọc hai tay vào túi.


      Ian nghếch mặt lên đầy khiêu khích. “Vậy mà cứ tưởng em là nhà thám hiểm can đảm.”


      “Ồ, th-thôi ...” Amy , cố chịu đựng châm chích và cả cái gì đó ngưa ngứa râm ran đằng sau cổ mình.


      “Ừm,” Ian nhún vai. “Tùy em vậy.”


      Khi nó bước ra ngoài, Amy lao theo nhưng kịp ngăn mình lại.


      Mình làm gì thế biết? Con bé thầm nghĩ.


      Thằng đó là tên khốn. Khốn hơn cả tên khốn. Nó là định nghĩa mới cho tên khốn đúng hơn. việc gì con bé phải theo nó.


      Ngón tay Amy nắm lấy đồng xu thằng kia đưa cho. Lôi nó ra khỏi túi quần, con bé hất tung đồng xu lên trung. “Ngửa mình t-t-heo, sấp ở lại.”


      Đồng xu rơi xuống đất, mặt sấp ngửa lên .


      Ian thở dài thất vọng. “A, ừm, đây thua rồi...


      Khi mái tóc của thằng kia sáng óng lên trong ánh mặt trời và biến mất đằng sau hàng cây, con bé xoay người uể oải bước vào nhà.


      ***


      “AAAAAAAAAAAAAAAAA!”


      Nghe tiếng thét thất thanh, Alistair chân trần lao ra khỏi phòng. Lão chạy nhanh qua chỗ Amy ngồi uống nước cam trong nhà bếp.


      Con bé theo lão ra ngoài, Harold và Dan bám sát đằng sau.


      Từ xa, Amy nghe thấy tiếng rú khủng khiếp, tiếng loạt soạt phát ra từ các hàng rào. Ian ba chân bốn cẳng lao thẳng ra ngoài, mất toi chiếc giày. “CỨUUUUUUUÚÚÚ VỚIIIIII!”


      Đằng sau nó là con chó khổng lồ, cái dáng ục ịch dường như phần của con chó ngao, phần của con Great Dan[3], và từ hình dáng bên ngoài của nó, có thể còn thấy phần của con gấu đen.


      [3] Giống chó săn to lớn của Đan Mạch.


      “Cái quái...?” Alistair la lên. “DỪNG LẠI! NGỒI XUỐNG!”


      ngồi được! Nó đớp vào mông tôi rồi!” Ian rít lên.


      sao?” Nellie cười nhăn răng.


      Alistair cúi người xuống bãi cỏ, vẫy ngón tay ra hiệu cho con quái thú, lúc này cúi đầu ngoan ngoãn và rên ư ử. “Mày chào đón chủ mày về nhà như vậy sao, đồ chó hư?” Alistair lớn tiếng mắng nó. “Chó hư! Buffy hư!”


      “Buffy ư?” Dan tò mò.


      GRRRRRRRRRRỪ


      “Suỵt, nó rất nhạy cảm với tên của mình,” Alistair trả lời


      “Tôi kiện!” Ian lắp bắp. “Tôi kiện ông VÀ kiện cả con chó. Và cả cái nước Hàn Quốc này. Và... và....”


      “Và kiến trúc sư?” Natalie gợi ý.


      “Và kiến trúc sư!” Ian thét lên.


      “Buffy là con mèo con ,” Alistair , nhìn Ian đầy vẻ nghi ngờ, “trừ phi cậu trẻ làm nó ngạc nhiên.”


      “Gâu! Gâu!” Buffy sủa, nước dãi túa ra hai bên mép.


      “Con chó đáng làm saoooooo!” Nellie .


      “Đây là lụa Ba Tư thêu tay đó!” Ian quay người, để lộ miếng rách quần làm lòi ra chiếc quần lót có dấu đô la hồng nền màu trắng, rồi nhanh chóng quay trở lại. “Ừm, hề gì.”


      “Tuyệt,” Nellie bình luận.


      “Nín ,” Natalie cáu kỉnh , dù cố gắng hết sức để cười phá lên.


      “Tao thấy có cái gì vui ở đây hết!” Ian thét, mắt nó đỏ ngầu vì giận dữ và mắc cỡ. “Và cả ông nữa. Tôi cho ông khánh kiệt, Alistair à. Đây bắt ông quỳ gối xuống...”


      “Chàng trai trẻ,” Alistair bực bội ngắt lời. “Ta còn trẻ trung và khờ khạo đến độ bị hăm dọa bởi đứa nhóc mười bốn tuổi, kẻ đánh thức ta vì những hành động ngốc nghếch của nó. Tại sao ông tướng léng phéng chỗ hàng rào kia khi ta được, hả?”


      “Có ai từng nghe tới chuyện đặt chó canh gác ngay giữa mê cung hàng rào hay chưa?” Ian quạt lại. “Ở đó có gì vậy hả, ông Alistair? Ông giấu gì ở đó?”


      Alistair hắng giọng. Rút trong túi ra chiếc lược, lão chải lại gọn gàng mái tóc như sắp sửa gặp khách hàng bàn chuyện làm ăn. “Ta nghĩ là,” Lão , “Chúng ta làm điều đó ngay bây giờ. Có lẽ ngài cần thay quần áo đấy, ngài Kabra ạ.” Lão gọi. “Harold, hãy bôi thuốc sát trùng vào vết thương của chàng trai trẻ này.


      Ian tái mặt. “Để đây tự làm,” Nó vào trong nhà.


      Nellie buông mình xuống chiếc ghế đệm, khuôn mặt bị che bởi cặp kính râm. “Đánh thức tôi khi nào mọi chuyện xong xuôi nhé.”


      ***


      Khi mọi người bước qua hàng rào, Amy có thể nhìn thấy đau đớn trong mắt Ian. Giờ nó mặc chiếc quần đồng phục của Harold, ràng quá to so với kích thước của nó.


      “Cái này ngứa quá ,” Ian làu bàu.


      “Trong hành lý mang theo của ông có quần dư sao?” Dan . “Đồ làm biếng!”


      Khúc khích cười, Dan chạy vụt lên phía trước. Ian quay sang Amy, cố can đảm nặn ra nụ cười. “Ý đây muốn là, mấy dấu răng làm ngứa. Chứ phải cái quần.”


      Con bé bước theo sau nó. “Ông ấy lẽ... lẽ ra ông ấy nên...” Càng cố, Amy càng thấy tệ hơn. Từ ngữ giống như những quả bóng chuyền nghẹn lại giữa cổ nó.


      “Alistair lẽ ra nên cảnh báo trước, phải ?” Ian . “Cám ơn nhé. Đúng hệt ý của đây.”


      “Ừ,” Amy đáp. quá nhiều chăng? Nó nghĩ. Con bé lại chạm vào chuỗi dây chuyền ngọc, vờ mân mê sợi dây.


      “Nhưng em cảnh báo trước cho đây mà,” Ian nhàng. “Lẽ ra đây nên lắng nghe.”


      “Ờ há...” Amy thình lình cảm thấy như nhiệt độ vừa vút lên những mười độ.


      Ian bật cười. “Ôi trời. Đây đoán rằng chỉ khi đây ngồi nó mới đau thôi.”


      Amy lẽo đẽo theo nó, nhìn theo những dấu giày thể thao của nó đạp xuống nền cỏ, đếm số bước của nó và so với mình. Nó có bước mạnh mẽ


      lúc sau, cả hai đuổi kịp những người khác. Alistair dừng lại trước đoạn hàng rào và dò dẫm tới lui bên trong đó.


      Dan liếc Amy chằm chằm.


      Có chuyện gì đấy? Mặt nó lên tiếng.


      Dan nhìn sang Ian vẻ trách móc. Trước khi nó liếc lại, Amy ngoảnh .


      Đằng nào con bé cũng đọc được ý nghĩ trong đầu nó. bực vì Dan có lý.


      Alistair lúc này phát quang bụi cây, để lộ ra cánh cửa hầm tròn, đúc bằng sắt. Hai đứa nhà Kabra, hai đứa nhà Cahill và con Buffy đều vây quanh trố mắt nhìn, riêng con Buffy nước dãi lòng thòng.


      cửa hầm có con số 5005. Bên dưới là ổ khóa nặng nề và vòng tròn quay số đánh từ 1 đến 30, giống như ổ khóa tổ hợp.


      “Đây, các con của ta,” Alistair hãnh diện “Đây là món thịt heo barbecue.”


      Dan chạm ngón tay vào ổ khóa. “Dầm mưa dãi nắng lâu ngày quá rồi nè.”


      “Ý ta là, doanh thu khi bán burrito thịt heo barbecue giúp ta tậu thứ này,” Alistair giải thích. “Tổ hợp có bốn con số, và tất cả những thông tin các con cần biết đều ở đây. Có ba lần để thử. Ta cho gợi ý - nhưng gợi ý là lần thử.”


      Ian nhăn mặt. Amy có thể thấy đầu óc Ian quay cuồng.


      Con bé hít vào hơi sâu. 5005. Có gì đó bình thường với con số ấy.


      “Con số đối xứng,” Ian , “Đọc xuôi đọc ngược đều như nhau. Và có lẽ nó có ý nghĩa gì đó.”


      “Đó là hai---hai lật ngược,” Natalie xen


      Dan xì hơi. “Giàu có bảo đảm rằng thông minh. Cái này á, nó rành rành ra đấy thôi, ông à.”


      “Sao cơ?” Ian hỏi.


      “Đừng nghĩ gì đó cao siêu - Chú Alistair chúng ta có mọi dữ kiện rồi!” Nó nhập số 5, 0, 0 và 5 rồi kéo khóa.


      Cửa vẫn trơ ra.


      “Đó là lần thử thứ nhất,” Alistair .


      Ian với Dan vẻ châm chọc. “Có lẽ suy nghĩ đến nỗi tệ như vậy đâu.”


      “Em nghĩ chúng ta cần gợi ý,” Natalie .


      “Được thôi,” Alistair . “Là câu đố: Why leave the factory when the workers are in their prime[4]?”


      [4] “Tại sao rời nhà máy khi công nhân siêng năng làm việc?”


      Câu hỏi treo lơ lửng trong trung. Đầu của Amy tập trung cao độ để suy nghĩ.


      “Siêng năng làm việc...” Dan thắc mắc, mặt nó biến thành chiếc mặt nạ tập trung. “Được rồi, siêng năng làm việc ứng với giai đoạn nào của cuộc đời nhỉ? Như là, hai mươi mốt tuổi? Hay trong những con số là hai mươi mốt!”


      Khi nó chạm vào đĩa xoay khóa, Alistair nhắc nhở, “Hãy nhớ, mấy đứa chỉ còn có cơ hội duy nhất. Nếu thất bại, ta thể cho mấy đứa vào trong.”


      Tay Dan đông cứng lại. “Coi nào, mọi người, giúp em với. Hai mươi mốt và


      “À, khi nào công nhân rời khỏi nhà máy nhỉ?” Ian . “Đây e là điều này có thể nằm ngoài kinh nghiệm của người nhà Kabra.”


      “12 giờ trưa để ăn trưa chăng?” Dan . “Và 5 giờ chiều để về nhà. Vậy... hai mươi mốt, mười hai, và năm?”


      !” Amy bật kêu. Con bé chắc chắn, nhưng lời gợi ý rất giống với những câu đố mục Chơi chữ và Đảo chữ tờ New York Timeschủ nhật mà Dan vẫn thường hay chơi. Gợi ý được giấu ngay trong chính các con chữ - chỉ cần biết cách đọc mà thôi. “Chị nghĩ phải đâu. Để chị thử được ?”


      Dan nhăn mặt với Amy. “Amy à, em mới là đứa chuyên giải đố. Em bó tay đấy.”


      Amy lưỡng lự. Có lẽ thằng bé thấy cái gì đó khác. Lúc nào Dan cũng thấy những thứ ai thấy. Nó là thiên tài trong trò giải đố. Nó từng giải mật mã cổ trong đống xương sọ ở những đường hầm tại Paris. Nó cũng là người phát ra bí mật trong tờ nhạc phổ của Mozart.


      Nhưng giờ đây nó bị mất tập trung. Nó nhìn Ian như thể muốn dùng gươm ánh sáng để chẻ thằng kia ra làm đôi.


      tập trung suy nghĩ.


      “Chị... chị khá chắc chị có câu trả lời,” Amy .


      Alistair cười. Lão ra hiệu nó đến bên chỗ xoay khóa. “Xin mời.”


      Amy ngoảnh mặt khỏi cái nhìn tin tưởng của thằng em. “Ừ, hãy nghĩ về cụm từ này - ‘Why leave the factory[5].’ ‘Why’[6] nghe như chữ Y. Nếu chữ Y rời khỏi từ Factory[7], ta còn chữ...”


      “Factor!” Natalie


      “Và công nhân?” Amy tiếp tục, vẫn hướng về phía ổ khóa. “Họ trong thời kỳ...”


      “Số... nguyên tố[8]?” Dan .


      [5] Sao lại rời nhà máy.


      [6] “Why” và “Y” đều phát giống nhau là [wai].


      [7] Nhà máy.


      [8] Prime factor, tiếng .


      “Vậy đó chính là các số nguyên tố mà khi đem nhân với nhau có 5005...” Ian lầm bầm. “Nghe hơi bị khó trúng?”


      “Đây ghét Toán,” Natalie lên tiếng.


      Tay Amy run run khi con bé cẩn thận xoay vòng khóa.


      5, 7, 11, 13.


      Clắccc.


      Con bé xoay ổ khóa và cánh cửa hầm bật mở.


      “Xin chào mừng,” Alistair , “Đến thư phòng của gia tộc Oh.”






      CHƯƠNG 12


      ĐÓ LÀ CĂN PHÒNG XÍU, Ian nghĩ, lại còn xấu xí nữa chứ.


      Nó mỉm cười. trò đùa cũ rích của gia đình Kabra.


      Đứa em nhà Cahill - Dan - quan sát căn phòng ốp gỗ ẩm mốc như thể nó sắp sửa khóc đến nơi. “Cái chốn này mà ông cũng phải dùng tới con quái thú sát nhân ăn thịt người sao?” Nó thốt lên. “Để canh gác thư viện?”


      Amy quan sát xung quanh thư phòng đầy vẻ kinh ngạc. “Nó... đẹp quá!”


      Con bé nhu mì và sâu sắc. lạ lùng. Rất ít khi Ian thấy những phẩm chất đó ở kẻ khác - nhất là trong cuộc truy tìm 39 manh mối này. Dĩ nhiên, nó được dạy phải tránh xa các hành vi này bằng mọi giá và chớ bao giờ giao du với bất kỳ ai sở hữu chúng. Chúng khó chịu - CCLTC, như cha thường . Chỉ Cho Lũ Thua Cuộc. Và nhà Kabra chẳng bao giờ thua cuộc.


      Nhưng con bé lại khiến nó thích thú. Niềm vui sướng của Amy ra khi con bé chạy trảng cỏ bé tẹo của Alistair, ngạc nhiên trước cái hốc sách dớ da dớ dẩn này - sao mà có thể tìm được bấy nhiêu niềm hạnh phúc từ những thứ quá ít ỏi ấy chứ. Điều đó làm nó có cảm giác kỳ lạ mà trước đây nó chưa từng biết đến. cái gì đó giống như khó hiểu, nhưng dễ chịu hơn thế.


      À, ừ. Chắc là do chiếc quần rách thôi, nó tự nhủ. bẽ bàng xoa dịu tâm hồn.


      Ian nhìn những giá sách đầy nghẹt, những bức tường bằng gỗ sồi ngả mốc, chiếc ghế bành bằng da nứt nẻ, những bóng đèn huỳnh quang gớm guốc, cứt chuột đầy các góc nhà, khung cửa sổ sứt sẹo và bức tranh dường như được tậu tại đợt khuyến mãi chỉ dành cho những kẻ mù màu. Đẹp ư?


      “Chỉ toàn là sách,” Dan rên rỉ. “Làm ơn hãy cho em ra khỏi đây mau!”


      Lần này Ian đồng tình với nó.


      “Sách hiếm đấy,” Alistair chỉ về chỗ bốn kệ sách có lắp kính, “Chưa kể đây là trong những bộ sưu tập hay ho nhất thế giới về bí mật của dòng họ Cahill. Niềm đam mê trọn đời của ta, bởi chỉ có rất ít cuốn được sao chép lại. Đây chính là hy vọng lớn nhất của chúng ta để có thể giải mã tấm giấy cổ!”


      Ian định ngồi xuống, nhưng lại nghĩ đến cảm giác ra sao với cái mông của nó. Đứng cũng chẳng dễ dàng gì hơn, vớiquần làm từ vải nhân tạo cứ như giấy nhám cọ vào hai chân nó. Và lời càu nhàu của Dan càng khiến chuyện trở nên khó chịu đến cùng cực.


      Ian phải né tránh thằng em họ. Chí ít con chị cũng còn thú vị. Nó thắc mắc biết lạc quan thái quá của nàng có lây lan hay .


      gì. Vẫn thấy khó chịu...


      “Có lẽ chúng ta nên chia làm hai nhóm,” Ian đề xuất. “ cuộc đua tài. Amy với đây tìm tài liệu ở hai kệ phía , còn Natalie với Dan tìm hai kệ ở dưới.”


      “Hay lắm,” Alistair khen. “Đồng ý chứ Amy?”


      “Ừm...” Amy đưa mắt ra chỗ khác. “Ừm...”


      Tiếc , Ian nghĩ. Quá nhiều nàng có kiểu phản ứng này dành cho nó. Điều đó thực hạn chế trao đổi thân tình.


      “Chưa bao giờ em tham gia vào nhóm ngoài nhà Kabra hết,” Natalie , mỉm cười trước tinh ranh của mình. “Nhưng em nghĩ em thử xem sao.”


      Dan chăm chú quan sát bức tranh đắt tiền nhưng kém may mắn của cặp khá gần gũi với Ian. Tóc người đàn ông trong đó được cuốn lên thành các búi màu xám xơ xác, lông mày rậm rạp và cặp mắt hoang dã. Người phụ nữ có khuôn mặt rắn rỏi, như chú ngựa khỏe mạnh - hàm dài tai lớn. Bên họ là đủ thứ biểu tượng lạ lùng. “Hai vợ chồng may mắn này là ai vậy?” Dan hỏi.


      “À, phải, hai vợ chồng Gideon và Olivia, thủy tổ nhà Cahill, được vẽ vào đầu những năm 1500,” Ian . “Tổ tiên của mày đó.”


      “Nhà Kabra cải tạo giống nòi đấy,” Natalie thêm vào.


      “Sẵn sàng chưa?” Alistair trải mảnh giấy cổ ra bàn, rồi lấy từ kệ xuống quyển sách. “Ta giúp đội trẻ tuổi hơn. Natalie và Dan. Sẵn sàng... bắt đầu!”


      Ian lướt ngón tay dọc theo hàng sách, số có chữ viết tay gáy: Historicus Cahilliensis: Ekaterina, Quyển I và II... Diễn họa kiến trúc Ekaterina... Nhận định về Văn học Cahill thế kỷ 18... số quyển thậm chí trông như sách tuyên truyền, những ghi chú bị xé ra từ tệp tài liệu khổ lớn. Khó lòng tìm thấy thứ gì hữu ích ở đó.


      Amy lôi xuống quyển sách dày cộp có tên Nguồn gốc Cahill: Bản tóm tắt các nghiên cứu đương thời.


      “Chúng ta phải tìm ra đầu mối, phải nghiên cứu lịch sử.” Dan lên giọng với chị nó.


      “Nhưng đến giờ tụi mình mới chỉ biết quá ít về dòng họ Cahill.” Amy cự lại.


      Natalie ngẩng lên khỏi quyển sách nó đọc lướt. “Đây biết vì sao cha mẹ đằng ấy chẳng cả hai thuộc chi nào. em tụi này đều biết về lịch sử trước khi tụi này biết cơ.”


      Ian quan sát thấy mặt Amy xụ xuống. Nó cảm giác trong lòng hơi xốn xang. Niềm thương cảm, nó chợt nhận ra - cảm xúc nó thường dành cho tay giám đốc ngân hàng nhà Kabra vào những ngày thị trường chứng khoán diễn biến tồi tệ. Cái cảm giác này tuy thế lại... sống động hơn đôi chút.


      Nó đá con em mình cái. “Natalie, mày mất cái cảm giác... duyên dáng rồi hả?”


      Con nhóc trừng mắt nhìn thằng trong lúc, cho đến khi hiểu ra câu đùa.


      ***


      “Dòng họ Cahill có gốc gác từ thành phố Dublin những năm 1500 với nhân vật Gideon Cahill xuất chúng và quái dị cùng vợ của ông là bà Olivia,” Amy đọc to.


      Alistair gật đầu khích lệ. cháu phấn khích đến nỗi kìm giữ được từ ngữ trong lòng nữa.


      “Có người Cahill thực khám phá ra cách có thể thay đổi toàn bộ lịch sử của nhân loại,” Amy tiếp tục. “Nhưng bản chất của khám phá này chưa từng được ai biết đến. Vào năm 1507, đám cháy quét qua ngôi nhà Cahill. Tất cả đều thoát được ngoại trừ người. Gideon, cố sức giữ lại công trình ông bỏ ra cả đời để thực , được phát bị thiêu sống ngay tại bàn làm việc của mình.


      “Người dòng họ Cahill và đám cháy là sao nhỉ?” Dan thầm.


      Alistair cảm thấy hơi nhói đau nơi lồng ngực. Lũ trẻ phải trải qua quá nhiều bi kịch - đám cháy cướp cả cha và mẹ chúng, đám cháy thiêu trụi trang viên của Grace. Giờ lão vì sao mình bao giờ muốn có con.


      Ta phải hy sinh cả đời để chăm sóc chúng. Và cái cảm giác ấy có thể nguy hiểm biết bao trong cuộc săn lùng 39 manh mối.


      “‘Theo các nguồn tin thời bấy giờ, khi chết, Gideon nghiên cứu bí mật của thuật giả kim - cho phép người ta biến kim loại thành vàng’,” Amy tiếp tục. “‘Ông tìm thấy loại vật chất gọi là hòn đá thông thái. Vấn đề là, chất này hề tồn tại - cho đến thời điểm đó. Nó được xem là chìa khóa để giải đáp cho sứ mệnh cuối cùng. Hoàn hảo hơn cả vàng, hòn đá, còn được biết đến với cái tên alkahest, đủ quyền năng để biến các chất khác thành vàng’.”


      “Xin cám ơn, Frizzle[1],” Dan bực dọc đọc lướt qua chồng sách tuyên truyền. “Cứ tiếp tục , nhưng lần này nhớ đọc cho mình nghe thôi nha.”


      [1] Nhân vật trong bộ sách khoa học thường thức nổi tiếng dành cho trẻ em mang tên Magic School Bus.


      “Chẳng ai nhận ra gì hết sao?” Amy nhảy bật khỏi chiếc ghế ngồi. “Chúng ta thực điều đó!”


      “Điều gì?” Dan hỏi.


      Amy ôm chầm lấy thằng em và xoay nó tít mù như vẫn thường làm hồi nó mới ba tuổi. “Gideon thực ‘khám phá có thể thay đổi toàn bộ lịch sử nhân loại’! Ông tìm ra bí mật của hòn đá thông thái. Chúng ta khám phá ra bí mật của ba mươi chín đầu mối rồi!”


      “Cái gì?” đến lượt Ian lên tiếng. “ em hiểu được mật mã tờ giấy sao? Đầu mối sao?”


      - thứ còn to tát hơn là đầu mối,” Amy trả


      Natalie buông mình đánh phịch xuống chiếc ghế vẻ giận dữ. “Chúng ta thua rồi sao? Em ghét ở trong nhóm lắm.”


      Alistair nhìn qua vai của Amy, đẩy hai đứa nhà Kabra sang bên, hai đứa cứ nằng nặc muốn choán hết tầm nhìn của lão. Amy giở sang trang có hình các biểu tượng của thuật giả kim:






      Amy rút đồng xu ra khỏi túi. “Hình dạng - hòn đá thông thái - nó nằm ngay đồng xu này!” Con bé la lên.


      “Tuyệt,” Dan trả lời. “Nhưng vậy có gì mà ầm ĩ?”


      “Em thấy hay sao?” Amy hỏi lại. “Trang sách này chính là bí mật cho toàn bộ câu chuyện - là những gì mà ba mươi chín đầu mối bổ sung vào!”


      “Vậy ... khi chúng ta sưu tập đủ hết tất cả...” Dan , nụ cười nhăn răng chầm chậm loang ra khuôn mặt nó.


      “Chúng ta sở hữu được bí của thuật giả kim - của hòn đá thông thái!” Amy đút đồng xu trở lại túi và liếc nhìn quyển sách. “Chúng ta cũng tìm ra làm thế nào để sử dụng đồng xu này. Nhưng nghe tiếp đây...”


      “‘Sau đám cháy năm 1507, Thomas và Kate rời Ireland sang , ăn cắp những thành phần trong công trình của Gideon - mà họ thề tiếp tục hoàn thành. Thomas kết hôn và có gia đình nhưng cũng bắt đầu bỏ bê em lẫn sứ mệnh đề ra. Katherine giận dữ bỏ , cuỗm theo thứ gì đó hết sức quan trọng đối với Thomas, khiến ông phải từ bỏ tất cả để đuổi theo bà. Sau khi đến Paris, Venice và Cairo, Thomas đành bỏ cuộc. Bị văn hóa hoang dã của samurai thu hút, ông sang định cư tại Nhật Bản, sống cuộc đời giản dị. Con trai út của ông, Hiyoshimaru, lớn lên và trở thành Toyotomi Hideyoshi.’”


      “Chuột hói đầu là con của Thomas - chính là người chi Tomas đầu tiên ư?” Dan thắc mắc. “Hứa hẹn làm sao.”


      Alistair liếc nhìn em nhà Kabra với vẻ nghi ngại. Lão có thể đọc được khuôn mặt khô nẻ đầy mỉa mai của chúng - thiếu kiên nhẫn trước thực tế là Dan và Amy đọc về những thứ mà các nhóm khác đều biết trước từ rất lâu. Lão biết chúng cố sức kìm lại để chờ tìm ra biểu đồ học tập của bọn trẻ Cahill. Xét cho cùng Dan và Amy vẫn luôn giỏi giang ở khoản tìm kiếm đầu mối vượt xa các đấu thủ còn lại.


      Và hai đứa tìm thấy cái gì đó ở đây.


      “Chúng ta chuyển qua nút , lấy hai trăm đô, và đến những đoạn mà tụi này vẫn chưa biết sao?” Natalie kèm theo cái ngáp.


      “Nhấc cái mông lên Natalie, và hãy tiếp tục tìm kiếm nào,” Dan bảo. “Chúng ta chỉ còn cách bí mật giả kim có sơ sơ... ba mươi bảy đầu mối thôi!”


      Nó xoay vòng, nhét quyển sách trở lại kệ và với lấy cuốn khác. quyển sách cũ kỹ tả tơi, bấp bênh kệ và rơi xuống sàn.


      Alistair rúm người lại. “Cẩn thận chứ, nhiều quyển ở đây là vô giá đấy!” Lão cảnh báo nó, cúi xuống nhặt quyển sách quý và kiểm tra những chữ viết tay bằng tiếng Nhật ở ngoài bìa. “Quyển sách này năm thế kỷ. Được lãnh chúa quân địch tìm thấy. Là thứ duy nhất được tìm thấy trong lều của Hideyoshi trong cuộc cướp bóc...”


      đó viết gì vậy?” Dan hỏi Alistair.


      Alistair đeo kính vào. “Bìa sách viết, ‘Hideyoshi, chín’ - có lẽ là quyển sách tập vẽ hay sách tô màu từ thời thơ ấu của ông ta.”


      “Khoan , tại sao quyển này lại ghi là ‘Hideyoshi’ chứ?” Amy thắc mắc. “Chẳng phải lúc ông ta được gọi bằng tên khác sao?”


      Mắt Alistair mở to vì kinh ngạc. “Phải rồi - là Hiyoshimaru! Phát giỏi lắm. Nếu đây quyển sách từ thời thơ ấu của ông ta, nó phải có tên đó.”


      Amy nhàng đón lấy quyển sách. Con bé lật qua các trang sách - phong cảnh, cảnh chiến trường, quái vật - mọi người vây xung quanh nó. Alistair nhận thấy chàng Kabra khẽ chạm vào vai Amy. “C-c-cái thứ này... quá dữội với đứa trẻ 9 tuổi...” Hai bàn tay run run, cháu mở đến trang sách có đường kỳ lạ, trông rất đại, vẽ các ngôi sao và những đường ngẫu nhiên. “ đứa trẻ có thể làm vậy mà,” Natalie .


      “’Hideyoshi... chín...” Dan . “Này - đây là trang sách thứ chín!”


      Bất thình lình, lời, Amy đặt tay lên quyển sách và xé trang giấy ra.


      Alistair nghĩ mình sắp trụy tim đến nơi. “Amy!” lão bật kêu. “Đây là đồ cổ đó!”


      Amy nhanh chóng nhoài người lên bàn của lão, đặt tờ giấy vừa bị xé lên mảnh giấy cổ.


      Cả hai chồng khít nhau. Hầu hết các đường kẻ tạo thành bức phong cảnh chi tiết của khu vực núi đá. Nhưng còn các đường còn lại, khít hơn, hơn, dường như tạo thành các ký tự tiếng Hàn.


      Và Alistair hiểu ra được lý do trong hành động điên rồ của con bé. “Ba sừng...” Lão la lên.


      gì vậy?” Dan hỏi.


      “Haha!” Alistair ôm chặt cháu . Con bé quả đứa trẻ phi thường. “Nhờ có Amy, ta biết nó nằm ở đâu. Và chúng ta đến nơi đó đầu tiên ngay sáng ngày mai.”








      CHƯƠNG 13


      CHẲNG HIỂU SAO CHUYẾN XE XÓC NẢY vào buổi sáng sau bữa điểm tâm với món trứng, Dan hề thích nghĩ đến cái tên Pukhansan[1]. Nhưng đó là nơi bọn họ hướng tới ngay từ lúc tinh mơ.


      [1] Pukhansan: ngọn núi nằm ở phía Bắc thủ đô Seoul, về phía Bắc sông Hàn, cao 836 mét.


      Khi họ đến gần thành phố Seoul, ngọn núi ba chỏm ra ngay trước mắt. “Ba chiếc sừng - lẽ ra ta có thể nhận ra từ đầu,” Alistair bảo. “Nó là Samgaksan, núi ba sừng. Rối rắm nằm ở chỗ ngày nay người ta gọi nó bằng cái tên Pukhansan.”


      “Ợ...” Dan nhắm mắt, lại ngồi lút xuống ghế trong chiếc áo gió trùm đầu hiệu Harvard mà Alistair cho nó mượn.


      Amy nhìn ra ngoài cửa sổ. ngày xám xịt và ảm đảm, ngọn núi trông gần như thẳng đứng. Họ chuẩn bị sẵn bữa trưa đóng gói kỹ càng trong ba lô của nó, nhưng ràng mất hơn ngày ròng leo núi.


      “Chúng ta phải trèo lên đó ư?” Nellie hỏi. “Tôi mang giày Vans[2] này.”


      [2] Giày ba ta vải, tiện lợi cho việc leo núi.


      “Núi có mặt nghiêng rất lớn,” Natalie , tay phủi hạt bụi bám đôi giày Prada đế mềm màu hồng nạm ngọc mà nó vừa đưa Harold vệ sinh giúp. “Và chúng ta cũng nên lên đó.”


      “Nó chỉ cao chừng hơn nửa dặm thôi, nhưng ta nghĩ chúng ta leo lên đó,” Alistair chỉ vào tấm bản đồ gồm mẩu giấy da cổ và tờ giấy vừa xé ra từ quyển sách. “Bức tranh có nét ngoằn ngoèo cắt ngang, ta cho đó là bức tường pháo đài lừng danh khi xưa. Nó cắt xuyên qua nhiều thung lũng và những khu vực thấp bên dưới.”


      “Đây là cái gì?” Dan trỏ vào hình dáng nguệch ngoạc vui vui.


      “À, chữ M,” Nellie . “Hay nếu em nhìn ngược lại nó là chữ W. Bên hông, là chữ S nào đó...”


      “Có lẽ đó là cây cọ,” Dan bảo. “Giống như trong phim Đó là thế giới điên, điên, điên, điên khùng. Chị biết ? hả? Mấy gã nọ muốn tìm số tiền được cất giấu, và duy nhất là nó nằm bên dưới chữ W lớn? Và dường như chẳng có ai hiểu được nó nghĩa là gì - nhưng rồi, gần cuối phim, có dãy bốn cây cọ mọc thẳng lên theo hình dáng của ... cái chị biết là cái gì rồi đó! kinh điển!”


      Amy, Alistair, Natalie, Ian và Nellie đều trố mắt nhìn nó.


      có chữ W trong tiếng Hàn,” Alistair trả lời nó. “Lẫn cây cọ ở Hàn Quốc. Có lẽ đó là cây phong...”


      “Meo,” Con Saladin cọ cọ mặt nó vào gối Dan.


      “Tao kể cho mày nghe khúc còn lại của cốt truyện sau nha,” Dan thầm với con mèo Mau.


      Tài xế của Alistair thả họ xuống bãi đậu xe của công viên quốc gia Pukhansan. đám đông du khách tập trung quanh tấm bản đồ đường khổng lồ. Alistair thận trọng đối chiếu nó với tờ giấy bị xé phủ lên mẩu giấy cổ mang theo. Lão dùng ngón tay dò theo cái nét uốn éo sẫm màu, dừng lại ở nhiều điểm đánh dấu màu đen. “Ta giả định đây chính là những ngôi đền cổ. Hãy tạm cho X là kho báu bí mật của chúng ta...”


      “Nó nằm giữa hai ngôi đền,” Natalie . “Nhưng là hai ngôi đền nào chứ?”


      Alistair nhún vai mạnh. “Có quá nhiều ngôi đền. Và giữa chúng lại có quá nhiều gian. Có thể tốn nhiều ngày trời đấy.”


      “Vậy nào!” Dan hào hứng.


      “Ai đó phải ở lại đây với ông Chung và con Saladin,” Nellie xen vào, liếc nhìn ngọn núi với cặp mắt hoài nghi. “Okay, mọi người tôi phải ; tôi ở lại.”


      Những người còn lại khởi hành, xuống đường mòn có dấu chân qua lại nhiều lần. “Hideyoshi chinh phục phần lớn Hàn Quốc,” Alistair kể, “Bao gồm cả Seoul mà vào thời đó gọi là Hanseong. Nhưng binh lính chiến đấu rất ngoan cường, xây dựng nên pháo đài này nhằm đẩy lùi cuộc xâm lăng.”


      “Vậy tại sao chôn kho báu của mình ở đây?” Amy hỏi.


      Alistair lại nhún vai. “Để sử dụng bức tường làm lá chắn, có lẽ thế. Ông ta cho rằng nơi đây vẫn là lãnh thổ của mình.”


      “Tự tin thái quá là lời nguyền,” Ian bình luận.


      “Rồi ông biết điều đó ngay thôi,” Dan .


      Đường càng dốc lên cao càng có ít người hơn. Mỗi lần họ qua ngôi đền, Alistair lại kiểm tra, và lại lắc đầu lần nữa.


      Giờ lưng lão ướt đẫm mồ hôi, và rốt cuộc lão ngồi thở hổn hển mỏm đá. “Giờ ăn trưa ,” Lão tuyên bố, trao tấm giấy phủ cho Amy. “Hãy cho nó vào ba lô của con được ?”


      “Ăn trưa à? Chúng ta chỉ vừa mới bắt đầu thôi mà!” Ian , chạy lướt qua bức tường, chiếc quần thùng thình của Harold phồng lên như bong bóng trong gió.


      Natalie hí hửng ngồi cạnh Alistair. “ biết ông có mang theo món jambon thịt trâu quết phô mai mozzarella kèm cà chua phơi nắng dùng cùng bánh mì foccacia và sốt pesto ?”


      “Ăn bơ đậu phộng và chuối với bánh mì ?” Dan đề nghị.


      Alistair vẫn chăm chú quan sát xung quanh. “Ta e rằng chúng ta bị mất dấu rồi. Bức tường biết đâu bị thay đổi vị trí sau nhiều thế kỷ. Có thể nó còn như thế này nữa.”


      Trong lúc kéo khóa ba lô lại, Amy thấy như có gì đó rớt xuống đỉnh đầu mình - cụm rêu mốc, rơi và văng xuống chân con bé. “Này!”


      Ian cười ngặt nghẽo trong lúc phủi phủi đất dính tay nó.


      Cười ngặt nghẽo. Đó là còn chưa kể tới cái nhìn chằm chằm vào con bé. Mắt của nó như chế giễu, ghim chặt con bé vào chỗ. Như thể sắp sửa có bình luận cay nghiệt nhãn hiệu Kabraước mắt tất cả bàn dân thiên hạ.


      Amy cố gắng để trào nước mắt, vật lộn chống lại mong muốn chạy lùi trở lại hay thu mình vào trong vỏ ốc.


      “Ném lại ,” Dan tức tối. “Mạnh vào!”


      Ian khum tay đưa lên miệng. “Amy, chấp nhận thử thách ? Chạy đua đến hòn đá to kế tiếp nhá? Đây chấp em chạy trước - hay là em quá chậm chạp?”


      “Chị ấy đâu có chậm chạp!” Dan hét đáp trả Ian. “À mà thực ra chậm đó.”


      Amy bật dậy. Bị đứa nhà Kabra chế nhạo là chuyện, nhưng bị chính thằng em tự phụ chế nhạo thể chấp nhận được.


      Con bé đưa mắt nhìn tảng đá lớn. là điên rồ. Gã ta nhử mình, càng làm cho mình thấy xấu hổ thêm mà thôi. Trừ phi...


      A, kia rồi. con đường băng qua những bụi cây. Thẳng thớm hơn.


      Amy bắt đầu chạy.


      “Amy - bỏ ba lô lại đây !” Dan gọi với theo. “Và nhớ lấy tên em đặt cho con trai hai người nhá!”


      Con bé phớt lờ thằng em. Mắt cá hành hạ Amy, nhưng nó để Ian chiến thắng. Thằng này cũng bắt đầu chạy, leo lên đỉnh bức tường rồi nhảy xuống. Ian chạy vòng vèo vào khu vực có rừng cây, cười rú lên và lao về phía con bé. Amy cởi chiếc ba lô ra và vung nó lên, nện thẳng vào cánh tay Ian.


      kẻ đáng ghét.


      “Oái!” Ian la toáng lên. “Chiếc áo bó này hiệu Armani đó nha!”


      Ba lô văng xuống đất, làm rơi ra tấm bản đồ của Alistair - trang giấy bị xé và cuộn giấy da cổ kẹp lại với nhau. “Vô tay quan là của quan!” Ian reo lên, chngay lấy nó và nhảy phốc lên mỏm đá trồi mặt đất.


      “Đồ ăn gian!” Amy giận điên người. Thằng này đừng hòng cướp được món đồ đó. Con bé trèo lên tảng đá, theo sát từng bước của Ian cho đến khi tới đỉnh. Ở đó nó quay về phía Amy, thở hổn hà hổn hển. “Với đứa nhà Cahill, như vậy cũng tệ chút nào,” Thằng này , nhe răng ra cười.


      “Cái-cái... đ-đ-đồooo...” Như thường lệ, từ ngữ lại nghẹn cứng trong cổ con bé, như vẫn luôn như vậy. Thằng này nhìn Amy chằm chằm, mắt láo liên kèm theo tràng cười, càng khiến bé cảm thấy tức tối và giận dữ hơn nữa, đến nỗi Amy thấy mình như sắp nổ tung. “K-k- thể...”


      Nhưng vào giây phút ấy, cái gì đó hết sức kỳ quái diễn ra. Có lẽ đó là do cái ngoảnh đầu, cử động của lông mày Ian, con bé cũng . Nhưng cứ như thể có ai đó thình lình trưng ra bức tranh ở góc độ khác , và bỗng chốc đại dương bão bùng hóa thành lẵng hoa tươi sáng - trò đánh lừa thị giác dường như chỉ muốn khẳng định rằng mọi thứ khác nhau chẳng qua cũng bởi góc nhìn mà thôi. Cặp mắt của Ian có chút gì của chế giễu nữa. Chúng mời gọi con bé, bảo nó hãy cùng cười vui. Cơn giận ngùn ngụt dâng trào của Amy bất thình lình xẹp xuống và tan biến tựa đám mây. “ cũng là... Cahill đó,” Amy lên tiếng.


      “Touché[3].”


      [3] “Chính xác”, tiếng Pháp.


      Mắt Ian dán chặt vào mắt Amy.


      Lần này con bé đáp lại ánh nhìn của . cách vững vàng, nó còn cảm thấy ăn năn hay tấn công hay phải bỏ chạy nữa. Nếu nhìn như thế cả ngày con bé cũng chẳng phiền tí ti nào.


      “Nè Amy? Chuyến leo núi này có dán nhãn PHỤ HUYNH KÈM đó nha, và chúng ta đói rã họng ra đây!” Dan la lên. “Ấy là chưa kể ông Alistair muốn lấy tấm bản đồ lại kì


      Amy cảm thấy đỏ bừng mặt vì xấu hổ. Nó tránh ánh mắt chỗ khác.


      “Đây,” Ian lên tiếng, trao tấm bàn đồ lại cho Amy.


      Trang giấy bị xé của Alistair kẹp vào miếng giấy da cổ bằng chiếc kẹp giấy, bị xê dịch. Amy Lo lắng đặt lại tờ giấy bị xé vào đúng vị trí cũ - mọi thứ chồng lên nhau thẳng hàng, từng dấu hiệu ...


      Mắt con bé đảo nhìn quang cảnh xung quanh rồi trở lại với tấm giấy.


      “Trời đất...” Amy lẩm bẩm trong miệng.


      “Cái gì?” Ian hỏi.


      Amy kiểm tra lại lần nữa. Và lần nữa, chỉ để chắc chắn. Nhưng nó nhầm lẫn được - hình dạng mà trước đó cả bọn nhận ra trong tấm bản đồ. Chính hình dạng mà bọn họ vẫn đoán già đoán non.


      phải cây cọ. Hay là cây thích.


      “Dan!” Amy hét lên, nhảy phắt từ tảng đá xuống cứ như mắt cá của con bé chưa từng bị chấn thương. “Mọi người! Lại đây mau!”


      Con bé chạy ngược xuống, nhưng tất cả cũng chạy lên, gặp nhau ở giữa đường. Amy nắm lấy tay Dan và lôi nó vào con đường mòn hướng lên chỗ đá dốc. “Chị em quá Dan, em là thiên tài,” Amy reo lên.


      Dan nhìn chị nó trừng trừng. “Ian thuốc chị rồi phải ?”


      “Nhìn đây,” Amy khoát tay ra khu vực xung quanh. “Em thấy cái gì nào?”


      “Cây. Đá. Cứt nai.” Dan nhún vai.


      “Mỏm đá. Trông nó giống cái gì?” Amy thúc gi


      “Như hình zig zag nào đó chăng?” Ian lên tiếng.


      Bất thình lình, Dan nhảy dựng lên như thể vừa bị chơi trò kéo quần sịp. “Đó chính là chữ W!” Nó reo to. “Amy, chị tìm ra chữ W!”


      Alistair mỉm cười. “Xuất sắc. X đánh dấu điểm cần tìm tấm bản đồ - và điểm đó là khối đá có hình chữ W.”


      Amy lấy tấm bản đồ và bắt đầu chạy xuống chỗ mỏm đá. Khi đến mép mỏm đá, con bé bắt đầu bứt đám dây leo và bụi cây ở chân tảng đá.


      “Hãy tản ra,” Ian ra lệnh. “Tìm cái hang. lối vào bí mật.”


      Mọi người bắt đầu lục soát, nhổ đám cây bụi và dò xét tảng đá. “Nhìn đây!” Natalie la lên.


      Amy chạy đến bên con bé. Nó lôi khỏi bức tường đá bụi cây rậm rạp, để lộ ra bức khắc người đàn ông. Ông ta có khuôn mặt mảnh, giống con khỉ với đôi mắt sắc lẻm và miệng he hé. “Eo ôi,” Nó kêu lên.


      “Chuột hói đầu,” Alistair hết sức kinh ngạc, đưa những ngón tay lần khắp bức khắc. “Đây là hình ảnh Hideyoshi theo phong cách Nhật Bản thời bấy giờ.”


      “Tuyệt vời,” Ian cọ cọ vào cằm mình vẻ trầm ngâm.


      “Làm sao chúng ta vào được bên trong đây?” Dan thắc mắc, mặt nó vẫn dán chặt vào tấm bản đồ. “Có lẽ mọi người cũng để ý điều này - chữ W to lớn cũ kỹ được làm bằng đá tảng. Chắc quanh đây phải có chỉ dẫn nào đó chứ...”


      Amy cùng tất cả mọi người vây quanh Dan. Nó trỏ tay xuống phía dưới tấm giấy phủ. “Những chữ cái ở dưới cùng. Toota. Chúng có nghĩa là gì nhỉ?”


      ***


      “Cha Hideyoshi là Thomas Cahill... có lẽ ông dạy tiếng cho con mình,” Alistair .


      “Đó là Toyota!” Amy . “Các chữ cái. Chúng giống hệt Toyota bỏ chữ Y.”


      “Tuyệt lắm Amy,” Dan . “Đầu mối thứ ba của chúng ta được chôn ở chiếc xe tải Sienna cỡ .”


      “Đây tin em gợi ý rằng có lẽ mẩu giấy da là hàng giả,” Ian .


      “Cám ơn ông bà Kabra nhá,” Dan mỉa mai, nó vẫn nhìn chăm chú vào mảnh giấy da. “Nhưng nó hoàn toàn là . 100%.”


      nhàng đặt tấm bản đồ xuống đất và lôi từ trong túi ra con dao quân đội Thụy Sĩ. Rồi, bằng động tác lanh lẹ, nó bắt đầu xé rời mảnh giấy thành từng mảnh .


      “Dan!” Alistair la toáng lên.


      Amy thấy tim mình như ngừng đập. “Em làm cái gì vậy hả?”


      Giờ Dan lại lôi ra chiếc kéo cầm tay. Trong loáng, nó cắt ra chính xác từng ký tự . Cẩn thận giữ những mảnh giấy mỏng manh, nó sắp xếp chúng lại với nhau - chữ A lớn nằm trong chữ O; hai chữ T cạnh nhau, ngược lại với chữ A; và cuối cùng chữ O hơn nằm ngay giữa.


      ***


      “Đó là biểu tượng của hòn đá thông thái,” Amy reo lên, hết sức kinh ngạc.


      Dan gật đầu. “Và bằng các nguyên tố kết hợp lại có được lối vào... Em vừa kết hợp chúng lại với nhau đó.”


      nhìn Amy với ánh mắt rạng rỡ. Và con bé biết đích xác những gì nó nghĩ


      Amy thò tay vào túi lấy ra đồng xu mà Ian đưa. đó cũng có chính biểu tượng này - hòn đá thông thái. “Giờ hãy cho con Chuột hói ăn cái gì đó nào,” Con bé .


      Hết sức cẩn trọng, Amy nhét đồng xung vào cái miệng hơi hé mở của Hideyoshi.


      Và thế là mặt đất bắt đầu ùng rùng rung chuyển.








      CHƯƠNG 14


      CRẮCCCCCKKKKK!


      Đầu gối của Ian khuỵu xuống. Mỏm đá làm rung chuyển mặt đất, lớp bụi xam xám nhanh chóng nổi lên bao quanh lấy họ.


      Đưa tay che mắt, nó nhìn thấy Amy đứng cạnh bức tượng. Giờ đây vật này di chuyển về phía con bé. Nó bị sốc, chiếc ba lô còn nằm ngay dưới chân.


      “Lùi lại!” Ian thét lớn.


      Ian kéo Amy ra và đẩy nằm xuống đất, đè lên người con bé. Sỏi đá tuôn như mưa xuống lưng nó, chui cả vào tóc và bắn xuống mặt đất kêu rào rào như tràng pháo tay.


      Ý nghĩ thứ hai trong đầu nó là chiếc áo này bị rách bươm. Và nỗi bàng hoàng ập đến - rằng ý nghĩ đầu tiên của nó lại phải là về chiếc áo. Hay về đồng xu. Hay về chính nó nữa.


      Mà là về con bé.


      Nhưng điều này lại nằm trong kế hoạch. Amy ở đây vì lẽ riêng. này là chiến thuật, bàn đạp. là...


      “Đáng ,” Nó thốt lên.


      Amy ngước nhìn nó vẻ sợ hãi, hàng lông mi của con bé bám đầy bụi. Ian nắm lấy tay con bé co chặt thành nắm đấm. “A-a- cần phải làm như vậy,” Amy thầm.


      “Làm gì?” Ian hỏi.


      “Mỉa mai. những câu như là ‘đáng ’. cứu mạng đây. C-cám ơn.”


      “Bổn phận của thôi,” Nó trả lời. Ian cúi đầu và đặt môi mình chạm vào môi Amy. Chỉ chút thôi.


      khí chầm chậm trở nên quang đãng, và tiếng ồn ngưng lại. Ian ngồi dậy, buông tay Amy ra. Hình khắc lộ hẳn ra ngoài tảng đá chừng vài centimét. Chỗ đó giờ đây được thay thế bằng hang mở hình chữ nhật.


      mùi thối rữa, hăng nồng sực ra từ bên trong.


      Alistair là người đầu tiên đứng lên, cẩn thận phủi bụi chiếc quần leo núi bó sát của mình. “Nơi náu của Hideyoshi...” Lão kinh ngạc thốt lên.


      Dan và Natalie ở sát bên lão, ho sặc sụa và cũng phủi bụi. Dan bật dậy và cố dòm vào trong. “Trời ạ, có ai đó quên giật nước bồn cầu rồi.”


      Alistair tìm thấy ba lô của Amy và lôi trong đó ra hai chiếc đèn Coleman chạy pin gập lại được.


      Ian đỡ Amy đứng dậy. “ em có đồng xu ?” Nó nhàng hỏi. “Có thể lát nữa chúng ta còn dùng đến nó, để đóng lối vào này lại.”


      “T-túi...” Amy vỗ vào túi. “Đây cho vào đó khi thứ này b-ắt đầu mở ra...”


      Alistair trao cho con bé chiếc đèn. “Ta và con dẫn đầu, Amy ạ.”


      Trong lúc con bé bước vào trong hang với đôi chân vẫn còn run lẩy bẩy, Natalie nhìn Ian chằm chằm. Nó nháy mắt với con bé và cả hai bước


      Ồ, con bé hơi đa nghi.


      ***


      Tập trung.


      Tất cả những gì Amy có thể cảm nhận được là đôi môi mình.


      Ánh sáng huỳnh quang xanh nhạt của ngọn đèn nhảy múa những vách đá lởm chởm bên trong cái hang hình vòm, mùi ammoniac của phân thú xộc vào lỗ mũi con bé. Bọn họ ở trong cái hang dường như nửa triệu năm chưa có bóng người đặt chân đến, giày con bé giẫm lên thảm những thứ nhầy nhụa mà chính nó cũng chẳng dám ngó xuống xem là gì. Và tất cả những gì Amy còn cảm thấy là cái cảm giác râm ran của đôi môi.


      Mọi thứ diễn ra cùng lúc. Đồng xu, nơi náu, cái...


      Cái gì? Chính xác điều gì vừa mới xảy ra?


      Ian lặng lẽ bước sau con bé. Amy phải ghét bỏ chứ. Nó ghét. Nhưng nó cũng còn nhớ được tí tẹo lý do vì sao nữa. Bất chấp những gì ở xung quanh, con bé cảm thấy hoạt bát, sống động, và hạnh phúc đến tưởng tượng được.


      “Cám ơn ,” Nó khẽ .


      “Cám ơn vì cái gì?” Ian hỏi.


      đưa cho đây đồng xu lúc ở trong con hẻm tại Tokyo,” Con bé trả lời. “Nếu làm như vậy toàn bộ chuyện này thể xảy ra được.”


      Ian gật đầu đồng tình. “Đó là trong những vật sở hữu được nâng niu nhất của nhà Kabra. Người ta đồn rằng nó đóng vai trò quan trọng đối với đầu mối của Tomas, nhưng cha mẹ lại tin điều đó. buộc phải đánh cắp từ tay họ.” Nó rùng mình. “ chẳng dám gặp mặt cha khi ông phát ra điều này.”


      Amy thọcay vào túi và móc đồng xu ra trao cho Ian.


      “A- thể,” Ian . “ hứa rồi mà.”


      “Chúng ta còn cần đến nó nữa,” Amy .


      “Cám ơn em.” Ian lấy đồng xu và bỏ vào túi. Nhưng mắt của nó lại tập trung hướng lên . “Amy? em có thấy thứ gì di chuyển kia ?”


      Amy rọi đèn lên , vào cái bóng vừa bay qua bay lại, nhảy múa nhanh - và rồi biến thành đám đen với những tiếng rít inh tai.


      “CÚI XUỐNG!” Dan hét to ra lệnh trong lúc đàn dơi bay ào qua đầu họ. Chúng rú to, vỗ cánh phành phạch, đầu cánh đập lách chách như mưa vào tóc Amy trong lúc con bé co rúm người lại. Rồi, cũng giống như đám khói bay qua miệng ống khói, đàn dơi biến qua lối ra hẹp.


      em sao chứ?” Ian hỏi.


      Amy gật đầu. “Đây ghét dơi,” Con bé ngồi dậy, lia chiếc đèn ra xung quanh, rọi vòng ánh sáng vào khuôn mặt Ian.


      Chỉ cốt nhìn thấy khuôn mặt ấy.


      Và đó là lúc Dan lại réo lên.


      ***


      “Amy, rọi cái thứ đó lại đây!”


      Đó là thứ ngon lành nhất mà nó từng trông thấy. Ngon lành hơn cả giải thưởng game Wii trọn đời mà nó suýt nữa giành được trong cuộc thi hồi lớp 6.


      Giờ cả Alistair lẫn Amy đều lao nhanh đến. Hai chiếc đèn rọi ánh sáng lên đống khổng lồ những vật chồng chất lên nhau ngập từ mặt đất tới tận nóc hang. Ở đỉnh, chỗ bọn dơi vừa ở đó, là dãy nhũ đá buông xuống đất. Nhũ đá bao quanh đống vật thể như hàng rào cắm ngược giữ cho nó ở nguyên chỗ.


      Đó chính là những thanh gươm - cả tháp gươm, được sắp xếp cẩn thận, tỉ mỉ xen kẽ nhau. Chuôi gươm chĩa thẳng ra, số rất tinh tế, được nạm ngọc, số khác bị sứt sẹo và cùn. Chúng tựa những bàn tay, vươn ra như thể thách thức ai đó kéo chúng ra. Điều đó có thể khiến cho cả đống gươm khổng lồ sụp xuống như ngôi nhà làm từ những lá bài.


      “Cuộc săn gươm vĩ đại năm 1588,” Alistair lẩm nhẩm. “Đây là nơi người ta giấu chúng.”


      Nhưng Dan nhanh chóng qua đống gươm, rẽ về phía tay trái. Hang động dường như mở rộng ra về phía này, rộng và sâu hơn, với những đống vũ khí như nối tiếp nhau kéo dài bất tận. số trông như bị ném bỏ lại đây - vương miện, nón trụ, giáp trụ, giáo, khiên, yên ngựa, bàn đạp. Những chiến bào gấp lại, những viên ngọc đính áo sáng lấp lánh, những bức tượng đứng phủ đầy bụi, những cuộn giấy cuộn chặt đặt trong những thùng chứa có hình dáng những chiếc hộp. Nhưng có khu vực dường như biệt lập với những chỗ còn lại - điện thờ, bao quanh là tấm gương tam giác kỳ dị treo tường trong chiếc khung được chạm trổ hết sức tinh tế.


      Quanh tấm gương, có những cái rương khổng lồ được chất thành đống gọn gàng. Tất cả được trang trí bằng ngọc và thư pháp, mỗi cái được khóa bằng ổ khóa khổng lồ.


      Dan chộp lấy ổ khóa. Nó vỡ ngay ra trong tay thằng bé, hoen gỉ và giòn rụm. Khi Dan mở nắp rương, mọi người đến bên cạnh nó và nhìn vào trong.


      “Như ở các tỉnh lị bên Mỹ người ta vẫn hay ...” Natalie , mắt nó mở to, “Bungee!”


      “Ta bảo đảm từ đó là ‘bingo[1],’” Alistair sửa lưng nó. “Lạy trời, những thứ này chắc hẳn là chiến lợi phẩm của Hideyoshi - của cải mà quân lính của ông đoạt được khi chinh phục nước Nhật và di chuyển sang Hàn Quốc.”


      [1] Khi được bạc, trúng thưởng xổ số... người ta thường reo lên “bingo”.>

      Dan cho tay vào trong, đào bới rương đầy đồng tiền vàng. Cạnh nó, Amy mở ra chiếc rương khác. “Chén đũa, tách, tô, đĩa đựng thức ăn - tất cả đều bằng vàng khối này!”


      “Các tượng Phật!” Ian thốt lên, nhìn vào chiếc rương thứ ba. “ bộ sưu tập những tượng phật bằng vàng cỡ .”


      “Hideyoshi tôn sùng vàng,” Alistair từ tốn đáp. “Theo truyền thuyết kể lại, ông thậm chí còn uống những giọt vàng hằng đêm để mong có những thuộc tính ma thuật mà người ta gán cho nó...”


      “Chúng ta giàu to rồi,” Ian reo lên. “Lại nữa này.”


      Dan mỉm cười.


      Và bằng ba nguyên tố kết hợp lại có được lối vào, thứ tối cao hiển lộ.


      “Còn hơn cả giàu có,” Nó bật ra tiếng reo vô cùng kinh ngạc. “Chúng ta khám phá ra đầu mối kế tiếp của dòng họ Cahill!”

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :