39 Manh Mối - tập 2: Bí Mật của Mozart - Gordon Korman [Giả Tưởng]

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      39 Manh Mối - tập 2: Bí Mật của Mozart - Gordon Korman [Giả Tưởng]
      [​IMG]
      Bộ Sách: 39 Manh Mối (tập 2)
      Nguyên tác: 39 Clues #2: One False Note
      Tác giả: Gordon Korman
      Thể loại: Best seller, Giả tưởng, Phiêu lưu, Trinh thám, Văn học phương Tây
      Dịch giả: Dương Thu
      Công ty phát hành: Phương Nam
      Nhà xuất bản: NXB Hội Nhà Văn
      Trọng lượng vận chuyển: 400 grams
      Kích thước: 14 x 20 cm
      Số trang: 300
      Ngày xuất bản: 20-07-2011
      Giá bìa: 75.000₫
      Nguồn: tve-4u.org
      Type+Làm ebook: thanhbt



      Giới Thiệu:
      Bộ sách The 39 Clues - 39 Manh mối được xuất bản bởi Nhà xuất bản Scholastics (Mỹ) - NXB tạo nên tượng Harry Potter toàn cầu.
      The 39 Clues - 39 Manh mối được kỳ vọng như là kiện xuất bản lớn tầm thế giới, và Scholastics tập trung marketing mạnh hơn nữa cho bộ sách này khi những ồn ào về Harry Potter thực lắng xuống, là lúc bộ phim cuối cùng từ bộ truyện này được công chiếu.
      Bí mật của Mozart là tập 2 trong bộ truyện The 39 Clues - 39 Manh mối với nội dung chính:
      Amy Cahill - bé mười bốn tuổi và em trai - Dan - thấy bất ngờ khi biết chúng là nhóm dẫn đầu. Cuộc tìm kiếm dẫn dắt hai chị em đến Vienna với chìa khóa tìm ra manh mối tiếp theo là tờ nhạc phổ của Mozart. Bám theo bên gót hai chị em là đám người khát quyền lực - những kẻ luôn thấy khó khăn khi phải nhìn chiến thắng trong tay người khác. Dan và Amy nhận ra được là: bước tiến tới gần chiến thắng của chị em cũng là bước dấn sâu vào cạm bẫy.
      The 39 Clues - 39 Manh mối gồm các tập:​
      - Tập 1: Mê Cung Xương
      - Tập 2: Bí Mật của Mozart
      - Tập 3: Kẻ đánh cắp Thanh Gươm
      - Tập 4: Bước vào Cõi tử
      - Tập 5: Vòng tròn tuyệt mật
      - Tập 6: Trong vùng Nước Ngầm
      - Tập 7: The Viper's Nest
      - Tập 8: The Emperor's Code
      - Tập 9: Storm Warning
      - Tập 10: Into The Gauntlet
      - Tập 11: Vespers Rising

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 1



      CUỘC TUYỆT THỰC BẮT ĐẦU cách Paris hai giờ về phía


      Saladin đỏng đảnh ngửi ngửi hộp thức ăn cho mèo mở sẵn, đoạn hếch mũi lên.


      “Thôi nào, Saladin,” Con bé Amy Cahill, 14 tuổi, vỗ về nó. “Đây là bữa tối của mày đó. Đường đến Vienne còn xa lắm.”


      Con mèo giống Mau Ai Cập khịt mũi đầy kiêu ngạo như để bày tỏ cách diễn đạt lời của mình: đùa chắc.


      “Nó quen ăn cá hồng rồi,” Amy với Nellie Gomez, nàng au pair[1] của hai đứa, với vẻ áy náy.


      [1] Au pair: xem chú thích ở cuốn 1.


      Nellie vẫn chẳng chút mủi lòng. “Em có biết cá tươi đắt cỡ nào vậy? Chúng ta phải tiết kiệm chứ. Đâu biết được bọn mình phải chạy tới chạy lui trong bao lâu nữa để tìm các đầu mối quý hóa của tụi em?”


      Saladin buông ra tiếng meo đầy vẻ bất bình.


      Cậu em 11 tuổi của Amy, Dan Cahill, ngẩng mặt lên khỏi tờ nhạc phổ mà nó xem. “Em cũng đồng ý. thể tin được là tụi mình phải chuyến tàu lề mề nhất châu Âu. Chúng ta phải tiến nhanh chứ! Người ta thi có máy bay riêng, còn tụi mình lại lãng phí thời gian chuyến “Tàu Cóc Thành” này. Chúng ta vẫn phải dừng lại ở từng thị trấn khỉ ho cò gáy của Pháp sao?”


      đâu,” Nellie thành đáp. “Chẳng bao lâu nữa ta dừng lại ở từng thị trấn khỉ ho cò gáy ở Đức, rồi ở Áo. Coi nào, giá rẻ mà, hiểu ? Chị cũng thích giữ trẻ trong cuộc truy tìm này...”


      “Trông nom tụi em trong cuộc thi này,” Dan chỉnh.


      “... Để rốt cuộc phải dừng lại giữa đường vì tụi em chi hết sạch sành sạch tiền vào cá hồng và vé xe lửa hạng sang đâu.” kết luận.


      “Tụi em rất lấy làm cảm kích vì giúp đỡ của chị, Nellie ạ.” Amy . “ có chị, tụi em sao được như ngày hôm nay.”


      Amy vẫn còn bị chóng mặt sau hai tuần ngắn ngủi nhưng lại có quá nhiều biến động.


      phút trước mình còn là đứa trẻ mồ côi, chỉ phút sau, mình thành viên trong gia đình quyền thế nhất thế gian!


      tình huống sao tưởng tượng nổi xảy đến với hai đứa trẻ vốn trước đây bị tống vào tay kẻ giám hộ lạnh lùng và đến lượt bà ta lại tiếp tục tống chúng vào tay loạt những au pair khác. Giờ chúng sáng tỏ : chúng là họ hàng của những Benjamin Franklin, Wolfgang Amadeus Mozart và nhiều nhân vật nữa - những bậc thiên tài, những nhân vật nhìn xa trông rộng và chức sắc lãnh tụ hàng đầu thế giới.


      Chúng ta là ai cả. Nhưng rồi bất chợt chúng ta có cơ may xoay chuyển thế giới...


      Tất cả là nhờ vào cuộc tranh tài mà bà Grace của chúng để lại trong chúc thư. Ít nhiều gì về quyền lực kéo dài nhiều thế kỷ của nhà Cahill cũng mất - điều bí chỉ có thể tìm thấy được bằng cách nối kết 39 manh mối lại với nhau. Những đầu mối này được giấu ở khắp nơi trái đất. Do đó đây là cuộc truy tìm kho báu. Nhưng là cuộc truy tìm ra trò - rong ruổi khắp các đại dương, châu lục, mà giải thưởng gì khác: chính là cai trị cả thế giới.


      Nhưng thuyền to sóng lớn. Những kẻ thù cũng từ thủ đoạn nào để ngăn cản lũ trẻ. có nhiều thiệt hại.


      Có thể còn nhiều nữa...


      Amy quan sát Dan ngồi đối diện mình. Hai tuần trước, chúng ta còn cãi nhau chỉ vì chiếc điều khiển từ xa.


      Con bé dường như thể giải thích với Dan rằng điều này kỳ quặc nhường nào. Thằng em nó hề thấy gì khác thường khi mình thuộc dòng dõi gia đình quyền thế và có tầm ảnh hưởng nhất trong lịch sử. Nó chấp nhận điều đó mà có lấy dù chỉ thắc mắc. Rốt cục , chuyện đó lại được nhiều điều hay ho về nó. Dan cảm thấy có chút bất lợi nào khi trở thành con bạc lớn trong cuộc chơi này. Đứa bé tội nghiệp chỉ mới 11 tuổi, mồ côi cha mẹ và bây giờ thậm chí bà Grace cũng còn.


      Quá phấn khích trước cuộc đua tranh, bọn trẻ hầu như bày tỏ niềm thương tiếc về cái chết của bà ngoại chúng. Như vậy phải. Cả Amy lẫn bà Grace Cahill đều rất gần gũi với nhau. Thế nhưng cũng chính bà Grace là người đẩy chúng vào chuyến phiêu lưu bão táp này. Nhiều lúc Amy cũng biết nên nghĩ thế nào nữa...


      Nó lắc đầu để xua ý nghĩ đó và tập trung trở lại vào đứa em mình. Dan vẫn lần dò tờ nhạc phổ, tìm kiếm các dấu tích giấu bên trong hay kí tự bí mật nào đó.


      “Được ?” Amy hỏi.


      “Zero,” Dan đáp. “Chị có chắc gã Mozart này cũng là người nhà Cahill chứ? Ý em là, Ben Franklin chắc chẳng bao giờ hỉ mũi ra mẩu khăn giấy mà lại gài vào đó thông điệp mã hóa. Còn đây chẳng có gì ngoài bản nhạc chán ngắt.”


      Amy tròn xoe cặp mắt màu xanh lá của mình. “Gã Mozart này á? Bộ em sinh ra thằng ngốc xít hay em phải có tấm bằng chứng nhận là đồ ngốc trong tay mới được? Wolfgang Amadeus Mozart được xem là nhà soạn nhạc cổ điển vĩ đại nhất của nhân loại đó.”


      “Đúng vậy, cổ điển. Chán òm.”


      “Các nốt nhạc ứng với chữ cái từ A đến G.” Nellie trầm ngâm. “Biết đâu ta có thể tìm ra được thông điệp nào đó theo cách này.”


      làm vậy rồi.” Dan đáp. “Thậm chí em còn cố đảo lại trật tự các chữ cái xem liệu các từ có bị đảo hay . Hãy chấp nhận nào - tụi mình suýt nữa bị giết vì đầu mối mà hóa ra chẳng phải là đầu mối tí tẹo nào hết.”


      “Nó là đầu mối.” Amy quả quyết. “Nhất định phải như vậy.”


      Đầu mối. 39 manh mối. Chưa từng có cuộc tranh tài nào diễn ra với nhiều hứa hẹn - lẫn hiểm nguy đến nhường này. Đặt bàn cân với uy quyền vô song, cái chết của hai đứa trẻ mồ côi người Mỹ có khác gì dòng chú thích cỏn con.


      Nhưng chúng ta chết. Chúng ta tìm ra đầu mối đầu tiên - sau khi vượt qua chuyến đầy cạm bẫy xuyên suốt cuộc đời của Benjamin Franklin. Amy hoàn toàn tin tưởng Mozart chính là chìa khóa cho đầu mối thứ hai. Câu trả lời vẫn nằm ở phía cuối những đường ray của thành phố Vienna, nơi Mozart sống và sáng tác những tuyệt tác lưu danh thiên cổ.


      Bọn chúng chỉ có thể hy vọng là các đối thủ đến đó trước.


      ***


      “Con ghét nước Pháp.” Hamilton Holt cằn nhằn, nắm chặt chiếc hamburger bé tí trong bàn tay quá khổ của nó. “Cứ y như là cả đất nước này ăn kiêng vậy.”


      Nhà Holt đứng ở quầy phục vụ bữa trưa của nhà ga xe cách vùng Dijon đất Pháp 30 cây số về phía Đông. Họ hy vọng qua biên giới bằng cách giả làm gia đình Mỹ nghỉ mát. Nhưng trông họ giống hàng công của đội bóng bầu dục hơn - thậm chí ngay cả với hai đứa con sinh đôi dù chúng nhiều tuổi hơn Dan.


      “Tập trung vào giải thưởng nào, Ham.” Eisenhower Holt nhắc nhở con trai. “Khi tìm ra hết 39 manh mối, chúng ta giã từ vĩnh viễn những món ăn cầm hơi này và chén những bữa tiệc buffet thỏa-thê ngay nước Mỹ. Còn bây giờ, ta cần phải đuổi kịp những đứa nhãi nhà Cahill trước .”


      Madison ngoạm phần bữa trưa của nó và nhăn mặt. “Có nhiều mù tạt quá!”


      “Đây là Dijon, đồ ngu,” Reagan, đứa song sinh với nó, độp lại. “Dijon là kinh đô mù tạt của thế giới đấy.”


      Madison Khờ thoi quả đấm vào bụng nó. Cú đánh có thể khiến con tê giác chạy phải khựng lại, thế nhưng Reagan chỉ thè lưỡi ra cách khinh bỉ. Điều đó mới khiến người nhà Holt tổn thương ghê gớm.


      “Yên nào các ,” Mẹ chúng, bà Mary - Todd, hòa giải êm đẹp. “Ta nghĩ là nghe thấy tiếng xe lửa đến.”


      Cả gia đình quan sát động cơ diesel già cỗi lừ lừ ra trong tầm mắt.


      Madison cau mày lại. “Con nghĩ xe lửa ở châu Âu phải nhanh chứ.”


      “Bọn nhà Cahill khó đoán lắm, hệt như cha mẹ của chúng vậy,” Cha nó trả lời. “Chúng chọn đoàn tàu mà ta khó ngờ nhất. Ok, vào đội hình nào.”


      Gia đình này rất quen với khẩu lệnh đầy mùi huấn luyện của Eisenhower. Gã hẳn là bị đá ra khỏi Học viện quân West Point, nhưng điều đó có nghĩa rằng gã là kẻ điều khiển tồi. Và gì thôi thúc nhà Holt nhiều bằng dịp được san bằng với những tay họ hàng trịch thượng của họ. Cuộc tranh tài này chính là cơ hội để chứng minh bọn họ cũng “Cahill” như ai. Chính họ mới là người tìm bằng hết 39 manh mối - thậm chí nếu phải thải béng hết tất cả những kẻ kia cho vào món xà lách trộn để điều đó xảy ra.


      Nhà Holt tản ra, lẩn vào rừng cây ở đằng xa nhà ga.


      Chuyến tàu xình xịch ì ạch dừng lại trong sân ga, vài hành khách bước xuống. Những người soát vé và nhân viên khuân vác mải dỡ hành lý nên để ý thấy gia đình năm người ục ịch trèo lên toa sau. Nhà Holt lên tàu.


      Họ bắt đầu lục tìm các toa từ sau ra trước. Kế họach ban đầu là phải tránh thu hút chú ý, nhưng điều đó dễ dàng gì với kích thước ô dề của gia đình nhà Holt. Vai và gối cứ thi nhau xô lấn. Chân giẫm lên sàn huỳnh huỵch. Các ánh nhìn bực dọc cứ qua qua lại lại, xen cùng với tiếng chửi rủa bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau.


      Ở toa thứ ba, chiếc cùi chỏ đung đưa của Hamilton làm rơi nón của bà lão, làm bà đánh rớt chiếc lồng chim đặt trong lòng mình. Nó đổ cạch xuống sàn tàu, khiến cho con vẹt bên trong hoảng hốt vỗ cánh phành phạch và ré lên inh ỏi. Ở sáu dãy ghế phía bên , việc khiến Saladin ngóc hẳn lên khỏi ghế để nghe ngóng tình hình. Và khi Amy nhìn xem điều gì khiến chú mèo quan tâm ...


      “Nhà Ho... Ho...” Mỗi khi bối rối nó luôn mắc tật lắp.


      “Nhà Holt,” Dan hốt hoảng.


      May thay, bà chủ con vẹt nhoài người xuống để cứu cái lồng, làm cản lối . Dan nhanh chóng nhốt Saladin và cả tờ nhạc phổ vào hộc hành lí phía đầu.


      nào, thưa bà...” Eisenhower lẩm bẩm vẻ thiếu kiên nhẫn. Rồi gã nhác thấy Dan.


      Gã to lớn chồm hẳn qua con vẹt và người chủ của nó. Dan chộp lấy tay Amy rồi chạy thẳng đến phía cuối toa tàu.


      Nellie đá chiếc ba lô ra lối chính giữa để ngáng chân Eisenhower, và gã đổ phịch xuống sàn tàu.


      “Excuser-moi, monsieur[2],” Nellie bằng thứ tiếng Pháp chuẩn mực, vờ cúi xuống giúp gã đứng dậy.


      [2] “Xin ông thứ lỗi”, nguyên tác tiếng Pháp.


      Eisenhower gạt tay ra. còn lựa chọn nào khác, ngồi phệt lên gã, ấn toàn bộ trọng lượng của mình vào giữa xương vai của gã.


      “Mày làm cái quái gì vậy, đồ ngoại quốc khùng điên?”


      “Nó phải người ngoại quốc đâu cha!” Hamilton tìm mọi cách để hất cẳng nàng au pair ra khỏi lưng ông bố và đẩy trở lại ghế. “Đó chính là au pair của bọn nhãi Cahill!”


      “Tôi hét lên đó,” Nellie dọa.


      “Vậy ta ném mi ra ngoài cửa sổ tàu,” Hamilton đáp, đơn giản và trơn tru đến độ chẳng cần mảy may nghi ngờ việc nó có thể ra tay và thực chính xác điều vừa nó


      Eisenhower bò lồm cồm. “Giữ chân nó lại, Ham. Đừng rời mắt khỏi nó dù chỉ giây đấy.”


      Rồi gã vùng dậy, dẫn đầu cuộc vây bắt bầy đàn của nhà Holt, những con thú săn rượt theo con mồi.


      Amy và Dan đến chỗ nối dẫn vào toa nhà hàng. Chúng chạy qua những thực khách ăn, xô đổ những đĩa thức ăn nghi ngút khói. Dan ngoái đầu nhìn lại. Dáng điệu tức tối của Eisenhower Holt choán hết cửa sổ chỗ nối toa.


      Nó huých người bồi bàn và trỏ về phía sau: “Thấy gã đó ? Gã cho thuốc hoóc môn tăng trưởng vào món súp của gã đó!”


      Amy nắm tay Dan, nhìn vào mắt nó bằng đôi mắt đầy sợ hãi và rít lên: “Sao em còn giỡn được chứ? Em biết là bọn họ nguy hiểm đến mức nào mà!”


      Bọn trẻ nhà Cahill lại trườn qua cửa sập và xộc vào toa kế tiếp. “ em nghe ,” Dan bối rối. “Ước gì em có thể vừa vặn trong hộc hành lí như con Saladin. Chẳng lẽ tàu có bảo vệ sao? Chắc chắn ở Pháp người ta phải có luật chống lại năm tên người tiền sử bắt nạt hai đứa trẻ chứ.”


      Amy hốt hoảng. “Bọn mình thể với bảo vệ được! thể mạo hiểm để bất cứ ai hỏi về thân thế của chúng ta và những gì chúng ta làm. Nên nhớ, dịch vụ công ích vẫn còn truy tìm chúng ta ở Boston.” Nó mở cửa chỗ nối với toa tiếp theo và đẩy Dan lên trước mình.


      Đây là toa chở thư. Hàng trăm túi vải chất đống la liệt, cùng với các kiện hàng và giỏ thư đủ mọi hình dáng và kích cỡ.


      “Amy này...” Dan bắt đầu chất những chiếc hộp chặn trước cửa sập.


      Ngay lập tức chị nó hiểu ra vấn đề. Cả hai hợp sức dựng lên chiến lũy từ các giỏ hàng, nhét cái món cùng - là đùi heo sấy khô - chẹt vào dưới tay nắm cửa. Dan thử thử nâng nó lên. Nó hề nhúc nh


      loạt tiếng quát tháo huyên náo cất lên từ toa bên cạnh. Nhà Holt sắp đuổi đến nơi.


      Amy và Dan tìm lối để thoát ra phía trước, trườn qua các túi thư. Amy bước vào khoang nối và lần tìm cánh cửa sập để đến toa kế tiếp.


      Cửa khóa.


      Nó nện thình thịch vào tấm kính bị trầy xước. Phía sau là gian của nhân viên đoàn tàu, trong đó có trường kỷ và giường nằm, chẳng thấy ai. Con bé nện mạnh hơn nữa. ai trả lời.


      Cả hai bị dồn vào đường cùng.


      Phía ngoài toa tàu, bản mặt như đá granite của Eisenhower xuất cửa sổ. Cả đoàn tàu như rung chuyển khi gã huých vai vào cánh cửa.


      “Dẫu sao họ cũng là họ hàng của chúng ta,” Amy lập luận lấy làm chắc chắn lắm. “Họ chẳng bao giờ làm hại chúng ta đâu...”


      “Họ suýt nữa chôn sống chúng ta khi còn ở Paris còn gì!” Dan vặn lại. Từ sàn tàu, nó rút ra cây gậy hockey trong lớp giấy gói màu nâu.


      “Em có ý định nghiêm túc đấy chứ...!”


      Ngay lúc đó, Eisenhower chạy ra xa lấy đà và huých vào cánh cửa. Trong tiếng đổ đinh tai, cánh cửa sập vỡ toác ra và rơi ập xuống người Dan. Thằng bé té mạnh. Cây gậy lăn lạch cạch sàn.


      “Dan!” Giận đến điên người, Amy vớ lấy cây gậy và nện vào đầu Eisenhower. Súc thịt to lớn đó lãnh trọn cú đánh, lảo đảo và ngã phịch xuống bao thư.


      Dan đứng dậy, rất đỗi ngạc nhiên. “Oa! Đo ván luôn!”


      Chiến thắng kéo dài quá lâu. Nhà Holt ập đến toa tàu.


      Madison chộp cổ áo Amy. Reagan kéo Dan bật dậy.


      Hai đứa bị thó gọn.






      Chương 2


      “Ôi cục cưng!” Mary - Todd Holt quỳ xuống bên ông chồng. “Ông có làm sao ?”


      Eisenhower ngồi dậy, đỉnh đầu phồng lên cái bướu to bằng quả trứng. “Tất là nhiên sao hết!” gã ráng trả lời vợ, từ ngữ líu ríu lộn tùng phèo hết cả lên. “Bà nghĩ là cái con côn trùng bé tí kia có thể dừng được tôi à?”


      Reagan vẫn nghi ngờ. “Con biết đâu cha à! Con đó nện cây gậy bóng chày vào đầu cha đó!”


      “Gậy hockey,” Dan chỉnh lại.


      “Đó có thể là những từ cuối cùng mày thốt ra đấy, thằng oắt con...” Nạn nhân đứng thẳng hai chân, rồi lại lảo đảo và suýt đổ ập xuống lần nữa.


      Bà vợ ngay lập tức đỡ lấy gã, nhưng Eisenhower xua bà ra. “Tôi ổn mà. Chỉ là tàu chạy đó thôi. Bà nghĩ tôi chịu được nổi cú sao? Ngày trước ở West Point chúng cũng như vậy, còn giờ hãy nhìn tôi đây!”


      “Mấy người muốn gì?” Amy gặng hỏi.


      “Đó là hãy liệu mà động não ,” Mary - Todd bảo. “Hãy đưa bọn ta đầu mối ở Paris, và bọn bây được yên thân.”


      “Như vậy là tốt hơn cái bọn bây xứng đáng nhận được rồi,” Chồng bà ta chêm vào, tay khẽ khàng xoa đầu.


      “Tụi này có thứ đó,” Amy . “Chính nhà Kabra giữ nó.”


      “Bọn chúng chỉ lấy cái chai,” Madison chỉnh lại. “Đừng lo, sớm muộn gì tụi kia cũng phải trả giá. Nhưng bọn mày lại giữ tờ giấy.”


      “Tờ giấy nào chứ?” Dan bướng bỉnh vặn lại.


      Đáp lại Dan, Eisenhower túm lấy cổ áo thằng bé và nhấc nó lên dễ như nó có thể giơ tay ngoắc người bồi tàu. “Nghe này, đồ bọ xít nhãi nhách. Mày nghĩ tụi mày ngon vì được mụ Grace ưu ái chứ gì. Nhưng với tao, hai đứa tụi bây còn chưa bằng cái thứ người ta phải dọn dẹp đổ ở dưới đáy lồng chim, chưa!”


      Bàn tay to kềnh của gã thắt cổ Dan, kẹp siết lại như chiếc kìm công nghiệp. Dan há miệng cố hớp hơi để hít vào và nhận thấy chẳng được tí ti khí nào. Nó bị siết cổ.


      Mắt nó dõi sang mắt chị nó, nhưng sao tìm ra giúp đỡ, mà chỉ thấy nỗi sợ hãi y hệt với nỗi sợ trong đôi mắt nó. Người ta luôn thấy nhà Holt trông tức cười, với dáng người vạm vỡ như lực sĩ, thứ biệt ngữ chỉ đạo đầy hăng hái và những bộ đồ thể thao phù hợp kém. Thế nhưng đây mới chính là hồi chuông cảnh tỉnh lạnh ngắt. Bọn họ là những kẻ thù đầy nguy hiểm. Khi tình thế trở nên quá căng, họ thậm chí có thể...


      Làm điều gì chứ?


      Amy hề muốn biết đó là gì. “Ngừng lại ngay! Bọn này đưa các người bất kỳ thứ gì các người muốn!”


      Madison hoan hỉ. “Con mà, cứ ép hết ga là tụi nó phun ra thôi.”


      “Coi nào, Madison,” Mẹ nó nhắc nhở. “Amy làm điều khôn ngoan. phải nhà Cahill ai cũng có được điều đó đâu.”


      Amy chạy đến bên cạnh Dan, khi nó bị ném thẳng chút khách khí xuống cái túi đựng thư lổn nhổn. Amy cả người khi thấy sắc hồng hào của cậu chàng về lại má.


      Dan bực tức. “Chị đâu cần phải làm như vậy


      “Bà Grace muốn chúng ta bị giết đâu,” Amy thầm. “Bọn mình tìm cách khác.”


      Nhà Holt bắt đầu diễu binh về phía cuối đoàn tàu.


      “Chẳng hiểu tí mô tê gì,” Eisenhower lầm bầm trong lúc nhân viên khuân vác lướt qua gã.


      Miễn cưỡng, cả đám trở lại ghế ngồi của chúng. Hamilton ngồi cùng với Nellie, cái tảng thịt ô dề của nó ép sát về phía cửa sổ tàu.


      Thế nhưng khó chịu của nàng au pair nhanh chóng bị quên ngay khi vừa nhác thấy Amy và Dan. “Bọn kia có làm tụi em đau ?” nàng hỏi đầy lo âu. “Hai đứa sao chứ?”


      “Tụi em ổn,” Amy trả lời vẻ buồn bã. Quay sang Eisenhower, nó thêm, “Nó nằm ở khoang hành lý phía đầu ấy.”


      Nhà Holt suýt nữa giẫm bừa lên nhau vì háo hức mở tung khoang hành lý ra. Ngaoooo, con Saladin nhảy tọt xuống sàn. Liền sau đó là trận bão giấy bị nghiền nát bươm - tất cả những gì còn sót lại của tờ nhạc phổ do chính Mozart chắp bút.


      “Ôi đầu mối của chúng ta!” Nellie thét lên.


      “Của các người sao?” Tiếng gầm của Eisenhower nghe ra phải của con người. Gã chộp lấy con Saladin, dốc ngược xuống và lắc liên hồi.


      Với tiếng oẹ của loài mèo mà nghe tựa như tiếng nấc, Saladin ợ ra túm lông dính toàn các nốt nhạc theo đúng nghĩa đen. còn cứu vãn được gì nữa. Chỉ toàn là giấy vụn.


      Cơn tam bành của Eisenhower Holt cho thấy cơ bắp của gã phát triển lên tới tận dây thanh quản. Cơn giận khiến cho hành khách phải ùa nhau kéo sang các toa bên cạnh để tránh. lúc sau, nhân viên soát vé mặc đồng phục lao nhanh đến lối chính giữa, xoay xở xuyên qua đám hành khách hoảng h


      “Cái quái gì xảy ra ở đây vậy?” Người đàn ông lên tiếng bằng giọng Pháp đặc sệt. “Vui lòng cho tôi xem vé tàu của ông.”


      “Thứ này mà gọi là tàu à?” Eisenhower gào lên. “Nếu mà ở Mỹ, tao cũng chẳng cho con chuột ở nhà tao cái thứ cà tàng cà dịch này đâu!”


      Nhân viên soát vé đỏ chín mặt. “Rồi ông phải nộp lại hộ chiếu, monsieur à! Ở ga kế tiếp, ông phải chuyện phải quấy với chính quyền!”


      “Tại sao phải chờ chứ?” Eisenhower quẳng con mèo vào tay Amy. “Giữ lấy con chuột của tụi mày này. Nhà Holt - tấn công!”


      Cả năm thành viên nhà Holt chạy đến cánh cửa nối liền các toa tàu và lao thẳng ra khỏi con tàu chuyển động.


      Amy và Dan thò hẳn ra ngoài cửa sổ chứng kiến cảnh những chị em họ của chúng cuộn mình lăn xuống sườn đồi theo đội hình khít.


      “Úi chà chà!” Nellie thốt lên. “ phải ngày nào cũng được thấy cảnh này đâu nha.”


      Amy nước mắt lưng tròng. “Em ghét bọn này! Giờ chúng ta mất đầu mối duy nhất rồi!”


      phải vậy đâu Amy ạ,” Dan điềm tĩnh . “Chỉ là nhạc. Ngay cả khi nó được Mozart viết - hàng khủng.”


      là hàng khủng đấy,” chị than thở. “Chúng ta thể tìm ra bí mật giấu bên trong có nghĩa là nó có bí mật nào. Chí ít chị cũng muốn chơi thử các nốt nhạc cây dương cầm nào đó. Có thể nó cho chúng ta biết điều gì sao.”


      Dan bỗng ra vẻ ngạc nhiên. “Chị muốn mấy nốt nhạc sao? Dễ ợt.” Nó hạ khay bàn gấp trước mặt xuống, lấy ra tờ giấy ăn và bắt đầu vẽ.


      Amy hết sức kinh ngạc quan sát nó vẽ ra 5 dòng k bắt đầu đặt các nốt nhạc vào.


      “Em đâu biết viết nhạc hả!”


      “Có thể là vậy,” Dan đồng ý, đầu vẫn ngẩng lên. “Nhưng em nhìn tờ nhạc phổ ấy suốt từ lúc ở Paris đến giờ. Chính là nó đây. Em bảo đảm với chị.”


      Amy tranh cãi nữa. Em của nó có trí nhớ bằng hình ảnh. nhiều lần người bà quá cố khen ngợi về điều này. Làm sao nó biết ngày nào đó tài năng của thằng em trở nên quan trọng đến thế?


      Vào lúc đoàn tàu lạch đạch trườn qua biên giới vào nước Đức, Dan hoàn thành việc tái tạo tờ nhạc phổ, chính xác đến từng chi tiết.


      Còn Saladin được phép bén mảng đến gần.






      Trong lúc Amy, Dan và Nellie bước khỏi ga Westbahnhof ở Vienna, cả ba hề mảy may biết rằng chúng bị theo dõi.


      Ở băng sau chiếc limousine đen cáu cạnh đậu đối diện cổng chính, Natalie Kabra quan sát qua cặp ống nhòm siêu cự ly, dõi theo từng cử động của cả ba.


      “Em thấy chúng rồi,” Con bé với thằng trai ngồi cạnh lớp đệm da mềm mại bên trong xe. Rồi nó làm bộ dạng khinh bỉ. “Chúng nó lúc nào cũng trông như bọn vô gia cư. Hành lý của chúng nó đâu nào? cái túi len thô và mấy chiếc ba lô. Bộ chúng nó nghèo dữ vậy sao?”


      “Nghèo thể chấp nhận được đối với dòng họ Cahill,” Ian đáp trống , trong khi bận suy ngẫm về nước cờ màn hình chiếc limo hạ xuống. Kể từ khi ở Paris, nó đấu trí với chiếc siêu máy tính của Nga mang tên Vladivostok. “ nước mới ngu ngốc làm sao,” Nó lèm bèm với đối thủ. “ nghĩ máy tính phải thông minh chứ.”


      Natalie thấy khó chịu. “Ian, có thể tập trung hơn được ? Trí thông minhạng có nghĩa là chúng ta vẫn cứ lẹt đẹt ở đây đâu.” nó rất thông minh, thằng này luôn nghĩ chẳng ai thông minh hơn mình cả. Mà đôi khi chính lẽ thông thường mới có giá trị chứ phải là chỉ số IQ. Ian có thừa IQ. Natalie biết việc của mình chính là phải thêm vào chút ít lẽ phải trái cho thằng . Natalie nể phục tài năng của mình - nhưng nó vẫn phải có ai đó canh chừng.


      Hí hửng cười, Ian cho thí con tượng khi tài tình tìm được cách chiếu tướng chỉ trong vòng 7 nước nữa. “Chúng ta có chiếc lọ ở Paris,” Ian nhắc con em. “ đội nào có cửa giành chiến thắng hết. Đặc biệt là những đứa Cahill kiết xác kia. Chúng ta chiến thắng.”


      “Hoặc thất bại, nếu như quá tự tin,” Con em lại nhắc nhở thằng . “Chờ ... tụi nó vào taxi.” Nó vỗ vào kính xe. “Tài xế... hãy đuổi theo chiếc xe đó.”






      Chương 3


      TỚI KHÁCH SẠN, phải hễ cứ to hơn là tốt hơn - nhưng căn phòng họ thuê tại Franz Josef cũng khác cái nhà kho là mấy. Mặt khác, giá thuê có thể chấp nhận được và Nellie tuyên bố rằng ở đây sạch .


      “Em vẫn muốn chúng ta lẽ ra nên ở tại khách sạn Wiener,” Dan càu nhàu.


      “Đọc là Vee-ner,” Nellie sửa lại. “Từ đó có nghĩa là người sinh sống ở Vienna - như chữ Bostonian để chỉ người sống ở Boston.”


      “Nghe vẫn vui tai chứ bộ,” Dan cố chống chế. “Em quay lại đó để xin chiếc bảng hiệu của họ cho bộ sưu tập của em.”


      “Chúng ta có thời gian cho việc đó đâu,” Amy quát lên, đặt con Saladin xuống đất. Ngay lập tức con mèo khám phá căn phòng, như thể nó có cơ may tìm ra cá hồng tươi khoái khẩu ở đâu đó. “Chúng ta đến Vienna trót lọt, nhưng vẫn chưa biết phải làm gì tiếp theo.”


      Dan mở khóa kéo của chiếc túi len thô của Nellie và lấy chiếc laptop ra. “Chị có thể nhìn vào những nốt nhạc cho tới khi mắt lồi hết cả,” cậu trong khi cắm cục adapter 220V vào và bật. “Nếu ở đâu cũng có câu trả lời, mạng cũng có.”


      Amy bực tức. “Em nghĩ em Google ra bằng hết giải pháp cho các vấn đề thế giới ngày nay sao.”


      , nhưng em có thể Google về Mozart.” Mắt nó mở tròn. “Chao ôi - tới 36 triệu hit! Nhìn đây này - Mozart, Wiener nổi tiếng nhất mọi thời đại. Em cá là người dân ở Oscar Mayer[1] cãi cọ về vụ này cho coi.”


      [1] Oscar Mayer: được đặt tên theo di dân gốc Đức, người đồng sáng lập thương hiệu thực phẩm xúc xích nổi tiếng và lâu đời nhất nhì nước Mỹ. Hãng có loạt xe chuyên dụng để quảng bá sản phẩm mang tên Wienermobile xuất từ năm 1936.


      “Chị rất chắc chắn công việc của chị là bảo ban hai đứa trưởng thành.” Nellie cách lơ đãng, mắt nhìn ra cửa sổ. “Mấy đứa biết đó, Vienna là thành phố rất đẹp. Hãy quan sát xem kiến trúc của nó kìa - chị cá rằng nhiều tòa nhà ngoài kia có tuổi đời từ tận thế kỷ 13!”


      Amy trỏ tay. “Em nghĩ đằng kia là tòa tháp của Giáo đường Thánh Stephan. Nó phải cao cỡ cao ốc văn phòng ở Mỹ ấy chứ!”


      Khắp nơi, các miệng máng xối, các mặt tiền bằng đá điêu khắc tinh xảo, các họa tiết hình lá bằng vàng ánh lên trong ánh nắng mặt trời. Xa xa phía các mái nhà gần nhất, Ringstrasse, đại lộ rộng thênh, chuyển đưa từng dòng khách bộ hành và xe cộ qua lại.


      Dan chẳng hề chú tâm đến cảnh trí, nó hoàn toàn tập trung vào việc lướt web. “Dòm xem này, Amy. Em hoài công chép lại cái thứ nhạc ngốc nghếch đó. Toàn bộ đều có Internet. Tác phẩm đó tên là gì nhỉ, nhắc lại em với?”


      Amy lao ngay đến bên cạnh Dan và nhìn qua vai nó. “KV 617 - trong những tác phẩm cuối đời của Mozart... đây rồi!”


      Dan nhìn qua tờ phổ, đôi lông mày nhíu lại. “Đúng là nó rồi - gần như vậy. Tất cả đều hệt như nhau cho đến chỗ này...” Nó trỏ. “Thế rồi...”


      Amy lấy miếng giấy ăn tàu rồi cầm nó đặt cạnh màn hình máy tính. “Khác nhau sao?”


      hoàn toàn,” Dan đăm chiêu “Chị thấy ? Ở đây nó lặp lại từ đầu. Nhưng có ba dòng mà bản Internet lại có. Lạ , đúng ? Cứ như là trang web thiếu sót gì đó.”


      “Hay là,” Amy hồi hộp, cặp mắt chớp liên hồi. “Mozart thêm ba dòng này vào bản nhạc ông gửi cho Ben Franklin ở Paris! Dan - chúng ta tìm thông điệp bí mật giữa hai danh nhân nổi tiếng nhất trong lịch sử! Những dòng viết thêm này chính là đầu mối đó!”


      Dan hề dao động. “Khác nhau cái gì chứ? Chúng ta còn biết phải hiểu nó ra sao kia mà.”


      Amy thở dài bực bội. Em nó còn chưa chín chắn và phiền phức. Nhưng mà có lẽ đặc điểm khó chịu nhất chính là điều thể chối cãi: nó thường hay đúng.


      ***


      Mozarthaus, số 5 đường Domgasse, là bảo tàng kiêm thư viện dành cho nhà soạn nhạc lừng danh. Tọa lạc ngay tại căn nhà duy nhất của Mozart còn được bảo quản đến tận ngày nay, đây là địa điểm thu hút khách tham quan. Chỉ mới 9 giờ sáng mà du khách xếp hàng cả nửa con phố chờ đến lượt mình vào tham quan.


      Dan bực dọc . “Đây là nhà Mozart mà, đâu có phải công viên Disneyland! Người ta làm cái gì ở đây vậy chứ?”


      chị trợn mắt nhìn thằng em. “Đây chính là nơi Mozart từng sống. Có khi còn có cả chiếc giường trước kia ông ngủ. Chiếc ghế ông ngồi. Chiếc bình mực ông dùng để viết nên những tác phẩm hay nhất thế gian này.”


      Dan sụ mặt. “Còn em phải đứng xếp hàng chỉ để thấy căn nhà có toàn đồ cổ sao?”


      “Phải, Dan à,” Amy khẳng định. “Cho tới khi chúng ta hiểu được ý nghĩa của đầu mối kia, của chúng ta là phải tìm hiểu về Mozart càng nhiều càng tốt. Ai biết được khi nào chúng ta tìm thấy thứ gì đó cho biết chúng ta tìm kiếm cái gì chứ?”


      chiếc ghế sao?” Dan hỏi đầy vẻ nghi ngờ.


      “Có thể chứ. Nghe này - chúng ta biết nhà Holt theo dấu mình và chị cá là đám còn lại cũng cách nhà đó quá xa đâu. Họ lớn tuổi hơn chúng ta, thông minh hơn chúng ta, giàu có hơn chúng ta. được bỏ phí giây nào cả.”


      Phải 40 phút sau cả hai mới vào được bên trong căn nhà. Dan thích thú gì với màn chờ đợi, nhưng giờ sẵn sàng thừa nhận đây mới chính là phần thú vị nhất của chuyến .


      Vai kề vai với những vị khách tham quan khó ưa và những kẻ mê nhạc phù phiếm, cả hai rảo quanh gian phòng của nhà soạn nhạc vĩ đại, lần theo dải dây thừng màu tím. du khách người Úc bỗng nhiên xúc động quá đỗi trước những đồ vật của nhà soạn nhạc đại tài nên bật khóc .


      “Nào bạn hiền, đừng khóc chứ. chóng qua thôi mà,” Dan làu bàu khe khẽ. Giá mà nó có thể khiến cho chính mình tin vào điều này.


      Người ta nhắc bọn trẻ nhà Cahill được phép đụng vào bất kỳ vật gì bằng ít nhất 6 ngôn ngữ khác nhau. Mỗi nhân viên bảo vệ trong tòa nhà chỉ cần nhìn vào Dan và ngay lập tức họ biết nó có thể khuấy tung mọi thứ ở đây lên rồi.


      Cứ mỗi chu và choa thốt lên từ đám đông mộ điệu Mozart, vai của Dan lại chùng xuống ít. Amy cũng khổ sở kém, nhưng là vì nguyên nhân khác. Khi ta biết tìm cái gì khiến cho cuộc tìm kiếm chẳng khác gì hơn vô vọng. Nó dò xét từng khoảng trống bức tường màu trắng tìm xem có các dấu hiệu mã hóa hay , cho đến khi đầu nó ong lên và đôi mắt hăm he muốn nhảy ra khỏi hốc mắt. Nhưng ràng là căn phòng này vẫn được giữ nguyên như trước kia - gian phòng hơn hai trăm năm tuổi được biến thành viện bảo tàng.


      Chúng ta trông đợi tìm thấy gì? Amy ủ rũ tự nhủ. bảng hiệu đèn neon ghi rằng - Nhà Cahill hãy lưu ý: Đầu mối đằng sau chiếc gương sao? đời có cái gì dễ dàng đến thế


      Khi cả hai quay trở về lối ra, Dan bật tiếng thở dài sảng khoái. “Ơn Chúa, thế là xong. Chí ít Ben Franklin còn có vài phát minh hay ho. Gã này cứ ngồi lì viết nhạc suốt ngày. Hãy ra khỏi nơi này nào. Em cần hít thở chút khí bị nhàm-văn-chán.”


      Amy miễn cưỡng gật đầu. Ở nơi đây có gì để tìm cả. “Chị nghĩ tụi mình nên quay về khách sạn. biết chị Nellie có cho con Saladin ăn uống gì .”


      Dan ra vẻ lo lắng. “Em nghĩ có thể chúng ta phải bán ít nữ trang của bà Grace để mua cá hồng nữa đó.”


      Ngay lập tức, Amy thở hắt ra tiếng khe khẽ rồi nắm lấy tay thằng em.


      “Ok, được rồi,” Dan bảo. “Cứ giữ lấy sợi dây chuyền của bà...”


      , nhìn này. Có thư viện bên dưới tầng hầm. Thư viện về Mozart đó!”


      “Amy à, đừng làm vậy với em nữa mà! Thuốc chữa chán phải là tìm cái gì đó còn chán hơn nữa đâu!”


      Thế nhưng khi nó bước xuống cầu thang vào cái thư viện u ám, bụi bặm, Dan vẫn bám theo. Xét cho cùng, nhiều đầu mối tốt nhất của cả hai đến từ các thư viện đó thôi. Và hơn nữa, nếu cả hai rời khỏi Mozarthaus trắng tay, điều đó có nghĩa là nhóc Dan chưa có gì để phải chịu đựng cả.


      Thư viện này cho mượn sách. Chiếc máy tính già hai thập kỷ lưu trữ danh mục các đầu sách ở đây. khi quyết định xong cần thứ gì, chúng ta điền vào mẫu giấy cầu và gửi cho bà thủ thư nom tựa như bà ngoại của Mozart.


      Hai đứa chờ đến phiên mình để sử dụng máy, và Amy sử dụng bàn phím. Nó chuyển ngôn ngữ từ tiếng Đức sang tiếng và tìm kiếm KV 617, sau đó là Ben Franklin. tìm thấy gì mới mẻ, Amy bèn chuyển sang đời tư của Mozart. Đây là lúc con bé tìm thấy Maria Anna “Nannerl” Mozart.


      “Mozart còn cười chị lớn nữa!” Amy thầm nhưng với giọng lanh lảnh.


      “Em thông cảm cho ông ta,” Dan vừa vừa ngáp.


      “Chị nhớ Grace từng về bà này,” Amy tiếp tục . “Bà ấy cũng tài năng chẳng kém gì Mozart, nhưng lại được đào tạo lẫn tiếp xúc với nhạc bởi vì bà là đứa bé .” Amy đẩy thanh ngang xuống phía dưới tập tin. “Và nhìn này! Nhật ký của bà ở ngay tại thư viện này!”


      Dan phật ý. Nó biết Amy gần gũi bà ngoại hơn, nhưng ngay cả như vậy nó vẫn lấy gì thích thú với những điều chị của nó và người bà quá cố tâm cùng nhau. “Em nghĩ chị tìm về Mozart chứ đâu phải chị của ông ta.”


      “Nếu Mozart là người nhà Cahill Nannerl cũng vậy,” Amy phân tích. “Nhưng mà vẫn còn có cái gì khác nữa. Hãy nhìn chúng ta đây. Cả buổi sáng này với em mù mờ, còn chị lại nhớ đến từng chi tiết. Liệu điều này có giống với Mozart và Nannerl ?”


      “Tuyệt vời. Giờ chị gọi Mozart là đồ ngốc.” Nó ngẩng đầu lên bực tức. “Và em nữa!”


      phải ngốc. Nhưng não của con trai có cấu tạo hoàn toàn khác. Chị cá rằng có những thứ Nannerl ghi trong nhật ký mà chính Mozart có đến triệu năm cũng buồn để ý tới.”


      Amy nhanh chóng điền vào mẫu giấy cầu và trao cho người thủ thư lớn tuổi.


      Người thủ thư rất lấy làm ngạc nhiên. “Đây chính là nhật ký viết tay bằng tiếng Đức. Hai đứa có đọc được tiếng Đức ?”


      “Đờ-ược ạ...” Amy trả lời ấp úng.


      “Tụi con rất cần đọc quyển nhật ký này.” Dan to vẻ dứt khoát. Khi người thủ thư khật khà tìm quyển sách, nó thào. “Chắc hẳn trong cuốn sách có thứ gì đó chúng ta có thể hiểu được - bản vẽ, các ghi chú được giấu, cũng giống như mấy thứ của Franklin


      Amy gật đầu đồng ý. Có manh mối dù là nhất dẫu sao vẫn còn hơn là chựng lại ở con số 0 tròn trĩnh.


      Hai đứa đợi tưởng chừng như lâu lắm. Rồi chúng nghe có tiếng thở hổn hển và tiếng kêu khe khẽ, rồi người thủ thư chạy trở lại, khuôn mặt tái mét, đôi mắt mở to. Với đôi bàn tay run lẩy bẩy, bà bấm số điện thọai và bắt đầu bằng giọng hoảng hốt. Cả hai hiểu được tiếng Đức, nhưng Amy và Dan có thể nhận ra từ duy nhất rất đỗi quen thuộc - polizei.


      “Nghĩa là cảnh sát!” Amy thào vội vã.


      “Chị có nghĩ bà cụ này nhận ra chúng ta bị dịch vụ công ích truy lùng ở Massachussets vậy?” Dan hỏi gặng giọng lo lắng.


      “Làm sao có chuyện đó được? Thậm chí chúng ta có tên tuổi ra đâu!”


      Câu trả lời đến từ chính bà thủ thư như quẫn trí. “Ta rất lấy làm tiếc! Đây quả là bi kịch! Nhật ký của Nannerl còn nữa! Nó bị đánh cắp!”

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 4


      NELLIE GOMEZ CHƯA TỪNG LÀM NGƯỜI CHĂM SÓC MÈO. Đó là trước khi trở thành người chăm sóc con mèo Mau giống Ai Cập chịu chén đồ ăn đóng hộp. tắt iPod và hết mực chăm chút cho Saladin. hy vọng rằng giờ đây con mèo chịu ăn. Nhưng dường như con mèo còn khó tính hơn vẻ ngoài của nó. từng nghe nhiều câu chuyện về tính cách xuất chúng của bà Grace Cahill. là bà ngoại của Amy và Dan cũng cố gắng khơi gợi tính cách tương tự nơi chú mèo cưng của mình.


      Còn phiền phức hơn nữa, con Saladin cứ gãi miết vào chỗ cổ và tai của nó. Nellie nhấc con vật lên. “Có chuyện gì vậy cưng? Mày có rận sao?”


      nghĩ về rận chỉ trong tích tắc rồi nhanh chóng đặt ngay con mèo xuống. Nellie là nàng dám tạm ngưng việc học hành để dẫn dắt hai đứa trẻ vào cuộc tìm kiếm kho báu cam go vòng quanh thế giới. Nhưng lại ưa được lũ chấy r


      Bỗng có tiếng chìa khóa tra vào ổ, rồi Amy và Dan lê bước vào phòng.


      “Úi chà,” Nellie thốt lên. “ buổi sáng mệt nhọc nhỉ?”


      “Ôi, te tua toàn tập,” Dan trả lời với giọng châm biếm. “Chị hãy hình dung căn nhà cả triệu năm tuổi hoàn toàn có video game và tới khi tìm thấy được quyển sách để đọc nó thậm chí cũng còn ở đó nữa. lũ ngốc xít! gọi cả quân đội đến chỉ vì quyển nhật ký biết đâu bị mối mọt ăn béng từ thế kỷ trước rồi.”


      “Mối ăn gỗ, phải giấy,” Amy nhắc nó, quá sức mệt mỏi và chán nản để châm ngòi cho cuộc cãi vã ra trò tiếp theo. Nó lôi ra cái túi. “Dẫu sao tụi em cũng mua bữa trưa về.”


      Nellie trố mắt nhìn. “Burger King à? Chúng ta ở Áo, đất nước của thịt cốt-lết bê Schnitzel, thịt rán Sauerbraten, của măng tây trắng, của món bánh bột ngon nhất thế giới, còn hai em lại xách về đồ ăn nhanh của Mỹ sao? Chị nghĩ đó phải là Dan chứ sao lại là em hả Amy?”


      Dan lấy cái burger, vặn TV và đổ phịch xuống ghế đệm. “Măng tây trắng á! Bộ màu xanh chưa đủ gớm ghiếc hay sao. Mèn ơi, cứ như những điếu thuốc ướt nhoét trơn trợt.”


      Màn hình tivi sáng lên. Hình ảnh nổ tanh tách rồi sắc nét trở lại. Cả ba cái quai hàm trễ xuống.


      Ngay chính giữa màn hình đập vào mắt là hình ảnh của gã thiếu niên hết sức quyến rũ, chói lóa trong bộ đồ hip hop thời trang nhất nay. Cười nhe sạch sành sanh 32 cái răng trắng lóa, chàng chủ trì cuộc họp báo, trong lúc bầy phóng viên và đám đông fan hâm mộ vây kín xung quanh. Cậu thiếu niên hoàn toàn thoải mái với tiếng tăm tên tuổi của mình, và tại sao lại kia chứ? Cậu có chương trình truyền hình thực tế ăn khách nhất thế giới, có đĩa single đứng đầu các bảng xếp hạng nhạc pop, có chuỗi cửa hàng quần áo bán chạy nhất, series sách thiếu nhi, nhân vật hành động, bộ dao bếp làm quà lưu niệm mà ai ai cũng biết đến, và cả nhà bào chế món kẹo bạc hà của riêng mình.


      Tên cậu nhóc là Jonah Wizard, ngôi sao quốc tế, kẻ vai vế lẫy lừng, họ hàng nhà Cahill, đối thủ khác cũng trong cuộc


      “Jonah!” Amy thốt lên, trán nó nhăn nhúm lại lộ vẻ âu lo. Mỗi lần nghĩ đến cuộc tranh tài là nó lại thấy lo. Những đấu thủ kia dường như có quá nhiều thứ để phục vụ cho mục đích của họ - danh vọng, cơ bắp, kinh nghiệm, huấn luyện, và hàng đống, hàng đống tiền. Làm thế nào mà hai đứa trẻ mồ côi tên tuổi có thể đọ sức lại chứ? Con bé liếc mắt về bảng chỉ ngày tháng ở góc dưới màn hình. “Ghi hình ngày hôm qua! Gã này làm gì ở Vienne nhỉ?”


      “Cậu chàng trong chuyến lưu diễn quảng bá đĩa hát,” Nellie cung cấp thông tin. “DVD phiên bản châu Âu của album Who Wants to Be a Gangsta? trình làng vào tuần này.”


      “Chỉ là cái vỏ bề ngoài thôi!” Dan la lên. “Gã ở đây vì biết đầu mối kế tiếp có liên quan đến Mozart. Biết đâu gã tìm thấy thứ gì đó mà chúng ta bỏ qua ở Paris sao.”


      “Hay gã làm việc cho bọn nhà Holt,” Nellie thêm vào. “Hẳn là bọn kia dò xét xem đoàn tàu của chúng ta về đâu.”


      Amy quan sát gã họ nổi tiếng truyền hình. Vì sao con phố đó lại quen thuộc quá đỗi? Bất chợt, nó hiểu ra ngay. “Dan à - kia chính là Domgasse!”


      Dan chăm chú nhìn. “Đúng rồi! Mozarthaus chỉ cách nơi đó có vài cánh cửa mà thôi! Và trông này - chính là bà lão thủ thư, cái người gọi biệt đội SWAT[1] đến để thông báo về quyển nhật ký bị mất cắp!”


      [1] Viết tắt của Special weapons and tactics - lực lượng đặc nhiệm.


      Nellie cau mày trước người phụ nữ Áo luống tuổi đứng trong tư thế lom khom. “ phải là ý chị nghĩ tới khi nhắc đến fan hip hop kì cựu.”


      Amy nhún vai. “Em nghĩ mọi người ai cũng muốn xem mặt ngôi sao tầm cỡ như vậy...” Đoạn hơi thở của nó nghẹn lại ở cổ. “Nào mọi người, em hiểu rồi! Liệu có tình cờ hay khi mà Jonah lại lựa ngay nơi này để làm họp báo chứ? Lỡ đâu thằng này thực ở đó nhằm đánh lạc hướng mọi người để tranh thủ thó lấy quyển nhật ký của Nannerl ra khỏi Mozarthaus sao?”


      “Có lý,” Dan đăm chiêu, “Ngoại tr việc nó màn hình, với hai mươi chiếc camera dí vào mặt, và chôm chỉa thứ gì.”


      Amy lắc đầu tán thành. “ bao giờ chúng ta thấy Jonah có ông bố đứng ngay đằng sau chuyện điện thọai và bàn thương vụ làm ăn ngay chiếc BlackBerry của lão hay chưa? Vậy bố nó ở đâu trong buổi họp báo này chứ?”


      Dan gợi ý. “Biết đâu Jonah tổ chức buổi họp báo để cho ông bố của nó có cơ hội lẻn vào Mozarthaus và cuỗm quyển nhật ký cũng nên! Amy, chị đúng đó - quyển nhật ký quan trọng !”


      “Đúng vậy, và lúc này kẻ thù giữ nó trong tay!”


      “Chuối ,” Dan đồng tình, “Chúng ta chỉ trễ có ngày thôi. Nhưng mà...” Mắt nó lóe lên tia cảm hứng. “Họ cuỗm quyển sách ra khỏi viện bảo tàng, cớ gì chúng ta cuỗm lại quyển sách từ tay họ?”


      “Gượm ,” Nellie xen vào. “Có khác biệt rành rành giữa việc tìm ra các đầu mối và việc lấy cắp của người khác. Tụi em đâu phải bọn đầu trộm đuôi cướp chứ.”


      “Thế nhưng cha con nhà Jonah đích thị là như vậy còn gì,” Dan cãi lại. “Nếu chúng ta thi tài với họ, chúng ta cũng phải sẵn sàng làm điều họ làm.”


      Nellie vẫn suy chuyển gì. “Chừng nào chị còn là người giữ trẻ cho hai đứa...”


      “Au pair!” Dan thẳng thừng ngắt ngang.


      “...Chị thể làm ngơ và để hai đứa lấn về phía cái ác.”


      “Nhưng như vậy chúng ta thua mất!” Dan rên rỉ.


      Amy lên tiếng, cử chỉ lấy làm trịnh trọng. “Dù có ghét phải đồng tình với Dan cỡ nào chăng nữa, nó vẫn có lý đấy. Em biết trộm cắp là việc làm sai, nhưng cuộc thi này quá to tát để chúng ta phải bận tâm xem có nên trở thành người tốt hay là . cơ hội để tác động lên lịch sử nhân loại - chúng ta có thể thay đổi cả thế gian này!”


      “Có thể đó là cơ hội để thay đổi thế giới,” Nellie sửaĐó là điều ông William McIntye . Ông ấy cũng rằng, chớ có tin ai, kể cả chính ông.”


      Những giọt nước mắt bất ngờ trào ra từ hai mắt của Amy. Nó chớp chớp mi giấu chúng vào trong cách bướng bỉnh. Điều nó ra rất quan trọng, sao lại trong sụt sùi nước mắt thế kia. “Chúng em chưa nhận biết được cha mẹ mình là ai họ qua đời. Chúng em chỉ có Grace và giờ bà cũng còn nữa. Cuộc thi này quả là có quan trọng với những người bọn họ, nhưng với chúng em, nó là tất cả. Chúng em thể làm nửa vời được. Chúng em phải làm bằng mọi giá. Điều đó có nghĩa là tìm các đầu mối bất kể chúng ở đâu - ngay cả khi chúng ở trong phòng khách sạn của người nào khác.”


      Nellie vẫn năng gì. Amy nuốt cục nghẹn trong cổ rồi tiếp. “Chị phải là người nhà Cahill, nên chị cũng nên liều mình làm gì. Nhưng nếu chị chịu được những điều tụi em cần phải làm, tụi em đành tìm cách tiếp tục mà có chị theo cùng.”


      Dan hết sức ngạc nhiên nhìn chị. Con đường trước mắt khi đó gian nan hơn, khó khăn hơn, nguy hiểm hơn gấp hai mươi lần nữa nếu nàng au pair này. đùm bọc của người lớn là cần thiết trong mỗi đường nước bước, mỗi giới hạn, thậm chí là ở mỗi căn phòng bọn trẻ thuê. Trong cuộc thử sức này, ràng hai đứa ở chiếu dưới. Tự làm mình chúng chỉ có nước trông chờ vào phép màu mới được từ nơi này sang nơi khác, sống hết ngày này đến ngày khác.


      Nellie hiểu lũ trẻ nhà Cahill. quen với bốc đồng của Dan, còn Amy lại là đứa bé 14 tuổi đa sầu đa cảm nhất mà từng biết. Đột nhiên, Nellie bị cơn tình cảm và danh dự xâm chiếm.


      “Tụi em nghĩ có thể gạt chị dễ thế sao?” hỏi. “Đâu có ngon vậy chứ. Có thể đây là sô diễn của tụi em, nhưng chị vẫn là người đưa ra luật lệ. đời nào chị để mặc hai đứa thó đồ của gã siêu sao đó. Kéo ghế lại đây - chúng ta phải lên kế họach trộm cắp cách bài bản chứ.”


      ***


      Khách sạn Royal Hapsburg tọa lạc ngay trung tâm quận Landstrasse của Vienne, trung tâm của giới thượng lưu quyền thế ở Áo. Tòa nhà từng là cung điện hoàng gia của đế quốc Áo Hung xưa kia, những chiếc đèn pha sáng lóa chiếu rọi khiến đá cẩm thạch và vàng lá bừng sáng cả bầu trời


      “Làm sao chúng ta biết đây là khách sạn của thằng đó?” Dan hỏi trong lúc cả ba lượn xung quanh dãy nhà.


      “Rất đơn giản,” Amy bảo. “Đây là nơi ngon lành, xinh đẹp nhất, đắt đỏ nhất trong thành phố. còn ở đâu khác nữa đây?” Nó trỏ vào cánh cổng lộng lẫy nơi hàng tá phóng viên và nhiếp ảnh gia bu quanh. “ đủ để chứng minh chưa nào?”


      “Buổi lễ ra mắt DVD mới của Jonah diễn ra lúc tám giờ,” Nellie xen vào. “Chắc hẳn cu cậu xuống, trò chuyện với cánh phóng viên vài phút, sau đó lại đến Eurotainment TV là nơi chủ trì buổi lễ. báo, họ mọi người bất kể là ai đều đến được, hễ muốn tới cứ việc tới.”


      Dan cau mặt. “Em nghĩ chị hết làm fan của Jonah Wizard từ khi tay đó sỉ nhục chị ở tận Paris rồi chứ.”


      “Chị giúp hai đứa trộm đồ của , có phải ? Chị đây là khi cu cậu xuất ở chỗ này, có nghĩa rằng chúng ta có thể lẩn vào bên trong phòng ở.”


      Như có ám hiệu, chiếc Bentley màu trắng có tài xế riêng vào chỗ vỉa hè và dừng lại, chờ đợi VỊ KHÁCH CỰC KỲ QUAN TRỌNG. Bỗng có tiếng nhao nhao của cánh báo chí, và ngôi sao từ trong khách sạn bước ra, với người cha luôn luôn diện sát phía sau đúng nửa bước chân. Máy ảnh lóe lên sáng rực trời đêm.


      “Mau lên!” Amy giục. “ thể để gã thấy chúng ta được!”


      Cả ba nấp sau sạp báo và quan sát Jonah trổ tài diễn thuyết trước đám đông.


      “Coiiii nàoo, yo?... Xin cảm ơn vì có mặt... trân trọng...”


      Đằng sau nó, ngón tay của người cha cứ nhòe vì bận bấm chiếc BlackBerry, chắc hẳn để chia sẻ hào nhoáng của con trai mình cho cả thế gian.


      Cánh nhà báo bắt đầu tuôn ra hàng loạt câu hỏi dành cho ngôi sao.


      “Jonah, chúng ta có thể trông đợi điều ngạc nhiên nào ở DVD mới của câu phiên bản tại Châu Âu


      “Có tí nào khi người ta đồn cậu hẹn hò với Miley Cirus[2]?”


      [2] Diễn viên, ca sĩ teen của hãng Walt Disney.


      “Cậu có biết thế võ kung fu mà nhân vật truyện tranh của cậu đáp ứng được cầu về an toàn hay ?”


      Jonah trả lời các câu hỏi này theo phong thái hằng ngày của nó, cố gắng sao cho ngon lành cành đào - vừa thành thị lại vừa dân dã.


      Amy ưa Jonah, thế nhưng con bé thể ngưỡng mộ trước điêu luyện và kỹ năng của nó khi xử lý với các tay paparazzi[3]. chỉ đơn thuần là những điều hợp nhẽ với báo chí, Jonah còn biết cách làm cho báo giới mến nó.


      [3] Paparazzi: Phóng viên chuyên săn ảnh


      Mình hoàn toàn trái ngược với tay này, Amy tự nhủ. Chỉ cái ý nghĩ chuyện với đám đông khổng lồ khiến nó phát khiếp.


      “Này Jonah,” phóng viên gọi tên nó. “Cậu đỉnh thế giới ở tuổi 15. Cậu có lo rằng từ nay về sau cậu chỉ còn xuống dốc thôi ?”


      Cây đinh của dư luận cười toe toét. “Thong thả nào, yo. Ai tôi đến đỉnh rồi chứ? Thậm chí tôi còn phải là trái chuối ngon lành nhất ở khách sạn này nữa mà. à, đại Công tước của Luxembourg ở ngay đây. Chớ hiểu sai ý tôi, sao tôi cứ giống như càn vậy nhỉ. Thế nhưng chẳng phải làm hoàng tộc vẫn còn ngon hơn là có món kẹo đặt theo tên mình hay sao?”


      thôi,” Nellie giục. “ khiêm nhường của thằng này khiến chị phát ói.”


      Trong lúc Jonah tiếp tục phù phép đám đông, hai đứa trẻ Cahill và Nellie lẻn qua góc đường và lẩn vào bên trong khách sạn qua lối ở bên hông.


      Cả ba bước qua dã thang máy chạm trổ bằng vàng và lẻn qua cánh cửa đó có tấm biển bằng tiếng Đức.


      “Chỉ dành riêng cho nhân viên,” Nellie khẽ dịch lại.


      “Chị biết cả tiếng Đức sao?” Amy ngạc nhiên kêu lên.


      Nellie nhún vai đáp, “Cái này giống như kiến thức thông thường thôi. Kìa, thang máy dành cho hành lý kia rồi.”


      Cả ba xuống dưới tầng hầm, nơi đó họ tìm thấy nguyên mê cung toàn là những hành lang.


      Amy sợ bị ai đó trờ tới từ các góc quanh hay sau mỗi cánh cửa. Nỗi sợ khiến toàn thân nó lạnh ngắt, như thể cột sống của nó dính đầy ni-tơ lỏng. Sàn nhà cũng lạnh, nhưng đủ lạnh để lý giải cho run rẩy của Amy.


      “Vì sao ở đây trống trải quá?” cuối cùng Amy lên tiếng.


      “Hầu hết nhân viên chỉ làm ca ngày,” Nellie phỏng đoán. “Đây rồi!” tiếp, dẫn hai đứa qua cánh cửa vào trong chỗ giống như phòng thay quần áo. chọn bộ đồng phục của nhân viên dọn phòng từ chiếc tủ lớn, ra đằng sau cánh cửa rèm và nhanh chóng khoác bộ đồ lên người.


      “Có thể chúng ta nên bỏ luôn cái khoen mũi,” Amy dè dặt góp ý.


      cần đâu,” Nellie trả lời. “Mớ áo bề bộn ở đây cần thêm tí bề bộn nữa. Nào hai chị.” quẳng bộ quần áo của mình, rồi cả Amy và Dan, vào chiếc xe làm phòng. chồng ga trải giường và khăn tắm được chất lên để giấu những hành khách nằm trong đó.


      “Làm sao chúng ta biết gã ở phòng nào?” Dan thào vọng lên từ dưới chồng quần áo trong lúc Nellie đẩy cả bọn hướng về phía thang máy.


      “Phòng dành cho hoàng gia, dĩ nhiên rồi,” Nellie lẩm bẩm. “Còn nơi nào đủ để chứa cái thứ bất tài vô tướng đó chứ? Và hãy yên nào. Quần áo mà đòi lên tiếng


      Thang máy đưa cả bọn lên tầng cao nhất, tầng 17. Nellie đẩy xe vào trong sảnh, dừng lại trước phòng 1700, nơi có vương miện mạ vàng được trưng ngay phía cửa ra vào. Biết chắc mẩm nhà Wizard đường đến buổi tiệc, nàng mạnh dạn rút chiếc thẻ từ ra khỏi khay và đặt vào đầu đọc thẻ.


      Có tiếng bíp, đèn xanh sáng lên và cả bọn vào được bên trong.


      “Ái chà chà,” nàng au pair thốt lên. “Vậy ra đây chính lối sống của kẻ Giàu có và Danh tiếng sao.”


      Căn phòng lộng lẫy với các món đồ nội thất cực kỳ quý hiếm; các món trang trí như sofa, ghế đệm theo phong cách thế kỷ 19, mềm mại, căng phồng và được bọc bằng nhung sang trọng; những chiếc đèn lồng và chậu hoa tinh tế của Trung Hoa; tất cả mọi thứ sực nức phong cách quý phái.


      Nellie rướn người xuống chuẩn bị kéo hai đứa trẻ nhà Cahill ra khỏi nơi náu giọng đặc sệt lên tiếng thắc mắc, “ hầu phòng lại gõ cửa phòng Điện hạ hay sao?”






      Chương 5


      THẤT THẦN, Nellie vội buông đám vải lanh xuống. “Ôi... tôi xin lỗi,” cố xoay xở. “Tôi nghĩ căn phòng có ai. Tôi có nhiệm vụ phải mang khăn tắm mới đến phòng nhà Wizard.”


      “Thưa quý kính mến, đây là phòng của ngài đại Công tước Luxembourg”. Môi của gã khẽ cong lên. “Còn tay diễn viên truyền hình người Mỹ ở phòng bên dưới - cùng với bãi bầy hầy ta tạo ra, nếu tôi có thể thêm vào.”


      Nellie bắt đầu đẩy chiếc xe ngược trở lại cánh cửa. “Xin ngài thứ lỗi. Tôi ra khỏi nơi đây ngay.”


      “Nếu có thể, mong hãy chờ đôi chút. Vì có mặt tại đây, giường ngủ của điện hạ cũng cần chỉnh trang đôi chú


      Nellie vẫn tiếp tục đẩy xe về phía cửa. “Nhưng mà, tôi cần có mặt tại phòng nhà Wizard thưa ngài...”


      “Nhảm nhí. Chỉ mất có chút thời gian thôi. Và vẫn còn nhiều vấn đề mà tôi muốn có quan tâm của đấy. Nếu vui lòng theo tôi vào trong phòng tắm...”


      “Tôi đến ngay đây,” gọi với theo. Đoạn cúi xuống thùng đựng vải lanh, ấn thẻ chìa khóa vào đó và khẽ , “Khi nào nghe tiếng chị ở phòng kế bên, hãy ra khỏi đây ngay!”


      “Còn chị sao?” Amy rít lên khe khẽ.


      “Tự chị xoay xở được. Em lấy cuốn nhật ký . Chị gặp lại hai đứa tại khách sạn chúng ta ở. Hãy thận trọng!”


      Rồi mất. lúc sau, cả hai nghe được giọng lớn, “Căn phòng tắm này còn lớn hơn cả căn hộ tôi ở!”


      Các tấm ga bay tung lên, Amy và Dan trườn ra khỏi chiếc xe đẩy và băng thẳng qua cánh cửa vào hành lang.


      “Jonah ở dưới đây tầng,” Dan ré lên.


      Hai đứa chạy về phía thang bộ.


      Căn phòng 1600 giống hệt căn phòng đồng hạng ở tầng , ngoại trừ chiếc vương miện là có.


      “Tội nghiệp Jonah nhỉ,” Amy mỉa mai khi hai đứa vào căn phòng với chiếc thẻ chìa khóa trong tay. “Nó sống trong nghèo khổ ở nơi này.”


      Nếu những căn phòng ở đây có kém phần sang trọng so với nơi ở của ngài đại Công tước cả Amy lẫn Dan đều thể chỉ ra nó lồi lõm chỗ nào. Căn phòng hoành tráng được trang hoàng lộng lẫy. Sàn bằng đá hoa cương láng óng; những tấm thảm dày được dệt thủ công nom rất đỗi sang trọng. Mỗi chậu hoa, gạt tàn ở mỗi đầu bàn trông như thể được bàn tay nghệ sĩ nào đó sắp đặt


      “Xem chừng nơi này biến chỗ chúng ta sống ở Boston thành cái nhà xí,” Dan bình luận.


      Amy thở dài. “Chị thèm quan tâm tới đời sống thượng lưu. Nhưng thi thoảng điều này khiến chị thấy bứt rứt trước giàu có của những kẻ so tài với mình.”


      “Bà Grace rất khá giả.” Trán của Dan nhăn lại lúc nó nhớ tới đám cháy thiêu rụi toàn bộ dinh cơ của bà ngoại hai đứa. “Đằng nào em cũng thích là đứa nghèo và bình thường hơn là thằng giàu ngốc nghếch như Jonah hay bọn Rắn Hổ mang[1].”


      [1] Biệt danh Dan dùng để gọi bọn nhà Kabra cách khinh bỉ.


      “Đúng vậy, nhưng tiền bạc lại là ưu thế lớn trong cuộc thi như thế này,” Chị nó đáp lại vẻ chán chường. “Tiền mở ra nhiều cánh cửa trong khi chúng ta buộc phải đường vòng mới tới được. Chúng ta hoàn toàn thuộc về thế giới của bọn họ, Dan à.”


      “Đó là lý do vì sao chúng ta cần ăn gian.” Nó dò xét căn phòng khách xa hoa. “Xem nào, nếu em là thằng ngố học đòi có đầu được gắn lên thanh kẹo bạc hà em giấu quyển nhật ký thó được ở đâu đây?”


      Amy mỉm cười vẻ bất chấp. “Tốt hơn cả là chúng ta nên tìm hết nơi này.”


      Hai đứa trẻ bắt đầu sục sạo khắp gian phòng đồ sộ, kiểm tra bên dưới đệm sofa, trong ngăn kéo, đằng sau các tấm màn, dưới drap trải giường và cả trong các tủ áo.


      “Này, coi ở đây thử xem.” Dan vục tay vào thùng các tông và lôi ra hình nhân cao 20 cm, chính là Jonah Wizard trong chiếc quần jeans Phat Farm bằng nhựa và áo jacket thể thao. “ giống cho mấy,” Nó bình luận. “Ngoài đời gã xấu hơn vầy nhiều.”


      “Đặt nó lại ngay!” Amy hét lên trong lúc lục lọi ngăn kột nhập phòng gã này là xui lắm rồi. Chúng ta cần phải vác mấy món đồ chơi ngu xuẩn của gã đâu.”


      “Cho bộ sưu tập của em mà,” Dan cự lại. “Gã có cả hộp mấy thứ này. Chị nè - chắc đây là hình nhân trình diễn được thế kung fu.” Nó ấn nút và quan sát nắm đấm xíu bật ra. “Woaa - ngạc nhiên khi người ta nhắc tới thứ này! Có thể tách vỏ hạt dẻ bằng chính nó ấy chứ!”


      “Nhìn này!” Mắt Amy chớp chớp liên hồi đầy vẻ phấn khích. Nó xoay món đồ chơi tay Dan. Khi công tắc được bật lên, dãy các chữ cái và con số màu đỏ lên đằng sau băng quấn đầu của hình nhân. “GR63K1!” Amy lèo kịp thở. “ kiểu mật mã nào đó!”


      Dan khịt mũi cười nhạo chị. “Với học sinh chuyên học gạo điểm A trông chị ngốc lắm đó. Đúng rồi, đó là mã số - nhưng mà dùng để tải screensaver[2] hình Jonah Wizard miễn phí từ website của nó! Quảng cáo nó đầy truyền hình ở quê nhà đấy thôi.”


      [2] Screensaver: ảnh bảo vệ màn hính máy tính, điện thọai.


      Mặt chị ửng đỏ. “Ít ra chị giống củ khoai làm biếng suốt ngày chúi mũi vào màn hình như em,” Nó lẩm bẩm trong bối rối, đoạn tập trung trở lại việc tìm kiếm. Dan nhét hình nhân vào túi mình rồi tiếp tục công việc cùng chị.


      Dãy phòng gồm năm phòng - phòng khách, hai phòng ngủ, phòng thay quần áo và nhà bếp. Chúng lục xét từng centimet mà vẫn tìm thấy kết quả. Phòng ngủ lớn có chiếc tủ két, nhưng lại mở toang và hoàn toàn trống . Thậm chí lục hết nhà bếp lẫn quầy bar mini cũng chẳng đem lại điều gì khá khẩm hơn.


      “Chị nghĩ gã đem theo bên người chứ?” Dan chợt hỏi.


      Amy lắc đầu. “Ai mà đem món đồ quý như vậy đến nơi toàn bộ máy camera của châu Âu chĩa vào mình chứ. Nó phải ở ngay đây. Chúng ta phải tìm cho ra nó.


      “Tìm ở đâu bây giờ?” Dan bắt đầu mất kiên nhẫn. “Dù gì ở đây cũng quá tối! Khách sạn sang trọng mà sao nhét cả tá mành bịt sạch hết cửa sổ vậy?” Nó vặn công tắc đèn lên. dàn nến trang trí bằng pha lê chiếu sáng ngay đỉnh đầu.


      Amy và Dan há hốc miệng vì kinh ngạc. Ngay giữa chùm đèn là chiếc giỏ tạo thành từ những sợi dây pha lê. Ở đó, bật lên ngay giữa ánh sáng chói lóa, chính là bóng của quyển sách thể lẫn vào đâu được.


      “Quyển nhật ký!” Cả hai đồng thanh.


      Dan chạy tìm cái ghế.


      “Vẫn đủ cao!” Chị nó hét lên. “Lại đây giúp chị khiêng cái bàn coi.”


      Cả hai khiêng cái bàn thủy tinh nặng trịch và đặt nó ngay bên dưới dàn nến. Dan trèo lên đó, nhưng như vậy vẫn còn quá thấp. “Cho em thêm cái ghế.”


      Ngay lập tức, Amy cũng trèo lên cái bàn, giữ thăng bằng cho chiếc ghế và em nó nhón chân hai quyển danh bạ điện thoại kê đó.


      Rướn hết sức vươn qua chỗ những sợi pha lê, Dan thấy tay mình chạm đến gần bìa quyển sổ đóng bằng da. “Tóm được rồi!”


      Nó lấy ra quyển nhật ký của Maria Anna “Nannerl” Mozart.


      ***


      Công việc trông nom hai đứa trẻ nhà Cahill mang đến cho Nellie những kinh nghiệm mà chính cũng sao tiên liệu được. Đây là trong số đó - quỳ cả thân người trong phòng tắm bằng cẩm thạch và cọ toilet cho gã đại Công tước nào đó.


      đời nào ở đây có ẩm mốc được, xót xa nghĩ. Nhưng biết đâu hoàng tộc có thể phát những tì vết mà tiện dân sao thấy được, kiểu như trong truyện “Công nương và hạt đậu”


      “Công tước và cái chậu[3].” Tựa này vần vè đấy chứ.


      [3] Nguyên văn: The Grand Duke and the Bowl.


      điều chắc chắn, Amy và Dan mắc nợ lớn với trong việc này. Nellie băn khoăn biết hai đứa có tìm thấy quyển nhật ký. Giá mà có cách nào đó để biết xem nhiệm vụ hoàn thành hay chưa. Để khi đó có thể phang cây cọ toilet vào gã trợ lý đại Công tước khỉ gió rồi biến khỏi cái trò hề năm-sao này.


      Trán nhăn nhúm lại khi mường tượng ra tình huống xấu hơn - Amy và Dan bị tóm, bị nhốt, hay còn tệ hơn thế nữa. Ai mà biết được nguy hiểm rình rập ở đâu trong cuộc thi được-ăn-cả này chứ? Bảo vệ khách sạn cũng đáng sợ, nhưng cái bọn chị em họ Cahill tâm thần kia mới là lũ từ bất cứ thủ đoạn nào! Kẻ chiến thắng cuộc thi có thể cai quản thế giới theo nghĩa đen của từ này. Rất nhiều kẻ khùng điên làm những việc tồi tệ để mong có được giải thưởng là thứ quyền lực đó. Hai đứa trẻ liệu có cơ may nào hay ?


      Những ý nghĩ lấy gì làm dễ chịu của bỗng vỡ như bong bóng xà phòng khi có giọng cất lêng. “ làm việc cho chúng tôi, thưa Fraulein[4]. làm gì trong phòng này vậy?”


      [4] trẻ, tiếng Đức.


      Tim muốn lọt ra ngoài, Nellie xoay người lại. Cạnh người của Đại công tước là lính gác mặc đồng phục.


      cố sức lấp liếm tình hình. “Dĩ nhiên là tôi làm việc ở đây. Ông nghĩ tôi vào khách sạn để tìm thú vui bằng cách cọ toilet cho người lạ chắc?”


      làm việc ở đây,” Người đàn ông trả lời chút hài hước.


      “ biết mặt hết toàn bộ nhân viên ở đây sao?” Nellie lên giọng thách thức.


      ,” thừa nhận. “Nhưng lại có khuyên ở mũi. Điều này trái với quy định của khách sạn. theo tôi.”


      Nellie suy nghĩ rất lung. hình dung mình lún sâu vào rắc rối như thế nào nữa. người ngoại quốc tại đất nước này. Nếu bị trục xuất, điều gì xảy đến với Amy và Dan chứ?


      “Thôi được, ông bắt được tôi rồi. Tôi tình cờ lọt vào trong đây. Tôi cố lẻn vào phòng của Jonah Wizard. Tôi là fan cuồng của chàng. Tôi cần phải gặp được chàng! Nhưng tôi vào nhầm phòng.”


      Mắt gã kia nhìn vẻ dò xét. “Và làm điều này chỉ có mình chứ? còn ai khác nữa?”


      “Hoàn toàn mình,” đáp, có vẻ là hơi quá sớm. “ Jonah Wizard nào phải là có tội. Chàng ta là người tuyệt vời nhất...”


      Ngay bên dưới chân họ, tiếng rơi vỡ to vang lên làm rung chuyển cả tòa nhà.


      Nhân viên bảo vệ nhìn Nellie bằng đôi mắt hình viên đạn. “Phòng Wizard! Fraulein, tốt hơn hết hãy hy vọng phá bĩnh này liên quan gì đến mình, nếu được nếm rất nhiều điều về hiếu khách của người Áo chúng tôi đó, thưa .”


      ***


      “Dan, em có sao ?”


      Dan nằm sàn căn phòng lớn, ngay giữa những gì còn lại của chiếc ghế và chiếc bàn gãy nát.


      Nó rên rỉ ngồi dậy, cuốn nhật ký cặp vào tay như trái bóng. “ xảy ra chuyện gì vậy?”


      “Chị biết nữa,” Amy đáp, ngay cả nó cũng chưa tỉnh hoàn toàn. Nó dựng thằng bé đứng lên và kiểm ra xem có bị trầy xước gì . “Hoặc là chiếc ghế gãy và đánh r xuống bàn, hoặc là cái bàn gãy trước, và làm gãy luôn chiếc ghế. sao hết. Chúng ta phải ra khỏi đây ngay - chắc hẳn nửa khách sạn này nghe thấy tiếng vỡ đó!”


      Hai đứa chạy ra khỏi phòng 1600 vừa lúc nhân viên bảo vệ ập xuống từ cầu thang phía , và kéo theo ai khác ngoài Nellie.


      thể nào giả đò vô tội được nữa. Cửa vẫn còn chưa khép lại, và đám đổ nát có thể thấy ngay từ ngoài sảnh nhìn vào.


      Hai đứa trẻ Cahill thoát , chạy nhanh đến góc quanh gần nhất và khuất khỏi tầm nhìn. Tên bảo vệ định rượt theo, nhưng Nellie chộp lấy tay gã và kéo giật trở lại mạnh, suýt chút nữa làm trật khớp vai của gã.


      “Ông thể bỏ được! Nếu Jonah nằm trong đó, máu đổ đầm đìa sao?”


      Gã bảo vệ nộ khí xung thiên. “Đồ con ngốc nghếch! hùng của mày thậm chí còn ở trong tòa nhà này!” Gã lấy máy bộ đàm ra khỏi thắt lưng và xổ tràng tiếng Đức nhanh như tên bắn.


      Nellie cố nuốt cục nghẹn tắc ngay cổ họng. Gã cho người có mặt ở các thang máy và tại cuối mỗi thang bộ của từng tầng ở đây.


      Amy và Dan bị sa bẫy.






      Chương 6


      KHI CỬA THANG MÁY MỞ RA, hai đứa trẻ nhà Cahill chy tới bằng hết tốc lực, đến nỗi suýt nữa chạy quá khỏi nó. Amy bật phanh lại trước, đoạn chộp lấy Dan kéo ào vào trong. Nó bấm nút L. Cả hai đứng yên, ngực đập thình thịch trong lúc thang máy di chuyển xuống. Hai cặp mắt lo lắng dõi theo từng dòng lên khi con số đếm ngược trở xuống bắt đầu từ 16.


      Bất chợt, tay của Dan thò ra và ấn số 2. “Hẳn họ chờ chúng ta ở sảnh,” nó giải thích hành động của mình với vẻ căng thẳng.


      “Nhưng đó là lối ra!” Amy rít lên. “ cách nào thoát được tầng hai hết!”


      “Chắc chắn được.” Cửa mở, Dan lôi Amy ra tầng 2, ngay khu vực tổ chức yến tiệc và chiêu đãi hội nghị.


      Amy gần như phát điên lên. “Làm cách nào?”


      “Bằng cách nhảy xuống.”


      Amy dòm nó trừng trừng. “Bộ em điên rồi s_”


      Hai đứa luồn qua ngã rẽ tại hành lang, và đoạn đường phía trước khách sạn xuất ngay trước mắt chúng, qua tấm kính lớn lắp từ sàn đến tận trần nhà.


      Dan mở cánh cửa kiểu Pháp và hai đứa bước ra ban công hẹp bằng đá.


      đời nào, Dan! Chị nhảy đâu! Gãy chân mất!”


      “Nhìn xuống chị!” Nó ra lệnh.


      Cách phía dưới chưa đầy hai mét là tấm bạt căng ngang toàn bộ cổng chính của khách sạn.


      Dan thả chân ra ngoài các chấn song bằng đá. “Dễ ẹc,” Nó , trong lúc cố gắng tỏ ra tự tin hơn những gì cảm thấy. “Còn thấp hơn cú rơi từ tấm ván lướt sóng ấy chứ.”


      “Nhưng làm gì có nước ở đây!”


      Nó rơi bịch xuống. Amy rụng rời chứng kiến cảnh tượng đó, nghĩ rằng thằng bé rơi toạc qua tấm bạt và tan thành từng mảnh khi va xuống sàn bê tông. Nhưng , tấm bạt giữ nó lại.


      Miệng cười nhe hết hai hàm răng với chị, nó trèo lên phía đỉnh tấm bạt, tìm thấy cột đỡ bằng thép cứng cáp, uốn cong bên vệ đường. Nó vẫy gọi Amy bằng quyển nhật ký của Nannerl.


      Chưa bao giờ Amy trải qua quá nhiều cung bậc của nỗi sợ hãi cùng lúc như thế này - sợ bị tóm, sợ cho số phận của Nellie, sợ cho thằng em điên rồ của mình quá ngu ngốc để hiểu ra điều gì là nên làm, và nỗi sợ quá hiển là nó phải trèo ra ban công ở tầng để tấm vải quá mong manh.


      “Nhanh lên nào!” Bên dưới vang lên tiếng giục hối hả.


      Mình thể làm được... mình thể...


      xấu hổ ập đến cũng mạnh mẽ như nỗi sợ của nó. Amy trở thành Cahill nào đó! Vận mệnh của cả thế giới nguy vong, vậy mà nó ép nổi mình vào cú nhảy chỉ có chưa đầy hai mét - thậm chí là còn sau cả khi nhìn thấy chính đứa em mười tuổi của mình vừa thực xong.


      Con xin lỗi, bà Grace ạ...


      Chính cái ý nghĩ này thổi vào Amy hành động bất ngờ bộc phát. Nó lơ lửng trong trung trước khi kịp quyết định làm điều đó. Nó rơi xuống tấm vải như người nghệ sĩ nhào lộn nghiệp dư buông mình vào tấm lưới an toàn. Vài giây sau, Dan kéo lê Amy đường.


      Hai đứa vào chiếc taxi và khi cách xa khu vực đó nhiều dãy nhà chúng mới dám mở miệng .


      “Nellie...” Dan lên tiếng.


      “Chị biết rồi...”


      Căn phòng bé của chúng tại khách sạn Franz Josef lúc này dường như tồi tàn và thậm chí lại, sau khi chúng vừa được “kinh qua” Royal Hapsburg. Lời chào nhận được từ Saladin cũng làm cả hai thấy vui vẻ gì hơn. Con mèo Mau Ai Cập vẫn chịu ăn thức ăn cho mèo, và thực tế là nó còn rải cả bữa tối của mình ra khắp tấm thảm. Mùi tanh của cá treo lơ lửng khắp phòng. Thêm vào đó, vết trầy xước của nó bắt đầu lan ra túm lông ở xung quanh cổ và trở nên tệ hơn bao giờ hết.


      Hai đứa trẻ nhà Cahill đều mệt đứ đừ, nhưng đứa nào nghĩ đến việc ngủ. Ngay lúc này Nellie quan trọng hơn hết thảy. Chúng quá chú tâm vào 39 manh mối, đến nỗi còn nghĩ đến những gì au pair hy sinh cốt để có thể theo sát chúng cũng như sứ mệnh chúng theo đuổi. Nellie gác lại cuộc sống thường nhật của mình, xa nhà hàng ngàn dặm đường, thậm chí còn thanh toán các khoản chi phí của chúng bằng chính tài khoản của mình. Chắc chắn rồi, cả hai định đền ơn bà chị này. Amy và Dan có nữ trang của bà Grace để lại, có thể đáng giá ít. Nhưng nữ trang có thể bị mất hay bị đánh cắp, và gì bảo đảm hai đứa nhóc chiến thắng trong cuộc tranh đua này hết. Thậm chí cũng có gì bảo đảm hai đứa tham gia cho đến chặng cuối cùng.


      Giờ đây lại biết Nellie ở đâu - bị bắt, biết đâu bị quản thúc. Hai chị em Amy và Dan lại thể làm được bất cứ điều gì. gì hết ngoài việc chờ đợi.


      ***


      Lúc hai giờ sáng, Amy và Dan vẫn còn ngồi, mắt dán vào chiếc TV chiếu phim nhiều tập Hòn đảo của Gilligan lồng tiếng Đức. Bỗng có tiếng gõ bất thình lình vào cánh cửa, y như điện giật vào dây thần kinh uể oải của cả hai, đến nỗi chúng suýt nữa gạt nhau ngã quay trong lúc cố gắng chạy đến mở cửa.


      “Chị Nellie!” Amy la lên. “Cám ơn...”


      Ngay lúc đó trong phòng xuất Irina Spasky, người họ hàng gốc Nga của nhà Cahill. Lại đấu thủ khác trong cuộc tìm kiếm 39 manh mối, và quả là như vậy . Người ta đồn đãi rằng Irina từng là điệp viên KGB cũ, bất nhẫn, hiệu quả, và luôn tỏ ra nguy hiểm đến chết người.


      ngay vào chuyện chính. “Ả au pair của hai đứa bây bị chính quyền Vienna bắt giam.”


      Dan sợ hãi. “Làm sao mà bà biết được?”


      Mặt Irina khẽ nhăn lại, trông giống như thứ được gọi là nụ cười mà ả ta có thể tạo ra. “Ta từng giám sát vũ khí hạt nhân qua đường hầm bí mật xuyên bên dưới bức tường Berlin. Ta có thể nhìn xuyên thấu cửa kính xe cảnh sát. Nhưng nếu hai đứa bây cần ta giúp đỡ ...”


      Amy chộp ngay lấy ý này. “Bà giúp được chị Nellie sao? Bằng cách nào chứ?”


      Trông Irina phật ý. “Miễn là nó trở về được với hai đứa bây, còn về bằng cách nào đâu phải chuyện của mày chứ?”


      “Đúng là phải chuyện của tụi cháu tí nào!” Amy đồng ý cái rụp. “Chỉ cần giúp chị ấy thoát ra! Cảm ơn !”


      “Ta thích những lời cảm ơn hay ho hơn là những lờ suông. Chúng ta về món đồ mà tụi bây khoắng khỏi căn phòng sang trọng của gã họ hàng Jonah Wizard đáng ghét của chúng ta chứ?”


      !” Dan quát lên.


      lời khuyên,” Irina với Amy. “Chớ bao giờ để cho thằng nhãi hấp tấp này thay cho cưng nhé. Có lẽ là cưng khỏi cho nó luôn . Trong KGB, người ta thấy rằng băng dính vừa hiệu quả lại vừa tiết kiệm.”


      Amy nghĩ ngợi. Hai đứa mạo hiểm tính mạng để lấy được quyển nhật ký. Đó là còn chưa kể Irina muốn đoạt lấy nó, điều đó chỉ chứng minh được quyển nhật ký quan trọng đến mức nào. Nhưng làm sao tụi nó có thể để mặc Nellie ngồi tù chỉ vì mình được. Nếu ả họ hàng người Nga này giải thoát được cho Nellie, chúng lựa chọn nào khác ngoài việc chấp nhận thỏa thuận.


      “Để cháu lấy nó,” Amy buồn bã đồng ý.


      “Em ,” Dan thở dài.


      Nó ngạc nhiên quá đỗi khi thấy Dan đến bên chiếc ba lô của mình đặt giường ngủ. Nhưng thay vì lấy ra quyển nhật ký của bà Nannerl, thằng bé thò tay vào túi áo khoác và lôi ra hình nhân Jonah Wizard mà nó cuỗm ở căn phòng 1600.


      muốn đưa cho ả món đồ dỏm! Amy cố hết sức nén lại nỗi sợ hãi trong lúc Dan đưa món đồ chơi cho Irina.


      Cựu điệp viên KGB thèm cử động để đón lấy món đồ. “ món đồ chơi trẻ con ư? Mày đùa phải .”


      Dan nhún vai, “ cháu lấy đưa cho món lấy ra từ phòng của Jonah. nó đây.”


      Đừng có mà cố! Amy muốn thét lên to. Nếu Irina biết món đồ mà ả tìm kiếm sao? Mắt nó trợn căng nhìn chằm chằm vào em trai mình.


      Dan thèm đếm xỉa đến thông điệp của chị nó. “Nó dường như chỉ là hình nhân trò chơi hành động thôi,” nó với Irina. “Xem này.” Nó cầm món đồ chơi sao cho bàn tay xíu đó bao lấy ngón tay út của ả và ấn nút ở sau lưng Jonah để kích họat thế võ kung f


      Cựu điệp viên tiếng nào, thế nhưng mạch máu trán ả lộ hẳn ra và phồng lên chừng như sắp nổ tung. Mắt ả tò mò ngó chằm chằm vào đoạn mã dùng website phát sáng phía sau băng đô của Jonah.


      “Thấy chưa?” Dan hỏi lại. “Nó là...”


      “Trong giao dịch cần nhiều lời.” Ả chộp lấy hình nhân khỏi tay Dan và nâng niu nó với kính trọng vừa đến tức thời. “Chúng ta có thiết bị tương tự như vậy ở KGB,” Ả thừa nhận, trong khi xem xét ngón tay út tấy lên nhanh chóng. “Thô bạo nhưng hiệu quả. Ả au pair về ngay thôi.” Và ả biến mất, cũng nhanh như lúc ả xuất .


      Amy vẫn còn run lẩy bẩy lúc nó choàng vai ôm lấy đứa em. “ thể tin được là em làm điều đó! Nếu Irina biết về quyển nhật ký sao?”


      “Mụ ta có biết đâu,” Dan cãi.


      “Nhưng có thể chứ! Hay mật mã nữa! Lỡ đâu ả xem đoạn quảng cáo về screen_saver!”


      Nó điềm tĩnh. “Em tin Irina lại xem Cartoon Network[1].”


      [1] Kênh giải trí dành cho thiếu nhi, chủ yếu chiếu phim họat hình.


      “Em đánh lừa điệp viên người Nga đó! Em có thể khiến Nellie bị giết, hay chính chúng ta nữa chừng!”


      Dan tức tối. “Sao chị cứ ong óng hét vào mặt em toàn những chuyện xảy ra vậy? Nếu chị chưa chịu nhận ra, em làm điều tốt! Chúng ta vẫn còn quyển nhật ký và Irina lại đường giải thoát cho Nellie. Chị có nghĩ đây cuộc vượt ngục thứ thiệt chớ? Tiếc là chúng ta thể xem được.”


      Amy trông ủ rũ. “Thành chị muốn nghĩ đến những gì ả KGB kia có thể làm được. Điều gì ả làm được đối với cảnh sát Vienne, ả cũng có thể làm với chúng ta vào bất cứ lúc nào.”


      Dan cưỡng nổi nụ cười tươi rói nở mặt. “Nhưng m ngay lúc này, trong đêm nay, chúng ta cơ ả đó. Điều này đáng phải ăn mừng lắm chớ!”


      “Ai ăn mừng hả?” Tiếng uể oải vọng từ ngoài cửa vào bên trong.


      “Chị Nellie!” Amy bật dậy và quàng hai tay ôm chầm lấy chị au pair. Rồi nó lùi lại bước, cau mày thắc mắc. “Làm thế nào mà Irina giải thoát cho chị nhanh dữ vậy? Ả chỉ vừa có 5 phút thôi mà.”


      “Chả có ma nào giải thoát hết,” Nellie trả lời. “Bọn họ để cho chị . Họ nghĩ chị là fan cuồng bị hâm nặng của Jonah Wizard. thôi, khách sạn đầy ăm ắp ngữ này. Có hai đứa ngốc nào đó còn nhảy thẳng ra ngoài ban công. Hai đứa có chụp hình tụi nó ?”


      “Sắc nét tới từng chi tiết,” Amy chua chát đáp.


      “Cái đồ KGB xạo !” Dan tức tối. “ thể tin được ả vừa lừa mình - ngay khi mình vừa định lừa ả!”


      “Sao mà đêm dài thế biết.” Nellie ngáp dài. “Mấy tay mất nết ở khách sạn chịu cho lấy bộ đồ của nhân viên dọn phòng, thế là cánh cảnh sát phải vác chị trở lại đó để tìm mớ quần áo của chị trong chiếc xe đẩy - lọt trong tầng hầm với chừng năm mươi bộ khác. Rồi vì muốn dắt họ đến chỗ hai đứa ở, chị người ta cho xuống ở khách sạn Wiener. Chị cuốc bộ từ đó về tới đây. Nhưng cũng đừng lo - ngoài kia mưa mới có nửa dặm thôi mà.” nàng lau lau tóc bằng ống tay áo. “Bộ có mình chị bị gì, hay là ở đây có mùi như mùi cá vậy hai đứa?”


      “Tụi em có quyển nhật ký,” Amy kể với Nellie đầy hứng khởi. “Chúng ta hãy ngủ nào, và sáng mai chúng ta đọc nó. Ai cũng biết nhà Holt, Irina và Jonah chỉ cách chúng ta có tích tắc mà thôi. Ta phải nhanh nếu vẫn muốn tiếp tục dẫn đầu.”


      ***


      Trong lúc quay về trong men chiến thắng sau buổi tiệc ra mắt DVD, Jonah Wizard và cha nó thấy đội nhân viên bảo trì quét dọn những mảnh kính vỡ sàn đá hoa cương trong căn phòng của họ.


      Hai người chạy thẳng tới ngay bên dưới chiếc đèn chùm nơi cất giấu quyển nhật ký của Nannerl. Hình dáng sẫm màu còn ở đó. Có vài sợi pha lê bị vỡ lòng thòng buông xuống.


      “Vậy mà mấy người dám hứa hẹn bảo đảm an ninh gấp đôi cho Jonah sao!” Ông Wizard trút cơn lôi đình lên quản lý khách sạn, người vừa mới phải trèo ra khỏi giường ngủ chỉ để xin vị khách rất quan trọng này lượng thứ.


      “Chúng tôi tin điều này hoàn toàn là vô hại, mein Herr[2],” Người này mềm mỏng. “ ả si tình. Cậu ấm tài năng của ông có thứ ảnh hưởng này đối với các trẻ có phải ạ?”


      Nhà Wizard mảy may nào tin vào điều đó. Chẳng có phan[3] phiếc nào đột nhập vào căn phòng mà chỉ khoắng quyển nhật ký của Nannerl Mozart sất. Đây chỉ có thể là trò của trong những đấu thủ tranh đua để giành lấy 39 manh mối mà thôi. chuyện nội bộ của nhà Cahill.


      [2] Thưa Ngài, tiếng Đức.


      [3] Nguyên bản: fan


      “Ồ, ông.” Siêu sao truyền hình thẳng với quản lý. “Vậy ông hãy mô tả nương mết tôi đến mức đột nhập vào túp lều của tôi .”


      Người quản lý cầm ra tấm ảnh chân dung lấy từ sở cảnh sát Vienna.


      Khuôn mặt trứ danh bỗng xụ xuống nhăn nhó. Khi mải mê xả láng với những siêu sao Hollywood và đám đông hâm mộ khổng lồ, rất khó nhận ra được khuôn mặt biết là ai dọc đường. Nhưng nàng trong ảnh lại khá quen. Làm sao mà Jonah biết người này chớ?


      Rồi nó chú ý thấy chiếc khuyên mũi. Chính là ả au pair của đám nhóc Cahill - tên là Nancy hay Netta gì đó.


      Ra là Amy và Dan cũng đến được Vienna. Tệ hơn nữa, hóa ra bọn này nước cờ. Jonah Wizard muốn về nhìbất kỳ thứ gì. Dù đó là bảng xếp hạng TV, bảng xếp hạng nhạc pop, và chắc chắn phải là trong cuộc thi này rồi.


      Khi dẫn đầu, mi có tự tin. tự tin giúp mi có thái độ đúng đắn. Và chính thái độ mới là cái khiến mi luôn dẫn đầu.


      cơn âu lo đến nhức nhối rung động tận nơi sâu kín và tăm tối nhất trong đầu nó. Phải thôi, nó là kẻ đứng đầu bảng xếp hạng, thống trị hết tất cả mọi hạng mục của ngành công nghiệp giải trí. Và nó xứng đáng với thành công ấy. Jonah này giành được nó. Mồ hôi và công sức chứ chả chơi. Tài năng. Câu châm ngôn của nhà Wizard là vậy.


      Nhưng mẹ của mi là Cora Wizard nên điều ấy có gì là ngạc nhiên, bởi bà có mối quan hệ rất sâu sắc đến mọi lĩnh vực nghệ thuật kia mà...


      Siêu sao cau mặt lại. Đó là lý do vì sao nó đời nào bất cẩn được! Chỉ có sơ sót bé tí, vậy là nó bắt đầu phải nghi ngờ bản thân.


      Nếu thua - dù chỉ lần - khi đó nó trở thành thói quen. Và trước khi nhận ra mi thằng thất bại.


      thể cho phép lũ oắt Cahill nẫng tay được.


      May mắn thay, nó biết điều về quyển nhật ký mà Amy và Dan vẫn còn phải lần mò mới tìm ra được.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 7


      NHẬT KÝ PHẢI THỨ DAN QUAN TÂM - thậm chí cả khi vit bằng tiếng và viết bởi những người mà nó có quan tâm đến. Nó tránh xa quyển nhật ký, cố gắng dụ con Saladin chén lon cá ngừ, trong lúc Nellie và Amy cặm cụi bên quyển nhật ký bọc bằng da. Nellie dịch những từ ngữ cầu kỳ và cũ kỹ của Maria Anna Mozart.


      “Có gì hay mấy chị?” Nó gọi với về phía hai người.


      tấn bi kịch,” Amy trả lời Dan. “Nannerl là trong số những nhạc công xuất chúng nhất vào thời bấy giờ. Nhưng lại có quá ít người từng nghe bà trình diễn. Bà là thiên tài - tài năng kém cạnh người Mozart là mấy. Nhưng vào thời đó, các trẻ chỉ có việc lấy chồng, rồi nấu nướng và quét dọn, rồi có em bé.”


      Dan trông hờ hững. “Em cũng chưa nghe gì về trai của bà ta mà - cho tới trước khi cuộc thi này bắt đầu. Ý em là, em nghe Baby Mozart[1] - chị biết mà, cái video...”


      [1] Bộ đĩa nhạc Mozart với các giai điệu dành cho trẻ em, được cho là để tăng cường trí thông minh.


      Nellie nhíu mày lại và nhìn về hướng thằng bé. “Em còn nhận ra rất nhiều nhạc của ông. Chúng ta về nhiều trong số những giai điệu nổi tiếng nhất mọi thời đại. Thậm chí là Twinkle, Twinkle, Little Star[2] - phần nhạc cũng do Mozart sáng tác đó.”


      [2] bài đồng dao nổi tiếng của Tây phương có tên Ah Vous dirai-je, Maman mà dựa vào đó Mozart sáng tác bộ 12 biến tấu đàn piano vào khoảng năm 1781-1782, khi ông 25 tuổi.


      “Em có thể đoán được những gì mà Nannerl có thể cống hiến cho xã hội nếu như bà được phép phát triển tài năng của mình,” Amy thêm vào.


      “Em quan tâm nhạc nhách gì hết” Dan phản pháo, “Bà ta có cho thêm manh mối gì nào?”


      Amy lắc đầu. “ có các chú thích ở bìa sách hay cái gì đại loại như vậy cả.”


      “Có lá thư của trai bà dán ở đây,” Nellie cung cấp tiếp thông tin, “Nhưng dường như Mozart về lúc ông ngừng làm việc. Ông chỉ muốn dùng bản hợp đồng của mình làm giấy vệ sinh.”


      vậy sao?” Dan bất chợt quan tâm đến chuyện này. “Mozart thế á? Đưa em xem!”


      “Nó là tiếng Đức, đồ ngốc,” Chị nó bảo. “Họ cũng có từ ‘giấy vệ sinh’ chớ bộ.”


      “Vâng, nhưng em nghĩ nhân vật cừ khôi như Mozart biết từ này.”


      “Khoan !” Giọng Amy cất lên vẻ dè chừng. Nó lật sang trang kế tiếp, giữ gáy sách hết sức cẩn thận. “Ở đây thiếu vài trang này! Ít nhất là hai trang. Hai người nhìn đây!”


      Cả ba quan sát quyển nhật ký cẩn thận. Amy đúng. Tên trộm hơi quá thận trọng khi phi tang chứng cứ của mình - phần bị lấy mất được cắt bằng con dao rất bén. Phần cắt xén gần như thể nhận thấy được.


      “Chị có nghĩ Jonah làm chuyện này ?” Dan hỏi.


      “Chị cũng nghi là vậy,” Amy trả lời nó. “Nhưng vậy cần gì gã ta phải giấu quyển nhật ký cái đèn chùm nếu gã lấy hết những phần quan trọng rồi?”


      “Để đánh lạc hướng chúng ta hay sao?” Dan nêu ý kiến.


      “Có lẽ, nhưng mà hãy nhớ là - quyển sách này ngót nghét cũng hơn hai trăm năm tuổi. Từ lúc đó cho đến nay những trang giấy này hoàn toàn có thể bị lấy bất kỳ lúc nào. Theo những gì chúng ta được biết, chính Nannerl xé ra vì bà làm vấy mực lên đó.”


      phải xấu đâu, hai nhóc.” Nellie chen vào, “nhưng chị ở chung với nhà tụi em đủ lâu để thấy chuyện này đầy ắp những gì của nhà Cahill. Chưa khi nào chị thấy tập hợp đâm sau lưng chiến sĩ nhiều như vậy hết.”


      “Chị đúng,” Dan rầu rĩ thừa nhận. “Cứ hễ lúc nào chúng ta nghĩ mình tiến triển với các đầu mối của cuộc thi hóa ra ai đó nhanh chân hơn.”


      “Bình tĩnh nào,” Amy bảo nó. “Manh mối đâu có nằm trong quyển nhật ký; đó là nhạc. Và chúng ta lại là những kẻ duy nhất có món đó trong tay. Hãy xuống dưới nhà, chỗ sảnh khách sạn. Chị thấy đó có cây piano.”


      ***


      Hai đứa làm thành bức tranh đáng - bé Mỹ bên chiếc dương cầm, còn đứa em trai đứng bên cạnh. Nếu chỉ ra chi tiết tấm nhạc phổ thực chất là mặt sau tờ giấy ăn của đường sắt châu Âu còn Amy chơi đàn cũng ngượng ngập quả là hơi bị khắt khe.


      “Ôi bà trẻ Beatrice đáng của chúng ta,” Amy với Dan. “Chính Beatrice cắt bớt thời gian học piano của chị để lấy thêm ít tiền lẻ đó.”


      Beatrice là em của bà ngoại chúng, và cũng là giám hộ của chúng danh nghĩa. Cũng chính nhờ bà trẻ đáng này mà giờ đây Amy và Dan bị dịch vụ công ích của Khối thịnh vượng chung tiểu bang Massachusetts truy lùng.


      “Hãy chơi bản mới ,” Dan đề nghị. “Cái phần nằm trong bài hát đó. Lỡ đâu cánh cửa bí mật mở ra, hay chúng ta gọi được thần đèn của nhà Cahill đến giúp, hay gì đó đại loại như vậy sao.”


      Amy chơi thử, giai điệu thanh thoát, nhàng, rất khác với phần nhạc cổ điển nặng nề được viết xung quanh nó. Bất thình lình, có phụ nữ đứng cạnh cây dương cầm cất tiếng hát theo bài hát được Amy đánh. Ca từ của nó là tiếng Đức, nhưng ràng giai điệu của nó giống hệt nhau và nó khiến cho người phụ nữ thấy sảng khoái.


      “Bà biết bài hát này sao!” Amy thốt lên ngạc nhiên. “Có phải là của Mozart ạ?”


      “Nein[3] - phải của Mozart. Đó là ca khúc nhạc dân gian Áo có tên là “Der Ort, wo ich geboren war”. Trong tiếng có nghĩa là “Nơi tôi được sinh ra”. Cám ơn hai cháu nhiều. nhiều năm nay bà còn nghe bản nhạc này.”


      [3] phải, tiếng Đức.


      Amy tóm lấy tay Dan và kéo nó đến bên chỗ khu của hốc tường nơi có cái lò sưởi. “Chính nó! Chính là đầu mối đó!”


      “Cái gì chớ? bài hát cũ sao?”


      “Đó là thông điệp giữa Mozart và Ben Franklin!”


      Dan ngạc nhiên quá đỗi đến nỗi mắt nó lồi hẳn ra. “Được được, nhưng đó viết cái gì?”


      “Viết là ‘hãy đến nơi mà ta được sinh ra.’ Mozart sinh ra tại thị trấn Salzburg, ở vùng núi Alps thuộc địa phận nước Áo. Và đó chính là nơi chúng ta phải đến.”


      ***


      Chiếc xe cả bọn thuê là con Fiat cũ rích cứ kẽo cà kẽo kẹt từng khớp thích thú gì việc trèo lên dãy Alps, nhưng lại sẵn sàng lăn khí thế xuống phía dưới. phần cũng hẳn là tại Nellie. Trước đây nàng chưa khi nào chạy xe sang số bằng tay hết.


      là bá cháy hết sức cho chuyến leo núi,” Dan càu nhàu.


      “Nè - có muốn chạy thử , ông tướng?” Nellie bực dọc xỉa lại ngay. Và Dan trả lời là “có”, hăm hở đến độ nàng thấy tiếc vì hỏi nó như vậy.


      Saladin lãnh trọn ba giờ đồng hồ say xe. Nhưng may mắn ở chỗ, con mèo đâu có gì trong bụng, thành thử cũng chẳng oẹ ra cái gì.


      Chuyến có thể tiện nghi và thoải mái hơn nhiều nếu bằng xe lửa. Thế nhưng cuộc đụng độ với nhà Holt từ lần rời khỏi Paris buộc cả bọn phải chọn cách di chuyển khác. chuyến xe lửa công cộng dễ khiến cả đám bị phát . Với đầu mối mới nhất và cũng là duy nhất trong tay, chắc chắn tất cả những đội kia cũng lăm lăm đuổi theo chúng.


      Bất chấp chuyến khá ư là khó chịu, cảnh vật xung quanh hùng vĩ. Xa lộ uốn lượn qua suốt dãy Alps tại Áo như dải ruy băng xoắn xuýt dưới bàn chân của những gã khổng lồ. Chẳng mấy chốc cổ chúng mỏi nhừ vì cứ thò miết ra cửa sổ để chiêm ngưỡng những đỉnh núi tuyết phủ trắng xóa.


      “Giờ giống hơn rồi đây,” Nellie đồng tình. “Chị tham gia vào cuộc hành trình này để được quan sát thế giới, chứ phải chết dí trong cái bót cảnh sát ở Vienna.”


      Chính nhóc Dan cũng rất ấn tượng trước những ngọn núi nhấp nhô hùng vĩ. “Em cá là nếu mình cuộn lại giống như quả bóng tuyết ở đỉnh đến khi lăn xuống tới phía dưới nó cũng đủ hạ nốc ao cả thị trấn chứ chẳng chơi!”


      Vừa quá hai giờ, cả bọn đến Salzburg - thành phố bé của những tòa tháp óng ánh, của kiến trúc baroque, của những khu vườn rực rỡ e ấp giữa những ngọn đồi xanh ngát.


      tuyệt vời!” Nellie thốt lên.


      “Nơi đây rộng lớn hơn em tưởng,” Amy cách thất vọng. “Chúng ta biết mình tìm cái gì, thậm chí cũng biết nên bắt đầu từ đâu nữa.”


      Nellie nhún vai. “Khá ràng mà. Tên bài hát là ‘Nơi tôi được sinh ra.’ Ta tìm quyển sách hướng dẫn rồi tìm ngay căn nhà mà Mozart lớn lên ở đó.”


      Tiếng rên rỉ của Dan thậm chí còn lớn hơn và thảm thiết hơn những tiếng meo meo cau có của con Saladin. “Ôi trời đất ơi, làm ơn đừng vậy nữa chớ. Hai người đừng có dắt em tới căn nhà Mozart nữa . Giờ em còn chưa hết ngán cái căn hồi trước đây!”


      “Đừng nhõng nhẽo,” Amy dứt khoát. “Mình phải khách du lịch. Mình đến nơi có các đầu mối.”


      “Tại sao mấy đầu mối bao giờ ở trong nơi chính xác bản đồ vậy?” Dan lại cằn nhằn. Bỗng dưng nó bật dậy. “Coi chừng!”">

      khách bộ hành hối hả đường ngay trước mũi chiếc Fiat. Nellie dồn hết sức bình sinh để đạp thắng xe. Bánh xe ngừng quay, và chiếc xe phanh kít lại cách vị khách qua đường luống tuổi chỉ vài centimet.


      Nellie xém chút nữa lên cơn lôi đình. “Đồ ngu!” nàng vươn tay tọng mạnh vào còi xe.


      Amy chộp ngay lấy khuỷu tay của Nellie. “Đừng!” Nó rít lên, cố gắng thụt đầu xuống phía dưới. “Hãy nhìn xem đó là ai kia!”






      Chương 8


      BA CẶP MẮT ĐỔ DỒN VỀ NGƯỜI ĐÀN ÔNG châu Á cao dỏng, lưng thẳng đơ hối hả băng qua đường, lọc cọc khua cây gậy bộ đầu nạm kim cương.


      Alistair Oh, họ hàng Hàn Quốc của bọn và cũng là đối thủ khác trong cuộc tranh tài.


      “Quá nhiều khó khăn với chúng ta khi làm đội dẫn đầu.” Dan bình luận.


      “Lão ở đây chắc đâu chỉ để hít thở khí miền núi,” Nellie đồng tình.


      Cả bọn nhìn Alistair băng nhanh qua đường và trèo lên chiếc xe buýt đậu phía bên kia.


      “Bám theo ngay,” Amy chợt có ý kiến. “Hãy xem cha này làm gì.”


      Nellie làm cú rẽ phải trái luật từ làn đường bên trái và lọt thỏm ngay giữa dòng xe ngay phía sau chiếc xe buýt. nàng vẫy tay chào hồn nhiên với những gã tài xế Salzburg chửi um lên và bấm còi inh ỏi.


      “Chị biết đó,” Dan trầm ngâm, “Nếu muốn tìm xem lão này đâu, tại sao chúng ta lại hỏi trực tiếp? Ta vẫn có liên minh với nhau hồi ở Paris kia m


      “Em còn nhớ những gì ông McIntyre ?” Amy phản đối. “Đừng tin ai.”


      “Có lẽ vậy. Nhưng mà chính Alistair cứu chúng ta trong Hầm mộ.”


      Amy vẫn suy chuyển. “Chỉ vì ông ấy phải giúp ta chặn nhà Kabra lại mà thôi. Có điều mà đến giờ chúng ta cần phải hiểu đó là nhà Cahill chiến đấu với nhau hàng nhiều thế kỷ qua. Ông ấy chẳng từ thứ gì nhằm ngăn cho chúng ta đoạt được 39 manh mối đâu.”


      Cả bọn theo chiếc xe buýt khi nó băng qua cầu Staatsbrucke - chiếc cầu nằm ngay trung tâm thị trấn. Có thêm khách lên xe, nhưng chẳng ai bước xuống. Các con đường đầy ắp xe hơi và taxi, lại còn vô số các đám đông khách ngoạn cảnh có mặt ở khắp nơi. nhóm học sinh trung học bước ra ngay trước đầu chiếc Fiat, chiếc xe buýt bo theo khúc quanh và biến khỏi tầm mắt.


      “Đừng để mất dấu họ,” Dan cuống cuồng hối thúc.


      Cuối cùng con đường quang, và chiếc Fiat lắc lư chao đảo, khiến Nellie điều khiển hết sức khó khăn. Ba người xóc nảy lên khi xe vào mấy con phố hẹp và hoàn toàn thấy bóng dáng chiếc xe buýt ở đâu cả.


      Amy chỉ tay. “Ở đằng kia!”


      Chiếc xe buýt thoát ra khỏi mạng lưới chằng chịt các con đường trung tâm và bon bon quanh sườn đồi. Trong tiếng đinh tai của động cơ, cả bọn lại nhanh chóng đuổi theo, Nellie tăng tốc khi chiếc Fiat vừa quành qua khúc cua. Cả bọn quá tập trung vào tốc độ đến nỗi chạy vượt qua luôn chiếc xe buýt trong lúc nó thả hành khách xuống cánh cổng đá cổ xưa.


      Amy quan sát kỹ dãy căn nhà rất cổ phía có những tháp chuông và thánh giá. “ nhà thờ ư?”


      Vẻ khổ sở khuôn mặt Dan. “Bộ giống Mozart chưa đủ chán hay sao.”


      “Nhà thờ gần đây nhất mà ta vào chán em trai à,” Amy nhắc nó nhớ. “Suýt nữa là bị giết thôi.”


      Nellie làm cú quay đầu chữ U và tấp xe vào điểm cách chiếc buýt khoảng an toàn. “Tổng viện Thánh Peter,” dịch lại khi liếc mắt nhìn vào tấm biển bằng sắt uốn.


      Cả bọn có thể thấy dáng người dong dỏng của Alistair ra tại con đường dốc băng xuyên qua cánh cổng.


      Nellie chau mày. “Hai đứa nghĩ đầu mối của tụi em có thể nằm ở đây sao?”


      “Alistair cho là như vậy,” Amy quả quyết. “Tụi em thể bỏ cuộc cho đến khi tìm ra cách nào khác. Sao chị thử tìm khách sạn và cho con Saladin nghỉ ngơi chút sau chuyến ?”


      nàng au pair lưỡng lự. Dan lên tiếng. “Nơi này có đầy khách du lịch. Nguy hiểm chỗ nào chứ?”


      “Được rồi,” Nellie quyết. “ giờ nữa chị quay lại đây. Đừng có để mình bị giết đó.” Rồi lái xe .


      Hai đứa qua cánh cổng, và Amy chọn tài liệu mỏng bằng tiếng trong kệ. “Woaa”, Nó mừng rỡ. “Nơi đây có lịch sử hơn 1.300 năm. Tu viện được thành lập vào năm 686, nhưng họ cho rằng người La Mã thậm chí còn có mặt ở đây trước cả lúc đó.”


      “Người La Mã?” Dan cho thấy nó có chút hứng thú về đề tài. “Những đạo quân La Mã có vài kỹ năng đánh nhau rất bá cháy đó nha.”


      “Đó là lý do vì sao em thấy các món vũ khí La Mã ở khắp châu Âu,” Amy lý giải. “Quân đội của họ mạnh đến nỗi họ chinh phục gần hết thế giới vào thời điểm đó.”


      “Đúng là sao ngăn lại được,” Dan đồng tình. Nó lại nhăn nhó. “Vậy cái nhà thờ này sao đây?”


      “Nó được xây sau chút, vào thế kỷ 12 - rất lâu sau khi người La Mã bỏ . Những ngôi mộ lâu đời nhất trong nghĩa trang có niên đại trong khoảng thời gian này.”


      “Nghĩa trang sao?” Dan rạng rỡ hẳn lên. “Nơi này bắt đầu làm em thích rồi đây!”


      Cả hai khom người xuống thấp cho đến khi nhóm du khách của Alistair tràn vào chánh điện, đoạn lần qua cánh cổng vòm dẫn ra nghĩa trang. Nơi đây giống với bất kỳ nghĩa trang nào mà Dan từng được thấy - các bụi cỏ mọc um tùm, những cột mốc đánh dấu gần như bị che khuất bởi các vòm lá. Thay vì những bia mộ, những nấm đất chôn người chết được thể bởi những biển tên bằng sắt uốn với những dòng chữ kiểu cổ bắt mắt.


      “Chúng làm em nhớ đến bộ sưu tập muỗng của bà Beatrice,” Dan làu bàu với Amy.


      Amy vẫn gí mũi vào cuốn tài liệu. Ngay lập tức, nó chộp lấy cổ tay em mình và ấn mạnh vào xương mác. “Dan ơi - trong đây ghi chỗ này chính là nơi an táng Nannerl Mozart!”


      Cặp mắt Dan mở to kinh ngạc. “Chúng ta đào cái xác lên hay sao? Tiệt zời!”


      “Suỵt! Tất nhiên là rồi!”


      “Nhưng nếu như Mozart đặt đầu mối vào xác bà chị mình sao?”


      Amy lắc đầu. “Mozart qua đời trước Nannerl. Lúc này đây ta tìm ngôi mộ tập thể. Quyển sách này đó là nơi bà được an táng.”


      “Là gì?” Dan hỏi. “Giống như nhà chung cư cho người chết hở?”


      “Hãy tỏ ra tôn trọng chút cưng. trong những người khác nằm trong nghĩa trang này chính là Michael Haydn, cũng là nhà soạn nhạc lừng danh, là trong những người nhiệt tình ủng hộ Mozart nhất.”


      Dan vẫn chưa thể chịu ngừng lại. “Vậy giờ này ông ấy làm gì - tối tác


      [1] Chơi chữ, compose là sáng tác nhưng decompose là phân hủy (của xác chết).


      “Đừng có những điều kinh tởm như vậy chứ. nào.”


      Hai đứa mất vài phút rảo quanh trước khi tìm ra ngôi mộ. So với những ngôi mộ được trang hoàng lộng lẫy và cầu kỳ ở nhà thờ thánh Peter, nó chỉ là kiến trúc bằng đá giản đơn đó khắc tên người chết với vài dòng trích dẫn từ kinh thánh được khắc lên tường. có tí dấu hiệu nào của đầu mối ở đây.


      “Nannerl ạ, ai quên bà đâu,” Amy khẽ , lòng buồn buồn. “Người ta bắt đầu xem bà là thiên tài đích thực rồi.”


      “Điều gì là thu hút ở bà Nannerl Mozart này chứ?” Dan hỏi. “Ừ bà ta cũng giỏi như em mình. Rồi sao nữa?”


      “Bộ em thấy như vậy quá bất công sao?” Amy vặn lại. “Bà ta được người khác biết đến và tôn trọng chỉ vì bà là thiếu nữ.”


      “Em đồng ý,” Dan đáp. “Bà ta rất là bảnh đó chứ. Nhưng giờ bà ấy cũng ở trong nấm mồ này vài trăm năm rồi, tôn trọng gì nữa có làm được gì khác hơn đâu?”


      “Khác với chị,” Amy cãi lại. “Nếu hai đứa mình là con cháu của Mozart sao? Em nghĩ sao nếu mình được xem là thiên tài bẩm sinh còn chị là ai cả trong khi thực tế hai đứa chúng ta tài giỏi ngang nhau?”


      Dan vẫn khăng khăng. “Điều này thể nào xảy ra với chúng ta được. Chúng ta có giỏi ở bất kỳ cái gì giống nhau đâu. Chị Amy, xem cái gì kia?”


      Dan nhìn lom lom lối vào Hầm mộ vẻ tò mò. Tu viện tựa lưng vào bề mặt đá phẳng. Nằm cách mặt đất chừng hai mươi mét, toàn bộ đường nét chính của tu viện như khắc vào trong ngọn núi. “Ai lại đặt tòa nhà giữa lưng chừng vách núi như vậy chớ”


      Khi quan sát kỹ hơn, hai đứa tìm thấy cầu thang thô sơ đẽo thẳng vào đá, dẫn lên cổng vào tựa như lối vào hang động.


      Amy thử dò cuốn tài liệu. “Đây rồi. Đây là lối vào hầm mộ Salzburg.”


      “Hầm mộ á?” Dan nhắc lại vẻ lo lắng. Hai đứa từng suýt chút nữa là lạc vĩnh viễn trong hầm mộ Paris. Nó lấy gì ngạc nhiên nếu màn biểu diễn đó lại được tái ở đây.


      “Ừm, đây phải là kiểu hầm mộ rải đầy xương người đâu,” Amy lý giải. “Nhưng trong đây ghi là có các đường hầm ở trong ngọn đồi. Nếu có đầu mối tại nhà thờ thánh Peter, chị cá là nó nằm đâu đó quanh đây.”


      nhóm khách du lịch xuất trước mắt chúng, tìm đường lên lối vào ở vách núi. Ngay giữa đoàn khách nổi bật lên cái dáng cao kều của Alistair Oh.


      “Và đấu thủ lại vừa vượt lên trước chúng ta,” Dan bổ sung.


      Ngay khi đoàn khách trong đó có Alistair biến mất đằng sau bề mặt đá, hai đứa trẻ nhà Cahill nhanh đến những bậc thang bằng đá gồ ghề lởm chởm. Amy cảm nhận được bất an rình rập mỗi khi nó bước vào bên trong ngọn núi - như thể chúng bị sinh vật nào đó vừa già cỗi như quả đất, lại bất di bất dịch, có kích thước khổng lồ và luôn im lìm nuốt chửng vào trong. Amy và Dan nhìn nhau trong sợ hãi. Hầm mộ Paris vốn chồng chất toàn xương là xương, những hộp sọ ghê rợn túa ra từ mọi hướng. Nơi đây có thể còn thấp hơn trong thang “sợ”. Song cảm giác xa rời những gì thân quen để đối mặt với những thứ rùng rợn và quái gở thậm chí còn lớn hơn khi có mặt ở đây.


      Con đường hầm ẩm ướt cảm giác giống như cái họng hút khí vào bên trong. Đây chắc chắn là nơi tệ hại nhất trái đất này để cho cơn suyễn của Dan bộc phát.


      Bình tĩnh nào, nó tự nhủ với chính mình. Cơn suyễn chỉ xuất khi có bụi bẩn và phấn hoa, phải từ sợ hãi.


      Về phía tay trái của chúng là nhà nguyện rất trong hang đá như trong bộ phim họat hình nhà Flintstone. Đoàn của Alistair có mặt tại đó khi hai đứa trẻ nhà Cahill ngang qua, thế là họ che khuất luôn mặt của cả hai.


      Càng tiến sâu vào bên trong mọi thứ càng tối hơn. Lối chỉ được thắp sáng bằng dãy vài ba bóng điện yếu ớt mắc xa nhau đến nỗi ngay khoảng cách giữa hai bóng, mọi thứ nhanh chóng nhòa vào bóng tối hoàn toàn.


      Tiếp tục tiến lên phía trước, lại có nhóm khách du lịch khác hướng về phía hai đứa trẻ. Những khuôn mặt nhợt nhạt, chỉ sáng được phía bên , biến mất vào bóng tối để rồi thình lình lại xuất cách đó mươi thước. Cảm giác giống như thế giới khác - như thể các quy luật của tự nhiên còn áp dụng được cho cái chốn xa xăm này vậy.


      “Mọi người hãy về phía bên phải,” hướng dẫn viên điều khiển đám đông du khách bước ngang qua hai đứa trẻ nhà Cahill ở gần đó.


      Hai đứa bị thúc vào khuỷu tay và vào vai khi đám đông chen lấn ngang. Có ai đó giẫm vào móng chân của Amy, và nó thở mạnh - hay có thể hơi thở chính là phản ứng của nó trước người nó vừa thấy trong ánh điện lờ mờ.


      Gã này lớn tuổi, có lẽ còn lớn hơn Alistair, có thể gần bảy mươi, với làn da lỗ rỗ đầy dấu vết thời gian. Trang phục của gã hoàn toàn màu đen, nên đầu của gã nom như thể treo lửng lơ .


      Tim của Amy đập thình thịch đến nỗi nó sợ rằng biết đâu quả tim bật thẳng ra khỏi lồng ngực. Con bé nắm chặt tay em mình và bắt đầu dắt nó chạy dọc theo lối .


      “Chậm lại nào!” Dan cằn nhằn.


      Amy vẫn dừng bước cho đến lúc nó cảm thấy tai mình còn nghe được thanh của đám du khách nữa. “Dan này... ng... người đàn...” Thậm chí khi thầm được rồi, nó cũng thể kiểm soát nổi cơn lắp bắp vì sợ hãi.


      “ình tĩnh lại nào,” Dan trấn an.


      “Người đàn ông áo đen có mặt tại đây!”




      Chương 9


      DAN GIẬT MÌNH. “Chị nhìn thấy sao?”


      “Chị chắc nữa, nhưng chúng ta thể liều lĩnh được đâu. Khi nhà của bà Grace bị đốt, chnh cũng có mặt ở đó. Và cả khi quả bom nổ ở Viện Franklin. Chúng ta phải ra khỏi đây ngay!”


      “Chỉ ra khi tìm được thứ ta muốn tìm,” Dan gân cổ cãi. “Ông Alistair và người áo đen á? Đó là bằng chứng gấp đôi cho biết chúng ta đúng đường!”


      Amy hết sức ngạc nhiên: nó ngạc nhiên vì ngưỡng mộ em mình quá đỗi. nghi ngờ gì Dan là thằng ngốc xít thể yên ổn nếu thiếu chị nó quá năm phút. Nhưng cũng có khi - như ngay lúc này đây - chính cu cậu ngốc xít lại tìm thấy can đảm trong khi chị nó chỉ cảm thấy được duy nhất nỗi sợ.


      Amy nghẹn giọng. “Hãy tiếp tục nào.”


      Hai đứa lại dấn sâu hơn nữa vào lòng núi. Đoạn đường hầm cứ ngoắt ngoéo rẽ hết khúc này đến khúc khác, còn chúng thận trọng ghi nhớ từng khúc quanh, ngã rẽ. Hai đứa trẻ thể mường tượng ra được điều gì kinh khủng hơn là bị lạc ngay giữa chốn này, giữa lưng chừng Salzburg và trong lòng đất.


      Hai cặp mắt chẳng mấy chốc mỏi nhừ khi phải căng ra hết sức cốt để tìm xem liệu các bức tường đá kia có các dấu hiệu hay ký hiệu mã hóa - bất cứ thứ gì có thể chỉ ra gian phòng bí mật hay cái hốc giấu điều gì đó bên trong. Chỉ có đá và đá chào đón chúng, và thỉnh thoảng còn có những dòng nước chảy giọt.


      Dan cả bốn chi, kiểm tra “vết khắc” mà hóa ra chỉ là cái rãnh đá, thình lình dây bóng đèn điện nhá lên phát rồi tắt ngóm.


      Tối thui cũng diễn tả hết được tlúc này. Chúng bị quẳng hẳn vào màn đêm ngột ngạt, thiếu vắng hoàn toàn ánh sáng. Như thể bất chợt chúng bị làm cho mù lòa, còn thấy gì được nữa hết.


      Cơn hoảng sợ giống như bất kỳ cơn hoảng sợ nào trước đây của Amy. Hơi thở của nó gấp gáp thành từng cơn, từng cơn , càng lúc càng nhanh hơn, như thể khí nó vừa hít vào bị thốc ra ngoài ngay tức khắc.


      Dan quờ quạng hai tay, tìm cách với đến để trấn an chị nó. Nhưng khi chạm vào tay Amy, chị thét to, vang khắp cả hang động.


      “Bình tĩnh nào, em đây mà!” Nó suỵt, dẫu bình tĩnh này trái ngược hoàn toàn với điều mà nó cảm thấy khi ấy. “Có thể chỉ là tai nạn mất điện thôi!”


      “Và người đàn ông mặc áo đen chỉ tình cờ có mặt ở đây thôi sao?” Amy cáu kỉnh ré lên với thằng em.


      Dan cố gắng suy nghĩ thấu đáo. “Nếu ta thấy được cũng nào có thấy được ta, đúng nào? Ai biết được? Lỡ đâu cũng lạc như chúng ta thôi.”


      “Và có thể trở lại đâu đó rồi, và chờ chúng ta lọt vào tròng.”


      Nó hít vào hơi sâu. “Phải chấp nhận may rủi này thôi. Tất cả những gì ta có thể làm là dò lại các bước chân và hy vọng điều tốt đẹp nhất đến.”


      “Chúng ta có cơ may tìm được lối ra hay sao?” Giọng Amy run bần bật.


      Dan cố sức hình dung những đường hầm qua thành bản đồ trong đầu - những đường thẳng cắt nhau. “Chị dò dọc theo bức vách trong lối này, còn em ở bức vách bên kia. Làm thế ta thể hụt được bất kỳ chỗ quẹo nào.” Nó nuốt nước miếng đánh ực. “Đơn giản thôi.”


      Đơn giản thôi. Ôi, sao Amy lại mong chờ vào khả năng của em mình gói gọn tất cả mọi thứ vào thành công thức cơ chứ - chuỗi các chỉ dẫn cứ thế mà làm theo. Đối với Amy, có công thức nào có thể tách được nó ra khỏi nỗi sợ hãi thường trực đối với bóng tối xung quanh. Nó nhớ lại Hầm mộ Paris, những đống xương sọ chất cao nhe hàm ra trước mặt nó, đáng kinh hãi. Nhưng cũng trong lúc này, con béthấy thể còn tồi tệ hơn nữa, đường hầm hẹp hơn nhiều, các bức tường ép chặt lấy nó, giữ chúng lại ngay giữa lòng ngọn núi.


      “Dan, chị cho là mình làm được đâu,” nó thút thít khóc. “Chị s... sợ quá.”


      “Vẫn là đường hầm lúc nãy thôi mà,” Dan trấn an. “ đến đây được quay lại được.”


      Hai đứa băng trong bóng tối. Amy cảm nhận lối ra dọc theo vách đá bên trái, biết Dan cũng làm tương tự với vách đá bên tay phải. Hai đứa nắm tay nhau chặt để tránh lạc nhau và ngừng chuyện để giữ cho nỗi sợ áp đảo chúng mỗi khi nó ập đến và tìm cách để len vào bên trong hai đứa.


      “Amy này,” Dan bảo. “Lần cuối cùng mình nắm tay như vầy là hồi nào vậy?”


      “Chị cũng chẳng nhớ nữa. Chắc là từ hồi hai đứa mình còn xíu, vẫn còn con nít. Em biết mà - cùng với bố và mẹ đó.”


      “Mà mẹ trông ra làm sao nào?” Nó thừa biết câu trả lời. Nó nghe ít nhất là trăm lần rồi, thế nhưng cuộc đối thọai quen thuộc đó là niềm an ủi.


      “Mẹ dỏng cao,” Amy đáp, “Tóc mẹ màu nâu đỏ...”


      “Giống như tóc chị ư?” Câu hỏi thường xuyên của nó.


      “Tóc mẹ đỏ hơn tí. Em thể nào bỏ qua được mẹ ngay giữa đám khán giả ngồi xem vở kịch tại trường học. Bố đẹp hơn, với...” Nó ngưng lại. “Càng lúc càng khó hình dung ra bố và mẹ nha. Như tấm ảnh chụp mà hình ảnh đó nhòa dần.”


      “Đau ,” Dan làu bàu. “ thể nhớ cha mẹ ruột của mình, ấy vậy mà lại nhớ bà trẻ Beatrice khó ưa - bà ta trông cứ như biển hiệu gắn điện sáng nhấp nháy trong đầu em.”


      “Ta còn bà Grace nữa,” Amy nhàng nhắc nó.


      “Grace.” Cái tên bật ra trong tiếng thở dài. “Em nhớ bà quá, nhưng đôi khi em nghĩ liệu mình có nên như vậy


      “Bà Grace thương chúng ta mà.”


      “Vậy làm sao bà lại chẳng với chúng ta tí nào về tất cả chuyện này chứ?” Nó gắt. “Nhà Cahill! Cuộc thi! tí cảnh báo hẳn giúp ích được gì đó rồi. Như kiểu, ‘Này, hôm nay con là thằng nhóc chơi Super Mario, nhưng chỉ vài tháng nữa con bị lạc trong căn hầm ở châu Âu với gã sát nhân điên khùng...’”


      Đoàng!


      Ánh sáng lóe lên trong bóng tối tựa như ngôi sao cháy sáng. Đôi mắt chúng, căng to trong màn đêm mờ mịt, bỗng chốc bị quá tải hoàn toàn. Dan mơ hồ nhận ra bóng người chạy vụt qua hai đứa ngay trong lối . Nhưng tay của tự động thu lại để che chắn khuôn mặt trước khi nó kịp nhận ra kẻ đó là ai. Và rồi tiếng nổ cũng còn nữa, thay vào đó là thanh ùng ùng báo hiệu trần hang sắp sập.


      Amy nghe thấy tiếng la của em mình khi hòn đá rơi xuống trúng vào vai nó. Tay của cả hai vẫn siết chặt vào nhau, nên nó biết ngay em mình vừa ngã và bị đất đá phủ lên .


      “Dan!” Amy kéo nó ra bằng hết sức bình sinh, thậm chí ngay giữa lúc con bé bị rất nhiều sỏi trút thẳng xuống người. Dồn hết sức vào tay, nó kéo mạnh, và đứa em bò ngồi dậy được bên cạnh nó, nhổ phì phì ra nào là đất là đá và vẫn chưa thể được nên lời.


      “Em có sao ?” Amy hỏi.


      đáp, nó vươn người vào trong bóng tối, ngã phịch xuống bên đống đất đá chất cao. Nó ngáng hoàn toàn lối . Dan cố sức đào xuyên qua, nhưng chỉ gây ra thêm cú sụp lún khác lấp tất tật những nỗ lực của nó, vùi cu cậu dưới đám sỏi cao đến tận khuỷu tay. “Em nghĩ tụi mình thể tự đào được ra khỏi chỗ này đâu!”


      Những cơn ác mộng ùa đến với Amy như những con cá mập săn mồi lởn vởn xung quanh. Có gì tệ hơn lạc trong bóng tối chứ? Mắc kẹt trong bóng tối... chết dần trong đó...


      Bỗng nó nhìn thấy những đường nét lờ mờ khuôn mặt em mình, khuôn mặt ấy cố gắng tập trung nhìn vào đôi mắt màu xanh lục của con bé. Chính lúc đó Amy ngộ ra. “Dan - chị có thể nhìn”


      th... khoan nào! Em cũng thấy chị nữa! Chỉ những viền ngoài thôi. Nhưng...”


      “Phải có ánh sáng phát ra từ đâu đây,” Amy lập luận. “Vậy ở đâu có ánh sáng, ở đó có...”


      “Lối ra!” Dan vui mừng.


      Hầu như thể nhận thấy được nó - thậm chí ánh sáng còn đủ để chiếu sáng các vách đá quanh lối . Nhưng hiển nhiên là có vầng sáng xam xám cam cam mịt mờ.


      Vẫn còn rất tối, chưa thể nhìn thấy gì cả, do đó bước tiến của chúng chậm chạp. Dan trượt vài lần khi nền đá trở nên gồ ghề hơn, còn Amy bước tới vách đá chỗ đường hầm bỗng nhiên gấp khúc cách đột ngột.


      Amy hầu như nhận thấy chỗ giao nhau. Ở góc quanh, ánh sáng lại mạnh hơn. Nó có thể thấy bóng của em mình mà cần phải gắng nheo mắt nhìn.


      “Thành công rồi!” Dan reo lên. màu đen trải rộng của nền đất xuất dải ánh sáng hình chữ nhật hẹp. “ lối bí mật!” Nó cúi thấp người để len vào trong lối chật hẹp. “Em cá trong này cái thang gì đó...”


      Sau tiếng rơi đánh bịch là tiếng rên rỉ cất lên. “Hình như phải đâu,” Dan than thở phía bên dưới. “Chị xuống đây . Em nghĩ em tìm thấy gì đây nè.”


      cách thận trọng, Amy xoay xở để chui tọt vào gian bé tí, cố tìm những chỗ để đặt chân lên vách đá. Chẳng mấy chốc Amy nhận ra thứ mà đứa em mình bỏ qua - đó là loạt những khấc đá tường. Dan đỡ Amy xuống dưới, vào trong cái hốc mở thắp sáng bằng đèn dầu. Sau bóng đêm mịt mùng ở con hầm, ánh đèn màu cam tựa như những ngọn đuốc sáng của sân vận động.


      Amy nhìn ra xung quanh. Chí ít nửa căn phòng chất đầy lên tận trần nhà những thùng lớn cũ sờn theo năm tháng.


      “Liệu có phải là đầu mối hay ?” Dan thắc mắc.


      Amy nhún vai vẻ vô vọng. “Chả ích gì mấy nếu ta vẫn chẳng bên trong có gì.”


      Hai đứa trẻ nhà Cahill đến gần hơn. Những chiếc thùng trông rất xưa. có dấu hiệu gì ghi lớp vỏ ngoài làm bằng gỗ sồi cả.


      “Thử lật ngang chiếc và trút mọi thứ bên trong ra xem.” Dan ấn mạnh vào chiếc thùng và đẩy nó bằng toàn bộ sức của mình. Nó hề nhúc nhích.


      Amy đến phụ tay, và chính lúc đó nó thấy cái mình cần tìm. bàn giấy cũ kỹ nằm cạnh bức tường, nửa bị những thùng gỗ xếp chồng lên nhau che khuất. bề mặt lồi lõm ấy có duy nhất mẩu giấy.


      Bọn trẻ nhà Cahill lao ngay tới đó để xem xét. Trông có vẻ là thứ giấy làm bằng da chứ giống loại giấy người ta dùng ngày nay - ố vàng và giòn rụm. Chữ viết bằng tiếng Đức, theo lối viết cổ xưa. Dường như đây là danh sách gì đó, có cả chữ lẫn số.


      công thức!” Amy thốt lên.


      Dan cau mày. “Công thức cho cái gì chứ?”


      “Đầu mối đầu tiên của ta là nguyên tố - Iron solute[1],” Amy nhắc lại cho Dan nhớ. “Biết đâu đây là toàn bộ công thức sao.”


      [1] Xem quyển 1 Mê Cung Xương.


      Cả hai yên lặng khi thanh của những lời Amy chìm nghỉm. Hành trình này quả cuộc đua đường trường, hoàn toàn phải cuộc chạy nước rút, với các đầu mối được giấu ở khắp các ngõ ngách quả đất. Lẽ nào hai đứa lại vừa phát ra kiểu “bảng tóm tắt” cổ xưa, trong đó có đáp án cho tất cả 39 manh mối nằm vỏn vẹn trang giấy? Chẳng lẽ cuộc tranh tài này được định đoạt rồi sao?


      cách nâng niu, Amy nhón lấy mép mẩu da và cầm nó lên. “Chúng ta phải mang thứ này cho Nellie. Chị ấy cho chúng ta biết trong đó viết gì.”


      Dan reo lên khoái trá. “Em thể chờ được cho tới lúc nhìn thấy khuôn mặt bọn Rắn Hổ mang. Trong khi mình giải ra hết 39 manh mối chúng vẫn còn ì ạch tìm kiếm cái thứ hai! Hay Irina nữa, lần này em cho thuê hẳn gã đai đen thứ thiệt để làm vài thế kung fu với ả. Và cả nhà Holt nữa - chà chà, chắc là thuê cả đạo quân đai đen luôn...”


      “Cần phải ra khỏi đây trước ,” Chị nó nhắc. Nó dò xét hết xung quanh. Những cái thùng to lớn đằng kia phải vào đây qua cánh cửa ở đâu đó...”


      “Hãy lần theo những chiếc đèn dầu,” Dan gợi ý.


      Căn phòng chứa thùng gỗ dẫn sang nhiều đường hầm nữa. Sau nhiều ngã rẽ quanh co, Amy nhận ra rằng cả hai lại bị lạc lần nữa. Nó nhìn xuống những con chữ tiếng Đức hoa hòe ghi mẩu da trong tay mình. bực dọc ngày càng lớn hơn - kiếm ra được phần thưởng cho mình ngay giữa mọi hiểm nguy, nhưng rốt cuộc lại thể mang nó đến tay người đọc được nó.


      Amy xem đồng hồ. “Ta quá giờ hẹn gặp Nellie rồi. Có thể chị ấy tìm khi thấy ta xuất .”


      “Vậy em hy vọng chị ấy có chiếc máy khoan mỏ khổng lồ đằng kia,” Dan đáp trong khi chăm chú quan sát nền đá dốc. Thình lình, nó trỏ lên . “Úi chà chà!”


      Qua vòm đá bên lối tuồng như bất tận này, hai đứa trẻ nhìn thấy cột đá to tướng. Tựa vào nó là ...


      “Cái thang!” Amy reo lên.


      Hai đứa chạy nhanh đến cạnh chiếc thang, ngẩng đầu nhìn xuyên qua lưới sắt dày.


      “Ánh mặt trời!” Amy rú lên. Nó từng nghĩ mình bao giờ còn được trông thấy thứ này nữa.


      Dan trèo lên từng nấc thang bằng gỗ và đẩy tấm kim loại bên sang bên. “Phụ em với, nào?”


      Amy trèo lên thang để giúp Dan. Dần dà, cả hai có thể nâng tấm sắt nặng trịch lên ít. thanh to rền vang. Hai đứa bò lên chỗ thông và lọt vào căn phòng.


      gian rộng lớn được bao quanh bởi những chiếc cũi tinh xảo đặt nằm hẳn sàn đá. Nhưng đây vẫn phải là chi tiết đáng chú ý nhất. Ở dưới chân mỗi chiếc cũi là thầy dòng vận áo chùng đen và đầu bị cạo trọc lóc.


      Bốn mươi cặp mắt ngạc nhiên đổ dồn vào hai đứa trẻ nhà Cahill. Bốn mươi cái miệng há hốc trong kinh ngạc. Các thầy tu dòng Benedict ở tu viện thánh Peter trố mắt ra nhìn bọn trẻ như thể họ tin đời còn có những sinh vật như thế tồn tại.


      thầy tu cao tuổi hơn, đeo tóc giả hoa râm, nhác thấy cuộn giấy da trong tay của Amy.


      Tiếng thét của vị này phát ra chẳng giống như tiếng người bình thường.

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 10


      ĐỒNG LOẠT, các huynh đệ dòng Benedict sấn đến Amy, vung tay chực chộp lấy bản di chỉ quý báu. Amy đứng đờ ra vì sợ hãi, còn Dan sẵn sàng hành động. Nó nhìn thấy cánh cổng duy nhất trong gian phòng này. Dẫu biết nó dẫn đến đâu, nhưng Dan hiểu rằng ra khỏi đây cũng tốt rồi.


      Nó chộp lấy cánh tay của Amy và bắt đầu lôi chị nó luồn lách giữa những chiếc áo chùng màu đen cầu kỳ, thụp người thấp xuống để tránh bằng hết những cánh tay vươn đến. Khi mọi rành rành là hai đứa sắp thoát qua được, lo lắng của những nhà tu hành bắt đầu trỗi dậy. cánh tay tóm được ống tay áo của Amy, và Dan đẩy nó như cầu thủ bóng đá nhà nghề. Amy lách qua nhà tu sắp sửa ngáng chân nó, và bọn trẻ rơi vào cuộc đào tẩu dích dắc để tìm lối thoát ra.


      ***


      Nellie cau có trong chiếc Fiat, sốt ruột đến nỗi cứ ba mươi giây lại xem đồng hồ lần. Bọn nhóc ở đâu rồi? Lẽ ra đừng bao giờ nên để cho bọn nhóc lân la vào nơi có trong những họ hàng Cahill gian xảo của chúng lượn lờ ở đó. Nếu lão Alistair Oh chấy rận kia làm gì tổn hại đến Amy và Dan, hẳn là tặng cho lão cây gậy bộ hành của mình có quấn thêm ít dây kẽm gai


      ngoảnh đầu nhìn lại băng ghế sau, con mèo nằm ườn ra đó, còn cào vào cổ nữa. “Bọn nhóc trễ nửa giờ rồi Saladin à. Chúng nó đâu kia chứ?”


      Và rồi trông thấy cả hai đứa, băng nhanh qua đám đông khách du lịch lúc nhúc chen chúc. Chúng còn chạy nữa kìa. Xem chừng chúng mệt đứ đừ... và sợ hãi. Mắt tập trung nhìn ra phía xa hơn đằng sau lưng hai đứa trẻ, làn sóng màu đen như ập đến. Hàng tá những con người mặc áo chùng - những thầy tu - đuổi theo Amy và Dan suốt dọc tu viện.


      khởi động xe và mở sẵn cửa sau. “Leo lên nào!”


      Những tên trộm miếng giấy da chẳng cần phải nhắc đến tiếng thứ hai. Chúng ùa qua các cánh cổng và đáp vào trong xe, tay chân cứ cuốn lấy nhau.


      “Chở tụi em ra khỏi đây ngay !” Dan vừa vừa thở hổn hển.


      Nellie ấn bàn đạp ga. Chiếc xe rú lên lao về phía trước trong lúc Amy cố đóng cửa xe lại. Dan chằm chằm nhìn vào kính chiếu hậu, quan sát những thầy tu bực tức dần, dần khi chiếc xe tăng tốc.


      nàng au pair mắt tròn mắt dẹt. “Cái gì xảy ra ở đó vậy?”


      phải lỗi của tụi em!” Dan lập bập. “Mấy ông đó khùng hết rồi! Dòm y như mấy con Darth Vader[1] mini mặt nạ vậy á!”


      [1] Nhân vật phản diện trong loạt tác phẩm Star Wars, biểu tượng của cái ác và khôn cưỡng của cám dỗ quyền lực.


      “Họ là những thầy tu dòng Benedict!” Nellie kêu lên. “Họ là những con người ôn hòa đấy chớ! Hầu hết họ đều có lời thề im lặng mà!”


      “Đúng vậy, nhưng giờ như thế nữa rồi,” Dan kủ. “Họ chửi rủa tụi em hơi bị hay đó. Em hiểu họ gì, nhưng có vài thứ ta đâu cần phải dịch ra mới hiểu được.”


      “Tụi em tìm ra đầu mối,” Amy hổn hển giải thích, “và bọn họ muốn tụi em mang nó . Em rất tin là thứ này quan trọng!” Amy dúi miếng da vào cánh tay của Nellie. “Chị dịch cho tụi em nghe đó viết gì với?”


      “Sao chờ chúng ta cách mấy ông thầy tu quãng kha khá chứ,” nàng au pair khuyên, tiếp tục điều khiển chiếc xe qua các phố hẹp của thành phố Salzburg. “Em muốn giải thích ra sao với nhà xe rằng xe của họ bị nhóm thầy tu phát cuồng làm hỏng đây?”


      Dan mất bình tĩnh. “Chúng ta mua đứt nhà xe, mua đứt cả tu viện này luôn! Lần này chúng mình trúng quả đậm rồi!”


      Chọn con đường vòng bao quanh trung tâm, Nellie tránh được hầu hết nút giao thông ở đây và băng qua cây cầu nhanh chóng. Cả ba làm thêm vài cú rẽ ngang dọc nữa, đoạn tấp vào con đường yên tĩnh. “Được rồi, bây giờ hãy cùng nhìn vào cái ‘manh mối’ này xem.” cầm miếng da lên.


      “Tụi em nghĩ đây hẳn là công thức gì đó,” Amy xen vào vẻ hào hứng.


      Nellie nhìn chăm chú vào phần văn tự, mắt mở to đầy kinh ngạc. “Ôi lạy Chúa! thể tin được!”


      Dan cười nhe cả hai hàm răng. “Ngon lành dữ vậy sao?”


      “Nhưng công thức cho cái gì vậy chị?” Amy hối hả gặng hỏi.


      nàng au pair đọc trang giấy hết lần này đến lần khác, như muốn tự thuyết phục mình đây chính là thứ mà biết. “Hai đứa đầu đất! Đây đâu phải là đầu mối gì chứ - đó là công thức làm rượu cho dòng Benedict!”


      “Dòng Benedict á?” Amy lặp lại. “Ý chị là thức uống?”


      Nellie gật đầu khổ sở. “Đây là công thức cổ xưa, trong nhiều thế kỷ qua chỉ cóuynh đệ Benedict mới biết. Đó là lý do vì sao họ dí theo hai đứa dữ thần như vậy!”


      Hai đứa trẻ nhà Cahill sụp đổ.


      “Tụi em suýt chút nữa là bị ngỏm ngay trong đó,” Dan than vãn. “Vậy mà cái này chẳng có giá trị gì hết sao.”


      ngạc nhiên khi mấy vị nhà tu lại tức tối đến thế,” Amy ca cẩm tiếp. “Giống như chúng ta cuỗm thứ quan trọng nhất của họ vậy.”


      “Ừ, có thể đó phải là đầu mối,” Dan cố an ủi mình, “nhưng chí ít mẩu giấy da này dòm vẫn ngon lành cho bộ sưu tập của em.”


      “Dan à!” Amy bùng nổ vì giận dữ. “Chúng ta phải trả lại cho họ!”


      “Chúc chị may mắn.” Dan cay cú. “Nếu chúng ta đặt chân trở lại cái nhà nguyện đó, những con người ôn hòa quý hóa kia chẻ đầu chúng ta ra cho coi.”


      Amy cương quyết. “Chúng ta thể giữ nó lại. Có thể chúng ta chuyển trở lại cho họ bằng thư tín.”


      “Em rất muốn xem địa chỉ đây - hạng thứ ba bên phải, qua năm mươi đường hầm, rẽ trái ở măng đá[2]. Bằng tiếng Đức đấy nhá.” Nó trèo xuống hàng ghế sau bầu bạn với con Saladin. “Em ngồi với ai đó bị điên - gì thế hả Saladin? Mà nè, nó hết cào rồi.”


      [2] Măng đá: đá vôi đọng ở các nền hang đá, có hình giống như búp măng mới nhú


      “Chị định với hai đứa điều đó đây - trước khi chị phải đóng vai tài xế đưa hai đứa chạy trốn khỏi những huynh trưởng Thiên chúa giáo. Trong lúc hai đứa ở trong viện thánh Peter, chị mang Saladin đến phòng khám thú y.”


      “Có phải là do chấy rận






      Nellie lắc đầu. “Bác sĩ tháo vòng cổ của nó và thứ này văng ra.” đút tay vào túi quần và lấy ra thiết bị điện tử tí hon có kích cỡ chỉ bằng đầu ngón tay.


      “Ông ấy thấy các góc của thiết bị bắt đầu ăn sâu vào da con mèo. Đó là lý do tại sao nó cứ cào vào da mình suốt.”


      Amy cau mặt lại. “Nhưng đây là cái gì chứ?”


      Dan giận sôi lên. “Chị chưa bao giờ xem TV sao? Đó là thiết bị định vị. Ta đặt nó vào ai đó khi muốn xem họ ở đâu.”


      Nellie bối rối. “Ai lại dò con mèo chứ?”


      Amy tỉnh ngộ. “ phải con mèo - mà là chúng ta! Bọn kia làm điều này! Đó là lý do vì sao chúng ta thể vượt lên được phía trước. Bất kỳ nơi nào chúng ta , luôn có ai đó biết được.”


      “Chắc chắn đây là trò của lũ Rắn Hổ mang!” Dan gào lên giận dữ. “Hãy quẳng nó lại cho cái đám trẻ nhà giàu sử dụng thiết bị công nghệ cao để ăn gian, chỉ bởi tụi nó quá ngu si để tự tìm các đầu mối về mình.”


      “Hay là Irina,” Amy lập luận. “Có thể đây chỉ là trò mèo của KGB. Cả hai đều khả nghi hết - thậm chí cả ông McIntyre. Nhớ nào - ông ấy giữ con Saladin trong tay hồi chúng ta còn ở Paris.”


      “Vậy chúng ta làm gì với cái thiết bị phát sóng đây?” Nellie hỏi. “Đập nát nó ra hay sao?”


      “Hãy quẳng nó xuống cống.” Dan gợi ý. “Hãy cho bọn gian lận lặn xuống cống mà tìm.”


      Amy trở nên nghiêm trang. “Em biết , đây biết đâu lại là cơ hội bằng vàng để dẹp hết cạnh tranh với chúng ta sao. Chúng ta nên lãng phí n ích.”


      Dan quạu quọ. “Chẳng bao giờ chị cho em vui vẻ hết.”


      “Ôi, cái này rất vui đây,” Chị nó dỗ dành. “Nghe này...”


      ***


      Alistair Oh lê bước mệt mỏi trong các gian phòng khách của Mozart Wohnhaus, dồn nhiều sức lực hơn mọi khi vào đầu chiếc gậy nạm kim cương của mình. Lão biết vị trí của đầu mối quan trọng tiếp theo. Tuy nhiên, trong lúc lão vẫn còn lần chần ở Salzburg, cũng nên đến tham quan nhà Mozart chứ, chỉ để đảm bảo rằng lão bỏ sót thứ gì. Cẩn tắc vô ưu mà.


      Thế nhưng khi lão qua các nhạc cụ lẫn đồ nội thất từ tận thế kỷ mười tám, mệt mỏi ập đến. Alistair còn trẻ trai nữa như cái thời tạo ra cơ đồ ngày nay chỉ bằng việc phát minh ra món burrito[3] nấu bằng lò vi sóng. Những ngày thú vị - chao ôi, tất cả thuộc về quá khứ.


      [3] Món ăn truyền thống của Mexico, tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là “con lừa ”. Tên gọi này bắt nguồn từ hình ảnh phần bánh bột dư ở góc chiếc bánh trông như cái tai lừa và từ việc chiếc xe bán thức ăn ngày đó thường do lừa kéo.


      Lão ngồi xuống chiếc ghế đá để nghỉ ngơi. Tiền gần cạn hết và sức khỏe cũng vậy. Điều cuối cùng lão tha thiết trong đời chính là cuộc marathon vòng quanh quả đất săn lùng hũ vàng của Grace Cahill. cuộc trở về với những ngày tháng burrito huy hoàng của lão và còn hơn thế nữa.


      Đêm qua lão có ngủ tí nào đâu. là, ý thức của lão đau đáu mãi về việc xảy ra trong đường hầm ngày hôm qua. Nào có ai cho lão biết phần chất nổ xíu kia có thể làm sập hang. Kế họach ban đầu chỉ cốt để dọa hai đứa Amy và Dan chỗ khác. Phải, bọn kia là đối thủ của mình và đối thủ phải bị đánh bại. Nhưng lão cũng thể nào tha thứ cho mình nếu có điều gì khủng khiếp xảy đến với hai đứa cháu của Grace.


      Lthức giấc từ hai giờ sáng để xem tin tức. Nếu có tai nạn nào dính đến hai đứa trẻ người Mỹ đó lão hẳn nghe thấy rồi. Grace và cái cuộc thi đáng nguyền rủa của bà khiến họ phải dí dao kề vào cổ nhau...


      Lão thoát ra khỏi dòng suy nghĩ. Chống chọi lại với mệt mỏi, thiếu ngủ, lão nhắm mắt lại - chỉ thoáng - và tựa lưng vào ghế đá, thiếp .


      ***


      “Lại căn nhà Mozart nữa. Ôi vui ghê.”


      phải là chị chọn nha,” Amy với nhóc em giọng gay gắt. “Chính lão Alistair chọn.”


      Nellie gọi đến từng khách sạn, từng nhà nghỉ tại Salzburg để dò xem Alistair ở đâu. Sau hai giờ mỏi nhừ nấp mình đằng sau chiếc thùng rác ở con hẻm bên cạnh khách sạn Amadeus, giờ Amy và Dan theo sát đấu thủ cao tuổi của chúng vào Mozart Wohnhaus.


      Giờ chúng nấp sau cái bóng khổng lồ của cây dương cầm, ghé mắt xuyên qua những cánh cửa cổ kính kiểu Pháp dõi theo dáng người cao nghệu ngồi chiếc ghế đá.


      “Nào, đây rồi,” Dan với giọng chua chát. “ ông cụ triệu năm tuổi mà hẳn hồi trẻ chẳng say mê gì tiệc tùng chè chén. Mà nè, sao ông ta động đậy gì hết vậy?”


      Amy quan sát thấy đầu của Alistair thụt hẳn vào giữa hai vai, quai hàm trễ xuống, miệng trề ra. “Chị nghĩ ông ta chết rồi.”


      Dan trợn tròn mắt. “ vậy sao?”


      “Tất nhiên là phải rồi, ngốc! Ông ta thiếp . Nào, chúng ta có thể thả thiết bị phát tín hiệu vào túi của ông ta mà làm cho ông ta thức giấc.”


      “Và nếu ông ta thức sao?” Dan nghi ngờ.


      Amy nhón cái thiết bị định vị điện tử nhắn ra khỏi túi quần jeans của mình. “Chúng ta phải liều thôi. Chờ chị ở đây.”


      cách cẩn trọng, Amy bước qua các cánh cửa. Khi đó vẫn còn sớm, viện bảo tàng chưa đông khách lắm. Chỉ có cặp đôi trẻ tuổi mang cờ Na Uy ba lô của họ.


      Amy chờ cho hai người Na Uy bước tiếp. Chân gần như chạm sàn, nó rón rén đến gần Alistair lim dim ngủ. Chầm chậm, nó vươn tay ra với thiết bị phát tín hiệu trong tay. Cánh tay của lão khoanh trước ngực, đè lên chiếc áo cộc tay mặc. thể có xíu sai sót nào ở đây được...


      thanh nửa giống tiếng ngáy nửa giống tiếng nấc bật ra khỏi cổ họng Alistair. Amy co rúm lại khi lão xoay người, duỗi lại chân tay và tiếp tục giấc ngủ.


      Cách này được đâu. Chỉ va chạm nhất cũng khiến ông ta tỉnh giấc...


      Đôi mắt nó nhìn xuống cây gậy bộ tựa vào thành ghế cạnh khuỷu tay của Alistair. Nó dò xét cây gậy, thử tìm xem có cái mấu hay rãnh nứt nào đó để có thể tra con chip vào.


      Dan vẫn ở ô cửa, làm điệu bộ loằng ngoằng bằng cả hai tay. Amy nhìn nó, mất kiên nhẫn. Cậu ngố muốn cái gì đây?


      Cuối cùng nó hiểu ra chuyển động vặn vẹo nắm tay của thằng em. Amy nắm vào đầu cây gậy và xoay cái. tuyệt, đỉnh của cây gậy bắt đầu bật ra.


      Hoàn hảo làm sao - chỗ đỉnh này có khoảng trống nơi mẩu kim cương được đặt vào. Nơi này cũng vừa vặn cho Amy tra vào đó thiết bị phát sóng.


      Khi vừa định thực việc đó Amy lại thấy bên trong cây gậy rỗng ruột. Tại sao đây phải là gỗ đặc chứ? Trừ phi...


      Amy nhấc phần đế cây gậy lên và nhòm vào bên trong. Có gì đó ở trong này! mẩu giấy, cuộn lại vừa khít bên trong ống gậy.


      Đây chính là chỗ cất giấu bí mật của


      Amy khều góc mẩu giấy và kéo nó ra. Đó là mẫu văn tự giòn và cũng ngả sang màu nâu theo thời gian - dẫu xưa như tờ công thức hai đứa vừa lấy được ở chỗ những thầy tu Benedict. Hai tay run rẩy, Amy mở mẩu giấy ra. Chữ viết đó phải bằng tiếng . Nhưng cái tên lại bật ra trước mắt, lẫn vào đâu được.


      Đó là tất cả những gì nó đọc được, nhưng ngay tức khắc Amy biết đó chính là món đồ hai đứa vẫn luôn ra sức tìm kiếm khắp các đường hầm bên trong tu viện thánh Peter.






      Vậy ông thắng tụi này ở đây sao, Amy tự nhủ, mắt hướng về cái dáng người say ngủ ghế đá. Có thể tụi này đánh giá ông hơi thấp rồi.


      Có tiếng ùng ục phát ra từ Alistair, mí mắt lão động đậy.


      Thao tác nhanh, Amy xoay đầu cây gậy về chỗ cũ và để nó yên vị tựa vào chiếc ghế.


      Alistair vẫn ngủ tiếp, hoàn toàn biết vị trí dẫn đầu của lão vừa bị cuỗm khỏi cây gậy chống.






      Chương 11


      LẠI THÊM VĂN BẢN CÓ TÍNH CHẤT SỐNG CÒN; viết bằng tiếng nước ngoài.


      “Đây phải là tiếng Đức,” Nellie thông báo.


      phải hả?” Amy bối rối. “Em chỉ giả định thế thôi, vì chúng ta ở Áo mà - vậy đó là tiếng gì?”


      Căn phòng khách sạn của họ ở Salzburg vừa , lại tiện nghi lắm. Dan hoàn toàn bị thuyết phục trước ý nghĩ ông chủ quản lý ở đây sử dụng các bóng đèn điện công suất thấp để khách khứa trọ lại để ý được họ ở trong cái đống bầy hầy đến nhường nào.


      nàng au pair liếc nhìn vào mẩu giấy. “Chị nghĩ đây là tiếng Ý. phải ngôn ngữ chị biết.”


      Bọn trẻ Cahill trố mắt nhìn Nellie. Đây là lần đầu tiên Nellie thể đóng vai phiên dịch cho cả hai.


      “Làm sao chị biết đây là tiếng Ý chứ?” Dan hỏi.


      “Tiếng Ý và Tây Ban Nha khác nhau nhiều lắm. Và từ này nữa - Venezia. Chị khá chắc đó chính là Venice, nằm ở Ý.”


      Amy trỏ vào dòng ngày tháng ghi đó - 1770. “Mozart khi đó chỉ vừa mười bốn tuổi. Em nhớ những vật trưng bày tại bảo tàng sao? Ông trình diễn khắp nước Ý vào khoảng thời gian này. Cha ông đưa ông trình diễn khắp nơi.”


      “Vậy ,” Dan cau có, “đây là poster trình diễn nhạc từ thế kỷ mười tám, với góp mặt của ngôi sao trẻ Mozart phải ?”


      “Ở Venice,” Amy bổ sung. “Đó hẳn là nơi đầu mối kế tiếp của chúng ta được cất giấu.”


      Nellie cười tươi rói. “Lúc nào chị cũng muốn đến Venice. Người ta cho rằng đó chính là kinh đô lãng mạn của thế giới.”


      “Tuyệt,” Dan xen vào. “Tiếc thay người của chị lại là con mèo Mau giống Ai Cập tuyệt thực.”


      nàng au pair thở dài. “Thà vậy còn hơn là thằng nhóc mười tuổi lắm mồm.”


      ***


      Chuyến xe Venice kéo dài hơn năm giờ đồng hồ. Ngồi phía sau cùng với Saladin, Dan gần như phát điên. Trước hết nó phải là tín đồ của các chuyến xe dài dằng dặc. Và bực dọc khi cứ phải năn nỉ con mèo ăn chút gì đó quả vừa khó chịu vừa đáng chán vô cùng. Cả bọn chỉ còn chút ít những gì của Grace để lại. Chúng chịu ơn bà nên phải trông nom con thú cưng của bà cẩn thận.


      Thêm vào bức bối của cu cậu, đó là bài giảng dài thườn thượt, nghiêm trọng thái quá từ chị: Nhắc nhở nó về tầm quan trọng lớn lao của sứ mệnh mà hai đứa phải thực nay tình hình nguy hiểm ra sao. “Những câu lém lỉnh giúp ích gì hết, Dan à! Em phải trưởng thành và cân nhắc chuyện này nghiêm túc cho chị!”


      “Nghiêm túc sao?” Nó lặp lại. “Chúng ta phát điên lên với cái nghiêm túc này rồi! Cái chúng ta cần đó là hãy thư giãn tẹo nào! Đầu mối kế tiếp có thể nằm chình ình ngay trước mũi chị, nhưng chị thể thấy được nó chỉ bởi chị bận nghiêm túc đó!”


      “Đủ rồi!” Nellie thét lên. “Hai đứa sắp sửa quẳng tất cả chúng ta xuống cống rồi! Người ta lái xe với tốc độ ánh sáng các con lộ kia kìa!”


      “Chị lái với tốc độ ánh sáng để bay khỏi đường cao tốc có,” Dan cự lại.


      “Chị giỡn đâu! Chừng nào chị còn coi sóc hai...” Nellie lườm Dan, “Au pair... hai đứa hai đứa phải hòa thuận với nhau. Chị có thể lo liệu tất cả những thứ khùng điên; chị có thể giải quyết được những tay họ hàng ba trợn của hai đứa; chị thậm chí còn có thể chịu được chuyện hai đứa mất biệt nhiều giờ liền. Nhưng chịu được chuyện hai đứa gấu ó với nhau đâu. Hiểu chứ? Chúng ta cùng đội. Hãy làm đúng như vậy .”


      im lặng bao trùm, và cuộc cãi vã cũng kết thúc chóng vánh như lúc nó thình lình xuất . Cùng với hòa bình là giải tỏa toàn bộ những căng thẳng kể từ chuyến mạo hiểm ở Salzburg của hai đứa nhóc. Nellie gần như cảm nhận thấy hai đứa khởi động lại và tôi luyên bản thân thêm cứng cáp trước các hiểm nguy có thể xảy đến. Chúng là những đứa trẻ nhà Cahill, phải rồi. Có thể cũng là hai con người tử tế duy nhất còn sót lại của cả cái dòng họ này cũng nên.


      Rốt cuộc họ cũng đến được Venice và khu ven biển. Nhưng trước khi họ kịp đến vùng ven thành phố giao thông đường cao tốc lại trở nên lề mề hết sức.


      “Ôi!” Từ băng ghế sau, Dan chăm chú nhìn qua gáy chị nó. Amy hầu như mảy may để ý chậm chạp này. Nó nghiên cứu mẩu thông báo trình diễn của Mozart và nó làm như vậy suốt từ lúc ở Áo đến giờ. “Chị làm gì đó? Học tiếng Ý bằng cách ngấm từ từ chắc?”


      Amy phớt lờ lời trêu chọc đó. “Có cái tên trong đây mà thể nhận ra. Fidelio Racco là ai vậy?”


      nhạc công khác chăng?” Nellie gợi ý.


      Amy lắc đầu. “Mozart và chị là đủ cặp. Em chưa từng đọc ở đâu viết là sân khấu lưu diễn của họ còn có thêm nhạc công nào khác.”


      “Chà, nếu quả đây là poster hòa nhạc,” Dan đăm chiêu, “Có lẽ gã Racco này chính là ông bầu sao.”


      Chị nó đắn đo hồi. “Có lý. phải kiểu ông bầu ngày nay. Nhưng từ thời đó, các nhạc công lưu diễn thường thực các buổi hòa nhạc tư tại dinh thự của những người giàu có và quyền quý. Có thể Fidelio Racco mời Mozart và Nannerl trình diễn. biết chúng ta có tìm ra được nơi ông này sống hay ?”


      thành vấn đề,” Dan giọng mỉa mai. “Chỉ cần tra tên của gã trong quyển danh bạ điện thọai năm 1770 ra. Dễ như chén bánh.”


      “Đây là nước Ý,” Nellie nhắc Dan. “Ở đây phải ‘dễ như chén miếng tiramisu[1]’. Chẹp chẹp, phải thử món đó xem sao. Thoát rồi,” thêm, trong lúc phóng khỏi xa lộ, vượt qua tấm biển ghi chữ VENEZIA, và vào đại lộ rộng thênh thang. Cả bọn đậu lại sau chiếc xe của đài truyền hình với các dấu hiệu quá đỗi quen thuộc.


      [1] Tiramisu là loại bánh ngọt tráng miệng rất nổi tiếng của nước Ý. Cái tên “Tiramisu” được hiểu theo nghĩa là “Món ăn của thần thánh”. Bánh là kết hợp hòa quyện giữa hương thơm của cà phê, rượu và vị béo của trứng cùng kem phô mai.


      Dan chỉ. “Xem kìa - Eurotainment TV. Chính là những gã tung hô nỡm Jonah Wizard ở Vienna đây mà.”


      Bất thình lình, chiếc xe tải Eurotainment rít lên rẽ sang phía bên tay trái qua hai làn đường đông đúc, và sau đó lượn vòng gọn, dí theo sát chiếc limo dài màu bạc.


      Nellie nhấn còi và hét toáng lên, “Đồ điên!”


      “Hãy đuổi theo nó!” Amy khẩn khoản


      “Vì sao?”


      “Chị cứ làm ” Amy giục.


      Vô lăng giờ chỉ còn là mớ lờ nhờ trong tay của Nellie, khi tài tình xoay trở giữa dòng xe cộ và vẫn theo đuôi chiếc xe truyền hình.


      “Tiến lên!” Dan hò reo. “Cuộc rượt đuổi của cánh paparazzi đây mà!”


      đúng. Chiếc limo cố thoát khỏi chiếc xe của hãng Eurotainment TV. Thế nhưng gã tài xế xe tải nào muốn đầu hàng. Đằng sau cuộc rượt đuổi mèo chuột tốc độ cao này lại là chiếc Fiat, vượt qua nào là xe, nào là đèn, lạng lách giữa những vị khách bộ hành kém may mắn.


      “Khi chị đến tham quan Venice trong đầu chị đâu có cái cảnh tượng này!” Nellie than phiền với hai đứa trong lúc khom mình bên bảng đồng hồ đo vận tốc. “Chị tự hỏi biết ai ở trong chiếc xe kia - Brad và Angelina[2] chăng? Hay Thái tử William?”


      [2] Chỉ vợ chồng minh tinh màn bạc Brad Pitt và Angelina Jolie.


      “Cứ tiếp tục chị!” Amy thúc giục. “Em có cảm giác mơ hồ mình biết đích xác ai ở trong đó.”


      việc xảy ra chỉ trong nháy mắt. Chiếc limo tăng tốc băng qua cây cầu, còn chiếc xe tải truyền hình té khói đuổi theo. Chiếc xe cua gắt, nhấc bổng khỏi mặt đường dốc và tăng tốc đổ dốc xuống con phố. Tài xế chiếc xe tải gắng đuổi theo, nhưng bị giao thông chặn lại. Eurotainment TV biến mất ngay cầu.


      “Chúng ta theo ai?” Nellie gặng hỏi.


      “Chiếc limo!” Amy và Dan đồng thanh đáp.


      Chiếc Fiat đổi hướng sau khi băng qua cây cầu và rẽ vào góc đường. Quãng đường lại trở về tốc độ thông thường. Hành khách chuyến xe tin rằng cuộc đuổi bắt kết thúc. Nellie giảm tốc độ lại.


      Cả bọn vẫn tiếp tục bám theo chiếc limo như hình với bóng, cho đến lúc nó rẽ sang con dốc khác, trèo lên đoạn đường đê dài dẫn qua eo biển chan hòa ánh nắng mặt trời.


      “Giờ sao đây?” Nellie hỏi tiếp.


      “Đừng để mất dấu chiếc xe!” Amy ra lệnh.


      “Chờ nào,” Dan . “Em nghĩ bọn mình đến Venice. Biển báo ghi là” - Nó nheo mắt nhìn - “Tronchetto[3]. hay lắm đó Amy. Giờ chúng ta vào lộn thành phố rồi.”


      [3] Hòn đảo nhân tạo được xây từ những năm 60 làm bãi đậu xe cho các phương tiện vào Venice, nằm vịnh Venice.


      “Chị nghĩ vậy,” Nellie cắt ngang. “Nhìn kìa!”


      Trước mắt chúng là cảnh tượng lộng lẫy trải dài. đường chân trời đầy ắp các mái vòm và tháp sáng óng ánh nổi bật lên khỏi mặt nước lung linh.


      “Venice đây rồi,” Amy thốt lên. “Đẹp như trong các bức tranh vậy.”


      Chính Dan cũng thấy quá ấn tượng. “Chỗ này đẹp á,” Nó thừa nhận. “Tệ ở chỗ đây phải là nơi chúng ta cần đến.”


      Nellie lái xe băng qua cây cầu dài, duy trì khoảng cách với chiếc limo chừng hai chiếc xe. Rốt cuộc cả bọn thả dốc về hướng Tronchetto. Nhưng thay vì thị trấn, họ về hòn đảo nhô lên khỏi mặt nước, hầu như được vây quanh bởi hàng ngàn hàng ngàn phương tiện giao thông.


      Dan phát hoảng. “ bãi đậu xe đây sao?”


      “Giống bãi đậu xe hàng cố cụ kị hơn chớ,” Nellie chỉnh lại.


      “Nhưng mà ai lại đậu chiếc limo vào bãi?”


      tấm bảng hiệu lớn lờ mờ ra phía bên phải họ. Amy nhìn lướt qua nhiều ngôn ngữ khác nhau, rốt cuộc nó cũng tìm thấy chỗ viết bằng tiếng . “Em hiểu rồi - ở Venice này cho phép xe! Chúng ta phải đậu xe lại ở đây rồi đón tàu vào thành phố.”


      Dan lại nhăn nhó. “Vậy làm cách nào họ giao du với nhau chứ?”


      “Bằng tàu,” Nellie bổ sung cho nó. “Venice đan cắt bởi hàng chục con kênh đào.”


      Liền ngay phía trước chỗ đậu xe, chiếc limo dừng lại. tài xế mặc đồng phục chỉnh tề bước ra và mở cửa sau xe. Hai bóng người bước ra ngoài, thanh mảnh, cao hơn và đậm người hơn. Cả hai đều mang mũ lưỡi trai bóng chày, đội sụp xuống tận cặp kính râm sẫm màu. Nhưng có cách nào giấu được thái độ kênh kiệu hip hop của cậu thiếu niên.


      Jonah Wizard - và cha nó, lúc nào cũng như vậy.


      “Cái thằng đầu đất đó sao?” Nellie bực dọc lên tiếng.


      Dan cũng bối rối kém. “Nếu chúng ta có mẩu giấy viết phải sang Venice, làm cách nào mà thằng cha Jonah biết đường đến đây?”


      Amy chỉ còn biết lắc đầu.


      Cả ba quan sát hai người nhà Wizard bước ra và hòa vào đám đông chờ phà chở vào thành phố. Người tài xế quay trở lại chiếc limo và lái xe .


      Trán Nellie nhăn lại. “Quý Hãn Hip Hop đứng đồng hàng với mớ thị dân tầm thường sao? Hai đứa hình dung ra cảnh này vậy?”


      Dan cười nhăn nhở. “Em bắt đầu thích cái màn ‘ xe’ này rồi. Đó là cách quân bình tuyệt cú mèo.”


      Amy bị thuyết phục. “Jonah thừa sức mua chiếc phà và hất cẳng tất cả mọi người xuống. Nếu chọn tàu công cộng, chỉ vì muốn có mặt ngay giữa thành phố như người bình thường bi ai để ý. Mau lên, đậu xe chị. Để xem đâu nào.”


      Quần thể Tronchetto có kích thước khổng lồ, do đó để đến chỗ đậu xe còn trống họ phải thêm những nửa dặm. Nhưng đến lúc đó, chiếc phà trờ vào bến đỗ, và hành khách bắt đầu lên phà.


      “Mau lên nào!” Dan quặp con Saladin lên cánh tay và bắt đầu chạy về phía bến phà. “Nếu đón chuyến kế tiếp, chúng ta lạc Jonah luôn cho coi!”


      “Meo meo!” Con mèo Mau lại càm ràm, nó ưng với chuyến xe gian khổ vừa rồi.


      tiếng trầm đục của còi tàu rít lên khắp Tronchetto, phát ra tín hiệu khởi hành. Chuyến phà bắt đầu rời bến.


      Bộ ba chạy nhanh qua bãi đỗ xe, những chiếc ba lô hối hả lắc lư sau lưng chúng. May thay, hàng hành khách vẫn còn dài, phà vẫn chưa rời bến được. Dan kịp nhét con Saladin vào lối vừa lúc thủy thủ mặc đồng phục đến tháo xích cho phà phía sau vị hành khách cuối cùng. Con mèo chộn rộn boong, gã nhân viên cáu tiết chẳng còn lựa chọn nào khác ngoài việc cho lũ trẻ nhà Cahill và nàng au pair lên phà cùng với con vật nuôi của chúng.


      Chuyến vào Venice tốn chừng mươi phút. Amy, Dan và Nellie tránh xa nhà Wizard, thu mình đằng sau vách ngăn. Cả bọn cần lo lắng nhiều. Jonah và ông bố dường như cũng chẳng muốn mọi người chú ý. Họ quãng ngắn đến bên thành chiếc phà, cúi xuống nhìn mặt nước. Và khi phà vừa đỗ lại Venice, họ lại là những hành khách đầu tiên bước xuống, sau đó nhanh và dứt khoát qua những con phố nhộn nhịp được lát bằng đá cuội.


      Bọn trẻ nhà Cahill và Nellie sau đó đoạn.


      “Dùng phương tiện công cộng rồi bộ - trong cùng ngày luôn,” Dan ngạc nhiên quá đỗi. “Nếu Jonah giống người hơn chút nữa, bọn làm kẹo bạc hà sắp dẹp bán món đó theo đơn đặt hàng của nó luôn rồi.”


      Rất dễ tránh chú ý của nhà Wizard những con đường chính rộn rã. Nhưng chỉ sau vài lối rẽ quanh co, Jonah và cha nó bắt đầu xuống con hẻm vắng tanh, chỉ lác đác vài cửa hiệu xíu. Amy kéo Dan và Nellie tới chỗ nấp sau hốc cửa.


      Đến giữa dãy phố, nhà Wizard bước vào cửa


      Bọn trẻ nhà Cahill và Nellie chờ họ. Mười phút. Rồi hai mươi phút.


      “Họ làm cái gì trong đó nhỉ?” Amy thắc mắc.


      Dan nhún vai đáp. “Có thể khi ta giàu có, việc mua sắm cũng tốn nhiều thời gian hơn, vì ta mua nhiều thứ hơn.”


      “Hãy đến gần quan sát xem sao,” Amy quyết định.


      Dan trao Saladin cho Nellie, và hai chị em thận trọng lại gần cửa hàng kia.


      Dòng chữ DISCO VOLANTE nhấp nháy biển hiệu đèn nê-ông có hình chiếc CD biến thành đĩa bay.


      Dan khó chịu ra mặt. “ cửa hàng băng đĩa sao? Jonah là quý ông họ Tuyệt tên Vời trong ngành công nghiệp thâu . Cái gì thằng đó muốn nghe mà lại phát thẳng vào hệ thống home theater trong biệt thự của nó chứ. Tại sao nó phải mất công mua đĩa nhỉ?”


      Amy len lén phía trước tấm kính và nhìn vào trong Disco Volante. Trông y như bất kỳ cửa hiệu bán đĩa nào ở Mỹ - những kệ đựng CD và các đĩa nhựa xưa cũ, các tấm poster nghệ sĩ, bìa album, chàng thu ngân trẻ tuổi, trông hơi nhếch nhác đứng đằng sau quầy thanh toán. Và...


      Nó chớp chớp mắt. Đúng là thế mà. chàng thu ngân chỉ có mình. Amy kiểm tra lại lần nữa, đánh bạo xa hơn đến trước cửa sổ, tới khi nó hoàn toàn ở chính giữa. Nó nhìn khắp các lối , cả trong buồng thử nhạc cách kín mít ở đằng sau. có ai cả.


      Dan thấy mặt Amy nghệt ra. “Cái gì chứ? Chị thấy Jonah và cha nó sao?”


      “Họ có trong đó.”


      Nó đến bên cửa sổ quan sát luôn với chị. “Chúng ta vừa thấy họ bước vào đây mà!Amy nhún vai. “Chị cũng giải thích được việc này.”


      Quay trở lại ô cửa, cả hai mang cho Nellie những kết quả tìm kiếm mới-nhất.


      nàng au pair tỏ ra thực tế. “Tên của thằng đó có thể là Wizard[4] nhưng nó phải như thế. Nó đâu thể tự dịch chuyển tức thời ra khỏi cửa hiệu bán đĩa được.”


      [4] Nhà pháp thuật, ảo thuật gia.


      “Chính xác,” Amy đồng ý. “Cả Jonah và cha nó vẫn ở trong đó thôi, hoặc họ qua cánh cửa bí mật. Chúng ta phải kiểm tra cửa hiệu đó.”


      “Đúng rồi,” Dan chêm vào. “Nhưng chúng ta làm thế nào với gã ở quầy tính tiền đây?”


      Amy quay sang Nellie. “Chị thử tạo ra cách nào đó dụ cho tay này ra ngoài được ?”


      nàng au pair giọng cảnh giác. “Cách nào?”


      “Chị giả vờ bị lạc,” Dan đề xuất. “Gã đó bước ra ngoài cửa hàng để chỉ đường cho chị, lúc đó tụi em lẻn vào trong.”


      “Ý tưởng mang tính phân biệt nam nữ nhất mà chị từng nghe,” Nellie phản kháng gay gắt. “Chị là con , vậy là chị phải mù hướng. Gã là con trai, vậy nên gã biết rành rẽ đường xá chắc.”


      “Thử xem chị phải là người ở đây coi sao,” Dan gợi ý. “Khoan ... chị phải người ở đây mà.”


      Nellie giấu túi xách của cả bọn xuống dưới gầm chiếc ghế đá và cẩn thận đặt con Saladin lên ghế, “Mày là con mèo canh gác. Hễ có ai động vào mấy chiếc túi này, hãy cho chúng thấy con cọp bên trong mày, nghe chưa.”


      Con mèo Mau Ai Cập ngập ngừng dò xét con đường. “Meo.”


      Nellie thở dài. “May cho chúng ta là quanh đây chẳng có ai. Được rồi, chị vào đó. Sẵn sàng .”


      Gã thu ngân gì đó với Nellie - có thể là Tôi giúp gì được cho ? nàng cười lại vẻ tiếc nuối. “Tôi được tiếng Ý.”


      “À - vậy là người Mỹ.” Giọng của vẫn còn nặng, nhưng ra vẻ hồ hởi. “Tôi giúp .” Gã trông thấy móng tay sơn đen và khuyên mũi của . “Có lẽ thích nghe Punk?”


      “Kiểu punk/reggae kết hợp,” Nellie đáp lại đầy chủ ý. “Có thêm tí mùi country. Và cả chất giọng opera nữa.”


      Gã thu ngân đực mặt ra chẳng biết phải gì.


      Nellie bắt đầu rảo quanh các lối , lấy đĩa từ hai bên giá ra ngắm nghía. “À, Arctic Monkeys - mình về cái này đây. Và Bad Brains nữa - từ thập niên 80. Foo Fighters - mình mua vài cái của mấy chàng này. Và cũng chớ quên Linkin Park nữa....”[5]


      Gã quan sát vẻ kính sợ khi nàng chất lên mớ nhạc khổng lồ. “Kia rồi,” hoàn tất, đập đánh chát album Frank Zappa’s Greatest Hits[6] lên chồng đĩa. “Nên bắt đầu như vầy cái .”


      [5] Tên những nhóm nhạc , Mỹ chơi các thể loại khác nhau nổi tiếng thế giới.


      [6] Frank Zappa: Nghệ sĩ nhạc tiền phong của Mỹ với các sáng tác quái gở, giống ai.


      em quả là người nhạc,” Gã thu ngân tròn mắt thán phục.


      đâu, tôi là kẻ ăn cắp vặt đúng hơn.” Và nàng băng thẳng ra cửa.


      chàng hoàn toàn bị sốc, đến nỗi lúc sau mới bắt đầu đuổi theo .


      Với cái gật đầu ý về hướng hai đứa trẻ nhà Cahill sững sờ, nàng cầm cả chồng đĩa lặn xuống con đường trải sỏi.


      “Fermati[7]!” Gã la lên inh ỏi, cuống cuồng dồn hết sức lực chạy theo.


      [7] Đứng lại!, tiếng Ý.


      Nellie đánh rơi vài chiếc CD và quan sát cách thích thú cảnh gã thu ngân dừng lại nhặt chúng lên. Mánh này cốt kéo dài cuộc truy đuổi ra thêm chút nữa để Amy và Dan có thời gian tìm kiếm bên trong Disco Volante.


      Chao ôi, bỗng nhận ra, mình bắt đầu suy nghĩ giống như người nhà Cahill mất rồi....


      Nếu ngốc đến độ cứ quanh quẩn quanh gia đình này, mọi thứ chỉ có nước tệ hơn mà thôi.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :